Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt (Dàn ý + 6 mẫu) | Văn mẫu 12

Phân tích giá trị nghệ thuật xây dựng tình huống truyện trong Vợ nhặt của Kim Lân mang đến gợi ý cách viết chi tiết kèm theo 6 mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức hiểu về đặc sắc nghệ thuật Vợ nhặt dễ dàng hơn.

Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
Dàn ý phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
1. Giới thiệu
- Truyện ngắn Vợ nhặt một sáng tác thành công của Kim Lân của văn xuôi sau
kháng chiến chống Pháp. Sự thành công của truyện chỗ: để phản ánh số phận bi
thảm của người nông dân trong năm đói 1945 khát vọng sống mạnh mẽ cùng
những phẩm chất tốt đẹp, Kim Lân đã lựa chọn được một tình huống độc đáo: tình
huống nhặt vợ.
- Câu chuyện nhặt vợ của anh Tràng ới ngòi bút miêu tả của Kim Lân đã làm toả
sáng vẻ đẹp rất người ở những con người đói khổ, đồng thời cũng khiến ý đồ tưởng
của nhà văn được thể hiện trọn vẹn. được thành công ấy nhờ tài năng nghệ
thuật của Kim Lân trong triển khai tình huống.
2. Phân tích
a. Mục đích của Kim Lân khi viết Vợ nhặt. Viết về nạn đói song ý đồ của nhà văn
không phải phản ánh thảm cảnh đói khát cùng tất cả vỏ cực nhếch nhác của con
người do nạn đói gây ra. Với Kim Lân “Đói, vừa cay đắng, vừa đớn đau, đồng thời
một mặt nào đó nó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự (Nhà văn nói về tác
phẩm). Truyện Vợ nhặt khai thác các khía cạnh sau cùng của bi kịch ấy.
b. Tình huống được lựa chọn: Khi nạn đói hoành hành, cái đói, cái chết đang bao
bọc, bủa vây xung quanh cuộc Sống của con người, lẽ ra phải lo kiếm miếng ăn để
bảo toàn sự sống thì Tràng - một thanh niên nghèo của xóm ngụ - lại nhặt về một
người vợ. Tràng đã vợ, gia đình riêng của anh đúng vào thời điểm đáng ra,
khát khao hạnh phúc chưa nên khó thể tồn tại được. Quả thực, tình huống
nhặt vợ của Tràng một tình huống tâm - ý nghĩa như một phép thử để đo
phẩm chất người trong con người. Lựa chọn tình huống này, Kim Lân phải rất bạo tay
đồng thời phải đủ sự tinh tế cũng như khả năng thấu hiểu nhân thế để thể xử lí,
triển khai theo đúng ý đồ, dự định ban đầu.
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
c. Những đặc sắc nghệ thuật của Kim Lân khi triển khai tình huống
c. 1. Đặc biệt chú ý khai thác các quan hệ trong bức tranh đời sống
- ơng quan đối lập giữa bối cảnh đói khát, đầy ám ảnh chết chóc với khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc của con người:
+ Nhà văn đã miêu tả khá tỉ mỉ bối cảnh của nạn đói, đặc biệt không gian năm đói
với các phương diện âm thanh, mùi vị, hình ảnh, không khí để tạo một cảm giác gai
lạnh, ghê rợn, trước cái chết đang sừng sững ngự trị khắp mọi ngóc ngách của đời
sống. Trên cái nền ấy, sự tồn tại của con người trở nên hết sức chông chênh: người
đã chết vì đói, người còn sống song cũng vật vờ như những bóng ma. Lúc này, sự
sống trở nên yếu thế khi bị cái chết dồn đuổi. Người ta dễ dàng tin rằng nếu cứ như
thế, sự sống sẽ dần chìm nghỉm trong không gian đặc quánh mùi vị chết chóc. Trong
không khí ấy, cần một sự kiện thật lạ lùng, thật đặc biệt để làm khuấy động đảo
lộn cái xu thế đang chìm dần kia: đó chính sự kiến anh Tràng đưa vợ về. Kim Lân
đã cho thấy, đúng sự kiện lạ lùng ấy đã làm cho xóm ngụ xôn xao lên được một
lúc, hơn csự xôn xao i vị tạo ra “một cái lạ lùng tươi mát
đang thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”.
+ Sự đối lập không chỉ ở bên ngoàicòn tồn tại ngay trong lòng nhân vật. Ngòi bút
miêu tả tâm của Kim Lân đã lách sâu vào thế giới nội m nhân vật để khám phá
miêu tả các trạng thái tâm đối lập nhau ở mỗi con người: anh Tràng nỗi lo lắng
“thóc gạo này đến cái thân mình còn chả biết nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”
cái tặc lưỡi đầy liều lĩnh của một người đàn ông chưa bao giờ cái hạnh phúc được
sống trong một gia đình đầy đủ “chậc, kệ”, cụ Tứ nỗi buồn tủi xót xa thân
phận nghèo hèn, cảnh sống đói khổ không hạnh phúc, không biết đến tương lai
niềm vui con trai có vợ...
+ Từ các tương quan đối lập đó, nhà văn đã dồn bút lực vào việc miêu tả tâm nhân
vật với những biểu hiện vô cùng phong phú để đi đến khẳng định: cái đói, cái chết với
những ám ảnh khủng khiếp gây ra không thắng nổi khát khao hạnh phúc
những con người biết sống tình người. Anh Tràng cũng lo cho bản thân song cũng
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
rất biết trân trọng người vợ mới (mua / o dầu). cTứ cả đời nghèo khổ cực
song lại rất thương con cùng nhân hậu trong cách xử sự. Với những biểu hiện
tâm hồn, tính cách như thế của nhân vật, sự chiến thắng của sự sống với cái chết tr
nên hợp lí vì gợi nhiều xúc động.
- ơng quan tương đồng trong hưởng vận động của tâm nhân vật: Trước khi Tràng
đưa vợ về, cả xóm ngụ cũng như mỗi nhân đều như chìm nghỉm trong nạn đói:
đám trẻ rũ, anh Tràng “lảm nhảm than thở”, mệt mỏi nặng nề. Khi Tràng đưa vợ về,
cả xóm ngụ nbừng lên một nguồn sinh khí mới. Tất cả dường như thay đổi hẳn,
thậm chí như thể cái đói đã bị đẩy lùi để nhường chỗ cho sự sống, cho niềm vui: dân
xóm ngụ bàn tán xôn xao, trẻ con xúm lại trêu Tràng, Tràng thì phớn phở khác
thường và đặc biệt nghiêm túc, chín chắn hẳn lên, người đàn bà trở nên hiền hậu đúng
mực, dù không hẳn là vui vẻ song cảnh gia đình ấm áp đã khiến thị trở thành một nàng
dâu thực sự, cụ Tứ sau những lo âu, buồn tủi đã trở nên vui vẻ nhanh nhẹn hẳn
lên. Tuy rằng cái đói, cái chết vẫn bao bọc xung quanh, thậm chí hiện hình trong bữa
ăn ngày đói song sự sống và niềm vui đã trở lại trong cuộc sống của mọi người.
- Như vậy là, khi xây dựng tình huống truyện, nhà văn ít khai thác các quan hệ đời
sống bên ngoàichủ yếu đi vào đặc tả những biến chuyển tâm lí. Vì vậy, truyện tuy
gợi ra cảnh sống bi thảm của con người năm đói song ấn tượng sâu đậm tạo
ra lại là ý nghĩa thiêng liêng của sự sống, của tình người.
c.2. Tổ chức điểm nhìn trần thuật
Nhằm tránh sự đơn điệu, tẻ nhạt cũng để tạo chiều sâu tâm cho tình huống
truyện, Kim Lân đã rất khéo léo khi tổ chức điểm nhìn trần thuật: người trần thuật khi
thì đứng ngoài để quan sát, kể tả một cách khách quan, lúc hoá thân vào nhân
vật để hồi tưởng, trải nghiệm. Truyện trở nên đậm đặc chất trữ tình giàu khả năng
gợi cảm nhất khi nhà văn nhập giọng kể vào giọng nói bên trong của nhân vật biến
việc kể chuyện thành việc tự biểu hiện bằng ý nghĩ của nhân vật (đoạn văn miêu tả
tâm trạng cụ Tứ) n đã lột tả được một cách sâu sắc, tinh tế các trạng thái tâm lý,
những phản ứng tâm lý của nhân vật trước sự kiện.
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
c.3. Ngôn ngữ truyện
- Ngôn ngữ người kể chuyện: Khi thì tự nhiên, hóm hỉnh, hài hước (đoạn miêu tả cảnh
làm quen, cảnh đính ước nên vợ nên chồng của Tràng người đàn bà), khi thì
trang nghiêm, chân thực (đoạn miêu tả tâm trạng cụ Tứ) nhìn chung giản dị
vẫn rất gợi cảm, có những đoạn văn chan chứa chất thơ (đoạn miêu tả cảm giác
của Tràng, đoạn miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ).
- Ngôn ngữ nhân vật: Đáng lưu ý nhất ngôn ngữ đối thoại: ngắn gọn, giản dị, lúc
hơi thô mộc và phù hợp với tính cách nhân vật, phù hợp với mục đích lời nói của nhân
vật, đó là thứ ngôn ngữ làm quen, làm thân, thăm dò, vừa xa lạ, vừa gần gũi.
c.4. Phát hiện chi tiết: Tác giả sử dụng nhiều chi tiết rất gợi cảm để tạo không khí
cho truyện (tiếng hờ khóc, thấy người chết, mùi xác chết). Đặc biệt những chi tiết
sức phát hiện và khnăng biểu hiện rất lớn (Tràng mua 2 hào dầu khoe với vợ,
Tràng đánh diêm đốt đèn, bữa ăn ngày đói...) Những chi tiết tạo ra tính cụ thể sinh
động của tình huống, làm bật phẩm chất người trong con người.
c.5. Mạch truyện: Xoay quanh bám rất sát sự kiện nhặt vợ của Tràng song không
đơn điệu một chiều, nvăn cý đảo trình tkể để vừa dẫn dắt, vừa giải thích, vừa
nhận xét để khai thác mọi khía cạnh của sự kiện.
3. Kết luận
- Bút lực sự linh hoạt, sáng tạo của Kim Lân đã giúp ông tạo ra trong truyện ngắn
Vợ nhặt một nh huống bất ngờ đầy kịch tính: Vừa lạ lùng, vừa éo le, vừa cảm động.
Tình huống ấy được triển khai một cách khéo léo sâu sắc đã biểu đạt được những
nội dung phong phú của tác phẩm.
- Cần khẳng định: Tình huống được xây dựng trong truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ
nghệ thuật cònsức phát hiện tấm ng đồng cảm sâu sắc của Kim Lân với số
phận và cảnh ngộ của con người.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt - Mẫu 1
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
“Vợ nhặt” một trong những tác phẩm độc đáo của Kim Lân khi viết về cuộc sống
con người nông thôn. Khi viết về truyện ngắn, ý kiến cho rằng: “Một trong
những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn “Vợ nhặt” là đã
xây dựng được tình huống truyện độc đáo hấp dẫn”. Có thể nói, đây chính là yếu tố
tạo nên thành công của tác phẩm.
cây bút truyện ngắn vững vàng, Kim Lân viết về người nông dân cuộc sống
nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của người vốn “con đẻ” của đồng ruộng. Những
ông Hai, cụ Tứ, anh cu Tràng... hiện lên trong tác phẩm hồn hậu chân thực, chất
phác và chiếm được nhiều thiện cảm trong lòng người đọc. Sáng tác ngay sau khi cách
mạng tháng Tám thành công sau này được viết lại vào khoản sau hòa bình lập lại
(1954) truyện ngắn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, là câu chuyện kể về cuộc
sống của những người không “hộ khẩu” chính thức trên mảnh đất mình sinh
sống. Trên cái nền lịch sử của nạn đói năm 1945, Kim n đã đặt nhân vật của mình
vào trong một tình huống độc đáo vừa buồn vừa vui, hạnh phúc nhưng cũng đầy
rẫy những lo toan.
