Phân tích hình tượng con Sông Đà (4 Dàn ý + 21 Mẫu) | Văn mẫu lớp 12

Hình tượng sông Đà mang một vẻ đẹp thật độc đáo đến nỗi khiến người đọc chúng ta phải ngỡ ngàng. Sông Đà quả là một món quà ưu ái của thiên nhiên, là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân. Vậy sau đây là 21 mẫu phân tích hình tượng sông Đà siêu hay mời các bạn cùng theo dõi nhé.

Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Dàn ý phân tích hình tượng con Sông Đà
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân: là tác giả yêu cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp,
có phong cách nghệ thuật độc đáo, uyên bác, tài hoa.
Tác phẩm: là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân.
Hình tượng con sông Đà chính là thứ vàng mười của thiên nhiên mà Nguyễn
Tuân tìm kiếm.
II. Thân bài
1. Sông đà “hung bạo”
Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng
thủy giai đông ...”.
Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng
ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”
Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn
độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng
“thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô
tô ...mượn cạp ngoài bờ vực”,
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo
to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van
xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một
ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai
phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”,
“đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”,
“đòn tỉa”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh,
một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có
ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm,
mẹo lược, biến hóa khôn lường.
- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác
hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người
2. Sông Đà “trữ tình”
- Khi từ tàu bay nhìn xuống:
Sông Đà “”tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình ... đốt nương xuân ”
Sông đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích,
mùa thu đỏ.
- Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:
Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan
sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch,
có vẻ đẹp Đường thi.
- Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:
Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con
hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”
- Nhận xét: Sông Đà trữ tình như một cố nhân, một tình nhân.
- Như vậy: hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua
hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc.
III. Kết bài
Nêu cảm nhận về hình tượng Sông Đà.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của
nhiều lĩnh vực, xây dựng hình tượng thành công.
Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người
muốn dùng văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và
con người Tây Bắc.
Mẫu 2
I. M Bài
- Nguyn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, c đời say tìm kiếm v đẹp ca cuc
sng.
- Ông s trưng v th loi tu bút. Mt trong nhng sáng tác tiêu biu ca ông
tùy bút “ Người lái đò sông Đà”.
- Tác phẩm đã khắc ho v đẹp đa dạng va hung bo va tr tình ca con sông Đà
ca ngi ngưi lái đò gin d mà k vĩ trên dòng sông.
II. Thân Bài
1. Gii thiu chung.
- Tu bút “Người lái đò sông Đà” đưc in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gm 15
bài tu bút một bài thơ dng phác tho. Tác phẩm đưc viết trong thi xây
dng CNXH min Bc.
- Đó kết qu ca chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bc trong kháng chiến
chống Pháp,đặc bit chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến vi nhiu vùng
đất khác nhau, sng vi b đội, công nhân đồng o các dân tc. Thc tin xây
dng cuc sng mi vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cm hng sáng to.
- Ngoài phong cnh Tây Bc uy nghiêm, hùng v tuyt vi thơ mộng, NT còn phát
hin những điểm quý báu trong tâm hồn con người ông gọi “thứ vàng mười đã
được th la, là chất vàng mười ca tâm hn Tây Bc.”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
- Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân vi ng t hào của mình đã khắc ha
những nét thơ mộng, hùng v nhưng khắc nghit của thiên nhiên đất c qua hình
ảnh con sông Đà hung bạo và tr tình.
- Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện ca ngi cht ngh sĩ, sự tài ba trí dũng của con
người lao động mi : chất vàng mười của đất nước trong xây dng CNXH qua hình
ảnh người lái đò sông Đà.T đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bc va hùng
vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bc cần cù, dũng cảm, rt tài t, tài hoa.
2. Phân tích hình tưng dòng sông Đà.
- Trưc hết, con sông đà đưc Nguyn Tuân miêu t dòng sông hung bo, d di.
Khi hung bạo, sông Đà k thù s mt sẵn sàng cướp đi mạng sống con người,
tâm địa độc ác như ngưi ghẻ. Để khc ha tính cách của sông Đà, tác gi đã dựng
li khúc sông nguy hiểm. Đó đoạn cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành: cht
lòng sông Đà như mt cái yết hầu. Đó là quãng Hát Loóng dài hàng cây s nước xô đá,
đá ng, sóng gió, cun cun lung gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
n xuýt bt c người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây. Lại một đoạn sông khác,
sông Đà cái hút nước xoáy tít. nhng thuyền đã bị hút tt xung, thuyn
trng cây chui ngược ri vt biến đi đến mười phút sau mi thy tan xác khunh
sông dưới..Nhưng dữ di nht những thác đá. Nguyễn Tuân đã buộc s d di,
nham him của sông Đà phải hin lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh.
