


















Preview text:
Những nhận định hay về Nguyễn Khoa Điềm
1.Thơ NKĐ chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hóa dân gian.Câu thơ dù ở thể thơ
truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất
hiền minh của trí ruệ dân gian thấm đẫm trong từng từ ( Nguyễn Quang Thiều)
2. . Nguyễn Khoa Điềm là người lao động nghệ thuật nghiêm túc, anh khắt khe với chính mình,
có lẽ vì thế mà thơ anh chính là “Cái kết tinh của vần thơ là muối biển/ muối lắng ở ô nề và thơ
đọng ở bề sâu” (Chế Lan Viên).
Nhận định hay về đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
1. Nguyễn Khoa Điềm nói về hoàn cảnh sáng tác Đất Nước.
“Chương V – chương Đất nước là một chương lớn. Tôi viết chương này trong những ngày mưa
triền miên sau Tết. Đó là thời kỳ máy bay Mỹ đánh phá dữ dội. B52 dội bom liên tục, làm cho
mọi thứ tối tăm mù mịt. Chúng tôi ngồi trong hầm và viết, cảm xúc được cộng hưởng bởi tiếng
bom nổ, bởi khói bom và mưa rừng. Có khi viết xong, một trận bom làm cho bản thảo bay lung
tung, lượm lại trang còn trang mất, lại ngồi viết tiếp. Tôi viết rất nhanh, như cảm xúc đã dồn tụ
một cách mãnh liệt, giờ chỉ việc tuôn chảy ra thôi. Tôi viết về những điều giản dị của chính tôi,
về tuổi trẻ và các bạn bè đang tranh đấu ở trong thành phố, nên nhân vật của tôi là anh và em.
Đó là lời đằm thắm của một người con trai với một người con gái.
Chúng tôi, mỗi người có một số phận khác nhau, nhưng đều gắn kết trong một số phận chung là
số phận Đất nước. Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh
hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân.
Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế
hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!”.
Đất nước vừa là một ý niệm thiêng liêng vừa là một hiện hữu, cụ thể, rõ ràng, thân thuộc. Tôi cố
gắng thể hiện một hình ảnh Đất nước giản dị gần gũi nhất. Đó là cách để đi vào lòng người, mà
không lặp lại người khác, vì trước tôi cũng như bấy giờ, có rất nhiều người đã viết rất hay về Đất
nước. Tôi nghĩ mỗi cá nhân sinh ra, ý niệm về Đất nước đã được thấm đẫm qua môi trường gia
đình, qua thế giới tinh thần và cả vật chất mà người đó sống” (Nguyễn Khoa Điềm trong cuốn
– Nhà văn và Tác phẩm)
2. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện những gì gần gũi nhất, thân thương
nhất của mỗi con người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai; trong thời gian và không
gian, trong lịch sử và truyền thống văn hoá… Ở Nguyễn Khoa Điềm lòng yêu nước là yêu nhân
dân, yêu những con người đã viết nên lịch sử, đã sản sinh ra văn hóa, đã phát kiến địa lý mà mở
rộng biên cương bảo vệ lãnh thổ. Từ đó nhà thơ đã đi đến đúc kết thành một chân lý vững
vàng: “Đất nước của nhân dân”, tư tưởng này đã chi phối hầu hết các sáng tác của Nguyễn Khoa
Điềm. Vì vậy tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nói lên những suy nghĩ cảm nhận của tuổi
trẻ trong chiến tranh, mà còn là lời kêu gọi thiết tha: hãy yêu đất nước – vì “Em ơi em Đất Nước
là máu xương của mình”. (Vũ Quần Phương)
MỘT SỐ BÀI PHÂN TÍCH HAY VỀ ĐẤT NƯỚC A. MỞ BÀI CHUNG
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định “Mỗi trang văn đều soi bóng thời
đại mà nó ra đời”. Những kiệt tác văn học ra đời không chỉ mang trong mình ý nghĩa
văn chương mà còn mang cả tầm vóc lịch sử. Ai đó cũng khẳng định: “Nếu mỗi người
không thuộc về một đất nước, một quê hương thì giống như con chim không
có tổ, cái cây không có rễ...”. Rồi có một lúc nào đó ta cũng sẽ tự hỏi lòng: “Có mối
tình nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?” Tình yêu quê hương đất nước, yêu
lịch sử, lẽ cống hiến và gắn bó cuộc đời mình với đất nước, nhân dân đã khiến biết bao
hồn thơ cất cánh. Cũng vì những tình cảm lớn lao ấy mà cuối năm 1971, trường ca “Mặt
đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm ra đời. Nguyễn Khoa Điềm là một trong
những nhà thơ tiêu biểu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong những năm
kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén và hấp dẫn bạn đọc
bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước,
con người Việt Nam, đặc biệt khi hướng về nhân dân, đất nước anh hùng. Đoạn trích
"Đất nước" nằm ở phần đầu chương V của bản trường ca "Mặt đường khát vọng" của
Nguyễn Khoa Điềm được xem là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong
thơ ca Việt Nam hiện đại. B. PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ Đoạn số 1:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa. .” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó. .
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.118) I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài: II. THÂN BÀI 1. Khái quát
1.1. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa không khí sục
sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của
tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, giúp họ thấy được vai trò, sứ
mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.
1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước"
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm
nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật muôn màu muôn
vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ đẹp đất nước bằng những
hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình
như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp: Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sông Đuống - Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc. Nhà
thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò chuyện thân
mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất nước trong một
không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài về lịch sử, chiều
rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến khẳng định tư tưởng có tính then
chốt: Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".
1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
- 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt: địa lý, lịch
sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
- 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
2. Phân tích đoạn thơ
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
Đoạn thơ gồm 9 câu thơ đầu này là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về Đất nước và để trả
lời cho các câu hỏi: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước tồn tại ở đâu? và quá trình lớn lên của đất nước như thế nào?
2.2. Hai câu thơ đầu: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.
Cội nguồn thiêng liêng của Đất nước (Đất nước có tự bao giờ)
Trong hai câu thơ đầu của đoạn thơ, tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của đất nước để trả
lời cho câu hỏi "Đất nước có từ bao giờ?". Với cách mở đầu rất tự nhiên, nhà thơ khẳng định đất
nước đã có từ trước khi ta sinh ra, khi ta lớn lên và biết nhận thức về thế giới quanh mình thì đất
nước “đã có rồi”. Không thể trả lời chính xác rằng đất nước có tự bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm đã
mượn cách mở đầu của truyện cổ tích "ngày xửa, ngày xưa" để nói về cội nguồn của đất nước.
Vận dụng ngôn từ một cách độc đáo, sáng tạo, nhà thơ không chỉ cho thấy đất nước chắc chắn đã
có từ cái thuở xa lắc xa lơ nào đó, từ rất lâu đời mà còn gợi ra một không gian cổ tích, thần thoại,
khiến cội nguồn đất nước trở nên thiêng liêng, kì diệu. Đất nước mình là đất nước của một nền
văn học dân gian đặc sắc với biết bao câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những
câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm tâm hồn
cho ta để lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần
con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần (Truyện cổ nước mình)
Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” và bốn chữ "ngày xửa, ngày xưa" vang lên đầy tự hào góp phần
khẳng định sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử:
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long (Huỳnh Văn Nghệ)
2.3. Bảy câu thơ: Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn
. . Đất nước có từ ngày đó
Đất nước rất gần gũi thân thiết với mỗi con người (Đất nước tồn tại ở đâu?)
Khi nói về đất nước người ta cũng thường đặt ra các câu hỏi như "Đất nước là gì?" và "Đất nước
tồn tại ở đâu?" và rồi thường tự cho rằng đất nước là cái gì đó cao siêu, trừu tượng khó định nghĩa
và khó nắm bắt. Nhưng ở đoạn thơ này Nguyễn Khoa Điềm đã cho chúng ta thấy đất nước thiêng
liêng, kì diệu nhưng không ở đâu xa, trái lại gần gũi, thân thiết đến bất ngờ.
* Đất nước là những người thân yêu nhất: Đất nước không ở đâu xa mà là những người thân yêu
nhất như bà, cha và mẹ. Là hình ảnh người bà với "miếng trầu bà ăn", là hình ảnh người mẹ với
"câu chuyện mẹ kể" và "tóc mẹ thì bới sau đầu", là cả cha và mẹ trong câu thơ "Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn". Không phải ngẫu nhiên khi viết về đất nước nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm lại ba lần nhắc đến hình ảnh người mẹ và nhiều nhà thơ khác cũng thường so sánh
hình ảnh đất nước, tổ quốc với hình ảnh người mẹ. Hình ảnh tổ quốc trở thành mĩ từ thật đẹp
trong thơ Chế Lan Viên khiến tác giả cho rằng mình đã đi nhưng cần vượt nữa để được gặp lại bà
mẹ tổ quốc: "Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương". Nhà thơ Tố Hữu lại liên tưởng đất nước giống
như hình ảnh bà mẹ gánh gồng, tảo tần:
Việt Nam, Ôi tổ quốc thương yêu!
