Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt | Văn mẫu 12
Phân tích giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt của Kim Lân tuyển chọn 9 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Dàn ý giá trị nhân đạo của Vợ nhặt Dàn ý số 1 I. Mở bài
- Giới thiệu chung về truyện ngắn "Vợ nhặt" và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. II. Thân bài
1. Nạn đói khủng khiếp năm 1945
* Trong truyện đã diễn tả với tất cả niềm xót thương thông cảm của tác giả về cảnh bi
thảm của quần chúng lao động trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
a) Cái đói bao trùm khắp nơi và tràn đến cái xóm nghèo của dân ngụ cư.
- Những gia đình từ Nam Định, Thái Bình lũ lượt đội chiếu, dắt díu bồng bế nhau lên,
xám lại như những bóng ma. Buổi sáng nào cũng có vài người chết còng queo bên
đường, toả mùi gây gây của xác chết.
- Toàn bộ câu truyện của Tràng diễn ra trên cái cảnh đói khổ và tang tóc ấy. Cảnh xóm
ngụ cư vào buổi chiều Tràng đưa người vợ theo về; tiếng hờ khóc trong đêm, mùi đốt đống rấm.
b) Tình cảnh của gia đình Tràng
- Tràng: nghèo, không lấy nổi vợ.
- Vợ Tràng: Vì đói mà phải theo không về làm vợ, không có cưới cheo gì.
- Tình cảm xót xa của bữa cơm đón nàng dâu mới (nồi cháo loãng và bát cám).
2. Sự cưu mang, niềm hi vọng của người lao động nghèo khổ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Truyện đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng : mái ấm
gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động nghèo khổ,
sáng lên niềm tin hy vọng của họ.
a) Tình huống Tràng có vợ, “nhặt” được vợ và ý nghĩa
- Thái độ của Tràng từ lúc chỉ coi là chuyện tầm phào đến lúc xem đó là chuyện
nghiêm chỉnh của đời mình (Dẫn và phân tích những lời nói, hành động của Tràng khi
mới gặp người đàn bà và trong cảnh đưa chị ta về nhà).
b) Ánh sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hoành hành
- Cảnh gia đình Tràng, căn nhà, mảnh vườn trong buổi sáng hôm sau.
- Sự biến đổi trong tâm trạng của Tràng, của người vợ nhặt.
- Ý nghĩa và thái độ của bà cụ Tứ, nỗi xót xa, thương cảm và niềm hy vọng của người mẹ.
- Niềm hi vọng của họ về sự đổi thay số phận hướng về cuộc cách mạng.
3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm
- Một tư tưởng nhân đạo hướng về quần chúng lao động, khẳng định phẩm chất và sức sống bền bỉ của họ.
- Niềm tin của tác giả đặt vào những khát vọng bình dị mà chân chính những con
người vẫn muốn sống, vẫn khát khao tình thương và sự gắn bó, việc nương tựa vào
nhau đã cho họ niềm tin để sống.
- Chủ nghĩa nhân đạo của tác phẩm dựa trên sự am hiểu sâu sắc, gắn với đời sống
người nông dân của Kim Lân. Tác giả không tô vẽ, lí tưởng các nhân vật của mình. III. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt Dàn ý số 2 I. Mở bài
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông
thôn, hình tượng người nông dân lao động.
- Vợ Nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân,
miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản
chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. Bởi vậy đây là truyện ngắn giàu giá trị hiện thực và nhân đạo. II. Thân bài
1. Giá trị hiện thực
- Phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám: nạn đói
khủng khiếp khiến bao người phải chịu cảnh sổ sở:
● Con người chịu cảnh tang thương, cuộc sống ngày càng thê thảm: “Người chết
như ngả rạ”, “ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, người sống mặt hốc
hác u tối đi lại dật dờ như những bóng ma, xanh xám như những bóng ma, ...
● Không gian chỉ tòa những tiếng khóc hờ, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết.
● Mùi gây của xác người, mùi ẩm mốc của rác rưởi, mùi khét của những đống rấm.
- Đặc biệt, bữa cháo cám ngày đói nhà anh cu Tràng đã phản ánh cuộc sống thảm hại của con người.
- Con người trong cái đói, cái khổ phải giành giật lấy sự sống cho chính mình: Tràng
ngày ngày kéo xe cực khổ để sống qua ngày, bà cụ Tứ già cả vẫn phải đi làm, ...
- Nhận xét: ranh giới giữa người và ma, giữa sự sống và cái chết rất mong manh.
Không gian xóm ngụ cư không khác biệt nhiều với nghĩa địa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
2. Bộc lộ niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi thảm của những người dân
nghèo trong nạn đói năm 1945
- Cái đói khổ đã khiến cho con người bị rẻ rúng, mất đi giá trị:
● Điển hình là nhân vật người vợ nhặt, vì quá túng quẫn thị không quan tâm đến
danh dự cứ vin vào lời nói đùa của Tràng mà “cong cớn đòi ăn”, còn chấp nhận
theo không Tràng về làm vợ.
● Chính Tràng cũng vậy, vì quá nghèo khổ mà khó có thể lấy vợ, đến khi lấy
được vợ cũng là nhờ hoàn cảnh éo le.
3. Gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta
- “đằng thì chúng bắt nhổ lúa trồng đay, đằng thì chúng bắt đóng thuế”, chúng không
cho nhân dân ta con đường sống, đẩy nhân dân đến bước đường cùng.
- Trong đoạn cuối truyện, khi nghe tiếng trống thúc sưu thuế, bà cụ Tứ cũng tuyệt
vọng kêu lên rằng: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”
4. Trân trọng những khát vọng nhân văn của con người
- Tác phẩm ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người: Một mặt ta thấy người
vợ nhặt như mất nhân cách trong cảnh đói khổ, nhưng mặt khác đó lại là khát vọng
sống mãnh liệt của thị, thị không từ bỏ bất cứ cơ hội nhỏ nhoi nào để được sống tiếp,
ngay cả việc theo không người ta về làm vợ.
- Ta thấy ở Tràng là một khát vọng hạnh phúc chân thành, không phải vì ngờ nghệch
mà anh dẫn người vợ nhặt về, sâu thẳm bên trong là khát khao có một gia đình như
bao người bình thường khác.
- Truyện ngắn còn thấm đẫm vẻ đẹp của lòng thương người: vì tình thương người
chân thành mà Tràng sẵn sàng mời thị ăn dù không dư dả, vì thương người mà bà cụ
Tứ chấp nhận người con dâu được nhặt về dù trong cảnh đói khổ.
- Dù bị đẩy đến bước đường cùng, con người vẫn luôn có niềm tin vào cuộc sống:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
+ Người vợ nhặt nhắc đến cảnh đoàn người phá kho thóc để tạo niềm tin cho bà cụ Tứ
và Tràng, bà cụ Tứ cũng dự tính những chuyện tương lai, khuyên bảo các con
5. Chỉ ra lối thoát để con người hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn
- Từ câu chuyện phá kho thóc mà người vợ nhặt kể và hình ảnh đám người đói, lá cờ
đỏ trong suy nghĩ của Tràng là những dấu hiệu của cuộc cách mạng, khiến người đọc
có thể tin tưởng vợ chồng Tràng sẽ có mặt trong đoàn người vùng lên tổng khởi nghĩa. III. Kết bài
- Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện đặc sắc, miêu tả tâm lí nhân
vật, ngôn ngữ giản dị gần gũi.
- Tác phẩm thẫm đẫm giá trị nhân văn: thể hiện sự cảm thương sâu sắc với số phận
con người trong đói khổ, lên án tố cáo tội ác thực dân phát xít, từ đó sự trân trọng của
tác giả đối với phẩm chất tốt đẹp của con người. Dàn ý số 3 1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
+ Kim Lân (1921-2007) là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền
văn học Việt Nam đương đại.
+ Truyện ngắn Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ
xảy ra nạn đói năm 1945.
– Giới thiệu khái quát giá trị nhân đạo của tác phẩm: “Vợ nhặt” của Kim Lân đã thổi
làn gió mát, đem hi vọng vào tương lai tươi sáng cho người đọc bằng giá trị nhân đạo sâu sắc. 2. Thân bài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
* Khái quát về tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: Vợ nhặt in trong tập Con chó xấu xí, tiền thân là tiểu thuyết
Xóm ngụ cư được Kim Lân viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và
mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), ông dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này.
– Nội dung chính: Truyện ngắn viết về tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta
trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, đồng thời thể hiện bản chất tốt đẹp và sức sống
kì diệu của họ ngay trên bờ vực của chết.
* Luận điểm 1: Xót xa thương cảm với cuộc sống bi thảm của người dân nghèo
trong nạn đói năm 1945.
+) Nạn đói khủng khiếp năm 1945
– Cái đói bao trùm khắp nơi và tràn đến cái xóm nghèo của dân ngụ cư.
– Những gia đình từ Nam Định, Thái Bình lũ lượt đội chiếu, dắt díu bồng bế nhau lên,
xám lại như những bóng ma.
– Buổi sáng nào cũng có vài người chết còng queo bên đường, tỏa mùi gây gây của xác chết.
– Toàn bộ câu chuyện của Tràng diễn ra trên cái cảnh đói khổ và tang tóc ấy: Cảnh
xóm ngụ cư vào buổi chiều Tràng đưa người vợ theo về; tiếng hờ khóc trong đêm, mùi đốt đống rấm.
+) Tình cảnh của gia đình Tràng
– Tràng: nghèo, không lấy nổi vợ.
– Vợ Tràng: Vì đói mà phải theo không về làm vợ, không có cưới cheo gì.
– Tình cảm xót xa của bữa cơm đón nàng dâu mới (nồi cháo loãng và bát cám).
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
+) Sự cưu mang, niềm hi vọng của người lao động nghèo khổ
– Truyện đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng: mái ấm
gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động nghèo khổ,
sáng lên niềm tin hy vọng của họ.
– Tình huống Tràng có vợ, “nhặt” được vợ: Thái độ của Tràng từ lúc chỉ coi là chuyện
tầm phào đến lúc xem đó là chuyện nghiêm chỉnh của đời mình (Dẫn và phân lích
những lời nói, hành động của Tràng khi mới gặp người đàn bà và trong cảnh đưa chị ta về nhà).