Nghệ thuật xây dựng tình huống việc đặt nhân vật vào trong những ngữ cảnh nhất
định, làm môi trường cho nhân vật hoạt động qua đó bộc lộ phẩm chất, tính. Trong
tác phẩm, Kim n đã sáng tạo ra một tình huống đặc biệt. Đó tình huống anh nông
dân nghèo tên Tràng, xấu trai, đang nguy ế vbỗng nhiên lại vợ, lại
nhặt được vợ, theo không chỉ nhờ một câu hát vu bốn t bánh đúc. Tình
huống ấy kéo theo hàng loạt các tình huống khác không kém phần lí thú.
Tình huống này gây nên sự ngạc nhiên cao độ trong xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng
ngay cả bản thân anh cu Tràng nữa bởi hai do: Ai thể ngrằng một người nghèo
túng, xấu trai, thậm chí vẻ hơi ngờ nghệch lại dân ngụ như Tràng, xưa nay
con gái không ai thèm để ý, vả lại cũng không tiền cưới vợ .nay bỗng dưng lấy
được vợ, là theo khống hẳn hoi. Hơn nữa, trong một bối cảnh như thời điểm ấy,
khi cái đói đang hoành hoành, khắp i đều vạ vật những người “xanh xám như
những bóng ma nằm ngổn ngang khắp lều chợ (...) Không khí vẩn lên mùi ẩm thối
của rác rưởi i gây của xác người” thì một người như Tràng đến nuôi thân còn
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
chẳng lo nổi lại còn mẹ già, nói chi đến chuyện đèo bòng. Bằng ấy cái vô không
thể nhưng sự kiện chấn động ấy vẫn cứ diễn ra. Khi Tràng dẫn người đàn bà lạ về nhà,
cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác không hiểu. Chưa thể nào tin được đó vợ Tràng họ bắt
đầu phỏng đoán:
Ai đấy nhỉ?... Hay là người nhà dưới quê bà cụ Tứ mới lên?
- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.
- Quái nhỉ?
Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.
- Hay vợ anh cu Tràng? khéo vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta
thèn thẹn hay đáo để”.
Hạnh phúc của đồng loại tạm làm người ta quên đi cái đói khổ trong giây lát. “Hình
như họ hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ
hẳn lên. cái gì lạ ng tươi mát thổi o cuộc sống đói khát, tối tăm ấy của họ”.
Nhưng rồi ngay sau đó lại nỗi lo lắng. “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ
đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.
Từ đây, Kim Lân kéo người đọc về với tình huống trước đó như một lời giải cho
việc nhặt được vợ của Tràng, một tình huống cũng thú vị không kém. Tràng nhặt được
vợ chỉ nhờ vào câu hát vu vơ khi đẩy xe bò cho đỡ mệt nhọc:
“Muốn ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Cái đói khổ làm cho người ta mất hết cả sự xấu hổ lòng tự trọng. Người đàn đã
chớp lấy câu nói của Tràng như cái phao cứu sinh cho cuộc đời mình. Lần thứ hai gặp
lại thì “xưng xỉa”: “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mất mặt”, rồi không
ngần ngại ngồi xuống làm một chập hết bốn bát bánh đúc. Thế là nên vợ nên chồng.
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
thể nói đây một tình huống hết sức oái oăm, không biết nên vui hay nên buồn,
không biết nên mừng hay nên lo? Thứ tâm trạng đan xen ấy hiện lên trong suy nghĩ
đầy mâu thuẫn của những người trong cuộc. Tràng “mới đầu cũng chợn nghĩ: thóc gạo
này đến cái thân mình cũng chbiết nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi
hắn cũng tặc lưỡi. Cảm giác ấy cùng với những tình cảm mới lạ đan xen khiến Tràng
giống như một đứa trẻ. Khác với Tràng, cTứ một người từng trải, nhìn thấy
con trai về cùng với người đàn lạ mặt “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết
bao nhiêu sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. hiểu cả
tình cảnh bất hạnh của người đàn bà, cũng như tình cảnh khó khăn sắp tới của cả gia
đình. Nỗi lo lắng cùng với niềm hy vọng đan xen, “May ra qua khỏi được cái tao
đoạn này thì thằng con cũng vợ, yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết
cũng phải chịu chứ biết thế nào lo hết được?”. Bản thân người đàn bà, sau những
phút giây chao chát chỏng lỏn để được miếng ăn, theo không người ta về nhà, chắc
chắn giờ đây cũng suy nghĩ ng lung nhiều lắm. Thị trở về với dáng vẻ ngượng
ngùng, bẽn lẽn, e thẹn “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.
Đặt nhân vật vào trong tình huống đặc biệt, éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật
những ý nghĩa sâu sắc của truyện. Không cần đến những lời kết tội to tát câu chuyện
thông qua tình huống ncười giọt nước mắt đan xen ấy lên án gay gắt bọn phát
xít thực dân phong kiến tay sai đã gây ra nạn đói năm 1945, đẩy con người đến cái
chết, dẫn đến những tình huống éo le, cùng cực, làm cho giá trị con người bị rẻ rúng:
người ta có thể nhặt được vợ chỉ với bốn bát bánh đúc.
Tình huống ấy cũng chính là môi trường cho nhân vật bộc lộ đặc điểm tính cách cũng
như đời sống tinh thần của mình. Tràng tỏ ra một anh thanh niên chất phác, hiền
lành, chăm chỉ làm ăn đời sống nội tâm phần hơi đơn giản. cụ Tứ mang
trong mình sự từng trải, nghĩ trước sau chu toàn. Tràng “nhặt” được vợ, vừa mừng
vừa lo. hiểu cái tao đoạn những người xung quanh đang phải trải qua,
hiểu vị trí của những người dân ngụ trong quan niệm của người khác, hiểu được
tình thế oái oăm, đèo bòng của con trai mình. Hơn thế nữa, bà cũng hiểu và cảm thông
cho hành động theo không của người đàn “Người ta gặp lúc khó khăn, đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình”. Ngày đầu tiên của cuộc sống mới, cũng chính bà
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
người gợi ra ơng lai tươi sáng, gieo vào trong lòng đôi vợ chồng trẻ niềm hy
vọng. Còn “vợ nhặt” thì tính cách sự thay đổi đến bất ngờ: từ một người đàn
chao chát, chỏng lỏn, chị khác hẳn trong cách một người vợ, một người quen,
dịu dàng, biết thu vén cho cuộc sống gia đình.
Thông qua tình huống truyện đặc sắc Kim Lân cũng muốn thể hiện khát vọng của con
người thể chiến thắng hoàn cảnh để sống được hạnh phúc. Người lao động,
dù trong tình huống bi thảm đến đâu, ngay cả khi gần kề cái chết vẫn khát khao hướng
về ánh sáng, tin tưởng sự sống tương lai. Giá trị nhân văn của tác phẩm đó.
Cầu chuyện kết thúc với những ánh sáng báo hiệu điều đó tốt đẹp hơn đang đến.
Tràng “bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình cái vừa thay đổi mới mẻ, khác
lạ...” và anh bắt đầu hi vọng: “Hắn đã một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái
đấy. Cái nhà ncái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột
ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn bổn
phận phải lo lắng cho vợ con sau này “. Người mẹ già cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác
ngày thường”, cái mặt bủng beo u ám “rạng rỡ hẳn lên”. tất nhiên, nhiều nhất phải
nói tới sự thay đổi của người “vợ nhặt”, giờ đây đã trong vai trò của một người vợ
hiền đảm đang. Hình ảnh đám người đi phá kho thóc cứ gieo vào trong lòng Tràng đầy
ám ảnh như dự báo một cuộc cách mạng không sớm thì muộn cũng sẽ tất yếu xảy ra.
Xây dựng tình huống đặc sắc trong “Vợ nhặt”, Kim Lân đã một lần nữa chứng minh
cái tâm, cái tài của mình với cách một nhà văn một đời đi về với “đất”, với
“người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.
“Vợ nhặt” một truyện ngắn độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tình huống. Chính
điều này đã góp phần vào việc thể hiện chủ đề, tưởng cũng như tăng tính hấp dẫn
trong tác phẩm.
Ngh thut xây dng tình hung trong V nht - Mu 2
Kim Lân mt trong rt nhiều gương mặt ni trội trên văn đàn văn học dân tc viết
v đề tài ngưi nông dân Vit Nam, xoay quanh đề tài này, Kim Lân đã vẽ n mt
bc tranh hin thc ca dân tc Vit Nam sau Cách mng tháng Tám, nhng cnh u
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
ám trong nạn đói lịch s năm 1945 khiến cho hai triệu đồng bào ta chết đói, những
hình ảnh con ngưi trong cnh kh đã dấy lên trong lòng người đọc nhng ni tiếc
thương khôn nguôi. Và Kim Lân đã s dng mt cách tài tình nhng bin pháp ngh
thut đc sắc để th hin rõ nhng giá tr hin thc và nhân đo ca tác phm.
Đim ni bt v ngh thut phải nói đầu tiên đây chính nghệ thut xây dng tình
hung truyện đặc sc. Tình hung truyện được nhà văn to nên trong tác phm này
chính s gp g của Tràng người đàn bà xa lạ, để sau đó Tràng nhặt người này
v làm v, chính tình hung truyện đặc bit này chúng ta th thấy được hin
thc khc nghit rng trong nạn đói năm 1945, giá trị của con ngưi r rúng đến mc
nào, va y dng hin thc, va t cáo ti ác ca thực dân Pháp đã gây nên cho
chúng ta. Qua đó chúng ta th nhn ra nhng phm cht tốt đp của con người
trong cnh kh, anh cu Tràng tuy xu vng v nhưng mang trong mình một tâm
hồn lương thiện, người đàn bất chấp để được ăn bát bánh đúc lại nuôi mt ni
khát khao được sống và luôn tin tưởng vào tương lai.
Ngh thut xây dng và miêu t tâm lí nhân vật cũng là một dng ý ngh thuật đặc sc
của nhà văn Kim Lân, nhà văn xây dng mt nhân vt chính vi v ngoài xu
nhưng đối lập bên trong đó một tm lòng lương thiện. Là người đàn xa lạ không
ngun gc, ngh nghip, quá khứ, nhưng luôn mang trong mình khát khao mãnh
liệt đưc sng, là c T kham kh, to tần, nhưng hiểu chuyn mang trong
mình lòng yêu thương con cái b bến. Tác gi đã xây dựng nhng nhân vật điển
hình trong hoàn cảnh điển hình để bc l được tính cách cũng như giá tr ni dung ca
tác phm.
Tác phm V nht tác gi đã sử dng li trn thut lôi cun, thông qua nhng cuc
đối đáp giữa c nhân vt vi nhau, n chứa trong đó tình cm ca nhng con
người với nhau đã cùng cưu mang nhau qua cnh khn cùng.
“V nhặt” nhan đề ca tác phẩm, xưa nay người ta ch đi lấy vợ, cưới v ch có ai
nht v bao gi. y mi biết, trong hội cũ, số phn của con ngưi mong manh
r rúng biết nhường nào. Chính cách s dụng nhan đề ngược đời như vậy ta li thy
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
được s độc đáo trong cách đặt tên nhan đề, chứa đựng nhiu ý nghĩa biểu trưng,
m ch đề ca tác phẩm. Ngoài ra còn giúp cho người đọc tạo đưc ấn tượng ban
đầu và kích thích tính hp dn cho tác phm.
Kim Lân đã sử dng ngôn t mc mc, gin d chân thực. Đối vi một ngưi
chuyên viết v đề tài nông thôn Việt Nam như Kim Lân thì ông coi trng li nói t
nhiên, ngôn t gần gũi với người đọc, để ông th truyền đạt hết những tưởng
nhân đạo tình cm ca tác gi đối vi tng nhân vt trong tác phm ca mình. Ông
viết v h vi tt c s gin d, chân thc và đơn thuần như chính tính cách bản
chất con ngưi h vy. Là anh cu Tràng vi nhng li nói ngô nghê chân thc, không
để ý đến li chc gho của người khác, s thay đổi linh hot trong ngôn ng ca
người đàn bà. cui cùng nhng lời nói đơn giản, nghn ngào nhưng n cha bên
trong đó là tình thương bờ bến ca c T. S dng nhun nhuyn các bin pháp
ngh thuật sở đ tác gi th dẫn người đọc tìm hiu hết đưc các giá tr hin
thc và giá tr nhân đạo ca tác phm.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt - Mẫu 3
Mỗi tác phẩm văn học khi khép lại đều để lại trong lòng người đọc những âm khác
nhau. âm ấy thể một nhân vật, 1 chi tiết hay một sự việc nào đó. Song đến
với truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, điều ấn tượng nhất trong lòng người
đọc lại tình huống truyện độc đáo. Nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện của Kim
Lân đã góp phần không nhỏ làm lên sự thành công cho tác phẩm tên tuổi nhà văn
Kim Lân.
