Phân tích hình ảnh nồi cháo cám trong truyện Vợ Nhặt | Văn mẫu 12
Nồi cháo cám là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Kim Lân. Qua chi tiết nồi cháo cám thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh. Vậy dưới đây là TOP 12 bài văn phân tích chi tiết nồi cháo cám hay nhất, mời các bạn cùng đón đọc.
Preview text:
Dàn ý chi tiết nồi cháo cám 1. Mở bài
Giới thiệu về truyện ngắn Vợ nhặt và hình ảnh nồi cháo cám- chi tiết đặc sắc trong truyện. 2. Thân bài
- Vị trí: Nồi cháo cám xuất hiện trong bữa cơm đầu tiên khi gia đình bà cụ Tứ có người con dâu mới.
- Nồi cháo cám là "món quà cưới" đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị cho các con của mình. - Ý nghĩa tả thực:
● Cháo cám món ăn vốn không dành cho con người.
● Là hiện thân cho cái đói khát, thê thảm của con người trong nạn đói.
- Ý nghĩa biểu tượng: Là tình yêu, tấm lòng của người mẹ dành cho con
- Hình ảnh nồi cháo cám còn góp phần bộc lộ những vẻ đẹp đáng quý bên trong mỗi nhân vật:
● Bà cụ Tứ: Tình thương con, sự quan tâm, trân trọng dành cho người con dâu.
Bà cụ chuẩn bị một món quà đặc biệt để chào đón cô con dâu mới à Quan tâm
đến những giá trị tinh thần.
● Anh Tràng: Chín chắn, trưởng thành và có trách nhiệm hơn với gia đình.
● Chị vợ nhặt: Bình tĩnh ăn từng miếng cháo cám, nói chuyện để xua đi không
khí nặng nề của bữa cơm à Chủ động vun vén hạnh phúc gia đình. 3. Kết bài
- Khẳng định giá trị của chi tiết "nồi cháo cám" trong tác phẩm: ● Phản ánh hiện thực
● Thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc.
Dàn ý phân tích chi tiết nồi cháo cám 1. Mở bài:
● Kim Lân – một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thủy”, là một
cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông
thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng.
● “Vợ nhặt” là một truyện ngắn thành công của nhà văn, viết về thời kỳ xảy ra
nạn đói năm 1945. Truyện ngắn không chỉ có một tình huống độc đáo mà còn
có một chi tiết nghệ thuật đầy ý nghĩa – chi tiết nồi cháo cám. 2. Thân bài:
a) Chi tiết nghệ thuật
Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về
cảm xúc và tư tưởng. Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thì
góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là nhờ chi tiết.
b) Chi tiết nồi cháo cám
- Vị trí của chi tiết trong truyện ngắn ( tóm tắt : nằm trong phần 2 của truyện ngắn , cụ
thể đó là món ăn duy nhất của cả nhà trong buổi sáng ngày hôm sau ) - Ý nghĩa
+ Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất
của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về . Trong hoàn cảnh của nạn đói năm 1945, khi
mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”, nồi cháo cám lại là món ăn không thể không có.
+ Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ :
● Bà cụ Tứ: người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực ( mặc dù đã già nhưng
bà vẫn dậy sớm chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà; hơn thế nữa khi cái đói đang rình
rập bà vẫn cố gắng để có được bữa tiệc cưới giản dị cho con trai của mình) .
● Tràng: “Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vôi vào miệng. Mặt hắn chum
ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, cách ứng xử này vừa cho
thấy Tràng là người chồng có trách nhiệm với nỗi thẹn không thể dành cho
người vợ mới cưới của mình một bữa ăn đủ đầy, một tiệc cưới sang trọng ; vừa
cho thấy Tràng là người con hết sức khéo léo trong cách cư xử với mẹ, hiểu rõ
được hoàn cảnh của gia đình mình.
● Vợ Tràng: qua chi tiết này ta càng khẳng định được sự thay đổi về tính cách
của vợ Tràng, hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới
vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Điều đó cũng cho
thấy vợ Tràng không còn nét cách đỏng đảnh như xưa nữa mà cô đã chấp nhận
hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
+ Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng.
+ Chi tiết thể hiện tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn. 3. Kết bài
Đánh giá, nhận xét một cách khái quát về chi tiết nồi cháo cám.
Phân tích chi tiết nồi cháo cám học sinh giỏi
Không chỉ thành công ở chi tiết nụ cười, nước mắt, Kim Lân cũng để lại trong ấn tượng đạm
nét trong tâm trí người đọc ở hình tượng nồi cháo cám. Nhà văn đã để cho cái đói quay quắt
se duyên cho một mối tình nhưng cũng đẩy họ đến bên bờ vực: liệu có nuôi nổi nhau qua cái
thì tao đoạn này không. Bữa cơm đón nàng dâu mới làm rõ nét hơn cho cái thực trạng thảm
thương của những con người khốn khó đó: giữa cái mẹt rách chỉ có niêu cháo loãng, một lùm
rau chuối thái rối, đĩa muối trắng và nồi cháo cám. Cháo cám dẫu được mẹ già sang trọng gọi
là chè khoán nhưng vẫn không sao xua được cảm giác đắng ngắt, chát xít nơi cổ họng, không
sao nén được nỗi tủi hờn dâng lên trong tâm trí mỗi người. Bát cháo cám như đập tan cái
không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. Hiện thực về cái đói vô cùng khốc liệt và ám ảnh một
lần nữa xuất hiện, đe dọa hạnh phúc của con người. Thứ hạnh phúc bé nhỏ, mong manh vừa
mới nhen nhúm ngay lập tức bị đe dọa bởi cái đói. Nỗi xót xa, buồn tủi thấm trong trang văn
của Kim Lân như lan sang người đọc.
Nhưng vượt lên trên nghĩa tả thực, bát cháo cám còn làm ngời sáng trước mắt ta tấm lòng,
tình cảm của người mẹ già khốn khó. Bà cụ Tứ vừa múc cháo, vừa đùa vui: “Chè khoán đây,
ngon đáo để cơ”. Nào phải bà không thấu cái vị đắng ngắt, chát xít của cháo cám, đâu phải bà
không hay về tương lai mù xám của những đứa con mình? Người mẹ già ấy đã có nén lại nỗi
lo lắng thắt lòng cho tương lai đôi trẻ, đã vượt qua mọi sượng sùng, ngần ngại với người con
dâu về gia cảnh nhà mình để khơi dậy chút nguuồn vui cho không khí gia đình. Bên tận cùng
nỗi xót xa, ta lại cảm động vô cùng trước mênh mông tấm lòng người mẹ. Hơn nữa, chẳng
phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để cho người mẹ già nua tuổi tác, xế bóng ngả chiều lại là người
khơi niềm vui trong thảm cảnh ngày đói. Là Kim Lân thấy lửa, khơi lửa và tin rằng có lửa
ngay trong đống tro tưởng sắp lụi tàn, thấy mầm xanh sự sống chẳng những vươn lên từ thân
non hay một đời cây cường tráng mà còn khỏe khoắn vươn lên từ chính một gốc cây sắp tròn
cổ thục. Không nghi ngờ gì nữa, món chè khoán của bà cụ Tứ làm một chi tiết Kim Lân trọn
vẹn gởi trao niềm tin và khát vọng sống của con người.
Chi tiết bát cháo cám cũng thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh.
Ta hiểu thị nhắm mắt đưa chân không đơn thuần vì miếng ăn, thị không bỏ đi khi chứng kiến
gia cảnh bần hàn của Tràng, nay ta càng thấu hiểu sâu sắc hơn cái khát vọng có một bến đỗ
cho con thuyền phiêu dạt, một tổ ấm dừng chân nơi thị trong cái cử chỉ “điềm nhiên và vào
miệng miếng cháo cám”. Cái cử chí và thái độ ấy cho thấy thị thật ý tứ, sẵn sàng đồng cam
cộng khổ với gia đình Tràng. Hạnh phúc mong manh vừa nhen nhóm ấy, phải chăng cần lắm
những đôi bàn tay nâng niu như vậy. Lời nói của bà cụ Tứ và hành động của người con dâu
chính là cách những người phụ nữ giữ gìn, bảo vệ và vun đắp cho niềm hạnh phúc vừa mới chớm nở.
