!
"
#
ĐT CÂ U HI
Phân tích nhớ như nh người yêu
Việt Bc là một trong nhng c phm thơ ca ch
mạng lớn nổi tiếng của n thơ T Hữu. Trong
đó trích đoạn Nhớ như nh người yêu” thể
hin tình yêu nhân dân Việt Bắc nồng nàn, sâu
đm, li cm ơn chân thành ca tác giả tới đng
bào Việt Bắc trong những năm trường kì kháng
chiến. Đoạn trích này thường được đưa vào bài
thi, kim tra. ng Top li gii tham khảo bài
mẫu phân ch i đây đ khi trin khai đ i
chính xác v ni dung.
Mục lc nội dung
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu
-
Bài mẫu 1
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu
-
Bài mẫu 2
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu
-
Bài mẫu 3
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu
-
Bài mẫu 4
Phân tích nhớ gì như nhớ người
u - Bài mẫu 1
T Hữu là nhà thơ cách mạng lớn, con chim
đu đàn” ca thơ ca Các mng thế k 20. S
nghiệp thơ ca của Tố Hữu gn lin với những năm
kháng chiến trường kì của đt nước. c bài thơ
ca ông nội dung ch yếu phn ánh chng đường
trưởng thành ca c mạng, gii png dân tc.
Một trong những tp thơ ni tiếng nhất của Tố
Hữu là Việt Bắc. Trong đó, tiêu biu là bài thơ
Việt Bắc” một kc nh ca về các mạng, cuộc
sng kháng chiến, con người kháng chiến. Đặc
bit, Phân tích đoạn thơ nhớ như nhớ nời u
thể hiện tình cm sâu nặng với nhân dân, đất nước
và nim t hào dân tc.
Nh nnh người yêu
Tng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nh tng bản khói cùng sương
Sm khuya bếp lửa người thương đi về
Nh từng rừng nứa b tre
Ngòi Thia, sông Đáy, sui lê vơi đy.
Ta đi ta nh nhng ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau, chia c sắn lùi
Bát cơm s nửa, chăn sui đp ng.
Nh người m nng cháy lưng
Địu con lên rẫy, b từng bp ngô.
Việt Bắc, vùng đất cách mạng, nơi đã u
mạng những người chiến sĩ cộng sn, đảng n
nước 15 m trời. Cuộc kng chiến kết thúc,
đng và các chiến sĩ phải rời v Nội. i thơ
được sáng tác trong hoàn cnh chia li n những
câu thơ giản dị, cn thành và tìnhcm sâu nng.
Hầu hết toàn bộ nội dung bài thơ đều ghi li
những tình cm lưu luyến ca nời cán bộ và
nhân dân. Đây cũng lời khng định nh cm
thủy chung, son sc của người cán b với Việt
Bc. Trong đó, một trích đon Nhớ gì như nh
người u những tâm nh khắc cốt ghi tâm,
thể hin rõ nht tình u của người cán bộ dành
cho đng o Vit Bắc q hương th 2 y.
Nh nnh người yêu
Trăng lên đầu núi, nng chiu lưng nương
Phân tích đoạn thơ nhớ gì n nh ni
yêu Nếu ai đã từng yêu thì chắc hẳn biết, nỗi
nh nời yêu da diết trin miên thế nào. Chng
phải vì thế rt nhiu bài thơ, bài hát nói về nỗi
nh người yêu đầy da diết, sâu nng. Đã từng có
lời bài hát thế này: Ôi những đêm ngắm trăng.
Nh em buồn muốn khóc trích trong bài hát
Ngu hứng lý qua cầu. Qua đây ng khẳng đnh
ni nh người yêu nỗi nh nồng nàn, da diết
đến độ người thương cũng phi bật khóc vì q
nhớ. Vậy Tố Hữu đã ví ni nh những con
người Việt Bắc không khác ni nhớ người yêu,
ni nh da diết trìu mến i không thôi. Đó là nỗi
nh nn dân, những con nời lao đng cưu
mang cho anh b đi Cụ Hồ 15 năm qua. Đó ng
nỗi nhớ về vùng quê bình yên, được gọi là quê
hương thứ 2 của những người chiến sĩ cộng sn.
Qua hai u thơ chúng ta vừa cảm nhận được
ni nh của T Hữu dành cho người dân nơi đây
nng nàn tha thiết thế nào. ch s dng hình nh
người yêu đ ví nỗi nh thể hiện sắc thái cao nhất
ca nỗi nhớ. Câu thơ th hai Tố Hữu sử dng
phép tiu đối: Trăng lên đu núi/ nắng chiu lưng
nương” th hin nỗi nh đêm ngày, bao trùm c
không gian lẫn thời gian. Cho thy nỗi nh lớn lao
và rất rng.
Nh từng bn khói cùng sương
Sm khuya bếp la người thương đi v
Ni nh Việt Bc kng chỉ như nời
yêu, không ch là ánh trăng, nng lưng chiu
đó còn hình nh quen thuộc cảu bản làng. Nhớ
những chiu khói bếp nghi ngút trng trời xen lẫn
sương khuya, hình nh đẹp, ma m như một bc
tranh đồng quê chân thc, mộc mc. Nỗi nhớ Việt
Bc trong lòng người đi n hình nh bếp lửa.
Đây một hình ảnh rt d gây xúc động. Bếp la
i m cúng, là tình yêu gia đình, là tình yêu
người thương, nơi đây có người thương đi v
trong bếp lửa. Hình nh bếp lửa gợi ra mt i ấm
hin hữu trong bóng dáng người thương nng
đượm ân tình.
Vy là ni nhớ của Tố Hữu rt hin thực,
chân thành. Không phải là nhng gì quá to tát, cao
sang, núi rừng quá ng chỉ là những hình
nh đơn sơ, mộc mạc thấm đượm tình cm,
hình ảnh bếp lửa, người thương đi về.