Tình huống truyện là gì? Tình huống truyện được hiểu là tình thế xảy ra truyện, là “cái
khoảnh khắc” mà Nguyễn Minh Châu cho là “chứa đựng cả đời người”. Từ tình huống
truyện, người đọc thể thấy hơn mối quan hệ giữa các nhân vật với nhau, giữa
nhân vật với hoàn cảnh, qua đó, thhiện ởng của toàn bộ tác phẩm. Tình huống
truyện “Vợ nhặt” là một tình huống vừa lạ, độc đáo lại vừa oái oăm, trớ trêu.
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
Trước tiên, người ta đánh giá đây một tình huống cùng độc đáo. Anh cu Tràng
vốn người dân xóm ngụ ngnghệch xấu lại thể lấy được vợ trong thời
điểm nạn đói lịch sử diện ra.
Tràng không phải lấy được vợ mà nói đúng hơn là “nhặt vợ”. Trong một lần kéo xe bò
lên tỉnh, Tràng gặp được Thị, chỉ với bốn bát bánh đúc, Thị đồng ý theo không anh về
làm vợ. Dưới ánh nhìn của những người n xóm ngụ , người như Tràng lấy được
vợ chuyện không tưởng. Bởi lẽ thời điểm bây giờ, người ta luôn coi những người
ngụ cư là tầng lớp dưới đáy cùng bị xã hội xem thường, khinh rẻ, lấy một người là dân
xóm ngụ cũng sẽ bị người khác xem nhẹ. Hơn nữa, Tràng lại một người xấu xí,
nghèo khổ. Giữa thời buổi khó khăn ấy, nuôi được thân mình đã khó lại còn đèo
bòng chuyện vợ con.
Nhưng, trong hoàn cảnh lạ ấy, nhặt vợ lại đáng thương hơn là coi rẻ, khinh thường.
Vợ vốn người đáng lẽ ra phải được cưới hỏi tử tế, đàng hoàng, đầy đủ sinh lễ lễ
nghi đón rước. Vậy mà người vợ mà Tràng cưới về hôm nay lại rẻ rúng, chỉ bằng một
câu nói bông đùa bốn bát bánh đúc. Tình huống nhặt vợ của anh kỳ quặc, oái
oăm vui mừng mà bi thảm. Dù thoạt nhìn có vẻ phi lý nhưng lại vô cùng hợp lý. Tràng
lấy được vợ do vào thời điểm đó, nạn đói hoành hành, nếu không phải miếng
cơm lẽ cũng không người đàn nào chịu lấy một người như anh. Hành động
nhặt vợ ấy dẫu chỉ hành động nhất thời nhưng còn thể hiện được sự cưu mang,
đùm bọc lẫn nhau của anh với Thị, thể hiện sự yêu thương giữa con người với con
người trong nạn đói năm ấy.
Bên cạnh đó, tình huống truyện còn một tình huống éo le đầy trtrêu. Trong gia
đình bình thường, việc con trai lớn lấy được vthường mang đến niềm vui cho người
làm cha, làm mẹ. Nhưng éo le thay, chàng lấy được vợ lại khiến cụ Tứ vừa vui lại
vừa buồn, người dân xóm ngụ cũng chẳng soi mói thiệt hơn. Ai cũng chỉ nghĩ
dưới cái u ám đang bao trùm cả vùng này, “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”,
lấy vợ khiến cuộc sống k khăn hơn không? cụ Tứ thậm chí còn nghĩ đến
những điều tệ hại hơn: “biết rằng chúnglấy nhau liệu có nuôi nổi nhau qua cơn đói
khát này không?”. vui mừng con trai lấy được vợ, nhưng lại lo cho tương lai vợ
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
chồng con lúc bây giờ. Chính Tràng cũng từng cảm thấy chán khi nghĩ đến niềm hạnh
phúc nhỏ nhoi vừa nhen nhóm: “thóc gạo này đến thân nh chẳng biết nuôi nổi
không lại n đèo bòng?”.Còn với Thị - người vợ được nhặt về thì nỗi tủi hổ dường
như lấn át cả niềm vui. lẽ ai cũng nhìn thấy, người đàn ấy chấp nhận lấy Tràng
muốn sống sót qua cơn đói, níu lấy một chiếc phao cứu sinh, hi vọng được sống.
Tất cả đều thể hiện sự éo le đến thương cảm. lan tràn trong suy nghĩ của mỗi nhân
vật bao phủ cả đêm tân hôn. Đêm tân hôn của cặp vợ chồng mới cưới đầy gió lồng
lộng từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu vàng đục tiếng hờ khóc của người chết
vang lên trong xóm ngụ cư.
Từ những giá trị đó chúng ta thể cảm nhận được giá trị hiện thực cùng sâu sắc.
Tình huống đó đã góp phần phơi bày số phận những người nông dân trước Cách mạng
Tháng Tám. Họ phải gánh chịu bao bất công từ cuộc sống. nghèo khổ nên Tràng
không thể nào lấy được vợ, phải chờ đến cơ hội “trời cho” khi thân phận con người trở
nên rẻ rúng. hội ấy không phải thời điểm nào tươi sáng đẹp đẽ hơn nạn đói
lịch sử, thảm cảnh đau thương của bao người. Hoàn cảnh đó khiến người đàn tự
nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ gtrị của chính mình theo không một người đàn
ông xa lạ về làm vợ.
Bên cạnh giá trị hiện thực, tình huống còn thể hiện cả giá trị nhân đạo gây cho người
đọc nhiều suy ngẫm. Từ tình huống éo le, Kim Lân đã gợi lên trong trái tim mỗi người
niềm xót xa khôn nguôi sự cảm thông với số phận những người nông dân nghèo
khổ. Đồng thời, nó cũng góp phần ngợi ca phẩm chất đáng quý của người nông dân
ngay giữa hoàn cảnh đói khát. Trong cái đói bủa vậy mẹ con cụ Tứ vốn chẳng khá
khẩm gì hơn cũng sẵn sàng dang tay cưu mang một người xa lạ. Lời mời “có về với tớ
thì ra khuân hàng n xe rồi cùng về” của Tràng nghe vẻ như bông đùa nhưng thực
ra lại mang ý nghĩa như một hội cứu vớt Thị từ bên bờ vực của cái đói, cái chết về
đến hạnh phúc gia đình. Người đàn ông vẻ ngờ nghệch đó vẫn biết quan tâm, lo
lắng trân trọng hạnh phúc của mình. chỉ người vợ được nhặt về, anh vẫn đưa
Thị vào hàng ăn một bữa cơm thật no, sắm cho Thị một cái thúng con đựng vài thứ lặt
vặt, mua dầu thắp đèn cho sáng đêm tân hôn… Gặp mẹ, Tràng cũng giới thiệu với mẹ
một cách đàng hoàng để Thị bớt tủi hổ.
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
Kim Lân qua việc khắc họa nhân vật trong xây dựng tình huống truyện còn thể hiện
niềm tin vào tương lai cuộc đời họ. Đây chính giá trị nhân đạo mới mẻ của ông.
Điều này được thể hiện nét trong đoạn kết khi nghe vợ kể chuyện nông dân Thái
Nguyên, Bắc Giang phá kho thóc chia cho dân nghèo chợt nh đến cảnh đoàn
người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp.
thể nói, tình huống truyện “Vợ nhặt” mang rất nhiều giá trị sâu sắc, thể hiện tài
năng của ngòi bút Kim Lân. Một tình huống nhặt vợ vừa lạ vừa oái oăm, nhưng đã thể
hiện cái nhìn tin tưởng vào sự thay đổi số phận của người ng dân. ngợi ca nhân
cách con người ngay trong những m tháng khó khăn, trong nạn đói lịch sử năm
1945. Với những giá trị sâu sắc ấy, người đọc càng thấm thía hơn tưởng nhân đạo
của Kim Lân. Để rồi rất nhiều năm tháng qua đi, “Vnhặt” vẫn một tác phẩm nổi
bật trong nền văn học Việt Nam.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt - Mẫu 4
Viết về nạn đói ăn năm Ất Dậu, Vợ nhặt của Kim Lân một truyện ngắn đặc sắc
nhất, độc đáo nhất trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Với một vốn sống phong phú về ng thôn và người nhà quê, với một tấm lòng nhân
hậu bao dung, câu chuyện anh trai cày thô kệch "nhặt" được vợ, đã được tác giả kể lại
một cách cảm động, đậm đà. Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật và xây dựng tình tiết -
cốt truyện đầy kịch tính giá trị tưởng nghệ thuật đích thực được thể hiện qua
tình huống "nhặt" vợ của anh cu Tràng.
Anh cu Tràng, mồ côi bố, ở với mẹ già tại xóm ngụ cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo
xe thuê. Con mắt "nhỏ tí", bộ mặt "thô kệch", cái đầu "trọc nhẵn" lại tật "vừa đi
vừa nói lảm nhảm...". Cứ tưởng rằng hắn sẽ nằm suông đến già. Ai ngờ... chỉ "tầm phơ
tầm phào đâu có hai bận", một câu hò rất phong tình, bốn bát bánh đúc ngoài chợ tỉnh,
chẳng cheo cưới thế hắn đã "nhặt" được vợ. Đó một gái, áo quần rách như
tổ đỉa, nhưng đã "liếc mắt cười tít" làm cho Tràng "thích lắm".
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
Tràng "nhặt" được vợ khi trận đói đã đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người
chết đói như ngả rạ. Từng đám người chạy đói "xanh xám như những bóng ma". Mùi
gây của xác người... Quạ bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, "cứ gào lên
từng hồi thê thiết". Xóm ngụ "xác xơ heo hút". Tràng "nhặt" vợ cảm thấy
"chợn" giữa trận đói, nuôi cái thân mình còn khó "lại còn đèo bòng". Trên
đường dẫn "vợ mới vợ miếc" về nhà, hắn "phớn phở" khác thường, "tủm tỉm cười nụ",
"hai mắt thì sáng lên lấp lánh",... Còn thị thì "thèn thẹn hay đáo để".
"đứng ngay đầu giường" thằng con trai mình. vừa tủi thân, vừa mừng vừa lo: "Biết
rằng chúng có nuôi nổi nhau sống qua được đói cơn đói khát này không". Tối "tân
hôn" của Tràng đã hai hào dầu thắp ng, nhưng "tiếng khóc htỉ tê" của những
gia đình mới có người chết đói, nghe càng rõ trong đêm khuya.
Mẹ chồng chỉ một nồi cháo cám ăn mừng nàng dâu mới. Tiếng trống thúc thuế vẫn
dội lên "dồn dập vội vã". trên đê Sộp những người đói ầm m kéo nhau đi, phía
trước có lá cờ đỏ to lắm!
Tình huống "nhặt" vợ đã được Kim n sáng tạo nên bằng cảm hứng nhân văn sâu
sắc. Ông đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ, hoạn nạn.
Ông xót thương cho nỗi đau khổ của dân tộc trước thảm họa năm Ất Dậu "người chết
như ngả rạ". Ông ái ngại cho một gái bị nạn đói cướp đi gần hết. Không còn tên
tuổi. Không còn bố mẹ, anh chị em. Không gia đình quê hương. Mặt người "gầy sọp",
áo quần rách như tổ đỉa. Đói quá, mất đi vẻ duyên dáng, "cắm đầu một chặp bốn bát
bánh đúc". Giá trị, phẩm giá của người con gái trở nên rẻ rúng đáng thương! Trước
mắt thị là vực thẳm, là chết đói, Thị phải "theo trai", phải lấy Tràng...
Kim Lân nhân hậu lắm. Ông đã tả cặp mắt, nụ cười của Tràng rất đẹp, rất vui. Ông đã
phát hiện ra chút duyên thầm, nét nữ nh của thị. Cái mắt ời câu mắng yêu cái
củng vào trán Tràng của thị trong tối tân hôn, được nhà văn diễn tả đầy ý vị. Hạnh
phúc đến với Tràng, tuy muộn mằn, tuy phải "nhặt" mới vợ, nhưng đáng tự hào
trân trọng biết bao. Anh đã mua hai o dầu thắp sáng tối tân hôn, để xua tan cái tối
tăm, nghèo khổ, độc, để mừng "vợ mới vợ miếc", để soi sáng hạnh phúc tương lai.