Trong khổ đau, người đẹp hơn nhiều,
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng,
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng". (Chào xuân 67 - Tố Hữu)
* Đất nước là những gì bình thường, bình dị nhất xung quanh cuộc sống của mỗi con người: Đất
nước không cao siêu trừu tượng mà có thể đơn giản là câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn, có
trong những phong tục tập quán, trong cái kèo cái cột, thậm chí có trong những thứ nhỏ bé như hạt gạo. .
- Đất nước gắn với những phong tục, tập quán từ bao đời của người Việt Nam như tục ăn trầu, tục bới tóc sau đầu:
+ Tục ăn trầu: Hình ảnh miếng trầu từ xưa đến nay rất quen thuộc với bao nhiêu thế hệ người
Việt Nam. Người Việt Nam có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện". Miếng trầu không chỉ xuất
hiện trong các dịp ăn hỏi, cưới xin, hội hè, ma chay. . mà còn được dùng mời khách đến nhà để tỏ
lòng hiếu khách. Hình ảnh “miếng trầu” cũng là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ
từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, trong ca dao, thơ ca. .
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
(Mời trầu - Hồ Xuân Hương)
Miếng trầu trở thành hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung, son sắc trong tâm hồn dân
tộc. Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt, gợi
nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ.
Như vậy, trong miếng trầu dung dị ấy là mấy ngàn năm văn hóa, văn hiến của đất nước. Từ
phong tục ăn trầu, người Việt còn có tục nhuộm răng đen:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng (Hoàng Cầm)
+ Tục bới tóc sau đầu: Câu thơ "Tóc mẹ thì bới sau đầu" không chỉ gợi tả một nét đẹp thuần
phong mỹ tục lâu đời của người Việt mà còn làm hiện lên hình ảnh người mẹ với búi tóc sau gáy,
làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, đôn hậu của người phụ nữ Việt Nam.
- Đất nước còn có trong đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân
tộc, có trong tình nghĩa sâu nặng của cha và mẹ: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối
mặn". Có lẽ câu thơ về tình nghĩa sâu nặng ấy được gợi ý từ một câu ca dao đẹp:
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm
biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng
lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng son sắc, mặn nồng.
2.4. Hai câu thơ: Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
và: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng
Đất nước lớn lên, trưởng thành
- Không dừng lại ở ở việc tìm về cội nguồn, sự tồn tại mà nhà thơ còn nỗ lực hình dung quá trình
lớn lên, trưởng thành của đất nước. Phải chăng, khởi thủy và quá trình lớn lên của Đất nước là
văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Để nói hết
được những điều đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc đến hình ảnh cây tre, vốn từ lâu đã trở
nên quen thuộc trong tâm thế của mỗi người Việt Nam:
"Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín"
(Cây tre Việt Nam - Thép Mới)
Hình ảnh cây tre đã đi vào truyền thuyết Thánh Gióng với người anh hùng nhổ tre đánh giặc. Hai
chữ “lớn lên” gợi liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Ngà mới lên ba vươn vai thành một tráng
sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược. Cây tre vì thế đã trở thành biểu tượng
cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước. Cây tre còn trở
thành biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam thật thà chất phác, cần cù,
chăm chỉ, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình. . Bởi vì:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
=> Câu thơ "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc" như vậy đã thể hiện quá
trình lớn lên của đất nước. Đất nước lớn dần lên trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ bờ cõi, trong
những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ của cha ông trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.
- Đất nước còn bắt đầu và lớn mạnh dần lên trong quá trình lao động lam lũ, vất vả để làm ra hạt
lúa, hạt gạo, làm ra những giá trị vật chất cho đất nước thể hiện rõ qua câu thơ "Hạt gạo phải một
nắng hai sương xay, giã, giần, sàng". Thành ngữ "Một nắng, hai sương" đã cho thấy đất nước lớn
lên trong nhọc nhằn, lam lũ. Các động từ “Xay - giã - giần - sàng” là những hoạt động trong quy
trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao
nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị
mặn nhọc nhằn của người nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. (Ca dao)
Cũng vì vậy mà nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và khái quát quá trình đi lên đầy gian lao của đất nước:
Đất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước.
(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Để viết nên những vần thơ có sức lay động thực sự, có khả năng vượt qua mọi định luật băng
hoại của thời gian không thừa nhận cái chết(Satưkhốp Sêđrin), nhà thơ phải vừa có tài năng và
tâm huyết, vừa đắm mình vào cuộc đời, vừa không ngừng tìm tòi khám phá, “khơi những nguồn
chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Một nhà thơ nước ngoài đã từng thấm thía giá trị
cao quí của lao động thi ca:
“Phí tổn ngàn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Nhà thơ phải “trả giá cắt cổ” cho ngôn ngữ thơ ca nếu muốn những vần thơ ấy trở nên bất tử. Lao
động nghệ thuật là hình thức lao động của trí óc và trái tim. Phải có những rung động mãnh liệt
trước cuộc đời và những khám phá, sáng tạo độc đáo ta mới có thơ ca chân chính. Nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm bằng rung cảm mãnh liệt, sự tâm huyết và tài năng nghệ thuật đặc biệt đã sử
dụng một cách đầy sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian như: sử dụng cách mở đầu của
chuyện cổ tích, sử dụng thành ngữ, nhắc đến các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, hình ảnh ca
dao, phong tục tập quán để thể hiện quan niệm đất nước rất gần gũi thân thiết với mỗi con người.
Những cấu trúc được lặp đi lặp lại như "Đất nước có từ. .", "Đất nước có trong. .", "Đất nước bắt
đầu. .", "Đất nước lớn lên. ." góp phần thể hiện quá trình sinh thành, tồn tại và lớn lên của đất
nước, trải qua thời gian và trong tiềm thức của con người. Cùng với thể thơ tự do, phóng túng,
câu thơ dài ngắn không đều; ngôn từ, hình ảnh giản dị, gần gũi; nhịp điệu linh hoạt; chất trữ tình
kết hợp với chất chính luận, cảm xúc kết hợp với suy tưởng đã tạo nên những câu thơ hấp dẫn,
cảm động. . Những đặc sắc nghệ thuật này đã tạo ra vẻ đẹp riêng cho thơ Nguyễn Khoa Điềm và
thể hiện sâu sắc hơn những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ, độc đáo của ông về đất nước. Đoạn trích
"Đất nước" giúp chúng ta thấy yêu và gắn bó hơn với qhđn. ĐOẠN 2;
Cảm nhận đoạn thơ:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đòi đã hóa núi sông ta
(Đoạn trích Đất Nước, SGK Ngữ văn tập 1)
TỪ ĐÓ NHẬN XÉT VỀ VIỆC SỬ DỤNG CHẤT LIỆU VĂN HÓA DÂN GIAN . ̛̉ ̀
Trong văn bản "Tiếng nói của văn nghệ", Nguyễn Đình Thi viết: "Tác phẩm nghệ thuật nào cũng
xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi
mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh
muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh".
- Và Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ đã mang đến cho
văn học nước nhà tiếng thơ của riêng mình. Thơ ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy
tư sâu lắng về đất nước của thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ cứu nước nên đã lay động trái tim
và thuyết phục về lý trí của người đọc. Tiêu biểu cho điều này là trường ca “ Mặt đường khát
vọng”, trong đó nổi bật là chương “Đất Nước”. ̉ ̣̂ ̛ ̛
̛ “Đ ̂́ ̛ ̛́ ” ̛ ̣̂ ̀ ̛ ̣ ̣ ̂̀ ̣̂
̀ đ ̣̆ ̆́ ̂̀ ̣̂ ̣̂ .
- Đến với đoạn thơ đặc sắc sau, ta sẽ cảm nhận được tư tưởng chủ đạo Đất Nước của Nhân dân
thật mới mẻ , từ đó nhận ra cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian thật độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm: “ ̛̃ ̛ ̀ ̛̣ ̛́ ̂̀ ̀ ́ Đ ̂́ ̛ ́ ́ ̣ …………. ̛̃
̣̂ đ ̛̀ đ ̃ ́ ́ ̂ ” . ̂ B ̀ 1. ̂̉
- Đất nước là một đề tài quen thuộc của thơ ca. Có bao nhiêu nhà thơ là có bấy nhiêu vần thơ về Đất nước.
- Nguyễn Khoa Điềm cũng có một "Đất Nước" của riêng mình với những cảm nhận thật độc đáo,
mới mẻ. Ở các đoạn thơ trước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận về cội nguồn thiêng
liêng của đất nước và thấy đất nước rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người và lớn lên trưởng
thành trong gian lao, vất vả. Đất nước có chiều dài lịch sử đằng đẵng, không gian địa lí mênh
mông và có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, đậm đà bản sắc. Đất nước ở trong mỗi con người, là
máu là xương là huyết lệ bởi vậy mỗi con người đều phải có trách nhiệm với đấy nước.
- Ở đoạn thơ này, nhà thơ bắt đầu đi vào tư tưởng có tính then chốt trong suốt đoạn trích là tư
tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Theo tác giả, chính thân phận, tâm hồn, tính cách, lối sống của
nhân dân đã hóa thân tạo nên hình hài đất nước.
