-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ | Văn mẫu 12
Giá trị hiện thực trong Vợ chồng A Phủ tổng hợp 6 mẫu khác nhau cực hay kèm theo 4 gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình để viết bài văn phân tích hay.
Chủ đề: Văn mẫu 12
482 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 12
812 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Dàn ý giá trị hiện thực trong Vợ chồng A Phủ Dàn ý số 1 I, MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nội dung yêu cầu của đề bài: Giá trị hiện thực của tác phẩm. II, THÂN BÀI 1, Giải thích
- Giá trị hiện thực là gì? => Đó là bức tranh đời sống hiện thực được nhà văn phản ánh
trong tác phẩm của mình. Đó là bức tranh đời chân thực nhất được người nghệ sĩ cải
biến đưa vào trang văn của mình, từ đó phản ánh lên những sự thực ở đời đến người
đọc. Mỗi tác phẩm văn học đều có giá trị hiện thực, bởi văn chương không thể xa rời
thực tế, cũng như “Nhà văn phải là người thư ký trung thành của thời đại” (Balzac).
- Giới thiệu khái quát về tác phẩm: “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được Tô Hoài viết
sau khi 8 tháng ở miền núi Tây Bắc với bộ đội và những người dân tộc nơi đây. Chính
vùng đất thiêng liêng ấy đã để lại nhớ thương trong lòng ông, khiến ông phải cầm bút
lên viết ngay tác phẩm này như một lời chào trở lại với miền đất thân yêu ấy. Tác
phẩm kể về nhân vật Mị, vì món nợ của gia đình mà bị bắt về làm con dâu gạt nợ. Từ
đó, cuộc đời khổ đau, bị bóc lột liên tục của Mị bắt đầu. Bên cạnh đó còn vô số những
mảnh đời khác như A Phủ, người chị dâu của Mị, bố mẹ Mị… cũng bị như thế.
2, Phân tích chứng minh
a, Chế độ phong kiến miền núi tàn bạo độc ác
- Tất cả đều được thể hiện qua đám cha con thống lí Pá Tra, A Sử và đám tay sai của
chúng: bọn chức việc, lí dịch, thống quán… ở Hồng Ngài. Những cảnh ăn vạ và “xử
kiện”, cảnh hút thuốc phiện, cảnh hành hạ A Phủ, trói Mị… đều thể hiện rõ điều này.
- Chúng cho người dân vay nặng lãi, dùng cách cúng trình ma để hù dọa người dân,
mỗi năm lãi càng thêm nhiều. Điển hình là gia đình Mị. Bố mẹ Mị chỉ vì muốn lấy
được nhau mà phải vay nhà thống lí tiền để làm cơm mời cả làng, nếu không sẽ không
được đồng ý. Món nợ ấy ngày qua ngày sinh lãi, lãi mẹ đẻ lãi con, đến khi mẹ Mị mất
đi, bố Mị già rồi vẫn chưa hết. Mỗi năm nhà Mị đều phải trả tiền lãi là một nương ngô.
Chính món nợ ấy cùng trò cúng trình ma khiến gia đình Mị không thể nào trốn được,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
khiến Mị mất đi tự do, bố Mị mất đi đứa con gái duy nhất. Hạnh phúc phải đánh đổi
bằng cả cuộc đời, bằng tự do.
- Vì đánh A Sử - đánh con quan, dẫu cho lí do có chính đáng, ấy nhưng người sai vẫn
là A Phủ, phải chịu hình phạt nặng nề và xử kiện một cách oan uổng. A Phủ bị nhà
thống lí khiêng mang về, trói và ném giữa nhà không khác gì đối xử với một con vật.
Phiên tòa ấy được tiến hành một cách man rợ và khó hiểu. Suốt đêm chỉ nghe thấy
tiếng mắng chửi, hình ảnh hút thuốc phiện, cứ xong một đợt thuốc là lại đánh A Phủ.
Không được thanh minh, không được lên tiếng giải thích, cứ thế bị quy chụp cho cái
mũ tội lỗi, nộp 100 đồng bạc trắng phạt vạ. Nhưng A Phủ nào có tiền, lại phải vay nhà
thống lí. Và đó là lần đầu tiên A Phủ thấy nhiều tiền tới vậy, có lẽ cũng là lần cuối
cùng được chạm tới tự do.
b, Cuộc sống thống khổ bị bóc lột của người dân miền núi bởi cường quyền và thần quyền * Nhân vật Mị
- Mị vốn là một cô gái người Mèo có đủ khả năng và điều kiện hưởng một cuộc sống
hạnh phúc, có một tương lai tươi sáng. Ấy vậy nhưng không, món nợ truyền đời
truyền kiếp của cha mẹ Mị, với những yêu cầu quá quắt của phong tục miền núi khiến
Mị mất đi tự do, trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.
- Gọi là con dâu, nhưng lại là kiếp con dâu gạt nợ, chẳng khác gì một con ở không
công đến suốt đời suốt kiếp cho nhà thống lí, không được ngơi nghỉ. Lúc nào cũng là
“những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên
núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi,
bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế,
suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân,
nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.” Một cô gái ấy nhưng
làm việc không ngơi nghỉ, ngày đêm làm việc, bị vắt kiệt sức lao động. Thậm chí Mị
còn nghĩ mình không bằng cả con trâu, con ngựa bởi chúng nó còn có lúc được nghỉ
ngơi, chăm sóc cẩn thận.
+ Căn phòng Mị ở chỉ là một căn buồng nhỏ kín mít, duy nhất có một “chiếc cửa sổ
một lỗ vuông mờ mờ trăng trắng” chẳng rõ được là đêm hay là ngày.
+ Mị thậm chí còn bị đày đọa về tinh thần. Bản thân Mị và A Sử vốn không có lòng
với nhau, vậy mà phải ở với nhau. A Sử đối với Mị chẳng khác gì chủ nhà với con ở:
Trong đêm tình mùa xuân, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử không cho. phũ phàng trói
Mị lại ở góc cột, quấn tóc Mị vào cột để Mị không nghiêng đầu được. Và, ở nhà này
đã từng có người bị trói đứng mà chết rồi. Ngay cả khi A Sử đi chơi về bị thương, Mị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
ra rừng lấy thuốc bôi cho A Sử, trong lúc mệt quá mà thiếp đi, Mị bị A Sử bị đạp
xuống giường. Trong những đêm đông, thấy Mị ngồi thổi lửa hơ tay, A Sử đá Mị ngã…
+ Khổ, bị áp bức, bị bóc lột nhưng Mị không dám bỏ trốn, bởi Mị đã bị chúng nó đem
đi cúng trình ma rồi. Mị đi đâu, con ma nhà thống lí sẽ theo tới đó bắt Mị trở lại. Cách
duy nhất chỉ có một con đường chính là chết thôi, nhưng Mị không thể chết được. Sự
mê tín vào thần quyền đã ràng buộc Mị lại cuộc sống không khác gì địa ngục này,
vùng vẫy thế nào cũng không thể thoát ra được.
=> Từ một cô gái trẻ trung, Mị mất dần sức sống, trở thành loài thảo mộc chẳng còn
biết rung rinh trước gió, bị ràng buộc. Mị đã bị tha hóa, thay đổi, trở thành nô lệ. Đau
khổ quá người ta còn nghĩ đến cái chết, nhưng bản thân Mị đã tê liệt cảm xúc, như
một cái xác không hồn không hề còn cảm giác gì nữa. * Nhân vật A Phủ
- Sau khi thành con ở, A Phủ bị đọa đày về thân xác, làm hết việc này đến việc khác,
đều là những việc vô cùng nguy hiểm. Đỉnh điểm hành động độc ác của chúng chính
là khi A Phủ làm mất bò, con bò bị hổ tha đi mất, chúng mắng A Phủ là quân ăn cướp,
bắt A Phủ tự tay lấy dây trói mình lại, đào hố chôn cọc, chờ khi nào tìm được con bò
thì tính tiếp. Bò đã bị ăn mất rồi, làm sao tìm lại được nữa? Sự vô lí của giai cấp thống
trị không khỏi khiến ta phẫn nộ vô cùng. * Nhân vật khác
- Người đàn bà trong gia đình nhà thống lí từng bị trói đứng ở cột rồi chết rũ, người
chị dâu của Mị… tất cả những con người ấy dù không được kể ra rõ ràng nhưng ta
cũng hiểu được họ đã phải trải qua những đau khổ đến thế nào. 3, Đánh giá
- Qua những mảnh đời đầy bất hạnh ấy, Tô Hoài đã lên án xã hội phong kiến cường
quyền thần quyền độc ác đã đàn áp, bóc lột người dân lao động đến cùng cực, không
còn đường lui. Tố cáo chế độ bất công, độc ác và ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân, tài sản
của mình mà không màng đến tính mạng của người khác.
- Giá trị hiện thực khiến tác phẩm càng thêm sâu sắc, khắc họa rõ nét hơn cuộc đời
khổ đau của vô số những mảnh đời nơi vùng núi Tây Bắc kia với bạn đọc. III, KẾT BÀI
- Khẳng định giá trị vai trò của giá trị hiện thực với tác phẩm và tác giả.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ Dàn ý số 2 I. Mở bài
- Năm 1952, nhà văn Tô Hoài cùng với bộ đội tiến quân vào giải phóng Tây Bắc, đi
sâu vào những khu du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi. Tám tháng
trời hành quân theo chân những binh đoàn bộ đội, thâm nhập thực tế Tây Bắc đã đem
lại cho Tô Hoài những hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của nhân dân miền núi. Hiện
thực cuộc sống đau khổ ấy đã đi vào những trang văn của Tô Hoài. Nhà văn Tô Hoài
từng tâm sự: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất
nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không bao
giờ quên”. “Truyện Tây Bắc” chính là kết quả của chuyến đi tám tháng ấy không bao giờ quên ấy.
- “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập “Truyện Tây Bắc”, cũng là
một trong những truyện ngắn Việt Nam xuất sắc trong giai đoạn kháng chiến chống
Pháp. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và con người vùng Tây Bắc, tái
hiện số phận đau khổ của những người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của
thực dân, chúa đất phong kiến. Đồng thời, tác phẩm cũng là một bài ca về sức sống và
khát vọng tự do của người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đổi đời
của họ trong cách mạng.
- Nhận xét về giá trị hiện thực của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, có ý kiến cho rằng:
Truyện là bức tranh chân thực về số phận đau khổ của đồng bào dân tộc miền núi dưới
chế độ phong kiến chúa đất.Cuộc đời nhân vật Mị và A Phủ là sự phản ánh chân thực,
điển hình cho hiện thực cuộc sống, số phận của đồng bào dân tộc miền núi mà Tô
Hoài muốn gửi gắm trong tác phẩm. II. Thân bài
I. Giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học
*Khái niệm: Giá trị hiện thực là sự miêu tả chân thực hiện thực cuộc sống vật
chất/tinh thần của con người và thông qua đó, phần nào thể hiện thái độ phê phán chế
độ xã hội cũ hoặc các thế lực áp bức bóc lột...Tác phẩm văn học nào cũng có giá trị
hiện thực, vì văn học bắt nguồn từ cuộc sống: hiện thực đời sống sinh hoạt hàng ngày,
hiện thực tình cảm, tâm lí…
* Biểu hiện:Hiện thực phản ánh trong tác phẩm thì vô cùng đa dạng và phong phú.
Tuy nhiên, nói đến giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học người ta thường đề cập 3 nét chính:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
- Phản ánh chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của
những con người bé nhỏ, bất hạnh.
- Chỉ ra nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người.
- Miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người.
=>Ở mỗi một tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực được biểu hiện đa dạng.
II. Chứng minh ý kiến qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
1. Phản ánh chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi thống khổ về vật chất và
tinh thần của đồng bào miền núi Tây Bắc a)Nhân vật Mị:
- Mở đầu tác phẩm, tác giả tạo sự chú ý cho độc giả bằng cách để cho Mị xuất hiện
trong dáng vẻ của nỗi cùng quẫn bi thương của kiếp người: “Ai ở xa về có việc vào
nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước
cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay
đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách mở
đầu ấy đã gợi mở về thân phận của những người lao động trog xã hội cũ mịt mùng không lối thoát.
* Sự đày đọa về vật chất, thể xác:
- Theo tục lệ, cha mẹ Mị không có tiền cưới phải đến vay nhà thống lí Pá Tra, mỗi
năm trả lãi một nương ngô. Đến khi mẹ mất, cha già mà nợ kia vẫn còn. Tuy cha Mị
không chấp nhận lời đề nghị của thống lí Pá Tra đổi Mị để trừ nợ nhữn A Sử vẫn cướp Mị về làm vợ.