– Cái đói khổ đã khiến cho con người bị rẻ rúng, mất đi giá trị:
+ Điển hình là nhân vật người vợ nhặt, vì quá túng quẫn thị không quan tâm đến danh
dự cứ vin vào lời nói đùa của Tràng mà “cong cớn đòi ăn”, còn chấp nhận theo không Tràng về làm vợ.
+ Chính Tràng cũng vậy, vì quá nghèo khổ mà khó có thể lấy vợ, đến khi lấy được vợ
cũng là nhờ hoàn cảnh éo le.
* Luận điểm 2: Gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta
– “đằng thì chúng bắt nhổ lúa trồng đay, đằng thì chúng bắt đóng thuế”, chúng không
cho nhân dân ta con đường sống, đẩy nhân dân đến bước đường cùng.
– Trong đoạn cuối truyện, khi nghe tiếng trống thúc sưu thuế, bà cụ Tứ cũng tuyệt
vọng kêu lên rằng: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”.
* Luận điểm 3: Trân trọng những khát vọng nhân văn của con người
– Ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người: Một mặt ta thấy người vợ nhặt
như mất nhân cách trong cảnh đói khổ, nhưng mặt khác đó lại là khát vọng sống mãnh
liệt của thị, thị không từ bỏ bất cứ cơ hội nhỏ nhoi nào để được sống tiếp, ngay cả việc
theo không người ta về làm vợ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
– Ở Tràng ta thấy có một khát vọng hạnh phúc chân thành, không phải vì ngờ nghệch
mà anh dẫn người vợ nhặt về, sâu thẳm bên trong là khát khao có một gia đình như
bao người bình thường khác.
– Vẻ đẹp của lòng thương người: vì tình thương người chân thành mà Tràng sẵn sàng
mời thị ăn dù không dư dả, vì thương người mà bà cụ Tứ chấp nhận người con dâu
được nhặt về dù trong cảnh đói khổ.
– Dù bị đẩy đến bước đường cùng, con người vẫn luôn có niềm tin vào cuộc sống:
+ Người vợ nhặt nhắc đến cảnh đoàn người phá kho thóc để tạo niềm tin cho bà cụ Tứ
và Tràng, bà cụ Tứ cũng dự tính những chuyện tương lai, khuyên bảo các con.
* Luận điểm 4: Chỉ ra lối thoát để con người hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn.
– Từ câu chuyện phá kho thóc mà người vợ nhặt kể và hình ảnh đám người đói, lá cờ
đỏ trong suy nghĩ của Tràng là những dấu hiệu của cuộc cách mạng, khiến người đọc
có thể tin tưởng vợ chồng Tràng sẽ có mặt trong đoàn người vùng lên tổng khởi nghĩa.
=> Tư tưởng nhân đạo hướng về quần chúng lao động, khẳng định phẩm chất và sức
sống bền bỉ của họ, đặt niềm tin vào những khát vọng bình dị mà chân chính để sống,
khát khao tình thương và sự gắn bó, nương tựa vào nhau đã cho họ niềm tin để sống. 3. Kết bài
– Khái quát giá trị nhân đạo trong truyện Vợ nhặt
– Nêu cảm nhận, đánh giá, nhận xét của bản thân.
Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt - Mẫu 1
Tác phẩm "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân có giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc thông
qua tình huống truyện độc đáo đó chính là tình huống nhặt được vợ. Tác giả cho
chúng ta thấy cuộc sống tối tăm của người dân lao động trong nạn đói lịch sử năm
1945 và những khát khao mãnh liệt của họ. Giá trị nhân đạo là một giá trị tạo nên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
thành công của tác phẩm văn học chân chính. Nó tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc
của tác giả với những nhân vật của mình. Những người nông dân khốn khổ, bần hàn trong cuộc sống.
Tác phẩm bộc lộ rõ những cảm xúc xót xa đối với kiếp người thê thảm trong nạn đói
lịch sử làm chết hai triệu người. Thông qua đó, tác giả muốn tố cáo tội ác của thực dân
Pháp đã gây ra nạn đói này làm cho dân ta khốn khổ. Câu chuyện được viết trong một
xóm ngụ cư, toàn những người dân tứ xứ về ở chung tập hợp thành một xóm ngụ cư
mới, trong sự nghèo khổ đến tận cùng của cảnh vật xung quanh và những nếp nhà lụp
sụp. Trên con đường về xóm ngụ cư ấy ánh sáng hiện lên vô cùng mờ mịt, leo lét
những con người đi lại như những bóng ma. Xác người chết chưa kịp chôn cất nằm
ngổn ngang, bên cạnh những người sống vật vờ không có nơi cư trú, mùi xác thối bốc
lên, rồi từng bầy quạ đến cứ gào lên thê thiết. Bên cạnh đó văng vẳng là tiếng trống
thúc thuế, những đứa trẻ thì ngồi trong những xó đường không buồn nhúc nhích bởi
chúng quá đói và mệt mỏi nên không còn sức lực để vui đùa chạy nhảy nữa.
Trong bối cảnh nghèo đói ấy một người xấu xí như nhân vật Tràng, hai con mắt ti hí,
quai hàm bạnh ra, đường nét thô kệch làm nghề kéo xe thuê, nghèo khó sống cảnh mẹ
góa con côi lại nhặt được vợ. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn còn thể hiện trong lòng
tin sâu sắc vào việc những nhân vật trong tác phẩm tin tưởng vào tương lai, sự đổi đời.
Nhân vật anh cu Tràng tuy có vẻ ngoài xấu xí nhưng tiềm ẩn bên trong là sự cảm
thông biết thương yêu người khác, che chở giúp đỡ người khác trong cảnh khốn khổ.
Trong hoàn cảnh nghèo khó nhưng Tràng vẫn hào phóng đãi thị bốn bát bánh đúc, rồi
lần sau gặp Tràng cũng quan sát người phụ nữ này dường như thị gầy hơn, cái áo rách
tả tơi cắp cái thúng con. Có lẽ từ giây phút đó Tràng đã nổi lên sự trắc ẩn trong lòng,
muốn cho người phụ nữ kia nương tựa vào mình cả hai cùng nương tựa vào nhau, để
cố gắng qua cơn đói khổ này. Đó chính là sự nhân đạo trong con người Tràng. Trong
khi nạn đói đang hoành hành, người chết như ngả rạ, thêm một người là thêm một
miệng ăn, nhưng Tràng vẫn sẵn sàng cưu mang thị, đưa thị về nhà cùng chung sống.
Bà cụ Tứ mẹ của anh cu Tràng cũng là người có tấm lòng nhân văn, nhân đạo. Bà
thương yêu con hết mực. Bà cụ Tứ xuất hiện với dáng người đã già cả lưng còng, mắt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
kèm nhèm, nhìn từ xa bà thấy trong nhà mình có một người phụ nữ bà tưởng mình
trông gà hóa cuốc. Nhưng khi lại gần tới nhà thấy người phụ nữ kia chào mình bằng u,
rồi nghe anh cu Tràng giới thiệu "Đây là nhà con" thì bà cụ Tứ không còn nghi ngờ gì
nữa. Bà thoáng chút thương xót cho số phận của mình và con trai, người ta cưới vợ
trong lúc ăn nên làm ra, còn mình thì cưới nhau trong lúc nghèo đói, túng quẫn.
Nhưng rồi bà lại vui vẻ chấp nhận bà nghĩ rất tích cực "Có gặp hoàn cảnh khốn khó
như lúc này thì người ta mới lấy tới con mình, mà con mình mới có vợ". Bà cụ Tứ
nhìn mọi chuyện vô cùng thấu đáo tích cực. Bà thấy nhiều niềm vui hơn là nỗi buồn
trong việc anh cu Tràng nhặt được vợ trong thời kỳ đói khổ.
Chính người mẹ khốn khổ này đã luôn tạo không khí vui vẻ cho gia đình để con trai
và con dâu của bà vui vẻ mà cố gắng phấn đấu vượt qua thời kỳ đói khổ này. Người
mẹ già khốn khổ ấy luôn miệng động viên con trai con dâu của mình. Không ai giàu
ba họ, không ai khó ba đời, chăm chỉ làm ăn biết đâu nhờ trời thương lại cho khấm
khá. Sáng hôm sau, gia đình anh cu Tràng từ khi lấy vợ đã thay đổi hẳn nhà cửa gọn
gàng, vườn tược được nhổ sạch cỏ, mọi thứ thật sự là một gia đình dù còn nhiều đơn
sơ nghèo khó. Nhưng nó vẫn thể hiện đó là một gia đình, đầm ấm sum vầy. Trong bữa
cơm gia đình, hình ảnh nồi cháo cám đã ám ảnh người đọc vô cùng, nhưng trong mâm
cơm đạm bạc nghèo khổ ấy ai cũng nói tới tương lai, nói tới chuyện vui. Họ cùng
nhau hy vọng vào cuộc sống mới.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm làm nên niềm tin cho những con người lao động nghèo
khổ, khốn khó.. Nó chính là bản năng sống, khát khao được hạnh phúc của mỗi con
người. Nó thể hiện sự nhân văn, nhân đạo của tác giả Kim Lân khi đồng cảm với
người nông dân, nhân vật của mình.
Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt - Mẫu 2
"Vợ nhặt" là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh
cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh
khủng, người chết đói đầy đường.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Truyện ngắn đã phản ảnh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc
của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi
cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện "Vợ nhặt" là giá trị nhân đạo.
Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận
đói năm Ất Dậu - 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim
Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện.
Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập
quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ,
thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: "Ừ thôi thì các con đã phải duyên
phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng". Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ
"Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con
mình mới có vợ được...". Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là "con". Lòng
đầy thương xót, bà nói với hai con: "Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc
này u thương quá...". Qua đó, ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động
nghèo khổ đứng trước tai hoạ, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất
cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: "Ai
giàu ba họ, ai khó ba đời...". Người đọc cảm thấy ngọn đèn "vàng đục" chiếu sáng
trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no.
Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất
trong truyện "Vợ nhặt". Bà cụ Tứ gọi là "chè khoán... ngon đáo để". Bà tự hào nói với
hai con là " xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Trong bữa cháo cám, bà nói
toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng "đầm
ấm hòa hợp" hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thổ có những bữa cơm
nhiều thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ không bao giờ có thể quên được bữa cháo cám
buổi sáng hôm ấy. Vị cháo cám "đắng chát" mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình
thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình
cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ,... mà không
một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh tày?
Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người
dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên:
"Chông vợ hài". Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy "có một cái gì lạ
lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ". Bà cụ Tứ vui sướng vì
con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh "rạng rỡ hẳn lên". Vợ Tràng trở
thành người đàn bà "hiền hậu đúng mực". Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh
ngủ dậy cảm thấy "êm ái lửng lơ". Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau
một ngày một đêm mà hắn "vẫn ngỡ ngàng như không phải".
Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu
dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy
ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mẹ chồng, nàng dâu
mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không
nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thấy
hắn đã "nên người", hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này!
Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn
Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật
chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình "lá cờ đỏ bay phấp phới".
Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện không chỉ tô
đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự
cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.
Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn mằn nhưng đáng quý và đáng
trân trọng biết bao! cổ kim đông tây đã có ai nhặt được vợ? Cái đói do bọn Nhật, Pháp
gây ra đã cướp đi tất cả tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được khẳng
định: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Cái vị
đời ngọt ngào và tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện "Vợ nhặt" mà ta trân trọng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt - Mẫu 3
Một sự thật được khẳng định: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc khao khát sống
mạnh hơn cái chết. Quả thực cái vị đời ngọt ngào và người ấm áp đã tỏa sáng giá trị
nhân đạo truyện Vợ nhặt.
Vợ nhặt là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh
cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đấu đang diễn ra kinh
khủng, người chết đói đầy đường.
Truyện ngắn đã phản ánh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc
của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cái đêm trước khi
cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện Vợ nhặt là giá trị nhân đạo.
Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào về trận đói
năm Ất Dậu - 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.
Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện.
Truyện Vợ nhặt đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, người nghèo trong
trận đói năm Ất Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ
lượt bồng bế dắt díu nhau lên “xanh xám như những bóng ma” nằm ngổn ngang khắp
các lều chợ. Quạ đen đậu trên những ngọn cây bay vù lên “như những đám mây đen”
trên nền trời. Mùi gây của người vẫn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ.
Sáng nào cũng bốn cái thây nằm còng queo bên đường!
Đói và chết đó đâu chi riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà “vắng teo đứng rúm ró” trên
mảnh vườn đầy cỏ dại. Cửa nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn
cả trên giường, dưới đất. cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng “nén một
tiếng thở dài”. Bà cụ Tứ “mặt bủng beo u ám”. Anh cu Tràng “bước mệt mỏi”, cái đầu
“trọng nhẵn chúi về đằng trước’’ với bao lo lắng, chật vật. Đám trẻ con xóm chợ,
trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng "ngồi ủ rũ dưới những có đường không buồn
nhúc nhích”. Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái “ngồi vêu ra”. Đặc biệt nhân
vật “thị”, cái đói đã đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không
quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần “tả tơi như tổ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
đỉa “gầy sọp hẳn đi”, khuôn mặt lưỡi cày “xám xịt”, chỉ còn thấy hai con mắt. Con
đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chỉ
nghe Tràng nói “muốn ăn gì thì ăn”, thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe “rích bố cu”, hai
con mắt “trũng hoáy” của thị tức thì “sáng lên".Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn
bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị
đang đói, Thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất
nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.
Cái xóm ngư cụ càng về chiều “càng xơ xác, heo hút”, nhà cửa “úp súp,tối om”,
nhưng khuôn mặt “hốc hác u tối”. Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi
cháo cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể “nhặt” được. Thị lấy
chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có quan tám tiền cheo, quan năm
tiền cưới, lại đèo buồng cau”. Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới
“khép nép”, “cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Tối tân hôn “tiếng khóc tỉ
tê” của những gia đình có người mới chết đó vọng đến thê thiết não nùng. Sáng tinh
mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi “dồn dập, vội vã”. Bằng những chi tiết rất
hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo âu cho số phận
của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý hơn
nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của
Nhật - Pháp, bắt trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận
đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Truyện Vợ nhặt đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con người.
Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt được vợ và
những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu “tầm phơ tầm phào”, Tràng
đãi thị bốn bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợ! Nhặt được vợ nhưng hắn cùng phải
liều: “Chặc, kệ!”. Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn “đèo bòng". Trên
đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ
trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi
bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng “phởn phơ khác thường". Hắn “tủm tỉm
cười nụ”. Hai mắt “sáng lên lấp lánh”, có lúc cái mặt hắn “cứ vênh lên tự đắc với mình”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông “hay đáo để”. Tràng khoe hai hào dầu, rồi
cười hì hì, bị thị “phát đánh đét” vào lưng với câu mắng yêu: “Khỉ gió", nghểnh cổ
thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Những tình
tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.
Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập
quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ,
thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: “ừ thôi thì các con đã phải duyên
phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng". Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ
“Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, mới lấy đến con mình, mà con mình
mới có vợ được...”. Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là “con”. Lòng đầy
thương xót, bà nói với hai con: năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u
thương quá. Qua đó ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ
đứng trước tai họa, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau
để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: “Ai giàu ba
họ, ai khó ba đời...”. Người đọc cảm thấy ngọn đèn “vàng đục” chiếu sáng trong mái
lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hy vọng và hạnh phúc ấm no.
Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất
trong truyện Vợ nhặt. Bà cụ Tứ gọi là “chè khoán... ngon đáo để”. Bà tự hào nói với
hai con là “xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Trong bữa cháo cám, bà nói
toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cái gia đinh mẹ con vô cùng “đầm
ấm hòa hợp” hạnh phúc. Sau này, vợ chồng cái Tràng có thể có những bữa cơm nhiều
thịt cá ngon lành hơn, nhưng không bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng
hôm ấy. Vị cháo “đắng chát” mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ.
Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ông
đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cảm nhận
được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ., mà không một cao lương mĩ vị nào có thể sánh được?
Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đời của người dân
cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ tinh nghịch reo lên: “chông vợ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
hài”. Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm cảm thấy “có một cái gì lạ lùng và tươi mát
thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”. Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ,
bà như trẻ lại, nhẹ nhõm tươi tỉnh “rạng rỡ hẳn lên”. Vợ Tràng trở thành người đàn bà
“hiền hậu đúng mực”. Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy
lửng lơ". Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn
“vẫn ngỡ ngàng như không phải”.
Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu
dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang được kín nước đầy ăm
ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con
trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến
cái chết mà hướng về sự sống về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thấy hắn đã
“nên người”, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này!
Một chi tiết, rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn
Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật
chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình “lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ truyện Vợ nhặt không
chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như
một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.
Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn màng nhưng quý và đáng trân
trọng biết bao! Cổ kim đông tây đã có ai nhặt được vợ? Cái đói do bọn Nhật Pháp gây
ra đã cướp đi tất cả, tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được khẳng định:
niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc khao khát sống mạnh hơn cái chết. Quả thực
cái vị đời ngọt ngào và người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện Vợ nhặt.
Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt - Mẫu 4
“Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của văn học Việt
Nam sau năm 1975. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Truyện “Vợ
nhặt” có giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Thông qua tình huống “nhặt vợ”
tác giả đã cho ta thấy nhiều điều về cuộc sống tối tăm của những người lao động trong
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
nạn đói năm 1945 cũng như khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về nhân phẩm rất cao ở họ.
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được
tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân
trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng trỗi dậy ở họ.
Trước hết tác phẩm bộc lộ niềm xót xa đối với cuộc sống thê thảm của người dân
nghèo trong nạn đói năm 1945. Qua đó tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp và phát
xít Nhật đã gây ra nạn đói. Bối cảnh chính của truyện “vợ nhặt” diễn ra ở một xóm
ngụ cư, ở đó cái đói đang hành hạ mọi người, cái đói thấm đến tận cái nhìn vào cảnh
vật. Con đường từ trong xóm chợ vào trong bến thì “khẳng khiu”, cái thứ ánh sáng
đầu tiên hắt vào truyện là thứ ánh sáng nhập nhoạng mù mờ, không ra ánh sáng mà
cũng không ra tối hẳn của buổi chiều tà “chạng vạng”. Trên con đường và thứ ánh
sáng leo lét ấy hiện lên vật vờ ủ rũ những bóng người đói “xanh xám như những bóng
ma”. Người sống nằm ngổn ngang khắp lều chợ, ngay cạnh là những “cái thây nằm
còng queo bên đường”. Trên ngọn cây là hình ảnh bầy quạ “cứ gào lên từng hồi thê
thiết”, văng vẳng bên tai là tiếng trống thúc thuế dồn dập, những đứa trẻ thì ngồi ở xó
đường, không buồn nhúc nhích…một cuộc sống mấp mé bên bờ cái chết với cái
không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
Thứ hai, tác phẩm đi sâu khám phá và trân trọng nâng niu khát vọng hạnh phúc, khát
vọng sống của con người, trước hết là Tràng. Khi nhặt được vợ về Tràng không phải
không biết “chọn”, “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không
lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi anh ta “tặc lưỡi”: “Chậc, Kệ!”. Sau tiếng đó mọi sự đùa
cợt lập tức khép lại nhường chỗ cho sự nghiêm trang và anh ta đã được đền bù:
“Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề […], một cái gì đó
mới mẻ, lạ lẫm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp mơn man
khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. Cuộc đời cùng
khốn đến mức việc mua có hai hào dầu cũng là cái gì đó hoang phí lắm “hai hào đất,
đắt quá”, “vợ mới vợ miếc thì cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chẳng nhẽ chưa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
tối đã súc ngay vào”. Hôm nay là một ngày khác hẳn, một sự kiện của đời Tràng, ngày
Tràng có vợ và nhà cần phải sáng.
Tiếp đó là ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở nhân vật người vợ nhặt. Thị chấp
nhận bỏ qua ý thức về danh dự để theo không Tràng. Như vậy hoàn cảnh bi đát một
mặt đẩy con người vào chỗ quên cả danh dự để tồn tại, mặt khác nó lại làm bộc lộ
lòng ham sống mãnh liệt của những con người ở dưới đáy xã hội như thị. Tất cả mọi
người đều có ý thức vun đắp cho cuộc sống mới. Ngẫm nghĩ về nhân vật bà cụ Tứ ta
còn thấy hóa ra chính bà lão gần đất xa trời này lại là người nói đến hy vọng đến ngày
mai nhiều hơn tất cả: từ việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con cho
kín đáo, truyện “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà”… “Mẹ chồng nàng dâu thu dọn
cửa nhà, sáng hôm sau Thị dậy từ sớm quét dọn nhà cửa cho ngăn nắp, gọn gàng”
hình như ai nấy đều nghĩ rằng “thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời
họ có thể sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Qua tác phẩm ta còn thấy niềm hy
vọng về một cuộc đổi đời của các nhân vật được thể hiện qua hình ảnh lá cờ đỏ bay
phấp phới vấn vương trong tâm trí Tràng.