2. ̣̂̂đ ̂̉ 1:T̳ư̳t̳ư̳ở̳n̳g̳đ̳ấ̳tn̳ư̳ớ̳c̳c̳ủ̳a̳n̳h̳â̳n̳d̳â̳n̳l̳à̳t̳ư̳t̳ư̳ở̳n̳g̳t̳iế̳n̳b̳ộ̳đãđượcNguyễnTrãiviếtngaydòng
đầutrong"Đại cáo bình Ngô":
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", hoặc trong bài thơ "Quan Hải" có câu "Phúc chu thuỷ tín dân do
thuỷ", nghĩa là : Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước. Phan Bội Châu cũng
khẳng định "Nước là dân, dân là nước" Tuy nhiên, phải đến chương V- Đất Nước thì tư tưởng đất
nước của nhân dân đã mang một diện mạo mới. Trong đoạn trích "Đất Nước", nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm chủ yếu cảm nhận đất nước ̛̉ ̛ ̛ ̣̂ , ̂̀ ̀ ̣ ̛̉, ̂̀ ̣̂ đ̣ ́, ̂̀ ̂ ̆ ́
̣ . Chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước, làm nên lịch sử và làm nên nền văn hóa, văn
hiến lâu đời của đất nước. ̂ đ ̣ ̛ 12 ̂ ̀
̂̉ ̣̂ ̛ ̛ ̛̉ đ ̂́ ̛ ́ ̉ ̂ ̂ ̛̉ ̛ ̣̂ đ̣ ́, ̆̉ đ̣ ́ ̂ ̂ đ ̃ ̀ ̂ ́ ̀ đ ̂́
̛ ̛́ .̣̂ đ ̂̉ 2.T̳ư̳t̳ư̳ở̳n̳g̳Đ̳ấ̳tN̳ư̳ớ̳c̳l̳à̳c̳ủ̳a̳N̳h̳â̳n̳D̳â̳n̳đ̳ư̳ợc̳n̳h̳à̳t̳h̳ơ̳k̳h̳a̳im̳ở̳v̳ớ̳in̳h̳ữ̳n̳g̳p̳h̳á̳th̳iệ̳n̳t̳h̳ú̳v̳ị̳,đ̳ộ̳c̳
đ̳á̳o̳ v̳ẽ̳ n̳ê̳n̳ b̳fí̳c̳ t̳r̳a̳n̳h̳ t̳o̳à̳n̳ c̳ả̳n̳h̳ v̳ề̳ t̳h̳i̳ê̳n̳ n̳h̳i̳ê̳n̳ q̳u̳ê̳ h̳ư̳ơn̳g̳, đ̳ấ̳t̳ n̳ư̳ớ̳c̳.
̶:-:Song song với quá trình hình thành Đất và Nước là sự sinh sôi,
nảy nở của các địa danh. Một miền đất chưa gọi tên là miền đất chưa có lịch sử thế nên Nguyễn
Khoa Điềm mới viết “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”. Lần theo những địa danh,
nhà thơ dựng lại cả diện mạo non sông đất nước. Các từ chỉ địa danh được sắp xếp, liệt kê theo
một trật tự có dụng ý nghệ thuật từ địa đầu tổ quốc đến mũi Cà Mau, từ miền ngược đến miền
xuôi, từ núi non đến biển cả. Đó là núi Vọng Phu Ở Lạng Sơn, hòn Trống Mái ở Thanh Hóa, đất
Tổ Hùng Vương ở Phú Thọ, thắng cảnh Hạ Long ở Quảng Ninh, núi Bút non Nghiên ở Quảng
Ngãi, các địa danh Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ở miền Nam. . Đ ̂ ̂́ ̀ ̛̃ ̆́ ̉
̂ ̣ , ̀ ̂́ ̉ ̉ ́ ̀ ̣̂ đ ̣̂ đ̣
̂́ , ̂́ ̣ đ̣ ́ ̛̀ ̀ ̀ , ̀ ̣
̆ . Ngọn núi ấy, hòn đá kia, hình sông nọ, thế núi này … đã gợi lên cả một bức tranh thiên nhiên
đất nước tươi đẹp, gợi cho chúng ta bao nhiêu niềm yêu mến, tự hào và khát khao muốn được
khám phá vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên quê hương đất nước mình.
̶: :-:Ra-xum Ga-đa-tốp khẳng định:“…Nền tảng của bất kì tác
phẩm nào phải là chân lí được khắc họa bằng tất cả tài nghệ của nghệ sĩ. Cần phải hát đúng giai
điệu về thời đại mình và phải miêu
tả nó một cách trung thực bằng những hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo", quả thật thế,
chân lí này đã được thể trong đoạn thơ. Nguyễn Khoa Điềm không khám phá bức tranh thiên
nhiên quê hương, đất nước dưới góc độ khoa học, không nhìn thiên nhiên quê hương đất nước
tươi đẹp như là tác phẩm của tạo hóa mà tất cả đều do nhân dân hóa thân mà thành. Phải hóa thân
cho dáng hình xứ sở. Hóa thân vốn là quan niệm của nhà Phật, có nghĩa là nhập vào hay biến
thành. Hóa thân như cô Tấm trong truyện cổ tích "Tấm Cám" . Hóa thân như anh em nhà họ Cao
hóa thành cây cau và tảng đá, còn người vợ hóa thành cây trầu leo quanh cây cau trong truyện cổ
tích "Trầu cau". Hóa thân thành đất nước chính là sự nhập thân hay biến mình vào đất nước. Theo
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm "núi Vọng Phu" là hóa thân của người vợ nhớ chồng. "Hòn Trống
Mái" là hóa thân của cặp vợ chồng yêu nhau, nguyện hóa đá để mãi mãi được bên nhau. "Núi
Bút, non nghiên" là hóa thân của người học trò nghèo tôn sư trọng đạo. Những con vật thân quen
“Con cóc, con gà” qua bàn tay tạo hóa đã biến thành những hòn đảo kì lạ giữa thế giới động vật
thân quen đã góp cho Hạ Long thành thắng cảnh. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật liệt kê cùng
động từ “góp”, “đi qua còn”, “để lại ” để gợi ra hình hài Đất Nước, hình hài Đất Nước được hóa
thân từ những con người bình thường : người vợ, người chồng, người học trò nghèo, Ông Đốc,
Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. . đến những anh hùng phi thường Thánh Gióng, Hùng Vương. .
Những loài vật bé nhỏ gần gũi trong cuộc sống con cóc, con gà đến những loài vật linh thiêng
trongtâm linh người việt con voi, con rồng. . Mỗi địa danh đều gắnvới một truyền thuyết, sự tích
riêng, tạo nên một thế giới truyện cổ huyền diệu. Nhưng sâu sắc và tinh tế hơn khi Nguyễn Khoa
Điềm đã phát hiện ra không ai khác, chính những người dân bình thường vô danh bình dị, đã
sống giản dị và chết bình tâm, "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng chính họ đã hóa thân thành dáng
hình đất nước, làm nên vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc.
̶: :-:Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ: “Chúng tôi là những tri thức trưởng thành chiến tranh.
Chúng tôi phải huy động hết những phần văn hoá qua của mình để chứng minh sức mạnh của
mình, khả năng tồn tại của mình, chứng minh mình là con người, lớp người có văn hoá. Chính
bởi thế mà trong không khi sặc mùi thuốc súng ấy, giữa cái giáp ranh giữa sự sống và cái chết, tôi
muốn đưa vào bài thơ những hình ảnh đậm nét văn hoá nhất của quê hương đất nước mình”. Vậy
nên bức tranh thiên nhiên đất nước trong con mắt của nhà thơ không chỉ là một nét vẽ tô điểm
vào bức “tranh họa đồ” Đất Nước mà còn ẩn chứa những nét đẹp tâm hồn của nhân dân, là truyền
thống văn hóa của dân tộc trong mấy nghìn năm lịch sử. Trước tiên là đức tính thủy chung của
người phụ nữ Việt Nam : “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng
Phu”. Hòn Vọng Phu ở Kì Cùng- Lạng Sơn là sự hóa thân của Nàng Tô Thị . Hình tượng người
mẹ bồng con trên đỉnh núi hóa đá đã hiện hữu trong đời thực. Trong suốt các cuộc trường chinh
chống giặc với biết bao người vợ, mỏi mòn đợi chờ chồng với niềm tin “sẽ trở về”. Niềm tin ấy
trở thành biểu tượng cho tình yêu với khát khao sum vầy qua hình ảnh ngộ nghĩnh sát kề nhau
trên một quả đồi ở Thanh Hóa và cả ở Hạ Long cùng có tên “Hòn Trống Mái”: “Cặp vợ chồng
yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”. Nhà thơ đã nhìn vào thắng cảnh để khẳng định : Chính đạo lí
thủy chung và tình cảm nồng thắm của con người VN đã hóa thân thành Đất Nước. Nhân dân còn
kiên cường với quá trình giữ nước với hình ảnh "trăm ao đầm để lại", vùng đất Sóc Sơn ở Mê
Linh- ngoại thành Hà Nội có nhiều ao đầm san sát được lí gải là do "Gót ngựa thánh Gióng đi
qua" để tôn vinh người anh hùng đánh giặc bằng vũ khí quê hương. Nhân dân còn hóa thân vào
cảnh quan kì thú gợi đến cội nguồn của dân tộc "Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ
Hùng Vương" . Đền Hùng Vương nằm ở thôn Cổ Tích, xã Hi Cương, Phong Châu, Phú Thọ được
bao quanh bởi 99 ngọn đồi mang hình voi phục. Đây là biểu tượng cho muôn dân thuần phục vua
Hùng- vị vua sáng lập nhà nước Văn Lang đầu tiên của nước ta. Đây cũng chính là hình ảnh thể
hiện ý thức hướng về tổ tông, nguồn cội hàng năm ăn đâu làm đâu cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ
tổ. "Núi Bút non Nghiêng ở Quảng Ngãi" là biểu tượng cho một dân tộc ý thức sâu sắc về vai trò
của giáo dục, đề cao truyền thống tôn sư trọng đạo và truyền thống hiếu học, ý chí vượt khó vươn
lên cũng góp phần tạo nên tên gọi cho Đất Nước. Tên gọi này gợi ta nhớ đến Mạc Đỉnh Chi với
đèn đom đóm của, nhớ đến Lương Thế Vinh, Lê Bá Khánh Trình, , Ngô Bảo Châu . .Nhớ đến
những người học trò dù nghèo vật chất nhưng vẫn góp cho Đất Nước trí tuệ và tài năng để mang
Đất Nước đến tháng ngày mơ mộng. Hình hài của Đất Nước còn được tô điểm bởi sự mềm mại
của "Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm" . . gợi tả dòng sông Cửu Long hiền hòa.
