











Preview text:
PHÂN TÍCH VỢ NHẶT (KIM LÂN) THEO ĐOẠN TRÍCH
Đoạn 1: “Cái đói => tự đắc với chính mình”
- “Vợ nhặt” lấy bối cảnh từ nạn đói năm 1945 đã đi vào lịch sử như như một vành
khăn tang cướp đi mạng sống của hơn hai triệu đồng bào ta. Bằng ngòi bút sắc sảo săn
đuổi hiện thực đến tận đáy, Kim Lân đã mở ra trước mắt bạn đọc không gian năm đói
ảm đạm tăm tối và có phần nghiệt ngã.
- Ngay từ nhan đề, hai từ “Vợ nhặt” đã hiện lên đầy chua xót, một nỗi đau không
sao nói được thành lời. Từ đó có thể thấy rằng “Vợ nhặt” là cái đòn bẩy tạo nên tình
huống truyện bi hài, sự hấp dẫn bất ngờ cho thiên chuyện. “Bi” là ở chỗ trong cái cảnh
nạn đói đang diễn ra “người chết như ngả rạ” vậy mà Tràng lại còn dắt về một cô vợ.
Còn “hài” là ở chỗ vợ mà lại “nhặt” về, đơn giản vậy sao?
- Từ những dòng văn đầu tiên, người đọc đã cảm nhận thấy não lòng về nạn đói
khủng khiếp : “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”. Với từ “tràn” cái đói đã được
cụ thể hóa với sức tàn phá dữ dội.
- Bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói “bồng
bế dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma” và sau đó là “chết như ngả rạ”, “không
khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” . Có thể nói, cái đói,
cái khát, cái chết đã len lỏi vào từng đường thôn ngõ xóm, gõ cửa từng gia đình. Kim
Lân đã đưa cuộc sống của người nông dân lao động trong thời kì đô hộ của thực dân
và phát xít vào trang viết của mình như tất cả những gì tăm tối nhất.
- Cái chết đã bao phủ cả bầu trời và mặt đất. Dưới ngòi bút của Kim Lân, không
gian nghệ thuật của tác phẩm ngột ngạt, bức bối đến tắc thở. Người chết như ngả rạ,
còn những người sống thì sống một cuộc sống lay lắt vật vờ thoi thóp, một cuộc sống
không ra sống. Có đến hai lần nhà văn so sánh người như ma nhằm diễn tả đó là lúc
cõi âm tràn vào cõi dương. Kiểu so sánh đó bộc lộ cái nhìn tê tái của Kim Lân về cái
thời ghê rợn. Cuộc sống được nhìn như một bãi tha ma khổng lồ, ranh giới giữa sự
sống và cái chết mong manh như sợi tóc. Cái đói tàn phá hiện hình lên từng gương mặt
người: trẻ con không nhúc nhích – cái đói đã giết chết bản tính trẻ thơ của chúng. Người
dân xóm ngụ cư “khuôn mặt hốc hác u tối”. Không cần một lời kết tội hùng biện,
nhưng đọc những dòng văn của Kim Lân ta thấy như là một bản cáo trạng đanh thép
tố cáo vạch trần bản chất phi nhân tính của bè lũ cướp nước. Bao nhiêu con người đã
phải ra đi trong cái đói, cái khát. Nạn đói 1945, Hồ Chí Minh trong “Tuyên Ngôn Độc
Lập” đã nói : “Kết quả là từ cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc
Kì, hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói ”. Chỉ với vài dòng văn ngắn ngủi Kim Lân đã
để lại trong lòng người đọc bao nỗi ngậm ngùi, xót xa thương cảm với số phận của
người dân lao động Viêt Nam trước cách mạng tháng Tám.
- Một buổi chiều “tối sầm lại vì đói khát” con người đang chìm dần trong bóng
tối, “không nhà nào có ánh đèn, lửa”. Không gian của thế giới ngổn ngang người sống
kẻ chết, tiếng quạ “cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Cái đói đã biến con người thành cái
xác không hồn vật vờ quằn quại . Cái đói đang tràn lan như một dịch bệnh tàn nhẫn và
phô bày sức mạnh hủy diệt thật là khủng khiếp, Kim Lân đã đặt hình ảnh những người
sống bên cạnh hình ảnh người chết, cho thấy ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết .
- Giữa thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, Kim Lân dám đặt vào đó một
đám cưới thì quả là táo bạo. Người ta lấy nhau khi ăn nên làm ra, đám cưới là hiện thân
của sự sống, hạnh phúc ấy vậy mà Tràng và người vợ nhặt quyết định đưa nhau về
trong vòng bủa vây của cái chết, cái đói. Nó đeo bám quyết liệt, đậm đặc trong không
khí của tác phẩm, nó vẩn lên thành màu, thành mùi, thành tiếng: màu xanh xám của da
người chết, mùi gây của xác người, tiếng thê thiết của đàn quạ. . Cả một xã hội là một
đám ma khổng lồ, Tràng đưa vợ về trong một buổi chiều chạng vạng, đau thương đó.
Trong truyện “Một đám cưới” Nam Cao đã nhìn đám cưới như đám ma, còn ở đây
Kim Lân đã phát hiện ra giữa những đám ma là một đám cưới. Có lẽ cho đến mãi mãi
sau này, nạn đói 1945 vẫn sẽ được xem là một đau thương nhất của lịch sử dân tộc.
Đám cưới của Tràng xuất hiện trên không gian bi thảm ấy. Tràng nhặt được vợ. Có thể
nói, trên cái nền tối sầm lại vì đói khát, vẻ đẹp ánh sáng của niềm tin của tình thương
lại lung linh tỏa sáng làm ấm thêm, đẹp thêm bức tranh tình người. Do tình cờ xui khiến
mà Tràng –Thị, hai thân phận “bèo bọt” trôi dạt vào nhau chụm thành nên bếp mà
nhóm lên ngọn lửa hạnh phúc.
- Tác giả đã tạo cho thiên truyện một phông nền đặc biệt nhàu nát, ảm đạm, tối
tăm, có phần nghiệt ngã. Mảng tối của bức tranh hiện thực đau buồn chính là phép đòn
bẩy cho mảng sáng của tình người, của khát vọng hạnh phúc tỏa ánh hào quang.
a. Tràng đưa vợ về nhà trước con mắt tò mò của những người xóm ngụ cư. Tâm
trạng Tràng có những biến đổi rất tinh tế qua cái nhìn của nhà văn Kim Lân.
+ “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình
và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Từ một gã dân ngụ cư xấu xí, ế vợ, lần đầu tiên hắn
cảm nhận được hạnh phúc. Tràng trong tâm trạng lâng lâng, vui sướng, tủm tỉm cười,
thích chí. Ánh mắt tràn đầy hi vọng. Nó đối lập hoàn toàn với khung cảnh thê lương,
ảm đạm của xóm ngụ cư. Đấy là gì nếu như không phải là cái bộ dạng sung sướng, cái
cảm giác đang ngất ngây trong men say hạnh phúc, dù nó mới bắt đầu trong Tràng?
+ Trước con mắt tò mò của những đứa trẻ, “Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc
đầu ra hiệu không bằng lòng”. Nếu như trước đây hắn thường xuyên nô đùa với đám
trẻ thì dường như việc có vợ khiến Tràng trưởng thành. Hắn ý thức được mình cần tách
biệt với đám trẻ con. Kim Lân diễn tả rất thành công cách cư xử của Tràng với lũ trẻ
con trêu đùa, để gã trai này mắng yêu lũ trẻ “Bố ranh!”. Gã trai tưởng chừng ngờ
nghệch này cũng khéo léo biết mấy để đưa vợ về nhà trước những cặp mắt tò mò và những lời trêu đùa.
+ Trước con mắt tò mò và ái ngại của người dân xóm ngụ cư “Ôi chao! Giời đất
này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này
không?”, Tràng vẫn không hề lo sợ tương lai. Trong trái tim anh cu Tràng giờ
đây chỉ có niềm hạnh phúc mới vừa nhen nhóm. Dường như mọi âu lo, nghịch
cảnh khắc nghiệt của cuộc sống cũng không thể ngăn con người hướng về những
giá trị đích thực là có một mái ấm gia đình, được yêu thương. Và không có gì
ngăn nổi niềm tin, niềm hi vọng của họ vào tương lai. Đó chính là giá trị nhân
văn đầy cảm động của truyện ngắn này.
