Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ
Đồng Chí hay nhất
1. Dàn ý cảm nhận về hình ảnh người lính trong bài thơ "Đồng
chí"
1.1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm Đồng chí tác giả Chính Hữu.
Sáng tác năm 1948 trong thời đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp tình đồng chí thắm thiết sâu nặng của
những người lính thời kháng chiến chống Pháp đồng thời làm hiện n hình
ảnh chân thực, giản dị cao đẹp của người lính cụ Hồ.
1.2.Thân bài
a. Khái quát chung về bài thơ:
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ, vị trí đoạn trích.
b. Phân tích vẻ đẹp tình đồng chí:
+ Vẻ đẹp của sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc những tâm thầm kín.
+ Thấu hiểu hoàn cảnh gia đình của nhau, thấu hiểu nỗi lòng riêng của
người bạn lính, chia sẻ niềm thương nhớ, nặng lòng với quê hương bạn.
+ Hiểu được sự hy sinh thầm lặng, sự nhớ thương mong ngóng của những
người hậu phương.
Hình ảnh hoán dụ giếng nước, gốc đa gợi lên hình ảnh về quê hương,
người thân nơi hậu phương của người lính.
Họ cùng sống với nhau trong kỉ niệm, nỗi nhớ nhà, cùng nhau vượt lên nỗi
nhớ đó để chiến đấu.
+ Vẻ đẹp của việc đồng cam cộng kh với hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, đau
thương.
+ Họ chia sẻ những gian lao, khổ cực, thiếu thốn trong cuộc đời người lính
“Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, “áo rách vai”, “chân không giày”.
+ Họ cùng nhau trải qua khó khăn, khắc nghiệt trong chiến đấu.
Tác giả xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau, bao giờ người lính
cũng nhìn bạn nói về bạn trước khi nói tới mình.
Cách nói thể hiện nét đẹp thương người như thể thương thân, trọng người
hơn mình.
Tình đồng chí, tri kỉ đã giúp họ vượt lên trên buốt giá.
Họ quên mình để động viên nhau, cùng nhau vượt lên trên buốt giá
những bàn tay động viên, truyền cho nhau hơi ấm.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
+ Yêu thương nhau bằng cả tấm lòng chân thành sâu nặng với những cử chỉ
nghĩa tình.
+ Họ cùng nhau vượt qua mọi gian khổ với tinh thần lạc quan, sức mạnh của
tình đồng đội “miệng cười buốt giá”.
=> Sức mạnh của tình đồng chí được thể hiện trong khó khăn gian khổ.
+ Biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí.
+ Tình đồng chí được tôi luyện khi họ cùng nhau sát cánh thực hiện nhiệm vụ
đánh giặc.
+ Chính nơi th thách, ranh giới mong manh giữa sự sống cái chết gần
kề tình đồng chí thực sự thiêng liêng cao đẹp.
+ Trên nền khung cảnh thiên nhiên hùng nhưng cũng khắc nghiệt, những
người lính với tư thế chủ động “chờ” giặc thật hào hùng.
+ Hai câu thơ cuối đối nhau thật chỉnh khi ca ngợi tình đồng chí giúp người
lính vượt lên tất cả khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết.
+ Hình ảnh đầu súng trăng treo bất ngờ, điểm nhấn làm sáng bừng bài thơ:
đây sự kết hợp giữa chất hiện thực lãng mạn.
Nghĩa tả thực: người lính cầm súng hướng lên trời, người lính như thấy
trăng treo lửng nơi họng súng.
Ý nghĩa biểu tượng: súng biểu tượng cho đấu tranh khó khăn nguy hiểm -
đây hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Trăng biểu tượng thanh mát,
yên bình.
c. Giá trị nghệ thuật:
Ngôn ngữ thơ đọng hình ảnh chân thực gợi tả sức khái quát cao,
nhằm diễn tả cụ thể tình cảm thiêng liêng cao đẹp - "tình đồng chí."
Giọng thơ sâu lắng, xúc động như lời tâm tình tha thiết.
1.3. Kết bài
Tình đồng chí được thể hiện chân thực, cao đẹp qua thể thơ tự do, ngôn từ
hình ảnh giản dị hàm súc.
Đoạn thơ góp phần cùng bài t làm nên một áng thơ đẹp về tình đồng chí
nói riêng hình tượng người lính cách mạng nói chung.
2. Một số mẫu cảm nhận hình ảnh người lính qua bài thơ "Đồng
chí"
2.1. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài t Đồng chí (Mẫu số 1)
Chính Hữu nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong thời kháng chiến chống
thực dân Pháp lần hai. Với phong cách thơ nhỏ nhẹ, đằm thắm, trữ tình thiết
tha, Chính Hữu đ lại rất nhiều những bài thơ hay, độc đáo cho nền văn học
dân tộc. Tập thơ "Đầu súng trăng treo" với bài thơ "Đồng chí" một trong
những thi phẩm xuất sắc, điển hình, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
Chính Hữu. Qua bài thơ về tình đồng chí, hiện lên vẻ đẹp bình dị cao cả của
người lính cách mạng, anh vệ quốc quân năm xưa. Bài thơ bức chân dung
đẹp về người lính cụ Hồ.
Tác phẩm được viết o khoảng đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội
của mình tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947. Với cái nhìn
chân thực của người lính người trong cuộc, người trực tiếp cầm súng ra
mặt trận, Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ đẹp sống động từ hoàn cảnh
xuất thân đến tâm hồn ý chí nghị lực mạnh mẽ, dũng cảm, chan chứa tình
đồng chí của người lính cách mạng. Trước hết, họ những người lính xuất
thân t những chàng trai nông dân áo vải lam , nghèo khó trên khắp mọi
miền đất nước chứa chan tinh thần yêu nước, trách nhiệm với quê hương
dân tộc:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá."
Thành ngữ "nước mặn đồng chua", gợi lên một miền đất nắng g ven biển,
đất đai b nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Còn cụm từ “đất cày lên
sỏi đá” lại gợi lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai
cằn cỗi, khó canh tác. Đó xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân cuộc
sống của những chàng trai nông dân chân lấm tay bùn, áo nhuộm nâu bốn
mùa, chỉ quen với tay cuốc, tay cày sau lũy tre làng. Thế nhưng, khi tổ quốc
lâm nguy, họ đã sẵn sàng c lại tất cả những quí giá nhất, thân thiết nhất
nơi làng quê để ra đi chiến đấu:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân y
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính."
Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa… những nh ảnh giản dị,
quen thuộc mọi làng quê Việt Nam. lẽ lúc này người lính đang rất nhớ
tới quê hương, nơi gia đình, người thân, ruộng nương, gian nhà, những
tình cảm đẹp đẽ của họ từ thuở ấu t đến lúc trưởng thành. Nhưng từ “mặc
kệ” đã cho thấy sự quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê
hương, ruộng nương, gian nhà cả những tình cảm buồn vui của thời thơ
ấu cho người thân yêu để lên đường cầm ng đánh giặc cứu nước. Tinh
thần hi sinh mạnh mẽ ấy đã được n thơ Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ
của mình:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi m sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi T Quốc”.
Như vậy, câu t đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của
người lính đối với dân tộc khi tổ quốc lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu
nước mạnh mẽ, sâu sắc của họ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” một hình
ảnh rất giàu sức gợi, đây vừa nhân hóa, lại vừa hoán dụ biểu trưng cho
quê hương, người thân nơi hậu phương luôn luôn i theo nhớ nhung
người lính da diết. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính thực ra
người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết, khôn nguôi.
Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy, lại động lực mạnh mẽ, thôi thúc
tiếp bước cho họ vươn lên mạnh mẽ, trưởng thành, sự nghiệp chung
lớn lao của đất nước, dân tộc. Những người lính nông dân áo vải ấy đã trải
qua biết bao nhiêu gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người
hành hạ, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt m hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi i mảnh
Miệng cười buốt g
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay."
Hình ảnh: “ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi” những biểu hiện cụ thể để
nói về căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi trong chiến tranh không hề
đủ thuộc men để chạy chữa. thế các anh những người lính anh hùng
dũng cảm phải cắn răng chịu đựng, tự lực, t cường vượt qua gian khổ.
Đây một hình ảnh xuất phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong
chiến tranh. Và căn bệnh sốt rét này không phải ch xuất hiện trong thơ Chính
Hữu trong rất nhiều các bài thơ của các nhà thơ kháng ng đã từng
nhắc tới. Trong bài t
"Tây Tiến" của Quang ng, nhà thơ cũng đã viết:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm."
Hay trong bài "Dấu chân qua trảng cỏ" của Thanh Thảo, ông cũng từng
câu thơ:
"Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe."
Căn bệnh sốt rét nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh,
đã hành hạ họ, khiến họ tiều tụy xanh xao, màu da vàng vọt, tóc thì rụng hết...
thế lúc này, chỉ tình u thương, sự đùm bọc lẫn nhau của những người
lính thuốc b tinh thần, giúp h ng nhau cộng hưởng, sẻ chia vươn
lên chiến thắng chính mình. Không dùng lại đó, người lính còn phải đối diện
với cả sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất: "áo rách vai, quần vài mảnh vá,
chân không giày". Nhưng trong hoàn cảnh ấy, những người lính vệ quốc, họ
đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động chân thành: “Miệng cười
buốt giá”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Chính nụ cười đã xoá tan đi
cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ thiếu thốn. Cùng
động viên nhau qua ánh mắt nụ cười. đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong
“buốt giá nhưng vẫn chứa chan tình cảm, cho thấy được sự lạc quan mạnh
mẽ của h trong cuộc sống chiến đấu. Còn hành động tay nắm lấy bàn tay”
một cử chỉ rất cảm động cần thiết vào lúc này. Họ đã truyền cho nhau
hơi ấm của nh thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, mục tiêu
tưởng cách mạng lớn lao: hòa bình dân tộc. lẽ, tình yêu thương nhau
đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu i đi nỗi nh nhà, nhớ q hương. Tất cả
những cử chỉ ánh mắt, nụ cười, nắm tay ấy đã giúp họ thêm động lực để
vượt qua khó khăn, thử thách. Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo
sơn, gắn hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến
trường kì. Hình nh người lính tình đồng chí của họ đã kết tinh, tỏa sáng
trong đoạn thơ cuối của bài thơ:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu ng trăng treo."
Ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực, lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay
bổng, vừa gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả
tình cảm ấm áp của những người lính trong chiến tranh. Đây là biểu hiện cao
đẹp nhất của tình đồng chí, đồng đội. Đó khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ
thể với khung cảnh “rừng hoang sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo khắc
nghiệt. Tuy nhiên, người lính vẫn đứng cạnh bên nhau đ chờ giặc tới”.
Động từ “chờ” cho thấy được thế ch động hết sức đề cao cảnh giác
của người lính trong khi m nhiệm vụ. Ngh thuật tương phản đối lập được
tạo ra rất cân đối giữa một bên không gian núi rừng lạnh lẽo, hoang vu,
vắng lặng; với một bên thế chủ động mạnh mẽ như lấn át cả không gian
toàn cảnh của người lính. Chính sức mạnh của tình đồng chí đã làm cho
người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt đó. Các từ gần nghĩa “cạnh
bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn luôn nhau của
những người lính. Trên cao ánh trăng treo lửng trên bầu trời, dưới cái
nhìn lãng mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo đầu mũi súng.
"Trăng" theo đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho nh cảm
đồng chí keo sơn của người lính, vừa soi sáng sưởi ấm cho không gian
của rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên. Hình ảnh súng trăng” được
đặt cạnh bên nhau khiến người đọc nhiều liên tưởng: giữa thực tại
mộng; chiến tranh hòa bình; chiến thi sĩ. S đan cài giữa hiện thực
lãng mạn y vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại
vừa toát n vẻ đẹp m hồn của người lính: họ vừa chiến lại vừa thi sĩ,
họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập , tự do cho
Tổ Quốc thân yêu. thể nói, ba câu thơ cuối một bức tranh đẹp, như một
bức tượng đài sừng sững của hình nh người lính ch mạng với tình đồng
chí thiêng liêng, sâu sắc. Chính tình cảm đồng chí đã m nên vẻ đẹp tâm hồn
người chiến sĩ.
Tóm lại, bài thơ "Đồng chí" một bài thơ hay, độc đáo viết về người lính cụ
Hồ. Qua bài thơ, người đọc thấy được vẻ đẹp nh đồng chí, đồng đội sâu sắc,
cao cả, thiêng liêng của người lính cách mạng. thể nói, bài thơ một bức
tượng đài người nông dân mặc áo lính rất đẹp, tráng lệ, hào ng của thời
đầu kháng Pháp.
