THAM KHẢO PHÂN TÍCH ĐẤT NƯỚC
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt
đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu/
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…
1. THÂN I
1. Nội dung đoạn trích “Đất nước
Đất Nước nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca ngh thuật.Mỗi nhà thơ đều những
cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên n học thật
muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ
đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, k vĩ, mỹ lệ hay gắn đất ớc với một
thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những
hình nh , lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi/Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn/Cánh bay lả rập rờn
Mây m che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường
(Bên kia Sông Đuống Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất ớc đã th hiện những cảm nhận rất mới mẻ, u sắc.
Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm nh như lối trò
chuyện thân mật; hình ảnh ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian viết v đất
nước trong một không gian thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ba chiều
chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến
khẳng định tưởng tính then chốt: tưởng “Đất ớc của Nhân dân”.
2. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn các phương diện nhiều mặt:
địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn lối sống.Từ đó n thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm
của mỗi người với đất nước.
46 dòng cuối: Tư ởng Đất Nước của nhân n.
3. Phân tích đoạn thơ: tưởng đất nước của nhân dân chiều địa (Nhân dân đã
làm n dáng hình đất nước)
a. Giới thiệu đoạn thơ
các đoạn thơ trước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận về cội nguồn thiêng
liêng của đất ớc thấy đất nước rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người lớn lên
trưởng thành trong gian lao, vất vả. Đất ớc chiều dài lịch sử đằng đẵng, không gian
địa mênh mông có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, đậm đà bản sắc. Đất nước trong
mỗi con người, máu xương huyết lệ bởi vậy mỗi con người đều phải có trách
nhiệm với đấy nước.
đoạn thơ này, nhà thơ bắt đầu đi vào tưởng tính then chốt trong suốt đoạn trích
ởng “Đất Nước của Nhân n”.Tư tưởng đất nước của nhân dân là tưởng tiến
bộ đã manh nha từ thời trung đại. T “Bình Ngô đại o” của Nguyễn Trãi:
Việc nhân nghĩa cốt yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Sau này Phan Bội Châu cũng khẳng định “Nước dân, dân ớc”…Đến giai đoạn
1945 1975, tưởng này đã thấm nhuần trong các tác phẩm văn học.Không chỉ trong
thơ Nguyễn Khoa Điềm trong thơ của hầu hết các nhà thơ từ thời chống Mỹ đều
những cảm nhận sâu sắc v nhân dân coi đó nền tảng của lòng yêu nước.Thanh
Thảo trong trường ca “Những người đi tới biển” đã khắc hoạ chân dung của những con
người bình dị dùng những lời ngợi ca xúc động nhất để nói về nhân dân:
cứ thế nhân dân thường ít i/Như m tôi lặng lẽ suốt đời/Và cứ thế nhân n cao vời
vợi/Hơn cả những ngôi sao độc giữa trời
Tuy nhiên, phải đến “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm t ởng đất nước của
nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm o trong tất cả những thành tố
thuộc về đất nước. Trong đoạn trích “Đất nước” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ch yếu
cảm nhận đất nước ba chiều chiều dài lịch sử, chiều rộng địa lí, chiều sâu về văn hóa
phong tục sau đó tư tưởng đất nước của nhân dân ng được triển khai theo ba chiều
ấy. Chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước, làm nên lịch sử làm n nền văn
hóa, văn hiến lâu đời của đất ớc.
Đoạn t 12 câu y thể hiện tưởng đất nước của nhân dân chiều địa lí, khẳng định
chính nhân dân đã làm n dáng nh đất ớc.Tác giả đã viết hoa từ “Đất ớc” để
gợi sự u mến, t hào, thành kính, thiêng liêng.
2.2. Tám câu thơ:
Những người vợ nhớ chồngcòn góp cho Đất ớc những núi Vọng Phu
Những người dân nào đã p tên ông Đốc, ông Trang, Đen, Điểm
Bức tranh toàn cảnh v thiên nhiên quê hương, đất nước
Trước hết, trong đoạn thơ nhà thơ đã kể, liệt một loạt các tên địa danh, c quan
thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn
hóa đất nước.Những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước như núi Vọng
Phu Lạng Sơn, hòn Trống Mái Thanh Hóa, đất Tổ ng Vương Phú Thọ, thắng
cảnh Hạ Long Quảng Ninh, núi Bút non Nghiên Quảng Nam, các n địa danh Ông
Đốc, Ông Trang, Đen, Điểm miền Nam… Đây vốn những danh lam thắng
cảnh do tự nhiên sắp đặt, kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa từ
hàng ngàn, hàng vạn năm. Những tên địa danh, những danh lam thắng cảnh, n i tên
sông, tên đất, tên làng, hình sông, thế núi y đã gợi lên cả một bức tranh thiên nhiên đất
nước tươi đẹp nhìn đâu cũng cảnh đẹp, thấy i cao, biển rộng, sông dài, thấy
những dòng sông đỏ nặng phù sa nhiều tôm cá, những biển lúa mênh mông với những
cánh bay lả bay la…Những tên địa danh ấy trước hết gợi cho chúng ta bao nhiêu niềm
yêu mến, tự hào khát khao muốn được khám phá vẻ đẹp lệ của thiên nhiên quê
hương đất nước mình.