Giá trị nhân đạo của truyện còn được thể hiện ở lòng tin sâu sắc vào sự đổi đời, vào
lòng nhân hậu của con người. Tràng tuy có vẻ bề ngoài xấu xí nhưng cái đẹp tiềm ẩn
bên trong của Tràng đó là sự cảm thông, lòng thương người, sự hào phóng chu đáo,
Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc, mua một chai dầu và mua cho thị một cái thúng con,
đó là hành động rất bình thường nhưng nó thể hiện tình nghĩa và thái độ trách nhiệm
của Tràng. Còn về người “vợ nhặt” thì đã có sự biến đổi về tính cách, trước khi về làm
vợ Tràng, thi hiện lên với một vẻ chao chát, chỏng lỏn. Trước câu hò của Tràng thị
cong cớn nói “có khối cơm trắng mấy giò đấy”, lần thứ hai gặp Tràng thị sưng sỉa nói:
“Điêu! Người thế mà điêu”…Nhưng người đàn bà ấy sau khi về làm vợ Tràng đã thay
đổi, vẻ chao chát chỏng lỏn ban đầu biến mất, thay vào đó là sự hiền hậu đúng mực,
sự ý tứ trong cách cư xử: Thị đi theo Tràng với dáng điệu đầu hơi cúi xuống, cái nón
rách tang, nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt, khi về đến nhà thị chỉ dám ngồi
mớm ở mép giường. Sáng hôm sau dậy từ sớm quét dọn nhà cửa…. Còn về bà cụ Tứ,
bà thương con hết mực, cảm thông cho tình cảnh của nàng dâu mới “có gặp bước khó
khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”, bà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
ân cần trong cách hành động với con dâu “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ
mỏi chân”. Bà luôn trăn trở về nghĩa vụ làm mẹ của mình “chao ôi, người ta dựng vợ
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi…còn mình thì”, trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. Bà luôn cố tạo niềm vui cho gia đình giữa
cảnh sống thê thảm. Người mẹ ấy sống vì con và tìm thấy ý nghĩa của đời mình trong
sự chăm lo vun vén cho con.
Nổi bật nhất trong giá trị nhân đạo của tác phẩm đó là niềm tin tưởng sâu sắc vào con
người lao động, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân
đạo của tác phẩm có nét mới mẻ hơn so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong
nhiều tác phẩm văn học hiện thực trước cách mạng.
Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt - Mẫu 5
Kim Lân là một cây bút truyện ngắn nổi tiếng trong nền văn xuôi Việt Nam. Trong
các sáng tác của ông, người ta có thể tìm thấy giá trị hiện thực đậm nét, những lời tố
cáo đanh thép nhưng có lẽ giá trị lớn nhất, cao nhất là giá trị nhân đạo. Từ bóng tối
hoàn cảnh, Kim Lân muốn làm toả sáng chất thơ của hồn người. Ánh sáng tình người
tỏa ra hào quang đặc biệt của chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc và cảm động. Giá trị nhân
đạo xuyên suốt các tác phẩm của Kim Lân và có thể nhận thấy rõ nhất trong truyện
ngắn “Vợ nhặt” . Kim Lân khi nói về tác phẩm này đã cho biết: “Khi viết về nạn đói
người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói
người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một
truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng
những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng,
tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính thể hiện
ở nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau. Song nhìn chung, giá trị nhân đạo trong
văn chương bắt nguồn từ thái độ thương yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của
con người, sự đồng cảm với những đau khổ cũng như ngợi ca, đề cao những khát vọng
của con người, bên cạnh đó cũng là tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực áp bức, bóc
lột người lao động. “Vợ nhặt” của Kim Lân là một truyện ngắn mang đậm giá trị nhân
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
đạo, nhân văn sâu sắc bởi sự xót thương của Kim Lân dành cho những số phận bất
hạnh, sự trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cũng như niềm khát khao hạnh phúc, hướng tới
tương lai của những con người dưới đáy xã hội.
Đến với “Vợ nhặt”, có lẽ ấn tượng đầu tiên, ngay lập tức tác động đến độc giả là cảnh
ngộ, số phận bi thảm của con người trong nạn đói. Kim Lân đã viết về cái đói bằng cả
trái tim yêu thương, xót xa dành cho những kiếp người nhỏ bé, đáng thương mà nổi
bật lên là các nhân vật bà cụ Tứ, anh cu Tràng và người vợ nhặt. Cả ba nhân vật đều là
nạn nhân của cơn bão táp đói khát khủng khiếp, họ bị quăng quật, vùi dập đến biến
dạng nhân hình và nhân tính.
Nhân vật Tràng là một người nông dân nghèo sống cùng mẹ già ở xóm ngụ cư – thời
đó xóm ngụ cư bị xem là xóm của những kẻ ăn nhờ ở đậu và rất bị coi thường. Anh ở
trong một túp lều xiêu vẹo trên một mảnh vườn mọc toàn cỏ dại và mưu sinh bằng
việc đẩy xe bò thuê. Tràng còn là một thanh niên xấu xí được miêu tả với hai con mắt
nhỏ tí, lúc nào cũng gà gà đăm đắm như nhìn vào bóng chiều, thân hình to lớn, vập
vạp, thô kệch , cái lưng thì rộng như lưng gấu, cái đầu trọc nhẵn… Không những thế,
Tràng còn có cái tật vừa đi vừa nói lảm nhảm, than thở điều anh ta nghĩ. Điều này cho
chúng ta thấy Tràng còn là một người ngờ nghệch và ngốc nghếch, thậm chí có phần
dở hơi nữa. Nhân vật Tràng, dưới ngòi bút của Kim Lân, giống như một sản phẩm lỗi
của tạo hóa… Đến đây Kim Lân hoàn toàn cho ta thấy anh cu Tràng là một trong
những con người nghèo khổ và thuộc lớp người đáy cùng của xã hội thời bấy giờ.
Bà cụ Tứ, mẹ Tràng là người phụ nữ cao tuổi, khuôn mặt bủng beo, u ám, mắt kèm
nhèm, bước đi lọng khọng. Lẽ ra ở cái tuổi gần đất xa trời ấy bà lão phải được hưởng
hạnh phúc an nhàn bên con cháu. Thế nhưng, nạn đói có trừ ai. Bà vẫn phải còng lưng
mang gánh mưu sinh, lo từng bữa rau bữa cháo. Hơn thế nữa, bà cụ luôn bị dằn vặt vì
giữa năm đói khát, bà không làm tròn trách nhiệm của người mẹ, không lo được đầy
đủ cho con, để con phải lấy vợ theo cái cách đầy mỉa mai, chua chát – nhặt vợ. Cả thể
xác lẫn tâm hồn người mẹ nghèo đều vì cái đói mà trở nên mòn mỏi, đau xót.
Đói, ai cũng khổ. Giọt nước mắt xót thương của Kim Lân là giành cho tất cả những
con người của năm đói. Nhưng có lẽ, đến nhân vật người vợ nhặt chúng ta mới thấy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
hết sức tàn phá khủng khiếp của nạn đói đến nhân hình, nhân tính con người. Ở nhân
vật này, cái đói hiện hình “trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con
mắt”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “thị gầy sọp hẳn đi”. Không những thế, cái đói cũng
làm thị quên hết sự ý nhị, duyên dáng của người phụ nữ. Thị chao chát, chỏng lỏn và
vô duyên. Thậm chí, chỉ dựa vào vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc của Tràng, thị
sẵn sàng theo không về làm vợ người. Nhưng, dưới ngòi bút Kim Lân, thị đáng
thương nhiều hơn đáng trách. Nếu không bởi cái đói, cái chết dồn ép đến bước đường
cùng, làm sao Thị phải bán đi tự trọng, bán đi nhân phẩm mình một cách rẻ rúng, vô sỉ như thế?
Bên cạnh tình cảm xót thương, đồng cảm cho số phận của những con người khốn cùng
trong nạn đói, giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt” còn được thể hiện qua thái
độ trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người, đó là lòng nhân ái, tình
yêu thương giữa những người cùng khổ.
Đầu tiên là nhân vật Tràng. Khi đẩy xe bò thuê, thấy người đàn bà đói thì Tràng cho
ăn, dù anh ta chẳng có dư giả gì. Trong nạn đói miếng ăn là cả vấn đề sinh mạng nên
hành động có vẻ ngẫu hứng đó của Tràng là một nghĩa cử cao đẹp. Sau đó, chỉ bằng
vài câu nói đùa, người đàn bà theo về làm vợ, Tràng cũng chấp nhận dù anh ta cũng
hơi sợ. Tâm tư, tình cảm của Tràng đặt trong tình cảnh này thật đáng quý, đáng trân
trọng. Tấm lòng cao quý của con người còn được thể hiện qua nhân vật bà cụ Tứ.