2.2. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài t Đồng chí (Mẫu số 2)
Hình tượng người lính trong kháng chiến đ tài thu hút nhiều bút lực. Đó
anh hùng áo vải sẵn sàng hi sinh tính mạng cho nhân dân đất nước, nhiều
nhà thơ đã viết về họ. trong đó không thể không kể đến một bài thơ "Đồng
Chí" của Chính Hữu. Bài thơ được viết đầu năm 1948 những năm đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp cùng khó khăn gian khổ cả về vật chất lẫn
tinh thần, đời sống kháng chiến. Nhưng tinh thần đoàn kết thương u của
đồng chí, đồng đội họ đã vượt qua để chiến đấu chiến thắng.Chính Hữu viết
"Đồng Chí" hướng ngòi bút vào chất hiện thực đời sống kháng chiến khai
thác cái đẹp trong cái giản dị chân thực, đời thường. Tình đồng chí đồng đội
thắm thiết u nặng của người lính cách mạng rất tự nhiên như vốn ngoài
đời, đúng với phẩm chất người lính cụ Hồ, giản dị mà anh hùng.Trước hết
tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân
nghèo khó.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày n sỏi đá”.
Hai u thơ giới thiệu quê hương của những người lính, "anh" - " tôi" đều
những người lính xuất thân t nông dân. Thành ngữ "nước mặn đồng chua"
chỉ vùng ven biển đất khó làm ăn. "Đất cày sỏi đá" vùng đồi núi trung du
khó canh c. Nghĩa họ đều chung cái nghèo khó, sở đồng cảm về
giai cấp của những người lính. chính điều đó khiến họ từ mọi phương trời
xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội ch mạng, rồi trở lên thân quen với
nhau, khi họ cùng chung niềm vui đánh giặc.
"Súng bên súng đầu sát bên đầu"
Hình ảnh thơ sóng đôi, họ không chỉ chung nghĩa vụ, chí hướng tình đồng
chí cùng gắn chặt chẽ kề vai sát cánh bên nhau, đối mặt với quân thù. Khi
màn đêm buông xuống, đôi bạn lính lại ng chung một tấm chăn mỏng nỉ rỉ
chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện gian nan khó nhọc họ thành đôi tri kỉ. Đôi
bạn chí cốt hiểu nhau sâu sắc.
"Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Câu thơ đầy ắp kỉ niệm m áp tình thân hữu. Lời thơ thứ 7 gồm một t với
hai tiếng cùng dấu "!" tạo một nốt nhấn, n một tiếng gọi thiết tha xúc động
vừa như một phát hiện, kết luận vừa như bản lề gắn kết hai đoạn thơ làm nổi
một tất yếu. Cùng hoàn cảnh xuất thân, tưởng thì trở thành đồng chí của
nhau mở ra ý tiếp đồng chí n là như thế nào nữa? Vậy cách lập dàn ý
đó tạo lên một kết cấu đặc sắc cho bài thơ.Những câu t tiếp theo mở ra
những biểu hiện cụ thể, cảm động về tình đồng chí, giữa những người lính
trong đời sống chiến tranh, từ đồng cảnh họ trở thành đồng cảm.
"Ruộng nương anh gửi bạn thân y
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính".
Lời thơ i về "anh" về bạn bởi người lính cùng chung hoàn cảnh, chung
nỗi niềm, hiểu bạn như hiểu mình. Khi đất nước bị xâm ng, tinh thần dân tộc
thôi thúc họ lên đường trở thành người lính. Hậu phương n cửa gửi lại
hậu phương. Hình ảnh "gian nhà không mặc kệ gió lung lay" gây xúc động
đến nao lòng. Gian nhà không gian nhà trống không tài sản phần siêu
vẹo bởi gió lung lay gợi ra hoàn cảnh nghèo khó tận ng của người lính
nông dân. Song họ vẫn vui vẻ lên đường vi nghĩa lớn. Thái độ dứt khoát kiên
quyết nhưng tâm vẫn luôn hướng về hậu phương. "Giếng nước gốc đa
nhớ người ra lính."
Nghệ thuật nhân hóa hoán dụ diễn tả quê hương nhớ người đi lính, nhưng
thực chất người đi lính nhớ nhà, gốc đa giếng nước nơi chứng kiến cuộc chia
li lên đường… Những kỉ niệm ấy luôn leo đậu trong tâm họ sẻ chia cho
nhau đồng cảm niềm vui nỗi buồn. Tình cảm đồng chí đặc biệt được thể hiện
sự chia sẻ tâm tư nỗi niềm. Những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người
lính biết bao gian khổ.
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai quần i vài mảnh
Miệng cười buốt g chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay".
Những u thơ miêu tả hiện thực đời sống người lính tới từng chi tiết khó
khăn gian khổ, thiếu thốn bệnh tật. Những cơn sốt rét rừng hành hạ
thực, đói rét, chân không giầy, đầu không mũ, áo phong phanh một mảnh,
quần rách thực. Sương muối phủ rừng hoang… Bút pháp hiện thực thể
hiện qua những câu thơ sóng đôi góp phần diễn tả sự sẻ chia trong mọi cảnh
ngộ… Song cái đẹp nhất, quý giá nhất người lính tình đồng đội, thương
nhau tay nắm… tay. Trong đói rét hiểm nguy người lính đã tìm hơi ấm nơi
bàn tay nhau, truyền cho nhau tình cảm sức mạnh vượt lên. Cuộc chiến đấu
trường gian khổ thế, bộ đội ta ch tình đồng chí đồng đội, tình yêu
thương giai cấp nền tảng sở để tồn tại. Tiếp sức cho nhau, tiếp tục
chiến đấu thắng lợi cuối cùng.Nhiệm vụ chủ yếu của người lính đánh giặc
vậy tình đồng chí cao đẹp nhất tình đồng chí gắn thiêng liêng nơi
tuyến đầu chống giặc, nơi sự sống cái chết kề nhau trong tích tắc.
Ba câu thơ cuối dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí trong
hoàn cảnh khắc nhiệt: Đêm, rừng hoang, sương muối đôi bạn chiến đấu tạo
lên tư thế vững trãi, nương tựa vào nhau. Người nh trong cảnh phục kích
giặc giữa rừng khuya còn những người bạn nữa - Vầng trăng, "đầu súng
trăng treo" hình ảnh được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích của
chính tác giả. Nhưng hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng gợi ra liên
tưởng phong phú "sún" "trăng" gần xa. Thực tại mộng, chất
chiến đấu chất chữ tình. "Chiến thi sĩ". Đó các mặt bổ sung cho
nhau hài hòa với nhau về cuộc sống cách mạng.Hình tượng người lính trong
kháng chiến chống Pháp hiện lên trong bài thơ thật giản dị chân thật hàm c,
giàu sức biểu cảm. Tình đồng chí của những người lính dựa trên sở cùng
chung cảnh ngộ, lí tưởng chiến đấu. Đã góp phần quan trọng tạo lên vẻ đẹp
sức mạnh tinh thần của người lính cách mạng. Bài thơ giản dị nhưng để lại
trong người đọc nhiều rung cảm sâu sắc bằng chứng xác thực về một thời
oanh liệt tình người cao đẹp.
2.3. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài t Đồng chí (Mẫu số 3)
Hình ảnh người lính trong kháng chiến luôn một đề tài bất tận của t ca
kháng chiến. mỗi một thời kì, họ lại hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau,
lúc thì sôi nổi, trẻ trung, khi thì hào hoa, lãng mạn. Đến với Chính Hữu,
chúng ta bắt gặp hình nh của người lính nông dân chân chất mộc mạc
trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đấy được thể hiện hết sức sâu sắc
cảm động trong bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm 1948.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày n sỏi đá”.
Hình tượng người lính hiện lên trong bài thơ hết sức chân thật, thật đến nỗi
chúng ta cảm nhận như vừa thấy bóng dáng của ai đó bước thẳng vào trong
những trang thơ. Thành ngữ “nước mặn đồng chua” “đất cày lên sỏi đá”
ám chỉ những vùng đất khô cằn, bị nhiễm phèn, nhiễm mặn quanh năm, rất
khó canh tác. Đấy đều những ng quê chiêm trũng nghèo đói quanh
năm. Những người lính trong chiến trường cũng chính người con của
mảnh đất quê hương đấy, họ đều những người nông dân cần cù, lam lũ,
chân lấm tay bùn, vậy nên cách họ thổ lộ tâm sự, nói chuyện với nhau
đều hết sức dân mộc mạc đúng như cái chất của người nông dân.
Những tưởng hai con người hai vùng quê nghèo đói đấy sẽ chẳng bao gi
gặp được nhau, ấy vậy chiến tranh nổ ra, những người lính phải từ giã
vùng quê của mình để lên đường bảo vệ q hương, đất nước. Họ cùng
chung mục đích, tưởng chiến đấu, chính những điều đó đã mang h lại nơi
đây, họ trở thành những người bạn, người đồng đội, đồng chí cùng nhau chia
sẻ ngọt bùi gian khổ.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”.
Hình ảnh người lính còn hiện lên với những vẻ đẹp của đời sống tâm hồn,
tình cảm, sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau, cùng chia sẻ
những gian lao, thiếu thốn. Các anh đều những người lính tạm gác tình
riêng, để nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, dũng cảm ra đi nghĩa
lớn để lại sau lưng mảnh trời quê hương với biết bao nhiêu trăn trở.
“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Hình ảnh “gian nhà không” hình ảnh khá lắng đọng trong tâm trí những
người chiến ấy cũng hết sức ám ảnh trong tâm trí người đọc. Đấy i
nghèo xác của những vùng quê hay cũng chính nỗi trống trải trong lòng
của những người lại. “Giếng nước, gốc đa” vốn là những vật tri, giác
nay đã được nhân hóa lên để thể hiện nỗi nh thương da diết của quê hương
yêu dấu với những người lính đã rời đi rất khó để hẹn ngày trở lại. Ngoài
ra giếng nước, gốc đa còn dùng đ ám chỉ những người lại, những người
vợ chờ chồng, mẹ chờ con luôn nhớ thương, mong ngóng tới ngày người lính
trở về. Tại sao người lính đang trong chiến trường lại thấu hiểu hết
những tâm sự của quê hương, gia đình, ấy bởi chính người lính cũng
đang nhớ về họ da diết, một nỗi nhớ hai chiều, nh về quê hương chính
cách để họ vượt qua khó khăn. Đấy chính vẻ đẹp tâm hồn, những tình cảm
chất chứa trong những người chiến ấy.Chiến tranh diễn ra ác liệt, những
người lính không chỉ phải đối mặt với mưa bom bão đạn của kẻ thù, đây
Chính Hữu đưa chúng ta đến với cuộc sống thường ngày của những người
lính với những gian khổ, bệnh tật hành hạ, thiếu thốn tất cả những vật dụng
hằng ngày quần áo, thuốc men, giày dép. Nhưng họ vẫn toát lên tinh thần
lạc quan, mỉm cười để cùng nhau vượt quan thử thách, khó khăn trùng điệp.
“Áo anh rách vai
Quần tôi i mảnh
Miệng cười buốt g
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Cái nắm tay ấy không ch cái nắm tay đơn thuần nắm tay để truyền cho
nhau hơi ấm của tình thương, truyền cho nhau sức mạnh của ý chí để động
viên nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn, thiếu thốn. đây chúng ta bắt gặp
hình ảnh về người lính xiết bao cảm động ấm áp, đấy sức mạnh của
tình thương, của sự sẻ chia những nhọc nhằn, gian lao, thiếu thốn, hành
động nắm tay nhau ấy không khác việc “đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết
rơi”, thể nó không đủ sưởi ấm thể họ, nhưng cũng đ để sưởi ấm trái
tim họ. Hình ảnh người lính còn hiện lên với vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết,
thương yêu, kề vai sát cánh bên nhau cùng nhau chiến đấu chống lại quân
thù. Giữa không gian âm u của rừng hoang, sương muối ấy vẫn sáng lên bức
tượng đài bất diệt về người lính đứng cạnh bên nhau trong thế chủ động
tấn công chờ giặc tới”, một sự kết hợp hài hòa giữa hình tượng súng
trăng. Súng tượng trưng cho hiện thực cho cuộc chiến tranh khốc liệt gian
khổ, trăng tượng trưng cho hòa bình, cho khát vọng về một ngày mai đất
nước thanh nh. “Đầu súng trăng treo” còn tượng trưng cho sự giao hòa về
tâm hồn của người lính giữa chiến thi sĩ, giữa hiện tại mộng mơ. Tâm
hồn người lính vẫn rất đẹp, luôn yêu đời, tin tưởng về một ngày mai hòa bình.
Bài thơ “Đồng chí” đã xây dựng một bức tượng đài bất diệt về hình ảnh người
lính trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đó đẹp sống động tới nỗi
cho hôm nay mai sau mỗi khi nhắc đến hình tượng người lính trong kháng
chiến thì bức tượng đài đó vẫn luôn hiện về trong tâm trí người đọc.