Chưa thấy sông nhưng người ta đã bị đe dọa bi tiếng thác nước nghe như oán trách gì,
ri lại như van xin, ri lại như khiêu khích, giọng nghe gn chế nho. Tác gi đã
dng li cuc thu chiến giữa sông Đà người lái đò để lt t cho được tính hung
bo ca nó tài ngh của người lái đò. Thác đá được xếp thành tng tuyến nhà
văn gọi thch trn, nhằm ăn chết cái thuyền đơn đc. tuyến một, thác đá mở ra
năm cửa trn, bn ca t, mt ca sinh, ca sinh nm lp l phía t ngn. tuyến hai,
tăng thêm nhiều ca t để đánh lừa con thuyn vào, ca sinh li nm bên phía hu
ngn. tuyến bã, bên phải bên trái đều lung chết, lung sng nm giữa. Ngưi
lái đò phi nhắm đúng luồng sinh để vượt qua.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Bên cnh tính cách hung bạo, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân con sông Đà li rt tr tình,
gi bao cảm xúc làm say lòng ngưi. Khi tr tình, sông Đà hin hoà, mm mi,
huyn ảo như mái tóc của mt ph n kiu diễm: con ng tuôn dài như một áng tóc
tr tình, đầu tóc chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa go
tháng hai và cun cuộn mây mù khói núi Mèo nương xuân.
Không ch đẹp hình dáng, sông Đà còn gợi cm màu sc, c gi đã bao lần
dày công quan sát mi nói hết được v độc đáo y: Mùa xuân ng sông xanh ngc
bích (nghĩa một màu xanh trong sáng); mùa thu ớc sông Đà lừ l chín đỏ như
mặt người bầm đi rượu ba. Đặc bit không khí hoang dại, tĩnh lặng : B ng
hoang dại như bờ tin s. B sông hồn nhiên như một ni nim c tích tuổi xưa. Đề
lt t không khí đầy thơ y.Nguyễn Tuân đã tả đàn ơu ngẩng đầu ngơ ngác một
tiếng còi sương, cái nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt Dương Châu,
gi tâm s của người tình nhân chưa quen biết ! Lúc này, không thấy đâu con sông Đà
din mạo tâm địa đc ác, ch thy tình cm của dòng sông đối với con ngưi
như một c nhân, xa thì thy nh thương, gặp li thì thy mừng vui như nối li chiêm
bao đứt quãng. n con sông lại mang bao rung động yêu thương như nhớ nhng hòn
đá xa xôi để lại nơi thưng ngun. Khi t con sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã s
dng những câu văn nhẹ nhàng, êm ái. u ngn, v ng din t trng thái bình lng,
để li trong lòng nời âm hưởng mênh mang, thơ mộng.
III. Kết bài
Trong tùy bút Người lái đò sông Đà”, nhà văn Nguyễn Tuân đã rất thành công trong
vic s dng nhiu thut ng ca các ngành ngh khác nhau nhm miêu t v hùng vĩ,
thơ mộng của con sông Đà m ra bao liên ởng độc đáo, bất ng trong tâm trí
người đọc. Qua đó, ta thấy đưc tài hoa, vốn văn hoá uyên thâm phong cách ngh
thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Đồng thi ta còn thấy được cm hng ngi ca, t hào
v cht vàng thiên nhiên, v giang sơn gấm vóc Vit Nam ca tác gi.
Mẫu 3
I. M bài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Gii thiu tác gi Nguyễn Tuân: “nvăn suốt đời đi tìm cái đẹp” - phong
cách ngh thut độc đáo, uyên bác, tài hoa.
Tác phẩm Người lái đò sông Đà: mt tác phm tiêu biu cho phong cách ca
Nguyn Tuân.
Hình tượng con sông Đà chính thứ ng i ca thiên nhiên Nguyn
Tuân tìm kiếm.
II. Thân bài
1. Sông Đà hung bạo
- ng chy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thy giai
đông tẩu/Đà giang đc bắc lưu”.