- Mị từ khi sinh ra đã mang theo trên người món nợ truyền kiếp của cha mẹ. Trong
một đêm mùa xuân, Mị bị bắt về làm dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Thế là Mị trở
thành một món hàng trừ nợ. Hình thức cho vay nặng lãi đã cột chặt bao nhiêu người
nghèo vào số phận nô lệ, phụ thuộc vào bọn chủ nợ giàu có.
- Mị không dám phản ứng vì về đạo lí đó là món nợ Mị phải trả như một cái án truyền
kiếp mà cô phải gánh lấy từ trong trứng nước. Về phương diện thần quyền, nghĩ rằng
mình đã “trình ma” nhà Pá Tra nên Mị chỉ còn biết làm thân trâu ngựa cho đến lúc chết mà thôi.
=> Hành động này tố cáo sự vô nhân đạo của những kẻ nắm quyền lực thời đó. Xã hội
đốn mạt đã cho chúng sức mạnh để tác oai tác quái trên số phận người dân nghèo.
Chính xã hội thực dân nửa phong kiến đã trao cho bọn chúa đất phong kiến cái quyền
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
hành phi lí đó. Làm dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị bị cường quyền và thần quyền đày
đọa cả về thể xác và tinh thần.
- Bước chân về, đúng hơn là bị cưỡng bức về nhà thống lí Pá Tra, Mị bị đày đọa cả về
thể xác lẫn tinh thần. Là con dâu chỉ trên danh nghĩa, thực chất Mị chỉ là tôi tớ, người
suốt ngày quần quật làm ra của cải vật chất cho nhà thống lí Pá Tra. Thân phận Mị,
cũng như nhiều phụ nữ trong gia đình ấy không bằng thân trâu ngựa: “Con ngựa, con
trâu làm có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này
thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.
* Sự đày đọa về tinh thần:
- Nỗi đau về vật chất đã khủng khiếp, nhưng nỗi đau về tinh thần lại càng khủng khiếp
hơn. Nhà văn Tô Hoài vô cùng xót xa trước nỗi khổ tinh thần của Mị. Cái địa ngục
khủng khiếp ấy đã biến Mị từ một cô gái trẻ trung, vui tươi, xinh đẹp, yêu đời thành
“con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, thành “con trâu con ngựa trong chuồng; chỉ biết
việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”.
- Những ngày đầu về làm dâu, Mị phản kháng quyết liệt: hàng mấy tháng ròng, đêm
nào Mị cũng khóc, Mị định tự tử bằng lá ngón. Nhưng Mị chết đi thì nợ kia vẫn còn.
Thương cha, Mị lại tiếp tục cuộc sống làm dâu gạt nợ.
- Lâu dần, chuỗi ngày triền miên những vất vả cực nhọc không dứt đã làm tê liệt cả ý
thức về bản thân và những mong muốn thay đổi số phận ở Mị. Giờ đây, Mị an phận và
cam chịu thân phận nô lệ trong nhà thống lí. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi.
Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa… ngựa chỉ biết
việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Cuộc sống của Mị ở nhà thống lí Pá Tra mỗi ngày lùi
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Mị cam chịu thân phận, chỉ biết ngồi trong cái
buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”.
Mị sống như một cái bóng vật vờ, sống mà như đã chết, không còn cả ý thức về thời
gian nữa. Mị không còn nhớ mình về làm dâu nhà Pá Tra bao năm. Ý thức phản kháng
trong con người Mị tưởng chừng như đã bị tê liệt.
- Cuộc sống câm lặng nhẫn nhục đã làm Mị chai sạn đi, trở thành cái xác không hồn
vật vờ, thành một nữ cô chỉ biết làm việc không ngơi tay, thành kẻ hầu hạ cho chồng
mình mà lúc nào cũng có thể bị đánh đập một cách tàn nhẫn không thương tiếc. Ý
thức về cuộc sống trong Mị giờ đây đã bị xóa sạch.
- Với cô không còn quá khứ, hiện tại, tương lai, chỉ còn ô cửa sổ bé tí nhờ nhờ thứ ánh
sáng thảm hại không biết ngày hay đêm, chỉ còn ánh lửa leo lét làm bạn giữa đêm
đông dài giá lạnh. Rồi cái mong ước bình dị được đi chơi tết của Mị cũng bị A Sử phũ
phàng dập tắt khi nó vừa mới bừng lên. Trong khi A Sử đi chơi và bắt bao nhiêu cô
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
gái đẹp về làm vợ, Mị không dám nói gì. Dù là vợ A Sử, Mị vẫn bị hắn trói dã man
vào cột nhà khi cô vừa nảy ra ý muốn đi chơi Tết như bao phụ nữ đã có chồng khác.
Thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội thực dân phong kiến ngày
ấy bị coi rẻ quá mức. Người phụ nữ chỉ biết cúi đầu cam chịu. Quyền bình đẳng nam
nữ chỉ là một khao khát không bao giờ trở thành hiện thực.
=>Cường quyền và thần quyền nhà thống lí Pá Tra đã giết chết cô gái ấy cả thể xác
lẫn tâm hồn. Mị cùng bao cô gái đáng thương khác trong nhà thống lí – như người chị
dâu chưa già mà lưng đã còng vì quanh năm phải đeo thồ nặng quá , còn Mị- phải làm
việc cực nhọc suốt đêm ngày để phục dịch cho cha con thống lí ăn chơi quanh năm suốt tháng. b) Nhân vật A Phủ
- Cũng giống như Mị, vì món nợ vô lí suốt đời không thể trả nổi mà A Phủ phải bước
chân vào nhà thống lí. Cũng chỉ vì yêu lẽ phải, dũng cảm đánh lại con nhà giàu để bảo
vệ công lí mà A Phủ bị bắt phạt vạ một cách bất công. Anh bị bắt, bị đánh đập tàn ác:
“Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Xong một lượt đánh, kể, chửi,
lại hút…Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi,
càng hút…”.Mạng người bị coi rẻ; pháp luật, công lí thuộc về tay kẻ có tiền, có thế
lực. Cha con thống lí đã tự cho mình các quyền sinh sát, mặc nhiên ức hiếp , sát hại dân làng.
- Cũng như Mị, A Phủ trở thành cái máy làm việc trong nhà thống lí : “ Đốt rừng, cày
nương, cuốc nương, săn bò tót,bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một mình rong
ruổi ngoài gò, ngoài rừng”. Người ở đợ trừ nợ cho nhà thống lí thì cũng như con trâu,
con ngựa vô tri trong chuồng. Thống lí đã dùng việc cho vay nặng lãi để ràng buộc
cuộc đời người nông dân, biến họ thành nô lệ, đời đời kiếp kiếp. Thống lí Pá Tra đã
tuyên bố: “ Đời mày, đời con, đời cháu mày, tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ tao
mới thôi”. Cha con thống lí thản nhiên mặc sức hưởng lạc trên mồ hôi công sức người
khác. Rồi do nguyên nhân khách quan gặp cơn đói rừng, hổ ăn mất một con bò- đó là
chuyện hoàn toàn ở miền núi và A Phủ có khả năng chuộc lại lỗi lầm vậy mà A Phủ
vẫn đành phải chấp nhận tự lấy dây, lấy cọc cho thống lí trói mình vào cọc một cách
nhục nhã để thế mạng cho con bò bị mất. Số phận đau khổ nghiệt ngã của Mị và A
Phủ cũng là số phận của đồng bào Tây Bắc trước cách mạng nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.
2. Lên án chế độ phong kiến thực dân
- Thống lí là người đứng đầu bộ máy chính quyền ở các bản làng vùng dân tộc. Giàu
có, lại dựa vào thế lực của Tây, cha con thống lí Pá Tra tha hồ tác oai tác quái ức hiếp
dân lành. Đó là hiện trạng phổ biến xảy ra ở nước ta trước Cách mạng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
- Hình thức bóc lột của bọn chúa đất phong kiến là cho vay nặng lãi để cột chặt kiếp
nô lệ của người dân miền núi. Kèm theo việc cho vay nặng lãi là tục lệ cúng trình ma.
Khi người dân ngu muội tin vào chuyện ma quái đó thì bọn giàu có độc ác càng có cơ
hội nô dịch họ. Một sự thật đau lòng diễn ra không hề cá biệt là khi ái đó liều mình đi
vay nợ thì vĩnh viễn số phận họ và cả số phận đời con cháu họ cũng không thể thoát
được kiếp ngựa trâu cho bọn nhà giàu. Chính xã hội thực dân nửa phong kiến đã trao
cho chúng cái quyền phi lí đó.
- Đây là nguyên nhân trực tiếp gây nên nỗi khổ của những người dân thấp cổ, bé
miệng như Mị và A Phủ. Bộ mặt tàn bạo của chúng không chỉ hiện ra qua những hành
động đánh đập dã man đối với kẻ ăn người ở trong nhà mà còn qua những lời nguyền
rủa rất thâm hiểm: “đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ
tao mới thôi”. Có lẽ đó không chỉ là lời nguyền rủa của một hai cá nhân mà còn là lời
nguyền rủa của cả một chế độ xã hội. Bao giờ còn chế độ xã hội đó thì vẫn còn những
kẻ ác như Pá Tra và những nạn nhân của hắn như Mị và A Phủ.
3. Tái hiện quy luật đâu tranh xã hội
- Không dừng lại ở việc nắm bắt và phơi bày bản chất của cuộc sống, giá trị hiện thực
của tác phẩm còn thể hiện qua cách thức tái hiện quy luật đấu tranh xã hội: có áp bức,
có đấu tranh; có thống trị tàn bạo, có vùng lên quật cường.
- Mặc dù ở thân phận nô lệ, tù đày, mặc dù nỗi buồn khổ, tủi nhục đã biến Mị thành
một cái bóng lặng lẽ, âm thầm; nhưng trong con người Mị vẫn âm ỉ một khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt. Bởi lẽ, Mị là cô gái ham sống, yêu đời, yêu tự
do, khát khao hạnh phúc. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở Mị dù có bị vùi dập đến kiệt
cùng vẫn không lụi tắt. Sức sống ấy chỉ tạm thời bị phủ dưới lớp tro nguội lạnh để chờ
cơ hội bùng lên cháy sáng.
- Khi bị đẩy đến cùng đường, trong sự lóe sáng của tình người, con người lương thiện
sẽ tự vùng dậy. Cuộc giải thoát của Mị dành cho A Phủ cũng là sự giải thoát cho chính
mình. Khởi nguồn của sự giải thoát đó chính là sự đánh thức lương tri của con người
khi chứng kiến nỗi bi đát tột cùng của đồng loại. III. Kết bài
- Đồng cảm với nỗi khổ của nhân vật, Tô Hoài đã dành cho Mị nói riêng và con người
miền núi Tây Bắc nói chung những trang viết đầy nhân ái trước cảnh ngộ bi thiết và
đầy phẫn nộ trước tội ác của những kẻ áp bức tham tàn. Mị và A Phủ - Hai số phận bi
thảm là hiện thân của thứ nô lệ của chế độ phong kiến man rợ ở Tây Bắc. Nhưng Tô
Hoài không dừng lại ở việc phản ánh bản chất tàn bạo, dã man của giai cấp thống trị
Tây Bắc, nhà văn còn đi sâu vào bản chất của cuộc sống của dân tộc vùng cao, phản
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
ánh sức sống mãnh liệt của các dân tộc Tây Bắc và sự vùng dậy chiến thắng của các
dân tộc Tây Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tác phẩm khép lại bằng cái nhìn lạc quan
tin tưởng vào cuộc sống tốt đẹp cho những người bị áp bức. Dàn ý số 3 a. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
● Tô Hoài là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại với
hơn 70 năm cầm bút với một gia tài văn học đồ sộ để lại dấu ấn sâu sắc trong
lòng độc giả nhiều thế hệ.
● Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc
năm 1952 kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ.
- Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Thông qua cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, “Vợ chồng
A Phủ” đã thể hiện những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc thể hiện góc nhìn tinh
tế và nhạy bén, cũng như tấm lòng của nhà văn hướng về con người và cuộc đời. b. Thân bài
* Luận điểm 1: Khái quát về giá trị hiện thực
- Giá trị hiện thực là bức tranh đời sống hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác
phẩm của mình, tuỳ vào ý đồ sáng tạo mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại
cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau.
*Luận điểm 2: Nêu và phân tích giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ.
- Bức tranh đời sống thống khổ, bị bóc lột của người nông dân miền núi trước cách mạng tháng Tám *Nhân vật Mị:
- Trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra vì món nợ truyền đời truyền kiếp của cha mẹ
- Gọi là con dâu nhưng lại là kiếp con dâu gạt nợ, làm việc quần quật không được nghỉ ngơi
- Nơi ở chỉ là một căn buồng nhỏ kín mít, có duy nhất một “chiếc cửa sổ một lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”
- Bị đày đọa về tinh thần, bị đối xử như con ở
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
- Bị đem đi cúng trình ma rồi nên không dám bỏ trốn
=> Cuộc sống không khác gì địa ngục, bị áp bức, bóc lột, bị tha hóa, thay đổi, trở
thành nô lệ, tê liệt cảm xúc, như một cái xác không hồn. *Nhân vật A Phủ
- Trở thành con ở, bị đọa đày về thân xác, làm hết việc này đến việc khác, đều là
những việc vô cùng nguy hiểm.