Nh tng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối lê vơi đy.
Ni nh ca tác giả với đồng bào Min Bc
tiếp tc hình ảnh các đa danh quen thuộc như
Ngòi Thia, Sông đy, suối lê, đây là những s kin
và du ấn ch mạng không th o quên. Nếu
câu trên là rừng na b tre đơn sơ giản d quen
thuc, thì câu sau lại nhng hình nh nghĩa
nng tình u, những dấu ấn quan trng của ch
mạng. C hai câu thơ tưởng đối lập li hỗ tr
hp nhau đến l, cho thy nh cm của tác gi
dành cho Vit Bắc rt nhiu kng quên bt kỳ
chi tiết nào
Đặc bit ch vơi đy đây chính là cái vơ
đy ca sông suối nng cũng chính là cái vơi đầy
ca lòng ni, ca nỗi nh trong tâm trí nời ra
đi.
Ta đi ta nh nhng ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau, chia c sắn lùi
Bátcơm s nửa, cn sui đắpcùng.
Ta đây chính là nhà thơ. S dng đi t Ta
đ chỉ s chung chung, không rõ là ai nng ng
tt cả. Đó chính nhng người chiến sĩ cộng
sn sp rời xa mảnh đt quê hương th 2 nhiều
bâng khuâng, nhớ nhung da diết. Khi sp rời xa
Việt Bắc , ni nh li ng trào nh v những kỷ
nim cả đắng cay và ngọt bùi. 15 năm núi
rừng Việt Bắc, ăn rng núi thì chc chắn phải
nhiu kỷ niệm vui buồn khác nhau. Đó là những kỉ
nim vi đồng bào Việt Bắc, ni nh lại tràn v
hình nh c sắn khoai , hình nh bát cơm s
na, chăn sui đắp cùng. Những hình nh thân
thương trong gian khó sao ấm lòng. Nỗi nhớ
dường như đang thường trực trong trái tim những
người chiến sĩ cộng sn, những anh b đi c h,
đ rồi giây phút chia li đến, những hình nh y
càngrõ nét hơn.
Càng trong gian khó người ta li càng
thương nhau, khi chia xa li càng nhớ nhau. Nỗi
nh y có th ví như nỗi nhớ nời thân, u
ruột. Sắp chia li không biết bao giờ gp li nên T
Hữu c gng ghi nh những khoảnh khắc tuyệt vời
y.
Nh người m nng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bp ngô.
Để rồi hình ảnh người mẹ hin ra. Đó là hình
nh đẹp nht, dịu dàng mà mạnh m nht. núi
rừng Tây Bắc đời sng khc nghit, bà con phải đi
làm ry t ng đến tối. Thường tr nh s được
mẹ đu vào nời và đưa lên ry. Đây là hình ảnh
vô cùng thân thuộc đã tng đi o thơ ca, bài hát:
Mẹ thương akay, mẹ thương làng đói
Con cho mẹ ht bắp lên đều, à ơi, à ơi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nh
Đừng làm m ngã, mẹ tra bp trên nương
Hình ảnh em bé Akay ngủ trên lưng mẹ đã đi
vào thơ ca bài hát. Mt hình nh quen thuc ca
núi rừng Việt Bắc là hình nh Tố Hữu kng
thể quên. Trong kháng chiến chng Pháp nời
dân Vit Bắc đã cùng đng nhà nước chng gic
ngoại xâm trong hn cnh vô cùng vt v, khó
khăn v vt cht. Hình nh mẹ đu con lên ry
trong cái nắng chói chang cho thấy cuộc sng vô
cùng vt vả vy họ vẫn không ngại kh, ngi
khó đ nuôi cán b chng gic.
đây, không chỉ tình cm nh thương
T Hữu dành cho người dân miền núi Vit Bắc
còn là sự biết ơn, trân trng những hi sinh
đng bào Vit Bắc đã nh cho đảng, nhà nước,
các chiến sĩ cách mạng. Kháng chiến thành công
một phn nh vào sức mạnh ca nhân dân Việt
Bc. Nếu không có họ thì sao có th một chiến
thắng vinh quang cho dân tc.
C đon thơ mang đậm u sắc dân tộc, th
hin hn thơ T Hữu. Đặc bit tác gi sử dng
liên tiếp điệp khúc Nh cho thy nỗi nh dạt dào
vô tn. Đọc đoạn thơ lên ta cảm thy cùng ngọt
ngào tình cảm thm dn tình u thương, các hình
nh Việt Bắc liên tc hiện ra như một đoạn phim
quay chậm càng nn lên nim thương nhớ tn.
Việt Bắc không đơn giản chỉ là mảnh đất tm thời
ca những nời chiến cộng sn còn là
quê hương th 2: Khi ta ở, chỉ nơi đt ở. Khi ta
đi, đt đã a m hn”. Đúng vy, trong từng lời
thơ Tố Hữu Viết, Vit bc như một nửa tâm hồn
ca tác giả, đó đã tr thành nơi gắn yêu thương
khó thể tách rời. Nay sp xa ri nên bn rịn,
bâng khuâng, nh nhung và kng nỡ. Vậy n,
từng hình nh c hin ra, hin ra k có th nào
quên.
Đon thơ ngắn nhưng đã th hin thành công
nh cảm dành cho nhân dân Vit Bắc, là bn tình
ca v lòng sắt song chung thy. Đây không ch là
tấm lòng ca tác giả mà còn tm lòng ca
những người chiến sĩ đã từng đây được mảnh
đt này u thương, đùm bc. Tht không hề nói
quá khi nói Tố Hữu ngọn c đầu ca thơ ca
cách mạng Việt Nam. Những lời thơ đơn giản mà
chân thành, mộc mạc mà đm sâu.