Rồng nằm im nên dòng sông xanh thẳm . . Văn hóa Việt Nam gắn liền với những dòng sông,
những câu ca cứ chảy tràn trong trí nhớ “” Sông Thương bên lở bên bồi,Sông Hồng đỏ nặng phù
sa, Sông Vàm cỏ nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng… Những dòng sông không chỉ tạo
cảnh quan mà còn mang phù sa bồi đắp đôi bờ , cho tôm cho cá, cho trĩu quả 4 mùa, cho cánh
đồng thẳng cánh cò bay vàng mùa bội thu. Ý thơ thể hiện niềm tự hào của người dân Nam Bộ về
dáng hình dòng sông. Làm nên Đất Nước còn có sự góp sức của những anh hùng với tinh thần xả
thân vì cộng đồng, quả cảm, gan dạ trong quá trình mở mang lãnh thổ. Họ bạt đất,lấn biển, đào
kênh, đấu tranh chống cường quyền làm nên làng mạc, xứ sở như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen,
Bà Điểm và cả Những người dân nào đã góp tên để làm nên Đất Nước muôn đời. => ̆̀ ́
̣ đ ̂̉ ̃ ̣̂ ̂́ ̛̣ ̛́
̣̂ ̣̂ ̣̂ ̂, ̂́ ̛̀ ̛̃ : ́ ̉ đ ̃ ̆̉ đ̣ ̛̃ ̉ ̀ ́ ̣̂ ̉ ̀ ̣̆ ̣̂ ̉ ̣ ́ ̀ ́ ̂ ̂ ̣ ̂ ̛̀ ̛̃ ̉ ̣̂, ̂́ ̣̂ , ̂́
̉ đ ̣ ̂ ̂̀ , ́ ̣̂ ̉ ̣. ℌ ̣ đ ̃ ̂́ ̣̂ đ ̛̀ ̂ ̂̃ ̀ ̂ , ̂̃
́ , ̂ ̃, ̂ ̀ . ́ ̂ ̛ ́ ̣ ̂̀ ̛̣ ̀ ̀ ̀ ̂́ ̛ Đ ̂́ ̛ ́ ̀
̂ ̂ . ℭ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ,͟ ͟ ͟ ,͟ đ͟ ͟ ]͟ ,͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ,͟ đ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟ ͟ ]͟ ͟ ͟ ͟ Đ͟
͟ ͟ .͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ]͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ,͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ .͟
̣̂ đ ̂̉ 3: Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trữ tình chính luận nên tác giả không chỉ thuyết phục người
đọc bằng ngôn từ mà còn bằng cả kết cấu. Từ những địa danh cụ thể, tác giả đã nâng lên tầm khái quát:
"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta. .”
̶: :-:"Khắp ruộng đồng gò bãi" là không gian quen thuộc, gần gũi từ mọi miền, mọi vùng, nơi nào
cũng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha nên đi đâu ta cũng thấy. Là hóa thân
của nhân dân nên mỗi hình sông thế núi, từng tấc đất trên đất nước này đều in dấu dáng hình, tâm
tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất, lối sống của những con người đất Việt.
̶: :-:Trạng ngữ phiếm chỉ "ở đâu", "đi đâu" ,"trên khắp" bộc lộ niềm tự hào của tác giả trước sự
hiện diện của những dấu tích ông cha .
Điệp từ "một" kết hợp tách nhịp 5/3/5 và phép liệt kê mang sắc thái khẳng định: Đất Nước là sự
hóa thân của cốt cách, của khát vọng từ những con người vô danh, bình dị.
- Câu thơ "Những cuộc đời đã hoá núi sông ta". . cô đúc như một chân lí. Động từ hóa là sự sáng
tạo ngôn ngữ Nhân dân là người đã thổi hồn, đã hòa mình, hóa thân kì diệu vào sông núi để lặng
thầm góp phần làm nên Đất Nước. Nhân dân tạo nên sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người,
giữa Đất Nước và Nhân Dân. Mỗi địa danh, thắng cảnh là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm
hồn người Việt Nam. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm
hồn của nhân dân. Không có nhân dân từ bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng cao đẹp thì
không có những thắng cảnh kỳ thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng. Ngẫm về công lao to lớn
của nhân dân, về truyền thống của ông
cha trong suốt 4000 năm lịch sử, nhà thơ không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm
mến yêu. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm
cuối đoạn đã truyền đến người đọc những những xúc cảm sâu lắng, đó là biểu hiện của sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa tính chính
luận và chất trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng tạo nên vẻ đẹp riêng của thơ Nguyễn Khoa Điềm. => ́ ̛ ̂ Đ ̀ ̣ ̆̀ : “ ́ ̂̉ ̣̂ ̣̂ đ ̣ ̛́ ́ đ ̣ ̃ : đ ̛ ̣ ̛̣ ̣̂ ̂ ̉ đ̛̀ ̂́ ̂ ̀ , đ ̂̀ ̛̀ đ ̛ ̣ ̛̣ ̣̂ ̂ ̀ ̉ ̛ ̀ ” ̀ ̛ ̂́. 3. ̛̣
- Đoạn thơ đầy ắp sự tích huyền thoại, truyền thuyết, có kết cấu
quy nạp chặt chẽ, giọng điệu tự nhiên , câu thơ mở rộng kéo dài, biến hóa linh hoạt tạo cho đoạn
thơ giàu sức gợi cảm và khái quát
cao. Dù viết về một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng,
mới mẻ, sâu sắc . Hình tượng Đất
Nước trong đoạn trích này đã quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn và vốn liếng sách vở cũng như
những trải nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận
thức của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” 4. ̣̂ ́
- Đoạn thơ tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm bởi cách sử
dụng chất liệu văn hóa dân gian độc đáo. Các địa danh, danh thắng đều gợi nhắc đến các truyền
thuyết, sự tích dân gian nhằm ca ngợi vẻ đẹp của Đất nước và khẳng định vai trò đóng góp của
Nhân Dân trên bình diện không gian địa lí.
- Những địa danh và các truyền thuyết, sự tích ấy qua cách khám
phá, lý giải của nhà thơ đã trở nên mới lạ, hấp dẫn, khiến cho Đất Nước trở nên gần gũi, gắn bó,
thân thuộc với mỗi người.
- Việc sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học đã cho thấy vốn
hiểu biết uyên bác, tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, phong cách thơ đậm chất trữ tình nồng
nàn và suy tư sâu sắc của thi sĩ. . ̂̉ ̂́
"Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình
Mỗi câu thơ như sợi tơ dài
Rút ra từ tháng ngày bom đạn." (Hữu Thỉnh)
Những sợi tơ dài như rút ruột tằm của Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm giữa thác lũ thời đại đã làm
nên trường ca “ Mặt đường khát vọng” nói chung và chương “Đất Nước” nói riêng. Đây là tiếng
vọng tâm tình của một hồn thơ hòa cùng mạch cảm xúc của dân tộc đã ngân lên trong trái tim
người đọc. Thơ làm cho tâm hồn con người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng, lực hút
của đoạn thơ trên làm cho câu chuyện về Đất Nước đối với mỗi người luôn là câu chuyện của trái
tim, vừa thiêng liêng, cao cả, cũng vừa gắn bó, thân thiết. ĐOẠN 3 "Đ͟ ] Đ͟ ͟ ͟ ͟ Đ͟ ͟ ℎ͟ ͟ Đ͟ ͟ ] ℎ͟ ͟ , Đ͟ ͟ ] ℎ͟ ℎ ͟ ͟ ℎ ͟ " ͟ ͟ ℎ ]͟ ͟ " ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟ ͟ ℎ͟ ℎ ͟ Đ ] ℎ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟
͟ ℎ ͟ Đ͟ ͟ ͟ℎ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ ͟
đ͟ ℎ͟ ℎ ℎ͟ đ͟ , ͟ ℎ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ …" . ]͟ ͟
- "Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm
Ta đã lớn rồi, chín đầy hy vọng
Hãy ngã xuống tay Nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng
Hỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi"
Đây là những vần thơ ca ngợi nhân dân đất nước thiết tha mà nhà thơ trữ tình chính
luận Nguyễn Khoa Điềm đã viết trong trường ca "Mặt đường khát vọng".