+ Trước sự ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia của thị “hắn cũng biết
thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. Việc
có vợ khiến Tràng trở nên hãnh diện với mọi người trong xóm ngụ cư và ngay cả với
bản thân mình hắn cũng không thể giấu nổi niềm vui, niềm hạnh phúc.
b. Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm lý, tính cách của thị. Nhà văn như lọt
vào trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy của người phụ nữ năm đói. Người đàn bà bề
ngoài tưởng như đáng khinh ấy khi lâm vào cảnh cùng đường phải theo không Tràng
trong lòng cũng vừa thấy tủi phận, vừa e thẹn, ngượng ngập: “Thị cắp cái thúng con,
đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ
rón rén, e thẹn”. Cái dáng vẻ ấy không giấu nổi những cặp mắt tò mò của người dân
xóm ngụ cư. Người ta thấy “Thị thèn thẹn hay đáo để” khi nhận thấy cặp mắt những
người xung quanh đang đổ dồn cả về phía mình “Thị ngượng ngịu chân nọ díu vào
chân kia”. Kim Lân như nhìn thấy cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy cả trong bước
chân liêu xiêu, bước díu vào nhau kia là cả tủi hờn, xấu hổ. Nhà văn đã miêu tả thật
tinh tế và cảm động những bước chân ngập ngừng e thẹn trên đường về nhà chồng của
thị. Qua đó, chúng ta thấy Kim Lân rất thấu hiểu tình cảnh tội nghiệp, cực chẳng đã
của người vợ nhặt. Hoàn cảnh tàn nhẫn xô đẩy chị có lúc thành ra trơ tráo, cong cớn,
nhưng cái bản chất thực của chị không phải là như vậy. Ẩn sâu trong tâm hồn chị vẫn
là người con gái giàu lòng tự trọng. Cái hay của tác phẩm là không để cảnh ngộ xua
con người đi đến tận cùng của cái tầm thường, hèn hạ.
+ Cũng như Tràng, thị mong muốn có hạnh phúc, có một mái ấm gia đình dù ban
đầu cái mong muốn ấy không hề xuất hiện. Thị tự nguyện về làm vợ Tràng chẳng qua
vì đói. Người đàn bà ấy đến với Tràng trước hết chỉ như đến với một chốn có thể tựa
nương trong thời buổi đói kém, không hề có biểu hiện của tình yêu hay niềm khát khao
hạnh phúc. Nhưng Kim Lân, bằng vốn sống và sự tinh tế của mình, đã khám phá ra cái
bản chất đẹp của người vợ nhặt: niềm khát khao hạnh phúc.
c. Những người dân trong xom ngụ cư khi “Nhìn theo bóng Tràng và bóng người
đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm”. Họ “bàn tán” và khi họ “hiểu đôi
phần” khuôn mặt họ “bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên” . Tình huống đã tạo nên sự thay đổi
mới mẻ theo hướng tích cực : bên bờ vực cái chết vì đói khát vẫn biết cảm thông cho
nhau , tin tưởng vào điều tốt đẹp : “Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống
đói khát, tăm tối ấy của họ”. Rõ ràng cuộc hôn nhân kì lạ của Tràng đã làm bừng sáng
niềm yêu thương trong xóm ngu cư vốn như những nhà mồ hoang lạnh với những sinh
linh đang tuyệt vọng trong cơn đói khát . Tình yêu, khao khát hạnh phúc như ngọn gió
xua đuổi tà khí u mê vây bủa con người. Viết đoạn văn này Kim Lân đã khẳng định sự
sống và ý chí vươn lên chống lại định mệnh của con người luôn mãnh liệt. Mở rộng:
- Kim Lân mượn cái đói như một phép thử để làm nổi bật cái tình, như một bối
cảnh khảo sát sức sống của con người. Cuộc sống đói nghèo chỉ có thể làm teo tóp
phần thể xác chứ không thể hủy diệt được tình yêu thương đồng loại, không thể dập tắt
ngọn lửa khát vọng sống trong mỗi cá nhân. Hiện thực đó chỉ là phông nền, là hoàn
cảnh để vẻ đẹp của tâm hồn con người, tình yêu thương của những con người dành cho nhau tỏa sáng đẹp đẽ.