Phân tích nh như nh người
u - Bài mẫu 2
T Hữu nhà thơ tr tình chính tr sự
nghiệp của ông gắn lin vi s nghip cách mạng.
Thơ ông phản ánh chng đường gian kh và
những chiến thng vang di của dân tc. Ông vn
dng tài tình khéo léo th thơ lc bát truyn thống
và tiêu biu đó bài thơ Việt Bắc đã th hin
những k nim năm tháng kng chiến . Một trong
những đon thơ tái hin tình cảm thy chung son
st, lòng biết ơn chân thành và ghi lòng tc d ca
người cán b về xuôi trước tm chân tình của nhân
dân Việt Bắc được th hin ràng qua đon :
nhớ như nh người yêu
.............
mình đây ta đó đắng cay ngt bùi
Việt Bc sáng tác tháng 10 năm 1954 khi
cuộc kháng chiến chống thực n Pháp dành thắng
lợi Trung ương Đảng và Chính ph rời t chiến
khu Vit Bắc về th đô Nội. Bài thơ được viết
trong cuộc chia tay lưu luyến khắc khoải khôn
nguôi và được in trong tập thơ cùng tên. Ông tái
đã s dng th thơ truyền thống giọng thơ mang
đmcht dân gian làm tăngthêm nỗi nhtha thiết.
Một nỗi nh da diết, không ngi được tác
gi hình dungthật l:
Nh gì như nh người yêu
Trăng lên đầu núi, nng chiu lưng nương.
Mt ch “gì” hàm chứa biết bao điu, phi
chăng đó chính là nỗi nhớ thiên nhiên, với nhân
dân cùng quãng thi gian kháng chiến đy p k
nim. Nhớ như nh người u”, hình nh so sánh
thật đầy ý nghĩa, nỗi nhớ sao thật dai dng trin
miên, luôn thường trực trong tâm trí. Một khung
cnh hiện ra đã hoàn toàn khẳng đnh đi tượng
được nh đến - Vit Bắc: ”Tng lên đầu núi, nắng
chiu lưng ơng” ri sau đó những hình nh
miêu t không gian thơ mộng đm cht núi rừng
Việt Bắc:
Nh từng bn khói cùng sương
Sm khuya bếp lửa người thương đi v
Hình ảnh thiên nhiên Việt Bc được lit kê
đến từng chi tiết. Rõ ràng tác gi vẫn nhớ rt rõ
những kỷ niệm ng khung cảnh Việt Bc. Người
thương, hai chữ thôi nhưng chứa đng biết bao
ân tình. Đây chính là những con người VIT BC
đã cưu mang, che ch cho cán b trong sut một
quãng thi gian dài gian khó. Bếp lửa hình
nh của một gia đình m cúng thường thấy, Phi
chăng tác giả đã xem nơi đây như là gia đình th
hai ca nh.Vần chân sương” và người
thương làm cho giọng điệu câu văn tr nên da
diết, din t mt nỗi nh bn rn, lưu luyến, không
mun rời xa. Vẫn tiếp tc nỗi nh, nhưng ờng
như ngày càng sâu đậm hơn với những tên gi đa
danh gắn lin với q kh cách mng tác giả
từng trãi qua:
Nh từng rừng na b tre
Ngòi Thia, sông Đáy, sui vơi đy.
Nh nhng th thân thuộc khi ngày ngày gắn
bó, vi những đa đim hết sức ni tiếng n :
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” , suối Lê” đây
chính suối Lê Nin. Lại tr v vi cách xưng hô
mìnhvà ta :
Ta đi, ta nh những ngày
Mình đây, ta đó đng cay ngt bùi
Đắng cay ngt i là những khó khăn gian
kh vt v , Mình đây, ta đó đng cay ngọt
bùi…” đây mun chỉ những người chiến sĩ và
người dân Vit Bắc đã cùng nhau tri qua những
khó khăn, gian khổ, h đã cùng tri qua. Với vic
s dụng ng tạo hai đi t “mình, ta với lối đi
đáp giao dun trong dân ca. Tng nỗi nhớ n
tràn ngập trong tâm hồn Tố Hữu biu hiện cho
một tình cảm sâu nng tựa n ni tương tư đến
nời thương”. Đip t nhớ” được lp đi lặp li
càng khắc sâu hơn s nh nhung nghìn trùng tha
thiết của c gi đi với Vit Bắc.
Giọng thơ nn t mang đạm cht dân gian kết
hp với thể thơ truyền thống lc bát ca dân tc
làm cho lời thơ thêm diuh dàng, nh nhàng thm
thiết. s dụng các bin pháp tu t tái hin li v
đp k nim thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Là người, ai chẳng có trong tim nh
một min đt đ nh đ thương. Bởi Khi ta chỉ
nơi đt Khi ta đi đt đã hóa m hồn”. Có lẽ
vì thế quê hương cách mạng Vit Bắc đã
không ngần ngi chắp cánh cho hn thơ Tố Hữu
viết nên thi phẩm cùng tên ny nay cng ta
vn nâng niu trên tay như một hòn ngọc quý
Phân tích nh như nh người
u - Bài mẫu 3
T Hữu là n thơ lớn ca dân tc, là "con
chim đầu đàn" ca thơ ca Cách mạng Việt Nam
thế kỉ XX. S nghiệp thơ ca của Tố Hữu gắn lin
vi sự nghip cách mng, thơ ông luôn gn và
phản ánh chân tht nhng chặng đường cách
mạng. Nhc đến ông, ta chng th nào quên được
những tp thơ: T ấy, Việt Bc, Ra trận, u
hoa,... Tiêu biu trong s đó là bài thơ "Việt Bắc",
kc tình ca v cách mạng, v cuộc kng chiến
và con nời kháng chiến. Thể hiện s gn bó, ân
nh sâu nặng với nhân dân, đt nước trong nim
tự hào dân tc. Đặc biệt đoạn trích
"Nh n nh người yêu
....