2.4. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài t Đồng chí (Mẫu số 4)
Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ đã trở thành một đề tài được nhiều người lựa
chọn để đưa vào thơ ca của mình, nhưng đối với “Đồng chí” của Chính Hữu
đó hình ảnh của người lính giống n bức tượng đài về tình đồng chí,
đồng đội cùng chung cảnh ngộ, chung tưởng cách mạng.Các anh những
người nông dân chất phác, đất nước n nghèo, còn khó khăn nhưng trên
đó cảnh đất nước bị xâm chiếm, các anh đành bỏ lại tất cả “ruộng nương,
gian nhà” những tài sản lớn nhất của cuộc đời mình để xung phong lên
đường nhập ngũ, bảo vệ quê hương, đất nước.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày n sỏi đá.”
Khi những người nông dân mặc áo lính chiến đấu “Súng bên súng, đầu sát
bên đầu” các anh đã cùng chung một tưởng, chung một chiến hào, họ
sát cánh bên nhau, trở nên gần gũi với nhau.Khi chúng ta thiếu thốn về
tất cả mọi mặt phải đối diện với thời tiết khắc nghiệt phải “Đêm t chung
chăn thành đôi tri kỷ” để c anh ngày càng gần nhau n nữa, đến cái chăn
cũng khó đủ để đắp, các anh “chung bát, chung đũa, chung chăn, chung lý
tưởng”, thương nhau chia củ sắn, củ khoai, chăn sui đắp ng”. Chính
những lúc thiếu thốn, khó khăn này làm nảy sinh ra biết bao nhiêu tình cảm,
khi tấm chăn đắp lại c tâm tình mở ra, họ kể cho nhau rất nhiều về đời
sống, tình yêu, gia đình, làm họ ngày càng hiểu nhau hơn dần dần tình
cảm ấy trở thành “đôi tri kỉ”. Khi hai từ “đồng chí” được cất lên biết bao
nhiêu tình cảm trong họ trỗi dậy, đó tiếng gọi tha thiết cất lên từ trái tim của
những người cùng chí hướng đánh giặc cứu nước. Chính Hữu đã từng
tâm sự rằng: “Những ngày đầu kháng chiến, từ “đồng chí” mang ý nghĩa
thiêng liêng máu thịt cùng, nói về tình cảm của các anh bộ đội. Cuộc
sống của người này trở nên cần thiết đối với người kia. Họ bảo vệ nhau trước
mũi súng kẻ thù, cùng đi qua i chết, ng thực hiện tưởng cách mạng.
Đó ý nghĩa sâu sắc về tình đồng chí.”
Hình ảnh “ruộng nương, gian nhà” những hình ảnh quen thuộc trên mọi
làng quê Việt Nam, đó i sản lớn nhất của cuộc đời họ, nhưng rồi họ đành
bỏ lại tất cả để lên đường chiến đấu, ợt lên trên hết đó tình yêu quê
hương, đất nước, sẵn sàng hy sinh cuộc kháng chiến của dân tộc.Nhưng
họ đâu chỉ chia sẻ cho nhau những tâm tư, tình cảm trong cuộc sống
họ còn chia sẻ động viện nhau trong những thiếu thốn, gian khổ của cuộc
chiến tranh:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
............…
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Bệnh sốt rét căn bệnh nguy hiểm phổ biến trong bộ đội ta lúc bấy giờ,
nhưng bộ đội lại thiếu thốn về cả mặt thuốc men, chính thế mà các anh
phải đấu tranh, chống chọi lại, người còn “tóc không mọc” được căn
bệnh đó tàn phá, nhưng khi đó đã i anh, ch cần chúng ta nhau
chung ta chiến đấu lòng yêu nước, tưởng cách mạng. Qua đó để
chúng ta thấy được tình yêu thương họ dành cho nhau thật đáng quý.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Bày tay ấy truyền hơi ấm cho nhau, cùng nhau vượt qua bệnh tật, vượt qua
thời tiết khắc nghiệt, tiếp thêm sức mạnh cho nhau. Nhà thơ từng bộc bạch
rằng: “tất cả những gian khổ của người lính trong giai đoạn này thật khó để
kể hết nhưng chúng tôi đã vượt qua nhờ sự gắn tiếp sức giữa các đồng
đội trong quân ngũ, cho tới hôm nay, mỗi khi nghĩ đến tình đồng đội năm xưa,
lòng tôi vẫn còn cảm xúc bồi hồi”. Điển hình hình ảnh “đầu súng trăng treo”.
“Đầu súng trăng treo” biểu tượng cao đẹp nhất của tình đồng chí. Với 3 câu
thơ đó khi đọc lên ta thấy được bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí đã
được dựng lên trên cái nền của thiên nhiên khắc nghiệt “đêm nay rừng hoang
sương muối”, giữa một buổi đêm khuya với một không gian rộng lớn, t ngát
của núi rừng Việt Bắc, rừng hoang sương muối phủ trắng trời, thời tiết, địa
khắc nghiệt đó như thử thách cho tình đồng đội của người lính. Khi Chính
Hữu dựng nên cái nền như thế để tác giả tạo n sự đối lập giữa thiên nhiên
rừng núi với bức chân dung của người, c giả sử dụng không gian địa lý đó
để làm nền đậm thêm bức chân dung đấy trong thế họ đứng cạnh nhau
chờ giặc.Nhà thơ từng chia sẻ: “Trong chiến dịch nhiều đêm trăng, đi phục
kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ 3 nhân vật: “khẩu súng, vầng trăng
người bạn chiến đấu", ba hình ảnh ấy quyện vào nhau tạo thành hình ảnh
“đầu súng trăng treo” ngoài hình ảnh thì 4 chữ này còn nhịp điệu như nhịp
tắc của một cái lửng, chông chênh trong sự bát ngát, suốt đêm vầng
trăng bầu trời cao xuống thấp dần, c lại treo lửng đầu mũi
súng”.Với động từ “chờ” nghĩa sẵn sàng, chủ động, hiên ngang chờ giặc,
trong thời tiết khắc nghiệt họ vẫn bình thản, lãng mạn bên cuộc chiến này,
lẽ ch những người lính mới vẻ đẹp tâm hồn như thế, tâm hồn này đã
được tôi luyện, đã dạn dày kinh nghiệm nơi chiến trường rồi t mới được
cái tâm thế n thế được. Gian khổ thế, khó khăn thế, bom đạn của kẻ
thù thế, thể khiến cho những người lính của chúng ta mất đi cái vẻ
đẹp ấy, luôn chan chứa về tình đồng đội, về niềm tin rằng ngày mai cuộc
chiến của chúng ta sẽ giành thắng lợi. Nếu như khổ đầu của bài thơ tình
đồng chí, kh thứ hai là “thương nhau tay nắm lấy n tay”, t khổ 3 là hình
ảnh “đầu súng trăng treo” điểm nhấn của khổ 3 điểm sáng của cả bài,
thổi bùng lên hình ảnh tươi đẹp về tình đồng chí. Hình nh “đầu súng
trăng treo” hai ý nghĩa. Tả thực: đó hình ảnh của những người lính hằng
đêm vẫn thay phiên nhau canh gác, khi đó họ phải đứng trên một chòi cao đ
quan t được xa nhất, khi đó thì các người lính chĩa ngọn súng của
mình lên bầu trời, khi trăng sao sáng trong như vậy, khi ta nhìn từ dưới
lên trên thì ta nhìn thấy ngọn súng của những người lính, chạm vào ánh trăng,
trăng như xuống đậu trên đầu của ngọn súng, thế trăng chính một
người bạn, treo trên đầu ngọn súng.Còn ý nghĩa thứ ta hãy liên tưởng thử
xem, nếu hình ảnh “đầu ng” vốn tượng trưng cho chiến tranh, còn “trăng”
tượng trưng cho hòa bình, tác giả đặt hòa bình với chiến tranh, hiện thực với
lãng mạn để ta thấy được Chính Hữu điểm nhìn đầy lãng mạn, đầy tin yêu.
Những người lính vừa mang tâm thế của thi vừa mang tâm thế của chiến sĩ.
Một hình ảnh cùng đẹp đẽ, lãng mạn của người lính. Người lính cụ Hồ
hiện lên qua những vần thơ của Chính Hữu thật đẹp đẽ, thật lãng mạn, ta
như được người nhìn thấy h chiến đấu, thấy h phải chịu biết bao nhiêu nỗi
đau về thể xác tinh thần nhưng vượt lên trên đó tình yêu thương, đùm
bọc, chia sẻ với nhau.
2.5. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài t Đồng chí (Mẫu số 5)
Viết về tình cảm đồng chí đồng đội trong những năm kháng chiến đã
những bài thơ rất hay, rất xuất sắc. trong chùm những tác phẩm y ta
cũng không thể không nhắc đến bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Với ngôn
ngữ bình dị, cách diễn đạt đặc biệt đã đem đến cho đ tài này một bài thơ
mới lạ, độc đáo. Hình nh người lính hiện lên thật gần gũi, thân thương
cũng biết bao tự hào. Nếu hình ảnh người lính nông dân trong bài Nhớ của
Hồng Nguyên hiện n thật hồn nhiên, chân phác:
"Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi "Một hai"
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến."
Thì người lính của Chính Hữu lại hiện n với bao khó khăn, gian khổ : Quê
hương anh nước mặn đồng chua/ ng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. Họ đến
từ nhiều miền quê khác nhau: người từ vùng ven biển, người lại trung du
khô cằn, họ vốn là những người xa lạ, nhưng mục đích, tưởng chung h
tụ hội về đây. Họ chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, hình ảnh “súng bên súng đầu
sát bên đầu” vừa thể hiện được nhiệm vụ chiến đấu vừa thể hiện được
tưởng bảo vệ độc lập dân tộc của các anh. Hơn nữa ông còn sử dụng điệp từ
tạo nên âm điệu chắc khỏe, khắc họa đậm nét sự gắn bền chặt của những
người lính.
Đoạn thơ đầu kết thúc bằng hai chữ “đồng chí”, đây hình thức câu đặc biệt,
chứa nhiều ý nghĩa. Chỉ hai ch này thôi nhưng trở thành bản lề khép mở
hai mạch thơ. Khép lại những sở để tạo nên tình đồng chí cao đẹp mở
ra những biểu hiện đẹp đẽ, sáng ngời của thứ tình cảm trân quý ấy. Đồng
thời hai ch đồng chí cũng cách Chính Hữu giải nguyên nhân sao tự
bốn phương trời, từ nhiều nơi khác nhau h lại tự nguyện gắn với nhau.
Bởi họ là những người cùng ý chí, nguyện vọng, cùng tưởng chiến đấu để
bảo vệ làng quê, bảo vệ những người u thương rộng ra bảo vệ quê
hương đất nước. Tình cảm cao đẹp đó sở, ngọn nguồn cho mọi sức
mạnh của người lính nông dân. Lên đường trong tâm thế dứt khoát, nhưng
không thế người lính không nhớ về quê nhà, nhớ về giếng nước gốc đa.
Nỗi nhớ y như một nguồn động lực, cổ vũ, động viên người lính cố gắng
hơn nữa trên con đường chiến đấu bảo vệ đất nước. Chính Hữu đã những
nét chạm khắc ng chân thực về hoàn cảnh sống gian lao, thiếu thốn của
những người lính. Ông không dùng cái nhìn u hồng, vẽ cuộc sống
nhìn thẳng, nhìn thực, trực diện cuộc sống đó:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo ánh rách vai
Quần tôi i mảnh
Miệng cười buốt g chân không giày."
Năm tháng chiến đấu, hành quân xuyên rừng, người lính không chỉ bị những
cơn sốt rét rừng hoành hành, sự sống thể bị cướp đi bất cứ lúc nào,
họ còn phải chịu sự thiếu thốn về vật chất: áo rách vai, quần vá, chân không
giày. Nhưng điều khiến họ thể vượt qua mọi khó khăn đó chính tình
đồng chí, đồng đội gắn khăng khít: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay."
Chính những cái nắm tay ấm áp, đầy tình cảm đã giúp h vượt qua mọi cơn
sốt rét rừng, giúp họ vượt qua mọi i giá lạnh, khắc nghiệt của thời tiết, để
hướng tới tưởng, nhiệm vụ chung:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu ng trăng treo."
Họ chủ động, tự tin, luôn trong thế sẵn sàng chiến. Câu thơ cuối chỉ bốn
chữ, đọng, hàm c, chứa đựng biết bao ý nghĩa trong đó. Về ý nghĩa tả
thực: trong đêm phục kích giặc giữa nơi rừng núi hiểm trở, vầng trăng trở
thành người bạn luôn kề vai sát cánh với người lính. Về khuya trăng xuống
thấp dần, nhìn từ xa cảm giác trăng đang treo lửng nơi đầu mũi súng.