Sáng tạo chi tiết bát cháo cám, Kim Lân không chỉ gợi lại sinh động thảm trạng ngày đói năm
nào mà nhà văn còn muốn ca ngợi tình người nồng thắm nơi những tấm lòng thuần hậu, chất
phác. Trong cảnh đói bi thương ấy, họ vẫn không thôi yêu thương, vẫn nương tựa vào nhau
cùng sẻ chia và cùng hi vọng.
Chi tiết nồi cháo cám hay nhất (4 Mẫu) Bài làm mẫu 1
Macxim Gorki từng khẳng định "Một chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn". Quả thực như
vậy, giá trị của một tác phẩm không chỉ được phản ánh thông qua cốt truyện hấp dẫn,
nội dung tư tưởng sâu sắc mà còn bởi chính những tình tiết đắt giá được người nghệ sĩ
đưa vào trong tác phẩm của mình. Qua những tình tiết nhỏ, người nghệ sĩ gửi gắm vào
đó được những giá trị lớn, đó là chủ đề, tư tưởng hay thông điệp cho toàn bộ tác
phẩm. Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt cũng xây dựng được một tình tiết đắt giá
như thế, đó chính là hình ảnh nồi cháo cám của bà cụ Tứ.
Nồi cháo cám xuất hiện trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó là trong bữa cơm
đầu tiên khi gia đình của bà cụ Tứ và anh cu Tràng đón chào cô con dâu mới. Mâm
cơm ngày đói cũng thật thê thảm "giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái
rối và một đĩa muối ăn với cháo". Trong khung cảnh sum họp hạnh phúc, cái đói, cái
khổ cứ bày ra thực khiến người ta xót xa, nghẹn ngào.
Nồi cháo cám là "món quà cưới" đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị cho các con của mình.
Trong bữa cơm, cụ Tứ giới thiệu bằng giọng hồ hởi "Tao có cái này hay lắm cơ" rồi
bà "lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút". Nồi cháo
cám được bà cụ Tứ gọi với cái tên đầy hấp dẫn "Chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Sự
xuất hiện của nồi cháo cám trong mâm cơm của gia đình cụ Tứ là hiện thân cho cái
đói khát, thê thảm của con người trong nạn đói: phải ăn đến cả đồ ăn vốn không dành
cho con người. Thế nhưng qua lời giới thiệu của cụ Tứ, nồi cháo cám như một món ăn
gì đấy đặc biệt lắm. Đặt trong bối cảnh khốc liệt của nạn đói, khi con người bị đẩy đến
ranh giới mong manh của sự sống và cái chết thì món cháo cám ấy là cả một sự cố
gắng mới có được, nó là tấm lòng của người mẹ dành cho con.
Nồi cháo cám không chỉ gợi liên tưởng về hiện thực thê thảm của con người ngày đói,
bởi như lời bà cụ Tứ tâm sự với các con thì "Xóm mình có khối người không có cám
mà ăn ấy chứ" mà qua đó còn bộc lộ được vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện, từ bà
cụ Tứ, anh cu Tràng đến người vợ nhặt. Qua việc chuẩn bị "quà cưới" cùng những lời
động viên các con trong bữa cơm, bà cụ Tứ đã bộc lộ được tấm lòng thương con sâu
sắc. Trong cái đói, bà vẫn quan tâm đến những giá trị tinh thần, việc chuẩn bị nồi cháo
cám thể hiện sự trân trọng, yêu thương của bà cụ Tứ với người con dâu mới. Nồi cháo
cám ấy trở nên thật đặc biệt không phải bởi giá trị, hương vị của món ăn mà đó là tình
yêu thương, tấm lòng bao la của một người mẹ. Đến đây người đọc không khỏi bồi
hồi, xúc động bởi trong cái đói cùng cực thì tình yêu của người mẹ dành cho con vẫn
không thay đổi, không những thế người mẹ ấy còn gieo niềm tin, hi vọng cho các con
về một tương lai tươi sáng "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời".
Anh Tràng cũng có sự thay đổi lớn, không còn là người đàn ông ngờ nghệch, vô tâm
thường ngày mà trở nên chín chắn, trưởng thành hơn. Trong bữa cơm ngày đói, khi ăn
miếng cám "đắng chát và nghẹn bứ ở cổ" thì Tràng vẫn tỏ ra điềm tĩnh, cách ứng xử
này thể hiện được khéo léo, tế nhị để bữa cơm không bị trùng xuống bởi ám ảnh đói
khát. Mặt khác, nhìn vào sự trầm tư của Tràng ta có thể thấy được Tràng hiểu được
hoàn cảnh gia đình, bắt đầu ý thức được trách nhiệm của bản thân với vợ, với mẹ và
với gia đình nhỏ của mình.
Thông qua chi tiết nồi cháo cám, ta còn thấy được sự thay đổi đáng ngạc nhiên của
người vợ nhặt. Không còn là một người đanh đá với những lời nói chao chát, chỏng
lỏn như khi còn ở chợ Huyện, khi về làm dâu thị trở nên dịu dàng, rất đúng mực. Thị
hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám, thế nhưng không để mẹ chồng buồn lòng, thị
vẫn cố gắng nuốt xuống miếng cháo đáng chát. Để xua đi không khí bữa cơm vừa
trùng xuống, Thị đã chủ động kể về câu chuyện phá kho thóc Nhật của người dân mạn
Thái Nguyên, Bắc Giang. Có thể thấy người vợ nhặt đã coi bà cụ Tứ và anh Tràng là
gia đình, người thân của mình. Mọi hành động, lời nói của Thị đều cố gắng vun vén
cho hạnh phúc gia đình và có lẽ Thị cũng đã sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những
ngày tháng khó khăn sắp tới.
Có thể nói, "nồi cháo cám" là một chi tiết đắt giá trong truyện ngắn Vợ nhặt, nó không
chỉ góp phần phát triển nội dung câu chuyện, tái hiện sống động mà cũng đầy xót xa
về cuộc sống đói nghèo, túng quẫn của con người trong nạn đói mà còn chứa đựng giá
trị nhân văn vô cùng sâu sắc. "Nồi cháo cám" góp phần bộc lộ những nhân cách tốt
đẹp bên trong các nhân vật, đó là vẻ đẹp của tình thương, của khát vọng sống và khát
khao hạnh phúc. Dẫu đứng bên bờ vực của cái chết thì con người vẫn dành cho nhau
những tình cảm tốt đẹp, họ không ngừng hi vọng vào một tương lai tươi sáng. Bài làm mẫu 2
Đôi khi trong những tác phẩm lớn, người đọc sẽ không thể nào nhớ hết các tình tiết
trong chuyện mà họ chỉ nhớ đến một chi tiết đắt giá đã là đủ rồi. Trong truyện ngắn
“Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, hình ảnh nồi cháo cám để để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
“Vợ nhặt” là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống khổ cực, thê thảm của người nông
dân trong nạn đói lịch sử 1945. Điển hình cho những người dân trong thời kỳ này là
gia đình anh Tràng. Trong hoàn cảnh nghèo đói đến vậy, việc anh lấy vợ đã gây lên sự
ngạc nhiên cho nhiều người. Bởi giữa cảnh đói nghèo không lo được cho mình mà anh
còn “rước cái của nợ ấy về”. Chính vì thế trong bữa cơm đón nàng dâu mới, hình ảnh
nồi cháo cám khiến cho người ta không khỏi xót xa và thương cảm cho những số phận
cùng khổ ấy. Qua chi tiết này, nhà văn muốn thể hiện tình yêu thương với con người
và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Trong khung cảnh nghèo đói của xã hội lúc bấy giờ, cả nhà lại ngồi với nhau bên nồi
cháo cám. Bà cụ Tứ sợ con dâu buồn nên đã phân trần: “kể ra làm được dăm ba mâm
thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Tình cảnh
khốn khó ấy khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào với bữa cơm đón nàng dâu
thực sự thê thảm: “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa
muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cả bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ
anh và cả người đọc đều hiểu bữa cơm như vậy không hề ngon một chút nào. Tuy
nhiên cả ba người đều “ăn rất ngon lành” là vì nấy đều muốn thể hiện sự vui vẻ trong hoàn cảnh này.