Tình tiết hai hào dầu rất giàu ý nghĩa nhân đạo.
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
Kim Lân đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Ông đã tả giọt
nước mắt trong nỗi lo, niềm vui của người mẹ nghèo khi nhận nàng dâu mới. Niềm tin
"ai giàu ba họ, ai khó ba đời"; nồi cháo cám đắng chát người mgià gọi "chè
khoán ngon đáo để", những câu chuyện vui, chuyện sau này của người mẹ chồng nói
với con trai con u lúc ăn cháo cám. Tất cả thể hiện một cách cảm động tình
thương người, niềm tin đối với con người của tác giả.
Đối với thực trạng hội đương thời, thông qua tình huống Tràng "nhặt" vợ, Kim Lân
căm thù lên án và vạch trần tội ác của Nhật - Pháp đã bắt dân ta nhổ lúa trồng đay,
vét sưu thuế, gây ra trận đói kinh khủng năm Ất Dậu 1945, làm hơn hai triệu đồng bào
ta bị chết đói! Nạn đói đã hạ thấp giá trị con người. Chẳng cần cheo cưới, chỉ cần bốn
bát bánh đúc mà người ta có thể "nhặt" được vợ.
Qua tình tiết khi trống thúc thuế dồn dập dội lên, thì nàng dâu mới loan tin mạn Bắc
Giang, Thái Nguyên, người ta không chịu đóng thuế, còn phá kho thóc của Nhật - chia
cho người đói,... đám người đói kéo đi trên đê Sộp, phía trước cờ đỏ to lắm
bay phấp phới. Kim Lân đã thể hiện rất hay tình cảm của hàng triệu nông dân Việt
Nam hướng về cách mạng. Cứu đói, cứu khổ, cứu đời đem đến độc lập, tự do cho
dân tộc chính sự xuất hiện cờ đỏ ấy. Qua hình ảnh cờ đỏ, cảm hứng nhân đạo
của truyện "Vợ nhặt" đã được nhân lên thành cảm hứng nhân văn tuyệt đẹp.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt - Mẫu 5
Để một tác phẩm văn học trở nên thành công thì cần rất nhiều yếu tố tác động vào
như nội dung, nghệ thuật, cùng các giá trị nhân văn nó mang lại. Một trong những
yếu tố quan trọng đó chính cách xây dựng tình huống truyện. Một truyện ngắn
muốn hay, cuốn hút người đọc thì phải được một cốt truyện hấp dẫn. Một trong số
ít nhà văn được mệnh danh bậc thầy trong xây dựng cốt truyện đó chính Kim
Lân. Các tác phẩm của ông đều có những nét riêng biệt, đặc sắc, nổi bật trong số đó
chính tác phẩm “Vợ nhặt”. Truyện ngắn phản ánh sự thật về nạn đói những năm
1945 và cuộc sống nghèo khổ của nhân dân thời bấy giờ.
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
Truyện ngắn nói về nhân vật Tràng, một người dân ngụ nghèo khổ sống cùng mẹ.
Nhà văn Kim Lân đã miêu tả Tràng nmột sản phẩm vội vàng của tạo hóa “hai con
mắt nhỏ đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào
cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng
trước, cái lưng dài rộng như lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời
cười hềnh hệch". Quả thực Tràng là một thanh niên rất xấu xí, chả ai thèm ngó ngàng.
Chẳng những vậy, cái nghèo, cái đói luôn đeo bám, quẩn quanh hai mẹ con Tràng.
Kim Lân đã dùng những từ ngữ chân thật để miêu tả cuộc sống và ngôi nhà Tràng
đang “những bụi cỏ dại lổn nhổn”, “đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong
một góc nhà”, “hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi”…. Cuộc sống
túng thiếu của hai mẹ con hiện lên thật giản dị, tội nghiệp, khiến người khác không
khỏi cảm thấy xót thương cho hai số phận. Nhưng điều làm cho Tràng cảm thấy tủi
nhục nhất đó chính mang trong mình cái danh dân ngcư, bị dân làng khinh miệt,
coi thường.
Tuy nghèo đói nhưng chàng vẫn một công việc để làm, để trông mong, đó chính
phu xe, hàng ngày bốc vác, chở gạo ra các chợ. Công việc thì vất vả, đói khát nhưng
quả thật anh ta lúc nào cũng thể vui vẻ, lạc quan. Giữa trời trưa nắng gắt, phải kéo
cả một xe gạo đầy nặng trĩu, nhưng chàng ta vẫn có sức cất lên những câu hò:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Những câu này không hẳn ý trêu ghẹo những gái ngồi n đường, chủ
yếu để giúp chàng ta quên đi những mệt mỏi, đói khát mình đang phải chịu. Ấy
vậy chỉ bằng vài ba lời hát vu khiến Tràng được một người con gái để ý
đi theo đẩy giúp. Tràng là ngưởi hiểu rõ hơn ai hết những gì mà mình hát ở trên không
phải sự thật, m gạo trắng ăn chứ nói đến gchả. Để rồi đến khi
gặp người con gái ấy lần thứ hai, Tràng đã rất đỗi ngạc nhiên trước sự thay đổi ngoại
hình của Thị “Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trở lại hai con mắt”.
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
Quả thực Thị đã gầy đi rất nhiều, lẽ đói, khát thể con người Thị đã bị
tàn phá nhanh đến như vậy. Thị chạy đến sưng sỉa trước mặt Tràng “Điêu! người thế
điêu”, mới đầu hắn ta chẳng hiểu nhưng rồi một lúc cũng ngộ ra rồi mời Thị đi
ăn “thích ăn thì ăn”. Thị ta chẳng ngại ngùng cắm đầu ăn liền một chặp bốn
bát bánh đúc, quthực lúc này Thị ta nhìn rất trơ trẽn. Người ngoài nhìn vào người
sẽ khinh bỉ, cho rằng thị ta đang vứt hết cả lòng tự trọng đi để ăn, nhưng cũng sẽ
những người xót thương, đồng cảm cho một con người đang phải chịu cơn đói hành
hạ. Khi ấy, con người ta chẳng còn bận tâm đến danh dự, hay nhân phẩm gì nữa, ăn no
mới điều quan trọng trước hết. Đợi đến khi Thị ăn xong, Tràng nói câu nửa vui
nửa đùa rằng “về với tthì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Tưởng Thị sẽ cười chê
mình, nào ngờ Thị về thật, về làm dâu nhà Tràng. Một đám cưới diễn ra.
Việc một con trai lớn lên, xây nhà, cưới vợ việc quá đỗi bình thường, nhưng nhân
vật Tràng lại một thanh niên xấu xí, nghèo đói, gia cảnh khó khăn, đặc biệt dân
ngụ cư nữa nên việc Tràng được vợ làm rất nhiều người ngạc nhiên. Qua đây, ta đã
thấy được nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo của Kim Lân: vợ đáng lẽ ra
người ta yêu, qua tìm hiểu, đính ước đến với nhau, nhưng đây, Tràng ta lại
“nhặt” được vợ theo đúng nghĩa đen của hồi môn chắc lẽ chỉ vài bát bánh đúc
mà thị ta vừa ăn lúc trước.
Việc Tràng vợ khiến rất nhiều người ngạc nhiên, cụ Tứ mẹ Tràng cùng tất cả
những người thôn ngụ cư, người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn
ra bàn tán. Đến khi hiểu ra Tràng vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa.
Người thì “cười lên rung rúc", người lại lo m cho anh ta "Ôi chao! Giời đất này còn
rước cái của nợ dài về". Biết nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.
Người đời cười chê, chế nhạo thế nhưng chẳng làm hai vợ chồng Tràng cảm thấy tủi
nhục, xấu hổ. Cho đến khi dẫn Thị về nhà, cả cụ Tứ lẫn Tràng đều không tin nhà mình
có con dâu.
Cụ Tứ vừa vui vừa buồn, vừa cảm thấy thương xót cho con trai mình. vui con
trai mình đến tuổi trưởng thành đã cưới được vợ, mừng cho hai đứa chúng nó,
nhưng bà cũng buồn, buồn vì gia đình nhà mình quá nghèo. Đám cưới chẳng
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
cờ có hoa, không một mâm cỗ, không kèn trống, không người đưa đón, chỉ đơn giản là
đưa dẫn nhau về chung, cùng nhau vun vén, xây dựng gia đình. Bước vào căn nhà
lụp xụp hai mẹ con Tràng đang Thị chỉ biết thở dài, bắt tay vào công việc
dọn dẹp. Đến bữa ăn về nhà chồng cũng chỉ nồi cháo loãng với chút muối trắng,
cuộc sống của ba con người quả thực rất nghèo khổ.
Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người
nghèo khbằng cả tấm lòng nhân hậu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước
thảm họa đói chết. Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết (gia
đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi…).
Không những vậy, nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh phúc
niềm vui khi nhặt v của Tràng; cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với
Tràng…Có thể nói, nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người
lao động nghèo trước thảm họa đau thương, chết chóc.
Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao
động qua hình ảnh của cụ Tứ: một người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân
hậu niềm tin vào cuộc sống đây ng chính niềm tin của nhà văn vào phẩm
chất tốt đẹp của con người.
Thông qua tình huống truyện, nhà văn lên án tố cáo tội ác của Nhật Pháp đã đẩy
nhân dân ta vào thảm họa đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã làm cho giá trị con
người trở thành rẻ rúng như rơm như rác: vợ mà nhặt được.
Đúng một tình huống truyện rất lạ Kim Lân đã dựng nên. Nhà văn đã đặt nhân
vật của mình vào một tình huống éo le để làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu
sắc. Ông không chỉ muốn nói lên nét đẹp trong tính cách con người Việt Nam là
trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào, lúc nào cũng thể đối mặt với cái chết
nhưng họ vẫn yêu thương, quan tâm nhau ông còn muốn lên án chế độ thực dân
độc ác đã khiến nhân dân ta trở nên nghèo đói, lầm than.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt - Mẫu 6
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của
dân ta m 1945, với nạn đói khủng khiếp m chết hơn hai triệu người từ miền Bắc
tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu
Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và
cho ra mắt bạn đọc với tựa đề Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng tác phẩm
vẫn xứng đáng một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam
hiện đại.
Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo
ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống éo le, trớ trêu chứa đựng đầy kịch
tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.
Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi xấu
làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được
vợ nhặt một gái đang dở sống dở chết đói. Họ thành vợ thành chồng giữa
khung cảnh tối sầm lại đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng
tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ của những nhà người chết đói
theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì cháo loãng, rau chuối muối hột. Mẹ
chồng đãi con trai con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng
trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh
hào dân chúng không đóng thuế tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người
nghèo.
Cảnh anh Tràng đưa vợ nhặt về nhà một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên
thú vị cho cả cái m ngụ đang hấp hối lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng.
Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào
cái xóm ngụ heo hút, tồi tàn sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om,
không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác những nấm mhoang. Khung cảnh ngập
tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.
Tràng dẫn người đàn mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự
sống. Trên bvực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng sự kiện
to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan.
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng
và thú vị!
Trước hết lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn
phở khác thường người đàn đi sau ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo
để làm cho mọi người kéo nhau ra xem. Đầu tiên trẻ. Đang đói,
chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài!
Dân xóm ngụ thấy ồn ào thì o nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra
khuôn mặt họ bỗng ng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói
một niềm vui. Họ tvị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng vợ thực lòng
muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên
một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi chao! Giời
đất này còn ớc cái của nợ đời về. Biết nuôi nổi nhau sống qua được cái tnày
không? Ấy họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết chi vọng vượt lên
cái chết.
cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy gái lạ ngồi giường con trai
mình. Được gọi bằng u, càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo:
Kìa nhà tôi nó chào u... thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng
người mẹ nghèo khổ y còn hiểu ra biết bao nhiêu sự, vừa ai oán vừa xót thương
cho số kiếp đứa con mình... Thì ra thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về
đây. Tâm trạng cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi làm cha làm mẹ
không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ
cho con. Mừng tự nhiên con trai có được vợ, vnhặt. Còn lo bởi cbăn
khoăn: biết rằng chúng nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
Càng ngẫm nghĩ, cụ càng thương con trai và thương gái xa lạ kia hạn: Trong
kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.
Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt,
không tin sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ
như không phải thế. Ra hắn đã vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không
ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu hai bạn, ấy thế thành vợ thành chồng...
Văn mu lp 12: Phân tích giá tr ngh thut trong vic to tình hung truyn V nht
Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin
mình đã vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bằng
xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.
Tình huống Kim Lân đặt ra trong truyện một tình huống éo le, trớ trêu, không
biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu tmừng tự nhiên được vợ,
nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết nuôi nổi
không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh nhất người mẹ già lo
và thương đứt ruột. c giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chồng Tràng với những chi tiết
thật ấn tượng chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn một lúc rồi tắt.
Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ
tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của hbị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự
sống bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực
thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý ccon người quy luật
của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !
Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn
sâu xa của tác phẩm. Cho không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật
chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời
tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc một không
hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp
tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác đói khát của những người nghèo khổ.
Trong cái cuộc sống không đáng gọi sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin hi
vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên
sức sống lâu dài của tác phẩm.
| 1/21

Preview text:

Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Dàn ý phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống truyện 1. Giới thiệu
- Truyện ngắn Vợ nhặt là một sáng tác thành công của Kim Lân và của văn xuôi sau
kháng chiến chống Pháp. Sự thành công của truyện là ở chỗ: để phản ánh số phận bi
thảm của người nông dân trong năm đói 1945 và khát vọng sống mạnh mẽ cùng
những phẩm chất tốt đẹp, Kim Lân đã lựa chọn được một tình huống độc đáo: tình huống nhặt vợ.
- Câu chuyện nhặt vợ của anh Tràng dưới ngòi bút miêu tả của Kim Lân đã làm toả
sáng vẻ đẹp rất người ở những con người đói khổ, đồng thời cũng khiến ý đồ tư tưởng
của nhà văn được thể hiện trọn vẹn. Có được thành công ấy là nhờ ở tài năng nghệ
thuật của Kim Lân trong triển khai tình huống. 2. Phân tích
a. Mục đích của Kim Lân khi viết Vợ nhặt. Viết về nạn đói song ý đồ của nhà văn
không phải là phản ánh thảm cảnh đói khát cùng tất cả vỏ cơ cực nhếch nhác của con
người do nạn đói gây ra. Với Kim Lân “Đói, nó vừa cay đắng, vừa đớn đau, đồng thời
một mặt nào đó nó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự (Nhà văn nói về tác
phẩm). Truyện Vợ nhặt khai thác các khía cạnh sau cùng của bi kịch ấy.
b. Tình huống được lựa chọn: Khi nạn đói hoành hành, cái đói, cái chết đang bao
bọc, bủa vây xung quanh cuộc Sống của con người, lẽ ra phải lo kiếm miếng ăn để
bảo toàn sự sống thì Tràng - một thanh niên nghèo của xóm ngụ cư - lại nhặt về một
người vợ. Tràng đã có vợ, có gia đình riêng của anh đúng vào thời điểm mà đáng ra,
khát khao hạnh phúc chưa nên có vì nó khó có thể tồn tại được. Quả thực, tình huống
nhặt vợ của Tràng là một tình huống tâm lí - nó có ý nghĩa như một phép thử để đo
phẩm chất người trong con người. Lựa chọn tình huống này, Kim Lân phải rất bạo tay
đồng thời phải có đủ sự tinh tế cũng như khả năng thấu hiểu nhân thế để có thể xử lí,
triển khai theo đúng ý đồ, dự định ban đầu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
c. Những đặc sắc nghệ thuật của Kim Lân khi triển khai tình huống
c. 1. Đặc biệt chú ý khai thác các quan hệ trong bức tranh đời sống
- Tương quan đối lập giữa bối cảnh đói khát, đầy ám ảnh chết chóc với khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc của con người:
+ Nhà văn đã miêu tả khá tỉ mỉ bối cảnh của nạn đói, đặc biệt là không gian năm đói
với các phương diện âm thanh, mùi vị, hình ảnh, không khí để tạo một cảm giác gai
lạnh, ghê rợn, trước cái chết đang sừng sững ngự trị khắp mọi ngóc ngách của đời
sống. Trên cái nền ấy, sự tồn tại của con người trở nên hết sức chông chênh: có người
đã chết vì đói, có người còn sống song cũng vật vờ như những bóng ma. Lúc này, sự
sống trở nên yếu thế khi bị cái chết dồn đuổi. Người ta dễ dàng tin rằng nếu cứ như
thế, sự sống sẽ dần chìm nghỉm trong không gian đặc quánh mùi vị chết chóc. Trong
không khí ấy, cần có một sự kiện thật lạ lùng, thật đặc biệt để làm khuấy động và đảo
lộn cái xu thế đang chìm dần kia: đó chính là sự kiến anh Tràng đưa vợ về. Kim Lân
đã cho thấy, đúng là sự kiện lạ lùng ấy đã làm cho xóm ngụ cư xôn xao lên được một
lúc, và hơn cả sự xôn xao là cái dư vị mà nó tạo ra “một cái gì lạ lùng và tươi mát
đang thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”.
+ Sự đối lập không chỉ ở bên ngoài mà còn tồn tại ngay trong lòng nhân vật. Ngòi bút
miêu tả tâm lí của Kim Lân đã lách sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để khám phá và
miêu tả các trạng thái tâm lí đối lập nhau ở mỗi con người: ở anh Tràng là nỗi lo lắng
“thóc gạo này đến cái thân mình còn chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” và
cái tặc lưỡi đầy liều lĩnh của một người đàn ông chưa bao giờ có cái hạnh phúc được
sống trong một gia đình đầy đủ “chậc, kệ”, ở bà cụ Tứ là nỗi buồn tủi xót xa vì thân
phận nghèo hèn, cảnh sống đói khổ không hạnh phúc, không biết đến tương lai và
niềm vui con trai có vợ...
+ Từ các tương quan đối lập đó, nhà văn đã dồn bút lực vào việc miêu tả tâm lí nhân
vật với những biểu hiện vô cùng phong phú để đi đến khẳng định: cái đói, cái chết với
những ám ảnh khủng khiếp mà nó gây ra không thắng nổi khát khao hạnh phúc ở
những con người biết sống có tình người. Anh Tràng cũng lo cho bản thân song cũng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
rất biết trân trọng người vợ mới (mua / hào dầu). Bà cụ Tứ cả đời nghèo khổ cơ cực
song lại rất thương con và vô cùng nhân hậu trong cách xử sự. Với những biểu hiện
tâm hồn, tính cách như thế của nhân vật, sự chiến thắng của sự sống với cái chết trở
nên hợp lí vì gợi nhiều xúc động.
- Tương quan tương đồng trong hưởng vận động của tâm lí nhân vật: Trước khi Tràng
đưa vợ về, cả xóm ngụ cư cũng như mỗi cá nhân đều như chìm nghỉm trong nạn đói:
đám trẻ ủ rũ, anh Tràng “lảm nhảm than thở”, mệt mỏi nặng nề. Khi Tràng đưa vợ về,
cả xóm ngụ cư như bừng lên một nguồn sinh khí mới. Tất cả dường như thay đổi hẳn,
thậm chí như thể cái đói đã bị đẩy lùi để nhường chỗ cho sự sống, cho niềm vui: dân
xóm ngụ cư bàn tán xôn xao, trẻ con xúm lại trêu Tràng, Tràng thì phớn phở khác
thường và đặc biệt nghiêm túc, chín chắn hẳn lên, người đàn bà trở nên hiền hậu đúng
mực, dù không hẳn là vui vẻ song cảnh gia đình ấm áp đã khiến thị trở thành một nàng
dâu thực sự, bà cụ Tứ sau những lo âu, buồn tủi đã trở nên vui vẻ và nhanh nhẹn hẳn
lên. Tuy rằng cái đói, cái chết vẫn bao bọc xung quanh, thậm chí hiện hình trong bữa
ăn ngày đói song sự sống và niềm vui đã trở lại trong cuộc sống của mọi người.
- Như vậy là, khi xây dựng tình huống truyện, nhà văn ít khai thác các quan hệ đời
sống bên ngoài mà chủ yếu đi vào đặc tả những biến chuyển tâm lí. Vì vậy, truyện tuy
có gợi ra cảnh sống bi thảm của con người năm đói song ấn tượng sâu đậm mà nó tạo
ra lại là ý nghĩa thiêng liêng của sự sống, của tình người.
c.2. Tổ chức điểm nhìn trần thuật
Nhằm tránh sự đơn điệu, tẻ nhạt và cũng là để tạo chiều sâu tâm lí cho tình huống
truyện, Kim Lân đã rất khéo léo khi tổ chức điểm nhìn trần thuật: người trần thuật khi
thì đứng ngoài để quan sát, kể và tả một cách khách quan, có lúc hoá thân vào nhân
vật để hồi tưởng, trải nghiệm. Truyện trở nên đậm đặc chất trữ tình và giàu khả năng
gợi cảm nhất khi nhà văn nhập giọng kể vào giọng nói bên trong của nhân vật biến
việc kể chuyện thành việc tự biểu hiện bằng ý nghĩ của nhân vật (đoạn văn miêu tả
tâm trạng bà cụ Tứ) nên đã lột tả được một cách sâu sắc, tinh tế các trạng thái tâm lý,
những phản ứng tâm lý của nhân vật trước sự kiện.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
c.3. Ngôn ngữ truyện
- Ngôn ngữ người kể chuyện: Khi thì tự nhiên, hóm hỉnh, hài hước (đoạn miêu tả cảnh
làm quen, cảnh đính ước và nên vợ nên chồng của Tràng và người đàn bà), khi thì
trang nghiêm, chân thực (đoạn miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ) và nhìn chung là giản dị
mà vẫn rất gợi cảm, có những đoạn văn chan chứa chất thơ (đoạn miêu tả cảm giác
của Tràng, đoạn miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ).
- Ngôn ngữ nhân vật: Đáng lưu ý nhất là ngôn ngữ đối thoại: ngắn gọn, giản dị, có lúc
hơi thô mộc và phù hợp với tính cách nhân vật, phù hợp với mục đích lời nói của nhân
vật, đó là thứ ngôn ngữ làm quen, làm thân, thăm dò, vừa xa lạ, vừa gần gũi.
c.4. Phát hiện chi tiết: Tác giả sử dụng nhiều chi tiết rất gợi cảm để tạo không khí
cho truyện (tiếng hờ khóc, thấy người chết, mùi xác chết). Đặc biệt có những chi tiết
có sức phát hiện và khả năng biểu hiện rất lớn (Tràng mua 2 hào dầu và khoe với vợ,
Tràng đánh diêm đốt đèn, bữa ăn ngày đói...) Những chi tiết tạo ra tính cụ thể sinh
động của tình huống, làm bật phẩm chất người trong con người.
c.5. Mạch truyện: Xoay quanh và bám rất sát sự kiện nhặt vợ của Tràng song không
đơn điệu một chiều, nhà văn cố ý đảo trình tự kể để vừa dẫn dắt, vừa giải thích, vừa
nhận xét để khai thác mọi khía cạnh của sự kiện. 3. Kết luận
- Bút lực và sự linh hoạt, sáng tạo của Kim Lân đã giúp ông tạo ra trong truyện ngắn
Vợ nhặt một tình huống bất ngờ đầy kịch tính: Vừa lạ lùng, vừa éo le, vừa cảm động.
Tình huống ấy được triển khai một cách khéo léo và sâu sắc đã biểu đạt được những
nội dung phong phú của tác phẩm.
- Cần khẳng định: Tình huống được xây dựng trong truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ là
nghệ thuật mà còn là sức phát hiện và tấm lòng đồng cảm sâu sắc của Kim Lân với số
phận và cảnh ngộ của con người.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt - Mẫu 1
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm độc đáo của Kim Lân khi viết về cuộc sống
và con người ở nông thôn. Khi viết về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Một trong
những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn “Vợ nhặt” là đã
xây dựng được tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn”. Có thể nói, đây chính là yếu tố
tạo nên thành công của tác phẩm.