Không chỉ vậy với nhịp thơ 2/2 từ gợi hình treo, ta cảm tưởng vầng
trăng đang lắc theo nhịp điệu chứ không hề tĩnh tại. Khiến cho khung cảnh
trở nên sinh động hơn. Ngoài ra hình ảnh đó còn mang ý nghĩa biểu tưởng.
Ánh trăng người chiến ng chính người chiến thi sĩ, giữa thực
tại mộng, giữa chiến tranh hòa bình. Hai hình ảnh mặc đối lập
nhau nhưng trong câu t của Chính Hữu lại hòa hợp với nhau đến bất ngờ.
Cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, yêu đời của người lính, h luôn cầm
chắc tay súng để bảo vệ sự bình yên cho Tổ Quốc.
Bằng lớp ngôn từ đọng, hàm súc, hình ảnh chân thực, mang tính khái quát
cao, tác phẩm đã ca ngợi tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng. Đồng
thời tác giả cũng đã tái hiện một cách chân thực, giản dị cao đẹp hình ảnh
anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến.
2.6. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài t Đồng chí (Mẫu số 6)
Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình nh chân thật đẹp
trong “Nhớ của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu... nhưng tiêu biểu hơn
cả bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 là
năm cuộc kháng chiến hết sức gay go, quyết liệt. Trong bài thơ này, tác giả
đã tập trung thể hiện mối tình keo sơn gắn bó, ngợi ca tình đồng chí giữa
những người lính trong những m kháng chiến chống Pháp.Cảm nhận đầu
tiên của chúng ta khi đọc bài thơ hình nh người lính hiện lên rất thực, thực
như trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan của họ. Ngỡ như t cuộc đời
thực họ bước thắng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị
thường thấy làng quê ta còn đói nghèo lam lũ:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày n sỏi đá”.
Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi. Người quê miền biển “nước
mặn đồng chua”, người vùng đồi núi “đất cày lên sỏi đá”. Song xa cách
nhau, khác nhau, nhưng đều quê hương của lam lũ, vất vả, đói nghèo.
Chữ nghĩa bình thường như đang cựa quậy khi cuộc sống thực đã ùa vào
câu thơ đem đến những cảm nhận sâu sắc về quê hương người lính.Tuy
những phương trời khác nhau, “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng cùng sống
chiến đấu với nhau trong một đội ngũ, những người lính đã t nguyện gắn
với nhau:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”
Cái rét rừng Việt Bắc đã nhiều lần o trong t bộ đội chống Pháp đó là
một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy. điều lạ
câu thơ nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình
đồng đội, nghĩa đồng bào. Câu thơ của Chính Hữu đã diễn tả tình đồng chí
thật cụ thể đọng, sự gắn giữa những người đồng chí cùng chung
nhau chiến đấu “súng bên súng”, ng chung một tưởng “đầu sát bên đầu”.
Sự gắn mỗi lúc lại ng thêm u sắc: súng n súng đến đầu bên đầu,
rồi thân thiết hơn nữa đắp chung chăn, thành tri kỉ.Đoạn thơ đầu của bài
thơ kết thúc bằng hai chữ “Đồng chí” làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của
cả đoạn thơ. giải thích sao người lính từ bốn phương trời xa lạ, không
hẹn gặp nhau bỗng trở thành thân thiết hơn máu thịt. Đó sự gắn
giữa những người anh cùng chung một tưởng chiến đấu, sự gắn
diệu, thiêng liêng mới mẻ của tình đồng chí.Những người lính, những
đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện.
Họ vốn gắn sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng
cũng sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen
thuộc tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương
những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ cảnh vật
còn làng quê, dân làng. Cảnh vật đây được nhân cách hoá, như
tâm hồn hướng theo người lính. Tác giả tả rất thực về cuộc sống của người
lính. Nhà thơ không che giấu mà n còn muốn nhấn mạnh đ rồi khắc hoạ
nét hơn cuộc sống gian lao thiếu thốn của họ. phải người trong cuộc
thì mới vẽ n bức tranh hiện thực sống động về người lính với một sự đồng
cảm sâu sắc như vậy:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi i mảnh
Miệng cười buốt g
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”
Thơ ca kháng chiến khi nói tới gian khổ của người lính thường nói rất nhiều
tới cái lạnh, cái rét. Đoạn thơ thứ hai này kết thúc bằng câu “Thương nhau
tay nắm bàn tay”. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết
làm sao. Người ta bảo bàn tay biết nói thế. Hình ảnh kết thúc đoạn th hai
này cắt nghĩa sao người lính thế vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ, xa
quê hương, quần áo rách vá. chân không giày, mùa đông lạnh giá, những
cơn sốt t “run người”... Hơi ấm của tình đồng chí truyền cho nhau đã giúp
người lính thắng được tất cả. Hình ảnh kết thúc bài thơ chỉ ba dòng. Sau
những câu thơ tự do đang trải dài “Đêm nay rừng hoang sương muối”......
Câu kết thúc thu vào trong bốn chữ làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén,
chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Hình ảnh kết thúc bài thơ đầy thơ
mộng, cái thơ mộng của gian khố, hiểm nguy: một cánh rừng, một màn
sương, một vầng trăng với hai ngọn súng, hai con người ch giặc. “Đầu súng
trăng treo” cùng một câu thơ dồn nén sức tạo hình, nó đẹp như một
biểu tượng chiến đấu của những người lính giàu phẩm chất tâm hồn. Đó
cũng vẻ đẹp trữ tình mới của thơ ca kháng chiến, kết hợp được súng
trăng không khiên cưỡng.Toàn bài “Đồng chí” từ chi tiết cuộc sống đến
cảm giác của tác giả đều rất thật, không một chút vẽ đắp điểm, không bình
luận, thuyết minh.
Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của
“Đồng chí” vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính nơi phát ra vầng
ánh sáng lung linh nhất mối tình đồng đội, đồng chí hoà quyện vào tình giai
cấp. Hình ảnh “đầu ng trăng treo” cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên
đến đỉnh cao khái quát trong đó sự hài hoà giữa hiện thực lãng mạn
đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng u sắc.
2.7. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài t Đồng chí (Mẫu số 7)
Trong suốt lịch sử của nước ta thì hình ảnh người lính trong các cuộc kháng
chiến luôn là một đề i bất tận của thơ ca. mỗi một thời kỳ, họ lại hiện lên
với những vẻ đẹp khác nhau, lúc thì sôi nổi, trẻ trung, khi thì hào hoa, lãng
mạn. Đến với Chính Hữu, chúng ta bắt gặp hình ảnh của người lính nông dân
chân chất mộc mạc trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đấy được
thể hiện hết sức sâu sắc cảm động trong bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm
1948.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày n sỏi đá”.
Hình tượng người lính hiện lên trong bài thơ hết sức chân thật, thật đến nỗi
chúng ta cảm nhận như vừa thấy bóng dáng của ai đó bước thẳng vào trong
những trang thơ. Thành ngữ “nước mặn đồng chua” “đất cày lên sỏi đá”
ám chỉ những vùng đất khô cằn, bị nhiễm phèn, nhiễm mặn quanh năm, rất
khó canh tác. Đấy đều những ng quê chiêm trũng nghèo đói quanh
năm. Những người lính trong chiến trường cũng chính người con của
mảnh đất quê hương đấy, họ đều những người nông dân cần cù, lam lũ,
chân lấm tay bùn, vậy nên cách họ thổ lộ tâm sự, nói chuyện với nhau
đều hết sức dân mộc mạc đúng như cái chất của người nông dân.
Những tưởng hai con người hai vùng quê nghèo đói đấy sẽ chẳng bao gi
gặp được nhau, ấy vậy chiến tranh nổ ra, những người lính phải từ giã
vùng quê của mình để lên đường bảo vệ q hương, đất nước. Họ cùng
chung mục đích, tưởng chiến đấu, chính những điều đó đã mang h lại nơi
đây, họ trở thành những người bạn, người đồng đội, đồng chí cùng nhau chia
sẻ ngọt bùi gian khổ.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”.
Hình ảnh người lính còn hiện lên với những vẻ đẹp của đời sống tâm hồn,
tình cảm, sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau, cùng chia sẻ
những gian lao, thiếu thốn. Các anh đều những người lính tạm gác tình
riêng, để nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, dũng cảm ra đi nghĩa
lớn để lại sau lưng mảnh trời quê hương với biết bao nhiêu trăn trở.
“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Hình ảnh “gian nhà không” hình ảnh khá lắng đọng trong tâm trí những
người chiến ấy cũng hết sức ám ảnh trong tâm trí người đọc. Đấy i
nghèo xác của những vùng quê hay cũng chính nỗi trống trải trong lòng
của những người lại. “Giếng nước, gốc đa” vốn là những vật tri, giác
nay đã được nhân hóa lên để thể hiện nỗi nh thương da diết của quê hương
yêu dấu với những người lính đã rời đi rất khó để hẹn ngày trở lại. Ngoài
ra giếng nước, gốc đa còn dùng đ ám chỉ những người lại, những người
vợ chờ chồng, mẹ chờ con luôn nhớ thương, mong ngóng tới ngày người lính
trở về. Tại sao người lính đang trong chiến trường lại thấu hiểu hết
những tâm sự của quê hương, gia đình, ấy bởi chính người lính cũng
đang nhớ về họ da diết, một nỗi nhớ hai chiều, nh về quê hương chính
cách để họ vượt qua khó khăn. Đấy chính vẻ đẹp tâm hồn, những tình cảm
chất chứa trong những người chiến y.
Chiến tranh diễn ra ác liệt, những người lính không ch phải đối mặt với mưa
bom bão đạn của kẻ thù, đây Chính Hữu đưa chúng ta đến với cuộc sống
thường ngày của những người lính với những gian khổ, bệnh tật hành hạ,
thiếu thốn tất cả những vật dụng hằng ngày quần áo, thuốc men, giày dép.
Nhưng họ vẫn toát lên tinh thần lạc quan, mỉm cười để cùng nhau vượt qua
thử thách, khó khăn trùng điệp.
“Áo anh rách vai
Quần tôi i mảnh
Miệng cười buốt g
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Cái nắm tay ấy không ch cái nắm tay đơn thuần nắm tay để truyền cho
nhau hơi ấm của tình thương, truyền cho nhau sức mạnh của ý chí để động
viên nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn, thiếu thốn. đây chúng ta bắt gặp
hình ảnh về người lính xiết bao cảm động ấm áp, đấy sức mạnh của
tình thương, của sự sẻ chia những nhọc nhằn, gian lao, thiếu thốn, hành
động nắm tay nhau ấy không khác việc “đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết
rơi”, thể nó không đủ sưởi ấm thể họ, nhưng cũng đ để sưởi ấm trái
tim họ. Hình ảnh người lính còn hiện lên với vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết,
thương yêu, kề vai sát cánh bên nhau cùng nhau chiến đấu chống lại quân
thù. Giữa không gian âm u của rừng hoang, sương muối ấy vẫn sáng lên bức
tượng đài bất diệt về người lính đứng cạnh bên nhau trong thế chủ động
tấn công chờ giặc tới”, một sự kết hợp hài hòa giữa hình tượng súng
trăng. Súng tượng trưng cho hiện thực cho cuộc chiến tranh khốc liệt gian
khổ, trăng tượng trưng cho hòa bình, cho khát vọng về một ngày mai đất
nước thanh nh. “Đầu súng trăng treo” còn tượng trưng cho sự giao hòa về
tâm hồn của người lính giữa chiến thi sĩ, giữa hiện tại mộng mơ. Tâm
hồn người lính vẫn rất đẹp, luôn yêu đời, tin tưởng về một ngày mai hòa bình.
Bài thơ “Đồng chí” đã xây dựng một bức tượng đài bất diệt về hình ảnh người
lính trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đó đẹp sống động tới nỗi
cho hôm nay mai sau mỗi khi nhắc đến hình tượng người lính trong kháng
chiến thì bức tượng đài đó vẫn luôn hiện về trong tâm trí người đọc.
2.8 Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài thơ Đồng chí (Mẫu số 8)
một nhà thơ đã từng tâm sự:
"Đất nước mình đây
Hai mươi năm
Mưa, nắng, đêm, ngày
Hành quân không mỏi
Sung sướng bao nhiêu: "Tôi đồng chí
Của những người đi, tận, hôm nay."
Đó ai nếu không phải nhà thơ Chính Hữu - một nhà thơ chiến trưởng
thành trong kháng chiến chống Pháp chống Mĩ. Giữa muôn vàn thăng trầm,
biến cố của lịch sử, trên đôi tay Chính Hữu không chỉ vững vàng những cây
súng đánh giặc còn bung nở cho đời những vần thơ diệu về người lính.