- Thơ ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước của thế
hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ cứu nước nên đã lay động trái tim và thuyết phục lý trí
của người đọc. Tiêu biểu cho điều này là trường ca “ Mặt đường khát vọng”, trong đó
nổi bật là chương “Đất Nước”. ] ͟ ͟ ͟ “Đ͟ ͟” ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ .
- Đến với đoạn thơ đặc sắc sau, ta sẽ cảm nhận được ͟ ͟ ] ] đ͟ Đ͟ ͟ ͟ ] ͟ ͟ ͟ ͟ ] , ͟ đ͟ , ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ] ͟ ͟ ͟ Đ ͟ : "Đ͟ ] Đ͟ ͟ ͟ ͟ Đ͟ ͟ ℎ͟ ͟ Đ͟ ͟ ] ℎ͟ ͟ , Đ͟ ͟ ] ℎ͟ ℎ ͟ ͟ ℎ ͟ " ͟ ͟ ℎ ͟] ͟ " ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟ ͟ ℎ͟ ℎ ͟ Đ ] ℎ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟
͟ ℎ ͟ Đ͟ ͟ ͟ℎ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ ͟
đ͟ ℎ͟ ℎ ℎ͟ đ͟ , ͟ ℎ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ …" . ͟ ͟ 1. �̂
- Đất nước là một đề tài quen thuộc của thơ ca. Có bao nhiêu nhà thơ là có bấy nhiêu
vần thơ về Đất nước.
- Nguyễn Khoa Điềm cũng có một Đất Nước của riêng mình với những cảm nhận thật
độc đáo, mới mẻ. Ở các đoạn thơ trước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận về cội
nguồn thiêng liêng của đất nước và thấy đất nước rất gần gũi, thân thiết với mỗi con
người và lớn lên trưởng thành trong gian lao, vất vả. Đất Nước có chiều dài lịch sử đằng
đẵng, không gian địa lí mênh mông và có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, đậm đà bản
sắc. Đất Nước ở trong mỗi con người, là máu là xương là huyết lệ bởi vậy mỗi con người
đều phải có trách nhiệm với đấy nước.
- Đ̳o̳ạ̳n̳ ̳t̳h̳ơ̳ ̳n̳à̳y̳ ̳t̳h̳u̳ộ̳c̳ ̳p̳h̳ầ̳n̳ ̳c̳u̳ố̳i ̳c̳ủ̳a̳ ̳p̳h̳ầ̳n̳ ̳h̳a̳i ̳c̳h̳ư̳ơ̳n̳g̳ ̳“̳Đ̳ấ̳t̳ ̳N̳ư̳ớ̳c̳”̳,̳ t̳r̳o̳n̳g̳ ̳p̳h̳ầ̳n̳ ̳h̳a̳i ̳n̳h̳à̳
̳t̳h̳ơ̳ ̳b̳ắ̳t̳ ̳đ̳ầ̳u̳ ̳đ̳i̳ v̳à̳o̳ ̳t̳ư̳ ̳t̳ư̳ở̳n̳g̳ ̳c̳ó̳ ̳t̳ín̳h̳ ̳t̳h̳e̳n̳ ̳c̳h̳ố̳t̳ ̳t̳r̳o̳n̳g̳ ̳s̳u̳ố̳t̳ ̳đ̳o̳ạ̳n̳ ̳t̳r̳íc̳h̳ ̳là̳ ̳t̳ư̳ ̳t̳ư̳ở̳n̳g̳ ̳"̳Đ̳ấ̳t̳
̳N̳ư̳ớ̳c̳ ̳c̳ủ̳a̳ ̳N̳h̳â̳n̳ ̳d̳â̳n̳"̳.̳ R̳iê̳n̳g̳ ̳đ̳o̳ạ̳n̳ ̳t̳h̳ơ̳ ̳m̳ư̳ờ̳i ̳c̳â̳u̳ ̳n̳à̳y̳ ̳t̳h̳ể̳ h̳iệ̳n̳ ̳là̳ ̳n̳h̳ữ̳n̳g̳ ̳s̳u̳y̳ ̳n̳g̳h̳ĩ ̳c̳ủ̳a̳ ̳t̳á̳c̳
̳g̳iả̳ ̳v̳ề̳ đ̳ấ̳t̳ ̳n̳ư̳ớ̳c̳ ̳đ̳ư̳ợ̳c̳ ̳n̳h̳ì̳n̳ ̳t̳r̳ê̳n̳ ̳n̳h̳iề̳u̳ ̳g̳ó̳c̳ ̳đ̳ộ̳ ̳v̳ă̳n̳ ̳h̳o̳á̳.̳ ̳ 2. ℎ͟ . ͟ ͟ ]͟ đ͟ ͟ ͟ ] ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ]
͟ ͟ đã được Nguyễn Trãi viết trong "Đại cáo Bình Ngô":
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Phan Bội Châu cũng khẳng định "Nước là dân, dân là nước"… ͟ , ] đ͟ ͟ ͟ - Đ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ] đ͟ ͟ ] ͟ ͟ đ͟ ͟ ͟
͟ ͟ . Trong đoạn trích "Đất Nước", nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm chủ yếu cảm nhận đất nước ở ba phương diện, chiều dài lịch sử, chiều rộng địa lí,
chiều sâu văn hóa phong tục. Chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước, làm nên
lịch sử và làm nên nền văn hóa, văn hiến lâu đời của đất nước.
. ͟ ͟ ]͟ Đ͟ ͟ ͟ ] ͟ ͟ đ͟ ͟ ͟ ͟ ] ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ , đ͟ đ͟ ]͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ , ͟ ] đ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟ ͟ ͟ ͟
͟ ͟ ͟ ͟ : "Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết " yêu em từ thuở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"
- Xuyên suốt bài thơ, hai chữ “ Đất Nước” được viết hoa như một mỹ tự với biết bao tự
hào, thành kính, thiêng liêng, trong đoạn thơ này tác giả còn viết hoa từ "Nhân dân" để
tỏ bày niềm yêu quý, trân trọng:
"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại"
Mạch cảm xúc dâng trào, nhà thơ khẳng định “Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân
dân”, hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng, để có được “Đất Nước” trường tồn, vĩnh cửu thì
“Nhân Dân” là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình
hài đất nước. Vì thế, “Đất Nước” không của riêng ai mà là của chung, của “Nhân Dân”
và mãi mãi thuộc về “Nhân Dân” bởi đã có những cuộc đời đã hoá núi sông ta... ͟ ͟ ͟ ͟
] đ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ,͟ ͟ ] ͟ ͟ ] ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟ ͟ ͟
,͟ vế câu "Đất Nước của
Nhân dân" được nhà thơ lặp lại hai lần khắc sâu tư tưởng nhân dân là chủ thể làm nên đất
nước đồng thời đây cũng chính là cảm hứng chủ đạo được thể hiện trong suốt đoạn
trích và cả chương V của bản trường ca. Hình ảnh nhân dân trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm gợi nhắc đến hình ảnh nhân dân trong thơ của Thanh Thảo:
“Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những vì sao cô độc giữa trời”.