Là cây bút truyện ngắn vững vàng, Kim Lân viết về người nông dân và cuộc sống ở
nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của người vốn là “con đẻ” của đồng ruộng. Những
ông Hai, bà cụ Tứ, anh cu Tràng... hiện lên trong tác phẩm hồn hậu chân thực, chất
phác và chiếm được nhiều thiện cảm trong lòng người đọc. Sáng tác ngay sau khi cách
mạng tháng Tám thành công và sau này được viết lại vào khoản sau hòa bình lập lại
(1954) truyện ngắn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, là câu chuyện kể về cuộc
sống của những người không có “hộ khẩu” chính thức trên mảnh đất mà mình sinh
sống. Trên cái nền lịch sử của nạn đói năm 1945, Kim Lân đã đặt nhân vật của mình
vào trong một tình huống độc đáo vừa buồn vừa vui, có hạnh phúc nhưng cũng đầy rẫy những lo toan.
Nghệ thuật xây dựng tình huống là việc đặt nhân vật vào trong những ngữ cảnh nhất
định, làm môi trường cho nhân vật hoạt động qua đó bộc lộ phẩm chất, cá tính. Trong
tác phẩm, Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống đặc biệt. Đó là tình huống anh nông
dân nghèo tên Tràng, xấu trai, đang có nguy cơ ế vợ bỗng nhiên lại có vợ, mà lại là
nhặt được vợ, là theo không chỉ nhờ một câu hát vu vơ và bốn bát bánh đúc. Tình
huống ấy kéo theo hàng loạt các tình huống khác không kém phần lí thú.
Tình huống này gây nên sự ngạc nhiên cao độ trong xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng và
ngay cả bản thân anh cu Tràng nữa bởi hai lý do: Ai có thể ngờ rằng một người nghèo
túng, xấu trai, thậm chí có vẻ hơi ngờ nghệch lại là dân ngụ cư như Tràng, xưa nay
con gái không ai thèm để ý, vả lại cũng không có tiền cưới vợ mà .nay bỗng dưng lấy
được vợ, mà là theo khống hẳn hoi. Hơn nữa, trong một bối cảnh như thời điểm ấy,
khi cái đói đang hoành hoành, khắp nơi đều vạ vật những người “xanh xám như
những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ (...) Không khí vẩn lên mùi ẩm thối
của rác rưởi và mùi gây của xác người” thì một người như Tràng đến nuôi thân còn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
chẳng lo nổi lại còn mẹ già, nói chi đến chuyện đèo bòng. Bằng ấy cái vô lý và không
thể nhưng sự kiện chấn động ấy vẫn cứ diễn ra. Khi Tràng dẫn người đàn bà lạ về nhà,
cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác không hiểu. Chưa thể nào tin được đó là vợ Tràng họ bắt đầu phỏng đoán:
Ai đấy nhỉ?... Hay là người nhà dưới quê bà cụ Tứ mới lên?
- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu. - Quái nhỉ?
Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.
- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta
thèn thẹn hay đáo để”.
Hạnh phúc của đồng loại tạm làm người ta quên đi cái đói khổ trong giây lát. “Hình
như họ hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ
hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm ấy của họ”.
Nhưng rồi ngay sau đó lại là nỗi lo lắng. “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ
đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.
Từ đây, Kim Lân kéo người đọc về với tình huống trước đó như một lời lý giải cho
việc nhặt được vợ của Tràng, một tình huống cũng thú vị không kém. Tràng nhặt được
vợ chỉ nhờ vào câu hát vu vơ khi đẩy xe bò cho đỡ mệt nhọc:
“Muốn ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Cái đói khổ làm cho người ta mất hết cả sự xấu hổ và lòng tự trọng. Người đàn bà đã
chớp lấy câu nói của Tràng như cái phao cứu sinh cho cuộc đời mình. Lần thứ hai gặp
lại thì “xưng xỉa”: “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”, rồi không
ngần ngại ngồi xuống làm một chập hết bốn bát bánh đúc. Thế là nên vợ nên chồng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Có thể nói đây là một tình huống hết sức oái oăm, không biết nên vui hay nên buồn,
không biết nên mừng hay nên lo? Thứ tâm trạng đan xen ấy hiện lên trong suy nghĩ
đầy mâu thuẫn của những người trong cuộc. Tràng “mới đầu cũng chợn nghĩ: thóc gạo
này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi
hắn cũng tặc lưỡi. Cảm giác ấy cùng với những tình cảm mới lạ đan xen khiến Tràng
giống như một đứa trẻ. Khác với Tràng, bà cụ Tứ là một người từng trải, nhìn thấy
con trai về cùng với người đàn bà lạ mặt “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết
bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà hiểu cả
tình cảnh bất hạnh của người đàn bà, cũng như tình cảnh khó khăn sắp tới của cả gia
đình. Nỗi lo lắng cùng với niềm hy vọng đan xen, “May ra mà qua khỏi được cái tao
đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết
cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được?”. Bản thân người đàn bà, sau những
phút giây chao chát chỏng lỏn để có được miếng ăn, theo không người ta về nhà, chắc
chắn giờ đây cũng suy nghĩ mông lung nhiều lắm. Thị trở về với dáng vẻ ngượng
ngùng, bẽn lẽn, e thẹn “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.
Đặt nhân vật vào trong tình huống đặc biệt, éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật
những ý nghĩa sâu sắc của truyện. Không cần đến những lời kết tội to tát câu chuyện
thông qua tình huống nụ cười và giọt nước mắt đan xen ấy mà lên án gay gắt bọn phát
xít thực dân phong kiến và tay sai đã gây ra nạn đói năm 1945, đẩy con người đến cái
chết, dẫn đến những tình huống éo le, cùng cực, làm cho giá trị con người bị rẻ rúng:
người ta có thể nhặt được vợ chỉ với bốn bát bánh đúc.
Tình huống ấy cũng chính là môi trường cho nhân vật bộc lộ đặc điểm tính cách cũng
như đời sống tinh thần của mình. Tràng tỏ ra là một anh thanh niên chất phác, hiền
lành, chăm chỉ làm ăn và có đời sống nội tâm có phần hơi đơn giản. Bà cụ Tứ mang
trong mình sự từng trải, nghĩ trước sau chu toàn. Tràng “nhặt” được vợ, bà vừa mừng
vừa lo. Bà hiểu cái tao đoạn mà bà và những người xung quanh đang phải trải qua,
hiểu vị trí của những người dân ngụ cư trong quan niệm của người khác, hiểu được
tình thế oái oăm, đèo bòng của con trai mình. Hơn thế nữa, bà cũng hiểu và cảm thông
cho hành động theo không của người đàn bà “Người ta có gặp lúc khó khăn, đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình”. Ngày đầu tiên của cuộc sống mới, cũng chính bà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
là người gợi ra tương lai tươi sáng, gieo vào trong lòng đôi vợ chồng trẻ niềm hy
vọng. Còn ở cô “vợ nhặt” thì tính cách có sự thay đổi đến bất ngờ: từ một người đàn
bà chao chát, chỏng lỏn, chị khác hẳn trong tư cách một người vợ, một người quen,
dịu dàng, biết thu vén cho cuộc sống gia đình.
Thông qua tình huống truyện đặc sắc Kim Lân cũng muốn thể hiện khát vọng của con
người có thể chiến thắng hoàn cảnh để sống và có được hạnh phúc. Người lao động,
dù trong tình huống bi thảm đến đâu, ngay cả khi gần kề cái chết vẫn khát khao hướng
về ánh sáng, tin tưởng ở sự sống và tương lai. Giá trị nhân văn của tác phẩm là ở đó.
Cầu chuyện kết thúc với những ánh sáng báo hiệu điều gì đó tốt đẹp hơn đang đến.
Tràng “bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác
lạ...” và anh bắt đầu hi vọng: “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái
ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột
ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn
phận phải lo lắng cho vợ con sau này “. Người mẹ già cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác
ngày thường”, cái mặt bủng beo u ám “rạng rỡ hẳn lên”. Và tất nhiên, nhiều nhất phải
nói tới sự thay đổi của người “vợ nhặt”, giờ đây đã trong vai trò của một người vợ
hiền đảm đang. Hình ảnh đám người đi phá kho thóc cứ gieo vào trong lòng Tràng đầy
ám ảnh như dự báo một cuộc cách mạng không sớm thì muộn cũng sẽ tất yếu xảy ra.
Xây dựng tình huống đặc sắc trong “Vợ nhặt”, Kim Lân đã một lần nữa chứng minh
cái tâm, cái tài của mình với tư cách là một nhà văn một đời đi về với “đất”, với
“người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.
“Vợ nhặt” là một truyện ngắn độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tình huống. Chính
điều này đã góp phần vào việc thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng như tăng tính hấp dẫn trong tác phẩm.
Nghệ thuật xây dựng tình huống trong Vợ nhặt - Mẫu 2
Kim Lân là một trong rất nhiều gương mặt nổi trội trên văn đàn văn học dân tộc viết
về đề tài người nông dân Việt Nam, xoay quanh đề tài này, Kim Lân đã vẽ nên một
bức tranh hiện thực của dân tộc Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, những cảnh u
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
ám trong nạn đói lịch sử năm 1945 khiến cho hai triệu đồng bào ta chết đói, những
hình ảnh con người trong cảnh khổ đã dấy lên trong lòng người đọc những nỗi tiếc
thương khôn nguôi. Và Kim Lân đã sử dụng một cách tài tình những biện pháp nghệ
thuật đặc sắc để thể hiện rõ những giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Điểm nổi bật về nghệ thuật phải nói đầu tiên ở đây chính là nghệ thuật xây dựng tình
huống truyện đặc sắc. Tình huống truyện được nhà văn tạo nên trong tác phẩm này
chính là sự gặp gỡ của Tràng và người đàn bà xa lạ, để sau đó Tràng nhặt người này
về làm vợ, chính tình huống truyện đặc biệt này mà chúng ta có thể thấy được hiện
thực khắc nghiệt rằng trong nạn đói năm 1945, giá trị của con người rẻ rúng đến mức
nào, vừa xây dựng hiện thực, vừa tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã gây nên cho
chúng ta. Qua đó chúng ta có thể nhận ra những phẩm chất tốt đẹp của con người
trong cảnh khổ, là anh cu Tràng tuy xấu xí vụng về nhưng mang trong mình một tâm
hồn lương thiện, là người đàn bà bất chấp để được ăn bát bánh đúc lại nuôi một nỗi
khát khao được sống và luôn tin tưởng vào tương lai.
Nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lí nhân vật cũng là một dụng ý nghệ thuật đặc sắc
của nhà văn Kim Lân, nhà văn xây dựng một nhân vật chính với vẻ ngoài xấu xí
nhưng đối lập bên trong đó là một tấm lòng lương thiện. Là người đàn bà xa lạ không
rõ nguồn gốc, nghề nghiệp, quá khứ, nhưng luôn mang trong mình khát khao mãnh
liệt là được sống, là bà cụ Tứ kham khổ, tảo tần, nhưng hiểu chuyện và mang trong
mình lòng yêu thương con cái vô bờ bến. Tác giả đã xây dựng những nhân vật điển
hình trong hoàn cảnh điển hình để bộc lộ được tính cách cũng như giá trị nội dung của tác phẩm.
Tác phẩm Vợ nhặt tác giả đã sử dụng lối trần thuật lôi cuốn, thông qua những cuộc
đối đáp giữa các nhân vật với nhau, và ẩn chứa trong đó là tình cảm của những con
người với nhau đã cùng cưu mang nhau qua cảnh khốn cùng.
“Vợ nhặt” là nhan đề của tác phẩm, xưa nay người ta chỉ đi lấy vợ, cưới vợ chứ có ai
nhặt vợ bao giờ. Ấy mới biết, trong xã hội cũ, số phận của con người mong manh và
rẻ rúng biết nhường nào. Chính cách sử dụng nhan đề ngược đời như vậy ta lại thấy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
được sự độc đáo trong cách đặt tên nhan đề, chứa đựng nhiều ý nghĩa biểu trưng, và
hé mở chủ đề của tác phẩm. Ngoài ra còn giúp cho người đọc tạo được ấn tượng ban
đầu và kích thích tính hấp dẫn cho tác phẩm.