"Đồng chí" một trong những bài thơ như thế. c giả Chính Hữu một
người lính cụ Hồ đúng nghĩa; Ông nguyên đại tá, phó cục trưởng cụ tuyên
huấn thuộc tổng cục chính trị- quân đội nhân dân Việt Nam; nguyên phó tổng
thư Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1946, ông gia nhập trung đoàn thủ đô
hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Mỹ Pháp.

Preview text:

Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng Chí hay nhất
1. Dàn ý cảm nhận về hình ảnh người lính trong bài thơ "Đồng
chí" 1.1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm Đồng chí và tác giả Chính Hữu. 
Sáng tác năm 1948 trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. 
Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp tình đồng chí thắm thiết sâu nặng của
những người lính thời kháng chiến chống Pháp đồng thời làm hiện lên hình
ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của người lính cụ Hồ. 1.2.Thân bài
a. Khái quát chung về bài thơ:
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ, vị trí đoạn trích.
b. Phân tích vẻ đẹp tình đồng chí:
+ Vẻ đẹp của sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc những tâm tư thầm kín.
+ Thấu hiểu hoàn cảnh gia đình của nhau, thấu hiểu nỗi lòng riêng tư của
người bạn lính, chia sẻ niềm thương nhớ, nặng lòng với quê hương bạn.
+ Hiểu được sự hy sinh thầm lặng, sự nhớ thương mong ngóng của những người ở hậu phương. 
Hình ảnh hoán dụ giếng nước, gốc đa gợi lên hình ảnh về quê hương,
người thân nơi hậu phương của người lính. 
Họ cùng sống với nhau trong kỉ niệm, nỗi nhớ nhà, cùng nhau vượt lên nỗi
nhớ đó để chiến đấu.
+ Vẻ đẹp của việc đồng cam cộng khổ với hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, đau thương.
+ Họ chia sẻ những gian lao, khổ cực, thiếu thốn trong cuộc đời người lính
“Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, “áo rách vai”, “chân không giày”.
+ Họ cùng nhau trải qua khó khăn, khắc nghiệt trong chiến đấu. 
Tác giả xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau, bao giờ người lính
cũng nhìn bạn nói về bạn trước khi nói tới mình. 
Cách nói thể hiện nét đẹp thương người như thể thương thân, trọng người hơn mình. 
Tình đồng chí, tri kỉ đã giúp họ vượt lên trên buốt giá. 
Họ quên mình để động viên nhau, cùng nhau vượt lên trên buốt giá và
những bàn tay động viên, truyền cho nhau hơi ấm.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
+ Yêu thương nhau bằng cả tấm lòng chân thành sâu nặng với những cử chỉ nghĩa tình.
+ Họ cùng nhau vượt qua mọi gian khổ với tinh thần lạc quan, sức mạnh của
tình đồng đội “miệng cười buốt giá”.
=> Sức mạnh của tình đồng chí được thể hiện trong khó khăn gian khổ.
+ Biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí.
+ Tình đồng chí được tôi luyện khi họ cùng nhau sát cánh thực hiện nhiệm vụ đánh giặc.
+ Chính ở nơi thử thách, ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết gần
kề tình đồng chí thực sự thiêng liêng cao đẹp.
+ Trên nền khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng cũng khắc nghiệt, những
người lính với tư thế chủ động “chờ” giặc thật hào hùng.
+ Hai câu thơ cuối đối nhau thật chỉnh khi ca ngợi tình đồng chí giúp người
lính vượt lên tất cả khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết.
+ Hình ảnh đầu súng trăng treo bất ngờ, là điểm nhấn làm sáng bừng bài thơ:
đây là sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn. 
Nghĩa tả thực: người lính cầm súng hướng lên trời, người lính như thấy
trăng treo lơ lửng nơi họng súng. 
Ý nghĩa biểu tượng: súng biểu tượng cho đấu tranh khó khăn nguy hiểm -
đây là hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Trăng là biểu tượng thanh mát, yên bình.
c. Giá trị nghệ thuật:
Ngôn ngữ thơ cô đọng hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái quát cao,
nhằm diễn tả cụ thể tình cảm thiêng liêng cao đẹp - "tình đồng chí." 
Giọng thơ sâu lắng, xúc động như lời tâm tình tha thiết. 1.3. Kết bài
Tình đồng chí được thể hiện chân thực, cao đẹp qua thể thơ tự do, ngôn từ
hình ảnh giản dị mà hàm súc. 
Đoạn thơ góp phần cùng bài thơ làm nên một áng thơ đẹp về tình đồng chí
nói riêng và hình tượng người lính cách mạng nói chung.
2. Một số mẫu cảm nhận hình ảnh người lính qua bài thơ "Đồng chí"
2.1. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài thơ Đồng chí (Mẫu số 1)

Chính Hữu là nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống
thực dân Pháp lần hai. Với phong cách thơ nhỏ nhẹ, đằm thắm, trữ tình thiết
tha, Chính Hữu để lại rất nhiều những bài thơ hay, độc đáo cho nền văn học
dân tộc. Tập thơ "Đầu súng trăng treo" với bài thơ "Đồng chí" là một trong
những thi phẩm xuất sắc, điển hình, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
Chính Hữu. Qua bài thơ về tình đồng chí, hiện lên vẻ đẹp bình dị cao cả của
người lính cách mạng, anh vệ quốc quân năm xưa. Bài thơ là bức chân dung
đẹp về người lính cụ Hồ.
Tác phẩm được viết vào khoảng đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội
của mình tham gia chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông năm 1947. Với cái nhìn
chân thực của người lính – người trong cuộc, người trực tiếp cầm súng ra
mặt trận, Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ đẹp sống động từ hoàn cảnh
xuất thân đến tâm hồn và ý chí nghị lực mạnh mẽ, dũng cảm, chan chứa tình
đồng chí của người lính cách mạng. Trước hết, họ là những người lính xuất
thân từ những chàng trai nông dân áo vải lam lũ, nghèo khó trên khắp mọi
miền đất nước và chứa chan tinh thần yêu nước, trách nhiệm với quê hương dân tộc:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá."
Thành ngữ "nước mặn đồng chua", gợi lên một miền đất nắng gió ven biển,
đất đai bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Còn cụm từ “đất cày lên
sỏi đá” lại gợi lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai
cằn cỗi, khó canh tác. Đó là xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân và cuộc
sống của những chàng trai nông dân chân lấm tay bùn, áo nhuộm nâu bốn
mùa, chỉ quen với tay cuốc, tay cày sau lũy tre làng. Thế nhưng, khi tổ quốc
lâm nguy, họ đã sẵn sàng gác lại tất cả những gì quí giá nhất, thân thiết nhất
nơi làng quê để ra đi chiến đấu:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính."
Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa… là những hình ảnh giản dị,
quen thuộc ở mọi làng quê Việt Nam. Có lẽ lúc này người lính đang rất nhớ
tới quê hương, nơi có gia đình, người thân, có ruộng nương, gian nhà, những
tình cảm đẹp đẽ của họ từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành. Nhưng từ “mặc
kệ” đã cho thấy sự quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê
hương, ruộng nương, gian nhà và cả những tình cảm buồn vui của thời thơ
ấu cho người thân yêu để lên đường cầm súng đánh giặc cứu nước. Tinh
thần hi sinh mạnh mẽ ấy đã được nhà thơ Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ của mình:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc”.
Như vậy, câu thơ đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của
người lính đối với dân tộc khi tổ quốc lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu
nước mạnh mẽ, sâu sắc của họ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một hình
ảnh rất giàu sức gợi, đây vừa là nhân hóa, lại vừa là hoán dụ biểu trưng cho
quê hương, người thân nơi hậu phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung
người lính da diết. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là
người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết, khôn nguôi.
Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy, lại là động lực mạnh mẽ, thôi thúc và
tiếp bước cho họ vươn lên mà mạnh mẽ, trưởng thành, vì sự nghiệp chung
lớn lao của đất nước, dân tộc. Những người lính nông dân áo vải ấy đã trải
qua biết bao nhiêu gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người
hành hạ, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay."
Hình ảnh: “ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi” là những biểu hiện cụ thể để
nói về căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không hề
có đủ thuộc men để chạy chữa. Vì thế các anh – những người lính anh hùng
dũng cảm phải cắn răng chịu đựng, tự lực, tự cường mà vượt qua gian khổ.
Đây là một hình ảnh xuất phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong
chiến tranh. Và căn bệnh sốt rét này không phải chỉ xuất hiện trong thơ Chính
Hữu mà trong rất nhiều các bài thơ của các nhà thơ kháng cũng đã từng nhắc tới. Trong bài thơ
"Tây Tiến" của Quang Dũng, nhà thơ cũng đã viết:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm."
Hay trong bài "Dấu chân qua trảng cỏ" của Thanh Thảo, ông cũng từng có câu thơ:
"Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe."
Căn bệnh sốt rét – nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh,
đã hành hạ họ, khiến họ tiều tụy xanh xao, màu da vàng vọt, tóc thì rụng hết..
Vì thế lúc này, chỉ có tình yêu thương, sự đùm bọc lẫn nhau của những người
lính là thuốc bổ tinh thần, giúp họ cùng nhau cộng hưởng, sẻ chia mà vươn
lên chiến thắng chính mình. Không dùng lại ở đó, người lính còn phải đối diện
với cả sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất: "áo rách vai, quần vài mảnh vá,
chân không giày". Nhưng trong hoàn cảnh ấy, những người lính vệ quốc, họ
đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động chân thành: “Miệng cười
buốt giá”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Chính nụ cười đã xoá tan đi
cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ thiếu thốn. Cùng
động viên nhau qua ánh mắt nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong
“buốt giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm, cho thấy được sự lạc quan mạnh
mẽ của họ trong cuộc sống chiến đấu. Còn hành động “tay nắm lấy bàn tay”
là một cử chỉ rất cảm động và cần thiết vào lúc này. Họ đã truyền cho nhau
hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì mục tiêu lí
tưởng cách mạng lớn lao: vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ, tình yêu thương nhau
đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Tất cả
những cử chỉ ánh mắt, nụ cười, nắm tay ấy đã giúp họ có thêm động lực để
vượt qua khó khăn, thử thách. Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo
sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến
trường kì. Hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ đã kết tinh, tỏa sáng
trong đoạn thơ cuối của bài thơ:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo."
Ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực, lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay
bổng, vừa gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả
tình cảm ấm áp của những người lính trong chiến tranh. Đây là biểu hiện cao
đẹp nhất của tình đồng chí, đồng đội. Đó là khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ
thể với khung cảnh “rừng hoang – sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc
nghiệt. Tuy nhiên, người lính vẫn đứng cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”.
Động từ “chờ” cho thấy được tư thế chủ động và hết sức đề cao cảnh giác
của người lính trong khi làm nhiệm vụ. Nghệ thuật tương phản đối lập được
tạo ra rất cân đối giữa một bên là không gian núi rừng lạnh lẽo, hoang vu,
vắng lặng; với một bên là tư thế chủ động mạnh mẽ như lấn át cả không gian
toàn cảnh của người lính. Chính sức mạnh của tình đồng chí đã làm cho
người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt đó. Các từ gần nghĩa “cạnh –
bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn bó luôn có nhau của
những người lính. Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới cái
nhìn lãng mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng.
Và "Trăng" theo đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình cảm
đồng chí keo sơn của người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho không gian
của rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên. Hình ảnh “súng – trăng” được
đặt cạnh bên nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại – mơ
mộng; chiến tranh – hòa bình; chiến sĩ – thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện thực và
lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại
vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ lại vừa là thi sĩ,
họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập , tự do cho
Tổ Quốc thân yêu. Có thể nói, ba câu thơ cuối một bức tranh đẹp, như một
bức tượng đài sừng sững của hình ảnh người lính cách mạng với tình đồng
chí thiêng liêng, sâu sắc. Chính tình cảm đồng chí đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ.
Tóm lại, bài thơ "Đồng chí" là một bài thơ hay, độc đáo viết về người lính cụ
Hồ. Qua bài thơ, người đọc thấy được vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội sâu sắc,
cao cả, thiêng liêng của người lính cách mạng. Có thể nói, bài thơ là một bức
tượng đài người nông dân mặc áo lính rất đẹp, tráng lệ, hào hùng của thời kì đầu kháng Pháp.