Nhưng có lẽ đây cũng là niềm vui thực sự khi 3 con người ấy luôn muốn vượt lên trên
cái nghèo đói hiện diện trước mắt để trân trọng niềm hạnh phúc đời thường. Bà cụ Tứ
là một người mẹ đầy nhân hậu và bao dung, khi trong cảnh nghèo đói vẫn vui vẻ chấp
nhận cô con dâu mới. Có lẽ vì điều này nên trong bữa cơm sáng, bà cụ đã nói toàn
chuyện vui, chuyện tương lai để động viên các con: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi
gà…. ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Những câu
chuyện mà bà cụ nói đều là những điều tốt đẹp để hy vọng có một tương lai sẽ rộng
mở hơn. Đây cũng là mong ước của tất cả mọi người trong thời kỳ khó khăn ấy.
Trong không khí vui vẻ của bữa cơm gia đình, bà cụ “lật đật chạy xuống bếp bưng ra
một cái nồi bốc lên nghi ngút. […] vừa khuấy vừa nói: Chè đây! Chè khoán đây!”.
Nhưng thực chất đó lại là một nồi cháo cám. Hình ảnh này được xem là một chi tiết
đắt giá, nó vừa gợi lên cái nghèo đói cùng cực, vừa cho thấy tình người cao đẹp trong
đó. Trong hoàn cảnh là nạn đói năm 1945, nhiều người không có nổi cám mà ăn, thì
nồi cháo cám lại được xem là một món ăn cứu đói, là món ăn xa xỉ đối với nhiều
người khác. Chính vì thế, mặc dù có chút thất vọng nhưng cả ba người không một ai
chê trách. Cả 3 đều rất vui vẻ tiếp nhận nồi cháo cám. Mẹ Tràng thì đon đả khen
“ngon đáo để”. Tràng dù cảm thấy nghẹn ứ nơi cổ họng nhưng vẫn cố gắng ăn để mẹ
vui lòng. Còn người vợ thì “điềm nhiên và vào miệng”. Chi tiết này cũng cho thấy vợ
Tràng đã chấp nhận hoàn cảnh, không còn trở nên đỏng đảnh như trước và thị đã thực
sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. Có được
những điều này có lẽ là do cả ba người cùng tin vào một tương lai sẽ tốt đẹp hơn sẽ đến với họ.
Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét trong lòng
người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn, nhân văn
sâu sắc. Qua hình ảnh nồi cháo cám, người đọc hiểu hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn
khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Tuy nhiên trong hoàn cảnh chết chóc nghèo
đó, người ta vẫn thấy được tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến.
Tưởng chừng trong bờ vực của cái chết lay lắt ấy, người ta chỉ nghĩ đến những đau
khổ, bất hạnh, nhưng không, ở hoàn cảnh ấy người đọc vẫn bắt gặp tình thương của
một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ đối với chồng và trách nhiệm của
một người chồng đối với gia đình của mình. Tất cả đều cùng hướng đến một tương lai
hạnh phúc và no đủ hơn.
Qua bút pháp tả thực cùng mới việc sử dụng những từ ngữ, hình ảnh dân dã và tượng
trưng đã góp phần thể hiện sự thành công của tác phẩm. Những tài hoa trong nghệ
thuật viết truyện của nhà văn Kim Lân cũng giúp người đọc hiểu và thông cảm cho
những con người ở thời kỳ đó. Đồng thời, ta cũng thấy được tình cảm chân thành và
tác giả đã dành cho những nhân vật của mình. Bài làm mẫu 3
Thành công của một tác phẩm được làm nên từ rất nhiều yếu tố. Một trong số đó là
những chi tiết đắt giá làm nên ấn tượng sâu sắc với người đọc và đồng thời qua đó
phải thể hiện được dụng ý nghệ thuật cũng như tư tưởng của tác giả trong tác phẩm
đó. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình
ảnh nồi cháo cám vào trong tác phẩm, qua đó làm nổi bật tư tưởng nhân đạo của nhà
văn đối với cuộc đời và con người.
“Vợ nhặt” là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống cùng cực, thê thảm của người
nông dân trong nạn đói lịch sử 1945. Tiêu biểu cho những người nghèo đói là gia đình
anh Tràng. Trong hoàn cảnh nhà khó khăn đến vậy, việc lấy vợ của anh khiến cho ai
nấy đều ngạc nhiên hết sức. Bởi giữa cảnh nghèo đói, cận kề với cái chết, nuôi thân
mình còn chưa xong vậy mà lại còn đèo thêm miệng ăn, “rước cái của nợ ấy về”. Và
trong bữa cơm đón nàng dâu mới, hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người đọc không
khỏi xót xa và thương cảm cho những số phận cùng khổ. Với chi tiết này, nhà văn
cũng muốn nói lên tình yêu thương con người và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Nếu trong bữa ăn nghèo đói thường ngày thì đã đành, nhưng đây trong bữa sáng đầu
tiên nhà có cô dâu mới mà cả nhà lại ngồi với nhau bên nồi cháo cám. Bà cụ Tứ sợ
con dâu buồn nên phân trần: “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà
mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Tình cảnh khốn khó ấy lại càng
khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào vì bữa cơm đón nàng dâu mới thực sự
thê thảm: “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn
với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cả bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ anh và
cả người đọc đều hiểu rõ, với bữa cơm như vậy thì lấy đâu ra mà ăn ngon lành cho
cho được. Nhưng ở đây, cả ba người đều “ăn rất ngon lành” là vì ai cũng hiểu, ai cũng
nén trong lòng và cố làm ra vẻ vui tươi.
Nhưng có lẽ đó cũng là niềm vui thực sự. Bởi lẽ, vượt lên trên cái nghèo đói hiện diện
trước mắt, con người ta cũng biết trân trọng những hạnh phúc đời thường. Bà cụ Tứ
chính là một người mẹ đầy nhân hậu và bao dung, dù trong cảnh nghèo đói nhưng vẫn
vui vẻ chấp nhận cô con dâu mới, thậm chí là còn vui mừng vì những tưởng con mình
không có ai để ý đến vậy mà nay con đã lấy được vợ. Chính vì thế mà trong bữa cơm
sáng, bà cụ đã nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai để động viên các con: “Khi nào
có tiền ta mua lấy đôi gà. [..] Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà
cho mà xem…”. Những câu chuyện mà bà cụ nói đều là những chuyện tốt đẹp để
mong tương lai sẽ rộng mở hơn. Đây cũng là những mong ước của tất cả mọi người
trong hoàn cảnh khó khăn ấy.
Nhưng vừa mới nhen nhóm lên được chút hy vọng thì thực tại đã đổ sập ngay trước
mắt. Khi mà bà cụ “lật đật chạy xuống bếp, lễ lễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi
ngút. […] vừa khuấy vừa nói: Chè đây! Chè khoán đây!” nhưng kì thực đó lại là một
nồi cháo cám. Đây được xem là một chi tiết đắt giá, nó vừa gợi lên cái nghèo đói cùng
cực, vừa cho thấy tình người cao đẹp trong đó. Trong hoàn cảnh là nạn đói năm 1945,
khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”, thì nồi cháo cám lại được xem
là một món ăn cứu đói, là món “chè” xa xỉ hơn nhiều nhà khác rồi. Và vì thế, mặc dù
có chút thất vọng nhưng cả ba người không một ai chê trách. Mẹ Tràng thì đon đả
khen “ngon đáo để”. Tràng tuy cảm thấy nghẹn ứ nơi cổ họng nhưng vẫn cố gắng ăn
để mẹ vui lòng. Còn người vợ thì “điềm nhiên và vào miệng”. Chi tiết này cũng cho
thấy vợ Tràng không còn chao chát đỏng đảnh như hôm gặp trên phố nữa mà thị đã
chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày
khó khăn sắp tới. Chính vì thế mà tất cả ba người cùng tin vào một tương lai sẽ tốt đẹp hơn.
Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét trong tâm trí
người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn, nhân đạo
rất lớn. Qua hình ảnh nồi cháo cám, người đọc hiểu rõ hơn về tình cảnh nghèo đói,
khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Tuy vậy nhưng trong cảnh chết chóc
nghèo đó, người ta vẫn thấy ánh lên tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô
bờ bến. Tưởng chừng như đang trong bờ vực của cái chết lắt lay, người ta chỉ nghĩ đến
những thống khổ nhưng không, ở đây người đọc vẫn bắt gặp tình thương của một
người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ dành cho chồng và trách nhiệm của
một người chồng dành cho gia đình của mình. Tất cả đều cùng hướng đến một tương
lai hạnh phúc và no đủ hơn. Bài làm mẫu 4
Một tác phẩm văn học chạm được đến trái tim người đọc không phải là những trang
viết có ngôn từ trau chuốt, mượt mà, dùng từ đắc địa. Kỳ thực một tác phẩm có thể
khiến người đọc thấy ngấm phải là tác phẩm có những "chi tiết đắt", là điểm sáng thổi
bùng lên chủ đề tác phẩm. Nam Cao đã đưa chi tiết "bát cháo hành" đầy tính nhân văn
trong truyện ngắn "Chí Phèo", và Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh "Nồi
cháo cám" vào trong tác phẩm, giữa nạn đói năm 1945 đang hoành hành. Chi tiết "Nồi
cháo cám" trong truyện ngắn "Vợ nhặt" có thể xem là đầy dụng ý nghệ thuật và giàu tính nhân văn.
"Vợ nhặt" là một truyện ngắn tái hiện lại cuộc sống cùng cực, thê thảm, nhưng không
bế tắc của những con người sống giữa nạn đói năm 1945. Kim Lân đã khắc họa thành
công hình ảnh bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ Tràng. Và hơn hết chỉ có một chi tiết nhỏ
"Nồi cháo cám" ở giữa truyện dường như đã đẩy cao trào cái đói khổ lên tận cùng và
cũng đẩy tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ đến ngưỡng cao nhất. Người
đọc khi gấp trang sách lại sẽ bị ám ảnh bởi chi tiết này, cảnh tượng nạn đói năm 1945
dường như hiển hiện ra ngay trước mặt.
Tác giả đã rất khéo léo để lựa chọn đưa chi tiết "nồi cháo cám" vào câu chuyện nhặt
được vợ của anh cu Tràng. Thời điểm này đã nói lên tất cả nỗi cơ cực, đường cùng
của những nạn nhân năm 1945 và cũng qua đó mới thấy được tình thương yêu bao la,
vô bờ bến của người mẹ. Giữa cái đói nhưng tình yêu thương vẫn không bị mai một,
nó vẫn luôn bùng cháy, chỉ là đôi lúc nó ngấm ngầm chảy trong người.
"Nồi cháo cám" không phải xuất hiện trong một bữa ăn bình thường mà xuất hiện
ngay trong buổi sáng hôm sau, buổi sáng đầu tiên của "lễ ra mắt con dâu", đáng nhẽ ra
như bà cụ Tứ đã nói "kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo
quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này". Cái sự tình khốn khổ, nghèo đói giữa năm
1945 này thật khiến co người ta phải nghẹn ngào.
Bữa cơm đón dâu giữa nạn đói thực sự thê thảm, "giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành".
Cái không khí đói bao trùm nhưng ai cũng biết, ai cũng nén trong lòng, không bộc lộ
ra bên ngoài. Điều đáng nói hơn hết là trong bữa cơm ngày đói này, tâm trạng của bà
cụ Tứ khác hẳn, bà không rủ rũ như mọi ngày, bà kể toàn chuyện vui, nói toàn chuyện
hay. Đây có thể xem là sự chuyển biến tâm lý đột ngột của người đàn bà nghèo khổ.
Người mẹ này tuy nghèo đói một đời nhưng rất biết cách chiều con, với lại nhà lại có
thêm cô con dâu mới giữa cảnh đói kém triền miên. Có thể nói những lời bà cụ Tứ nói
đều gợi mở lên một tương lai tươi sáng của con người và của đất nước.
Nhưng có một chi tiết chuyển biến để nhấn mạnh hình ảnh "nồi cháo cám" khiến
người đọc không kìm nổi xúc động "bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái
nồi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa
khuấy vừa nói". Sau đó chính là lời thoại của chính bà cụ Tứ, lời thoại chan chat,
nghẹn ứ ở trong lòng như chính "nồi cháo cám" ấy:
"Chè khoai đấy, ngon đáo để" và "Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người
không có cám mà ăn ấy chứ". Một chi tiết thật đắt giá, một chi tiết gợi lên cái đói, cái
nghèo đến cùng cực. Mặc dù ăn cháo cám nhưng ba mẹ con không ai than hay chê
trách, ai cũng ăn một cách ngon lành. Bởi đây là nồi cháo yêu thương, nồi cháo đong
đầy tình mẹ và nồi cháo của sự yêu thương và lòng vị tha. Người đọc sẽ thấy được
rằng giữa cái đói nghèo cùng cực nhưng tình mẹ vẫn luôn bất diệt, luôn vĩnh cửu
không bao giờ thay đổi. Bởi rằng trong suy nghĩ của bà cụ Tứ thì "Ai giàu ba họ, ai
khó ba đời" nên bà vẫn luôn vạch ra trước mắt của hai đứa con một viễn cảnh tươi sáng nhất.
Chi tiết "nồi cháo cám" vừa có giá trị hiện thực sâu sắc vừa có giá trị nhân đạo, chạm
đến trái tim người đọc. Về giá trị hiện thực "nồi cháo cám" tái hiện lại cuộc sống
nghèo khổ, túng quẫn đến cùng cực của nạn đói năm 1945. Giữa khung cảnh ấy hiện
lên những con người nghèo khổ đến tận cùng của xã hội, tưởng rằng sẽ không còn một
lối thoát nào cho tương lai. Nồi cháo cám ấy cho đến bây giờ vẫn ám ảnh tâm trí của
người đọc, bởi nó có sức ám ảnh quá lớn.
Bên cạnh đó, "nồi cháo cám" còn mang giá trị nhân văn sâu sắc, là tấm lòng người mẹ
nghèo thực sự đáng trân trọng. Dù đói khổ nhưng bà cụ Tứ luôn dành những yêu
thương, những ân cần sâu sắc nhất đối với con.
Ngoài giá trị nội dung thì chi tiết "nồi cháo cám" còn mang giá trị nghệ thuật, bởi đây
là một chi tiết nghệ thuật, tự bản thân của hình ảnh đó đã mang giá trị trong mình,
khiến cho cả câu truyện ngắn trở nên tươi đẹp và ấm áp hơn trong cảnh đói nghèo, chết chóc.
Gấp lại trang sách, hình ảnh "nồi cháo cám" của Kim Lân vẫn luôn quẩn quanh trong
tâm trí người đọc. Nó thực sự ám ảnh, thực sự có sức lay động ghê gớm. Nạn đói năm
1945 và những con người thời kỳ đó bằng tình yêu thương và lòng nhân hậu đã có thể vượt qua tất cả.
Phân tích chi tiết nồi cháo cám Bài làm mẫu 1
Có những chi tiết nghệ thuật đọc rồi là nhớ mãi bởi nó có sức rung động sâu xa, sức
ám ảnh lâu bền trong người đọc như “bát cháo hành” của Thị Nở trong Chí Phèo
(Nam Cao), như “nồi cháo cám” của bà cụ Tứ trong Vợ nhặt (Kim Lân). Nếu bát cháo
hành là liều thuốc giải độc đối với những “con quỷ dữ” như Chí Phèo biết quay về
cuộc sống lương thiện, thì nồi cháo cám chính là tấm lòng thương yêu chân thực, cảm
động của người mẹ nghèo khổ đối với những đứa con trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới.