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
- Phản ánh hiện thực khốn cùng của người lao động điều mà Kim Lân muốn
hướng đến không phải là cái đói, cái chết mà là để khẳng định sự sống của họ, khẳng
định dù trong hoàn cảnh cơ cực, con người vẫn vươn lên để sống và khát khao. Kim
Lân viết Vợ nhặt không chỉ bằng con mắt hiện thực sắc lạnh mà còn bằng cả trái tim
chan chứa yêu thương và trân trọng con người. Qua đó, nhà văn phát hiện ra những tia
sáng về đạo đức và danh dự, đằng sau những số phận bi kịch là vẻ đẹp tâm hồn, là
những khát khao bản năng của con người.
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
PHÂN TÍCH VỢ NHẶT (KIM LÂN) THEO ĐOẠN TRÍCH
Đoạn 3: “Ít lâu nay … cùng đẩy xe bò về”
* Vị trí, nội dung của đoạn trích: Thuộc phần giữa của truyện, đoạn văn là dòng hồi tưởng của
nhân vật Tràng trong một lần “xe thóc Liên đoàn lên tỉnh” thì tình cờ gặp thị. Nhờ một câu bông
đùa mà Tràng có vợ. Đoạn văn vừa hài hước vừa chua xót, diễn tả tâm trạng nhân vật thị, tâm
trạng của Tràng qua hai lần gặp gỡ.
1. Lần gặp gỡ thứ nhất
a. Tràng: Tràng là người lao động thiệt thòi, nghèo khổ đến mức cái tên cũng gợi sự lam lũ, vất
vả. Đó là con người được tạo hóa đẽo gọt quá sơ sài về ngoại hình và tính cách. Hắn có vẻ ngờ
nghệch, vừa đi vừa lảm nhảm những điều hắn nghĩ. . Tràng là dân ngụ cư với thân phận bèo bọt,
sống tạm, nghề nghiệp vất vưởng, gia cảnh nghèo khó, mẹ góa con côi nên đã nhiều tuổi mà
chưa có hạnh phúc gia đình.
- Tràng kéo xe bò thuê lên tỉnh để kiếm sống. Vì mệt quá mà anh cất lên câu hò. Không ngờ, đó
là câu hò khiến nhân vật thị chú ý. Sau câu hò vu vơ của Tràng, anh đã được một người con gái
“ton ton chạy lại đẩy xe” và “liếc mắt, cười tít”.
- Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng chỉ muốn hò để xua đi mỏi mệt trong
người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai cả. Anh chỉ hò cho vui:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”
Vì đùa vui nên Tràng không giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc
khi bắt gặp cái “liếc mắt, cười tít” của thị bởi “từ cha sinh mẹ để đến giờ, chưa có người con gái
nào cười với hắn tình tứ như thế”.
=> Câu hò trở thành nhịp cầu nối, mở đầu cuộc gặp gỡ của hai con người cùng khổ trong nạn đói 1945.
b. Người vợ nhặt: Người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói năm 1945. Thị là người vô gia cư,
đến cái tên cũng chẳng có. Người vợ này không tên, không tuổi, không gốc tích. . Trong suốt
trang sách chỉ là cô ả, người đàn bà. .vô danh, vô nghĩa tựa như một vật gì đó rơi vãi ngoài đường
để Tràng có thể nhặt đem về làm vợ. Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói.
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
- Ngồi lẫn trong đám con gái chờ để “nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm”
nhằm duy trì sự sống đang thoi thóp. Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là người phụ nữ ăn nói
chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh. Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen đẩy xe bò cho Tràng.
Khi nghe Tràng hò một câu cho đỡ nhọc, thị chạy lại đẩy xe với hi vọng được ăn. Nhưng lần đó,
anh cu Tràng không giữ đúng thỏa thuận của câu hò.
2. Lần gặp gỡ thứ hai: Đùa bỡn thành thật, Tràng sẵn sàng đánh đổi tất cả để có gia đình hạnh phúc
a. Tràng: đùa đã thành thật ở lần gặp thứ hai
Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có người đàn bà “sầm sập chạy đến”,
“sưng sỉa nói: “Điêu, người thế mà điêu!””. Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy
xe cho mình bởi thị đói rách và xác xơ quá. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị
cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị
gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” .Thấy người đàn
bà đói, rách thảm hại, Tràng động lòng thương. Anh sẵn sàng cho thị ăn dù cũng chẳng dư dật
gì. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả.