2.2. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài thơ Đồng chí (Mẫu số 2)
Hình tượng người lính trong kháng chiến là đề tài thu hút nhiều bút lực. Đó là
anh hùng áo vải sẵn sàng hi sinh tính mạng cho nhân dân đất nước, nhiều
nhà thơ đã viết về họ. Và trong đó không thể không kể đến một bài thơ "Đồng
Chí" của Chính Hữu. Bài thơ được viết đầu năm 1948 những năm đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng khó khăn gian khổ cả về vật chất lẫn
tinh thần, đời sống kháng chiến. Nhưng tinh thần đoàn kết thương yêu của
đồng chí, đồng đội họ đã vượt qua để chiến đấu chiến thắng.Chính Hữu viết
"Đồng Chí" hướng ngòi bút vào chất hiện thực đời sống kháng chiến khai
thác cái đẹp trong cái giản dị chân thực, đời thường. Tình đồng chí đồng đội
thắm thiết sâu nặng của người lính cách mạng rất tự nhiên như vốn có ngoài
đời, đúng với phẩm chất người lính cụ Hồ, giản dị mà anh hùng.Trước hết
tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hai câu thơ giới thiệu quê hương của những người lính, "anh" - " tôi" đều là
những người lính xuất thân từ nông dân. Thành ngữ "nước mặn đồng chua"
chỉ vùng ven biển đất khó làm ăn. "Đất cày sỏi đá" là vùng đồi núi trung du
khó canh tác. Nghĩa là họ đều chung cái nghèo khó, là cơ sở đồng cảm về
giai cấp của những người lính. Và chính điều đó khiến họ từ mọi phương trời
xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng, rồi trở lên thân quen với
nhau, khi họ cùng chung niềm vui đánh giặc.
"Súng bên súng đầu sát bên đầu"
Hình ảnh thơ sóng đôi, họ không chỉ chung nghĩa vụ, chí hướng mà tình đồng
chí cùng gắn bó chặt chẽ kề vai sát cánh bên nhau, đối mặt với quân thù. Khi
màn đêm buông xuống, đôi bạn lính lại cùng chung một tấm chăn mỏng nỉ rỉ
chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện gian nan khó nhọc – họ thành đôi tri kỉ. Đôi
bạn chí cốt hiểu nhau sâu sắc.
"Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Câu thơ đầy ắp kỉ niệm và ấm áp tình thân hữu. Lời thơ thứ 7 gồm một từ với
hai tiếng cùng dấu "!" tạo một nốt nhấn, như một tiếng gọi thiết tha xúc động
vừa như một phát hiện, kết luận vừa như bản lề gắn kết hai đoạn thơ làm nổi
rõ một tất yếu. Cùng hoàn cảnh xuất thân, lí tưởng thì trở thành đồng chí của
nhau và mở ra ý tiếp đồng chí còn là như thế nào nữa? Vậy cách lập dàn ý
đó tạo lên một kết cấu đặc sắc cho bài thơ.Những câu thơ tiếp theo mở ra
những biểu hiện cụ thể, cảm động về tình đồng chí, giữa những người lính
trong đời sống chiến tranh, từ đồng cảnh họ trở thành đồng cảm.
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính".
Lời thơ nói về "anh" – về bạn bởi người lính cùng chung hoàn cảnh, chung
nỗi niềm, hiểu bạn như hiểu mình. Khi đất nước bị xâm lăng, tinh thần dân tộc
thôi thúc họ lên đường và trở thành người lính. Hậu phương nhà cửa gửi lại
hậu phương. Hình ảnh "gian nhà không mặc kệ gió lung lay" gây xúc động
đến nao lòng. Gian nhà không – gian nhà trống không tài sản có phần siêu
vẹo bởi gió lung lay gợi ra hoàn cảnh nghèo khó tận cùng của người lính
nông dân. Song họ vẫn vui vẻ lên đường vi nghĩa lớn. Thái độ dứt khoát kiên
quyết nhưng tâm tư vẫn luôn hướng về hậu phương. "Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính."
Nghệ thuật nhân hóa hoán dụ diễn tả quê hương nhớ người đi lính, nhưng
thực chất người đi lính nhớ nhà, gốc đa giếng nước nơi chứng kiến cuộc chia
li lên đường… Những kỉ niệm ấy luôn leo đậu trong tâm tư và họ sẻ chia cho
nhau đồng cảm niềm vui nỗi buồn. Tình cảm đồng chí đặc biệt được thể hiện
ở sự chia sẻ tâm tư nỗi niềm. Những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính biết bao gian khổ.
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay".
Những câu thơ miêu tả hiện thực đời sống người lính tới từng chi tiết khó
khăn gian khổ, thiếu thốn bệnh tật. Những cơn sốt rét rừng hành hạ là có
thực, đói rét, chân không giầy, đầu không mũ, áo phong phanh một mảnh,
quần rách vá là thực. Sương muối phủ rừng hoang… Bút pháp hiện thực thể
hiện qua những câu thơ sóng đôi góp phần diễn tả sự sẻ chia trong mọi cảnh
ngộ… Song cái đẹp nhất, quý giá nhất ở người lính là tình đồng đội, thương
nhau tay nắm… tay. Trong đói rét hiểm nguy người lính đã tìm hơi ấm nơi
bàn tay nhau, truyền cho nhau tình cảm sức mạnh vượt lên. Cuộc chiến đấu
trường kì gian khổ là thế, bộ đội ta chỉ có tình đồng chí đồng đội, tình yêu
thương giai cấp là nền tảng cơ sở để tồn tại. Tiếp sức cho nhau, tiếp tục
chiến đấu thắng lợi cuối cùng.Nhiệm vụ chủ yếu của người lính là đánh giặc
vì vậy tình đồng chí cao đẹp nhất là tình đồng chí gắn bó thiêng liêng nơi
tuyến đầu chống giặc, nơi sự sống và cái chết kề nhau trong tích tắc.
Ba câu thơ cuối dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí trong
hoàn cảnh khắc nhiệt: Đêm, rừng hoang, sương muối đôi bạn chiến đấu tạo
lên tư thế vững trãi, nương tựa vào nhau. Người lính trong cảnh phục kích
giặc giữa rừng khuya còn có những người bạn nữa - Vầng trăng, "đầu súng
trăng treo" là hình ảnh được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích của
chính tác giả. Nhưng hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng gợi ra liên
tưởng phong phú "sún" và "trăng" là gần và xa. Thực tại và mơ mộng, chất
chiến đấu và chất chữ tình. "Chiến sĩ và thi sĩ". Đó là các mặt bổ sung cho
nhau hài hòa với nhau về cuộc sống cách mạng.Hình tượng người lính trong
kháng chiến chống Pháp hiện lên trong bài thơ thật giản dị chân thật hàm xúc,
giàu sức biểu cảm. Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng
chung cảnh ngộ, lí tưởng chiến đấu. Đã góp phần quan trọng tạo lên vẻ đẹp
sức mạnh tinh thần của người lính cách mạng. Bài thơ giản dị nhưng để lại
trong người đọc nhiều rung cảm sâu sắc là bằng chứng xác thực về một thời
oanh liệt tình người cao đẹp.
2.3. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài thơ Đồng chí (Mẫu số 3)
Hình ảnh người lính trong kháng chiến luôn là một đề tài bất tận của thơ ca
kháng chiến. Ở mỗi một thời kì, họ lại hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau,
có lúc thì sôi nổi, trẻ trung, khi thì hào hoa, lãng mạn. Đến với Chính Hữu,
chúng ta bắt gặp hình ảnh của người lính nông dân chân chất và mộc mạc
trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đấy được thể hiện hết sức sâu sắc
và cảm động trong bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm 1948.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hình tượng người lính hiện lên trong bài thơ hết sức chân thật, thật đến nỗi
chúng ta cảm nhận như vừa thấy bóng dáng của ai đó bước thẳng vào trong
những trang thơ. Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá”
ám chỉ những vùng đất khô cằn, bị nhiễm phèn, nhiễm mặn quanh năm, rất
khó canh tác. Đấy đều là những vùng quê chiêm trũng và nghèo đói quanh
năm. Những người lính trong chiến trường cũng chính là người con của
mảnh đất quê hương đấy, họ đều là những người nông dân cần cù, lam lũ,
chân lấm tay bùn, vậy nên cách mà họ thổ lộ tâm sự, nói chuyện với nhau
đều hết sức dân dã và mộc mạc đúng như cái chất của người nông dân.
Những tưởng hai con người ở hai vùng quê nghèo đói đấy sẽ chẳng bao giờ
gặp được nhau, ấy vậy mà chiến tranh nổ ra, những người lính phải từ giã
vùng quê của mình để lên đường bảo vệ quê hương, đất nước. Họ cùng
chung mục đích, lí tưởng chiến đấu, chính những điều đó đã mang họ lại nơi
đây, họ trở thành những người bạn, người đồng đội, đồng chí cùng nhau chia
sẻ ngọt bùi và gian khổ.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”.
Hình ảnh người lính còn hiện lên với những vẻ đẹp của đời sống tâm hồn,
tình cảm, là sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau, cùng chia sẻ
những gian lao, thiếu thốn. Các anh đều là những người lính tạm gác tình
riêng, để nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, dũng cảm ra đi vì nghĩa
lớn để lại sau lưng mảnh trời quê hương với biết bao nhiêu trăn trở.
“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Hình ảnh “gian nhà không” là hình ảnh khá lắng đọng trong tâm trí những
người chiến sĩ ấy và cũng hết sức ám ảnh trong tâm trí người đọc. Đấy là cái
nghèo xơ xác của những vùng quê hay cũng chính là nỗi trống trải trong lòng
của những người ở lại. “Giếng nước, gốc đa” vốn là những vật vô tri, vô giác
nay đã được nhân hóa lên để thể hiện nỗi nhớ thương da diết của quê hương
yêu dấu với những người lính đã rời đi và rất khó để hẹn ngày trở lại. Ngoài
ra giếng nước, gốc đa còn dùng để ám chỉ những người ở lại, những người
vợ chờ chồng, mẹ chờ con luôn nhớ thương, mong ngóng tới ngày người lính
trở về. Tại sao người lính đang ở trong chiến trường mà lại thấu hiểu hết
những tâm sự của quê hương, gia đình, ấy là bởi vì chính người lính cũng
đang nhớ về họ da diết, một nỗi nhớ hai chiều, nhớ về quê hương chính là
cách để họ vượt qua khó khăn. Đấy chính là vẻ đẹp tâm hồn, những tình cảm
chất chứa trong những người chiến sĩ ấy.Chiến tranh diễn ra ác liệt, những
người lính không chỉ phải đối mặt với mưa bom bão đạn của kẻ thù, ở đây
Chính Hữu đưa chúng ta đến với cuộc sống thường ngày của những người
lính với những gian khổ, bệnh tật hành hạ, thiếu thốn tất cả những vật dụng
hằng ngày quần áo, thuốc men, giày dép. Nhưng ở họ vẫn toát lên tinh thần
lạc quan, mỉm cười để cùng nhau vượt quan thử thách, khó khăn trùng điệp. “Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Cái nắm tay ấy không chỉ là cái nắm tay đơn thuần mà nắm tay để truyền cho
nhau hơi ấm của tình thương, truyền cho nhau sức mạnh của ý chí để động
viên nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn, thiếu thốn. Ở đây chúng ta bắt gặp
hình ảnh về người lính xiết bao cảm động và ấm áp, đấy là sức mạnh của
tình thương, của sự sẻ chia những nhọc nhằn, gian lao, thiếu thốn, hành
động nắm tay nhau ấy không khác gì việc “đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết
rơi”, có thể nó không đủ sưởi ấm cơ thể họ, nhưng cũng đủ để sưởi ấm trái
tim họ. Hình ảnh người lính còn hiện lên với vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết,
thương yêu, kề vai sát cánh bên nhau cùng nhau chiến đấu chống lại quân
thù. Giữa không gian âm u của rừng hoang, sương muối ấy vẫn sáng lên bức
tượng đài bất diệt về người lính đứng cạnh bên nhau trong tư thế chủ động
tấn công “chờ giặc tới”, một sự kết hợp hài hòa giữa hình tượng súng và
trăng. Súng tượng trưng cho hiện thực cho cuộc chiến tranh khốc liệt và gian
khổ, trăng tượng trưng cho hòa bình, cho khát vọng về một ngày mai đất
nước thanh bình. “Đầu súng trăng treo” còn tượng trưng cho sự giao hòa về
tâm hồn của người lính giữa chiến sĩ và thi sĩ, giữa hiện tại và mộng mơ. Tâm
hồn người lính vẫn rất đẹp, luôn yêu đời, tin tưởng về một ngày mai hòa bình.
Bài thơ “Đồng chí” đã xây dựng một bức tượng đài bất diệt về hình ảnh người
lính trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đó đẹp và sống động tới nỗi dù
cho hôm nay và mai sau mỗi khi nhắc đến hình tượng người lính trong kháng
chiến thì bức tượng đài đó vẫn luôn hiện về trong tâm trí người đọc.