2. Sự hóa thân của nhân n
Nhưng trong đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm không khám phá bức tranh thiên nhiên quê
hương, đất nước dưới góc độ khoa học,không nhìn thiên nhiên quê hương đất nước ơi
đẹp như c phẩm của tạo hóa với những suy tưởng độc đáo, sâu sắc nhà thơ cho
thấy các danh lam thắng cảnh, hình sông thế núi, tên đất tên làng… ấy đều do nhân dân
hóa thân thành.
Hóa thân vốn quan niệm của nhà Phật, nghĩa nhập vào hay biến thành. a thân
như Tấm trong truyện c tích Tấm Cám” hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào,
khung cửi qu thị. Hóa thân như anh em nhà họ Cao hóa thành cây cau tảng đá, n
người vợ hóa thành cây trầu leo quanh y cau trong truyện cổ ch “Trầu cau”. Theo nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm núi Vọng Phu hóa thân của người vợ nhớ chồng. Tình cảm
nhớ thương, thủy chung, son sắt khiến người vợ chờ chồng đến hóa đá. Hòn Trống Mái
hóa thân của cặp vợ chồng yêu nhau, nguyện hóa đá để mãi mãi được bên nhau. Núi Bút,
non nghiên hóa thân của người học trò nghèo vượt khó cần cù, hiếu học. Ngay cả con
cóc, con gà của quê hương cũng hóa mình thành thắng cảnh Hạ Long…Mỗi địa danh đều
gắn với một truyền thuyết, sự tích riêng, tạo n một thế giới cổ tích huyền diệu. Nhưng
sâu sắc tài hoa hơn Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện ra không ai khác, chính những
người dân bình thường danh bình dị, đã sống chết giản dị bình tâm, không ai
nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ đã hóa thân thành dáng hình đất nước, làm nên vẻ đẹp
của giang sơn gấm vóc.
1. Bức tranh thiên nhiên đất nước chính tâm hồn, máu thịt của nhân n
Mỗi địa danh không chỉ một nét điểm cho bức tranh thiên nhiên đất nước còn
tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã hóa thân, đã tạo dựng nên đất ớc,
đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời nh lên mỗi ngọn núi, dòng sông.Và những ngọn núi,
những dòng sông… chỉ trở thành thắng cảnh khi thể hiện tâm hồn con người và lịch
sử dân tộc.Những núi Vọng Phu, n Trống Mái biểu tượng đẹp đẽ cho truyền thống
chung thủy, son sắc trong tình u. Những ao đầm dày đặc vùng đất Sóc Sơn, hình ảnh
99 con voi dựng đất Tổ Hùng Vương những hình ảnh bất tử về truyền thống yêu nước
nồng nàn, kiên ờng bất khuất chống giặc ngoại xâm. Núi Bút, non Nghiên biểu
tượng cho truyền thống hiếu học, tôn trọng đạo… như thế những người dân
danh bình dị còn góp phần hóa thân thành những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
khắc ghi những truyền thống tốt đẹp y n ng hình đất nước, lên những hình sông, thế
núi, n đất tên làng…thành lời nhắn nh đến muôn đời sau.
2.3. Bốn câu thơ: đâu trên khắp ruộng đồng bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi! Đất nước sau bốn nghìn m đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Từ cụ thể đi đến khái quát
Đoạn thơ được thể hiện theo kết cấu quy nạp, đi từ cụ th đến khái quát.Từ một số địa
danh cụ thể cụ thể, nhà thơ khái quát thành kết luận rất u sắc:Không chỉ một số địa
danh tiêu biểu, cụ th như tám câu thơ trên bất cứ danh lam thắng cảnh, hình
sông thế núi, ruộng đồng, bãi hay mỗi tấc đất con sông nào trên dải đất hình ch
S cũng hóa thân, là máu thịt của nhân dân.
hóa thân của nhân n nên mỗi hình sông thế núi, từng tấc đất trên đất ớc này đều
in dấu dáng hình, tâm tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất, lối sống của
những con người đất Việt. Mỗi danh lam thắng cảnh một bức tượng đài bất tử về v
đẹp tâm hồn người Việt Nam. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất ngợi ca, tôn
vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không nhân n từ bao đời với tâm hồn cao quý,
khát vọng cao đẹp thì không những thắng cảnh kỳ thú đ con cháu đời đời chiêm
ngưỡng.