("Không phải truyền thuyết")
Vế câu thứ hai “Đất Nước của ca dao thần thoại” như chiếc cầu mềm mại đưa những
liên tưởng vào hồn người êm ái, dịu dàng. Trong kho tàng phong phú của văn học dân
gian với đa dạng thể loại, Nguyễn Khoa Điềm đã tinh chọn thể loại “ca dao” và “ thần
thoại”. Đ̲â̲y̲ l̲à̲ h̲a̲i t̲h̲ể̲ l̲o̲ạ̲i t̲iê̲u̲ ̲b̲iể̲u̲ ̲n̲h̲ấ̲t̲ c̲ủ̲a̲ v̲ă̲n̲ h̲ọ̲c̲ d̲â̲n̲ g̲ia̲n̲,̲ “̲t̲h̲ầ̲n̲ t̲h̲o̲ạ̲i”̲ t̲h̲ể̲ h̲iệ̲n̲
̲c̲u̲ộ̲c̲ ̲s̲ố̲n̲g̲ ̲q̲u̲a̲ ̲t̲r̲í ̲t̲ư̲ở̲n̲g̲ ̲t̲ư̲ợ̲n̲g̲ ̲b̲a̲y̲ ̲b̲ổ̲n̲g̲ ̲c̲ủ̲a̲ ̲n̲h̲â̲n̲ ̲d̲â̲n̲,̲ ̲c̲ò̲n̲ ̲“̲c̲a̲ ̲d̲a̲o̲”̲ ̲b̲ộ̲c̲ ̲lộ̲ ̲t̲h̲ế̲ ̲g̲iớ̲i ̲t̲â̲m̲
̲h̲ồ̲n̲ ̲c̲ủ̲a̲ ̲n̲h̲â̲n̲ ̲d̲â̲n̲ ̲v̲ớ̲i ̲t̲ìn̲h̲ ̲y̲ê̲u̲ ̲t̲h̲ư̲ơ̲n̲g̲,̲ ̲v̲ớ̲i ̲s̲ự̲ ̲lã̲n̲g̲ ̲m̲ạ̲n̲ ̲c̲ù̲n̲g̲ ̲v̲ớ̲i ̲t̲in̲h̲ ̲t̲h̲ầ̲n̲ ̲lạ̲c̲ ̲q̲u̲a̲n̲.̲
"Đất Nước của ca dao” nghĩa là Đất Nước đẹp như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như
nguồn sữa mẹ dưỡng nuôi nên người, “sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”. Ca dao là
thân xác, lục bát là vòng tay. Cứ thế lục bát ôm trọn ca dao vào lòng để ấp ủ hương thơ
của hồn quê, của tình người. Tự nhiên như hơi thở, ca dao thành câu hát ru, thành khúc
dân ca. Ca dao ru con trẻ vào giấc ngủ “Con cò bay lả bay la”. Ca dao tình tự đôi lứa
nên vợ nên chồng thuận hòa “tát bể đông cũng cạn”, cứ thế, hơi thở ca dao ngập tràn
trong văn học viết ... Nếu ca dao dân ca là tiếng nói của tâm tư, tình cảm thì thần thoại
gắn liền với thời kì ấu thơ của nhân loại, phản ánh nhận thức của con người thuở sơ khai
về vũ trụ, thiên nhiên, loài vật. Những câu chuyện thần thoại của 54 dân tộc anh em đã
làm nên kho tàng văn hóa quý giá của cả dân tộc Việt Nam ta. - > ℎ͟ ͟ ,
ℎ͟ ℎ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ℎ͟ ] ℎ͟ ͟ ͟ ͟ , ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ ] ͟
ℎ ] ℎ͟ ͟ ℎ͟ , ] ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ℎ đ͟ ͟ ℎ͟ , đ͟ ℎ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ . . ͟ ͟ ] đ͟ “Đ͟ ͟
] ͟ ͟” ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟ ͟ , ͟ ] đ͟ ͟ ] ͟ ͟ ͟ ͟
͟ đ͟ đ͟ ] ͟ ͟ , ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ] ͟
. Ở đây, tác giả chỉ chọn lọc ba câu ca dao tiêu
biểu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc:
Dạy anh biết " yêu em từ thuở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"
- Ở phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong
tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý trong bài ca dao “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em
nằm em khóc, anh ngồi anh ru”, nhà thơ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang
yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng trai ấy không phải là
ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của bướm ong, mà là lời nói là nghĩ suy chân
thật. Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung bền vững. không gì có thể
đong đếm được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương chân thành, lãng mạn, đắm say …
Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay, nói đến nhân dân,
người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn
ở đây, tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ
thưở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Phát hiện mới mẻ ấy như một mạch nguồn trong
trẻo góp phần tạo nên cấu tứ độc đáo cho đoạn trích, đó là “Cha mẹ thương nhau bằng
gừng cay muối mặn”; là “yêu nhau và sinh con đẻ cái”; là “cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái” …
- Ở phương diện thứ hai, “Nhân Dân” gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp
đẽ, sâu sắc. Ca dao đã “dạy anh biết” : Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải
“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”, ý thơ được khơi gợi từ bài ca dao “Cầm
vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng” rất tự nhiên và liền
mạch. Nhân Dân đã dạy ta rằng: ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc
ngà… Đó là tình nghĩa giữa con người với con người!
- Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến
đấu: “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Câu thơ lấy ý
tưởng từ bài ca dao: “Thù này ắt hẳn dài lâu/Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què”.
Hình ảnh cây tre đã xuất hiện từ những dòng thơ đầu tiên của chương V “ Đất Nước lớn
lên khi dân mình biết trồng mà đánh giặc” được lặp lại ở cuối chương tạo nên trường
liên tưởng : đó là một hình ảnh bình dị và quen thuộc với mọi vùng quê trên đất nước
Việt Nam. Tre là bạn của con người từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Tre là biểu
tượng cho con người Việt Nam, một dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất: "Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh" (Nguyễn Duy)
Chính vì “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu” nên mới có
“Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.”(Nguyễn Đình Thi). Chính tinh
thần kiên cường trong chiến đấu, kiên trung trước kẻ thù của ông cha đã tiếp sức tạo
nên ý thức thế hệ trẻ đã đi vào trang thơ Nguyễn Khoa Điềm:
“Hãy nâng máu ta lên làm ngọn cờ hồng
Trên cao điểm gian truân mà giữ nước
Ôi tuổi trẻ có gì cao quý nhất
Bằng hôm nay ta hiến máu xương mình”. - >͟ ͟ "͟
ℎ ͟ " ͟ đ͟ ͟ "͟ " đ͟ đ͟ ͟ ͟ 3 ͟ ℎ ]͟ đ͟ℎ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ] ͟ “ đ ͟ ͟ ͟ / ͟
ℎ͟ đ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ” ͟ ℎ͟ ℎ͟. ℎ͟ ͟
ℎ͟ ͟ đ͟ khắc nổi hình, đã ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ đ͟ đ͟ ℎ͟ ] ℎ͟ ͟ , ℎ͟ ℎ͟ ] ℎ͟ đ͟ ͟
͟ ͟ ͟ ℎ͟ , ͟ℎ ͟ℎ ͟ ] ͟ℎ ] ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ℎ ,͟]
͟ ] ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ Đ͟ ͟ ͟ ℎ ℎ͟ ͟ ℎ ℎ͟ , ℎ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ ℎ ͟ . ] ͟ ͟ ͟ ͟ đ͟ ] ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ , ͟
Đ͟ đ͟ ͟ ͟ đ͟ ͟ ͟ ͟ : “ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ] ͟ ͟ . ͟ ͟ ] đ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ] ͟ đ͟ ] ͟ ͟ ͟ ] ͟ , ] ͟ ͟ ͟ ] ͟ , ͟ ͟ ͟ ͟ , ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ . ͟ ͟ ] ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ , ͟ ͟ ͟
͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ , ͟ ͟ đ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ] đ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ] ͟ ͟ đ͟ ͟ ͟ ”.
. ͟ ͟ đ ͟ ͟ "Đ͟ ͟ " ͟ ͟ ] ͟ ͟ ͟ , ͟ , ͟ ͟ ͟ ] đ͟ ] ͟ ͟ , đ͟ ͟ :
"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…"
- Vẻ đẹp hiển hiện trước tiên là những dòng sông. Mượn một câu hỏi tu từ kết hợp thán
từ: “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu”, Nguyễn Khoa Điềm bày tỏ cái nhìn ngưỡng
mộ trước vẻ đẹp lấp lánh, kì diệu ,mĩ miều của sông nước. Văn hóa Việt Nam gắn liền
với những dòng sông, chẳng nơi nào trên khắp dải đất hình chữ S này không gắn với
một dòng sông, tuy nhiên về đặc điểm địa lí, hầu hết các dòng sông lớn như sông Hồng,
sông Mê kông... đều bắt nguồn từ các nước lân cận. Nhưng tất cả các dòng sông khi
chảy đến mảnh đất quê hương ta đều "bắt lên câu hát", có giọng điệu riêng, như một
sinh thể có linh hồn và tính cách.
- Mang đến vẻ đẹp cho dòng sông ấy chính là vẻ đẹp của con người Việt Nam “ Người
đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác”. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ
đến những câu hò man mác, da diết và sâu lắng về quê hương được cất lên từ dòng
sông Lam, nhớ những câu hò mái chèo mái đẩy xứ Huế trên dòng Hương cứ xoáy vào ký
ức, xoáy vào tiềm thức, đánh thức chiếc nôi, khóm trúc, mái đình, nhớ cả câu hò đối
đáp trên sông đậm chất hào sảng gợi lên từ mênh mông sông nước, từ tâm hồn hiền
hậu thủy chung cũng như lối sống phóng khoáng, nồng hậu của con người Nam Bộ trên
sông Tiền, sông Hậu... Và trong suốt cuộc trường chinh chống giặc ngoại xâm thì “tiếng
hát át tiếng bom”, trong thời bình lại là “Ta hát bài ca gọi cá vào” (Huy Cận).
- > “Đ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ , ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ℎ , ͟ ] ℎ͟ ℎ . ͟ ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ ] ℎ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ ] đ͟ ℎ͟ ℎ ”. ͟ “͟ ͟ " ℎ͟ ͟
ℎ Đ͟ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ͟ ͟ ] ͟ ℎ͟ , đ͟ ͟ ℎ͟ ͟ ℎ͟ ℎ
͟ ͟ ͟ ͟ ℎ͟ , ͟ℎ ͟ ] ] 54 ͟ ͟ ℎ ͟ ℎ ͟ ͟
đ͟ ℎ͟ ͟ ℎ ℎ͟ℎ “͟ ͟ , ͟ ͟” . ℎ͟ℎ ͟ đ ͟ ͟ ℎ ℎ͟ ] ͟ ℎ͟ ͟ đ͟ đ͟ ℎ͟
ℎ͟ ͟ đ͟ ] ͟ ͟ ͟ đ͟ ͟ đ͟ đ͟ ] ͟ ͟ ͟ . 3. ͟
Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, trang trọng; ý thơ giàu chất chính luận, ngôn ngữ
thơ mộc mạc,… từ những suy tư cảm xúc của nhà thơ, đoạn thơ đã khắc sâu cho chúng
ta những nhận thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước, về nhân dân. Đồng thời đoạn thơ
đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca đặc sắc nhưng không lấy lại nguyên văn mà sáng
tạo làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lý mang dấu ấn phong cách Nguyễn Khoa Điềm 4. ͟ ͟
Đoạn trích đã thể hiện cái nhìn mang tính phát hiện về Nhân dân của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm. Có thể nói, tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được một cách
sâu sắc Nhân dân là người làm nên lịch sử, làm ra văn hóa đất nước bằng tất cả tình
cảm trân trọng và yêu thương. Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ
thuật đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam.Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình
Chiểu, Phan Bội Châu …đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử.