2.4. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài thơ Đồng chí (Mẫu số 4)
Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ đã trở thành một đề tài được nhiều người lựa
chọn để đưa vào thơ ca của mình, nhưng đối với “Đồng chí” của Chính Hữu
đó là hình ảnh của người lính giống như bức tượng đài về tình đồng chí,
đồng đội cùng chung cảnh ngộ, chung lý tưởng cách mạng.Các anh là những
người nông dân chất phác, vì đất nước còn nghèo, còn khó khăn nhưng trên
đó là cảnh đất nước bị xâm chiếm, các anh đành bỏ lại tất cả “ruộng nương,
gian nhà” những tài sản lớn nhất của cuộc đời mình để xung phong lên
đường nhập ngũ, bảo vệ quê hương, đất nước.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
Khi những người nông dân mặc áo lính chiến đấu “Súng bên súng, đầu sát
bên đầu” là các anh đã cùng chung một lý tưởng, chung một chiến hào, họ
sát cánh bên nhau, trở nên gần gũi với nhau.Khi mà chúng ta thiếu thốn về
tất cả mọi mặt và phải đối diện với thời tiết khắc nghiệt phải “Đêm rét chung
chăn thành đôi tri kỷ” để các anh ngày càng gần nhau hơn nữa, đến cái chăn
cũng khó đủ để đắp, các anh “chung bát, chung đũa, chung chăn, chung lý
tưởng”, “thương nhau chia củ sắn, củ khoai, chăn sui đắp cùng”. Chính
những lúc thiếu thốn, khó khăn này làm nảy sinh ra biết bao nhiêu tình cảm,
khi tấm chăn đắp lại là lúc tâm tình mở ra, họ kể cho nhau rất nhiều về đời
sống, tình yêu, gia đình, làm họ ngày càng hiểu nhau hơn và dần dần tình
cảm ấy trở thành “đôi tri kỉ”. Khi hai từ “đồng chí” được cất lên là biết bao
nhiêu tình cảm trong họ trỗi dậy, đó là tiếng gọi tha thiết cất lên từ trái tim của
những người có cùng chí hướng đánh giặc cứu nước. Chính Hữu đã từng
tâm sự rằng: “Những ngày đầu kháng chiến, từ “đồng chí” mang ý nghĩa
thiêng liêng và máu thịt vô cùng, nói về tình cảm của các anh bộ đội. Cuộc
sống của người này trở nên cần thiết đối với người kia. Họ bảo vệ nhau trước
mũi súng kẻ thù, cùng đi qua cái chết, cùng thực hiện lý tưởng cách mạng.
Đó là ý nghĩa sâu sắc về tình đồng chí.”
Hình ảnh “ruộng nương, gian nhà” là những hình ảnh quen thuộc trên mọi
làng quê Việt Nam, đó là tài sản lớn nhất của cuộc đời họ, nhưng rồi họ đành
bỏ lại tất cả để lên đường chiến đấu, vượt lên trên hết đó là tình yêu quê
hương, đất nước, sẵn sàng hy sinh vì cuộc kháng chiến của dân tộc.Nhưng
họ đâu chỉ có chia sẻ cho nhau những tâm tư, tình cảm trong cuộc sống mà
họ còn chia sẻ và động viện nhau trong những thiếu thốn, gian khổ của cuộc chiến tranh:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi. .... .... ..… Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Bệnh sốt rét là căn bệnh nguy hiểm và phổ biến trong bộ đội ta lúc bấy giờ,
nhưng bộ đội lại thiếu thốn về cả mặt thuốc men, chính vì thế mà các anh
phải đấu tranh, chống chọi lại, có người còn “tóc không mọc” được vì căn
bệnh đó tàn phá, nhưng khi đó đã có tôi và anh, chỉ cần chúng ta có nhau vì
chung ta chiến đấu vì lòng yêu nước, vì lý tưởng cách mạng. Qua đó để
chúng ta thấy được tình yêu thương mà họ dành cho nhau thật đáng quý.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Bày tay ấy truyền hơi ấm cho nhau, cùng nhau vượt qua bệnh tật, vượt qua
thời tiết khắc nghiệt, tiếp thêm sức mạnh cho nhau. Nhà thơ từng bộc bạch
rằng: “tất cả những gian khổ của người lính trong giai đoạn này thật khó để
kể hết nhưng chúng tôi đã vượt qua nhờ sự gắn bó tiếp sức giữa các đồng
đội trong quân ngũ, cho tới hôm nay, mỗi khi nghĩ đến tình đồng đội năm xưa,
lòng tôi vẫn còn cảm xúc bồi hồi”. Điển hình là hình ảnh “đầu súng trăng treo”.
“Đầu súng trăng treo” là biểu tượng cao đẹp nhất của tình đồng chí. Với 3 câu
thơ đó khi đọc lên ta thấy được bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí đã
được dựng lên trên cái nền của thiên nhiên khắc nghiệt “đêm nay rừng hoang
sương muối”, giữa một buổi đêm khuya với một không gian rộng lớn, bát ngát
của núi rừng Việt Bắc, rừng hoang sương muối phủ trắng trời, thời tiết, địa lý
khắc nghiệt đó như là thử thách cho tình đồng đội của người lính. Khi Chính
Hữu dựng nên cái nền như thế để tác giả tạo nên sự đối lập giữa thiên nhiên
rừng núi với bức chân dung của người, tác giả sử dụng không gian địa lý đó
để làm nền tô đậm thêm bức chân dung đấy trong tư thế họ đứng cạnh nhau
chờ giặc.Nhà thơ từng chia sẻ: “Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng, đi phục
kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có 3 nhân vật: “khẩu súng, vầng trăng
và người bạn chiến đấu", ba hình ảnh ấy quyện vào nhau tạo thành hình ảnh
“đầu súng trăng treo” ngoài hình ảnh thì 4 chữ này còn có nhịp điệu như nhịp
tắc của một cái gì lơ lửng, chông chênh trong sự bát ngát, suốt đêm vầng
trăng ở bầu trời cao và xuống thấp dần, có lúc lại treo lơ lửng đầu mũi
súng”.Với động từ “chờ” nghĩa là sẵn sàng, chủ động, hiên ngang chờ giặc,
trong thời tiết khắc nghiệt họ vẫn bình thản, lãng mạn bên cuộc chiến này, có
lẽ chỉ có những người lính mới có vẻ đẹp tâm hồn như thế, tâm hồn này đã
được tôi luyện, đã dạn dày kinh nghiệm nơi chiến trường rồi thì mới có được
cái tâm thế như thế được. Gian khổ là thế, khó khăn là thế, bom đạn của kẻ
thù là thế, mà có thể khiến cho những người lính của chúng ta mất đi cái vẻ
đẹp ấy, luôn chan chứa về tình đồng đội, về niềm tin rằng ngày mai cuộc
chiến của chúng ta sẽ giành thắng lợi. Nếu như khổ đầu của bài thơ là tình
đồng chí, khổ thứ hai là “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, thì khổ 3 là hình
ảnh “đầu súng trăng treo” là điểm nhấn của khổ 3 và điểm sáng của cả bài,
nó thổi bùng lên hình ảnh tươi đẹp về tình đồng chí. Hình ảnh “đầu súng
trăng treo” có hai ý nghĩa. Tả thực: đó là hình ảnh của những người lính hằng
đêm vẫn thay phiên nhau canh gác, khi đó họ phải đứng trên một chòi cao để
quan sát được xa và rõ nhất, khi đó thì các người lính chĩa ngọn súng của
mình lên bầu trời, khi mà trăng sao sáng trong như vậy, khi ta nhìn từ dưới
lên trên thì ta nhìn thấy ngọn súng của những người lính, chạm vào ánh trăng,
trăng như sà xuống đậu trên đầu của ngọn súng, vì thế trăng chính là một
người bạn, treo trên đầu ngọn súng.Còn ý nghĩa thứ là ta hãy liên tưởng thử
xem, nếu hình ảnh “đầu súng” vốn tượng trưng cho chiến tranh, còn “trăng”
tượng trưng cho hòa bình, tác giả đặt hòa bình với chiến tranh, hiện thực với
lãng mạn để ta thấy được Chính Hữu có điểm nhìn đầy lãng mạn, đầy tin yêu.
Những người lính vừa mang tâm thế của thi sĩ vừa mang tâm thế của chiến sĩ.
Một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, lãng mạn của người lính. Người lính cụ Hồ
hiện lên qua những vần thơ của Chính Hữu thật đẹp đẽ, thật lãng mạn, ta
như được người nhìn thấy họ chiến đấu, thấy họ phải chịu biết bao nhiêu nỗi
đau về thể xác và tinh thần nhưng vượt lên trên đó là tình yêu thương, đùm bọc, chia sẻ với nhau.
2.5. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài thơ Đồng chí (Mẫu số 5)
Viết về tình cảm đồng chí đồng đội trong những năm kháng chiến đã có
những bài thơ rất hay, rất xuất sắc. Và trong chùm những tác phẩm ấy ta
cũng không thể không nhắc đến bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Với ngôn
ngữ bình dị, cách diễn đạt đặc biệt đã đem đến cho đề tài này một bài thơ
mới lạ, độc đáo. Hình ảnh người lính hiện lên thật gần gũi, thân thương và
cũng biết bao tự hào. Nếu hình ảnh người lính nông dân trong bài Nhớ của
Hồng Nguyên hiện lên thật hồn nhiên, chân phác: "Lũ chúng tôi Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi "Một hai" Súng bắn chưa quen, Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến."
Thì người lính của Chính Hữu lại hiện lên với bao khó khăn, gian khổ : Quê
hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. Họ đến
từ nhiều miền quê khác nhau: người từ vùng ven biển, người lại ở trung du
khô cằn, họ vốn là những người xa lạ, nhưng vì mục đích, lí tưởng chung họ
tụ hội về đây. Họ chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, hình ảnh “súng bên súng đầu
sát bên đầu” vừa thể hiện được nhiệm vụ chiến đấu vừa thể hiện được lí
tưởng bảo vệ độc lập dân tộc của các anh. Hơn nữa ông còn sử dụng điệp từ
tạo nên âm điệu chắc khỏe, khắc họa đậm nét sự gắn bó bền chặt của những người lính.
Đoạn thơ đầu kết thúc bằng hai chữ “đồng chí”, đây là hình thức câu đặc biệt,
chứa nhiều ý nghĩa. Chỉ hai chữ này thôi nhưng nó trở thành bản lề khép mở
hai mạch thơ. Khép lại những cơ sở để tạo nên tình đồng chí cao đẹp và mở
ra những biểu hiện đẹp đẽ, sáng ngời của thứ tình cảm trân quý ấy. Đồng
thời hai chữ đồng chí cũng là cách Chính Hữu lí giải nguyên nhân vì sao tự
bốn phương trời, từ nhiều nơi khác nhau họ lại tự nguyện gắn bó với nhau.
Bởi họ là những người cùng ý chí, nguyện vọng, cùng lí tưởng chiến đấu để
bảo vệ làng quê, bảo vệ những người yêu thương mà rộng ra là bảo vệ quê
hương đất nước. Tình cảm cao đẹp đó là cơ sở, ngọn nguồn cho mọi sức
mạnh của người lính nông dân. Lên đường trong tâm thế dứt khoát, nhưng
không vì thế người lính không nhớ về quê nhà, nhớ về giếng nước gốc đa.
Nỗi nhớ ấy như một nguồn động lực, cổ vũ, động viên người lính cố gắng
hơn nữa trên con đường chiến đấu bảo vệ đất nước. Chính Hữu đã có những
nét chạm khắc vô cùng chân thực về hoàn cảnh sống gian lao, thiếu thốn của
những người lính. Ông không dùng cái nhìn màu hồng, tô vẽ cuộc sống mà
nhìn thẳng, nhìn thực, trực diện cuộc sống đó:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo ánh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày."
Năm tháng chiến đấu, hành quân xuyên rừng, người lính không chỉ bị những
cơn sốt rét rừng hoành hành, sự sống có thể bị cướp đi bất cứ lúc nào, mà
họ còn phải chịu sự thiếu thốn về vật chất: áo rách vai, quần vá, chân không
giày. Nhưng điều khiến họ có thể vượt qua mọi khó khăn đó chính là tình
đồng chí, đồng đội gắn bó khăng khít: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay."
Chính những cái nắm tay ấm áp, đầy tình cảm đã giúp họ vượt qua mọi cơn
sốt rét rừng, giúp họ vượt qua mọi cái giá lạnh, khắc nghiệt của thời tiết, để
hướng tới lí tưởng, nhiệm vụ chung:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo."
Họ chủ động, tự tin, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến. Câu thơ cuối chỉ có bốn
chữ, cô đọng, hàm súc, chứa đựng biết bao ý nghĩa trong đó. Về ý nghĩa tả
thực: trong đêm phục kích giặc giữa nơi rừng núi hiểm trở, vầng trăng trở
thành người bạn luôn kề vai sát cánh với người lính. Về khuya trăng xuống
thấp dần, nhìn từ xa có cảm giác trăng đang treo lơ lửng nơi đầu mũi súng.