Gấp trang truyện lại, không hiểu sao trước mắt ta cứ hiện lên rõ ràng như thực hình
ảnh “người mẹ tươi cười, đon đả: – Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà
xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy”. Có thật chăng món chè cám ngon đáo
để? Có thật chăng lòng người mẹ đang vui sướng? Chỉ biết rằng cỏ một niềm xúc
động rất thật cứ dâng lên trong lòng ta trước tấm lòng bà cụ Tứ khi bà “lễ mễ” bưng
nồi cháo ra, đon đả tươi cười múc cháo cho hai đứa con.
Nhớ lại cuộc đời dài nghèo khổ của bà, mấy khi trên gương mặt u tối ấy sáng lên một
nụ cười? Ngay cả đêm qua, biết con trai đã nên vợ nên chồng, trong giờ phút đầu tiên
gặp người con dâu mới, nước mắt khổ đau và lo lắng của bà vẫn chảy nhiều hơn tuy
trong thâm tâm bà cũng có chút “mừng lòng” và một vài tia hi vọng về chúng. Vậy thì
vì sao trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới lại có chuyện “nồi cháo cám" với nụ cười
đon đả làm bừng sáng cả khuôn mặt già nua, nhẫn nhục của bà? Ta hiểu, không phải
bà vui cho bà, mà chính là bà đang cố tạo ra những niềm vui, dù còn rất mong manh,
cho con trai và con dâu trong ngày đầu tiên nên vợ nên chồng. Tâm lòng người mẹ
nghèo thương con thật cảm động. Bà đã dậy sớm, “xăm xắn” dọn dẹp nhà cửa, vườn
tược cho quang quẻ, trong bữa cơm toàn nói những chuyện vui về tương lai như
chuyện nuôi gà … Và “nồi cháo cám” chính là đỉnh cao của tấm lòng người mẹ nghèo
thương hai đứa con vừa tìm đến với nhau trong cảnh “vợ nhặt” giữa những ngày đói
khủng khiếp nhất của năm 1945.
Còn nhớ một điều, đây không phải là một bữa cơm thường nhật hằng ngày, mà là bữa
cơm đầu tiên đón dâu mới, bữa cơm ngày “nhị hỉ” thiêng liêng theo phong tục Việt
Nam. Chính đêm qua, bà đã nói với người đàn bà lạ bỗng trở nên thân thiết với mình:
“Lẽ ra mẹ phải có dăm ba mâm, mời bà con họ hàng, nhưng Bữa cơm ấy phải tươm
tất, nhưng vì đang trong những ngày đói nên chỉ có “một niêu cháo lõng bõng, một
dúm rau chuối thái rối chấm với muối trắng”. Ba mẹ con ăn vui vẻ nhưng loáng cái đã
hết nhẵn, không còn chút gì trên cái mẹt rách được dùng làm mâm. Một tình thế hụt
hẫng sẽ đến trong bữa cơm ngày cưới, điều này, bà đã nhìn thấy trước, và bằng tấm
lòng thương yêu của mình, bà đã tìm cách “cứu nguy” cho nó, mục đích là để cho con
trai và con dâu có được niềm vui trọn vẹn trong ngày đầu tiện nên vợ nên chồng. Nồi
cháo cám có được là do lòng thương con chân thành của bà, cũng là do cách nghĩ hồn
nhiên mộc mạc của bà – những bà mẹ nông dân suốt đời lam lũ nghèo khổ.
Bà nấu nồi cháo cám, giấu con trai và con dâu, để đến cái giờ phút nguy kịch đó mới
đem ra “cứu nguy” như khi ta xổ ra con át chủ bài lúc ván bài đã đến nước quyết định.
Và như ta thấy, bà đã vui vẻ mời chào,đon đả đón lấy bát của con dâu và con trai để
múc cháo. Bà còn “nói trại" đi đó là chè khoán, ngon đáo để. Trong chi tiết nghệ thuật
này, hai lần Kim Lân miêu tả cái dáng tươi cười, đon đả của bà mẹ với hai đứa con
một cách thật chân thành và hồn nhiên. Chính điều này làm ta xúc động, xót thương
và cảm phục tấm lòng của người mẹ nghèo khổ. Bà đang vui (điều này hẳn là có vì
con trai bà đã có gia đình bà đã có con dâu) hay bà đang cố tạo ra niềm vui cho hai
đứa con tội nghiệp của bà đã nên vợ nên chồng trong lúc đói kém này? (Điều này chắc
là nhiều hơn, là điều chủ yêu trong lòng bà lúc bấy giờ). Dường như bà cố ý xua đi
không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên
trong cái vẻ tươi ,tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng
dâng lên bao xót xa. Tội nghiệp cho niềm vui của bà – cái niềm vui không cất cánh lên
được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám “chát xít, nghẹn bứ trong miệng” anh con trai và
làm “tối sầm hai con mắt” người con dâu. Và, tiếng cười của bà tắt hẳn khi “một nỗi
tủi hờn dâng lên bao quanh mâm cơm”, họ cắm mặt ăn cho xong bữa, ăn mà không
nhìn nhau. Kim Lân viết những dòng này tưởng như khách quan, nhưng ta biết lòng
ông đau nhói biết chừng nào, bởi chính ông, gia đình ông, trong những ngày đói của
năm Ất Dậu ấy, cũng đã từng phải ăn cháo cám, ông đã biết mùi vị của cháo cám là
thế nào? Phải, cái nồi cháo cám ấy có gì là quý giá đâu, nhưng tấm lòng người mẹ
nông dân một đời nghèo khổ ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao? Có thể
bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, cả con trai và người con dâu mới
mà bà đã thương yêu sâu sắc, bà tìm thây ý nghĩa đời mình trong sự chăm lo vun vén
cho con. Cái đức hi sinh, vị tha ấy là của bà, của bao bà mẹ nông dân khác mà ta đã
gặp trong cuộc đời. Và nồi cháo cám mà Kim Lân đã dành cho bà ở đây, trong phần
kết thúc thiên truyện ngắn này, nó vẫn gợi lên sâu sắc âm hưởng đau xót của nạn đói
khủng khiếp năm 1945, vẫn giữ lại cái hương vị đằm thắm nhân bản của khát khao tổ
ấm gia đình dù trong cảnh “Vợ nhặt”; nhưng trên hết và bao trùm tất cả, đó là tấm
lòng nhân hậu cao cả của những người mẹ Việt Nam – “đằng sau manh áo rách là những tấm lòng vàng!”
Đó là một chi tiết nghệ thuật đặc, sắc mà ta thường gặp ở cây bút viết truyện ngắn sở
trường về người nông dân Việt Nam: nhà văn Kim Lân. Bài làm mẫu 2
Kim Lân (1920- 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng
huyện Từ Sơn. Ông là một nhà văn độc đáo và xuất sắc viết về nông dân của làng quê
Việt Nam. Ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó tiêu biểu phải kể đến “Vợ
nhặt”. Tác phẩm ra đời ngay sau cách mạng tháng tám, viết về thời kỳ xảy ra nạn đói
năm 1945. Và trong tác phẩm, Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh “nồi cháo
cám” vào tác phẩm, một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật và giá trị nhân đạo.
Ở “Vợ nhặt”, Kim Lân đã khắc họa rất thành công những nhân vật như bà cụ Tứ, anh
cu Tràng, vợ Tràng, cùng cuộc sống khốn khổ, thê thảm của những con người giữa
nạn đói năm 1945. Và để khắc họa rõ nét hình ảnh đó, chi tiết “nồi cháo cám” dường
như đẩy mạch truyện lên cao trào, phản ánh thực tại khốn cùng về cái đói khổ, cùng
với tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ lên cao nhất. Qua “nồi cháo cám”,
người đọc có thể tưởng tượng ra cảnh tượng nạn đói năm 1945 một cách chân thực, rõ nét nhất.