Ngẫm về công lao to lớn của nhân n, về truyền thống của ông cha trong suốt 4000
năm lịch sử, nhà thơ không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến u. Thán
từ “ôi” dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nhữngnhững xúc cảm sâu lắng,
đó biểu hiện của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận chất trữ tình, cảm
xúc kết hợp vớisuy tưởng tạo nên vẻ đẹp riêng của thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Đánh giá chung về nội dung nghệ thuật
Đoạn thơ đầy ắp chất liệu văn học n gian. Đó những sự tích huyền thoại, truyền
thuyết.Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị,
mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng. Thể thơ tự do, sử dụng nhiều câu thơ dài, kết cấu
quy nạp, biện pháp nghệ thuật liệt kê, giọng thơ tự sự ; ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức
liên tưởng, triết lí… những đặc sắc nghệ thuật nổi bật trong đoạn thơ.
Thể hiện một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét
riêng, mới mẻ, sâu sắc .Những nhận thức mới m về vai trò của nhân dân trong việc làm
nên vẻ đẹp của đất nước góc độ địa lý-văn hóa càng gợi lên lòng u nước, tinh thần
trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca Mặt
đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Để Đất Nước này Đất Nước Nhân dân….Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
các đoạn thơ trước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận
Đoạn thơ này thể hiện tưởng đất nước của nhân n chiều u văn hóa phong tục,
khẳng định chính nhân dân đã làm nên chiều sâu n a ấy. Tác giả không chỉ viết hoa
từ “Đất Nước còn viết hoa từ “Nhân n” để gợi sự yêu mến, tự hào, thành kính,
thiêng liêng.
2.2. Đoạn thơ: Để đất nước này đất nước của Nhân dân Đi trả thù mà
không sợ dài lâu
tưởng đất nước của nhân n phương diện văn hóa, văn học dân gian
thể i “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm một khúc ca thể hiện nhận thức về
của nhà thơ về đất nước. Đất nước chính trí tuệ, tâm hồn ý c của nhân dân.Khi
mạch cảm c lên cao trào nhà thơ đi đến khẳng định ‘Để đất nước này Đất ớc của
Nhân dân”.Vế câu “Đất Nước của Nhân dân” được nhà t lặp lại hai lần như để khẳng
định sâu sắc rằng nhân dân chính ch thể làm nên đất nước cho thấy đây cũng chính là
cảm hứng ch đạo được th hiện trong suốt đoạn trích cả chương V của bản trường ca.
Vế câu thứ hai “Đất Nước của ca dao thần thoại” được nhà thơ đặt cuối câu để nhấn
mạnh, đã gợi lên một không gian đất nước đầy thiêng liêng, diệu. Đó là đất nước của
những câu ca dao n ca đầy yêu thương, tình nghĩa, bài ca về tình yêu lao động, về
tinh thần lạc quan, u đời… đó ta cảm nhận được sâu sắc v đẹp tâm hồn con
người Việt Nam. Đó là đất nước của thần trụ trời, làm trụ đẩy trời lên cao tạo nên trời đất,
trụ, muôn loài… đây, nhà t nhắc đến hai th loại văn học dân gian tiêu biểu của
người Việt ca dao, thần thoại để khẳng định đất ớc của nền văn hóa, văn học n
gian đậm đà bản sắc n tộc.Văn hóa, văn học dân gian linh hồn dân tộc, kết tinh vẻ
đẹp tâm hồn của nhân n do chính nhân dân sáng tạo, lưu truyền. Nó sản phẩm tinh
thần, tâm tình cảm, t tưởng ợng bay bổng của nhân dân nên nhắc đến văn hóa
văn học n gian, ca dao thần thoại nhắc đến nhân dân để khẳng định chính nhân
dân đã ng tạo ra đất ớc.
Để chứng minh “Đất ớc của ca dao, thần thoại”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lấy lại
ý ba câu ca dao nội dung sâu sắc để nói về ba phẩm chất đã tr thành truyền thống tốt
đẹp của con người Việt Nam. Trong đó:
+ Câu thơ “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” lấy lại ý của câu ca dao:
Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Chính ca dao, vẻ đẹp của tâm hồn cha ông trong văn học đã “dạy anh biết” truyền thống
chung thủy, say đắm nh liệt trong nh yêu để anh biết yêu em chân thật, thủy chung.
+ Câu thơ “Biết quý công cầm vàng từ những ngày lặn lội” lấy lại ý từ câu ca dao:
Cầm vàng lội qua ng/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm ng
Ca dao chứa trong văn hóa, thói quen, tập quán, nếp nghĩ nếp cảm của người Việt
Nam. không chỉ dạy anh biết yêu mà còn dạy cho anh biết người Việt Nam không quý
trọng vật chất trọng tình trọng nghĩa, quý trọng sức lao động, truyền thống nhân
nhân nghĩa, thủy chung.