Đến các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhận thức
ấy đã được nâng lên thành một tư tưởng có tầm cao mới. Chính cái nhìn mang tính phát
hiện về Nhân dân của nhà thơ trẻ Nguyễn Khoa Điềm cho thấy vị trí, sức mạnh của
Nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước; bồi dưỡng thêm tình yêu Tổ quốc
và niềm tự hào về con người Việt Nam cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong thời đaị hôm nay. . ͟ ͟
"Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới" (Pautopxky). Kỳ diệu
làm sao khi cảm xúc được ngân lên thành thơ, thành nhạc, khi tiếng lòng ta được soi
bóng trong những mảnh hồn thơ ca. Văn học sinh ra để cho đời thêm hoa thơm trái
ngọt, cho sự sống vút cao trên mỗi trang văn, trang thơ. Đoạn trích "Đất nước", trích
trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm chính là những trang thơ
hướng chúng ta đến một tình cảm đẹp đẽ ấy là tình yêu quê hương, đất nước. Để từ khi
đọc nó, nếu có ai hỏi tôi hai tiếng thiêng liêng nhất mà tôi biết là gì, tôi chẳng ngần
ngại mà trả lời đó là "Đất Nước". 4. THÊM ĐOẠN NI NỮA “Trong anh và em hôm nay ………….
Làm nên Đất Nước muôn đời” . Mở bài
- “Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm
Ta đã lớn rồi, chín đầy hy vọng
Hãy ngã xuống tay Nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng
Hỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi”
Đây là những vần thơ ca ngợi nhân dân đất nước thiết tha mà nhà thơ trữ tình chính luận Nguyễn
Khoa Điềm đã viết trong trường ca "Mặt đường khát vọng".
- Thơ ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước của thế hệ thơ trẻ
những năm chống Mĩ cứu nước nên đã lay động trái tim và thuyết phục về lý trí của người đọc.
Tiêu biểu cho điều này là trường ca “ Mặt đường khát vọng”, trong đó nổi bật là chương “Đất
Nước”. Chỉ một chương nhưng “Đất Nước” như một bài thơ trọn vẹn về nội dung và đặc sắc về nghệ thuật.
- Đến với đoạn thơ đặc sắc sau, ta sẽ cảm nhận được mối quan hệ giữa cá nhân và đất nước cùng
trách nhiệm của mỗi cá nhân với Đất Nước được thể hiện rất rõ qua đoạn thơ sau đây: “Trong anh và em hôm nay ………….
Làm nên Đất Nước muôn đời” II. Thân bài A. Tổng
- Đoạn thơ vẫn nằm trong mạch cảm xúc về đất nước, nhân dân và để thể hiện tư tưởng đất nước
của nhân dân. Nếu ở các đoạn thơ trước nhà thơ đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi Đất nước có tự
bao giờ? Đất nước tồn tại ở đâu? Đất nước lớn lên như thế nào? và cảm nhận đất nước một cách
đa chiều trong chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí, chiều sâu về văn hóa phong tục thì đoạn
thơ này lại cho chúng ta thấy đất nước có trong mỗi con người, hài hòa giữa cái chung và cái
riêng, cái cá nhân và cái tập thể, là sự nối tiếp của các thế hệ. Từ đó nhà thơ đã nêu rõ trách
nhiệm của mỗi người với đất nước.
- Trong suốt đoạn trích và đoạn thơ này nhà thơ viết hoa hai chữ Đất Nước khiến nó trở thành
một mĩ từ gợi sự thiêng liêng, cao cả, bộc lộ sự tự hào, yêu mến về đất nước. Hình thức đoạn thơ
là lời tâm tình của anh và em và với 13 câu thơ sử dụng cấu trúc tổng phân hợp, chất trữ tình hòa
quyện với chính luận khiến đoạn thơ viết về đất nước mà như lời thổ lộ, tâm tình của đôi lứa yêu nhau. B. Phân
1. Mở đầu đoạn thơ là lời khẳng định Đất Nước kết tinh và hóa thân trong cuộc sống mỗi người: “Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
- Giọng thơ tâm tình cùng lối xưng hô “anh – em” khiến lời thơ trở nên ngọt ngào, tha thiết, như
lời nhắn nhủ thủ thỉ, chân tình của đôi lứa yêu nhau. Đất Nước đã hóa thân trong mỗi người, trở
thành một phần tâm hồn, trí tuệ của mỗi chúng ta. Đất Nước hiện diện trong “anh”, trong “em”,
qua màu tóc, màu da, qua lời ăn tiếng nói, qua cung cách ứng xử . Đất Nước còn là đồng lúa, là
cánh cò, là gạo để ăn, là dòng nước để uống, là ngôn ngữ để giao tiếp, hay khi “Thoáng thấy áo
dài bay trên đường phố - Sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó…”
- Cách xưng hô ấy còn khẳng định những cá nhân trong một đất nước thân thiết, gắn bó như anh
em một nhà. Cụm từ “đều có” đã xác định Đất Nước kết tinh và tồn tại trong cuộc sống của mỗi
cá nhân; mỗi cá nhân đều thừa hưởng di sản văn hóa và tinh thần, vật chất của Đất Nước. Chỉ
"một phần" đất nước nhỏ bé bên trong mỗi con người ấy thôi nhưng đủ làm ta xúc động, tự hào vì
nhận ra mình đã góp phần làm nên đất nước.
Lời thơ giản dị mà sâu xa, thấm thí đã khái quát một chân lí mới mẻ: Đất nước tồn tại trong mỗi
con người, mỗi cá nhân. Đất nước không chỉ là hình dáng non sông là không gian địa lí hay thời
gian lịch sử; Đất nước còn là con người - những con người cụ thể có mối quan hệ máu thịt với quê hương.
2. Nhà thơ đã mở rộng nội dung, nhấn mạnh mối tương quan giữa cá nhân với Đất Nước, giữa cái
chung và cái riêng, cái cá nhân và cái tập thể: "Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn"
- Hình ảnh “hai đứa cầm tay” gợi lên tình cảm lứa đôi tha thiết, gắn bó. Cầm tay là một hành
động thể hiện tình cảm thắm thiết, yêu thương và tin cậy, là giao duyên.Trong anh và em đều có
một phần là đất nước nên khi hai đứa cầm tay nhau thì phần đất nước trong cả hai hòa nhập làm
một, tạo nên sự hài hòa, nồng thắm. Trong cái cầm tay ấy hóa ra không chỉ có tình yêu đôi lứa mà
còn có tình yêu quê hương đất nước. Sự hài hòa của tình yêu đôi lứa với tình yêu quê hương đất
nước cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện trong những câu thơ rất hay về tình yêu:
“Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”. .
- Đất Nước không chỉ hóa thân trong tình yêu đôi lứa mà còn lớn mạnh, hùng cường nhờ tinh
thần đoàn kết Hình ảnh “chúng ta cầm tay mọi người” gợi liên tưởng đến tình đoàn kết dân tộc,
sự gắn kết giữa người với người. Khi “chúng ta cầm tay mọi người”, khi mọi người làm thành
một khối, khi đã “Nối vòng tay lớn” thì Đất Nước sẽ “vẹn tròn to lớn”, sẽ trường tồn, phát triển.
Đó chính là sức mạnh “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” của người Việt Nam. Sức mạnh to lớn
ấy đã được ông cha ta đúc kết trong câu ca:
“Một cây làm chẳng nên non
Hai cây chụm lại nên hòn núi cao”
Tố Hữu cũng đã khẳng định "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"
Bốn câu thơ kết hợp thành hai câu điều kiện – kết quả thể hiện tình yêu nhân dân với tình yêu đất
nước, giữa cá nhân với cộng đồng. Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ; cách sử dụng các cụm
tính từ đi liền nhau “hài hòa, nồng thắm”, “vẹn tròn, to lớn”; đặc biệt là biện pháp lặp cấu trúc
“Khi. .Đất Nước. ." tạo sự cân xứng, liền mạch, làm cho ngôn từ trở nên uyển chuyển, linh hoạt
và có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc.
--> Từ đó, đoạn thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thông điệp: Tình yêu quê hương, đất nước
và tinh thần đoàn kết dân tộc là những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh Việt Nam. Đồng thời
ý thơ là điểm mới trong cách suy tưởng của NKĐ, tầm vóc đất nước không chỉ được tạo nên bởi
biên giới, lãnh thổ, tiềm lực kinh tế chính trị, quân sự mà tầm vóc đất nước được tạo nên từ tinh
thần đoàn kết của mọi cá nhân trong cả cộng đồng.