- Vì vô ý làm mất bò mà bị chửi là quân ăn cướp, bị trói, đào hố chôn cọc. -> Sự vô lí
của giai cấp thống trị.
- Chế độ phong kiến miền núi tàn bạo độc ác:
Đám cha con thống lí Pá Tra, A Sử và đám tay sai của chúng:
● Cho dân vay nặng lãi, cúng trình ma để hù dọa người dân, mỗi năm lãi càng
thêm nhiều. Dẫu đánh A Sử có lí do chính đáng nhưng người sai vẫn là A Phủ,
phải chịu hình phạt nặng nề và xử kiện một cách oan uổng.
● A Phủ bị nhà thống lí khiêng mang về, trói và ném giữa nhà không khác gì đối xử với một con vật.
● Hình ảnh phiên tòa: Suốt đêm chỉ nghe thấy tiếng mắng chửi, hình ảnh hút
thuốc phiện, không được thanh minh giải thích, bị quy chụp cho cái mũ tội lỗi.
● Cảnh hút thuốc phiện, hành hạ A Phủ, trói, đánh đập Mị... của bố con thống lí
- Những phong tục tập quán, hủ tục của người miền núi vùng Tây Bắc: cúng trình ma,... c, Kết bài
- Khái quát giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. - Cảm nhận của em. Dàn ý số 4 a. Mở bài: - Giới thiệu tác giả:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Tô Hoài là một cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng
tác của ông thể hiện vốn hiểu biết phong phú về đời sống, sinh hoạt hàng ngày với
phong cách đậm chất khẩu ngữ. - Giới thiệu tác phẩm:
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn nổi bật được trích trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác
phẩm đã vạch trần được sự áp bức, bóc lột của thực dân phong kiến miền núi đồng
thời thể hiện niềm tin và trân trọng sức sống tiềm tàng của họ.
- Giới thiệu ý kiến: Truyện là bức tranh chân thực về số phận đau khổ của đồng bào
dân tộc miền núi dưới chế độ phong kiến chúa đất. b. Thân bài:
* Giải thích ý kiến:
- Giá trị hiện thực là khả năng tái hiện hiện thực của tác phẩm văn chương. Một tác
phẩm có giá trị hiện thực khi miêu tả chân thực, đầy đủ, sinh động hiện thực cuộc
sống, giúp người đọc có những hiểu biết sâu sắc về đối tượng mà nhà văn miêu tả.
- Ý kiến là lời đánh giá về một biểu hiện của giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ
Chồng A Phủ, Tác phẩm miêu tả đầy đủ, chân thực số phận đau khổ, bất hạnh của
đồng bào dân tộc miền núi dưới ách thống trị của bọn phong kiến chúa đất.
* Phân tích – chứng minh:
- Số phận đau khổ của cha mẹ Mị:
+ Vì nghèo nên lấy nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lí, mẹ Mị chết vẫn chưa hết nợ.
+ Cha Mị sống trong đau khổ vì con gái phải làm người ở (danh nghĩa là con dâu) để trả nợ thay mình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
- Số phận đau khổ của Mị:
+ Bị bắt làm con dâu gạt nợ: Vì món nợ của cha mẹ, Mị bị cha con thống lý Pa Tra bắt
về làm dâu với mục đích gạt nợ. Cuộc hôn nhân không có tình yêu đã chấm dứt hoàn
toàn những tháng ngày tự do, tươi đẹp của một cô gái tài năng có ý chí tự lập và khát vọng sống mãnh liệt.
+ Bị bóc lột sức lao động tàn tệ: Từ khi về làm dâu nhà thống lý Pa Tra Mị bị bóc lột
về mặt thể xác. Cô cảm thấy mình không khác gì con trâu con ngựa trong nhà. Ngày
ngày cô phải làm việc quần quật không khác gì một cái máy. Nhiều khi cô còn cảm
thấy bản thân mình không bằng một con ngựa.
+ Bị đày đọa về tinh thần: Không chỉ bị đầy đọa về mặt thể xác mà Mị còn bị đầy đọa
về mặt tinh thần. Nhiều năm sau khi bố Mị chết cô cũng không còn ý định tự tử nữa.
Điều này cho thấy bây giờ bản thân cô đã không còn ý thức được cái khổ của mình
nữa. Cô lúc nào cũng lùi lũi trong xó cửa như một con rùa câm lặng, vô cảm với thế giới xung quanh
+ Bị chà đạp lên nhân phẩm: Trong đêm tình mùa xuân, khi Mị chuẩn bị đi chơi, A Sử
về trông thấy cảnh tượng lúc ấy đã bắt Mị trói cô không cho đi chơi.
=> Sự đày đọa khiến Mị tê liệt khát vọng sống, tê liệt ý thức đấu tranh, sống như con
rùa trong xó cửa, như cái xác không hồn...
- Số phận đau khổ của A Phủ:
+ Sinh ra đã bất hạnh (Bố mẹ, anh em không còn ai, cả làng chết hết vì bệnh dịch, 10
tuổi bị đem bán xuống bản người Thái...)
+ Lớn lên sống kiếp làm thuê, làm mướn, nghèo khó đến nôi không có tiền cưới vợ.
+ Bị đánh đập, tra tấn dã man, bị phạt vạ, trở thành người làm công trừ nợ cho nhà thống Lí.
+ Vì để hổ ăn thịt mất một con bò mà bị đánh, trói nhiều ngày, có thể sẽ bị chết.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
- Số phận đau khổ của những người dân khác:
+ Nhiều người bị trói rồi bỏ quên đến chết.
+ Có những người chưa già nhưng lưng đã còng rạp xuống. * Nghệ thuật.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, mỗi nhân vật được khai thác từ những điểm nhìn khác nhau.
- Miêu tả tâm lí sinh động.
- Ngôn ngữ đậm chất miền núi, lối kể chuyện linh hoạt. * Đánh giá
- Miêu tả cuộc đời số phận của người lao động miền núi trước cách mạng tháng tám,
Tô Hoài bày tỏ niềm yêu mến, cảm thông với những bất hạnh của họ.
- Nhà văn còn cất lên tiếng nói lên án, tố cáo chế độ phong kiến chúa đất miền núi đã
đày đọa con người, đẩy họ vào cảnh lầm than, bất hạnh.
- Viết tác phẩm, nhà văn đưa người đọc đến với cuộc sống của đồng bào dân tộc, giúp
người đọc cảm thông yêu mến những con người nơi đây, từ đó trân trọng những ước
mơ, khát vọng, trân trọng sức sống tiềm tàng, khả năng tự giải phóng và tìm đến cách mạng của họ.
c. Kết bài: Đánh giá khái quát lại nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm
Giá trị hiện thực trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 1
Tô Hoài là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn với bút lực dồi dào. Không chỉ nổi
tiếng với tác phẩm viết cho thiếu nhi mà các tác phẩm của ông còn mang đậm nét văn
hóa, lối sống, nếp cảm nếp nghĩ của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
Tiểu biểu là tác phẩm: “Vợ chồng A Phủ”. Trong tác phẩm, người đọc thấy rõ được
giá trị hiện thực sâu sắc mang dấu ấn thời đại
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Trước tiên, tác phẩm đã tố cáo tội ác của giai cấp thống trị. Trong truyện giai cấp cầm
quyền ở Hồng Ngài chính là nhà thống lí Pá Tra. Gia đình thống lí lợi dụng cường
quyền và thần quyền để áp bức những người dân lao động nghèo khổ. Tiêu biểu là Mị và A Phủ.
Mị vốn là một cô gái dân tộc xinh đẹp và tràn đầy sức sống. Nhưng hoàn cảnh đưa
đẩy khiến cô gái ấy trở thành con dâu gạt nợ của nhà Thống lí Pá Tra. Món nợ của bố
Mị khi cưới mẹ Mị. Đây là món nợ truyền kiếp đối với người người lao động nghèo,
nó chẳng khác gì một thứ tội: “tội tổ tông”. Đối với bọn phong kiến, đây là hình thức
cho vay nặng lãi đẩy người lao động nghèo vào tình trạng bị bần cùng hóa. Gia đình
thống lí lợi dụng hủ tục của miền núi (tục cướp vợ) để bắt cóc Mị. Bản thân cô Mị
đang hồi hộp đêm hò hẹn đầu tiên, trong lòng đang ngập tràn hạnh phúc thì rơi xuống
đáy sâu của nỗi bất hạnh. Bọn chúng còn lợi dụng tục “cúng trình ma” để hoàn chỉnh
việc biến một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, hiếu thảo, chăm chỉ, tự trọng và
nhất là yêu tự do, khát khao tình yêu trở thành một nô lệ. Thông qua đó, tác giả gián
tiếp tố cáo sức mạnh của cường quyền và thần quyền đang đè nặng lên cuộc sống của
nhân dân đồng bào miền núi.
Không chỉ có Mị, A Phủ cũng là một chàng trai bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh không
kém. A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống
đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan
bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy
hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước
tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu. A
Phủ như đứa con, như cánh chim của núi rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị rơi vào
hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện vô lí của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử
kiện này, A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp
cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử. Bản án
trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc tội chết rồi lại được tha. Với thống lí
Pá Tra, A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đồng bạc trắng). Chàng trai yêu tự
do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp. Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức
bị bó buộc và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là
Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa phương
đày đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng. A Phủ bị bắt làm các công
việc nặng nhọc nguy hiểm, trở thành nô lệ không công do món nợ không biết đến
ngày nào mới trả hết. A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc trốn do quyền lực khủng
khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm
cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con
bò. A Phủ bị trói vào cọc. Tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật.
Nhà thống lí mất một con bò, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Đó là một hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống
của người lao động chân chính.
Chính Mị Và A Phủ đều nghĩ rằng bản thân mình phải làm nô lệ, người ở cả đời cho
nhà thống lí. Những suy nghĩ đó cũng bị chính sự tàn nhẫn, bất công của nhà thống lí
dập tắt. Chúng sẵn sàng bắt trói, mặc kệ mạng sống của người lao động chỉ vì họ
phạm lỗi. A Phủ làm mất một con bò và Mị muốn đi chơi.Trong đêm A Phủ bị trói,
khi thấy A Phủ khóc. Giọt nước mắt của A Phủ đã khơi dậy niềm yêu thương và khao
khát sống của Mị. Mị nhớ lại cảnh mình cũng bị trói. Mị nghĩ đến sự tàn ác của nhà
thống lí với những người vô tội. Vì thế, Mị quyết định cởi trói cho A Phủ và quyết
tâm chạy trốn khỏi “địa ngục trần gian”. Mị cởi trói cho A Phủ, cứu thoát A Phủ cũng
là cứu thoát chính mình. Người dân lao động chẳng còn cách nào khác là tự giải thoát
cho chính mình. Con đường họ đến với Cách mạng là tất yếu.
Qua tác phẩm, người đọc thấy được giá trị hiện thực sâu sắc được thể hiện qua tác
phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, càng thêm hiểu rõ cuộc sống cùng khổ của
người dân lao động miền núi trước Cách mạng tháng 8 do sự thống trị tàn ác của giai cấp cầm quyền.
Giá trị hiện thực trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 2
Tô Hoài là một nhà văn thiên về phản ánh những sự thật của cuộc sống đời thường
trong những trang viết bình dị, tinh tế và đầy chất thơ. Ông có vốn hiểu biết phong
phú và sâu sắc về cuộc sống, đặc biệt là đối với những phong tục tập quán độc đáo của
nhiều vùng đất khác nhau, có sự gần gũi, gắn bó với cuộc sống và con người miền núi
khiến những đề tài miền núi trở thành mảng sáng tác quan trọng và có giá trị của Tô
Hoài. Ông còn được mệnh danh là nhà văn của thiếu nhi với những tác phẩm với
giọng văn tự nhiên, dễ hiểu như Dế Mèn phiêu lưu ký. Với khả năng xây dựng hình
tượng nhân vật điển hình cùng lối viết chân thực, "Vợ chồng A Phủ" là tác phẩm
mang giá trị hiện thực sâu sắc, đả kích và lên án sự bất công trong xã hội phân chia
tầng lớp đã vùi dập con người đến tận cùng của khổ đau.
