




Preview text:
Phân tích đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng ta
Trong lịch sử hiện đại, đất nước Việt Nam thoát ra khỏi những năm dài nô lệ
để trở thành một quốc gia độc lập thống nhất như ngày nay là vì nhân dân và
lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam đã kiên trì cuộc chiến đấu bền bỉ
theo đường lối chính trị đúng đắn và đường lối quân sự sáng tạo của Đảng.
Đường lối quân sự của Đảng kế thừa và phát triển lên một trình độ mới, một
chất lượng mới truyền thống yêu nước, tự lập tự cường, anh hùng bất khuất,
quyết chiến quyết thắng, truyền thống quân sự cả nước chung sức đánh giặc
của dân tộc Việt Nam, một dân tộc vốn có tài thao lược kiệt xuất. Trên cơ sở
đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, đường lối quân sự hình thành và
không ngừng phát triển từng bước qua mỗi thời kỳ cách mạng và chiến tranh
cách mạng của nhân dân ta, đặc biệt phải kể đến đường lối kháng chiến
chống Pháp của Đảng ta. 1. Hoàn cảnh lịch sử
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 nước ta còn nằm trong vòng vây của
Chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng
đầu là Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện các giải pháp về: kinh
tế, chính trị, quân sự, ngoại giao.
Điều này đã đưa ta thoát khỏi thế ngàn cân treo sợi tóc, tạo thế, tạo lực cho
sau này. Đảng ta đã thực hiện sách lược hòa hoãn với Pháp bằng việc ký
Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946. Nhưng với dã tâm xâm
lược, cuối năm 1946 Pháp phản bội mọi cam kết, quyết cướp nước ta một lần
nữa. Ngày 18-12-1946, ở Hà Nội , Pháp gửi tối hậu thư cho ta, tra quyền
kiểm soát thủ đô và giải tán quân tự vệ. Tiếp đó, Pháp gây vụ thảm sát ở phố
Hàng Bún Hà Nội. Trước hành động ngày càng lấn tới của thực dân Pháp, ta
không thể nhân nhượng được nữa, nhân nhượng nữa là mất nước. Vì vậy,
ngay đêm 19-12-1946 Đảng và Chính phủ đã phát động toàn quốc kháng chiến.
Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược là: cuộc chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ
nền độc lập tự do của dân tộc, ta đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên
về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược.
Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao
vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại
có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước Lào, Campuchia và một số
nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền Bắc.
2. Quá trình hình thành đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng
Ngày 19/10/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị quân sự
toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ
nhận định: “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định phải
đánh Pháp”, Hội nghị đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư
tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu
mới. Trong chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” ngày 05/11/1946, Hồ Chí
Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc
kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Bất chấp những
thiện chí hòa bình của Việt Nam, trong các ngày 15 và 16-12-1946, quân
Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17-12-1946, chúng cho xe
phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố
Hàng Bún và phố Yên Ninh.
Ngày 18-12-1946, tướng Morlière gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng
Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường
phố, đòi để cho chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố
nếu các yêu cầu đó không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì quân
Pháp sẽ chuyển sang hành động chậm nhất là sáng ngày 20-12-1946. Tình
thế đó buộc Đảng, Chính phủ và nhân dân ta không có lựa chọn nào khác là
cầm vũ khí đứng lên chiến đấu toàn quốc để bảo vệ độc lập dân tộc. Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra “lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” quyết tâm chống thực dân
pháp xâm lược, bảo vệ tổ quốc Ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc, Hà
Đông (nay thuộc Hà Nội), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do
Hồ Chủ tịch chủ trì, đề ra đường lối, quyết định cả nước bước vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Sáng 20-12-1946 Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả nước (viết
ngày 19-12-1946):“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước…
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị
Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm
Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập
đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình
là chính” trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hưởng ứng lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến, cả dân tộc ta đoàn kết một lòng chiến đấu chống thực dân Pháp.
3. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 - 1954
Từ cơ sở thực tiễn đấu tranh ngày càng phong phú của khởi nghĩa vũ trang
và chiến tranh cách mạng lâu dài, đường lối quân sự của Đảng ngày càng có
thêm những cơ sở khoa học vững chắc, có tính chiến đấu cao nên ngày càng
hoàn chỉnh và trở thành ngọn cờ trăm trận trăm thắng của lực lượng vũ trang
cách mạng Việt Nam và toàn dân tộc Việt Nam.
Đường lối quân sự của Đảng là đường lối khởi nghĩa vũ trang toàn dân; Tính
chất kháng chiến: trường kì kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
Nội dung của đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.
– Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng
Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
– Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc chiến
tranh cách mạng có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do…nhằm hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và phát triển dân chủ mới”.
– Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân,
thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
+ Kháng chiến toàn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên
đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
+ Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn
hóa, ngoại giao. Trong đó:
Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính
quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.
Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến
tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là “triệt để dùng du kích, vận động
chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… vừa đánh vừa võ trang thêm;
vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.
Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển
nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa
dân chủ theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp
với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán
nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập,…
+ Kháng chiến lâu dài (trường kì): là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng
nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”
của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta
mạnh hơn địch, đánh thắng địch. + Dựa vào sức mình là chính: “phải tự cấp,
tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh
thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.
+ Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.
4. Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
– Ý nghĩa trong nước: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến,
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc
chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước
Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế
quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng
hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm
căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự
hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
– Đối với quốc tế: thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội
và cách mạng thế giới, cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ
của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ
yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó cũng là một thắng lợi
vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của
các lực lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”.
Document Outline
- Phân tích đường lối kháng chiến chống Pháp của Đản
- 1. Hoàn cảnh lịch sử
- 2. Quá trình hình thành đường lối kháng chiến chốn
- 3. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1946
- 4. Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống thực dâ