Bước chân nát đá, muôntàn la bay".
Vit Bắc là khu căn c của ch mạng Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp. Chiến dịch
Điện Biên Ph kết thúc thng lợi. Tháng 7/ 1954,
hip định Giơ-ne-vơ v Đông Dương được kí kết.
a bình lp lại, min Bắc được gii phóng và đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hi. Tháng 10/ 1954,
Đảng Chính ph rời Việt Bắc v Hà Nội, những
người kháng chiến (trong đó có T Hữu) t căn c
miền núi v min xuôi chia tay Việt Bắc, chia tay
khu căn cứ Cách mạng trong kháng chiến. Nhân
s kiện nh lch s này T Hữu sáng tác i
thơ “Vit Bắc”. Bài thơ Vit Bắc” là đnh cao của
thơ ca kng chiến chống Pháp.
Chia xa mảnh đất mình từng gn , ai
chng nhớ chẳng thương. Thế nng hiếm có thi
sĩ nào mang trong tim nỗi nhớ tha thiết, khc
khoải, cháy bỏng khi dã t chiến khu Việt Bắc:
Nhớ gì như nh người yêu. Một dòng thơ
hai ln chữ nhớ được láy li. Nỗi nh cứ lơ lửng
ám nh i tâm trí người đi đến mức không thể
kìm nén được. Lời thơ buông ra với ng điu hết
sc đặc biệt, na như nghi vn, nửa n cảm thán
tạo n tượng, ám nh nời đc. Như nh nời
yêu” là hình nh so sánh, von thật lãng mạn,
nh tứ. Nỗi nhớ Vit Bắc được cảm nhận như nỗi
nh thương nời yêu. khi ngẩn ngơ, n
ngẩn; có khi bồn chồn, bi ri, bi hi, bồi hồi.
Khi da diết khắc khoải, khi lại đau đáu thăm thm.
Nỗi nh khi chia xa Việt Bắc phải chăng hàm cha
mọi cung bc cm xúc y. Một nỗi nhớ nồng nàn,
đm thắm, tha thiết. Với hình nh so sánh này, Tố
Hữu thc s là một tình nhân đắm đuối trước Việt
Bc, trước nhân dân đất ớc mình. ng với
những câu thơ “Mình v nh nhớ ta Mười
lăm năm y thiết tha mặn nng, Áo chàm đưa bui
phân lí Cm tay nhau biết nói gì hôm nay, tứ
thơ Nh gì n nh người yêu đã đưa thi phm
Việt Bắc trở thành khúc tình ca bc nhất trong thơ
ca ch mạng. Qu không sai khi Xuân Diu nhận
xét: T Hữu đã đưa thơ chính tr lên đến trình độ
thơ rt đi tr tình. Khám phá câu thơ Nh gì
như nh người yêu”, ta bỗng v lẽ hiểu ra rằng li
kết cu đi đáp cùng cách xưng “ta mình
trong Việt Bc không đơn thuần là sáng to hình
thức, là câu chuyn nn ngữ. Tình cảm giữa cán
b ch mạng và đng bào chiến khu thiết tha,
mặn nng như tình đôi lứa khiến nhà thơ tìm đến
cách cấu t xưng n vậy.
Chy v trong ni nhniềm thương cảnh
sc Việt Bắc thơ mộng hin hòa:
Tng lên đầu núi, nng chiều lưngnương
Nh từng bn k cùng sương
Sm khuya bếp la người thương đi v
Nh tng rừng na, b tre
Ngòi Thia, sông Đáy, sui vơi đầy.
Những u thơ như một bức ha gợi cảm
v cnh rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình.
đêm trăng huyền o, mảnh trăng lp ló i đu
núi, những chiu tỏa nắng trên ơng hình
nh những nếp nhà, bn làng thp thoáng trong
sương khói bồng bnh. Không miêu t chi tiết, T
Hữu ch chấm phá, khơi gợi. Tuy nhiên, với những
người trong cuộc, chỉ chừng y thôi ng đ bồi
hi, xao xuyến biết bao. Hòa cùng v đẹp bình dị
và thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình nh
con người Vit Bắc rt đỗi thân thương: Sớm
khuya bếp lửa người thương đi v. Hình nh thơ
gi t tinh tế sự tần to, đm đang, chu thương,
chu khó ca nhng gái nuôi quân nơi chiến
khu Vit Bắc. Không quản k nhọc gian nan,
những thiếu n Việt Bắc vẫn sớm hôm cn mẫn
nuôi dấu n b. Hình ảnh bếp la gợi những bui
đoàn tụ m cùng và nghĩa tình quân n nng
đượm. Tình quân dân, cách mạng mang kng
khí ấm áp, yêu thương như tình cm gia đình.
Cách nói người thương khéo o, nhiều sức gi,
chứa chan tình cm du dàng nồng nàn, u
thương. Hẳn trong trái tim nhà thơ đã đ thương
một ni con gái Việt Bắc biết hi sinh vì ch
mạng.
Nhng đi tre bát ngát, những dòng suối
t trong, con sông hin hòa, tt c c in sâu
trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi
núi, rừng na, b tre là dưng ng bao kỉ nim,
đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi
Thia, sông Đáy, sui có lẽ không đơn thun ch
những đa danh mà còn n du bao kỉ nim cm
xúc. Những gn gian kh, ngọt bùi đã tr thành
những k nim da diết trong trái tim người đi khó
có th quên được. Biết bao những xúc động bi
hi cùng những ngọt ngào dưng ng dn cha
trong my ch đng cay, ngọt bùi cùng dấu
chm lửng cui dòng thơ. Người đi mun nhn
gi với nời li rng người về xuôi s kng
quên bt c một kỉ niệm, một ức nào.