Giá trị hiện thực là những điều diễn ra trong cuộc sống, được tác giả nhìn thấy và đưa
vào tác phẩm một cách tinh tế tạo nên ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kì, một
chế độ trên nhiều góc độ khác nhau. Đây là yếu tố cốt lõi của một tác phẩm văn học,
nhất là văn học hiện thực, là bức tranh phác họa cuộc sống một cách kĩ lưỡng nhằm
nêu bật lên được những đặc điểm điển hình của một thời kì, giai cấp nào đó. Giá trị
hiện thực của các tác phẩm văn học phần lớn đều mang tiếng nói chung của đại đa số
quần chúng đương thời, là bản cáo trạng đối với những thói hư tật xấu và là tiếng lòng
thổn thức của những người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội bấy giờ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Đối với truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã tự mình thâm nhập vào cuộc sống
của người dân Tây Bắc để thấm nhuần được suy nghĩ, cảm nhận xuất phát từ tấm lòng
lương thiện của người dân nơi đây. Từ đó, ông thấu hiểu được nỗi đớn đau, tủi nhục
ngày đêm day dứt. Thông qua ngòi bút và vốn hiểu biết của mình, tác giả Tô Hoài đã
xây dựng cốt truyện với các nhân vật như một bức tranh sự thật, nói lên cuộc sống bi
kịch của người dân lao động cần cù nơi đây cũng như vạch trần bộ mặt tàn ác của bọn
cầm quyền. Truyện ngắn kể về số phận của nhân vật Mị, một cô gái xinh đẹp, hiền
lành, chăm chỉ, hiếu thảo với bố mẹ nhưng bị bắt làm "con dâu gạt nợ" cho nhà thống
lý Pá Tra vì món nợ bố mẹ để lại. Ở đó, cô làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm, bị bòn
rút hết sức sống và sự phản kháng, tưởng chừng như không có một lối nào thoát ra, và
rồi cô gặp được A Phủ, là nạn nhân của nhà thống lý. Chứng kiến một số phận đau
khổ giống mình, Mị như được tiếp thêm sức mạnh, dám đứng lên bỏ trốn cùng A Phủ
đến sống ở một nơi khác, nơi mà họ được sống như là một con người thực thụ.
Giá trị hiện thực của truyện ngắn được gột tả qua cuộc sống bi kịch của người dân lao
động miền núi, điển hình là hình tượng nhân vật Mị và A Phủ. Khi nói đến nhân vật
Mị, Tô Hoài chỉ giới thiệu tên, còn tuổi tác không hề nói đến, chỉ vỏn vẹn “Ai ở xa về,
có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên
tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải,
chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.
Người ta nói: nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán,
giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái
nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy
không phải con gái thống lý: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý.” Nét mặt buồn rười
rượi của Mị như là lời tố cáo chân thực nhất về tội ác của cha con nhà thống lý đã đè
nặng lên một kiếp người. Điều đó không chỉ gợi cho tác giả niềm đau xót đối với nhân
vật mà còn là sự phẫn nộ, căm ghét đối với những kẻ ác chỉ biết lấy sức lao động của
người khác để kiếm tiền.
Cuộc sống của Mị ở nhà thống lý là điển hình, khái quát toàn bộ khó khăn, khổ đau
mà nhân dân lao động miền Bắc phải chịu trước Cách mạng tháng Tám. Tác giả đã
mượn nhân vật Mị để làm nổi bật lên hiện thực cay đắng, tủi nhục của những người
dân hiền lành, chất phác phải chịu đựng. Khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị từ một
cô gái xinh đẹp trở thành "con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, “mặt
buồn rười rượi” lầm lũi, không nói năng gì. Chúng coi cô là công cụ lao động để làm
giàu, “mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc
phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô,
lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm,
suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn
bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Một trong những chi tiết làm nổi bật
lên chất hiện thực của tác phẩm chính là cảnh Mị bị trói ở cột nhà khi bị A Sử bắt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
được lúc Mị chuẩn bị đi chơi. Thực tế ta có thể thấy được rằng Mị là một cô gái còn
trẻ trung xinh đẹp, dồi dào sức sống thì việc đi chơi trong đêm tình mùa xuân là điều
hiển nhiên. Nhưng tia hi vọng đó cũng đã bị dập tắt khi cô bị người chồng của mình
trói đứng vào cột nhà bằng sợi mây một cách tàn bạo. “Mị không nói. A Sử cũng
không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một
thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên
cột, Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng
xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.”, “Cả đêm Mị phải trói
đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức”, “Cổ tay, đầu, bắp
chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.”. Tô Hoài không trực tiếp lên án xã
hội cổ hủ lạc hậu, bất nhân, coi người như cỏ rác, nhưng thông qua hình ảnh của Mị,
mọi đường nét thực tại đều được khắc họa một cách chân thực, rõ ràng. Hiện thực về
cuộc sống lao động khổ đau, hiện thực về thân phận mòn mỏi, hiện thực về cái ác
đang ngày ngày hiện hữu, tất cả đều được tác giả khai thác và phơi bày trước ánh sáng.
Khi xây dựng hình tượng nhân vật A Phủ, Tô Hoài muốn phản ánh hiện thực về cuộc
sống những người lao động tuy xuất thân thấp kém, không có địa vị nhưng rất chịu
thương chịu khó. A Phủ từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, phải đi làm thuê cho nhà này sang
nhà khác, mùa này sang mùa khác. Đến làm thuê cho nhà thống lý Pá Tra, khi anh làm
mất một con bò, Pá Tra trói đứng anh vào cột, chờ khi có người mang hổ về mới tha
cho. Bị trói đứng mấy ngày trời, không ăn, không uống, chịu rét, A Phủ kiệt sức,
tưởng chừng như đã chết đến nơi. Từ một chàng trai khỏe mạnh, lạc quan, yêu đời, A
Phủ trở thành con trâu cày không công cho nhà thống lý. Phải sống trong xã hội thối
nát ấy, con người không còn có quyền sống như một con người nữa, tất cả đều bị phụ
thuộc vào kẻ có quyền, có tiền. Số phận của những người dân lao động khu vực Tây
Bắc trước Cách mạng tháng Tám là chuỗi ngày tháng đau thương, nơi con người bị
vắt kiệt sức lao động.
Nhân vật Mị và A Phủ chính là hiện thân của kiếp đời nô lệ dưới chế độ phong kiến
được nhà văn Tô Hoài xây dựng từ những chất liệu hiện thực gần gũi nhất, thẳng thắn
nhất. Qua hai nhân vật, tác giả gián tiếp khắc họa cuộc sống và số phận của người dân
lao động trước Cách mạng, là tiếng nói mang tính tố cáo, lên án những kẻ lợi dụng
chức quyền đã vùi dập con người, đứng trên lập trường của nhân dân, bảo vệ người
dân lao động, tố cáo tội ác của quân thù và bọn bất lương. Qua tác phẩm, Tô Hoài
cũng gửi gắm sự nâng niu, trân trọng đến nhân vật của mình hay chính là những người
dân vùng núi phía Bắc, tìm kiếm sự lay động trong lòng độc giả khi chứng kiến những
khó khăn, gian khổ mà nhân vật phải trải qua.
Giá trị hiện thực trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 3
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Tô Hoài là một trong những cây bút lão luyện của làng văn học Việt Nam với sự
nghiệp văn chương đồ sộ bao gồm nhiều thể loại phong phú, độc đáo. Được mệnh
danh là “Nhà văn của thiếu nhi”, giọng văn của Tô Hoài luôn mang phong vị tự nhiên,
hồn hậu, ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, dễ cảm. Tác phẩm nổi bật nhất của ông sau
Cách mạng Tháng 8 phải kể đến “Vợ chồng A Phủ”, một kiệt tác văn chương được
thai nghén và hoàn thiện trong chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc của tác giả. Với
khả năng xây dựng hình tượng nhân vật điển hình cùng lối viết chân thực, “Vợ chồng
A Phủ” là tác phẩm mang giá trị hiện thực sâu sắc, đả kích và lên án sự bất công trong
xã hội phân chia giai tầng đã vùi dập con người đến tận cùng khổ đau, đồng thời bêu
riếu bọn cường hào, thống lý tàn ác, phơi bày những thế lực đen tối tồn tại ở khu vực
vùng núi phía Bắc trước Cách mạng.
Giá trị hiện thực là những điều diễn ra trong cuộc sống, được tác giả khéo léo lồng
ghép vào tác phẩm tạo nên ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kì, một chế độ
trên nhiều phương diện, góc nhìn khác nhau. Đây là yếu tố cốt lõi của một tác phẩm
văn học, nhất là văn học hiện thực, là bức họa cuộc sống được sàng lọc một cách kĩ
lưỡng nhằm nêu bật lên được những đặc điểm điển hình của một thời kì, giai cấp.
Phần lớn giá trị hiện thực của các tác phẩm văn học đều mang tiếng nói chung của đại
đa số quần chúng đương thời, là bản cáo trạng đối với những thói hư tật xấu và là
tiếng lòng thổn thức của những người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội.
Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã tự mình thâm nhập vào cuộc sống của những
người lao động Tây Bắc để có thể thấm nhuần được suy nghĩ, cảm nhận xuất phát từ
tấm lòng thiện lương của con người nơi đây. Từ đó, ông thấu hiểu được nỗi đau đớn,
tủi cực đang ngày đêm day dứt, trăn trở, thông qua ngòi bút và vốn hiểu biết, Tô Hoài
đã xây dựng một cốt truyện cùng các tuyến nhân vật Mị, A Phủ,… như một bức tranh
sự thật, nói lên cuộc sống bi kịch của nhân dân lao động cần cù, chăm chỉ, bóc trần bộ
mặt hèn ác, xấu xa của những kẻ có chức quyền trong xã hội.
Đoạn trích kể về số phận nghiệt ngã của nhân vật Mị, một cô gái hiền lành, chăm chỉ
nhưng không may lại mang thân phận “món đồ gạt nợ”, bị gả vào nhà thống lý Pá Tra
do món nợ truyền đời từ cha mẹ để lại. Tại đây, cô phải làm việc quần quật, bị bòn rút
hết tất cả sự sống và sức phản kháng, tưởng chừng như không có con đường giải thoát
nào. Rồi cô gặp được A Phủ, một nạn nhân của cha con thống lý Pá Tra. Chứng kiến
số phận khổ đau giống mình, Mị như được tiếp thêm nguồn sức mạnh, dám đứng lên
chống lại số phận, cùng A Phủ bỏ trốn, tìm đến một cuộc sống, nơi mà họ có thể sống
như một con người thực thụ.
Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” được lột tả qua cuộc sống bi kịch của người
lao động vùng Tây Bắc, điển hình là hai hình tượng nhân vật Mị và A Phủ. Giới thiệu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
nhân vật Mị, Tô Hoài không chọn cách kể về tên tuổi, quê quán, hay thậm chí một câu
tả dáng hình cũng chẳng được xuất hiện, chỉ vỏn vẹn: “Ai ở xa về, có việc vào nhà
thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước
cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay
đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói:
nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm,
nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn
bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không
phải con gái thống lý: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý.” Đoạn văn mở đầu để lại
cho người đọc một nỗi ám ảnh về kiếp người mòn, một số phận đau thương dai dẳng
không dứt. Nét mặt buồn rười rượi của Mị chính là lời tố cáo chân thực nhất về tội ác
của cha con thống lý Pá Tra đã đè nặng lên cả một kiếp người, không chỉ khiến độc
giả đau xót, mà còn khơi gợi sự căm tức, phẫn nộ, cảm thông với nhân vật.
Cuộc sống giữa địa ngục trần gian của Mị được coi là điển hình, khái quát toàn bộ
những khó khăn, khổ đau mà nhân dân lao động khu vực miền núi phía Bắc trước
Cách mạng. Tô Hoài mượn hình ảnh của Mị để nêu bật được lên chất hiện thực về
cuộc đời đắng cay, tủi nhục của những người dân hiền lành, chất phác phải chịu đựng.
Bị bắt về làm dâu cho nhà giàu, cuộc đời của Mị từ một cô gái xinh đẹp, hay lam hay
làm thành một “con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, “mặt buồn rười
rượi” lầm lũi, không nói năng gì. Chúng coi cô là công cụ lao động để làm giàu, “mỗi
năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa
năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng
gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế.
Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái
nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Số phận của Mị thậm chí còn không bằng con
trâu, con ngựa trong nhà thống lý. Hơn nữa, cô Mị còn bị bóc lột tinh thần đến mức
mất đi sức phản kháng vốn tiềm tàng trong những số phận bất hạnh. Cô bị trói, bị
đánh tưởng đến chết trong đêm Tết ở Hồng Ngài. Từ một cô gái dám uống rượu để
quên đi sầu khổ, dám chuẩn bị đi chơi trong đêm tình mùa xuân, giờ đây chỉ còn lại là
cái xác không hồn, quanh năm làm lụng, không bao giờ dám nghĩ đến việc bỏ trốn hay
tìm cách thoát ra khỏi số phận bi phẫn của mình. Để nói về cuộc đời của Mị, Tô Hoài
viết: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn
nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử. ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây
giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ,
biết đi làm mà thôi.”. Người ta thấy trèo lên những cảm thương sâu sắc ở nhân vật, rõ
ràng là một người con gái đang tuổi xuân phơi phới như thế, nhưng lại chỉ quẩn quanh
suy nghĩ mình là con trâu, con ngựa, câm lặng cam chịu làm bạn với cái khổ đau. Còn
đâu cô Mị dám trốn nhà Pá Tra về gặp bố mẹ, còn đâu những tia hy vọng nhen nhóm,
ăn lá ngón để giải thoát cho số phận, và còn đâu những cuộc chơi đêm tình mùa xuân
sôi động, náo nhiệt, những câu hát văng vẳng tìm bạn “tao không có con gái con trai,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
tao đi tìm người yêu”. Cuộc sống của Mị gói gọn trong bốn bức tường, chỉ chừa ra cái
ô cửa sổ nhỏ bằng bàn tay. Tưởng như tuổi xuân và cả cuộc đời Mị sẽ mãi mãi ở ngoài
bốn bức tường ấy, chẳng khác nào bị giam lỏng cả một đời người ở chốn ngục tù trần gian.
Một trong những chi tiết độc đáo nhất tác phẩm mang tính hiện thực sâu sắc là cảnh
cô Mị bị trói cả đêm ở cột nhà khi A Sử nhìn thấy Mị đang chuẩn bị đi chơi. Đặt vào
bối cảnh thực tế, Mị là một cô gái trẻ trung, dồi dào sức sống. Niềm khao khát được đi
tìm bạn bè, đi chơi trong đêm tình mùa xuân là lẽ hiển nhiên, nhưng, tất cả những tia
hy vọng đó của Mị đã lập tức bị dập tắt khi cô bị chính người chồng của mình trói
đứng vào cột nhà bằng sợi mây một cách tàn bạo. Cái đau khổ lên đến tột cùng, ngay
đến những ước muốn nhỏ nhoi và đơn giản nhất, Mị cũng không thể thực hiện được.
“Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mỵ, lấy thắt lưng trói
hai tay Mỹ. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mỵ xõa
xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói
xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa
buồng lại.”, “Cả đêm Mỵ phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít
lại, đau nhức”, “Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.”. Cái
đau thể xác có thể diễn tả, nhưng nỗi đau tinh thần như từng vết roi hằn lên tâm hồn
Mị. Cô gái tội nghiệp đến đáng thương ấy, chỉ vì muốn đi chơi như bao người khác
mà bị hành hạ dã man, bị trói đứng trong đêm tối cô quạnh. Người đọc bỗng đặt ra câu
hỏi rằng, liệu còn biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh như thế nữa vẫn còn đang tồn tại,
biết bao cô con gái sa chân vào làm dâu nhà quan to, tưởng được sống hạnh phúc, đủ
đầy, cuối cùng lại trở thành kiếp trâu ngựa tủi hờn, nhục nhã. Tô Hoài không trực tiếp
lên án xã hội cổ hủ lạc hậu, bất nhân, coi người như cỏ rác, nhưng thông qua hình ảnh
của Mị, mọi đường nét thực tại đều được khắc họa một cách chân thực, rõ ràng. Hiện
thực về cuộc sống lao động khổ đau, hiện thực về thân phận mòn mỏi, hiện thực về cái
ác đang ngày ngày hiện hữu, tất cả đều được tác giả khai thác và phơi bày trước ánh sáng.
Xây dựng hình tượng nhân vật A Phủ, tác giả muốn phản ánh hiện thực về cuộc sống
của người dân lao động tuy xuất thân thấp kém, cuộc đời lam lũ vất vả nhưng lại chịu
thương chịu khó, sức khỏe dồi dào, không may số phận lại rơi vào tay cha con nhà
thống lý độc ác. Cái khổ đau của A Phủ được thể hiện qua những trắc trở trên đường
đời, “Bố mẹ đẻ A Phủ ở Hàng Bài. Năm xưa, làng Hắng Bìa phải một trận bệnh đậu
mùa, nhiều trẻ con, cả người lớn chết, có nơi chết cả nhà. Còn sót lại một mình A Phủ.
Có người làng đói bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh
đồng. A Phủ mới mười một tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở cánh đồng
thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa
này sang mùa khác.”, khi anh bị trói mang về nhà Pá Tra, bị đánh đập tàn bạo bởi bọn
trai làng. Bọn chúng bắt sống anh về như bắt một con vật, đánh đập anh tàn bạo đến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
nỗi “môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Đỉnh điểm là khi anh làm mất một con bò, Pá
Tra trói đứng anh vào cột, chờ đến khi có người mang hổ về mới tha cho anh. Bị trói
đứng mấy ngày trời, không ăn, không uống, chịu rét, A Phủ kiệt sức tưởng như chết đi
đến nơi. Từ hình ảnh một chàng trai khỏe mạnh, tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời, A
Phủ trở thành con trâu cày không công cho nhà thống lý. Sống trong xã hội thối nát,
mục ruỗng ấy, con người không còn có quyền sống như một con người, tất cả đều bị
phụ thuộc vào kẻ có quyền, có tiền. Sự thật về số phận của những người dân lao động
khu vực Tây Bắc trước Cách mạng Tháng tám là chuỗi những ngày tháng đau thương,
nơi con người bị vắt kiệt sức lao động, nơi cái ác ngự trị và tính mạng người dân chỉ
giống như con vật nuôi trong nhà.
Mị và A Phủ là hiện thân của kiếp đời nô lệ dưới chế độ phong kiến, được Tô Hoài
xây dựng từ những chất liệu hiện thực gần gũi nhất, thẳng thắn nhất. Qua hai nhân vật,
tác giả gián tiếp khắc họa cuộc sống và số phận của người dân lao động trước Cách
mạng, là tiếng nói mang tính tố cáo, lên án những kẻ lợi dụng chức quyền đã vùi dập
con người, đứng trên lập trường của nhân dân, bảo vệ người dân lao động, tố cáo tội
ác của quân thù và bọn bất lương.
Giá trị hiện thực còn được tác giá khai thác sắc bén nhằm phơi bày những kẻ lợi dụng
chức quyền, những thế lực đen tối ở miền núi phía Bắc trước Cách mạng nhằm vùi
dập, chà đạp con người. Hình tượng cha con nhà thống lý Pá Tra, bọn xéo phải, thống
quán chính là hiện thân của tội ác áp bức, bóc lột, coi số phận con người rẻ mạt như
trâu ngựa, mặc sức bóc lột, hành hạ. Đặt trong hoàn cảnh đặc trưng của khu vực miền
núi xa xôi, hẻo lánh, dân trí thấp, tư tưởng cổ hủ, lạc hậu và những hủ tục truyền đời,
thực dân Pháp đã sử dụng bọn quan lại như tay sai nhằm kìm kẹp nhân dân lao động
dưới ách thống trị, bóc lột. Chúng tiếp tay cho chính dân ta hãm hại lẫn nhau vì miếng
ăn, vì quyền lực, kẻ có quyền được mặc sức nhũng nhiễu, thu bạc thu vàng, lại được
cho muối, cho thuốc phiện về bán nhằm tư lợi cá nhân. Chính điều này đã làm cho
mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội ta ngày một rõ ràng, nhóm lên lòng căm thù
đối với bọn quan liêu đốn mạt, bê tha. Một trong những đoạn văn miêu tả chân thực
nhất của tác phẩm phải kể đến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh phạt vạ. Bị chịu đòn từ các
trai làng, anh chỉ biết đứng im, không dám nhúc nhích hay chống trả vì mang tội đánh
con trai thống lý. Cái tàn ác thể hiện ở chỗ, tên A Sử gây sự đánh nhau, nhưng khi bị
đánh lại được bênh vực, được cha đi tìm kẻ đã đánh con trai mình về hành hạ, trong
khi A Phủ, vì không có cha mẹ, vì thân phận hèn kém lại phải chịu đòn, chịu phạt. “A
Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà, không được dự tiệc phút ấy.”, “A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập
tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa lên thống lý rồi quay lại đánh
A Phủ. A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá... Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút
thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A
Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người đánh, người quỳ lạy, kể lể, chửi
bới. Xong một lượt đánh, kẻ, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt chiều, suốt
đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.”, “A Phủ lê hai cái đầu gối
sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra
đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A Phủ
cũng nhặt xong bạc, nhưng chỉ nhặt làm phép lên như thế rồi lại để ngay xuống mặt
tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp.”. Tất cả những chi tiết ấy thể hiện sự tàn
bạo, coi người như rơm rác của bọn quan lại, dã man xuống tay đánh đập trong khi
bọn chúng thảnh thơi hút thuốc, chửi bới, thóa mạ. Thật không thể tưởng tượng được
lại tồn tại một xã hội thối rữa, nơi nhân phẩm con người không bằng một con vật, kẻ
phạm tội lại là quan tòa, người vô tội lại trở thành con nợ mạt kiếp, bị đánh đập tàn ác.
Phải chăng, đây chính là những góc khuất đã được thế lực đen tối dung túng để bọn
quan liêu mặc sức tung hoành, nhũng nhiễu, bóc lột dân chúng, bợ đỡ bọn Tây nhằm
trục lợi, vơ vét của cải.
Tội ác của cha con thống lý Pá Tra thật không kể xiết, chúng không thương xót một
ai, không chừa cả những số phận yếu đuối, không có khả năng chống cự. Thân phận
gạt nợ của Mị cũng bắt nguồn từ món nợ giữa bố của thống lý Pá Tra và bố mẹ Mị
“Ngày xưa bố Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của
thống lý Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận
khi hai vợ chồng về già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.”
món nợ truyền đời từ bố mẹ sang con cháu đã cho thấy sự bóc lột của kẻ nắm quyền,
không một sự thương xót với người già, trẻ nhỏ hay cả những gia đình bần hàn, cơ
cực. Cái duy nhất bọn chúng quan tâm là lợi ích, tiền của. Dường như, tình người
không hề tồn tại với cha con thống lý Pá Tra. Cuộc đời Mị từ lúc bị lừa bắt về làm
dâu, sống lặng lẽ “như một con rùa nuôi trong xó cửa”, làm việc quần quật “Tết xong
thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì nhặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ
bắp…”, đến khi bị hành hạ cực khổ, bị trói, bị đánh,… giống như một bản án buộc tội
thế lực quan lại độc ác, vô nhân tính, là bản cáo trạng chân thực nhất về tội ác của cha
con thống lý Pá Tra đã đè nặng lên cả một kiếp người, không chỉ khiến độc giả đau
xót, mà còn khơi gợi sự căm tức, phẫn nộ, cảm thông với nhân vật.
Tô Hoài không phê phán một cách trực tiếp, nhưng chính từ những hành động của
thống lý Pá Tra đối với A Phủ và Mị, bị đẩy vào số phận con sâu cái kiến, người đọc
đã nhận ra được bộ mặt bóc lột, lên án gay gắt chế độ quan lại trong xã hội thực dân
nửa phong kiến khu vực miền núi Tây Bắc đã khiến biết bao con người khỏe mạnh,
chịu thương chịu khó trở thành tay sai cho chế độ bóc lột bạo tàn. Giá trị hiện thực của
tác phẩm là phơi bày được bộ mặt xấu xa của chế độ phong kiến lỗi thời, đốn mạt, nơi
những kẻ ác nghiệt nắm mọi quyền sinh quyền sát trong tay, nơi kiếp người bị rẻ rúng,
không bằng con trâu, con ngựa.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Tô Hoài đã xuất sắc trong việc tái hiện lại bức tranh hiện thực về số phận những con
người khốn khổ nơi vùng núi cao, đồng thời lên án, vạch mặt những thế lực đen tối đã
vùi dập, chà đạp con người. Bằng nghệ thuật miêu tả đặc sắc, xây dựng tâm lý nhân
vật qua hành động, cử chỉ và sự tiến bộ trong suy nghĩ của nhân vật, tác giả không chỉ
khiến cho người đọc hình dung một cách rõ ràng về những góc khuất trong xã hội xưa
mà còn thể hiện sự thương cảm, xót xa với những người dân lao động vô tội. Xét cho
cùng, văn học chính là hiện thực được phản ánh một cách chắt lọc, mục đích của văn
học là khơi gợi sự đồng cảm nơi độc giả. Trên phương diện ấy, Tô Hoài đã hoàn thành
một cách trọn vẹn với tư cách một người quan sát, một nhà truyền đạt, là sợi dây kết
nối giữa bạn đọc và những con người họ chưa từng một lần gặp gỡ.
Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” là hiện thực cuộc sống của những người dân
Tây Bắc, cần cù, chăm chỉ, chân phương nhưng bất hạnh, khổ cực. Qua hai hình tượng
nhân vật điển hình, tác giả đã khái quát toàn bộ không gian xã hội thực dân nửa phong
kiến nơi vùng cao, đồng thời lên án mạnh mẽ, phơi bày bộ mặt tàn bạo và các thế lực
đen tối đã tồn tại và chèn ép con người đến bước đường cùng. Qua tác phẩm, Tô Hoài
cũng gửi gắm sự nâng niu, trân trọng đến nhân vật của mình hay chính là những người
dân vùng núi phía Bắc, tìm kiếm sự lay động trong lòng độc giả khi chứng kiến những
khó khăn, gian khổ mà nhân vật phải trải qua.
Giá trị hiện thực trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 4
Một tác phẩm có giá trị là thông qua việc phơi bày chân thực về cuộc sống, số phận
của con người, tác phẩm đã lên án, tố cáo các thế lực chà đạp lên quyền sống của con
người, đồng cảm với ước mơ, khát vọng chính đáng của con người, trân trọng phẩm
chất tốt đẹp của con người và mở ra hướng giải quyết cho con người thoát khỏi tình
cảnh hiện tại. Những tác phẩm có giá trị hiện thực thể hiện góc nhìn tinh tế và nhạy
bén, cũng như tấm lòng của nhà văn hướng về con người và cuộc đời. Thông qua cuộc
đời, số phận của Mị và A Phủ, cuộc sống của con người miền núi hiện lên thê thảm,
nhưng điều đáng quý trong họ là dù có lúc bị bóc lột, chà đạp thì lòng yêu đời và khát
vọng sống vẫn âm ỉ sục sôi, chỉ chờ cơ hội là bùng phát mãnh liệt.
Bức tranh hiện thực trong "Vợ chồng A Phủ" trước hết là bức tranh về cuộc đời tăm
tối của người nông dân miền núi khi cách mạng chưa giải phóng. A Phủ và Mị hiện
lên thân phận những con người đầy tủi nhục. Họ đều là nạn nhân bi thảm của cái
nghèo truyền kiếp, của những món nợ truyền kiếp.
Thông qua câu chuyện cuộc đời cặp vợ chồng người Mèo này. Tô Hoài nêu lên vấn đề
số phận nam nữ, thanh niên Mèo nói riêng và đồng bào dân tộc nói chung dưới sự áp
bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến và con đường đến với cách mạng của họ .
Bên cạnh đó , tác giả đặt vấn đề cần giải phóng phụ nữ và những chủ trương chính
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
sách của Đảng trong việc giúp đỡ các dân tộc anh em. Những nội dung nói trên đã làm
nên giá trị hiện thực của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
Qua cuộc đời đau khổ của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã lên tiếng tố cáo những tội ác của
bọn thực dân phong kiến đối với những người dân vùng núi Tây Bắc . Nhân dân miền
núi nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung phải chịu cảnh một cổ hai tròng. Dưới thời thực dân Pháp.
Thống lí là người đứng đầu bộ máy chính quyền ở các bản làng vùng dân tộc. Giàu có,
lại dựa vào thế lực của Tây, cha con thống lí Pá Tra tha hồ tác oai tác quái ức hiếp dân
lành. Đó là hiện trạng phổ biến xảy ra ở nước ta trước Cách mạng. Bằng chính sách
cho vay nặng lãi , chúng bóc lột người dân đến tận xương tủy. Mị và A Phủ là nạn
nhân trực tiếp của chính sách ấy. Chỉ vì món tiền cưới cha mẹ mà Mị đã phải bán
mình làm dâu nhưng thân phận Mị không khác nào kẻ tôi đòi, làm việc không công
đến suốt đời. Cái địa ngục khủng khiếp ấy đã biến Mị từ một cô gái trẻ trung, vui tươi,
xinh đẹp, yêu đời thành “ con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, thành “ con trâu con ngựa
trong chuồng; chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Đối lập hoàn toàn với cuộc
sống giàu sang phú quý ở nhà thống lí- mà tác giả đã tố cáo được tạo nên do việc “ ăn
của dân nhiều, đồn tây lại cho muối về bán”- với “ nhiều ruộng, nhiều bạc, nhiều
thuốc phiện nhất làng” là hình ảnh Mị “ ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa , cạnh tàu
ngựa “ và “ lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng
nước dưới khe suối lên, Mị cũng cúi mặt , mặt buồn rười rượi”. Cường quyền và thần
quyền nhà thống lí Pá Tra đã giết chết cô gái ấy cả thể xác lẫn tâm hồn. Mị cùng bao
cô gái đáng thương khác trong nhà thống lí – như người chị dâu chưa già mà lưng đã
còng vì quanh năm phải đeo thồ nặng quá , còn Mị- phải làm việc cực nhọc suốt đêm
ngày để phục dịch cho cha con thống lí ăn chơi quanh năm suốt tháng. Cuộc sống câm
lặng nhẫn nhục đã làm Mị chai sạn đi, trở thành cái xác không hồn vật vờ, thành một
nữ cô chỉ biết làm việc không ngơi tay, thành kẻ hầu hạ cho chồng mình mà lúc nào
cũng có thể bị đánh đập một cách tàn nhẫn không thương tiếc. Ý thức về cuộc sống
trong Mị giờ đây đã bị xóa sạch.
Với cô không còn quá khứ, hiện tại, tương lai, chỉ còn ô cửa sổ bé tí nhờ nhờ thứ ánh
sáng thảm hại không biết ngày hay đêm, chỉ còn ánh lửa leo lét làm bạn giữa đêm
đông dài giá lạnh. Rồi cái mong ước bình dị được đi chơi tết của Mị cũng bị A Sử phũ
phàng dập tắt khi nó vừa mới bừng lên. Trong khi A Sử đi chơi và bắt bao nhiêu cô
gái đẹp về làm vợ, Mị không dám nói gì. Dù là vợ A Sử , Mị vẫn bị hắn trói dã man
vào cột nhà khi cô vừa nảy ra ý muốn đi chơi Tết như bao phụ nữ đã có chồng khác.
Thân phận con người , đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội thực dân phong kiến
ngày ấy bị coi rẻ quá mức. Người phụ nữ chỉ biết cúi đầu cam chịu. Quyền bình đẳng
nam nữ chỉ là một khao khát không bao giờ trở thành hiện thực.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Bên cạnh cô Mị sống như đã chết ấy là A Phủ. Cũng vì món nợ vô lí suốt đời không
thể trả nổi mà A Phủ phải bước chân vào nhà thống lí. Cũng chỉ vì yêu lẽ phải, dũng
cảm đánh lại con nhà giàu để bảo vệ công lí mà A Phủ bị bắt phạt vạ một cách bất
công. Anh bị bắt, bị đánh đập tàn ác : “ Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập
chảy máu. Xong một lượt đánh, kẻ, chửi, lại hút…Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm,
càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút…”.Mạng người bị coi rẻ; pháp
luật, công lí thuộc về tay kẻ có tiền, có thế lực. Cha con thống lí đã tự cho mình các
quyền sinh sát, mặc nhiên ức hiếp , sát hại dân làng. Cũng như Mị, A Phủ trở thành
cái máy làm việc trong nhà thống lí : “ Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò
tót,bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một mình rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng”.
Người ở đợ trừ nợ cho nhà thống lí thì cũng như con trâu, con ngựa vô tri trong
chuồng. Thống lí đã dùng việc cho vay nặng lãi để ràng buộc cuộc đời người nông
dân, biến họ thành nô lệ, đời đời kiếp kiếp. Thống lí Pá Tra đã tuyên bố: “ Đời mày,
đời con, đời cháu mày, tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ tao mới thôi”. Cha con
thống lí thản nhiên mặc sức hưởng lạc trên mồ hôi công sức người khác. Rồi do
nguyên nhân khách quan gặp cơn đói rừng, hổ ăn mất một con bò- đó là chuyện hoàn
toàn ở miền núi và A Phủ có khả năng chuộc lại lỗi lầm vậy mà A Phủ vẫn đành phải
chấp nhận tự lấy dây, lấy cọc cho thống lí trói mình vào cọc một cách nhục nhã để thế
mạng cho con bò bị mất. Số phận đau khổ nghiệt ngã của Mị và A Phủ cũng là số
phận của đồng bào Tây Bắc trước cách mạng nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.
Tức nước vỡ bờ, Mị cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn. Lòng nhân đạo,
niềm khao khát cuộc sống tự do, sự căm thù sâu sắc cha con thống lí đã làm nên sức
mạnh diệu kì ở Mị. Nhưng tất cả những điều đó là khởi phát từ bản tính hướng thiện
tự nhiên của con người. Mị làm như vậy vì cô không còn cách nào khác, cô không
đành lòng nhìn một con người bằng xương bằng thịt chết thê thảm trước mắt mình
một cách vô lí. Điều này hoàn toàn phù hợp với bản chất của cô: nhân hậu , trong
sáng, yêu đời. Hành động của cô mang tính tự phát. Thế nhưng, Mị và A Phủ sẽ trốn
đi đâu, làm gì? Hay là họ lại sẽ rơi vào tay một thống lí Pá Tra khác, lại tiếp tục cảnh
nô lệ cùng cực? Tô Hoài đã mở đường cho họ: đến với Đảng, đi theo cách mạng. Đó
mới là con đường để họ tự đứng lên giải phóng mình , tháo bỏ ách xiềng xích nô lệ.
Đảng đã không quên những dân tộc anh em, những người dân miền núi chất phác,
trung thực, còn đang chịu cảnh áp bức. Đó cũng là chính sách đoàn kết dân tộc của
Đảng ta trong thời kì ấy. Ở Phiềng Sa, A Phủ đã gặp A Châu , người cán bộ cách
mạng đã đến hoạt động ở vùng rừng núi hẻo lánh xa xôi của Tây Bắc . A Phủ và Mị
đã được A Châu giác ngộ, họ hiểu rõ hơn bản chất của bọn thực dân phong kiến và
nhận thức được con đường duy nhất đúng đắn là mình phải theo cách mạng để thoát
khỏi cái nghèo, thoát khỏi kiếp nô lệ: tự mình phải đứng lên lật đổ ách thực dân phong
kiến , tiêu diệt những kẻ như cha con thống lí Pá Tra thì mới có cuộc sống hạnh phúc,
tự do lâu bền thực sự. Đảng đã chỉ đường cho họ và A Phủ đã trở thành tiểu đội
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
trưởng đội du kích. Mị và A Phủ tự nguyện đứng lên bảo vệ quê hương, bản làng,
đánh Tây và xóa bỏ chế độ phong kiến. Con đường đấu tranh của đôi thanh niên Mèo
dũng cảm ấy đã chuyển từ tự phát sang tự giác. Giờ đây họ đã ý thức được hành động
của mình, quyết tâm đi theo lí tưởng của Đảng. Sự chuyển biến về nhận thức, tư tưởng
của Mị, và A Phủ tiêu biểu cho sự chuyển biến tư tưởng của đồng bào dân tộc khi
được Đảng tuyên truyền giác ngộ.
Tóm lại, Vợ chồng A Phủ đã cho người đọc thấy được một cách chân thực, sinh động
về cuộc sống và con người ở vùng cao Tổ quốc. Tác giả đã lên án những thế lực
phong kiến miền núi, thế lực thực dân xâm lược, thông cảm sâu sắc với số phận của
người nông dân miền núi đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của họ. Và
tác phẩm sống mãi với thời gian là nhờ có ngòi bút hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân
đạo cao cả của nhà văn khi viết về đồng bào Tây Bắc giàu tình nghĩa, thuỷ chung với cách mạng.
Giá trị hiện thực trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 5
Tô Hoài là một cây bút lão luyện thiên về phản ánh những sự thật của cuộc sống đời
thường trong những trang viết bình dị, tinh tế và đầy chất thơ. Ông có vốn hiểu biết
phong phú và sâu sắc về cuộc sống, đặc biệt là đối với những phong tục tập quán độc
đáo của nhiều vùng đất khác nhau, có sự gần gũi, gắn bó với cuộc sống và con người
miền núi khiến những đề tài miền núi trở thành mảng sáng tác quan trọng và có giá trị
của Tô Hoài. Được mệnh danh là “Nhà văn của thiếu nhi”, giọng văn của Tô Hoài
luôn mang phong vị tự nhiên, hồn hậu, ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, dễ cảm. Tác
phẩm nổi bật nhất của ông sau Cách mạng Tháng 8 phải kể đến “Vợ chồng A Phủ”,
một kiệt tác văn chương được hoàn thiện trong chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc
của tác giả mang giá trị hiện thực sâu sắc, đả kích và lên án sự bất công trong xã hội
phân chia tầng lớp đã vùi dập con người đến tận cùng của khổ đau.