- B sông dng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ
mi có mt trời”, ch “vách đá... như một cái yết hầu”
- mt ghềnh Hát Loóng: “nước đá, đá sóng, sóng gió” một cách hn độn,
lúc nào cũng như “đòi n suýt” những người lái đò.
- quãng Mường Vát: “có những cái hút c giống như cái giếng tông”,
chúng “thở kêu như cửa cng cái b sặc ớc”, thuyền qua đoạn hút ớc “y như ô
tô...mưn cp ngoài b vc”,
- Trận địa thác đá được miêu t t xa đến gn:
T xa, âm thanh thác đá “còn xa lắm” đã nghe tiếng thác “réo gn mãi li,
réo to mãi lên”, âm thanh y hin lên vi nhiu trạng thái khi “oán trách”, lúc
“van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; ch so sánh độc đáo: “rống lên như
mt ngàn con trâu... cháy bùng bùng” (ly la t nước).
Đến gần, đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai
phong”, “bệ vệ”, những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”,
“đánh tan”, tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp cà”, “đòn
ta”
S biến hóa linh hot ca trùng vi thch trn: 3 vòng, vòng 1 có 5 ca sinh,
mt ca t (t ngn), vòng 2 nhiu ca t, 1 ca sinh (hu ngn), vòng 3 ít
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
ca 1 ca sinh (gia), gi hình ảnh con sông Đà tâm địa nham him, mo
c, biến hóa khôn lưng.
=> Sông Đà mang din mạo tâm địa ca mt con thy quái - “dòng thác m beo
đang hồng hc tế mnh trên sông đá”.
2. Sông Đà trữ tình
- Khi t tàu bay nhìn xung:
“Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc tr tình... đốt nương xuân”
ớc sông Đà đi màu theo tng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc
bích, mùa thu đỏ.
- Khi đi rng lâu ngày bt ng gp li con sông:
Nim vui hn ca tác gi khi bt ng gặp sông Đà: “nthấy nng giòn tan
sau kì mưa dm”, “ni li chiêm bao đứt quãng”, “như gp li c nhân”.
Sông Đà gợi cảm như một c nhân, v đẹp như trò chơi tr con tinh nghch,
có v đẹp Đường thi.
- Khi đi thuyn trên sông phía h lưu:
Cnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú non”, con
hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một b tin s”.
Sông Đà như một “ngưi tình nhân chưa quen biết”
=> Sông Đà trữ tình như một c nhân.
- Như vậy: Hình tượng sông đà vừa mang nét hung bo li va tr tình thơ mộng. Qua
hình tượng sông Đà đã thể hin tình cm ca Nguyn Tuân vi thiên nhiên Tây Bc.
III. Kết bài
- Ni dung: Tác phẩm áng văn đẹp được to nên t tình yêu đất nước ca mt con
người muốn dùng văn chương đ ngi ca v đẹp vĩ, thơ mộng ca thiên nhiên
con ngưi Tây Bc.
- Ngh thuật: So sánh, nhân hóa, ởng ợng độc đáo, vận dng tri thc ca nhiu
lĩnh vc, xây dựng hình tượng thành công.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Mẫu 4
I. M bài
Gii thiệu đôi nét v nhà văn Nguyn Tuân, tác phm Ngưi lái đò sông Đà.
Dn dt gii thiu v hình tượng con sông Đà với hai nét đp tiêu biu: hung
bo và tr tình.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- “Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” (1960) của Nguyn Tuân.
- Tác phm thành qu ca chuyến đi gian khổ hào hng ti min Tây Bc rng
ln, xa xôi. Va tha mãn thú phiêu lãng vừa để tìm kiếm v đẹp thiên nhiên “cht
vàng mười đã qua thử la” trong tâm hồn ca những con người lao động chiến đấu
trên miền sông núi hùng vĩ và thơ mộng đó.
2. Phân tích
a. Sông Đà hung bạo
- Vách đá ng Đà “đá bờ sông dựng vách thành” nhng bức thành vách đá cao
cht cht ly lòng sông hp:
“Mt sông ch y ch lúc đúng ng mi có mt tri…”
Con h con nai th vt qua sông, ch cn nh tay thôi cũng thể ném
hòn đá từ b bên này qua bên kia vách
“Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa cũng thấy lnh, cm thy
mình như đứng mt cái ngõ ngóng vng lên mt cái khung ca s nào
trên các tng nhà th my nào va tt phụt đèn điện”.
=> So sánh va chính xác, tinh tế, va bt ng và l lùng.