+ Hai câu thơ “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù không sợ dài lâu”
lấy lại ý từ câu ca dao:
Thù này t hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què
Cụm t “Dạy anh biết” và điệp từ “biết” được được lặp lại 3 lần, trong đó 2 lần đứng
đầu các câu thơ đã khẳng định ca dao như nguồn sữa m dạt dào nuôi lớn tâm hồn người
Việt Nam. Cũng chính ca dao đã dạy cho anh biết truyền thống quyết liệt, bền bỉ kiên
cường, bất khuất chống giặc ngoại m. Truyền thống ấy giúp ta giải sao trải qua
hàng ngàn m Bắc thuộc, gần trăm m bị Pháp đô h không biết bao lần b giặc
ngoại xâm chiếm giữ nhưng đến nay đất nước vẫn toàn vẹn, thống nhất.
2.3. Bốn câu thơ: Ôi những dòng ng bắt nước t đâu
khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Lời ca ngợi non sông đất nước
Vẻ đẹp của những ng sông: Kết lại đoạn trích “Đất nước” những cảm nhận rất
tinh tế, lợi ngợi ca vẻ đẹp của quê ơng, đất nước. Mở đầu đoạn thơ thán từ “Ôi”
chứa nhiều cảm xúc.Đó cảm xúc ngỡ ngàng nhưng chứa đầy sự trìu mến, tình cảm yêu
thương khi khám phá ra vẻ đẹp của những con sông khi chảy về đất Việt. Câu thơ “Ôi,
những dòng sông đều bắt nước từ đâu” xác nhận một đặc điểm về địa hầu hết các con
sông trên đất nước ta đều nguồn gốc t bên ngoài, các dòng sông lớn như sông Hồng,
sông kông đều bắt nguồn từ các nước lân cận. Nhưng nhà thơ thấy không cần xác
định nguồn gốc của những con sông đâu ch cần biết một hiện thực là tất cả các
dòng sông khi chảy đến mảnh đất quê hương đều “bắt lên câu t”, đều trở n hồn,
sinh khí và sức sống mới.
Vẻ đẹp của con người Việt Nam trên các dòng sông: Khi về đến đất nước mình, các
dòng sông bỗng chốc như trở n tươi đẹp người thổi hồn, thổi sinh khí sức sống
vào những con sông ấy chính những người dân đất Việt. c dòng sông “bắt lên câu
hát” bởi hòa theo tiếng hát của những con người đang lao động. Họ vừa hăng say lao
động, chèo đò, kéo thuyền vượt thác vừa ca t ngợi ca quê hương, đất nước; ca hát về
tình u lao động khao khát đóng góp công sức của mình để xây dựng, làm giàu cho
đất nước.
Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong lao động đã được nhà thơ Huy Cận miêu tả đầy
cảm xúc trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh ”:
Ta hát bài ca gọi o …Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Đó là tiếng hát của con người trên dòng sông trong thơ Tố Hữu:Nắng chói sông Lô,
ô tiếng hát/Chuyến phà dào dạt bến nước nh Ca
(Ta đi tới Tố Hữu)
Vẻ đẹp của con người lao động trên sông ớc cũng từng được nhà văn Nguyễn
Tuân thể hiện rất sâu sắc qua nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người i đò Sông Đà”.
Cuộc đời người lái đò danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo giữa núi rừng Tây Bắc
đã tr thành bức tượng đài sừng sững về con người trong ng cuộc chinh phục thiên
nhiên để giành lấy cuộc sống.
Đất nước trăm núi, ngàn sông mỗi dòng sông mang một dáng hình, màu vẻ
khác nhau. Trên mỗi ng sông hình ảnh con người Việt Nam với những v đẹp khác
nhau. Các câu thơ cho thấy, mỗi con người Việt Nam trong công cuộc lao động mưu sinh
lại bộc lộ ra những vẻ đẹp khác nhau để rồi cuối cùng tạo n một dòng chảy văn hóa o
dài suốt 4000 ngàn năm văn hiến, tạo ra vẻ đẹp trăm màucủa con người Việt Nam, chúng
ta hoàn toàn tin tưởng rằng đất nước sẽ đi đến một ngày mai tươi sáng.