3. Trong tâm trạng dạt dào cảm xúc về Đất Nước, nhà thơ đã bày tỏ niềm kì vọng vào thế hệ tương lai: “Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
- Trước hết, ba câu thơ thể hiện những cảm nhận về đất nước trong mối hệ giữa các thế hệ. Ở
đoạn thơ trước, khi nhắc về chiều dài lịch sử của đất nước nhà thơ đã nhắc đến bao nhiêu thế hệ
đi trước trong quá khứ (những ai đã khuất), nhắc đến những thế hệ của hôm nay (những ai bây
giờ), thế hệ tương lai (con cháu mai sau) và đến đoạn thơ này nhà thơ lại nhắc đến ta của hôm nay
và "mai này" của "con ta", tức là nhắc đến một tương lai gần. Hai chữ mai này là cách nói về
tương lai của người Huế. Một loạt hình ảnh mang tính biểu tượng “lớn lên”, “ mang Đất Nước đi
xa, tháng ngày mơ mộng” thể hiện cảm xúc dạt dào và ước mơ bay bổng của tác giả về niềm tin
và kì vọng vào thế hệ mai sau. Họ sẽ là những người phát huy thành quả của cha ông, tiếp thu cái
mới bằng sức mạnh nội lực và khai phóng trí tuệ để Đất Nước thêm giàu mạnh. Đất nước mà nhà
thơ Thanh Hải đã mơ mộng: “Đất nước như vì sao – Cứ đi lên phía trước”.
- Giọng thơ tràn đầy niềm tin, sự hi vọng của tác giả vào thế hệ tương lai - những con người sẽ
tiếp tục “Gánh vác phần người đi trước để lại”, đưa đất nước phát triển, sánh ngang với các cường
quốc trên thế giới. Tứ thơ có ý nghĩa gd các thế hệ trẻ ý thức rạng danh Tổ Quốc
Khi đặt những câu thơ đầy khắc khoải này của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm vào bối cảnh lịch sử
những năm 1971, khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ đang bước vào giai đoạn ác liệt, ta mới
thấy lời nhắn nhủ tha thiết như một khát vọng cháy bỏng. Đó không chỉ là niềm mong mỏi của
riêng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, mà còn là ước mong của hàng chục triệu trái tim người dân Việt Nam.
4. Khép lại đoạn thơ là lời nhắn nhủ về trách nhiệm của mỗi cá nhân với Đất Nước vì Đất nước là
máu, là xương, là huyết lệ nên mỗi con người phải có ý thức trách nhiệm với đất nước
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đờ”
- Theo Eptusencô, thơ ca đồng thời phải mang chức năng “thức tỉnh lương tri đang ngủ” phải
khiến con người biết căm giận và biết ước mơ. Có những lúc thơ ca biến thành vũ khí độc đáo
giúp con người đấu tranh với cái ác để bảo vệ chính nghĩa và cái đẹp của cuộc đời. Ý thức được
sứ mệnh ấy của thơ ca, với đoạn thơ này nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thức tỉnh thế hệ trẻ vùng
đô thị tạm chiếm miền Nam, giúp họ thấy được trách nhiệm của thế hệ mình trước non sông đất nước.
- Tiếng gọi “Em ơi em” tha thiết như một lời tâm tình thủ thỉ xuất phát từ tình cảm chân thành.
Câu thơ thật ngọt ngào đã giúp người đọc nhận thức được trách nhiệm của bản thân với Đất Nước
mình. Nguyễn Khoa Điềm đã có một định nghĩa rất mới: Đất Nước là máu xương của mình: Đối
với mỗi người, máu xương là yếu tố cần thiết cho sự sống. Phép so sánh độc đáo này có hàm ý
khẳng định: Đất Nước là sự sống thiêng liêng, cần thiết đối với mỗi con người nên giữa con
người với Tổ quốc có mối quan hệ gắn bó, không tách rời, thiêng liêng, máu thịt Cùng chung cảm
xúc này, nhà thơ Giang Nam đã chia sẻ :
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi” (Quê hương)
- Trách nhiệm đối với Đất Nước cũng chính là trách nhiệm đối với bản thân bởi mỗi con người «
đều có Đất Nước » và gắn bó với đất nước bằng tình yêu thiết tha. Những động từ diễn tả hành
động được liệt kê dồn dập “gắn bó – san sẻ - hóa thân – làm nên” đã nêu bật trách nhiệm của mỗi
cá nhân nói chung và tuổi trẻ nói riêng với Đất Nước. các động từ được đặt trong cấu trúc tăng
tiến đã cụ thể hóa trách nhiệm của mỗi cá nhân. Khi ĐN vất vả, gian khó hãy cùng nhau san sẻ và
gánh vác bằng tấm lòng nhân ái và ý thức xây dựng.
- Từ “hóa thân” gợi ra nhiều trường nghĩa. Hóa thân vốn là quan niệm của nhà Phật, có nghĩa là
nhập vào hay biến thành. Hóa thân như cô Tấm trong truyện cổ tích "Tấm Cám", như anh em nhà
họ Cao hóa thành cây cau và tảng đá, còn người vợ hóa thành cây trầu leo quanh cây cau trong
truyện cổ tích "Trầu cau". Nhưng hóa thân thành đất nước thì phải như anh giải phóng quân trong
bài thơ "Dáng đứng Việt Nam" của Lê Anh Xuân, như sự hóa thân của người con gái trong "Núi
đôi" của Vũ Cao, hay cô gái hóa làn mây trắng trong thơ Lâm Thị Mĩ Dạ. Hóa thân nghĩa là khi
ĐN cần hãy gác lại tình riêng “khi tổ quốc cần / họ biết sống xa nhau – Nguyễn Mĩ”, và biết hi
sinh nếu TQ cần. Từ đắt giá này không chỉ phù hợp với màu sắc văn hóa dân gian của toàn đoạn
thơ mà còn diễn tả thật cảm động sự tự nguyện hiến dâng của cá nhân để hòa nhập cùng sự sống còn của đất nước :
“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”. (Chế Lan Viên)
Dân tộc ta đã có biết bao người hi sinh để bất tử cùng non sông, để Làm nên Đất Nước muôn
đời… Trai thời Trần thì Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu, là người nông dân với gậy tầm vong
…, là Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, là 10 cô gái thanh xuân Ngã ba Đồng Lộc đã ngã xuống …
- Điệp ngữ “phải biết” vừa là một mệnh lệnh của trách nhiệm vừa là lời giục giã của trái tim để
mỗi ngưởi phải biết gìn giữ di sản mà ông cha để lại, đem tâm huyết, tài năng và cả đời sống để
sát cánh cùng đất nước, hi sinh cho tổ quốc.
-->Nhà thơ đã thay mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình tuổi
trẻ. Đó cũng là lời đáp cho câu hỏi mang tính chính luận về sự trường tồn của Đất Nước. Đất
Nước bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con người tràn đầy nhiệt huyết tuổi thanh xuân, biết
sống có trách nhiệm với thời đại và có khát vọng về tương lai trường tồn của Đất Nước. C. Hợp:
Những câu thơ dài ngắn không đều, nhịp thơ linh hoạt không bó buộc, chất chính luận kết hợp
với trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng cùng với các biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tác
động đến nhận thức và gợi nhiều xúc cảm cho người đọc. Đoạn thơ sáng ngời niềm tin về tương
lai đất nước và tiền đồ tươi sáng cùa dân tộc, in đậm tính công dân của thời đại mới để mỗi người
sẽ tự vấn: Đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta. Mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ Quốc hôm nay… D. Nhận xét
Trong quan niệm về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, mối quan hệ giữa cá nhân và cộng
đồng được lí giải thấu đáo, giàu cảm xúc. Đất Nước hóa thân, kết tinh trong mỗi con người. Đất
Nước là sự sống của mỗi con người. Đặt ra mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong quan
niệm về Đất Nước cho thấy cái nhìn rất mới mẻ, độc đáo, chân thành, tha thiết của Nguyễn Khoa
Điềm. Đó cũng là lời nhắn nhủ mỗi cá nhân phải ghé vai vào gánh vác trách nhiệm với Đất Nước.
Từ đó tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm và thành công của trích
đoạn Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng). Đồng thời góp phần phát triển thơ ca VN thời kì KCCM. III. Kết bài
"Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới" (Pautopxky). Kỳ diệu làm sao
khi cảm xúc được ngân lên thành thơ, thành nhạc, khi tiếng lòng ta được soi bóng trong những
mảnh hồn thơ ca. Văn học sinh ra để cho đời thêm hoa thơm trái ngọt, cho sự sống vút cao trên
mỗi trang văn, trang thơ. Đoạn trích "Đất nước", trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm chính là những trang thơ hướng chúng ta đến một tình cảm đẹp đẽ ấy là tình
yêu quê hương, đất nước. Để từ khi đọc những vần thơ ấy, nếu có ai hỏi tôi hai tiếng thiêng liêng
nhất mà tôi biết là gì, tôi chẳng ngần ngại mà trả lời đó là "Đất Nướ
Document Outline
- Những nhận định hay về Nguyễn Khoa Điềm
- Nhận định hay về đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Kh
- MỘT SỐ BÀI PHÂN TÍCH HAY VỀ ĐẤT NƯỚC
- B.PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ
- Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nướ
- I.MỞ BÀI
- II.THÂN BÀI
- 1.Khái quát
- 2.Phân tích đoạn thơ
- 3.Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
- Cảm nhận đoạn thơ:
- . Mở bài