- Thác nước sông Đà: “Dài hàng cây số nước đá, đá sóng, sóng gió, cun
cun lung gió gùn ghè suốt năm như đòi n suýt”. nh ảnh con sông Đà cung n,
d dằn như lúc nào cũng muốn tiêu dit con ngưi.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
- Nhng t c quãng ờng Vát: Nước đây thở kêu như cửa cng cái
b sặc”, “chỗ giếng nước sâu c c lên những cái hút c lôi tut g xung hoc
hút nhng chiếc thuyn xung rồi đánh chúng tan xác”. Lối so sánh độc đáo khiến con
sông Đà không khác loài thy quái vi nhng tiếng kêu ghê rợn như muốn khng
b tinh thn và uy hiếp con người.
- Âm thanh thác nước sông Đà:
Nguyễn Tuân như mt nhạc trưởng đang điều khin một dàn giao ởng chơi
tht hùng tráng bài ca ca gió thác xô sóng đá.
Ban đầu tác gi mới đ cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu
khích”, “giọng gn chế nhạo”. Thế ri bt ng âm thanh được phóng to hết
c, các nhc khí bng bng thét lên khúc nhc ca một thiên nhiên đang đỉnh
điểm ca một cơn phấn khích mnh m man dại: “Nó rống lên như tiếng mt
ngàn con trâu mộng đang lng ln gia rng vu rng tre na n la rng la
cùng gm thét với đàn trâu da cháy bùng ng”. S liên tưởng cùng phong
phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyn Tuân miêu t không khác
âm thanh ca mt trận động rừng, động đất hay nn núi la thi tin s. Ly la
để t nước, ly rừng để t sông.
- Đặc bit nht thch trận sông Đà: C mt chân trời đá mặt n nào trông cũng
“ng ngược”, “nhăn nhúm”, “méo ”. Vi ba trùng vi thch trận đều cùng nguy
him.
=> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “k thù s mt của con người”.
b. Sông Đà trữ tình
- Dòng ng Đà không ch những "dòng thác hùm beo đang hồng hc tế mnh trên
sông đá" mà nó còn là bức tranh thy mặc vương vấn lòng người. T trên tàu bay nhìn
xuống “con sông Đà tuôn dài như mt áng tóc tr tình, đu tóc, chân tóc n hin trong
mây tri Tây Bc bung n hoa ban, hoa gạo”.
- Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
“Mùa xuân xanh u ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông “màu xanh
canh hến”.
Mùa thu ớc sông “lừ l chín đỏ như da mặt một người bầm đi u bữa”.
Sông Đà mỗi mùa mang mt v đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
- Nguyễn Tuân nhìn ng Đà như một c nhân vi nhng cnh quan hai bên b cc
gi cm: non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khi
áng c sương”.
- Dòng sông Đà như gi nhng ni nim sâu thm trong lch s đất Việt: “Bờ sông
hoang dại như một b tin s. B sông hồn nhiên như một ni nim c tích tuổi xưa
lng t như từ Lí, đời Trần, đời Lê...”
=> Sông Đà hiện lên vi nét đẹp thơ mộng.
III. Kết bài
Cm nhn v v đẹp ca con sông Đà, tài năng ngh thut của nhà văn Nguyễn Tuân.
Phân tích sông Đà học sinh giỏi - Mẫu 1
Nói đến Nguyễn Tuân người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.
Cái đẹp trong các tác phm ca ông phải cái đẹp đạt đến độ hoàn thin, hoàn m.
S nghip cm bút ca Nguyễn Tuân đạt được rt nhiu thành tu k c trưc sau
cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích t tập tùy bút “Sông Đà” là mt trong nhng
sáng tác tiêu biu ca Nguyn Tuân sau cách mng tháng Tám.
Tác phm là kết qu ca chuyến đi Tây Bắc ca Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng
th la ca thiên nhiên Tây Bắc” chất vàng mười đã qua th lửa” của con ngưi
nơi đây.
Ngay những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hin rt s hung bo ca sông
Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” t mộng mà b sông
“dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Quãng sông thì hẹp đến ni “con nai, con h
ln vt t b sông này sang b kia”. “Mặt sông ch y ch đúng ngọ mi mt
trời”, “đang mùa đi đò qua quãng y cũng cm thy lạnh”, cái lạnh ca tng lp da
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
tht, ca s s hãi trước thiên nhiên nơi đây. Khi đi qua quãng này, ngưi ta cm
ởng như mình “đang đứng mt cái ngõ nào ngóng vng lên cái ca s trên cái
tng nhà th my nào va tt phụt đèn điện”. Bằng mt lot hình nh miêu t, Nguyn
Tuân đã đẩy ngưi đc t ph đô thị v khung cảnh hoang sơ đến đáng s ca thiên
nhiên sông nước. Ngưi ta thy hiện ra trước mt một khúc sông Đà vừa sâu, va
hp, va ti, va lạnh đ để bt k ai đến đây cũng phải rùng mình s hãi.
Đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, th k tên đến năm mươi cái ghềnh nhưng sợ hãi
nht ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước đá, đá sóng, sóng gió, cun
cun lung gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp, nhịp văn nhanh mạnh khiến
người đọc không khỏi hãi hùng trưc nhng âm thanh của sóng, gió, ớc, đá. Các từ
láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hi âm thanh ghê rn va gi nhng hình nh khng
khiếp của nơi đây. Sông Đà được miêu t như những k sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những
người trên sông. th gây ra rt nhiu nguy hiểm con người không th nào
ờng trước đưc.
Nhiêu đó vẫn chưa kể hết nhng s đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dng
mt lot th pháp ngh thuật khác nhau đ lt t hết cái v hung bo của hút nước
sông Đà. Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tin trên
gái nhưng li không h duyên dáng, d thương, thay vào đó thể lôi
tut mt cái thuyn xuống đáy sông đánh cho tan xác. Không ch vy, Nguyn
Tuân còn so sánh những cái hút c vi nhng cái giếng tông th xuống sông đ
chun b làm móng cu. Hình nh so sánh này va gợi độ sâu hun hút ca nhng cái
xoáy nước va khiến ngưi đọc khiếp s khi hình dung ra nó. Càng s hãi hơn khi đọc
những câu văn miêu tả âm thanh ca những cái hút nước. “Nước đây thở và kêu như
ca cng cái b sặc”. c không ch dn v nhiu nhanh còn c ặc lên như
mi rót du sôi vào. T láy “ặc ặc” gợi cm giác sông Đà giống nmt loài thu
quái b bóp cht yết hầu đang qun qui giãy gia. S hung bo này khiến nhà n
liên tưởng đến hình nh mt anh quay phim táo tợn nào đó mang máy quay ngi trên
thuyn thúng xung tận cái hút sông Đà rồi t đó lia ngược ống kính để ghi li cnh
ng ghê s: mt cái giếng như xanh toàn bằng thu tinh như sắp v tan đổ p xung
c người, c máy quay phim. Con thuyn xoáy tít, những thước phim màu cũng quay
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
tít. Ngòi bút sc so ca Nguyn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang đưc xem
mt b phim hành đng hp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng s.
S hung bo của sông Đà còn đưc miêu t qua những cái thác nước. Nhà văn ng
người đọc chú ý vào âm thanh ca chúng miêu t lần lượt theo trình t t xa đến
gần. “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng tâm địa din mo th “k thù s mt
của con ngườiđã dn hin ra. Chúng vng ti bằng âm thanh “réo gn mãi li o to
mãi lên”. Tiếng thác nghe như “oán trách”, nghe như “van xin”, “khiêu khích”,
ging gằn “chế nhạo”. Cách kết hp khéo léo giữa so sánh nhân hoá này đã
khiến sông Đà hiện lên vi một tâm địa phc tạp. “Thế ri rng lên”, âm thanh
được phóng to hết c giống như đang đỉnh điểm ca một cơn phấn khích man di.
Nguyn Tuân n so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng ca mt ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn đ phá tuông s ba vây ca rng la.
Và để tăng thêm sự hung d của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút ca mình
vào miêu t đá sông. Hình nh n d “c mt chân trời đá” gợi cảm giác đá sông Đà
nhiu k. Nhng tảng Đá sông Đà đã đưc Nguyn Tuân thi hồn vào đó với tng
tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ng ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Ri chúng
còn vây thành mt thch trn giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.
Qua ngòi bút ca Nguyn Tuân, con sông hung bo y chng khác k thù s mt
của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi s hung bo trôi qua, nó li hin lên vi c
v tr tình, thơ mộng đến khó tin.