Tràng mời người đàn bà kia ăn, không chỉ cho ăn mà còn cho ăn rất nhiều: “bốn bát bánh đúc”.
Đó chính là lòng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hay chòng ghẹo.
- Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên
xe rồi cùng về”. Phía sau câu nói tưởng là đùa vui bật ra từ người đàn ông nghèo khổ ấy là khát
vọng cháy bỏng có thật về một mái nhà hạnh phúc, về tổ ấm gia đình. Nói đùa thế thôi, ai ngờ
thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết “mới đầu anh cũng chợn, nghĩ:
thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ
hãi có thật, nhất lại là thời đói kém như thế này, một nỗi lo rất thực tế. Nhưng có lẽ tình thương
người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh tặc lưỡi “Chậc, kệ!” Chỉ
một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén
cho cái hạnh phúc của mình. Cái “tặc lưỡi” không phải là sự phó mặc liều lĩnh, dễ dãi mà đó là
tình thương yêu của anh với người cùng khổ. Việc hai người đến với nhau bề ngoài có vẻ ngẫu
nhiên nhưng bên trong lại là tất nhiên. Người đàn bà cần Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói
kém, còn Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo ấy để có vợ và biết đến hạnh phúc. Anh chấp nhận
đương đầu với những khó khăn hiện tại và cả sắp tới. Phải chăng đằng sau cái quyết định có vẻ
tầm phơ tầm phào đối với một việc thuộc loại trọng đại bậc nhất trong đời, Tràng đã dám đánh
cược cuộc đời mình cùng cái đói, cái chết? Niềm khao khát hạnh phúc gia đình mạnh hơn tất cả.
Nhà văn đã diễn tả thật chính xác và cảm động niềm hạnh phúc đang diễn ra trong tâm lí của
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
Tràng. Qua đây có lẽ nhà văn Kim Lân muốn gieo vào tâm hồn bạn đọc cái suy nghĩ: sự đói khát
có thể khiến người ta chết chứ không thể làm giảm giá trị tình người.
- Hạnh phúc giản dị, đơn sơ là thế nhưng trong hoàn cảnh của Tràng, anh đâu dễ đã có được? Vì
thế khi có nó Tràng rất trân trọng, nâng niu. Điều này được chứng thực trong hàng loạt các hành
động và phản ứng tâm lí của Tràng kể từ khi có vợ. Đầu tiên là việc anh “đưa thị vào chợ tỉnh
bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê rồi
cùng đẩy xe bò về. .”. Chi tiết này cho thấy Tràng là một người đàn ông phóng khoáng, biết quan
tâm đến người khác – người bạn đời. Sính lễ chẳng có gì to tát nhưng hành động của Tràng cho
thấy anh rất nghiêm túc, biết nghĩ với một trái tim nhân hậu. Phải chăng niềm khao khát về một
mái ấm thực sự luôn âm ỉ cháy từ lâu trong Tràng, nhưng vì cuộc sống khắc nghiệt đã bóp nghẹt
nó lại nên bây giờ khi có cơ hội tỏ bày thì nó được thể hiện một cách vô cùng tự nhiên, tinh tế
đến thế. Tràng trân trọng hạnh phúc mà mình có được. Và hạnh phúc giống như làn gió mát cuốn
đi tất cả những ê chề, lo lắng, tăm tối làm Tràng quên đi những ngặt nghèo của cuộc sống mưu sinh. b. Người vợ nhặt
- Cái đói đã hành hạ đẩy thị đến bờ vực thẳm. Thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn, nếu
như không muốn nói là xấu. Chân dung của thị được gợi tả với “những nét không dễ nhìn”. Cái
đói đã để lại dấu tích ghê gớm của nó trên khuôn mặt “lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con
mắt”, và “áo quần tả tơi như tổ đỉa”.; làm cho thị trở nên trơ trẽn chỉ vì miếng ăn. Vì đói mà thị
trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói biến
thị thành kẻ liều lĩnh, cùng đường, đánh rơi cả lòng tự trọng. Hai con mắt của thị sáng lên trước
miếng ăn, thị quên đi cái e thẹn, nết na, kín đáo vốn có của người phụ nữ, thị nói với Tràng một
cách thẳng thắn: “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”, rồi cong cớn trước mặt Tràng “Ăn thật nhá! Ừ ăn
thì ăn sợ gì”. Thế rồi thị sà xuống “cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện
trò gì”. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng: “Hà, ngon”. Bánh đúc – thứ thức ăn
được coi là bình dân và rẻ tiền trong đời sống người Việt Nam trong những tháng ngày đói kém
đủ phép màu để làm hai con mắt trũng hoáy của người phụ nữ đói sáng lên. Có thể nói, tất cả
những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể
làm biến dạng tính cách của con người. Có xót xa không khi tác giả buộc ta phải nghĩ: cái đói
quay quắt nọ, té ra nó cũng có thể xe duyên cho một mối tình. Nói đến điều này chắc chắn nhà
văn thực sự xót thương và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động. Kim Lân
miêu tả cái thảm hại của một con người trong năm đói, nhưng ông không cố khoét sâu vào nỗi
đau ấy mà chỉ lướt qua để người đọc đủ nhận thấy nhân cách của con người bị cái đói hủy hoại
như thế nào. Dưới ngòi bút giàu nhân ái, Kim Lân vẫn dành cho nhân vật của mình sự cảm thông và trân trọng.