Giá trị hiện thực là bức tranh đời sống hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác
phẩm của mình. Đó là bức tranh đời chân thực nhất được người nghệ sĩ cải biến đưa
vào trang văn của mình, từ đó phản ánh lên những sự thực ở đời đến người đọc. Tùy
vào ý đồ sáng tạo mà hiện tượng đó được đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự
khúc xạ ở những mức độ khác nhau.
Tô Hoài đã đưa những giá trị hiện thực, tham nhập vào cuộc sống của những người
lao động Tây Bắc qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Ông thể hiện sự thấm nhuần
được suy nghĩ, cảm nhận xuất phát từ tấm lòng thiện lương của con người nơi đây,
thấu hiểu được nỗi đau đớn, tủi cực đang ngày đêm day dứt, trăn trở, thông qua ngòi
bút và vốn hiểu biết, Tô Hoài đã xây dựng một cốt truyện cùng các tuyến nhân vật Mị,
A Phủ,… như một bức tranh sự thật, tiếng nói chung của đại đa số quần chúng đương
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
thời, là bản cáo trạng đối với những thói hư tật xấu và là tiếng lòng thổn thức của
những người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội.
Giá trị hiện thực của truyện ngắn được gột tả qua cuộc sống bi kịch của người dân lao
động miền núi, điển hình là hình tượng nhân vật Mị và A Phủ. Truyện ngắn kể về Mị
là một cô gái xinh đẹp, hiền lành, chăm chỉ, hiếu thảo với bố mẹ nhưng trở thành món
nợ truyền đời truyền kiếp của cha mẹ Mị, với những yêu cầu quá quắt của phong tục
miền núi khiến Mị mất đi tự do, trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Ở đó,
cảm xúc của cô như bị chai lì và khao khát tự do, biến thành một con người lầm lũi
như con rùa trong xó cửa. Gọi là con dâu, nhưng lại là kiếp con dâu gạt nợ, chẳng
khác gì một con ở không công đến suốt đời suốt kiếp cho nhà thống lí, không được
ngơi nghỉ. Mị thậm chí còn bị đày đọa về tinh thần. Bởi bản thân Mị và A Sử vốn
không có tình cảm với nhau, Mị phải gánh chịu nhiều giày vò mà vẫn phải ở với nhau.
A Sử đối với Mị chẳng khác gì chủ nhà với con ở, bị đánh đạp và đối xử tàn nhẫn, dã
man. Cuộc sống của Mị bị vây trong một căn buồng tối có duy nhất một ô cửa bé bằng
bàn tay mà "lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng" chẳng rõ
ngày hay đêm. Khổ, bị áp bức, bị bóc lột nhưng Mị không dám bỏ trốn, bởi Mị đã bị
chúng nó đem đi cúng trình ma. Một cô gái trẻ trung mất dần sức sống, trở thành cô
gái bất hạnh bị chà đạp. Mị đã bị tha hóa, thay đổi, trở thành nô lệ. Tuyệt vọng nghĩ
rồi cô sẽ sống ở căn phòng tối tăm này cho đến chết thì thôi, chứ không còn một mối
thoát nào khác. Cuộc sống của Mị ở nhà thống lý là điển hình, khái quát toàn bộ khó
khăn, khổ đau mà nhân dân lao động miền Bắc phải chịu trước Cách mạng tháng Tám.
Tác giả đã mượn nhân vật Mị để làm nổi bật lên hiện thực cay đắng, tủi nhục của
những người dân hiền lành, chất phác phải chịu đựng.
Tô Hoài xây dựng hình tượng A Phủ- một chàng trai nghèo khỏe mạnh được rất nhiều
con gái trong bản đêm lòng yêu thích. Chỉ vì một cuộc ẩu đả với A Sử mà A Phủ bị
phạt vạ oan ức một số tiền lớn. Thống lí Pá Tra đã bắt A Phủ về đánh đập, hành hạ,
chàng phải làm việc ở nhà thống lí để trừ nợ dần. Thế là trong nhà thống lí có thêm
một người nô lệ nữa. A Phủ phải vĩnh viễn chôn chân tại nhà kẻ thống trị, làm lụng
như trâu, như ngựa, sống cuộc đời của một nô lệ để trả món nợ bất công. Do một lần
chặng may động rừng, hổ xuống ăn mất một con trâu, A Phủ bị thống lí trói đứng, sau
đó chàng gặp Mị, một nạn nhân của cha con thống lý Pá Tra. Chứng kiến số phận khổ
đau giống mình, Mị như được tiếp thêm nguồn sức mạnh, dám đứng lên chống lại số
phận, cùng A Phủ bỏ trốn, tìm đến một cuộc sống, nơi mà họ có thể sống như một con
người thực thụ. Tiếp đó, một nhân vật bị bóc lột, chèn ép tàn bạo là cha của Mị- người
nông dân nghèo, vay tiền nhà thống lý để cưới vợ, làm lụng quanh năm suốt tháng để
trả nợ, năm nào cũng trả một nương ngô, ấy vậy mà đến khi Mị đã lớn, người vợ đã
chết, món nợ ấy vẫn còn phải trả giá cả bằng hạnh phúc của chính con cái mình.
Người đàn bà trong gia đình nhà thống lí từng bị trói đứng ở cột rồi chết rũ, người chị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
dâu của Mị… tất cả những con người ấy dù không được kể ra nhưng hiểu được họ đã
phải trải qua những đau khổ.
Giá trị hiện thực còn được tác giá khai thác sắc bén nhằm phơi bày bộ mặt tàn bạo của
bọn phong kiến miền núi đã vùi dập, chà đạp con người. Hình tượng cha con nhà
thống lý Pá Tra chính là hiện thân của tội ác áp bức, bóc lột, coi số phận con người rẻ
mạt như trâu ngựa, mặc sức bóc lột, hành hạ. Đặt trong hoàn cảnh đặc trưng của khu
vực miền núi xa xôi, hẻo lánh, dân trí thấp, tư tưởng cổ hủ, lạc hậu và những hủ tục
truyền đời, thực dân Pháp đã sử dụng bọn quan lại như tay sai nhằm kìm kẹp nhân dân
lao động dưới ách thống trị, bóc lột. Chúng tiếp tay cho chính dân ta hãm hại lẫn nhau
vì miếng ăn, vì quyền lực, kẻ có quyền được mặc sức nhũng nhiễu, thu bạc thu vàng,
lại được cho muối, cho thuốc phiện về bán nhằm tư lợi cá nhân. Chính điều này đã
làm cho mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội ta ngày một rõ ràng, nhóm lên lòng
căm thù đối với bọn quan liêu đốn mạt, bê tha. Một trong những đoạn văn miêu tả
chân thực nhất của tác phẩm phải kể đến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh phạt vạ. Bị chịu
đòn từ các trai làng, anh chỉ biết đứng im, không dám nhúc nhích hay chống trả vì
mang tội đánh con trai thống lý. Cái tàn ác thể hiện ở chỗ, tên A Sử gây sự đánh nhau,
nhưng khi bị đánh lại được bênh vực, được cha đi tìm kẻ đã đánh con trai mình về
hành hạ, trong khi A Phủ, vì không có cha mẹ, vì thân phận hèn kém lại phải chịu đòn,
chịu phạt. Tất cả thể hiện sự tàn bạo, coi người như rơm rác của bọn quan lại, dã man
xuống tay đánh đập trong khi bọn chúng thảnh thơi hút thuốc, chửi bới, thóa mạ. Thật
không thể tưởng tượng được lại tồn tại một xã hội thối rữa, nơi nhân phẩm con người
không bằng một con vật, kẻ phạm tội lại là quan tòa, người vô tội lại trở thành con nợ
mạt kiếp, bị đánh đập tàn ác. Phải chăng, đây chính là những góc khuất đã được thế
lực đen tối dung túng để bọn quan liêu mặc sức tung hoành, nhũng nhiễu, bóc lột dân
chúng, bợ đỡ bọn Tây nhằm trục lợi, vơ vét của cải.
Tội ác của cha con thống lý Pá Tra không có ngôn từ nào kể hết, chúng không thương
xót một ai, kể cả những số phận yếu đuối, không có khả năng chống cự. Thân phận gạt
nợ của Mị cũng bắt nguồn từ món nợ giữa bố của thống lý Pá Tra và bố mẹ Mị do cha
Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của thống lý Pá Tra
bây giờ. Mỗi năm cha Mị đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ
chồng về già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ. Món nợ
truyền đời từ bố mẹ sang con cháu đã cho thấy sự bóc lột của kẻ nắm quyền, không
một sự thương xót với người già, trẻ nhỏ hay cả những gia đình bần hàn, cơ cực. Cái
duy nhất bọn chúng quan tâm là lợi ích, tiền của. Dường như, tình người không hề tồn
tại với cha con thống lý Pá Tra. Cuộc đời Mị từ lúc bị lừa bắt về làm dâu, sống lặng lẽ
“như một con rùa nuôi trong xó cửa”, làm việc quần quật “ đến khi bị hành hạ cực
khổ, bị trói, bị đánh,… giống như một bản án buộc tội thế lực quan lại độc ác, vô nhân
tính, là bản cáo trạng chân thực nhất về tội ác của cha con thống lý Pá Tra đã đè nặng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
lên cả một kiếp người, không chỉ khiến độc giả đau xót, mà còn khơi gợi sự căm tức,
phẫn nộ, cảm thông với nhân vật.
Một trong những chi tiết độc đáo nhất tác phẩm mang tính hiện thực sâu sắc là cảnh
cô Mị bị trói cả đêm ở cột nhà khi A Sử nhìn thấy Mị đang chuẩn bị đi chơi. Một cô
gái trẻ trung, dồi dào sức sống với iềm khao khát được đi tìm bạn bè, đi chơi trong
đêm tình mùa xuân, nhưng tất cả những tia hy vọng đó của Mị đã lập tức bị dập tắt khi
cô bị chính người chồng của mình trói đứng vào cột nhà bằng sợi mây một cách tàn
bạo. Đau khổ lên đến tột cùng, ngay đến những ước muốn nhỏ nhoi và đơn giản nhất,
Mị cũng không thể thực hiện được. Cái đau thể xác có thể diễn tả, nhưng nỗi đau tinh
thần như từng vết roi hằn lên tâm hồn Mị. Cô gái tội nghiệp đến đáng thương ấy, chỉ
vì muốn đi chơi như bao người khác mà bị hành hạ dã man, bị trói đứng trong đêm tối
cô quạnh. Ở đây, Tô Hoài không trực tiếp lên án xã hội cổ hủ lạc hậu, bất nhân, coi
người như cỏ rác, nhưng thông qua hình ảnh của Mị, mọi đường nét thực tại đều được
khắc họa một cách chân thực, rõ ràng. Hiện thực về cuộc sống lao động khổ đau, hiện
thực về thân phận mòn mỏi, hiện thực về cái ác đang ngày ngày hiện hữu, tất cả đều
được tác giả khai thác và phơi bày trước ánh sáng.
Tô Hoài không phê phán một cách trực tiếp, nhưng chính từ những hành động của
thống lý Pá Tra đối với A Phủ và Mị, bị đẩy vào số phận con sâu cái kiến, người đọc
đã nhận ra được bộ mặt bóc lột, lên án gay gắt chế độ quan lại trong xã hội thực dân
nửa phong kiến khu vực miền núi Tây Bắc đã khiến biết bao con người khỏe mạnh,
chịu thương chịu khó trở thành tay sai cho chế độ bóc lột bạo tàn. Giá trị hiện thực của
tác phẩm là phơi bày được bộ mặt xấu xa của chế độ phong kiến lỗi thời, nơi những kẻ
ác nghiệt nắm mọi quyền sinh quyền sát trong tay, nơi kiếp người bị rẻ rúng, không
bằng con trâu, con ngựa. Tô Hoài đã xuất sắc trong việc tái hiện lại bức tranh hiện
thực về số phận những con người khốn khổ nơi vùng núi cao, đồng thời lên án, vạch
mặt những thế lực đen tối đã vùi dập, chà đạp con người và phản ánh chân thực những
phong tục tập quán, hủ tục của người miền núi vùng Tây Bắc.
Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” là hiện thực cuộc sống của những người dân
Tây Bắc, cần cù, chăm chỉ, chân phương nhưng bất hạnh, khổ cực. Nhân vật Mị và A
Phủ là hiện thân của kiếp đời nô lệ dưới chế độ phong kiến được nhà văn Tô Hoài xây
dựng từ những chất liệu hiện thực gần gũi nhất, thẳng thắn nhất. Ông gián tiếp khắc
họa cuộc sống và số phận của người dân lao động trước Cách mạng, là tiếng nói mang
tính tố cáo, lên án những kẻ lợi dụng chức quyền đã vùi dập con người, đứng trên lập
trường của nhân dân, bảo vệ người dân lao động, tố cáo tội ác của quân thù và bọn bất
lương. Qua tác phẩm, Tô Hoài cũng gửi gắm sự trân trọng đến nhân vật của mình-
những người dân vùng núi phía Bắc. Trên phương diện này, Tô Hoài đã hoàn thành
một cách trọn vẹn với tư cách một người quan sát, một nhà truyền đạt, là sợi dây kết
nối giữa bạn đọc và những con người họ chưa từng một lần gặp gỡ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Giá trị hiện thực trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 6
Điều thôi thúc Tô Hoài viết truyện Vợ Chồng A Phủ là món nợ tình cảm với đồng bào
Tây Bắc. Sau khi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952), nhà văn có thời gian dài
sinh sống cùng với họ. Đồng cảm và thấu hiểu nỗi đau khổ tủi nhục của người lao
động dưới ách thống trị của phong kiến thực dân, trân trọng những đức tính phẩm chất
cao quý và vui mừng khi cách mạng đến với họ nên nhà văn kể về cuộc đời Mị và A
Phủ với tình cảm đặc biệt. Vì thế, qua nhân vật Mị truyện thể hiện giá trị hiện thực
vừa thấm đẫm tinh thần nhân đạo.
Mở trang truyện là người đọc chứng kiến cảnh đời bi thương của nhân vật Mị : Lúc
nào cũng thấy Mị ngồi quay sợi bên tảng đá cạnh tàu ngựa, lúc nào cô ấy cũng cúi
mặt, mặt buồn rười rượi. Nhà văn đã tả chân dung, tâm trạng để khắc họa số phận. Mị
ngồi đấy mà cuộc đời như bị thắt chặt trong kiếp ngựa trâu và luôn mang trong lòng
nỗi đau buồn thầm lặng dai dẳng, triền miên. Nỗi buồn đông cứng như tảng đá vô tri
và đè nặng lên đôi vai, lên cuộc đời Mị. Tác giả đã thể hiện nỗi buồn của Mị với giọng
văn ngậm ngùi và chiều sâu cảm thông, san sẻ.
Vì sao Mị lại xuất hiện đơn độc, lầm lũi giữa cảnh giàu sang tấp nập của nhà thống lí ?
Hỏi ra mới biết cô ấy không phải là con thống lí mà là đứa con dâu gạt nợ. Vì món nợ
từ ngày cưới mà bố mẹ không trả nổi nên Mị bị bắt về nhà Pá Tra làm vợ A Sử để trừ
nợ. Đây là thủ đoạn cho vay nặng lãi của bọn phong kiến thống trị, là cách bóc lột sức
lao động của người nghèo và chúng đã hãm người nông dân trong sự lệ thuộc suốt đời.
Chúng đã lợi dụng tập quán của người Mèo : đời cha không trả hết nợ thì đến đời con,
đời cháu. Bắt Mị về là cha con Pá Tra liền cúng ma nhà nó. Vĩnh viễn Mị là người của
nhà thống lí, là đứa ở trừ nợ suốt đời, là có thể chết rủ ở xó nhà này mà không thể hi
vọng vào sự giải thoát. Pá Tra đã lợi dụng sự mê tín dị đoan của người Mèo để giam
hãm Mị, để tăng sức mạnh và vươn xa hơn bàn tay tội ác. Bọn thống trị độc ác đã tước
đi quyền sống tự do của Mị, cướp mất tình yêu, tuổi trẻ và hạnh phúc của Mị.
Hành tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Thân thể của Mị như muốn tan theo dòng
nước mắt đau buồn tủi nhục ấy. Mị đã nghĩ đến cái chết như là phương cách giải
thoát. Nhưng vì bố mà Mị cam chịu kiếp sống đọa đày. Mị làm việc như cái máy, bị
vắt kiệt sức ra để trừ nợ. Tác giả so sánh Mị khổ ơn con trâu con ngựa nhà thống lí.
Mị như cái xác không hồn. Mị sống trong căn buồng kín mít không ánh sáng, chăng
hương người, chỉ có cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng thấy
trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Không gian ấy có biết đời Mị sẽ héo dần
trong tăm tối, nô lệ, trong kiếp sống ngục tù. Không biết gì thế giới xung quanh mình,
Mị dần dần tê dại về cảm giác và tê liệt về ý thức, khác gì một đóa hoa tàn. Nếu đem
so sánh với đoạn đời tươi đẹp hồn nhiên khi còn ở nhà với bố mẹ thì hiện trạng kia gợi
biết bao niềm xót thương trong lòng nhà văn và độc giả. Và chi tiết ấy cũng mang ý
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
nghĩa tố cáo tội ác bọn thống trị đã vùi dập biết bao thân phận. Chúng đọa đày, áp chế
mặt tinh thần đến mức làm tê liệt ý thức phản kháng.
Không chỉ là nạn nhân của đồng tiền, của thần linh ma quái, của ách thống trị, Mị còn
là nạn nhân của thói độc ác vũ phu, nam quyền. Không thích Mị đi chơi Xuân, A Sử
chỉ hỏi một câu : « Mày muốn đi chơi à ? », rồi trói đứng Mị và cột nhà, quấn cả tóc
Mị vào cột, Mị bị đối xử tàn tệ chẳng khác một con vật. Hành động của A Sử lạnh
lùng như dã thú. Nó bị A Phủ trừng trị, Mị phải vào rừng hái thuốc về thoa suốt đêm.
Quá mệt nằm thiếp đi một lúc, nó liền đạp chân vào mặt Mị. Có những đêm, Mị ngồi
hơ lửa bên bếp, A Sử đi chơi về buồn tay đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Thân
phận một con người nhưng bị đối xử tàn tệ như súc vật bởi thói độc ác, hống hách của
bọn thống trị, nhà giàu. Cái đau đớn nhất của Mị không phải là thể xác bị hành hạ mà
bị xúc phạm nhân phẩm, bị chà đạp giá trị con người. Tác giả vừa tố cáo vừa bộc lộ
niềm đồng cảm, đau xót vô hạn.
Thể hiện mệnh đời đau khổ tăm tối của Mị, tác phẩm đã khái quát hóa hiện thực đau
khổ, tủi nhục bị bóc lột của người lao động miền núi, qua đó tố cáo tội ác bọn phong
kiến thống trị. Đồng thời dành cho người lao động tình cảm nhân đạo cao quý : niềm
đồng cảm sẻ chia, thương xót.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện qua thái độ ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của Mị.
Khi còn ở nhà với bố mẹ, Mị sống rất hồn nhiên và vui vẻ. Nhưng khi nghe tin Pá Tra
muốn bắt Mị về làm con dâu gạt nợ, Mị nói với bố : con nay đã biết cuốc nương làm
ngô, con phải làm nương, ngô trả nợ cho bố, bố đừng bán con cho bọn nhà giàu. Lời
nói ấy chứng tỏ Mị là người giàu lòng tự trọng, có ý thức về nhân phẩm, danh dự và tự
do. Tâm hồn Mị trong sáng, hồn nhiên, cao khiết như đóa hoa giữa gió núi mây ngàn.
Khi bị bắt về nhà thống lí, sống trong cảnh trâu ngựa, đêm nào Mị cũng khóc và Mị
uất ức vùng lên bằng cách hái lá ngón ăn để tự vẫn. Dù ý định không thành vì chữ
hiếu nhưng hành vi ấy biểu hiện tính cách mạnh mẽ, tinh thần chống đối lại số phận.
Đó chính là lúc sức sống tiềm tàng trong Mị đã chội dẫy. Từ bỏ ý định tự vẫn vì bố
cho thấy Mị là cô con gái hiếu thảo và tràn đầy tinh thần hi sinh.
Vẻ đẹp của Mị còn được thể hiện qua lòng ham sống, khát vọng sống tự do, tâm hồn
giàu sức sống. Kể từ ngày bố mất, Mị cũng không còn nghĩ đến cái chết, cô đã chôn
vùi đời mình trong khổ đau, quên lãng. Thế nhưng lòng ham sống vẫn còn le lói. Đến
khi mùa xuân về thì ngọn lửa ham sống chợt bừng lên. Tiếng sáo gọi bạn tình đêm
xuân đã đánh thức tâm hồn Mị, lòng Mị cảm thấy bồi hồi xao xuyến, thiết tha muốn
sống lại như những đêm xuân ngày xưa cũ. Mị ngồi nhẩm thầm hát theo tiếng sáo với
những bản tình ca ngày trước. Mị lén lấy rượu uống, uống ừng ực từng bát, uống như
nuốt hận, uống để quên đi những cay đắng, tủi nhục. Trong khi ấy, tiếng sáo ngoài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
đường, từ phía đời tự do cứ lửng lơ, mời gọi giục giã. Mị thấy lòng phơi phới trẻ lại.
Mị muốn đi chơi. Sức sống bấy nay bị đè nén nay bật trào dậy thành khát vọng tự do
mạnh mẽ. Nhưng vẻ đẹp tâm hồn đầy sức sống và khát vọng sống tự do ấy bị hủy hoại
bởi sự độc ác của A Sử.
Thế nhưng sức sống ấy lại bật dậy lần nữa trong hành động cứu A Phủ. A Phủ là đứa
ở gạt nợ của nhà thống lí. Đi chăn bò, sơ ý để hổ ăn mất bò nên bị Pá Tra bắt trói đứng
vào cột nhà và bỏ đói gần chết. Bỗng đêm khuya hôm ấy, Mị đang sưởi lửa thì ngọn
lửa bếp bỗng bừng sáng lên. Nhờ đó mà Mị nhìn thấy dòng nước mắt tuyệt vọng của
con người bất hạnh ấy. Vừa xót thương người cùng cảnh ngộ vừa căm thù thống lí Pá
Tra nên Mị dám đứng dậy cắt dây trói cứu A Phủ. Khi A Phủ thoát rồi, Mị đứng lặng
trong bóng tối và nỗi sợ hãi bị chết bỗng dưng ập về nên Mị đã vùng bỏ chạy theo A
Phủ. Thế là ngẫu nhiên Mị được thôi thúc từ lòng ham sống, lòng khao khát tự do và
biểu hiện tính cách ngoan cường. Hành động của Mị thật mạnh mẽ vì cô dám đứng lên
chống đối lại số phận, chống lại thế lực bạo quyền và cả thế lực thần quyền : vì Mị đã
hết sợ ma nhà thống lí rồi. Hành động giải phóng của Mị dù tự phát nhưng phù hợp
với quy luật tình cảm, quy luật xã hội và thể hiện đúng quy luật phát triển của tính
cách. Đó chính là lúc sức sống nội tại đã bùng lên một cách mạnh mẽ nên đã có một
kết quả rực rỡ. Nó khép lại quãng đời nô lệ tăm tối ở Hồng Ngài, mở ra một cuộc đời
tự do và ánh sáng ở Phiềng Sa. Hành động cứu người của Mị không chỉ thể hiện vẻ
đẹp tính cách mạnh mẽ, khát vọng sống, lòng ham sống mà còn là biểu hiện của tình tương thân tương ái.
Như vậy, nhờ sức sống tiềm tàng, tính cách mạnh mẽ, lòng ham sống mà những người
lao động miền núi có khả năng đứng lên để tự giải phóng. Họ biết tự cứu đời mình
trước khi tìm đến với Cách mạng. Do đó, qua tình tiết này, truyện còn phản ánh một
hiện thực đời sống là khả năng tự đứng lên giải phóng cuộc đời của người dân miền
núi. Đây là cơ sở tốt để sau này gặp lại cán bộ A Châu họ nhanh chóng được giác ngộ cách mạng.
Mị không chỉ điển hình cho mảnh đời tăm tối, nô lệ mà còn là hiện thân cho những
phẩm chất cao đẹp của người lao động miền núi mà nhà văn ca ngợi : siêng năng,
chăm chỉ trong lao động ; giàu tình nghĩa, đức hi sinh trong lối sống, quan hệ ; tâm
hồn trong sáng, giàu sức sống, tiềm tàng khả năng phản kháng chống áp bức… Nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất đặc sắc : đoạn tả Mị nghe tiếng sáo đêm xuân… Suy
tính của Mị trước khi cắt dây trói cứu A Phủ… Thành công nghệ thuật này cũng biểu
hiện niềm đồng cảm thương yêu nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã khái quát được hiện thực về cảnh đời đau khổ, tủi nhục
của người lao động miền núi bởi tội ác của bọn phong kiến ôm chân thực dân. Truyện
còn là bức tranh chân thực về nếp sống, phong tục tập quán vùng cao Tây Bắc. Truyện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
còn lay động tình cảm người đọc bởi giá trị nhân đạo sâu sắc : niềm đồng cảm thương
yêu kiếp người bất hạnh, trân trọng bao phẩm chất đáng quý của họ và kịch liệt lên án
thói độc ác của bọn phong kiến thống trị.