Đặc biệt, trong bài thơ, Tố Hữu đã viết nên
một kc ca hùng tráng v con người kháng chiến
và cuộc kng chiến. Điều đó th hin rõ trong
đoạnthơ sau:
Nhng đưng Vit Bắc của ta
Downloaded by Nguyen Linh
(vjt19@gmail.com)

Preview text:

! " # ĐẶT CÂ U HỎI
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu
Việt Bắc là một trong những tác phẩm thơ ca Cách
mạng lớn và nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu. Trong
đó trích đoạn “Nhớ gì như nhớ người yêu” thể
hiện tình yêu nhân dân Việt Bắc nồng nàn, sâu
đậm, lời cảm ơn chân thành của tác giả tới đồng
bào Việt Bắc trong những năm trường kì kháng
chiến. Đoạn trích này thường được đưa vào bài
thi, kiểm tra. Cùng Top lời giải tham khảo bài
mẫu phân tích dưới đây để khi triển khai đề bài chính xác về nội dung. Mục lục nội dung
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu - Bài mẫu 1
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu - Bài mẫu 2
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu - Bài mẫu 3
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu - Bài mẫu 4
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu - Bài mẫu 1
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng lớn, “con chim
đầu đàn” của thơ ca Các mạng thế kỉ 20. Sự
nghiệp thơ ca của Tố Hữu gắn liền với những năm
kháng chiến trường kì của đất nước. Các bài thơ
của ông nội dung chủ yếu phản ánh chặng đường
trưởng thành của Các mạng, giải phóng dân tộc.
Một trong những tập thơ nổi tiếng nhất của Tố
Hữu là Việt Bắc. Trong đó, tiêu biểu là bài thơ
“Việt Bắc” – một khúc tình ca về các mạng, cuộc
sống kháng chiến, con người kháng chiến. Đặc
biệt, Phân tích đoạn thơ nhớ gì như nhớ người yêu
thể hiện tình cảm sâu nặng với nhân dân, đất nước
và niềm tự hào dân tộc.
Nhớ gì nhưnhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối lê vơi đầy.
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Việt Bắc, vùng đất cách mạng, nơi đã cưu
mạng những người chiến sĩ cộng sản, đảng và nhà
nước 15 năm trời. Cuộc kháng chiến kết thúc,
đảng và các chiến sĩ phải rời về Hà Nội. Bài thơ
được sáng tác trong hoàn cảnh chia li nên những
câu thơ giản dị, chân thành và tình cảm sâu nặng.
Hầu hết toàn bộ nội dung bài thơ đều ghi lại
những tình cảm lưu luyến của người cán bộ và
nhân dân. Đây cũng là lời khẳng định tình cảm
thủy chung, son sắc của người cán bộ với Việt
Bắc. Trong đó, một trích đoạn “Nhớ gì như nhớ
người yêu” là những tâm tình khắc cốt ghi tâm,
thể hiện rõ nhất tình yêu của người cán bộ dành
cho đồng bào Việt Bắc và quê hương thứ 2 này.
Nhớ gì nhưnhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Phân tích đoạn thơ nhớ gì như nhớ người
yêu – Nếu ai đã từng yêu thì chắc hẳn biết, nỗi
nhớ người yêu da diết triền miên thế nào. Chẳng
phải vì thế mà rất nhiều bài thơ, bài hát nói về nỗi
nhớ người yêu đầy da diết, sâu nặng. Đã từng có
lời bài hát thế này: “Ôi những đêm ngắm trăng.
Nhớ em buồn muốn khóc – trích trong bài hát
Ngẫu hứng lý qua cầu”. Qua đây càng khẳng định
nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ nồng nàn, da diết
đến độ người thương cũng phải bật khóc vì quá
nhớ. Vậy mà Tố Hữu đã ví nỗi nhớ những con
người Việt Bắc không khác gì nỗi nhớ người yêu,
nỗi nhớ da diết trìu mến mãi không thôi. Đó là nỗi
nhớ nhân dân, những con người lao động và cưu
mang cho anh bộ đội Cụ Hồ 15 năm qua. Đó cũng
là nỗi nhớ về vùng quê bình yên, được gọi là quê
hương thứ 2 của những người chiến sĩ cộng sản.
Qua hai câu thơ chúng ta vừa cảm nhận được
nỗi nhớ của Tố Hữu dành cho người dân nơi đây
nồng nàn tha thiết thế nào. Cách sử dụng hình ảnh
người yêu để ví nỗi nhớ thể hiện sắc thái cao nhất
của nỗi nhớ. Câu thơ thứ hai Tố Hữu sử dụng
phép tiểu đối: “Trăng lên đầu núi/ nắng chiều lưng
nương” thể hiện nỗi nhớ đêm ngày, bao trùm cả
không gian lẫn thời gian. Cho thấy nỗi nhớ lớn lao và rất rộng.
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nỗi nhớ Việt Bắc không chỉ là như người
yêu, không chỉ là ánh trăng, nắng lưng chiều mà
đó còn là hình ảnh quen thuộc cảu bản làng. Nhớ
những chiều khói bếp nghi ngút trắng trời xen lẫn
sương khuya, hình ảnh đẹp, ma mị như một bức
tranh đồng quê chân thực, mộc mạc. Nỗi nhớ Việt
Bắc trong lòng người đi còn là hình ảnh bếp lửa.
Đây là một hình ảnh rất dễ gây xúc động. Bếp lửa
là nơi ấm cúng, là tình yêu gia đình, là tình yêu
người thương, nơi đây có người thương đi về
trong bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa gợi ra một mái ấm
hiện hữu trong bóng dáng người thương nồng đượm ân tình.