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
- Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt.
Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu
Tràng nói đùa “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” thì người đàn bà kia lại im
lặng sau câu đùa của Tràng. Nói đúng hơn là thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân.
Thị nào có biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? Quê quán, gốc tích ra sao? Chỉ một câu hò bâng
quơ và mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng
ăn? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra, hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám
lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Vì quá đói, không có nơi nương tựa đã phải bước qua
tất cả để theo về làm vợ Tràng. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống.
Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái ảm đạm để xây dựng mái ấm gia đình. Niềm lạc quan, yêu sống
của thị chính là một phẩm chất đáng quý. Nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói
người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn
với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không
nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”! 3. Đánh giá
*Tràng: là người dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền lành, tốt bụng, sẵn sàng cưu mang
người cùng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp. Viết về nhân vật Tràng, Kim Lân đặt nhân vật
vào một tình huống vừa kì quặc, vừa oái ăm, vừa bi hài nhưng nhà văn đã cảm thông, chia sẻ
cùng nhân vật để cất lên bài ca nhân bản mạnh mẽ, làm tha thiết lòng người về hạnh phúc đời
thường. Con người dù nghèo khổ đến đâu, họ vẫn có quyền mơ ước một gia đình hạnh phúc.
*Người vợ nhặt: người đàn bà vì đói quá, không có nơi nương tựa đã phải bước qua tất cả để
theo Tràng về làm vợ chỉ bằng câu nói tầm phơ tầm phào. Trong lời giới thiệu ban đầu, chúng
ta tưởng thị là một người chao chát, chỏng lỏn không còn biết xấu hổ là gì. Nhưng kì thực, thị
là một số phận đáng thương. Phía sau hình ảnh “cùng đường và liều lĩnh”, bạn đọc thực sự xúc
động trước vẻ đẹp chiều sâu tâm hồn của thị, đó là một người người phụ nữ giàu nữ tính, giàu
lòng tự trọng và có khát vọng sống mãnh liệt.
*Đối với tác giả: qua hai lần gặp gỡ của nhận vật Tràng, Kim Lân thể hiện niềm cảm thông sâu
sắc trước hoàn cảnh bi đát của người nông dân Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
Nhà văn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là khát vọng sống, đề cao tình thương, tình nghĩa
con người trong tận cùng khổ đau vì đối diện với cái đói, cái chết đang rình rập. Tác giả gửi gắm
niềm tin vào người nông dân. Chính khát vọng hạnh phúc gia đình sẽ làm nên sức mạnh để con
người hướng về tương lai.