Đánh giá về nội dung nghệ thuật
Đoạn thơ s dụng chất liệu chính ca dao, n ca. Điều đáng chú ý nhà thơ không
trích dẫn nguyên văn câu ca dao ch lấy lại ý để th hiện những liên tưởng, suy ngẫm
vừa độc đáo vừa sâu sắc. T “Đất Nước” được viết hoa nhắc lại nhiều lần cùng giọng
thơ chính luận trữ tình đã bộc lộ suy nghĩ sâu sắc nói lên những tình cảm tha thiết đối
với đất nướclàm cho nội dung chính luận vốn khô khan trở n mềm mại, ngọt ngào thấm
sâu vào lòng người, góp phần bộc l tưởng bao trùm, xuyên suốt ấy ởng đất
nước của nhân dân.

Preview text:

THAM KHẢO PHÂN TÍCH ĐẤT NƯỚC
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt
đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu/
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” 1. THÂN BÀI
1. Nội dung đoạn trích “Đất nước”
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật.Mỗi nhà thơ đều có những
cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật
muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ
đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một
thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi/Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn/Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
(Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi)
Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp: Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
(Bên kia Sông Đuống – Hoàng Cầm)
Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc.
Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò
chuyện thân mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất
nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là
chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến
khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
2. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
– 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt:
địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm
của mỗi người với đất nước.
– 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
3. Phân tích đoạn thơ: Tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều địa lí (Nhân dân đã
làm nên dáng hình đất nước)
a. Giới thiệu đoạn thơ
Ở các đoạn thơ trước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận về cội nguồn thiêng
liêng của đất nước và thấy đất nước rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người và lớn lên
trưởng thành trong gian lao, vất vả. Đất nước có chiều dài lịch sử đằng đẵng, không gian
địa lí mênh mông và có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, đậm đà bản sắc. Đất nước ở trong
mỗi con người, là máu là xương là huyết lệ bởi vậy mỗi con người đều phải có trách nhiệm với đấy nước.
– Ở đoạn thơ này, nhà thơ bắt đầu đi vào tư tưởng có tính then chốt trong suốt đoạn trích
là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.Tư tưởng đất nước của nhân dân là tư tưởng tiến
bộ đã manh nha từ thời trung đại. Từ “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Sau này Phan Bội Châu cũng khẳng định “Nước là dân, dân là nước”…Đến giai đoạn
1945 – 1975, tư tưởng này đã thấm nhuần trong các tác phẩm văn học.Không chỉ trong
thơ Nguyễn Khoa Điềm mà trong thơ của hầu hết các nhà thơ từ thời chống Mỹ đều có
những cảm nhận sâu sắc về nhân dân và coi đó là nền tảng của lòng yêu nước.Thanh
Thảo trong trường ca “Những người đi tới biển” đã khắc hoạ chân dung của những con
người bình dị và dùng những lời ngợi ca xúc động nhất để nói về nhân dân:
Và cứ thế nhân dân thường ít nói/Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời/Và cứ thế nhân dân cao vời
vợi/Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời
– Tuy nhiên, phải đến “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm thì tư tưởng đất nước của
nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào trong tất cả những thành tố
thuộc về đất nước. Trong đoạn trích “Đất nước” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chủ yếu
cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài lịch sử, chiều rộng địa lí, chiều sâu về văn hóa
phong tục và sau đó tư tưởng đất nước của nhân dân cũng được triển khai theo ba chiều
ấy. Chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước, làm nên lịch sử và làm nên nền văn
hóa, văn hiến lâu đời của đất nước.
– Đoạn thơ 12 câu này thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều địa lí, khẳng định
chính nhân dân đã làm nên dáng hình đất nước.Tác giả đã viết hoa từ “Đất Nước” mà để
gợi sự yêu mến, tự hào, thành kính, thiêng liêng. 2.2. Tám câu thơ:
Những người vợ nhớ chồngcòn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
… Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm
Bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên quê hương, đất nước
– Trước hết, trong đoạn thơ nhà thơ đã kể, liệt kêmột loạt các tên địa danh, các kì quan
thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn
hóa đất nước.Những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước như núi Vọng
Phu Ở Lạng Sơn, hòn Trống Mái ở Thanh Hóa, đất Tổ Hùng Vương ở Phú Thọ, thắng
cảnh Hạ Long ở Quảng Ninh, núi Bút non Nghiên ở Quảng Nam, các tên địa danh Ông
Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ở miền Nam… Đây vốn là những danh lam thắng
cảnh do tự nhiên sắp đặt, là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lý từ
hàng ngàn, hàng vạn năm. Những tên địa danh, những danh lam thắng cảnh, tên núi tên
sông, tên đất, tên làng, hình sông, thế núi ấy đã gợi lên cả một bức tranh thiên nhiên đất
nước tươi đẹp mà nhìn đâu cũng có cảnh đẹp, thấy núi cao, biển rộng, sông dài, thấy
những dòng sông đỏ nặng phù sa và nhiều tôm cá, những biển lúa mênh mông với những
cánh cò bay lả bay la…Những tên địa danh ấy trước hết gợi cho chúng ta bao nhiêu niềm
yêu mến, tự hào và khát khao muốn được khám phá vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên quê hương đất nước mình.