Việc Tràng lấy vợ làm bà ngạc nhiên đến sững sờ, nhưng nghĩ lại bà hiểu ra biết bao
cơ sự. Bà thương cho số kiếp nghèo, bèo bọt, thua thiệt của con trai vì nghèo không ai
lấy nên mới phải nhặt vợ. Bà dằn vặt vì không tròn bổn phận làm cha, làm mẹ để con
rơi vào hoàn cảnh chua xót. Thương con bao nhiêu, bà cụ thương người bấy nhiêu. Bà
nhìn người đàn bà xa lạ với ánh mắt ái ngại, cảm thông và ý nghĩ xuất phát từ tấm
lòng bao dung, nhân hậu: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới
lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…” Thế nên bà cụ sẵn sàng cưu
mang, chấp nhận nàng dâu mới. Còn người vợ nhặt, dù bị nạn đói vùi dập đến mất hết
cả tự trọng thì khi trở thành người thân trong gia đình Tràng, ở thị lại toát ra vẻ đẹp
của người vợ hiền, dâu thảo. Thị cũng ngại ngùng, e thẹn như bao thiếu nữ ngày đầu
về nhà chồng. Về đến nhà Tràng, thị chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, tay vân vê tà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
áo. Dưới bàn tay vun vén, đảm đang của thị, cuộc sống nghèo khổ, u ám của mẹ con
Tràng trở nên tươi sáng hơn. Nhà cửa, sân vườn được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn
gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã
đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm
ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch. Chính Tràng cũng nhận thấy thị
“rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn”
như trước nữa. Như vậy, qua nhân vật Tràng, cụ Tứ và người vợ nhặt, Kim Lân đã ca
ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động Việt Nam. Họ luôn sống nhân ái, giàu tình
cảm, trong hoạn nạn đã nhường cơm sẻ áo, cưu mang đùm bọc nhau. Và có lẽ, chính
nhờ tình thương ấy sẽ giúp cuộc sống của họ trở nên tươi sáng, tốt đẹp hơn!
Có ai đó đã từng nói rằng: “Đói nghèo, đau đớn hay bệnh tật có thể cướp đi sinh mệnh
nhưng bạn sẽ thực sự chết khi không còn niềm tin và khát vọng sống”. Với Kim Lân,
để nhân vật của mình có thể đi tới tương lai tốt đẹp, ông không chỉ trao cho họ tình
yêu thương mà lớn lao hơn là khát vọng sống, khát vọng tình yêu mãnh liệt.
Đối với nhân vật Tràng, khi anh ta dang tay cưu mang người đàn bà giữa cơn đói
khủng khiếp, ở đó không chỉ có tình người, tấm lòng sẵn sàng sẻ chia bất hạnh mà
tiềm ẩn cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu và hạnh phúc gia đình. Với một anh
chàng vừa xấu xí, thô kệch lại vừa nghèo đói và dở hơi thì việc lấy được vợ là không
thể hi vọng. Cưu mang người đàn bà cũng chính là tự tìm cho mình tình yêu và hạnh
phúc tương lai với một mái ấm gia đình “cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như
cái tổ ấm che mưa che nắng.”. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc biến Tràng từ
người đàn ông ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn trở thành người đàn ông có trách nhiệm,
một người con có hiếu. “Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn
thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Không chỉ vậy, khát vọng hạnh
phúc, tương lai đã thôi thúc Tràng nghĩ đến việc tự đứng dậy tìm đường sống cho
mình, vực dậy hoàn cảnh khốn cùng hiện tại. Trong đầu óc anh ta bắt đầu nghĩ đến
đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Có lẽ, Tràng cũng sẽ đi cướp kho thóc Nhật,
phá tan xiềng xích nô lệ. Tràng tin tưởng rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và
cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Không chỉ Tràng, người vợ nhặt của Kim Lân cũng mang khát vọng sống đáng trân
trọng. Giữa cái đói bủa vây, đe dọa tính mạng, thị đã không ngần ngại bỏ qua lòng tự
trọng của bản thân, xin vào vài câu nói đùa để theo không người đàn ông xa lạ về làm
vợ. Kim Lân đã chứng minh, thị vốn không phải người chao chát, chỏng lỏn, vô liêm
sỉ như vậy. Tất cả bắt nguồn từ khát vọng được sống mà thôi. Cũng chính sự xuất hiện
của thị đã đem đến ánh sáng cho cuộc sống u tối của những người dân nghèo xóm ngụ
cư, cho mẹ con Tràng. Nguồn sinh khí ấy có được xuất phát từ một con người có ước
vọng cao cả vào sự sống, tương lai.
Khi nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh phúc…ta dễ nghĩ đến những
người trẻ tuổi. Nhưng thật kì lạ, trong “Vợ nhặt”, chính người già nhất, “gần đất xa
trời” nhất trong tác phẩm lại là người nói nhiều đến hi vọng và ngày mai hơn cả. Đó là
nhân vật bà cụ Tứ. Bà muốn gieo vào lòng các con niềm lạc quan, tin tưởng và tương
lai. Đầu tiên là hành động thúc giục Tràng thắp đèn. Ánh sáng thắp lên làm lan tỏa ánh
sáng tình người, niềm vui hạnh phúc giữa khung cảnh bi thảm, tang thương. Nhưng
hơn thế, bà cụ chính là đang động viên các con nhen nhóm trong lòng ánh sáng của tin
và hy vọng. Đọc tác phẩm, có lẽ chúng ta sẽ không thể nào quên bữa cơm ngày đói
của gia đình bà cụ Tứ. Thế nhưng, nói về cái món “chè khoán” đắng chát và nghẹn ứ
cổ họng bà cụ vẫn “tươi cười, đon đả”. Thực chất, bà sao không hiểu cái thảm đạm
của bữa ăn này. Nhưng trong cảnh đói nghèo, bà còn có thể làm gì hơn được. Bà cụ
chỉ đang cố đè nén lại mọi uất ức, tủi hờn cho một kiếp sống để mà vui mà mừng,
tránh cho các con nghĩ tới những điều đau khổ, tuyệt vọng. Trong cảnh xã hội đang
chết đói, có được một bữa ăn thì dù đó là cháo cám cũng là niềm hạnh phúc đáng quý
mà bà mẹ muốn giành cho các con. Tiếng cười của bà cụ như bóp nghẹt trái tim độc
giả, xót xa và đáng thương biết bao. Không chỉ vậy, bà còn vẽ ra trước mắt các con
viễn cảnh tương lai tươi sáng, bắt đầu từ những việc bình dị nhất, thiết thực nhất với
gà, lợn, ruộng vườn…khiến các con tin tưởng nó không quá xa vời. Xa hơn nữa, là
một ước mơ có phần đau đớn về ngày mai, “rồi may ông giời cho khá. Biết thế nào hở
con? Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Bà cụ Tứ dùng một triết lý dân gian
đúc kết kinh nghiệm cha ông truyền lại để nhắc nhở với các con và khẳng định các
con bà hoàn toàn có quyền tin tưởng vào ngày mai hạnh phúc, đủ đầy. Bà cụ không
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
chỉ ước ao, hi vọng cho bà. Bà tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình trong sự vun vén cho
con, ước mơ cho con cháu sau này. Có thể người ta sẽ nói bà cụ viển vông, hão huyền.
Bởi lẽ, trong cái thời người chết đói đầy đường, đến cháo cám mà “trong xóm cũng
khối nhà chả có cám mà mà ăn” thì những hi vọng của bà lão thật phi thực tế. Nhưng,
chúng ta không thể không thừa nhận, trong mọi trường hợp, niềm tin luôn tồn tại như
một sức mạnh vô hình khiến con người vượt qua tất cả. Chính những niềm tin bà cụ
Tứ đã gieo vào lòng các con đã đem đến cho gia đình khốn khổ ấy một sự “thay đổi mới mẻ và khác lạ”.
Những mảnh đời nghèo khó đến với nhau, cùng chắp lại thành một cuộc đời ấm áp,
nhen nhóm hy vọng. Giá trị nhân đạo của “Vợ nhặt” không chỉ được biểu hiện trực
tiếp qua tâm trạng nhân vật mà còn được gián tiếp bộc lộ qua bố cục câu chuyện. Thời
gian trong truyện vận động theo chiều hướng bắt đầu đi từ chiều tàn chạng vạng, đêm
tối tới ánh sáng từ “tuyệt vọng” tới “hy vọng”, từ “một ngọn đèn” hiếm hoi được khêu
lên đến hình ảnh “lá cờ đỏ” phấp phới trong trí nhớ của Tràng. Đó là những dấu hiệu
tích cực, là sự tin tưởng vào khả năng thay đổi cuộc sống, hoàn cảnh của nhà văn và
nhân vật. Một nhân cách, một khát vọng và một sự chuẩn bị cho tương lai yên ổn chắc
chắn sẽ khiến mỗi người tự tin hơn. Và, ta thấy đâu đó, ở cuối truyện, thông qua hình
ảnh lá cờ đỏ phấp phới và đoàn người đói đi trên đê, một tương lai tươi sáng đang đến rất gần!
Như vậy, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã chứng minh giá trị nhân đạo nhân đạo sâu sắc của
ngòi bút Kim Lân. Giá trị nhân đạo không chỉ dừng lại ở sự đồng cảm thương yêu con
người, sự trân trọng phẩm chất tốt đẹp của con người mà nhà văn còn bộc lộ sự chống
lại chế độ xã hội phát xít thực dân đã bóp nghẹt cuộc sống của con người, đẩy những
người dân nghèo chất phác, lương thiện tới bước đường cùng. Đặc biệt hơn, giá trị
nhân đạo của “Vợ nhặt” không dừng lại ở tư tưởng xáo rỗng mà thiết thực hơn, Kim
lân đã chỉ ra cho những người nông dân giải pháp để vượt qua hoàn cảnh khốn cùng.
Đó chính là đấu tranh chống lại chế độ xã hội, đòi quyền con người, tự mình đi tìm tương lai cho chính mình!
Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt - Mẫu 6
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Nhà văn Kim Lân (sinh năm 1920), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, người làng Phù
Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân viết không nhiều, nhưng
được coi là thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện
đại. Ông rất sành về cảnh quê, người quê và thế giới của hương đồng gió nội này cộng
với một tấm lòng thiết tha hiếm có đã tạo nên những trang viết sâu sắc, cảm động nhất của ông.
Con người có một đời văn hóa khá dài ấy (trên năm mươi năm) không hiểu kĩ tính thế
nào mới trình làng vẻn vẹn có hai tập truyện ngắn: Nên vợ nên chồng (1955) và Con
chó xấu xí (1962). Nhưng nghệ thuật không quen đo đếm ở số lượng. Chỉ một truyện
như Vợ nhặt (rút từ tập Con chó xấu xí) - vốn được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất
của Kim Lân - cũng có thể là niềm mơ ước của nhiều người cầm bút. Thiên truyện có
một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn
tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, do đơn đặt hàng
của báo Văn nghệ, Kim Lân mới viết lại. Riêng điều đó thôi đã thấy Vợ nhặt mang
dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim lân muốn bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc
của mình. Ấy là khi nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự
túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái
chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai.