*Đối với bạn đọc: nâng cao lòng yêu thương, khát vọng sống hạnh phúc xây dựng tổ ấm gia đình…
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com)
Để nhận đầy đủ tài liệu, tham gia ngay lớp LUYỆN ĐỀ CHIẾN LƯỢC 2022 của Học Văn cô
Minh Hương. Đăng kí tại:
PHÂN TÍCH VỢ NHẶT (KIM LÂN) THEO ĐOẠN TRÍCH
Đoạn 5: “Bà lão khẽ thở dài. . ròng ròng”
- Từ nỗi lo cho con trai tấm lòng nhân hậu của người mẹ lại càng hiểu và thương
con dâu nhiều hơn. Trong xã hội phong kiến xưa, khoảng cách con dâu và mẹ chồng
thường là rất lớn, nhất là khi một người phụ nữ theo không về nhà chồng một cách dễ
dàng như vậy sẽ bị gia đình nhà chồng ghẻ lạnh, coi thường. Nhưng bà cụ Tứ thì khác,
bà tỏ ra sâu sắc với người vợ nhặt của Tràng. Bà coi chuyện Tràng nhặt được vợ là niềm
hạnh phúc, may mắn cho gia đình bà: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người
ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Vậy là chính tình yêu thương
con người, yêu thương đồng loại và bằng một trái tim nhân ái bà mẹ nghèo đã vượt qua
những định kiến nặng nề trong xã hội cũ để đạt đến sự cảm thông lớn lao – bà vui mừng
chấp nhận cuộc hôn nhân của Tràng và đón nhận nàng dâu mới. Những suy nghĩ ấy của
bà cụ Tứ rất cảm động vừa chất chứa niềm xót thương, vừa xao xuyến niềm vui. Tất cả
điều đó đều có được từ một người mẹ bao dung độ lượng và nhân hậu, giàu lòng vị tha.
Cũng chính vì lẽ đó mà nàng dâu mới đã nhận được ở bà sự âu yếm, nhẹ nhàng, thương
cảm. Bà nói với dâu con: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau u cũng
mừng lòng”. Ở đây không phải là “bằng lòng” mà là “mừng lòng”. Sự chấp nhận của bà
cụ Tứ không có thái độ miễn cưỡng, gượng ép. Cụ mừng lòng bởi con trai đã có vợ, điều
mà cụ chưa bao giờ dám nghĩ. Con trai cụ có vợ nghĩa là nó đã ‘nên người”. Sau đó bà
căn dặn, an ủi các con: “vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn”. Bà động viên
các con bằng triết lý lạc quan của người lao động: “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai
khó ba đời? Có ra rồi thì con cái chúng mày về sau”.
- Giữa cảnh đói chết, ranh giới giữa sự sống và cái chết rất đỗi mong manh; giữa
việc gia đình có thêm một người đồng nghĩa với nguy cơ chết đói cao hơn, bà cụ vẫn
hướng các con về một ngày mai tươi sáng. So với cảnh ngộ của bao nhiêu người, cảnh
ngộ của bà cụ Tứ khó khăn, bi thảm hơn nhiều. Vậy mà bà cụ vẫn vẹn nguyên một niềm
tin vào tương lai phía trước. Phải chăng đó chính là cái triết lý sống lạc quan, yêu đời đã
tồn tại hàng nghìn năm qua trong đời sống dân gian người Việt, nay đã đọng lại và biểu
hiện ở một trong những con người cụ thể là bà cụ Tứ? Chẳng biết rồi đây cái triết lý sống
ấy của bà cụ có tiếp tục được duy trì trong hoàn cảnh này hay không nhưng có một điều
chắc chắn là đối với vợ chồng Tràng, nó thực sự là một liều thuốc tinh thần vô giá, nó
động viên, khích lệ, tiếp thêm sức mạnh cho Tràng và thị trong cuộc chiến khốc liệt với
cái đói và cái chết đang rình rập trong nhà, ngoài cửa.