Vậy là nỗi nhớ của Tố Hữu rất hiện thực,
chân thành. Không phải là những gì quá to tát, cao
sang, núi rừng quá hùng vĩ mà chỉ là những hình
ảnh đơn sơ, mộc mạc mà thấm đượm tình cảm,
hình ảnh bếp lửa, người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối lê vơi đầy.
Nỗi nhớ của tác giả với đồng bào Miền Bắc
tiếp tục hình ảnh các địa danh quen thuộc như
Ngòi Thia, Sông đấy, suối lê, đây là những sự kiện
và dấu ấn cách mạng không thể nào quên. Nếu ở
câu trên là rừng nứa bờ tre đơn sơ giản dị quen
thuộc, thì câu sau lại là những hình ảnh nghĩa
nặng tình sâu, những dấu ấn quan trọng của cách
mạng. Cả hai câu thơ tưởng đối lập mà lại hỗ trợ
hợp nhau đến lạ, cho thấy tình cảm của tác giả
dành cho Việt Bắc rất nhiều và không quên bất kỳ chitiết nào
Đặc biệt chữ “vơi đầy” đây chính là cái vơ
đầy của sông suối nhưng cũng chính là cái vơi đầy
của lòng người, của nỗi nhớ trong tâm trí người ra đi.
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bátcơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Ta ở đây chính là nhà thơ. Sử dụng đại từ Ta
để chỉ sự chung chung, không rõ là ai nhưng cũng
là tất cả. Đó chính là những người chiến sĩ cộng
sản sắp rời xa mảnh đất quê hương thứ 2 nhiều
bâng khuâng, nhớ nhung da diết. Khi sắp rời xa
Việt Bắc , nỗi nhớ lại dâng trào nhớ về những kỷ
niệm có cả đắng cay và ngọt bùi. 15 năm ở núi
rừng Việt Bắc, ăn rừng ở núi thì chắc chắn phải có
nhiều kỷ niệm vui buồn khác nhau. Đó là những kỉ
niệm với đồng bào Việt Bắc, nỗi nhớ lại tràn về
hình ảnh củ sắn khoai mì, hình ảnh bát cơm sẻ
nửa, chăn sui đắp cùng. Những hình ảnh thân
thương trong gian khó mà sao ấm lòng. Nỗi nhớ
dường như đang thường trực trong trái tim những
người chiến sĩ cộng sản, những anh bộ đội cụ hồ,
để rồi giây phút chia li đến, những hình ảnh ấy càngrõ nét hơn.
Càng trong gian khó người ta lại càng
thương nhau, khi chia xa lại càng nhớ nhau. Nỗi
nhớ ấy có thể ví như nỗi nhớ người thân, máu
ruột. Sắp chia li không biết bao giờ gặp lại nên Tố
Hữu cố gắng ghi nhớ những khoảnh khắc tuyệt vời ấy.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Để rồi hình ảnh người mẹ hiện ra. Đó là hình
ảnh đẹp nhất, dịu dàng mà mạnh mẽ nhất. Ở núi
rừng Tây Bắc đời sống khắc nghiệt, bà con phải đi
làm rẫy từ sáng đến tối. Thường trẻ nhỏ sẽ được
mẹ địu vào người và đưa lên rẫy. Đây là hình ảnh
vô cùng thân thuộc đã từng đi vào thơ ca, bài hát:
Mẹ thương akay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạtbắp lên đều, à ơi, à ơi…
Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ
Đừng làm mẹ ngã, mẹ trỉa bắp trên nương
Hình ảnh em bé Akay ngủ trên lưng mẹ đã đi
vào thơ ca bài hát. Một hình ảnh quen thuộc của
núi rừng Việt Bắc và là hình ảnh Tố Hữu không
thể quên. Trong kháng chiến chống Pháp người
dân Việt Bắc đã cùng đảng nhà nước chống giặc
ngoại xâm trong hoàn cảnh vô cùng vất vả, khó
khăn về vật chất. Hình ảnh mẹ địu con lên rẫy
trong cái nắng chói chang cho thấy cuộc sống vô
cùng vất vả vậy mà họ vẫn không ngại khổ, ngại
khó để nuôi cán bộ và chống giặc.
Ở đây, không chỉ là tình cảm nhớ thương mà
Tố Hữu dành cho người dân miền núi Việt Bắc mà
còn là sự biết ơn, trân trọng những hi sinh mà
đồng bào Việt Bắc đã dành cho đảng, nhà nước,
các chiến sĩ cách mạng. Kháng chiến thành công
một phần nhờ vào sức mạnh của nhân dân Việt
Bắc. Nếu không có họ thì sao có thể có một chiến
thắng vinh quang cho dân tộc.
Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể
hiện rõ hồn thơ Tố Hữu. Đặc biệt tác giả sử dụng
liên tiếp điệp khúc Nhớ cho thấy nỗi nhớ dạt dào
vô tận. Đọc đoạn thơ lên ta cảm thấy vô cùng ngọt
ngào tình cảm thấm dẫn tình yêu thương, các hình
ảnh Việt Bắc liên tục hiện ra như một đoạn phim
quay chậm càng nhân lên niềm thương nhớ vô tận.
Việt Bắc không đơn giản chỉ là mảnh đất tạm thời
của những người chiến sĩ cộng sản mà nó còn là
quê hương thứ 2: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở. Khi ta
đi, đất đã hóa tâm hồn”. Đúng vậy, trong từng lời
thơ Tố Hữu Viết, Việt bắc như một nửa tâm hồn
của tác giả, đó đã trở thành nơi gắn bó yêu thương
khó có thể tách rời. Nay sắp xa rồi nên bịn rịn,
bâng khuâng, nhớ nhung và không nỡ. Vậy nên,
từng hình ảnh cứ hiện ra, hiện ra khó có thể nào quên.