Không phải ngẫu nhiên. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện về cái đói. Chỉ mấy chữ
"Cái đói đã tràn đến..." đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho người xứ Việt về một
hiểm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất nước
này. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy "tràn đến", tức là mạnh như thác dữ.
Cách tả của nhà văn càng gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con người
năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung người năm đói "khuôn mặt hốc
hác u tối", nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ông so sánh người với ma: "Những gia
đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên
xanh xám như những bóng ma", và "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
những bóng ma". Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái
thời ghê rợn: đó là cái thời mà ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ
mong manh như sợi tóc, cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ.
Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ "gào
lên từng hồi thê thiết" cùng với "mùi gây của xác người" càng tô đậm cảm giác tang
tóc thê lương. Quả là cái đói đã lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng
khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo.
Chao ôi, toàn những chuyện cười ra nước mắt: bốn bát bánh đúc ngày đói mà làm nên
một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ tân hôn... Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân
không né tránh mà săn đuổi hiện thực đến đáy, tạo cho thiên truyện một cái "phông"
đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm, tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã.
Nhưng quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng lên một bản cáo trạng trong
Vợ nhặt , mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ trong bóng tối của hoàn cảnh Kim
Lân muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện
thực buồn đau là một phép đòn bẩy cho mảng sáng của tình người tỏa ra ánh hào
quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động. Trong văn chương
người ta thường nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu cái tài không đạt đến một
mức nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc lộ ra được. Ở Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng thiết
tha của Kim Lân sở dĩ lay động người đọc trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau đó là tài dẫn truyện.
Tài dựng truyện ở đây là tài tạo nên một tình huống độc đáo. Ngay cái nhan đề Vợ
nhặt đã bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài trả lời phỏng vấn, Kim Lân
hào hứng giải thích:"nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945,
người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống
xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có
thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ - đúng là "nhặt" được vợ như
tôi nói trong truyện". Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt).
Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động "nhặt" kia
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy
được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ.
Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ - mẹ Tràng
và chính bản thân Tràng nữa: "đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế.
Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?". Tình huống trên gợi ra một trạng thái tinh tế của lòng
người: trạng thái chông chênh khó nói - cái gì cũng chập chờn, như có, như không.
Đây là niềm vui hay buồn? Nụ cười hay nước mắt?... Cái thế đặc biệt của tâm trạng
này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca.
Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm ngòi pháo. Có
lửa tốt, châm đúng người nhưng dây pháo có nhiều quả điếc thì vẫn cứ xịt như thường.
Cho nên tài dựng truyện, phải gắn với tài dẫn truyện mới tạo sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài
dẫn truyện của Kim Lân thể hiện qua lối sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành
công, qua lời văn áp sát vào tận cái lõi của đời thực khiến mỗi câu chữ như được
"bứng" ra từ chính cái chất liệu ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan trọng nhất vẫn là
ở bút pháp hiện thực tâm lí. Phải nói, tình huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim
Lân trong việc khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý
là hai trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lí trước một tình
thế như nhau, song không ai giống ai.
Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, có ai ngờ lại là một chàng trai thực sự hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng. Cơn say hạnh
phúc thăng hoa trong tâm linh, khiến Tràng mất trọng lượng, lơ lửng trong cõi ảo, cõi
mơ. Ngòi bút thực của Kim Lân từng tỉnh thế, bây giờ ngòi bút trữ tình của ông cũng
sao mà say thế. Nói đúng hơn, nhà văn phải đứng giữa cái say/tỉnh ấy mới "cảm thụ"
tới tận đáy cuộc đời, mới tạo ra được những áng "thần bút" như văn Kim Lân trong
"Vợ nhặt". Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm
vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình - một niềm vui giản dị
nhưng lớn lao không gì sánh nổi. Chẳng thế mà một người nổi tiếng như Secnưsepxki
từng mơ ước: "Tôi sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng trong một căn phòng
nhỏ ấm áp nào đó, có một người đàn bà đang ngóng đợi tôi về bữa ăn tối".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Chàng thanh niên nghèo khó của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm vui như thế:
"Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có
một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa
che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng". Một niềm
vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều này thì anh Tràng của Kim
Lân may mắn hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn trong tay
Tràng.Còn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội đen tối cướp
mất. Có một chi tiết rất đắc của Kim Lân: "Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng
muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà".
So với cái dáng "ngật ngưỡng" mở đầu tác phẩm, hành động "xăm xăm" này của
Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách
của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý
thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy nghĩ của Tràng
một ý thức bổn phận sâu sắc: "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có
bổn phận lo lắng cho vợ con sau này". Tràng thật sự "phục sinh tâm hồn" đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
Bình luận truyện Vợ nhặt, không hiểu sao có một câu rất quan trọng của Kim Lân mà
nhiều người hay bỏ qua. Đó là câu kết truyện "Trong óc Tràng vẫn thấy đám người
đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Một câu kết như thế, chứa đựng bao sức nặng về
nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật
mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay
của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn
1930 - 1945 không nhìn thấy được. Số phận con người trong văn học hiện thực đồng
nghĩa với bế tắc. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải
quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.
Quá trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở đứa con trai,
niềm vui làm chủ, tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp với một chàng rễ
trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động theo kiểu gấp khúc hợp
với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Cũng như con trai, khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh con trai ngỡ ngàng
trước một cái đã biết, còn bà mẹ ngỡ ngàng trước một cái dường như không hiểu
được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ.
Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi
vấn: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng
ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con
cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Rồi lại:"Ô hay, thế là thế nào nhỉ?". Trái tim người mẹ có
con trai vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho nhân vật người
mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút "kịch" trong ngòi bút Kim Lân
chăng? Không, nhà văn của đồng nội vốn không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau của
người viết: chính là sự cùng quẫn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đó.
Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì bà cụ Tứ, sự vận động tâm lý
phức tạp hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão"cúi đầu nín lặng". Sự nín lặng đầy
nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo, thương lẫn lộn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu
mới bao dung làm sao: "... chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?". Trong chữ "chúng nó" người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu.
Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng
sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn
con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần phơi phới.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt.
Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ
đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của
con..., để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:"chúng
mày lấy nhau lúc này, u thương quá..." Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui
của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra
từ... nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: "chè đây - Bà lão múc ra một bát - chè
khoán đây, ngon đáo để cơ". Chữ "ngon"này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh
thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào.
Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất
kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống
cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim
Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội
nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ".
Thành công của nhà văn là thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lí khá
tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt. Biết vượt lên hoàn cảnh vẫn là
một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy tạo nên
nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm. Thông điệp của Kim Lân là
một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. Trong tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tôi thế
đấy, nhà văn Nga Nhicôlai Ôxtrôpxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm
nghĩ: "Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa". Vợ
nhặt là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ đã "biết sống" như con người
ngay giữa thời túng đói quay quắt.
Thông điệp này đã được Kim Lân chuyển hóa thành một thiên truyện ngắn xuất sắc
với cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí
tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt - Mẫu 7
Năm 1945 đã trở thành dấu ấn lịch sử không thể phai mờ đối với mỗi con người Việt
Nam, thời điểm đó không chỉ đánh dấu sự huy hoàng của thắng lợi Việt Nam đánh đổ
phát xít, thực dân và lật đổ chế độ phong kiến 1000 năm. Đưa nước ta trở thành một
nước tự do dân chủ. Đó còn là giai đoạn ghi nhận những đau thương mất mát của dân
tộc ta dưới họa xâm lăng. Sự bóc lột dã man tàn bạo của bọn phát xít thực dân và bọn
phong kiến tay sai đã đẩy hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trong hoàn cảnh ấy
nhà văn Kim Lân đã dựng lên một tình huống nhặt được vợ. Tình huống ấy vừa để tố
cáo tội ác của bọn bóc lột, vừa thể hiện niềm cảm thông với nỗi đau khổ của con
người, vừa bày tỏ niềm tin vào con người: ”dù cuộc sống có đau khổ đến đâu, nhưng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
con người vẫn thể hiện niềm yêu thương đùm bọc lẫn nhau vẫn không nguôi về khát
vọng hạnh phúc, vẫn hướng đến một tương lai tươi sáng”. Đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Trước hết ta phải hiểu giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản trong tác phẩm văn học
chân chính, nó được tạo nên bởi tình yêu thương của con người, niềm cảm thông sâu
sắc với nỗi khổ của con người, sự nâng niu trân trọng những nét đẹp của con người
hơn thế còn là lòng tin khả năng vươn dậy của nó. Tác phẩm “Vợ nhặt” đã bộc lộ
được niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi đát của người dân nghèo trong nạn
đói. Nạn đói được ví như một trận đại hồng thủy có sức tàn phá dữ dội. Những dãy
phố úp sụp tối om: "những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”, “không khí
vẩn lên mùi ẩm mốc thối của rác rưởi và mùi gây gây của xác người” và đặc biệt hơn
là âm thanh của tiếng quạ gào thê thiết. Bằng những hình ảnh đau thương của nạn đói,
tác giả đã tố cáo được tội ác của bọn thực dân phát xít cùng bọn phong kiến tay sai.
Chúng đã dồn người dân đến mức đường cùng của cuộc sống, làm cho bao người chết trong cảnh đói rách.
Tác phẩm còn đi sâu khám phá nâng niu trân trọng khát vọng sống và khát vọng hạnh
phúc của con người. Tràng luôn khao khát hạnh phúc, ẩn sau hình ảnh người đàn ông
thô kệch chỉ biết làm lụng kia là con người cũng khao khát yêu thương. Trong hoàn
cảnh kéo xe thóc mà anh vẫn buông lời trêu đùa để làm cho cuộc sống thêm tươi vui,
anh đùa có ai đẩy xe cùng thì mời bữa cơm xôi giò. Tưởng chỉ là lời trêu đùa vu vơ
mà có cô ra đẩy cùng, sau một hồi ăn hai chập bánh đúc thì người đàn bà ấy theo về
làm vợ. Anh cũng nghĩ đến cái đói đang khủng khiếp kia liệu mình có vượt qua được
không mà còn thêm cô vợ, nhưng anh “chậc kệ”. Niềm khao khát hạnh phúc khiến
anh vượt qua cái đói cái chết sắp tới. Trên đường về nhà khuôn mặt anh vui lạ thường.