- Nén lòng để tạo tâm lý thoải mái cũng như sự khởi đầu tốt đẹp nhất cho hai đứa
con nhưng bà lão không thể quên đi những ám ảnh về đói rét, chết chóc. Có thể nói đây
là một nét tâm lý rất phức tạp và sâu kín của bà cụ Tứ. Khi trở về với cõi riêng của mình,
lòng người mẹ nghèo lại quặn thắt với những đau đớn, xót xa. Điều đó được thể hiện
rất rõ qua chi tiết: “Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài
xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ
đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình.” Kim Lân
đã thấu suốt vào cái nhìn của bà cụ Tứ để nhận thấy trong đó sắc màu chủ đạo là màu đen
đặc của bóng tối. Cái bóng tối ở đây không chỉ là bóng tối của đêm mà còn là bóng tối
của đói nghèo, cực khổ đã bao trùm lên toàn bộ cuộc đời bà, là bóng tối của sự chết chóc,
ám ảnh qua nỗi nhớ về những người thân đã khuất là chồng và đứa con gái út. Bóng tối
này đã đè nặng lên ánh nhìn, đè nặng lên tấm lòng của người mẹ nghèo để trong lòng bà
tràn lên một nỗi xót xa cho số phận mình nhưng lớn hơn là sự lo lắng đến xót xa cho một
sự tồn tại, cho tương lai các con. Bởi vậy, sau phút trọn vẹn với những cảm xúc của riêng
mình, khi trở về với thực tại bà không còn nén nổi cảm xúc như trước đó mà những lời
nói ra đã nghẹn ngào trong nước mắt: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc
này, u thương quá”. Những lời nghẹn ngào, xót xa của bà cụ Tứ đã tạo nên sự xúc động
cao độ của câu chuyện về vẻ đẹp của tình mẫu tử, lớn hơn là tình người.
- Tuy nhiên, chính trong lúc đau khổ, bi quan như thế, lòng người mẹ nghèo càng
thương con hơn bao giờ hết. Thương anh con trai bao nhiêu, bà thương nàng dâu mới bấy
nhiêu: “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót”. Bằng tình thương con vô bờ
bến, bà không nghĩ cho mình, bà nuốt nghẹn những cảm xúc đắng cay, giấu đi những
niềm xót xa tủi hổ, bà chỉ nghĩ đến cuộc đời Tràng và người vợ nhặt ở ngày mai. Bà lão
chuyển sang cảm thông, thương xót cho người đàn bà xa lạ bỗng nhiên trở thành vợ nhặt
con mình. Lúc trước, bà thương “thị” trong tư cách của những người phụ nữ gặp phải cái
thời khốn khó trong cuộc đời. Ấy là tình thương, sự đồng cảm giữa người với người. Còn
bây giờ, tình thương của bà là tình thương của người mẹ chồng dành cho nàng dâu của
mình. Đã xem thị “là dâu là con trong nhà rồi”, bà cụ Tứ dành tình cảm yêu thương, lo
lắng cho “thị” như cho Tràng. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy
xuống ròng ròng’’. Không nhiều lời giãi bày nhưng người đọc đủ thấy tấm lòng bao dung
vị tha nhân hậu của một người mẹ nghèo khó thật hiếm có.
Downloaded by VietJack TV Official (vietjackvideos@gmail.com) *Mở rộng
- Kim Lân đã không đi sâu vào những sự gọt giũa của ngôn từ, cũng không đi sâu
xây dựng những nhân vật giàu kịch tính. Với ngôn từ giản dị, với ngòi bút xây dựng và
những phân tích tâm lý nhân vật sắc sảo, đặt trong một tình huống truyện độc đáo, nhà
văn đã xây dựng thật thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, với nhiều cung bậc cảm
xúc: mừng tủi, vui buồn, cay đắng, âu lo, chứa chan hy vọng. .Cụ Tứ chính là hình tượng
tiêu biểu cho người nông dân, những con người nghèo khổ nhưng sống trong tình người,
có khát vọng và niềm tin. Nếu không có nhân vật bà cụ Tứ, chắc chắn “Vợ nhặt” sẽ kém
phần hấp dẫn. Với nhân vật cụ Tứ, nhà văn muốn gửi thông điệp tới muôn đời: dù cho
cuộc sống có bi thảm đến đâu thì những con người nghèo khổ vẫn khao khát vượt lên
hoàn cảnh để sống, để làm người và cả để “nên người”. “Vợ nhặt” mang đến cho người
đọc một dư vị riêng của cuộc đời: đắng chát, khổ đau, nhưng vẫn chứa chan tình người
và luôn tìm thấy ánh sáng ở phía cuối con đường. .
Để nhận đầy đủ tài liệu, tham gia ngay lớp LUYỆN ĐỀ CHIẾN LƯỢC 2022 của Học Văn cô
Minh Hương. Đăng kí tại:
Document Outline
- PHÂN TÍCH VỢ NHẶT (KIM LÂN) THEO ĐOẠN TRÍCH
- Mở rộng:
- *Mở rộng