2. Sự hóa thân của nhân dân
– Nhưng trong đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm không khám phá bức tranh thiên nhiên quê
hương, đất nước dưới góc độ khoa học,không nhìn thiên nhiên quê hương đất nước tươi
đẹp như là tác phẩm của tạo hóa mà với những suy tưởng độc đáo, sâu sắc nhà thơ cho
thấy các danh lam thắng cảnh, hình sông thế núi, tên đất tên làng… ấy đều do nhân dân hóa thân mà thành.
– Hóa thân vốn là quan niệm của nhà Phật, có nghĩa là nhập vào hay biến thành. Hóa thân
như cô Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám” hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào,
khung cửi và quả thị. Hóa thân như anh em nhà họ Cao hóa thành cây cau và tảng đá, còn
người vợ hóa thành cây trầu leo quanh cây cau trong truyện cổ tích “Trầu cau”. Theo nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm núi Vọng Phu là hóa thân của người vợ nhớ chồng. Tình cảm
nhớ thương, thủy chung, son sắt khiến người vợ chờ chồng đến hóa đá. Hòn Trống Mái là
hóa thân của cặp vợ chồng yêu nhau, nguyện hóa đá để mãi mãi được bên nhau. Núi Bút,
non nghiên là hóa thân của người học trò nghèo vượt khó cần cù, hiếu học. Ngay cả con
cóc, con gà của quê hương cũng hóa mình thành thắng cảnh Hạ Long…Mỗi địa danh đều
gắn với một truyền thuyết, sự tích riêng, tạo nên một thế giới cổ tích huyền diệu. Nhưng
sâu sắc và tài hoa hơn là Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện ra không ai khác, chính những
người dân bình thường vô danh bình dị, đã sống và chết giản dị và bình tâm, không ai
nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ đã hóa thân thành dáng hình đất nước, làm nên vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc.
1. Bức tranh thiên nhiên đất nước chính là tâm hồn, máu thịt của nhân dân
Mỗi địa danh không chỉ là một nét tô điểm cho bức tranh thiên nhiên đất nước mà còn là
tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã hóa thân, đã tạo dựng nên đất nước,
đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông.Và những ngọn núi,
những dòng sông… chỉ trở thành thắng cảnh khi nó thể hiện tâm hồn con người và lịch
sử dân tộc.Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái là biểu tượng đẹp đẽ cho truyền thống
chung thủy, son sắc trong tình yêu. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn, hình ảnh
99 con voi dựng đất Tổ Hùng Vương là những hình ảnh bất tử về truyền thống yêu nước
nồng nàn, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm. Núi Bút, non Nghiên là biểu
tượng cho truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo… Và như thế những người dân vô
danh bình dị còn góp phần hóa thân thành những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
khắc ghi những truyền thống tốt đẹp ấy lên dáng hình đất nước, lên những hình sông, thế
núi, tên đất tên làng…thành lời nhắn nhủ đến muôn đời sau.
2.3. Bốn câu thơ: Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Từ cụ thể đi đến khái quát
– Đoạn thơ được thể hiện theo kết cấu quy nạp, đi từ cụ thể đến khái quát.Từ một số địa
danh cụ thể cụ thể, nhà thơ khái quát thành kết luận rất sâu sắc:Không chỉ ở một số địa
danh tiêu biểu, cụ thể như ở tám câu thơ trên mà bất cứ danh lam thắng cảnh, hình
sông thế núi, ruộng đồng, gò bãi hay mỗi tấc đất con sông nào trên dải đất hình chữ
S cũng là hóa thân, là máu thịt của nhân dân.
– Là hóa thân của nhân dân nên mỗi hình sông thế núi, từng tấc đất trên đất nước này đều
in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất, lối sống của
những con người đất Việt. Mỗi danh lam thắng cảnh là một bức tượng đài bất tử về vẻ
đẹp tâm hồn người Việt Nam. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn
vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân từ bao đời với tâm hồn cao quý,
khát vọng cao đẹp thì không có những thắng cảnh kỳ thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng.
– Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha trong suốt 4000
năm lịch sử, nhà thơ không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu. Thán
từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nhữngnhững xúc cảm sâu lắng,
đó là biểu hiện của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, cảm
xúc kết hợp vớisuy tưởng tạo nên vẻ đẹp riêng của thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật
– Đoạn thơ đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền
thuyết.Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị,
mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng. Thể thơ tự do, sử dụng nhiều câu thơ dài, kết cấu
quy nạp, biện pháp nghệ thuật liệt kê, giọng thơ tự sự ; ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức
liên tưởng, triết lí… là những đặc sắc nghệ thuật nổi bật trong đoạn thơ.