Đoạn thơ ngắn nhưng đã thể hiện thành công
tình cảm dành cho nhân dân Việt Bắc, là bản tình
ca về lòng sắt song chung thủy. Đây không chỉ là
tấm lòng của tác giả mà còn là tấm lòng của
những người chiến sĩ đã từng ở đây và được mảnh
đất này yêu thương, đùm bọc. Thật không hề nói
quá khi nói Tố Hữu là ngọn cờ đầu của thơ ca
cách mạng Việt Nam. Những lời thơ đơn giản mà
chân thành, mộc mạc mà đậm sâu.
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu - Bài mẫu 2
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị sự
nghiệp của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng.
Thơ ông phản ánh chặng đường gian khổ và
những chiến thắng vang dội của dân tộc. Ông vận
dụng tài tình khéo léo thể thơ lục bát truyền thống
và tiêu biểu đó là bài thơ Việt Bắc đã thể hiện
những kỉ niệm năm tháng kháng chiến . Một trong
những đoạn thơ tái hiện tình cảm thủy chung son
sắt, lòng biết ơn chân thành và ghi lòng tạc dạ của
người cán bộ về xuôi trước tấm chân tình của nhân
dân Việt Bắc được thể hiện rõ ràng qua đoạn :
nhớ gì như nhớ người yêu . . .. . ..
mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Việt Bắc sáng tác tháng 10 năm 1954 khi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dành thắng
lợi Trung ương Đảng và Chính phủ rời từ chiến
khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Bài thơ được viết
trong cuộc chia tay lưu luyến khắc khoải khôn
nguôi và được in trong tập thơ cùng tên. Ông tái
đã sử dụng thể thơ truyền thống giọng thơ mang
đậmchất dân gian làm tăngthêm nỗi nhớtha thiết.
Một nỗi nhớ da diết, không nguôi được tác giả hình dung thật lạ:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”.
Một chữ “gì” hàm chứa biết bao điều, phải
chăng đó chính là nỗi nhớ thiên nhiên, với nhân
dân cùng quãng thời gian kháng chiến đầy ấp kỷ
niệm. Nhớ “như nhớ người yêu”, hình ảnh so sánh
thật đầy ý nghĩa, nỗi nhớ sao thật dai dẳng triền
miên, luôn thường trực trong tâm trí. Một khung
cảnh hiện ra đã hoàn toàn khẳng định đối tượng
được nhớ đến - Việt Bắc: ”Trăng lên đầu núi, nắng
chiều lưng nương” rồi sau đó là những hình ảnh
miêu tả không gian thơ mộng đậm chất núi rừng ViệtBắc:
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc được liệt kê
đến từng chi tiết. Rõ ràng tác giả vẫn nhớ rất rõ
những kỷ niệm cùng khung cảnh Việt Bắc. “Người
thương”, hai chữ thôi nhưng chứa đựng biết bao
ân tình. Đây chính là những con người VIệT BắC
đã cưu mang, che chở cho cán bộ trong suốt một
quãng thời gian dài gian khó. “Bếp lửa” – hình
ảnh của một gia đình ấm cúng thường thấy, Phải
chăng tác giả đã xem nơi đây như là gia đình thứ
hai của mình.Vần chân “sương” và “người
thương” làm cho giọng điệu câu văn trở nên da
diết, diễn tả một nỗi nhớ bịn rịn, lưu luyến, không
muốn rời xa. Vẫn tiếp tục là nỗi nhớ, nhưng dường
như ngày càng sâu đậm hơn với những tên gọi địa
danh gắn liền với quá khứ cách mạng mà tác giả từng trãi qua:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.
Nhớ những thứ thân thuộc khi ngày ngày gắn
bó, với những địa điểm hết sức nổi tiếng như :”
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” , ” suối Lê” ở đây
chính là suối Lê Nin. Lại trở về với cách xưng hô mìnhvà ta :
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”
“ Đắng cay ngọt bùi” là những khó khăn gian
khổ vất vả , ” Mình đây, ta đó đắng cay ngọt
bùi…” ở đây muốn chỉ những người chiến sĩ và
người dân Việt Bắc đã cùng nhau trải qua những
khó khăn, gian khổ, họ đã cùng trải qua. Với việc
sử dụng sáng tạo hai đại từ “mình, ta” với lối đối
đáp giao duyên trong dân ca. Từng nỗi nhớ như
tràn ngập trong tâm hồn Tố Hữu biểu hiện cho
một tình cảm sâu nặng tựa như nỗi tương tư đến
“người thương”. Điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại
càng khắc sâu hơn sự nhớ nhung nghìn trùng tha
thiết của tác giả đối với Việt Bắc.
Giọng thơ ngôn từ mang đạm chất dân gian kết
hợp với thể thơ truyền thống lục bát của dân tộc
làm cho lời thơ thêm diuh dàng, nhẹ nhàng thấm
thiết. Và sử dụng các biện pháp tu từ tái hiện lại vẻ
đẹp kỉ niệm thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Là người, ai mà chẳng có trong tim mình
một miền đất để nhớ để thương. Bởi “Khi ta ở chỉ
là nơi đất ở – Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Có lẽ
vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã
không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu
viết nên thi phẩm cùng tên mà ngày nay chúng ta
vẫn nâng niu trên tay như một hòn ngọc quý
Phân tích nhớ gì như nhớ người yêu - Bài mẫu 3
Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, là "con
chim đầu đàn" của thơ ca Cách mạng Việt Nam
thế kỉ XX. Sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu gắn liền
với sự nghiệp cách mạng, thơ ông luôn gắn bó và
phản ánh chân thật những chặng đường cách
mạng. Nhắc đến ông, ta chẳng thể nào quên được
những tập thơ: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Máu và
hoa,. . Tiêu biểu trong số đó là bài thơ "Việt Bắc",
là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến
và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân
tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm
tự hào dân tộc. Đặc biệt là đoạn trích
"Nhớ gì như nhớ người yêu ..