Kim Lân đã sử dụng ngôn từ mộc mạc, giản dị và chân thực. Đối với một người
chuyên viết về đề tài nông thôn Việt Nam như Kim Lân thì ông coi trọng lối nói tự
nhiên, ngôn từ gần gũi với người đọc, để ông có thể truyền đạt hết những tư tưởng
nhân đạo và tình cảm của tác giả đối với từng nhân vật trong tác phẩm của mình. Ông
viết về họ với tất cả sự giản dị, chân thực và đơn thuần như chính tính cách và bản
chất con người họ vậy. Là anh cu Tràng với những lời nói ngô nghê chân thực, không
để ý đến lời chọc ghẹo của người khác, là sự thay đổi linh hoạt trong ngôn ngữ của
người đàn bà. Và cuối cùng là những lời nói đơn giản, nghẹn ngào nhưng ẩn chứa bên
trong đó là tình thương vô bờ bến của bà cụ Tứ. Sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp
nghệ thuật là cơ sở để tác giả có thể dẫn người đọc tìm hiểu hết được các giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt - Mẫu 3
Mỗi tác phẩm văn học khi khép lại đều để lại trong lòng người đọc những dư âm khác
nhau. Dư âm ấy có thể là một nhân vật, 1 chi tiết hay một sự việc nào đó. Song đến
với truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, điều ấn tượng nhất trong lòng người
đọc lại là tình huống truyện độc đáo. Nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện của Kim
Lân đã góp phần không nhỏ làm lên sự thành công cho tác phẩm và tên tuổi nhà văn Kim Lân.
Tình huống truyện là gì? Tình huống truyện được hiểu là tình thế xảy ra truyện, là “cái
khoảnh khắc” mà Nguyễn Minh Châu cho là “chứa đựng cả đời người”. Từ tình huống
truyện, người đọc có thể thấy rõ hơn mối quan hệ giữa các nhân vật với nhau, giữa
nhân vật với hoàn cảnh, qua đó, thể hiện tư tưởng của toàn bộ tác phẩm. Tình huống
truyện “Vợ nhặt” là một tình huống vừa lạ, độc đáo lại vừa oái oăm, trớ trêu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Trước tiên, người ta đánh giá đây là một tình huống vô cùng độc đáo. Anh cu Tràng
vốn là người dân xóm ngụ cư ngờ nghệch xấu xí lại có thể lấy được vợ trong thời
điểm nạn đói lịch sử diện ra.
Tràng không phải lấy được vợ mà nói đúng hơn là “nhặt vợ”. Trong một lần kéo xe bò
lên tỉnh, Tràng gặp được Thị, chỉ với bốn bát bánh đúc, Thị đồng ý theo không anh về
làm vợ. Dưới ánh nhìn của những người dân xóm ngụ cư, người như Tràng lấy được
vợ là chuyện không tưởng. Bởi lẽ thời điểm bây giờ, người ta luôn coi những người
ngụ cư là tầng lớp dưới đáy cùng bị xã hội xem thường, khinh rẻ, lấy một người là dân
xóm ngụ cư cũng sẽ bị người khác xem nhẹ. Hơn nữa, Tràng lại là một người xấu xí,
nghèo khổ. Giữa thời buổi khó khăn ấy, nuôi được thân mình đã khó mà lại còn đèo bòng chuyện vợ con.
Nhưng, trong hoàn cảnh kì lạ ấy, nhặt vợ lại đáng thương hơn là coi rẻ, khinh thường.
Vợ vốn là người đáng lẽ ra phải được cưới hỏi tử tế, đàng hoàng, đầy đủ sinh lễ và lễ
nghi đón rước. Vậy mà người vợ mà Tràng cưới về hôm nay lại rẻ rúng, chỉ bằng một
câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc. Tình huống nhặt vợ của anh và kỳ quặc, oái
oăm vui mừng mà bi thảm. Dù thoạt nhìn có vẻ phi lý nhưng lại vô cùng hợp lý. Tràng
lấy được vợ là do vào thời điểm đó, nạn đói hoành hành, nếu không phải vì miếng
cơm có lẽ cũng không có người đàn bà nào chịu lấy một người như anh. Hành động
nhặt vợ ấy dẫu chỉ là hành động nhất thời nhưng nó còn thể hiện được sự cưu mang,
đùm bọc lẫn nhau của anh với Thị, thể hiện sự yêu thương giữa con người với con
người trong nạn đói năm ấy.
Bên cạnh đó, tình huống truyện còn là một tình huống éo le đầy trớ trêu. Trong gia
đình bình thường, việc con trai lớn lấy được vợ thường mang đến niềm vui cho người
làm cha, làm mẹ. Nhưng éo le thay, chàng lấy được vợ lại khiến bà cụ Tứ vừa vui lại
vừa buồn, người dân xóm ngụ cư cũng chẳng soi mói gì thiệt hơn. Ai cũng chỉ nghĩ
dưới cái u ám đang bao trùm cả vùng này, “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”,
lấy vợ có khiến cuộc sống khó khăn hơn không? Bà cụ Tứ thậm chí còn nghĩ đến
những điều tệ hại hơn: “biết rằng chúng nó lấy nhau liệu có nuôi nổi nhau qua cơn đói
khát này không?”. Bà vui mừng vì con trai lấy được vợ, nhưng lại lo cho tương lai vợ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
chồng con lúc bây giờ. Chính Tràng cũng từng cảm thấy chán khi nghĩ đến niềm hạnh
phúc nhỏ nhoi vừa nhen nhóm: “thóc gạo này đến thân mình chẳng biết có nuôi nổi
không lại còn đèo bòng?”.Còn với Thị - người vợ được nhặt về thì nỗi tủi hổ dường
như lấn át cả niềm vui. Có lẽ ai cũng nhìn thấy, người đàn bà ấy chấp nhận lấy Tràng
vì muốn sống sót qua cơn đói, níu lấy một chiếc phao cứu sinh, hi vọng được sống.
Tất cả đều thể hiện sự éo le đến thương cảm. Nó lan tràn trong suy nghĩ của mỗi nhân
vật và bao phủ cả đêm tân hôn. Đêm tân hôn của cặp vợ chồng mới cưới đầy gió lồng
lộng từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu vàng đục và tiếng hờ khóc của người chết
vang lên trong xóm ngụ cư.
Từ những giá trị đó chúng ta có thể cảm nhận được giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc.
Tình huống đó đã góp phần phơi bày số phận những người nông dân trước Cách mạng
Tháng Tám. Họ phải gánh chịu bao bất công từ cuộc sống. Vì nghèo khổ nên Tràng
không thể nào lấy được vợ, phải chờ đến cơ hội “trời cho” khi thân phận con người trở
nên rẻ rúng. Cơ hội ấy không phải thời điểm nào tươi sáng đẹp đẽ hơn mà là nạn đói
lịch sử, là thảm cảnh đau thương của bao người. Hoàn cảnh đó khiến người đàn bà tự
nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ giá trị của chính mình theo không một người đàn ông xa lạ về làm vợ.
Bên cạnh giá trị hiện thực, tình huống còn thể hiện cả giá trị nhân đạo gây cho người
đọc nhiều suy ngẫm. Từ tình huống éo le, Kim Lân đã gợi lên trong trái tim mỗi người
niềm xót xa khôn nguôi và sự cảm thông với số phận những người nông dân nghèo
khổ. Đồng thời, nó cũng góp phần ngợi ca phẩm chất đáng quý của người nông dân
ngay giữa hoàn cảnh đói khát. Trong cái đói bủa vậy mẹ con bà cụ Tứ vốn chẳng khá
khẩm gì hơn cũng sẵn sàng dang tay cưu mang một người xa lạ. Lời mời “có về với tớ
thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” của Tràng nghe có vẻ như bông đùa nhưng thực
ra lại mang ý nghĩa như một cơ hội cứu vớt Thị từ bên bờ vực của cái đói, cái chết về
đến hạnh phúc gia đình. Người đàn ông có vẻ ngờ nghệch đó vẫn biết quan tâm, lo
lắng và trân trọng hạnh phúc của mình. Dù chỉ là người vợ được nhặt về, anh vẫn đưa
Thị vào hàng ăn một bữa cơm thật no, sắm cho Thị một cái thúng con đựng vài thứ lặt
vặt, mua dầu thắp đèn cho sáng đêm tân hôn… Gặp mẹ, Tràng cũng giới thiệu với mẹ
một cách đàng hoàng để Thị bớt tủi hổ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Kim Lân qua việc khắc họa nhân vật trong xây dựng tình huống truyện còn thể hiện
niềm tin vào tương lai cuộc đời họ. Đây chính là giá trị nhân đạo mới mẻ của ông.
Điều này được thể hiện rõ nét trong đoạn kết khi nghe vợ kể chuyện nông dân Thái
Nguyên, Bắc Giang phá kho thóc chia cho dân nghèo và chợt nhớ đến cảnh đoàn
người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp.
Có thể nói, tình huống truyện “Vợ nhặt” mang rất nhiều giá trị sâu sắc, thể hiện tài
năng của ngòi bút Kim Lân. Một tình huống nhặt vợ vừa lạ vừa oái oăm, nhưng đã thể
hiện cái nhìn tin tưởng vào sự thay đổi số phận của người nông dân. Nó ngợi ca nhân
cách con người ngay trong những năm tháng khó khăn, trong nạn đói lịch sử năm
1945. Với những giá trị sâu sắc ấy, người đọc càng thấm thía hơn tư tưởng nhân đạo
của Kim Lân. Để rồi rất nhiều năm tháng qua đi, “Vợ nhặt” vẫn là một tác phẩm nổi
bật trong nền văn học Việt Nam.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt - Mẫu 4
Viết về nạn đói ăn năm Ất Dậu, Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc
nhất, độc đáo nhất trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Với một vốn sống phong phú về nông thôn và người nhà quê, với một tấm lòng nhân
hậu bao dung, câu chuyện anh trai cày thô kệch "nhặt" được vợ, đã được tác giả kể lại
một cách cảm động, đậm đà. Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật và xây dựng tình tiết -
cốt truyện đầy kịch tính là giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực được thể hiện qua
tình huống "nhặt" vợ của anh cu Tràng.
Anh cu Tràng, mồ côi bố, ở với mẹ già tại xóm ngụ cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo
xe bò thuê. Con mắt "nhỏ tí", bộ mặt "thô kệch", cái đầu "trọc nhẵn" lại có tật "vừa đi
vừa nói lảm nhảm...". Cứ tưởng rằng hắn sẽ nằm suông đến già. Ai ngờ... chỉ "tầm phơ
tầm phào đâu có hai bận", một câu hò rất phong tình, bốn bát bánh đúc ngoài chợ tỉnh,
chẳng cheo cưới gì thế mà hắn đã "nhặt" được vợ. Đó là một cô gái, áo quần rách như
tổ đỉa, nhưng đã "liếc mắt cười tít" làm cho Tràng "thích lắm".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Tràng "nhặt" được vợ khi trận đói đã và đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người
chết đói như ngả rạ. Từng đám người chạy đói "xanh xám như những bóng ma". Mùi
gây của xác người... Quạ bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, "cứ gào lên
từng hồi thê thiết". Xóm ngụ cư "xác xơ heo hút". Tràng "nhặt" vợ mà cảm thấy
"chợn" vì giữa trận đói, nuôi cái thân mình còn khó mà "lại còn đèo bòng". Trên
đường dẫn "vợ mới vợ miếc" về nhà, hắn "phớn phở" khác thường, "tủm tỉm cười nụ",
"hai mắt thì sáng lên lấp lánh",... Còn thị thì "thèn thẹn hay đáo để".
"đứng ngay đầu giường" thằng con trai mình. Bà vừa tủi thân, vừa mừng vừa lo: "Biết
rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được đói cơn đói khát này không". Tối "tân
hôn" của Tràng đã có hai hào dầu thắp sáng, nhưng "tiếng khóc hờ tỉ tê" của những
gia đình mới có người chết đói, nghe càng rõ trong đêm khuya.
Mẹ chồng chỉ có một nồi cháo cám ăn mừng nàng dâu mới. Tiếng trống thúc thuế vẫn
dội lên "dồn dập vội vã". Và trên đê Sộp những người đói ầm ầm kéo nhau đi, phía
trước có lá cờ đỏ to lắm!
Tình huống "nhặt" vợ đã được Kim Lân sáng tạo nên bằng cảm hứng nhân văn sâu
sắc. Ông đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ, hoạn nạn.
Ông xót thương cho nỗi đau khổ của dân tộc trước thảm họa năm Ất Dậu "người chết
như ngả rạ". Ông ái ngại cho một cô gái bị nạn đói cướp đi gần hết. Không còn tên
tuổi. Không còn bố mẹ, anh chị em. Không gia đình quê hương. Mặt người "gầy sọp",
áo quần rách như tổ đỉa. Đói quá, mất đi vẻ duyên dáng, "cắm đầu một chặp bốn bát
bánh đúc". Giá trị, phẩm giá của người con gái trở nên rẻ rúng đáng thương! Trước
mắt thị là vực thẳm, là chết đói, Thị phải "theo trai", phải lấy Tràng...