Thậm chí Kim Lân còn đẩy tình huống truyện đến đỉnh điểm khi miêu tả sự ngạc
nhiên của Tràng. Bản thân anh cũng không ngờ rằng việc lấy vợ của mình lại dễ dàng
đến thế, chỉ có bốn bát bánh đúc mà thành vợ thành chồng. Cho nên khi dẫn vợ về
nhà, nhìn thấy vợ giữa nhà Tràng vẫn không khỏi ngỡ ngàng. Đến bây giờ hắn còn
ngờ ngợ không phải ”ra hắn đã có vợ rồi đấy ư…”. Đến sáng hôm sau nhìn thấy ngôi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
nhà lâu nay đã được thu dọn sạch sẽ bởi bàn tay người vợ. Hắn không hết bàng hoàng
ngạc nhiên việc hắn đã có vợ đến hôm nay hắn vẫn ngỡ ngàng như không phải. Điều
đó còn được thể hiện ở ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ thể hiện ngay ở nhân vật
người vợ nhặt. Chỉ có một câu tầm phơ tầm phào mà cô chấp nhận theo không người
đàn ông xa lạ ấy để làm vợ, cô bỏ qua cả ý thức về danh dự và nhân phẩm của bản thân mình.
Không chỉ vậy mà Kim Lân còn đi sâu vào ý thức vun đắp cho cuộc sống gia đình của
từng nhân vật. Với Tràng thì anh đã nhận ra được trách nhiệm và bổn phận của mình
với hai người phụ nữ trong gia đình. Còn nhân vật thị thì hôm sau đã hoàn toàn thay
đổi trở nên hiền hậu, đúng mực “nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu
gọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm, mươi niên ở
góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã
kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Đó là sự thay
đổi ngỡ ngàng của thị và quang cảnh nhà sáng hôm sau. Còn bà cụ Tứ thì tạo thêm
niềm tin cho các con về những dự định trong tương lai, việc nuôi gà, khuyên răn con
ai giàu ba họ ai khó ba đời, có ăn lên làm ra thì con cái sau này mới sung sướng. Và
cuối cùng có lẽ tình thương bà dành cho đứa con trai và con dâu được thể hiện rõ nhất
ở hình ảnh bát cháo cám. Người mẹ già không có gì trong hoàn cảnh này, bà lật đật
chạy xuống bếp với khuôn mặt vui tươi bê nồi cháo cám lên ăn.
Kim Lân đã thắp lên cho gia đình bà cụ Tứ niềm tin hy vọng vào sự đổi mới. Trong
bóng tối đau thương tấm lòng cao đẹp của người mẹ vẫn tỏa sáng. Dẫu biết rằng việc
lấy vợ lấy chồng là việc không nên diễn ra vào lúc đói khát như lúc này nhưng bà cụ
Tứ vẫn vui vẻ chấp nhận “thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng
lòng”. Kim Lân đã khéo tìm cho người mẹ già đau khổ ấy một câu nói ẩn chứa sự
từng trải của người già, sự bao dung của người mẹ và quan niệm đẹp đẽ của người
Việt Nam: ”dù có đắng cay cực khổ như thế nào vẫn mừng lòng đón nhận con người,
luôn luôn trân trọng con người”. Vì vậy lúc nhìn lại người vợ nhặt bà không thấy cô ta
xa lạ nữa mà đã trở thành người thân thuộc: "bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy
thương xót nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi”. Trái tim người mẹ mở rộng đón
nhận người phụ nữ xa lạ, đón nhận người ấy là con, là người thân, là con dâu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Bà còn nuôi dưỡng niềm tin hy vọng cho những đứa con: "biết thế nào hả con? Ai
giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau…”. Bà an ủi con dâu:
"kể có ra làm dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo cũng chả ai người ta
chấp chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói
to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Câu nói tận tình và bao dung của
người mẹ đã làm vơi đi bao tủi cực bẽ bàng của người vợ nhặt. Chỉ một câu nói ấy
thôi cũng đủ làm cho người phụ nữ Tràng nhặt về có thể ngẩng cao đầu bước vào ngôi
nhà này với tư cách là một người vợ, một người con dâu.
Nếu như trong tác phẩm “Chí Phèo”,”Lão Hạc” nhân vật chính muốn giữ được nhân
phẩm thì phải chết, cái chết đau đớn nhưng làm lòng họ cảm thấy thanh thản hơn. Hay
chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố cùng quẫn bởi sưu cao thuế nặng phải bán
sữa mình cho ông cụ già 80 tuổi và cái kết là chị chạy ra ngoài trời tối không biết sẽ ra
sao…những tác phẩm viết trước cách mạng tháng 8 thường chưa tìm thấy lối thoát cho nhân vật của mình.
Không những vậy Kim Lân đã thể hiện được niềm tin sâu sắc vào phẩm giá, lòng nhân
hậu của con người. Nhân vật Tràng chỉ là một thanh niên làm thuê nuôi mẹ, nhưng sẵn
sàng bỏ tiền cho người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc. Anh độ lượng, bao dung hào
phóng và rất chu đáo với mẹ già. Anh sống luôn có tình nghĩa có trách nhiệm. Niềm
tin ấy còn được thể hiện ở người vợ nhặt, sự biến đổi từ khi bước vào nhà. Nếu lúc
trước người đàn bà này chua chát, chỏm lỏm thì giờ lại hiền hậu cư xử đúng mực lễ
phép. Lúc mới gặp bà cụ Tứ thì chào hỏi, e thẹn. Sáng hôm sau thì đảm đang dọn dẹp
nhà cửa. Đặc biệt trong bữa cơm sáng, mặc dù là bát cháo cám nhưng cô vẫn và vào
miệng mặc dù mắt hơi nheo, bởi cô không lỡ làm mất đi niềm vui của người mẹ già
khốn khổ kia. Có lẽ thể hiện sâu sắc niềm tin vào cuộc sống phải được thông qua bà
cụ Tứ. Bà hết lòng yêu thương con cháu, hết mực cảm thông với nàng dâu trong hoàn
cảnh này. Không những thế bà còn trăn trở những tháng ngày tiếp theo đứa con trai và
con dâu bà sẽ sống ra sao. Nhưng vượt lên hoàn cảnh ở trước mắt bà vẫn luôn tạo
niềm vui trong gia đình bằng những lời khuyên răn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Bằng cái nhìn mới mẻ về cuộc sống của người dân sau cách mạng tháng Tám, Kim
Lân đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và cái chết đầy bi thương của những
năm tháng này. Qua đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc góp phần tạo nên thành công
trong tác phẩm. Từ đó ta thấy được chiều sâu so với các tác phẩm văn học hiện thực trước đó.
Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt - Mẫu 8
"Vợ nhặt" là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh
cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh
khủng, người chết đói đầy đường. Truyện ngắn đã phản ánh nỗi đau khổ và niềm khao
khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người
trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện "Vợ
nhặt" là giá trị nhân đạo.
Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận
đói năm Ất Dậu - 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim
Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện. Truyện "Vợ nhặt" đã
phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo trong trận đói năm Ất
Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt
díu nhau lên "xanh xám như những bóng ma" nằm ngổn ngang khắp các lều chợ. Quạ
đen đậu trên những ngọn cây bay vù lên "như những đám mây đen" trên nền trời. Mùi
gây của xác người mẩn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cùng
ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường!
Đói và chết đói đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà "vắng teo đứng rúm ró" trên
mảnh vườn đầy cỏ dại. Của nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn
cả trên giường, dưới đất. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng tiếng thở
dài". Bà cụ Tứ "mặt bủng beo u ám". Anh cu Tràng "bước mệt mỏi", cái đầu "trọc
nhẵn chúi về đằng trước" với bao lo lắng chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây
tinh nghịch thế, giờ đây chúng nó "ngồi ủ rũ dưới những có đường không buồn nhúc
nhích". Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái "ngồi vêu ra". Đặc biệt nhân vật
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
"thị", cái đói đã cướp đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán.
Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần "tả tơi như tổ đỉa". Thị "gầy sọp hẳn
đi", khuôn mặt lưỡi cày "xám xịt", chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước
của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chị nghe Tràng nói
"muốn ăn gì thì ăn", thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng
hoáy" của thị tức thì "sáng lên". Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc,
trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã
nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói
về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.
Cái xóm ngụ cư càng về chiều "càng xơ xác, heo hút" nhà cửa "úp súp, tối om", những
khuôn mặt "hốc hác u tối". Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo
cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể "nhặt" được. Thị lấy
chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có "quan tám tiền cheo, quan năm
tiền cưới, lại đèo buồng cau". Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới
"khép nép", "cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt". Tối tân hôn, "tiếng khóc tỉ
tê" của những gia đình có người mới chết đói vọng đến thô thiết não nùng. Sáng tinh
mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi "dồn dập, vội vã".
Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót
thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang
hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo
vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật - Pháp bắt nhổ lúa trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột
dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Truyện "Vợ nhặt" đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con
người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt vợ và
những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu "tầm phơ tầm phào", Tràng
đãi thị 4 bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợ! Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải
liều: "Chặc, kệ!". Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn "đèo bòng". Trên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ
trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi
bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng "phởn phơ khác thường". Hắn "tủm tỉm
cười nụ". Hai mắt "sáng lên lấp lánh". Có lúc cái mặt hắn "cứ vênh lên tự đắc với mình".
Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông "hay đáo để". Tràng khoe hai hào dầu, rồi
cười hì hì, bị thị "phát đánh đét" vào lưng với câu mắng yêu: "Khỉ gió". Tràng nghển
cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!". Những
tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết. Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu
mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có
dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình, bà
nhận nàng dâu mới: "Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng".
Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...". Bà dịu dàng
yêu thương gọi nàng dâu mới là "con". Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con:
"Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá...". Qua đó, ta
càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai hoạ, họ đã
dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách,
hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...". Người
đọc cảm thấy ngọn đèn "vàng đục" chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ
chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no.
Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất
trong truyện "Vợ nhặt". Bà cụ Tứ gọi là "chè khoán... ngon đáo để". Bà tự hào nói với
hai con là " xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Trong bữa cháo cám, bà nói
toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng "đầm
ấm hòa hợp" hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm
nhiều thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ không bao giờ có thể quên được bữa cháo cám
buổi sáng hôm ấy. Vị cháo cám "đắng chát" mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình
cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời
của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ,... mà không
một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh tày?
Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người
dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên:
"Chông vợ hài". Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy "có một cái gì lạ
lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ". Bà cụ Tứ vui sướng vì
con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh "rạng rỡ hẳn lên". Vợ Tràng trở
thành người đàn bà "hiền hậu đúng mực". Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh
ngủ dậy cảm thấy "êm ái lửng lơ". Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau
một ngày một đêm mà hắn "vẫn ngỡ ngàng như không phải".
Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu
dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy
ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mẹ chồng, nàng dâu
mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không
nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thấy
hắn đã "nên người", hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này
Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn
Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật
chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình "lá cờ đỏ bay phấp phới".
Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện không chỉ tô
đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự
cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.
Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn mằn nhưng đáng quý và đáng
trân trọng biết bao! Cổ kim đông tây đã có ai nhặt được vợ? Cái đói do bọn Nhật,
Pháp gây ra đã cướp đi tất cả tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được
khẳng định: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
Cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện "Vợ nhặt" mà ta trân trọng.
Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt - Mẫu 9
Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác phẩm xuất
sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông, đồng thời cũng là một những tác phẩm tiêu
biểu viết về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ quan điểm sáng tác của tác giả.
Tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.
Trước hết giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện trong việc Kim Lân đã tái hiện
thành công nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm 1945 phần lớn người dân đã
bị đẩy tới cái chết. Kim Lân đã tập trung tất cả bút lực của mình để tạo dựng bối cảnh,
không khí nạn đói ấy. Trong văn ông cái đói, cái chết đã hiện hình, nổi cộm sắc nét
tạo nên những ám ảnh ghê rợn. Ấn tượng về cái đói cái chết đã được Kim Lân tạo
dựng từ nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng nhất là thị giác, khứu giác và thính giác. Ở thị
giác, ông đã hai lần sử dụng hình ảnh đầy sức ám ảnh: bên cạnh những người chết như
ngả rạ, là những người còn sống vật vờ như những bóng ma.
Ở đây cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực, giữa sự sống và cái chết là ranh
giới vô cùng mong manh. Nạn đói đã vắt kiệt toàn bộ sự sống của con người để hiện
hình thành những bóng ma dật dờ. Ở khứu giác, cái đói cái chết trong văn Kim Lân
không chỉ nhìn thấy mà còn có thể ngửi thấy đó là mùi gây của xác người và mùi khét
lẹt của các nhà đốt đống rấm. Còn thính giác cũng là những ấn tượng ghê rợn. Âm
thanh của những đàn quạ liên thanh cất lên, là tiếng hờn khóc tỉ tê của những gia đình có người chết.
Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực còn được thể hiện trong thân phận rẻ rúng
của những người nông dân nghèo. Người đàn bà chết đói, người gầy sọp đi, hai mắt
trũng sâu vào, vì cái đói, vì miếng ăn đã đồng ý lấy Tràng một cách nhanh chóng.
Chính cái đói đã khiến người đàn bà ấy mất đi danh dự, sự e thẹn vốn có của một
người con gái, mà trở thành một kẻ chỏng lỏn, vì miếng ăn sẵn sàng đánh mất lòng tự
trọng của mình. Chỉ với vài bát bánh đúc và một lời nói vu vơ, thị đã chạy đến híp mắt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
cười tình, đánh mất đi sự ê lệ, kín đáo và chấp nhận về làm vợ của Tràng khi không hề
biết đến tính cách, con người của Tràng ra sao. Trong hoàn cảnh bị cái đói, cái chết
dồn đuổi, thị sẵn sàng bám víu vào bất cứ thứ gì đảm bảo sự sống cho thị. Những chi
tiết mà Kim Lân miêu tả đã cho thấy, người vợ nhặt là một người nông dân khốn khổ,
bị đẩy đến bước đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha hóa.
Đám cưới với mỗi người là một nghi thức quan trọng nhất trong cuộc đời, nhưng đám
cưới của Tràng và người vợ nhặt lại diễn ra hết sức sơ sài, sơ sài đến mức đáng
thương. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới là nồi cháo cám đắng ngắt mà mọi người
ngồi ăn không ai nói với nhau một câu. Nhưng bên cạnh những mảng màu xám ngắt
của hiện thực, ta còn thấy tác phẩm ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong tăm tối, khi
cái đói đeo đuổi tất cả mọi người, tưởng chừng như người ta chỉ quan tâm đến sự sống
chết của mình, thì người nông dân Việt Nam vẫn sẵn sàng giang tay cứu vớt những
con người có số phận bất hạnh hơn mình. Nó thể hiện rất rõ truyền thống yêu thương
đùm bọc “lá lành đùm lá rách” của nhân dân ta.
Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình yêu thương
mẹ con Tràng dành cho người vợ nhặt. Tràng mặc dù có ngoại hình xấu xí nhưng lại
có tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người. Dù chỉ làm công việc tạm thời, không
có ruộng đất nhưng Tràng sẵn sàng mua đồ ăn cho người đàn bà không quen biết.
Tràng thương cảm cho người đàn bà khi nhìn thấy hình dáng tiều tụy hẳn đi của thị.
Và nhất là Tràng còn đồng ý đem người đàn bà ấy về nhà làm vợ của mình, dù trong
Tràng lúc ấy cũng thoáng chút lo âu. Việc lấy vợ của Tràng không phải là một chuyện
ngẫu nhiên mà đó là cả một mạch vận động hợp lí.
Lần đầu gặp gỡ, Tràng lần đầu tiên nhận được sự quan tâm, đó là cái híp mắt cười tình
của một người con gái. Đến lần thứ hai, Tràng xót xa khi người đàn bà phốp pháp lần
trước đã biến mất, thay vào đó là một kẻ quần áo rách như tổ đả, gầy hẳn đi. Sự thay
đổi bất ngờ nhanh chóng ấy đã dấy lên trong Tràng lòng thương cảm, với bản chất
lương thiện và sự đồng cảm của những người đồng cảnh ngộ, Tràng đã nhanh chóng
quyết định đưa người phụ nữ đó về nhà để làm vợ của mình. Quyết định nhanh chóng,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
bất ngờ đó vừa thể hiện khát khao hạnh phúc của Tràng, vừa là sự cưu mang, nghĩa cử
cao đẹp mà Tràng dành cho người phụ nữ khốn khổ, bất hạnh hơn mình.
Lấy vợ là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, bằng những cử chỉ hết sức đơn
giản, nhưng cũng đủ cho thấy sự trân trọng của Tràng với người vợ nhặt. Anh cho chị
ăn một bữa thật no, mua một cái thúng con và mua ít dầu về đốt cho sáng. Hành động
mua hai hào dầu đó còn như thắp lên một tương lai, hi vọng mới cho hai vợ chồng.
Đặc biệt, sáng hôm sau khi lấy vợ, Tràng đã có những sự thay đổi hoàn toàn. Tràng
thấy trong người lửng lơ, một niềm vui khó tả, khi lần đầu tiên được sống và cảm
nhận niềm hạnh phúc gia đình. Và niềm hạnh phúc đó đã dẫn đến những biến chuyển
trong nhận thức của Tràng, Tràng dấy lên tinh thần trách nhiệm với gia đình. Ý thức
được vai trò trụ cột của mình, cùng tham gia với vợ và mẹ để xây dựng cuộc sống mới.
Còn với bà mẹ của Tràng, có con dâu trong hoàn cảnh éo le này làm bà vô cùng ngỡ
ngàng, nhưng sau giây phút bất ngờ, bà đã hiểu ra mọi chuyện. Bằng tình yêu thương
với người con trai, sự cảm thông với người vợ nhặt bất hạnh, bà hiểu rằng người ta chỉ
dựng vợ gả chồng khi ăn nên làm ra, chứ không ai lấy vợ trong cái đói. Nhưng cùng
với tình yêu thương con bà còn tự trách mình, thân phận làm mẹ nhưng lại không lo
nổi hạnh phúc cho con. Thương con, lo lắng cho con bao nhiêu bà lại càng ngậm ngùi,
xót xa cho thân phận người đàn bà kia bấy nhiêu.
Bà không nhìn người con dâu mới bằng ánh mắt cay nghiệt, phán xét mà là cái nhìn
đầy cảm thông, bao dung: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ, người ta mới lấy
đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy, bà cụ không chỉ là hiện thân
của tình mẫu tử cao cả thiêng liêng mà còn là hiện thân của tình người ấm áp, bao
dung, bà đã đưa bàn tay yêu thương để nâng đỡ bao bọc cho những thân phận khốn
khổ dù cuộc sống của mình còn muôn vàn khó khăn.
Không dừng lại ở đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được nhìn nhận từ góc của
người vợ nhặt. Người phụ nữ này bị cái đói dồn đuổi đến bước đường cùng, nhưng với
lòng ham sống, cô đã cố bám víu đến cùng, cho dù phải biến thành thân phận vợ nhặt.
Khát khao được sống đó cho thấy một trái tim khỏe mạnh, một nghị lực sống kiên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt
cường và bền bỉ ở người phụ nữ này. Như vậy, qua ba nhân vật Tràng, bà mẹ và cô vợ
nhặt Kim Lân đã một lần nữa khẳng định lối sống nhân ái, giàu tình cảm và lòng vị
tha của nhân dân ta. Không chỉ vậy, trong họ còn tồn tại sức sống mãnh liệt, sẵn sàng
vượt qua mọi đói khổ, khó khăn.
Cuối cùng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở cuối bài với hình ảnh lá cờ đỏ
phấp phới trong sự tiếc rẻ của nhân vật Tràng. Chắc chắn với tinh thần lành mạnh,
lòng yêu cuộc sống Tràng và vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng. Hình ảnh lá cờ đó
như một gợi mở về tươi lai tương sáng đang đón đợi họ ở phía trước.
Bằng nghệ thuật miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã vẽ ra bức tranh hiện thực tàn khốc về
nạn đói năm 1945, khi mạng người bị rẻ rúng đến cùng cực. Nhưng đằng sau bức
tranh hiện thực đen tối ấy là ánh sáng của lòng nhân đạo, tình yêu thương, sự bao bọc,
chở che lẫn nhau giữa những con người khốn khổ. Sự hòa quyện giữa hai giá trị hiện
thực và nhân đạo đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.