T trên máy bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như mt áng tóc tr tình,
đầu tóc, chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa go tháng hai
cun cuộn khói núi mèo đốt nương xuân”. Vi việc so sánh ng Đà “như mt
áng tóc tr tình”, nhà văn đã khiến dòng sông hin lên vi cái v kiu dim ca mt
người ph nữ. Thông thường người ta s thy ch “áng” hay được dùng để ch nhng
tác phm ngh thut, vy đây Nguyễn Tuân đã dùng đ ch sông Đà. thể thy
trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà giống như một tác phm ngh thut tạo hoá đã
to ra.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Sông Đà không chỉ đẹp dáng hình còn đẹp màu nước. Tác gi đã quan sát
dòng sông nhng không gian thi gian khác nhau. Mùa xuân dòng xanh ngc
bích, va trong xanh vừa óng ánh. Thu sang ớc sông chín đ như da mặt người bm
đi vì rưu ba. Bng vic miêu t chi tiết, c th cùng nhng so sánh độc đáo sông Đà
hin lên va đẹp, vừa đa dạng qua đây ta cũng thấy được s hiu biết sâu rng
cũng như kh năng quan sát tinh tế của nhà văn.
B bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chun chun bươm
bướm sông Đà”. Câu văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo nên nhịp n hối h, mau l.
Ri khi nhìn t trên thuyn xuống, sông Đà mang dáng v “lng t”, tĩnh lặng tuyt
đối. S tĩnh lặng ca dòng sông n chứa trong đó mt sc sng dạt dào. Nn
còn dùng nhng so nh cùng gi cm khi miêu t dòng sông “b sông hoang di
như một b tin sử”, “bờ sông hn nhiên như một ni nim c tích tuổi xưa”. Nhà văn
đã sử dng nhng khái nim trừu tượng để miêu t v đẹp c th của sông Đà khiến
sông Đà hiện ra không ch dòng không ca không gian còn dòng sông ca
thời gian. Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gợi ra cái v tĩnh lặng ca sông
Đà sự thanh thn trong tâm hồn con người. Gia cái khung cảnh thơ mng y nhà
văn nghe thấy mt tiếng còi sương - tiếng còi xúp ca mt chuyến tàu đưng st
Phú Th - Yên Bái - Lai Châu, đó là âm thanh ca mt cuc sng hiện đại, đ đầy.
th thy nhng câu văn miêu tả v tr tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên mt
đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm hồn con ngưi.
Bng vn hiu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sc so ca mình, Nguyễn Tuân đã
đưa người đọc đi hết t s hãi này đến bt ng khác khi miêu t hai v đẹp hung bo
và tr tình của sông Đà.
Đọc “Người lái đò sông Đà” ngưi ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn ca
Nguyễn Tuân đưc gọi cái đẹp đạt đến độ hoàn thin, hoàn m. Tác phm mt ln
na khẳng định tài ng bậc thy ca Nguyn Tuân trong vic s dng ngôn t va
giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước ông gi gm trong các tác
phm ca mình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 2
Sông Đà thể coi một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân. Thể
hiện những nét đặc trưng phong cách của ông.Đặc biệt qua hình tượng con sông Đà
Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy một nhà thám hiểm, một nhà văn, một nhà thơ,
một nhà ngôn ngữ đại tài. mỗi trường đoạn khác nhau, vẻ đẹp của sông Đà lại hiện
lên với những nét riêng biệt, đầy sống động, đầy sức sống.
Người Lái Đò Sông Đà nói riêng cũng như tập tùy bút Sông Đà nói chung kết quả
chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm
1958-1960. Đây thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa
hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang dấy lên phong trào tình nguyện đến
những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế hàn gắn vết thương chiến
tranh.
Đoạn trích Người lái đò sông Đà lẽ trích đoạn hay nhất, diễn tả được nhiều nhất
vẻ đẹp của sông Đà. Từ đầu đến cuối tác phẩm hình ảnh ng Đà hiện lên với khuôn
dung, trạng thái khác nhau, cùng phong phú độc đáo. lẽ Nguyễn Tuân đã phải
dày công nghiên cứu, tìm tòi quan sát lưỡng mới thể đem đến cái nhìn hoàn
chỉnh, đẹp đẽ về sông Đà đến như vậy.