Câu chuyện nhặt được vợ của anh cu Tràng được tác giả khéo léo đưa chi tiết “nồi
cháo cám” vào để nói lên nỗi cơ cực, đường cùng của những con người đang phải
sống trong nạn đói năm 1945. Và trong hoàn cảnh đó, tình yêu thương bao là của
người mẹ cũng hiện lên thật rõ nét. Dù đang lúc đói khổ, thì tình yêu thương đó vẫn
luôn âm ỉ cháy trong trái tim của những người mẹ. Hình ảnh “nồi cháo cám” xuất hiện
trong một tình huống vô cùng đặc biệt. Không phải trong bữa ăn hàng ngày của một
gia đình, mà lại xuất hiện ngay trong buổi sáng của lễ ra mắt cô con dâu mới. Bà cụ
Tứ ngượng ngùng nói với cô con dâu” kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy
nhưng nhà mình nghèo quá , cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này.” Sự đói khổ, nghèo hèn
khiến con người ta phải nghẹn ngào.
Mâm cơm dành cho nàng dâu mới trong nạn đói thật thê thảm, “giữa cái mẹt rách có
độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất
ngon lành”. Cái đói, cái nghèo bao trùm thì ai cũng biết, nhưng họ nén ở trong lòng,
cố không bộc lộ ra bên ngoài. Vậy nhưng trong bữa cơm ấy, tâm trạng của cụ Tứ vô
cùng phấn khởi, không ủ rũ như mọi ngày. Bà nói rất nhiều chuyện vui, chuyện hay.
Diễn biến tâm lý của người đàn bà nghèo khổ có sự thay đổi rõ rệt. Bà tuy nghèo, tuy
khổ nhưng lại rất yêu chiều con, kể cả con dâu mới. Có thể thấy, bà cụ Tứ đang nói
những lời vô cùng tốt đẹp, về một tương lai tươi sáng của chính gia đình mình, và của cả đất nước.
Rồi bà lật đật chạy xuống bếp, bưng lên nồi cháo cám. Nói với các con rằng: Chè
khoán đây, ngon đáo để; cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám
mà ăn ấy chứ.” Chi tiết này vô cùng đắt giá, gợi lên cái đói, nghèo đến cùng cực. Và
dù ăn cháo cám nhưng cả ba người đều ăn rất ngon lành, vui vẻ. Có lẽ vì đây là nồi
cháo đong đầy tình yêu thương của người mẹ. Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy
ấm áp, rằng dù trong hoàn cảnh nào thì tình mẹ vẫn luôn như vậy không bao giờ thay
đổi, mẹ luôn hy vọng các con có một tương lai tươi sáng hơn.
Hình ảnh “nồi cháo cám” trong Vợ nhặt vừa có giá trị hiện thực sâu sắc, tái hiện lại
cuộc sống con người nghèo khổ đến tận cùng của nạn đói năm 1945. Lại vừa mang giá
trị nhân đạo khi nồi cháo cám ấy nói đến hình ảnh người mẹ với một sự đáng trân
trọng và đầy yêu thương. Bài làm mẫu 3
Kim Lân là một nhà văn tài năng và đặc biệt ông bén duyên với những tác phẩm mang
tính chất rất giản dị đặc biệt là các tác phẩm về những số phận khó khăn. Tác phẩm
“Vợ nhặt” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu mà trong đó tác giả đưa ra cho ta
những cách nhìn rất chân thực về người nông dân trong cảnh đói nghèo, tù túng. Tác
phẩm đã thể hiện rất rõ hai giá trị, giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực rất sâu sắc.
Với tư cách là một nhà văn của nông thôn, Kim Lân là người rất hiểu người nông dân,
lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, Vợ nhặt được tái hiện là một
bức tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét.
Qua tác phẩm ta có thể thấy bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945
với cảnh người đói "bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm
ngổn ngang khắp lều chợ", "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những
bóng ma", và sau đó là "người chết như ngả rạ", "thây nằm còng queo bên đường",
"không khí vẩn lên mùi gây của xác người", rồi "mùi đốt đống rấm ở những nhà có
người chết theo gió thoảng vào khét lẹt" và "tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm
khuya"…như thế cái đói đó đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa
vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai.
Tác phẩm cũng vẽ ra “Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của
nạn đói: "những khuôn mặt hốc hác u tối trong "cuộc sống đói khát", "không nhà nào
có ánh đèn, lửa", đến cả trẻ con cũng ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn
nhúc nhích. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai
đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu "áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy
sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên"… Số phận của họ
có khác gì "cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ
dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ"…
Vợ nhặt của Kim Lân còn là niềm khát khao tới cháy bỏng với tổ ấm gia đình trọn
vẹn. Niềm khát khao tổ ấm gia đình được thể hiện chân thực và có chiều sâu qua tâm
trạng nhân vật Tràng :từ trên bờ vực thẳm của cái chết, họ đã dám khát khao đến tổ
ấm gia đình, đến một cuộc sống đích thực và cao đẹp của con người. Cho nên, tuy
"chon" khi nghĩ "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại
còn đèo bòng", nhưng Tràng vẫn "Chậc, kệ!" và dẫn vợ về nhà. Trong tác phẩm Vợ
nhặt “Anh vừa xấu hổ lại vừa tự hào khi đưa vợ đi qua xóm ngụ cư, bởi vì có "một cái
gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy" dâng lên "ôm ấp, mơn man khắp da thịt..,"; và nhất
là, trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi
hẳn: "Hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng", "một nguồn vui
sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng", "bây giờ hắn mới thấy hắn nên
người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này". Đây là đoạn văn
đầy cảm hứng nhân đạo với các nhân vật của ông. Chính vì yêu thương chính vì khát
khao có một mái ấm gia đình nên con người ta biết quý trọng những thứ xung quanh hơn.
Ở “Vợ Nhặt” giá trị hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý
nghĩ của Tràng: "cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng
trước có lá cờ đỏ to lắm". Đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh.
Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người giống như Tràng.
Không những truyện thể hiện giá trị hiện thực mà còn là giá trị nhân đạo sâu sắc. ở
đây chúng ta có thể nhận ra tình thương yêu giai cấp, sự cưu mang lẫn nhau của những
người nghèo khổ được thể hiện rất cao đẹp và cảm động qua tấm lòng bà cụ Tứ đối
với con trai và con dâu. Vượt lên tình thương con – nhất là đối với người đàn bà lạ
bỗng nhiên thành con dâu mới – đó là tình thương yêu giai cấp của những người
nghèo khổ. Bà cụ tứ đã gọi thị là "con", tôn trọng thị, nói chuyện thân mật với thị ngay
đêm đầu gặp mặt. Và sáng hôm sau, bà cụ tứ cố tạo ra niềm vui cho con trai và con
dâu vui. Trong tác phẩm” Chi tiết nồi cháo cám thật cảm động trong bữa cơm ngày
đói đón dâu mới. Không chỉ là tấm lòng người mẹ thương con mà trong tình thương
ấy còn có cả đức vị tha cao cả.
Truyện kết thúc với một cái kết đầy gợi mở đã tạo cho người đọc những cảm hứng
trong tìm tòi và chiêm nghiệm. Dưới ngòi bút tài hoa của tác giả Kim Lân chúng ta có
cơ hội đắm chìm trong không gian ấy, và nhận ra những vẻ đẹp của hai giá trị lớn: giá
trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả. Bài làm mẫu 4
Vợ nhặt được xem là truyện ngắn thành công, mang danh tiếng đến cho nhà văn Kim
Lân. Truyện tái hiện cuộc sống cùng cực dần đi vào ngõ cụt nhưng không bao giờ bế
tắc của người dân sống trong nạn đói 1945. Nhà văn đã khắc họa nên hình ảnh “nồi
cháo cám” chống đói của bà cụ Tứ, Tràng và cô vợ nhặt. Chính hình ảnh đắt giá này
đã thổi bùng lên nội dung tác phẩm, khiến người đọc hình dung được nạn đói hoành
hành. Đồng thời, lột tả hết được tình thương, vị tha của người mẹ đối với những đứa con của mình.