Kim Lân nhân hậu lắm. Ông đã tả cặp mắt, nụ cười của Tràng rất đẹp, rất vui. Ông đã
phát hiện ra chút duyên thầm, nét nữ tính của thị. Cái mắt cười câu mắng yêu và cái
củng vào trán Tràng của thị trong tối tân hôn, được nhà văn diễn tả đầy ý vị. Hạnh
phúc đến với Tràng, tuy muộn mằn, tuy phải "nhặt" mới có vợ, nhưng đáng tự hào và
trân trọng biết bao. Anh đã mua hai hào dầu thắp sáng tối tân hôn, để xua tan cái tối
tăm, nghèo khổ, cô độc, để mừng "vợ mới vợ miếc", để soi sáng hạnh phúc tương lai.
Tình tiết hai hào dầu rất giàu ý nghĩa nhân đạo.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Kim Lân đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Ông đã tả giọt
nước mắt trong nỗi lo, niềm vui của người mẹ nghèo khi nhận nàng dâu mới. Niềm tin
"ai giàu ba họ, ai khó ba đời"; nồi cháo cám đắng chát mà người mẹ già gọi là "chè
khoán ngon đáo để", những câu chuyện vui, chuyện sau này của người mẹ chồng nói
với con trai và con dâu lúc ăn cháo cám. Tất cả thể hiện một cách cảm động tình
thương người, niềm tin đối với con người của tác giả.
Đối với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống Tràng "nhặt" vợ, Kim Lân
căm thù lên án và vạch trần tội ác của Nhật - Pháp đã bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, vơ
vét sưu thuế, gây ra trận đói kinh khủng năm Ất Dậu 1945, làm hơn hai triệu đồng bào
ta bị chết đói! Nạn đói đã hạ thấp giá trị con người. Chẳng cần cheo cưới, chỉ cần bốn
bát bánh đúc mà người ta có thể "nhặt" được vợ.
Qua tình tiết khi trống thúc thuế dồn dập dội lên, thì nàng dâu mới loan tin ở mạn Bắc
Giang, Thái Nguyên, người ta không chịu đóng thuế, còn phá kho thóc của Nhật - chia
cho người đói,... Và đám người đói kéo đi trên đê Sộp, phía trước là lá cờ đỏ to lắm
bay phấp phới. Kim Lân đã thể hiện rất hay tình cảm của hàng triệu nông dân Việt
Nam hướng về cách mạng. Cứu đói, cứu khổ, cứu đời và đem đến độc lập, tự do cho
dân tộc chính là sự xuất hiện lá cờ đỏ ấy. Qua hình ảnh lá cờ đỏ, cảm hứng nhân đạo
của truyện "Vợ nhặt" đã được nhân lên thành cảm hứng nhân văn tuyệt đẹp.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt - Mẫu 5
Để một tác phẩm văn học trở nên thành công thì cần có rất nhiều yếu tố tác động vào
như nội dung, nghệ thuật, cùng các giá trị nhân văn mà nó mang lại. Một trong những
yếu tố quan trọng đó chính là cách xây dựng tình huống truyện. Một truyện ngắn
muốn hay, cuốn hút người đọc thì phải có được một cốt truyện hấp dẫn. Một trong số
ít nhà văn được mệnh danh là bậc thầy trong xây dựng cốt truyện đó chính là Kim
Lân. Các tác phẩm của ông đều có những nét riêng biệt, đặc sắc, nổi bật trong số đó
chính là tác phẩm “Vợ nhặt”. Truyện ngắn phản ánh sự thật về nạn đói những năm
1945 và cuộc sống nghèo khổ của nhân dân thời bấy giờ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Truyện ngắn nói về nhân vật Tràng, một người dân ngụ cư nghèo khổ sống cùng mẹ.
Nhà văn Kim Lân đã miêu tả Tràng như một sản phẩm vội vàng của tạo hóa “hai con
mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào
cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng
trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời
cười hềnh hệch". Quả thực Tràng là một thanh niên rất xấu xí, chả ai thèm ngó ngàng.
Chẳng những vậy, cái nghèo, cái đói luôn đeo bám, quẩn quanh hai mẹ con Tràng.
Kim Lân đã dùng những từ ngữ chân thật để miêu tả cuộc sống và ngôi nhà mà Tràng
đang ở “những bụi cỏ dại lổn nhổn”, “đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong
một góc nhà”, “hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi”…. Cuộc sống
túng thiếu của hai mẹ con hiện lên thật giản dị, tội nghiệp, khiến người khác không
khỏi cảm thấy xót thương cho hai số phận. Nhưng điều làm cho Tràng cảm thấy tủi
nhục nhất đó chính là mang trong mình cái danh dân ngụ cư, bị dân làng khinh miệt, coi thường.
Tuy nghèo đói nhưng chàng vẫn có một công việc để làm, để trông mong, đó chính là
phu xe, hàng ngày bốc vác, chở gạo ra các chợ. Công việc thì vất vả, đói khát nhưng
quả thật anh ta lúc nào cũng có thể vui vẻ, lạc quan. Giữa trời trưa nắng gắt, phải kéo
cả một xe gạo đầy nặng trĩu, nhưng chàng ta vẫn có sức cất lên những câu hò:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Những câu hò này không hẳn là có ý trêu ghẹo những cô gái ngồi bên đường, mà chủ
yếu để giúp chàng ta quên đi những mệt mỏi, đói khát mà mình đang phải chịu. Ấy
vậy mà chỉ bằng vài ba lời hát vu vơ mà khiến Tràng được một người con gái để ý và
đi theo đẩy giúp. Tràng là ngưởi hiểu rõ hơn ai hết những gì mà mình hát ở trên không
phải là sự thật, làm gì mà có gạo trắng mà ăn chứ nói gì đến giò chả. Để rồi đến khi
gặp người con gái ấy lần thứ hai, Tràng đã rất đỗi ngạc nhiên trước sự thay đổi ngoại
hình của Thị “Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trở lại hai con mắt”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Quả thực Thị đã gầy đi rất nhiều, có lẽ vì đói, vì khát mà cơ thể con người Thị đã bị
tàn phá nhanh đến như vậy. Thị chạy đến sưng sỉa trước mặt Tràng “Điêu! người thế
mà điêu”, mới đầu hắn ta chẳng hiểu gì nhưng rồi một lúc cũng ngộ ra rồi mời Thị đi
ăn “thích ăn gì thì ăn”. Thị ta chẳng ngại ngùng gì mà cắm đầu ăn liền một chặp bốn
bát bánh đúc, quả thực lúc này Thị ta nhìn rất trơ trẽn. Người ngoài nhìn vào có người
sẽ khinh bỉ, cho rằng thị ta đang vứt hết cả lòng tự trọng đi để ăn, nhưng cũng sẽ có
những người xót thương, đồng cảm cho một con người đang phải chịu cơn đói hành
hạ. Khi ấy, con người ta chẳng còn bận tâm đến danh dự, hay nhân phẩm gì nữa, ăn no
mới là điều quan trọng trước hết. Đợi đến khi Thị ăn xong, Tràng có nói câu nửa vui
nửa đùa rằng “về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Tưởng Thị sẽ cười chê
mình, nào ngờ Thị về thật, về làm dâu nhà Tràng. Một đám cưới diễn ra.
Việc một con trai lớn lên, xây nhà, cưới vợ là việc quá đỗi bình thường, nhưng nhân
vật Tràng lại là một thanh niên xấu xí, nghèo đói, gia cảnh khó khăn, đặc biệt là dân
ngụ cư nữa nên việc Tràng có được vợ làm rất nhiều người ngạc nhiên. Qua đây, ta đã
thấy được nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo của Kim Lân: vợ đáng lẽ ra
là người ta yêu, qua tìm hiểu, đính ước mà đến với nhau, nhưng ở đây, Tràng ta lại
“nhặt” được vợ theo đúng nghĩa đen và của hồi môn chắc có lẽ chỉ là vài bát bánh đúc
mà thị ta vừa ăn lúc trước.
Việc Tràng có vợ khiến rất nhiều người ngạc nhiên, cụ Tứ – mẹ Tràng cùng tất cả
những người thôn ngụ cư, người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn
ra bàn tán. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa.
Người thì “cười lên rung rúc", người lại lo dùm cho anh ta "Ôi chao! Giời đất này còn
rước cái của nợ dài về". Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.
Người đời cười chê, chế nhạo thế nhưng chẳng làm hai vợ chồng Tràng cảm thấy tủi
nhục, xấu hổ. Cho đến khi dẫn Thị về nhà, cả cụ Tứ lẫn Tràng đều không tin nhà mình có con dâu.
Cụ Tứ vừa vui vừa buồn, vừa cảm thấy thương xót cho con trai mình. Bà vui vì con
trai mình đến tuổi trưởng thành đã cưới được vợ, bà mừng cho hai đứa chúng nó,
nhưng bà cũng buồn, buồn vì gia đình nhà mình quá nghèo. Đám cưới gì mà chẳng có
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
cờ có hoa, không một mâm cỗ, không kèn trống, không người đưa đón, chỉ đơn giản là
đưa dẫn nhau về ở chung, cùng nhau vun vén, xây dựng gia đình. Bước vào căn nhà
lụp xụp mà hai mẹ con Tràng đang ở mà Thị chỉ biết thở dài, bắt tay vào công việc
dọn dẹp. Đến bữa ăn về nhà chồng cũng chỉ là nồi cháo loãng với chút muối trắng,
cuộc sống của ba con người quả thực rất nghèo khổ.
Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người
nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước
thảm họa đói chết. Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết (gia
đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi…).
Không những vậy, nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh phúc và
niềm vui khi nhặt vợ của Tràng; cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với
Tràng…Có thể nói, nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người
lao động nghèo trước thảm họa đau thương, chết chóc.
Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao
động qua hình ảnh của bà cụ Tứ: một người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân
hậu và niềm tin vào cuộc sống và đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm
chất tốt đẹp của con người.
Thông qua tình huống truyện, nhà văn lên án và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp đã đẩy
nhân dân ta vào thảm họa đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã làm cho giá trị con
người trở thành rẻ rúng như rơm như rác: vợ mà nhặt được.
Đúng là một tình huống truyện rất lạ mà Kim Lân đã dựng nên. Nhà văn đã đặt nhân
vật của mình vào một tình huống éo le để làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu
sắc. Ông không chỉ muốn nói lên nét đẹp trong tính cách con người Việt Nam là dù có
ở trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào, lúc nào cũng có thể đối mặt với cái chết
nhưng họ vẫn yêu thương, quan tâm nhau mà ông còn muốn lên án chế độ thực dân
độc ác đã khiến nhân dân ta trở nên nghèo đói, lầm than.
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt - Mẫu 6
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của
dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc
tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là
Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và
cho ra mắt bạn đọc với tựa đề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng tác phẩm
vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo
ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống éo le, trớ trêu chứa đựng đầy kịch
tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.
Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí
làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được
cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa
khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng
tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói
theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ
chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng
trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô
hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.
Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên
và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng.
Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào
cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om,
không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập
tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.
Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự
sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện
to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!
Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn
phở khác thường và người đàn bà đi sau ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo
để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói,
chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài!
Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra
và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói
một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng
muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên
một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi chao! Giời
đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này
không? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.
Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai
mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo:
Kìa nhà tôi nó chào u... thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng
người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương
cho số kiếp đứa con mình... Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về
đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà
không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ
cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn
khoăn: biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn: Trong
kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.
Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt,
không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ
như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không
ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bạn, ấy thế mà thành vợ thành chồng...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nghệ thuật trong việc tạo tình huống truyện Vợ nhặt
Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin là
mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bà bằng
xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.
Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le, trớ trêu, không
biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ,
nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi
không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là người mẹ già lo
và thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chồng Tràng với những chi tiết
thật ấn tượng và chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc rồi tắt.
Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ
tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự
sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực
thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật
của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !
Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn
sâu xa của tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và
chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời
tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc có một không
hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp
tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ.
Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hi
vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên
sức sống lâu dài của tác phẩm.