Bước chân nátđá, muôn tàn lửa bay".
Việt Bắc là khu căn cứ của cách mạng Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp. Chiến dịch
Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7/ 1954,
hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết.
Hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng và đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 10/ 1954,
Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội, những
người kháng chiến (trong đó có Tố Hữu) từ căn cứ
miền núi về miền xuôi chia tay Việt Bắc, chia tay
khu căn cứ Cách mạng trong kháng chiến. Nhân
sự kiện có tính lịch sử này Tố Hữu sáng tác bài
thơ “Việt Bắc”. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của
thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Chia xa mảnh đất mình từng gắn bó, ai mà
chẳng nhớ chẳng thương. Thế nhưng hiếm có thi
sĩ nào mang trong tim nỗi nhớ tha thiết, khắc
khoải, cháy bỏng khi dã từ chiến khu Việt Bắc:
“Nhớ gì như nhớ người yêu”. Một dòng thơ mà
hai lần chữ “nhớ” được láy lại. Nỗi nhớ cứ lơ lửng
ám ảnh mãi tâm trí người đi đến mức không thể
kìm nén được. Lời thơ buông ra với ngữ điệu hết
sức đặc biệt, nửa như nghi vấn, nửa như cảm thán
tạo ấn tượng, ám ảnh người đọc. “Như nhớ người
yêu” là hình ảnh so sánh, ví von thật lãng mạn,
tình tứ. Nỗi nhớ Việt Bắc được cảm nhận như nỗi
nhớ thương người yêu. Có khi ngẩn ngơ, ngơ
ngẩn; có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi.
Khi da diết khắc khoải, khi lại đau đáu thăm thẳm.
Nỗi nhớ khi chia xa Việt Bắc phải chăng hàm chứa
mọi cung bậc cảm xúc ấy. Một nỗi nhớ nồng nàn,
đằm thắm, tha thiết. Với hình ảnh so sánh này, Tố
Hữu thực sự là một tình nhân đắm đuối trước Việt
Bắc, trước nhân dân đất nước mình. Cùng với
những câu thơ “Mình về mình có nhớ ta – Mười
lăm năm ấy thiết tha mặn nồng, Áo chàm đưa buổi
phân lí – Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”, tứ
thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu” đã đưa thi phẩm
Việt Bắc trở thành khúc tình ca bậc nhất trong thơ
ca Cách mạng. Quả không sai khi Xuân Diệu nhận
xét: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ
thơ rất đỗi trữ tình. Khám phá câu thơ “Nhớ gì
như nhớ người yêu”, ta bỗng vỡ lẽ hiểu ra rằng lối
kết cấu đối đáp cùng cách xưng hô “ta – mình”
trong Việt Bắc không đơn thuần là sáng tạo hình
thức, là câu chuyện ngôn ngữ. Tình cảm giữa cán
bộ Cách mạng và đồng bào chiến khu thiết tha,
mặn nồng như tình đôi lứa khiến nhà thơ tìm đến
cách cấu tứ xưng hô như vậy.
Chảy về trong nỗi nhớniềm thươnglà cảnh
sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa:
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưngnương
Nhớ từng bản khó cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa, bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Những câu thơ như một bức họa gợi cảm
về cảnh rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình. Có
đêm trăng huyền ảo, mảnh trăng lấp ló nơi đầu
núi, có những chiều tỏa nắng trên nương và hình
ảnh những nếp nhà, bản làng thấp thoáng trong
sương khói bồng bềnh. Không miêu tả chi tiết, Tố
Hữu chỉ chấm phá, khơi gợi. Tuy nhiên, với những
người trong cuộc, chỉ chừng ấy thôi cũng đủ bồi
hồi, xao xuyến biết bao. Hòa cùng vẻ đẹp bình dị
và thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh
con người Việt Bắc rất đỗi thân thương: Sớm
khuya bếp lửa người thương đi về. Hình ảnh thơ
gợi tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương,
chịu khó của những cô gái nuôi quân nơi chiến
khu Việt Bắc. Không quản khó nhọc gian nan,
những thiếu nữ Việt Bắc vẫn sớm hôm cần mẫn
nuôi dấu cán bộ. Hình ảnh bếp lửa gợi những buổi
đoàn tụ ấm cùng và nghĩa tình quân dân nồng
đượm. Tình quân dân, cách mạng mà mang không
khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình.
Cách nói “người thương” khéo léo, nhiều sức gợi,
chứa chan tình cảm dịu dàng mà nồng nàn, yêu
thương. Hẳn trong trái tim nhà thơ đã để thương
một người con gái Việt Bắc biết hi sinh vì Cách mạng.
Những đồi tre bát ngát, những dòng suối
mát trong, con sông hiền hòa, tất cả cứ in sâu
trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi
núi, rừng nứa, bờ tre là dưng dưng bao kỉ niệm,
đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi
Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ
là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm cảm
xúc. Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành
những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó
có thể quên được. Biết bao những xúc động bồi
hồi cùng những ngọt ngào dưng dưng dồn chứa
trong mấy chữ “đắng cay, ngọt bùi” cùng dấu
chấm lửng cuối dòng thơ. Người đi muốn nhắn
gửi với người ở lại rằng người về xuôi sẽ không
quên bất cứ một kỉ niệm, một kí ức nào.
Đặc biệt, trong bài thơ, Tố Hữu đã viết nên
một khúc ca hùng tráng về con người kháng chiến
và cuộc kháng chiến. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn thơ sau:
Những đường Việt Bắc của ta Downloaded by Nguyen Linh (vjt19@gmail.com)