– Thể hiện một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét
riêng, mới mẻ, sâu sắc .Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm
nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý-văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần
trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt
đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân….Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
– Ở các đoạn thơ trước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận …
– Đoạn thơ này thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân ở chiều sâu văn hóa phong tục,
khẳng định chính nhân dân đã làm nên chiều sâu văn hóa ấy. Tác giả không chỉ viết hoa
từ “Đất Nước” mà còn viết hoa từ “Nhân dân” để gợi sự yêu mến, tự hào, thành kính, thiêng liêng. 2.2. Đoạn thơ:
Để đất nước này là đất nước của Nhân dân … Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Tư tưởng đất nước của nhân dân ở phương diện văn hóa, văn học dân gian
– Có thể nói “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca thể hiện nhận thức về
của nhà thơ về đất nước. Đất nước chính là trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân.Khi
mạch cảm xúc lên cao trào nhà thơ đi đến khẳng định ‘Để đất nước này là Đất Nước của
Nhân dân”.Vế câu “Đất Nước của Nhân dân” được nhà thơ lặp lại hai lần như để khẳng
định sâu sắc rằng nhân dân chính chủ thể làm nên đất nước và cho thấy đây cũng chính là
cảm hứng chủ đạo được thể hiện trong suốt đoạn trích và cả chương V của bản trường ca.
Vế câu thứ hai “Đất Nước của ca dao thần thoại” được nhà thơ đặt ở cuối câu để nhấn
mạnh, đã gợi lên một không gian đất nước đầy thiêng liêng, kì diệu. Đó là đất nước của
những câu ca dao dân ca đầy yêu thương, tình nghĩa, là bài ca về tình yêu lao động, về
tinh thần lạc quan, yêu đời… mà ở đó ta cảm nhận được sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn con
người Việt Nam. Đó là đất nước của thần trụ trời, làm trụ đẩy trời lên cao tạo nên trời đất,
vũ trụ, muôn loài… Ở đây, nhà thơ nhắc đến hai thể loại văn học dân gian tiêu biểu của
người Việt là ca dao, thần thoại là để khẳng định đất nước của nền văn hóa, văn học dân
gian đậm đà bản sắc dân tộc.Văn hóa, văn học dân gian là linh hồn dân tộc, là kết tinh vẻ
đẹp tâm hồn của nhân dân do chính nhân dân sáng tạo, lưu truyền. Nó là sản phẩm tinh
thần, tâm tư tình cảm, là trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân nên nhắc đến văn hóa
văn học dân gian, ca dao thần thoại là nhắc đến nhân dân và để khẳng định chính nhân
dân đã sáng tạo ra đất nước.
– Để chứng minh “Đất Nước của ca dao, thần thoại”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lấy lại
ý ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phẩm chất đã trở thành truyền thống tốt
đẹp của con người Việt Nam. Trong đó:
+ Câu thơ “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” lấy lại ý của câu ca dao:
Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Chính ca dao, vẻ đẹp của tâm hồn cha ông trong văn học đã “dạy anh biết” truyền thống
chung thủy, say đắm mãnh liệt trong tình yêu để anh biết yêu em chân thật, thủy chung.
+ Câu thơ “Biết quý công cầm vàng từ những ngày lặn lội” lấy lại ý từ câu ca dao:
Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
Ca dao chứa trong nó văn hóa, thói quen, tập quán, nếp nghĩ nếp cảm của người Việt
Nam. Nó không chỉ dạy anh biết yêu mà còn dạy cho anh biết người Việt Nam không quý
trọng vật chất mà trọng tình trọng nghĩa, quý trọng sức lao động, có truyền thống nhân nhân nghĩa, thủy chung.