Hình ảnh “nồi cháo cám” không xuất hiện trong một bữa ăn giữa đời thường mà xuất
hiện trong chính ngày lễ trọng đại – ngày ra mắt con dâu. Đặc biệt hơn, với tình
thương con mãnh liệt, bà cụ Tứ đã rằng “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy,
nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Hình ảnh bùng lên giữa
nạn đói năm 1945 khiến người ta không tránh khỏi sự nghẹn ngào. Vậy nhưng, có ăn
đã là may, ai cũng nén sự xót thương trong lòng cố ăn để chống chọi với nạn đói.
“Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo,
nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Điều đáng ngạc nhiên hơn rằng bà cụ Tứ không
nói về những chuyện buồn xưa cũ, thay vào đó bà kể những câu chuyện vui, những
ngày còn lo ấm. Điều này giúp người đọc phần nào thấy được tâm lý của bà cụ, dù đói
nhưng biết cách an ủi con. Đồng thời, những câu nói quanh bữa ăn như một khát khao
về tương lai tươi sáng của con người.
“Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt
cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy vừa nói: Chè khoán đấy,
ngon đáo để. Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy
chứ”. Câu nói vừa dứt, sống mũi người đọc ắt hẳn sẽ cay cáy nhưng tại hoàn cảnh này,
ba nhân vật trong câu chuyện không một câu chê trách nào. Bởi nồi cháo không chỉ
chống đói, mà còn thể hiện sự yêu thương.
“Nồi cháo cám” không chỉ mang ý nghĩa hiện thực khi tái hiện những hình ảnh nghèo
khổ đến cùng cực tưởng như không còn lối thoát. Bên cạnh đó, còn mang giá trị nhân
văn sâu sắc khi thể hiện được tình thương yêu của người mẹ. Hình ảnh nồi cháo bốc
khói trong buổi lễ ra mắt con dâu còn mang đến giá trị nghệ thuật to lớn, kiến câu
chuyện thêm phần thú vị. Bài làm mẫu 5
Nhà văn Kim Lân là một tác giả có phong cách giản dị, mộc mạc, khiến cho người
đọc cảm động ám ảnh bởi trong mỗi tác phẩm ông đều gửi gắm nhiều tình cảm chất
chứa. Hình ảnh nồi cháo cám trong tác phẩm Vợ nhặt là liều thuốc có sức rung động
sâu xa, thể hiện sức sống mãnh liệt vượt qua bao thời gian.
Truyện ngắn Vợ nhặt lấy bối cảnh nạn đói năm 1945 khi mà cả nước ta rơi cảnh lầm
than, cơ cực, người chết như ngả rạ, trong bối cảnh lịch sử đó nhiều người dân đã thiệt
mạng, những người sống thì sống cuộc đời cơ cực lay lắt. Hình ảnh nồi cháo cám
khiến cho người đọc cảm thấy ám ảnh, về cuộc sống lay lắt, khổ cực của người nông
dân dưới chế độ áp bức bóc lột một cổ nhiều tròng.
Trong bối cảnh nạn đói hoành hành, Tràng một người con trai nghèo khó sống cảnh
mẹ góa con côi, nhà nghèo, thân hình bên ngoài thô kệch, quai hàm bạnh ra, hai con
mắt ti hí hấp háy, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười một mình. Nếu bình thường thì
một người con trai như anh cu Tràng sẽ không bao giờ lấy được vợ, nhưng trong hoàn
cảnh cả nước đói kém người chết đầy đường thì anh cu Tràng lại dễ dàng nhặt được
vợ như nhặt một thứ gì đó rơi ngoài đường mang về nhà.
Hoàn cảnh khốn khó cũng đã xô đẩy một người con lấy chồng mà không có sự chứng
kiến của hai bên họ hàng, không có nổi mâm cơm cúng ông bà tổ tiên…Mọi thứ đều
quá đơn giản. Hai con người nghèo khó gắn kết lại với nhau, họ nương tựa vào nhau
để tìm một hy vọng mới. Bà cụ Tứ mẹ anh cu Tràng được tác giả Kim Lân phác họa
lên là một người phụ nữ hiền lành, nhân hậu bà sẵn sàng chấp nhận người con gái xa
lạ làm con dâu mình “Có gặp thời buổi này thì người ta mới lấy đến con mình, mà con
mình mới có vợ” đó là những suy nghĩ chân thực cảm động của một người phụ nữ thương con.
Sau đêm tân hôn, buổi sáng thức dậy anh cu Tràng thấy nhà cửa đã được quét dọn
sạch sẽ, vợ anh ngồi đó là thật mà cứ ngỡ như là mơ. Bà cụ Tứ đon đả bưng bữa ăn
sáng ra “Chè khoán đấy”. Nồi cháo cám hiện ra khiến cho mọi người đều cảm thấy
đau xót nhưng tất cả đều điềm nhiên chấp nhận cái đói nghèo, mỗi người đều ăn uống
vui vẻ như thể ngon lắm. Một bữa ăn toàn những sơn hào hải vị.
Trong bữa ăn những con người đó mơ về một tương lai tốt đẹp hơn về chuyện làm
vườn rồi mua đôi gà về nuôi, chuyện làng Sùng người ta không cần phải thu thuế, rồi
người dân lao động phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Hình ảnh nồi cháo cám là
thực tế phũ phàng mà đôi trẻ phải đối diện sau khi cưới nhau chưa được bao lâu.
Nhưng bằng tấm lòng người mẹ thương con bà cụ Tứ đã gợi ra những hy vọng mới
cho con trai và con dâu của mình, để họ có thêm động lực hướng tới tương lai, niềm
tin vào những chặng đường sắp tới.
Người mẹ nghèo khổ xót xa khi phải giấu các con nấu một nồi cháo cám tới gần bữa
ăn mới đem ra, bà còn nói tránh đi “Chè khoán đây, ngon đáo để” làm sao có thể ngon
với một loại thức ăn đắng ngắt. Trong bữa cơm bà vui vẻ kể nhiều chuyện vui để cho
các con vui vẻ theo. Một người mẹ nhất mực thương con, quặn thắt lòng khi con trai
cưới vợ trong hoàn cảnh khốn khó này.
Hình ảnh nồi cháo cám mà Kim Lân đã miêu tả có sức sống vô cùng mãnh liệt ám ảnh
người đọc, gợi lên những âm hưởng tha thiết thể hiện sự khát khao hạnh phúc của
những con người trong bối cảnh lịch sử. Hình ảnh này thể hiện sự tài tình của Kim
Lân trong ngòi bút của mình, thể hiện sự sâu sắc của tác giả, khi phác họa chi tiết, tình huống truyện. Bài làm mẫu 6
Ai đó từng nói rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Quả đúng là như vậy, Kim
Lân đã xây dựng chi tiết nồi cháo cám thật độc đáo, gây được ấn tượng mạnh với độc
giả qua truyện ngắn “Vợ nhặt”. Hình ảnh này đã góp phần tạo nên thành công trong sự
nghiệp sáng tác của ông.
Kim Lân là nhà văn viết truyện ngắn chân thật và xúc động về đời sống dân quê, ông
hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí các nhân vật của mình. Năm 1954, Kim Lân đã viết
tác tác phẩm này dựa vào một phần truyện cũ và được in trong tập “Những con chó
xấu xí”. “Vợ nhặt” đã tái hiện lại một cách chân thật về nạn đói ở nước ta năm 1945
khiến khoảng hai triệu người chết. Hình ảnh nồi cháo cám thật đắt giá khi đã thể hiện
được bức tranh hiện thực năm ấy.
Đây là chi tiết xuất hiện ở cuối tác phẩm gắn với nhân vật bà cụ Tứ, anh cu Tràng và
thị. Cháo cám là món ăn đầu tiên khi thị về nhà Tràng làm dâu. Bữa cơm ngày đói đã
thảm hại khi “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối”, “một đĩa muối ăn
với cháo” nay lại càng thảm hại hơn khi có sự xuất hiện của nồi cháo cám. Bà cụ Tứ
lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà đặt cái nồi
xuống bên cạnh mẹt cơm rồi cầm cái môi vừa khuấy vừa cười: “Chè đây. Chè khoán
đây, ngon đáo để cơ”. Thực chất cám là thứ đã bỏ đi, chỉ dành cho động vật ăn nhưng
trong thời buổi đói khát thì “khối nhà chẳng có cám mà ăn”.