Không chỉ vậy với nhịp thơ 2/2 và từ gợi hình treo, ta có cảm tưởng vầng
trăng đang lắc lư theo nhịp điệu chứ không hề tĩnh tại. Khiến cho khung cảnh
trở nên sinh động hơn. Ngoài ra hình ảnh đó còn mang ý nghĩa biểu tưởng.
Ánh trăng và người chiến sĩ cũng chính là người chiến sĩ và thi sĩ, giữa thực
tại và mơ mộng, giữa chiến tranh và hòa bình. Hai hình ảnh mặc dù đối lập
nhau nhưng trong câu thơ của Chính Hữu lại hòa hợp với nhau đến bất ngờ.
Cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, yêu đời của người lính, họ luôn cầm
chắc tay súng để bảo vệ sự bình yên cho Tổ Quốc.
Bằng lớp ngôn từ cô đọng, hàm súc, hình ảnh chân thực, mang tính khái quát
cao, tác phẩm đã ca ngợi tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng. Đồng
thời tác giả cũng đã tái hiện một cách chân thực, giản dị mà cao đẹp hình ảnh
anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến.
2.6. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài thơ Đồng chí (Mẫu số 6)
Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình ảnh chân thật và đẹp
trong “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu.. nhưng tiêu biểu hơn
cả là bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 là
năm cuộc kháng chiến hết sức gay go, quyết liệt. Trong bài thơ này, tác giả
đã tập trung thể hiện mối tình keo sơn gắn bó, ngợi ca tình đồng chí giữa
những người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.Cảm nhận đầu
tiên của chúng ta khi đọc bài thơ là hình ảnh người lính hiện lên rất thực, thực
như trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời
thực họ bước thắng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị
thường thấy ở làng quê ta còn đói nghèo lam lũ:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi. Người quê ở miền biển “nước
mặn đồng chua”, người ở vùng đồi núi “đất cày lên sỏi đá”. Song dù xa cách
nhau, dù khác nhau, nhưng đều là quê hương của lam lũ, vất vả, đói nghèo.
Chữ nghĩa bình thường mà như đang cựa quậy khi cuộc sống thực đã ùa vào
câu thơ đem đến những cảm nhận sâu sắc về quê hương người lính.Tuy ở
những phương trời khác nhau, “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng cùng sống và
chiến đấu với nhau trong một đội ngũ, những người lính đã tự nguyện gắn bó với nhau:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”
Cái rét ở rừng Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là
một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy. Có điều lạ là
câu thơ nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình
đồng đội, nghĩa đồng bào. Câu thơ của Chính Hữu đã diễn tả tình đồng chí
thật cụ thể và cô đọng, sự gắn bó giữa những người đồng chí cùng chung
nhau chiến đấu “súng bên súng”, cùng chung một lí tưởng “đầu sát bên đầu”.
Sự gắn bó mỗi lúc lại càng thêm sâu sắc: Là súng bên súng đến đầu bên đầu,
rồi thân thiết hơn nữa là đắp chung chăn, thành tri kỉ.Đoạn thơ đầu của bài
thơ kết thúc bằng hai chữ “Đồng chí” làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của
cả đoạn thơ. Nó giải thích vì sao người lính từ bốn phương trời xa lạ, không
hẹn gặp nhau mà bỗng trở thành thân thiết hơn máu thịt. Đó là sự gắn bó
giữa những người anh cùng chung một lí tưởng chiến đấu, là sự gắn bó kì
diệu, thiêng liêng và mới mẻ của tình đồng chí.Những người lính, những
đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện.
Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng
cũng sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen
thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương
những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh vật mà
còn là làng quê, là dân làng. Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có
tâm hồn hướng theo người lính. Tác giả tả rất thực về cuộc sống của người
lính. Nhà thơ không che giấu mà như còn muốn nhấn mạnh để rồi khắc hoạ
rõ nét hơn cuộc sống gian lao thiếu thốn của họ. Và phải là người trong cuộc
thì mới vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với một sự đồng cảm sâu sắc như vậy:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”
Thơ ca kháng chiến khi nói tới gian khổ của người lính thường nói rất nhiều
tới cái lạnh, cái rét. Đoạn thơ thứ hai này kết thúc bằng câu “Thương nhau
tay nắm bàn tay”. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết
làm sao. Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Hình ảnh kết thúc đoạn thứ hai
này cắt nghĩa vì sao người lính có thế vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ, xa
quê hương, quần áo rách vá. chân không giày, mùa đông lạnh giá, những
cơn sốt rét “run người”... Hơi ấm của tình đồng chí truyền cho nhau đã giúp
người lính thắng được tất cả. Hình ảnh kết thúc bài thơ chỉ có ba dòng. Sau
những câu thơ tự do đang trải dài “Đêm nay rừng hoang sương muối”.....
Câu kết thúc thu vào trong bốn chữ làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén,
chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Hình ảnh kết thúc bài thơ đầy thơ
mộng, cái thơ mộng của gian khố, hiểm nguy: một cánh rừng, một màn
sương, một vầng trăng với hai ngọn súng, hai con người chờ giặc. “Đầu súng
trăng treo” cùng là một câu thơ dồn nén và có sức tạo hình, nó đẹp như một
biểu tượng chiến đấu của những người lính giàu phẩm chất tâm hồn. Đó
cũng là vẻ đẹp trữ tình mới của thơ ca kháng chiến, kết hợp được súng và
trăng mà không khiên cưỡng.Toàn bài “Đồng chí” từ chi tiết cuộc sống đến
cảm giác của tác giả đều rất thật, không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh.
Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của
“Đồng chí” là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng
ánh sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hoà quyện vào tình giai
cấp. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên
đến đỉnh cao khái quát trong đó có sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn
đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
2.7. Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài thơ Đồng chí (Mẫu số 7)
Trong suốt lịch sử của nước ta thì hình ảnh người lính trong các cuộc kháng
chiến luôn là một đề tài bất tận của thơ ca. Ở mỗi một thời kỳ, họ lại hiện lên
với những vẻ đẹp khác nhau, có lúc thì sôi nổi, trẻ trung, khi thì hào hoa, lãng
mạn. Đến với Chính Hữu, chúng ta bắt gặp hình ảnh của người lính nông dân
chân chất và mộc mạc trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đấy được
thể hiện hết sức sâu sắc và cảm động trong bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm 1948.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hình tượng người lính hiện lên trong bài thơ hết sức chân thật, thật đến nỗi
chúng ta cảm nhận như vừa thấy bóng dáng của ai đó bước thẳng vào trong
những trang thơ. Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá”
ám chỉ những vùng đất khô cằn, bị nhiễm phèn, nhiễm mặn quanh năm, rất
khó canh tác. Đấy đều là những vùng quê chiêm trũng và nghèo đói quanh
năm. Những người lính trong chiến trường cũng chính là người con của
mảnh đất quê hương đấy, họ đều là những người nông dân cần cù, lam lũ,
chân lấm tay bùn, vậy nên cách mà họ thổ lộ tâm sự, nói chuyện với nhau
đều hết sức dân dã và mộc mạc đúng như cái chất của người nông dân.
Những tưởng hai con người ở hai vùng quê nghèo đói đấy sẽ chẳng bao giờ
gặp được nhau, ấy vậy mà chiến tranh nổ ra, những người lính phải từ giã
vùng quê của mình để lên đường bảo vệ quê hương, đất nước. Họ cùng
chung mục đích, lý tưởng chiến đấu, chính những điều đó đã mang họ lại nơi
đây, họ trở thành những người bạn, người đồng đội, đồng chí cùng nhau chia
sẻ ngọt bùi và gian khổ.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”.
Hình ảnh người lính còn hiện lên với những vẻ đẹp của đời sống tâm hồn,
tình cảm, là sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau, cùng chia sẻ
những gian lao, thiếu thốn. Các anh đều là những người lính tạm gác tình
riêng, để nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, dũng cảm ra đi vì nghĩa
lớn để lại sau lưng mảnh trời quê hương với biết bao nhiêu trăn trở.
“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Hình ảnh “gian nhà không” là hình ảnh khá lắng đọng trong tâm trí những
người chiến sĩ ấy và cũng hết sức ám ảnh trong tâm trí người đọc. Đấy là cái
nghèo xơ xác của những vùng quê hay cũng chính là nỗi trống trải trong lòng
của những người ở lại. “Giếng nước, gốc đa” vốn là những vật vô tri, vô giác
nay đã được nhân hóa lên để thể hiện nỗi nhớ thương da diết của quê hương
yêu dấu với những người lính đã rời đi và rất khó để hẹn ngày trở lại. Ngoài
ra giếng nước, gốc đa còn dùng để ám chỉ những người ở lại, những người
vợ chờ chồng, mẹ chờ con luôn nhớ thương, mong ngóng tới ngày người lính
trở về. Tại sao người lính đang ở trong chiến trường mà lại thấu hiểu hết
những tâm sự của quê hương, gia đình, ấy là bởi vì chính người lính cũng
đang nhớ về họ da diết, một nỗi nhớ hai chiều, nhớ về quê hương chính là
cách để họ vượt qua khó khăn. Đấy chính là vẻ đẹp tâm hồn, những tình cảm
chất chứa trong những người chiến sĩ ấy.
Chiến tranh diễn ra ác liệt, những người lính không chỉ phải đối mặt với mưa
bom bão đạn của kẻ thù, ở đây Chính Hữu đưa chúng ta đến với cuộc sống
thường ngày của những người lính với những gian khổ, bệnh tật hành hạ,
thiếu thốn tất cả những vật dụng hằng ngày quần áo, thuốc men, giày dép.
Nhưng ở họ vẫn toát lên tinh thần lạc quan, mỉm cười để cùng nhau vượt qua
thử thách, khó khăn trùng điệp. “Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Cái nắm tay ấy không chỉ là cái nắm tay đơn thuần mà nắm tay để truyền cho
nhau hơi ấm của tình thương, truyền cho nhau sức mạnh của ý chí để động
viên nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn, thiếu thốn. Ở đây chúng ta bắt gặp
hình ảnh về người lính xiết bao cảm động và ấm áp, đấy là sức mạnh của
tình thương, của sự sẻ chia những nhọc nhằn, gian lao, thiếu thốn, hành
động nắm tay nhau ấy không khác gì việc “đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết
rơi”, có thể nó không đủ sưởi ấm cơ thể họ, nhưng cũng đủ để sưởi ấm trái
tim họ. Hình ảnh người lính còn hiện lên với vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết,
thương yêu, kề vai sát cánh bên nhau cùng nhau chiến đấu chống lại quân
thù. Giữa không gian âm u của rừng hoang, sương muối ấy vẫn sáng lên bức
tượng đài bất diệt về người lính đứng cạnh bên nhau trong tư thế chủ động
tấn công “chờ giặc tới”, một sự kết hợp hài hòa giữa hình tượng súng và
trăng. Súng tượng trưng cho hiện thực cho cuộc chiến tranh khốc liệt và gian
khổ, trăng tượng trưng cho hòa bình, cho khát vọng về một ngày mai đất
nước thanh bình. “Đầu súng trăng treo” còn tượng trưng cho sự giao hòa về
tâm hồn của người lính giữa chiến sĩ và thi sĩ, giữa hiện tại và mộng mơ. Tâm
hồn người lính vẫn rất đẹp, luôn yêu đời, tin tưởng về một ngày mai hòa bình.
Bài thơ “Đồng chí” đã xây dựng một bức tượng đài bất diệt về hình ảnh người
lính trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đó đẹp và sống động tới nỗi dù
cho hôm nay và mai sau mỗi khi nhắc đến hình tượng người lính trong kháng
chiến thì bức tượng đài đó vẫn luôn hiện về trong tâm trí người đọc.
2.8 Cảm nhận hình ảnh người lính qua bài thơ Đồng chí (Mẫu số 8)
Có một nhà thơ đã từng tâm sự: "Đất nước mình đây Hai mươi năm Mưa, nắng, đêm, ngày Hành quân không mỏi
Sung sướng bao nhiêu: "Tôi là đồng chí
Của những người đi, vô tận, hôm nay."
Đó là ai nếu không phải nhà thơ Chính Hữu - một nhà thơ chiến sĩ trưởng
thành trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Giữa muôn vàn thăng trầm,
biến cố của lịch sử, trên đôi tay Chính Hữu không chỉ vững vàng những cây
súng đánh giặc mà còn bung nở cho đời những vần thơ diệu kì về người lính.
Và "Đồng chí" là một trong những bài thơ như thế. Tác giả Chính Hữu là một
người lính cụ Hồ đúng nghĩa; Ông nguyên là đại tá, phó cục trưởng cụ tuyên
huấn thuộc tổng cục chính trị- quân đội nhân dân Việt Nam; nguyên phó tổng
thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1946, ông gia nhập trung đoàn thủ đô và
hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và Pháp.