Dòng sông Đà hiện lên trong trang văn Nguyễn Tuân trước hết mang dáng vẻ của sự
hung bạo, dữ dội, dường như chính kẻ thù số một của con người. Sông Đà lạnh
lẽo, thâm u, khi người ta đứng dưới đó dường như không cảm nhận đường ánh
nắng lọt xuống, cái lạnh thấu xương dường như xâm chiếm vào những người ngồi trên
thuyền. Đặc biệt hình ảnh so sánh: “vách đá thành chẹt ng sông Đà như một cái yết
hầu"đã diễn tả tận cùng sự chật hẹp của dòng sông, những hiểm nguy rình rập con
người khi mùa nước lên. Sự độc ác đó tiếp tục được Nguyễn Tuân nhấn mạnh ở những
phần tiếp theo như cái hút nước chết người, chỉ rình người lái đò đến đó hút vào, rồi
cho tan xác đoạn sông phía dưới. Những người lái đò không ai dám đến gần:
“Không thuyền nào m men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo
nhanh để lướt quãng sông, y như ô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh tay lái cho vững phóng
qua cái giếng sâu…".
Nhưng sự hung bạo của con sông Đà được thhiện nhất chính trong trận chiến
với người lái đò trên sông, với trùng trùng những trùng vi thạch trận được bố trí
cùng bài bản. Sự hung bạo của chúng được dự báo tiếng thác ớc từ phía xa.
Chúng khi oán trách, khi van xin, khi lại gầm rống lên khiến cho bất cứ ai cũng phải
sợ hãi. dần dần khuôn mặt của chúng mới lộ diện. trùng vi thạch trận thứ nhất,
những khối đá với muôn vàn khuôn mặt khác nhau, méo mó, rúm ró, tàn ác cùng
ngỗ ngược, dàn đan thế trận. Trong thế trận đó đến bốn cửa tử nhưng chỉ duy
nhất một cửa sinh. Không chỉ vậy, đá còn phối hợp với sóng, với nước tạo nên những
cơn cuồng phong dữ dội nhằm nhấn chìm con thuyền. trùng vi thạch trận thứ hai,
cửa tử cứ thế nhiều mãi lên, “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông
đá"và thủy quân như trực nuốt chửng con thuyền. Khí thế của chúng cùng
mạnh mẽ và hung hãn. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng Ít cửa ra vào, “bên phải bên trái
đều luồng chết cả", chỉ một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con
thác". Với sự bày binh bố trận vô cùng linh họa, sông Đà chỉ với mục đích duy nhất ấy
lấy mạng của những người đi thuyền. Đồng thời những câu văn miêu tả này cũng
cho thấy nghệ thuật dùng từ tài tình, sự quan sát tinh tế, nhạy bén của Nguyễn Tuân.
Nhưng đẹp đẽ nhất, u lại nhiều n tượng trong lòng chúng ta nhất không phải con
sông Đà hung bạo kia, mà chính dòng sông hiền hòa, thấm đẫm chất trữ tình. Ở một
góc nhìn khác, từ trên cao trông xuống sông Đà thật dịu dàng, đằm thắm: con sông Đà
tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương
xuân". Đoạn n quả như một khúc nhạc nhẹ nhàng, êm ái, lại tựa như một bức tranh
thủy mặc. Nét vẽ đơn sơ, chấm phá kết hợp với những làn sương khói khiến cho bức
tranh đó càng trở nên hồ, huyền ảo hơn. Nhìn ngắm sông Đà những thời điểm
khác nhau, ông còn phát hiện, mỗi một mùa sông Đà sẽ mang trong mình những dấu
ấn riêng. dấu ấn đó được thể hiện qua màu sắc của nước thay đổi theo các mùa
trong năm. Mùa xuân nước xanh màu ngọc bích, lấp lánh, trong trẻo, dường như
thể soi gương được. Nhưng đến mùa thu, mùa ớc lũ, với ợng phù sa đổ về, sông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Đà lại mang một diện mạo khác hẳn: “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi
rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ một người bất mãn bực bội mỗi độ thu về".
Thật nhạy cảm cũng rất đỗi tinh tế, bằng sự kết hợp giữa sự tìm tòi, khám phá với
tình yêu thiên nhiên sông Đà đã được Nguyễn Tuân cảm nhận một cách trọn vẹn
đầy đủ nhất.
Không chỉ cảm nhận sông Đà một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ, ông còn coi
sông Đà như một con người, đặc biệt một cố nhân: “B sông Đà, bãi sông Đà,
chuồn chuồn bươm ớm trên sống Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng
giòn tan sau mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi
lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân". Bờ bãi sông Đà
gợi nhắc ta nhớ đến thế giới đường thi cổ kính, lại vừa gợi nhớ đến thế giới cổ tích
đầy diệu kì. Nỗi nhớ sông Đà không chỉ đơn thuần là nhớ tới một địa danh, một nơi đã
từng đi qua, nỗi nhớ ấy như dành cho một người cố nhân, người bạn cũ. Bởi vậy
mà càng trở nên thâm trầm, sâu sắc hơn.