Bát cháo cám có vị “đắng chát”, “nghẹn bứ trong cổ” khiến mặt anh cu Tràng “chum
ngay lại”, người con dâu thì “điềm nhiên và vào miệng”, hai con mắt tối lại. Hương vị
ấy khiến trong bữa ăn không ai nói với nhau câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong và tránh
nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí họ. Món ăn này thể hiện tình yêu
thương của bà cụ Tứ dành cho người con trai và người con dâu. Người con dâu mà bà
thương xót trong hoàn cảnh vì cái đói mà đến với con bà, cũng nhờ thế mà Tràng mới
lấy được vợ, nhưng lại là vợ nhặt, thân phận con người còn rẻ rúng hơn cả cỏ rác.
Qua nồi cháo cám, tính cách của các nhân vật cũng được khắc họa một cách rõ nét
hơn. Bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ nhân từ, có lòng thương con sâu sắc. Lòng
người mẹ nghèo khổ ấy vừa ai oán lại vừa xót thương cho số kiếp con mình và người
con dâu tội nghiệp. Bà đã dậy quét dọn và chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà, trong bữa ăn bà
luôn nói đến những điều tốt đẹp để truyền cho các con niềm tin vào cuộc sống.
Anh cu Tràng là một người con hiểu rõ hoàn cảnh gia đình mình chỉ là dân ngụ cư
nhưng anh đã dũng cảm đón nhận hạnh phúc cuộc đời. Anh còn là người chồng có
trách nhiệm, có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Trước nồi cháo cám đắng
chát, người vợ nhặt điềm nhiên đưa vào miệng để không làm mẹ chồng buồn lòng. Bát
cháo cám là điểm cuối của tình yêu và cũng là điểm khởi đầu của hạnh phúc gia đình.
Từ nay, ba người họ sẽ gắn kết, yêu thương lẫn nhau, tin vào một ngày mai tươi sáng hơn.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ qua hình ảnh này. Nó tố cáo tội ác của
thực dân, phát xít, phong kiến đẩy nhân dân ta vào nạn diệt chủng. Nồi cháo cám tuy
bình dị thậm chí là tầm thường nhưng lại là thứ giúp những con người nghèo khổ vượt
qua nạn đói, là tình yêu thương mà bà cụ Tứ dành cho hai con. Đây còn là dụng ý của
Kim Lân nhằm thể hiện giá trị hiện thực của truyện ngắn và nghệ thuật phân tích tâm
lí nhân vật sắc sảo của nhà văn.
Có thể nói, nồi cháo cám là một chi tiết đắt giá của tác phẩm, thể hiện tài năng của nhà
văn Kim Lân. Bên cạnh đó thời điểm xuất hiện nồi cháo cám vào buổi sáng hôm sau
cũng gợi ý nghĩ tích cực, lạc quan về cuộc sống của gia đình anh cu Tràng nói riêng và của nhân dân nói chung. Bài làm mẫu 7
Kim Lân ( 1920- 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân
Hồng huyện Từ Sơn. Ông là một nhà văn độc đáo và xuất sắc viết về nông dân của
làng quê Việt Nam. Ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó tiêu biểu phải kể
đến “ Vợ nhặt”. Tác phẩm ra đời ngay sau cách mạng tháng tám, viết về thời kỳ xảy ra
nạn đói năm 1945. Và trong tác phẩm, Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh “
nồi cháo cám” vào tác phẩm, một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật và giá trị nhân đạo.
Ở “ Vợ nhặt”, Kim Lân đã khắc họa rất thành công những nhân vật như bà cụ Tứ, anh
cu Tràng, vợ Tràng, cùng cuộc sống khốn khổ, thê thảm của những con người giữa
nạn đói năm 1945. Và để khắc họa rõ nét hình ảnh đó, chi tiết “ nồi cháo cám” dường
như đẩy mạch truyện lên cao trào, phản ánh thực tại khốn cùng về cái đói khổ, cùng
với tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ lên cao nhất. Qua “ nồi cháo cám”,
người đọc có thể tưởng tượng ra cảnh tượng nạn đói năm 1945 một cách chân thực, rõ nét nhất.
Câu chuyện nhặt được vợ của anh cu Tràng được tác giả khéo léo đưa chi tiết “ nồi
cháo cám” vào để nói lên nỗi cơ cực, đường cùng của những con người đang phải
sống trong nạn đói năm 1945. Và trong hoàn cảnh đó, tình yêu thương bao là của
người mẹ cũng hiện lên thật rõ nét. Dù đang lúc đói khổ, thì tình yêu thương đó vẫn
luôn âm ỉ cháy trong trái tim của những người mẹ.
Hình ảnh “ nồi cháo cám” xuất hiện trong một tình huống vô cùng đặc biệt. Không
phải trong bữa ăn hàng ngày của một gia đình, mà lại xuất hiện ngay trong buổi sáng
của lễ ra mắt cô con dâu mới. Bà cụ Tứ ngượng ngùng nói với cô con dâu” kể ra làm
được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá , cũng chả ai chấp nhặt gì
lúc này.” Sự đói khổ, nghèo hèn khiến con người ta phải nghẹn ngào.
Mâm cơm dành cho nàng dâu mới trong nạn đói thật thê thảm, “ giữa cái mẹt rách có
độc một lùm rau chuối thái rồi, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất
ngon lành”. Cái đói, cái nghèo bao trùm thì ai cũng biết, nhưng họ nén ở trong lòng,
cố không bộc lộ ra bên ngoài. Vậy nhưng trong bữa cơm ấy, tâm trạng của cụ Tứ vô
cùng phấn khởi, không ủ rũ như mọi ngày. Bà nói rất nhiều chuyện vui, chuyện hay.
Diễn biến tâm lý của người đàn bà nghèo khổ có sự thay đổi rõ rệt. Bà tuy nghèo, tuy
khổ nhưng lại rất yêu chiều con, kể cả con dâu mới. Có thể thấy, bà cụ Tứ đang nói
những lời vô cùng tốt đẹp, về một tương lai tươi sáng của chính gia đình mình, và của cả đất nước.
Rồi bà lật đật chạy xuống bếp, bưng lên nồi cháo cám. Nói với các con rằng: Chè
khoái đấy, ngon đáo để; cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám
mà ăn ấy chứ.” Chi tiết này vô cùng đắt giá, gợi lên cái đói, nghèo đến cùng cực. Và
dù ăn cháo cám nhưng cả ba người đều ăn rất ngon lành, vui vẻ. Có lẽ vì đây là nồi
cháo đong đầy tình yêu thương của người mẹ. Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy
ấm áp, rằng dù trong hoàn cảnh nào thì tình mẹ vẫn luôn như vậy không bao giờ thay
đổi, mẹ luôn hy vọng các con có một tương lai tươi sáng hơn.
Hình ảnh “nồi cháo cám” trong Vợ nhặt vừa có giá trị hiện thực sâu sắc, tái hiện lại
cuộc sống con người nghèo khổ đến tận cùng của nạn đói năm 1945. Lại vừa mang giá
trị nhân đạo khi nồi cháo cám ấy nói đến hình ảnh người mẹ với một sự đáng trân
trọng và đầy yêu thương.
Và “ nồi cháo cám” còn mang giá trị nghệ thuật, đó là hình ảnh khiến cho cả câu
chuyện trở nên ấm áp hơn, về giấc mơ một tương lai tươi sáng của những con người trong nạn đói năm 1945.
Có thể thấy, hình ảnh nồi cháo cám để lại những ấn tượng vô cùng đậm nét trong tâm
trí người đọc. Hình ảnh mang sức ám ảnh, chạm đến trái tim của những người yêu
thích giá trị nhân đạo. Rằng dù giữa nạn đói năm 1945, những con người bằng tình
yêu thương có thể vượt qua tất cả.