+ Hai câu thơ “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
lấy lại ý từ câu ca dao:
Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què
Cụm từ “Dạy anh biết” và điệp từ “biết” được được lặp lại 3 lần, trong đó có 2 lần đứng ở
đầu các câu thơ đã khẳng định ca dao như nguồn sữa mẹ dạt dào nuôi lớn tâm hồn người
Việt Nam. Cũng chính ca dao đã dạy cho anh biết truyền thống quyết liệt, bền bỉ và kiên
cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm. Truyền thống ấy giúp ta lí giải vì sao trải qua
hàng ngàn năm Bắc thuộc, gần trăm năm bị Pháp đô hộ và không biết bao lần bị giặc
ngoại xâm chiếm giữ nhưng đến nay đất nước vẫn toàn vẹn, thống nhất. 2.3. Bốn câu thơ:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Lời ca ngợi non sông đất nước
Vẻ đẹp của những dòng sông: Kết lại đoạn trích “Đất nước” là những cảm nhận rất
tinh tế, là lợi ngợi ca vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Mở đầu đoạn thơ là thán từ “Ôi”
chứa nhiều cảm xúc.Đó là cảm xúc ngỡ ngàng nhưng chứa đầy sự trìu mến, tình cảm yêu
thương khi khám phá ra vẻ đẹp của những con sông khi nó chảy về đất Việt. Câu thơ “Ôi,
những dòng sông đều bắt nước từ đâu” xác nhận một đặc điểm về địa lí là hầu hết các con
sông trên đất nước ta đều có nguồn gốc từ bên ngoài, các dòng sông lớn như sông Hồng,
sông Mê kông… đều bắt nguồn từ các nước lân cận. Nhưng nhà thơ thấy không cần xác
định nguồn gốc của những con sông là ở đâu mà chỉ cần biết một hiện thực là tất cả các
dòng sông khi chảy đến mảnh đất quê hương đều “bắt lên câu hát”, đều trở nên có hồn, có
sinh khí và sức sống mới.
Vẻ đẹp của con người Việt Nam trên các dòng sông: Khi về đến đất nước mình, các
dòng sông bỗng chốc như trở nên tươi đẹp và người thổi hồn, thổi sinh khí và sức sống
vào những con sông ấy chính là những người dân đất Việt. Các dòng sông “bắt lên câu
hát” bởi nó hòa theo tiếng hát của những con người đang lao động. Họ vừa hăng say lao
động, chèo đò, kéo thuyền vượt thác vừa ca hát ngợi ca quê hương, đất nước; ca hát về
tình yêu lao động và khao khát đóng góp công sức của mình để xây dựng, làm giàu cho đất nước.
Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong lao động đã được nhà thơ Huy Cận miêu tả đầy
cảm xúc trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”:
Ta hát bài ca gọi cá vào …Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Đó là tiếng hát của con người trên dòng sông Lô trong thơ Tố Hữu:Nắng chói sông Lô,
hò ô tiếng hát/Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca… (Ta đi tới – Tố Hữu)
Vẻ đẹp của con người lao động trên sông nước cũng từng được nhà văn Nguyễn
Tuân thể hiện rất sâu sắc qua nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.
Cuộc đời người lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo giữa núi rừng Tây Bắc
đã trở thành bức tượng đài sừng sững về con người trong công cuộc chinh phục thiên
nhiên để giành lấy cuộc sống.
– Đất nước có trăm núi, ngàn sông và mỗi dòng sông mang một dáng hình, màu vẻ
khác nhau. Trên mỗi dòng sông là hình ảnh con người Việt Nam với những vẻ đẹp khác
nhau. Các câu thơ cho thấy, mỗi con người Việt Nam trong công cuộc lao động mưu sinh
lại bộc lộ ra những vẻ đẹp khác nhau để rồi cuối cùng tạo nên một dòng chảy văn hóa kéo
dài suốt 4000 ngàn năm văn hiến, tạo ra vẻ đẹp trăm màucủa con người Việt Nam, chúng
ta hoàn toàn tin tưởng rằng đất nước sẽ đi đến một ngày mai tươi sáng.
Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Đoạn thơ sử dụng chất liệu chính là ca dao, dân ca. Điều đáng chú ý là nhà thơ không
trích dẫn nguyên văn câu ca dao mà chỉ lấy lại ý để thể hiện những liên tưởng, suy ngẫm
vừa độc đáo vừa sâu sắc. Từ “Đất Nước” được viết hoa và nhắc lại nhiều lần cùng giọng
thơ chính luận trữ tình đã bộc lộ suy nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết đối
với đất nướclàm cho nội dung chính luận vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào thấm
sâu vào lòng người, góp phần bộc lộ tư tưởng bao trùm, xuyên suốt ấy là tư tưởng đất nước của nhân dân.
Document Outline

  • THAM KHẢO PHÂN TÍCH ĐẤT NƯỚC
  • 1.THÂN BÀI
  • 3.Phân tích đoạn thơ: Tư tưởng đất nước của nhân dân
  • 2.2. Tám câu thơ:
    • Bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên quê hương, đất
    • 2.Sự hóa thân của nhân dân
    • 1. Bức tranh thiên nhiên đất nước chính là tâm hồn
  • sông thế núi, ruộng đồng, gò bãi hay mỗi tấc đất c
  • Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật
  • Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nướ
  • 2.1.Giới thiệu đoạn thơ
  • 2.2.Đoạn thơ:Để đất nước này là đất nước của Nhân dân
  • + Câu thơ “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”
  • + Câu thơ “Biết quý công cầm vàng từ những ngày lặ
  • + Hai câu thơ “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy –
  • Đánh giá về nội dung và nghệ thuật