Sông Đà mang trong mình vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, hoang như thời tiền sử. Cảnh
đẹp quá nên đã gợi cảm hứng cho thi ca bao đời. Vẻ đẹp ấy đã cùng với sông Đà chảy
qua không gian, thời gian, đặc biệt chảy qua cả những áng thơ ca bao đời, thơ
Nguyễn Quang Bích rồi Tản Đà… để trở thành bất tử. Trong cái nhìn của thi Tản
Đà, Sông Đà đã trở thành “một người tình nhân chưa quen biết".
Sông Đà trong những trang văn của Nguyễn Tuân không đơn thuần một cảnh trí
thiên nhiên tuyệt mĩ, đặc sắc. Mà hơn hết thông qua sông Đà ông thể hiện tình yêu quê
hương u sắc của nh. Đồng thời cũng cho thấy sự chuyển biến trong quan niệm
nghệ thuật của ông. Ông tìm thấy cái đẹp, cái đây, tại cuộc sống, thời điểm này
chứ không phải tìm về quá khứ của một thời vang bóng.
Phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 3
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật muôn đời. Đặc biệt trong
những năm miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa hội Nhiều nhà thơ nhà văn
đã đến với nơi đây Để tìm cho mình Những nguồn cảm hứng mới trong đó Nguyễn
tuân. Ông đã thăng hoa trên chính mảnh đất này với tập "Tùy bút Sông Đà"với linh
hồn bút chì người lái đò Sông Đà. Bài văn Được dệt nên bằng thứ ngôn ngữ điêu
luyện, Những đoạn tả đèo cao vực sâu, thác nước dữ dội hòa quyện kết hợp cùng về
đẹp thiên nhiên hùng thơ mộng trữ tình. lấp lánh giữa bao vẻ đẹp đó chính
hình ảnh con Sông Đà mang nét hung bạo, dữ dội mà hùng vĩ, đầy cá tính.
Vẻ đẹp sông Đà trước tiên được thể hiện ng chảy của con Sông Đà. Như lời đề từ
ngay phần mđầu bài văn "Chúng thủy giai đông tẩu Đà giang độc Bắc lưu". Mọi
con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ riêng con sông Đà là theo hướng Bắc mà chảy.
Chính đặc điểm thú vị này đã tạo nên nét cá tính rất riêng, rất ngang ngược và đầy độc
đáo cho Đà giang.
Vẻ hùng vĩ, dữ dội của dòng sông Đà n biểu hiện những vách đá đầy hiểm trở
đáng sợ đối với con người. Tác giả miêu tả cụ thể, sống động với nhiều chi tiết đặc sắc
những vách đá hẹp cao chót vót "dựng vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới mặt
trời"gợi cảm giác âm u, lạnh lẽo đến mức "đang mùa hè mà cũng thấy lạnh".
Qua cách miêu tả của tác giả người đọc Được truyền một cảm giác chân thực Đến
mức như đang đứngngay trước mặt con Sông Đà ấy, Dường như chính họ cũng cảm
thấy sờn sợn sợ i khi phải qua quãng ấy: "vách đá thành chẹt lòng Sông Đà n
một cái yết hầu"rồi "cảm thấy mình như đứng một cái ngõ ngóng vọng lên
một khung cửa snào.. vừa tắt phụt đèn điện". Bằng nghệ thuật miêu tả cùng các biện
pháp tu từ như nhân hóa, so sánh liên tưởng tưởng tượng, Nguyễn tuân Đã khiến
người đọc cảm nhận rõ hơn bao giờ hết sự nguy hiểm của vách đá Sông Đà
Con Sông Đà với vẻ đẹp hùng được gợi lên qua những nét miêu tả quãng mặt
ghềnh Hát Loóng i hàng cây số ớc đá đá sóng, sóng gió, cuồn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm". Câu văn dài, nhiều về các vế móc xích nối lên nhau đặc
biệt nhịp thơ nhanh mạnh kết hợp với các từ động từ mạnh, Từ láy, Nghệ thuật điệp
"xô ", "cuồn cuộn “, "gùn ghè"đã đặc tả bức tranh sông ớc quả thật cùng chân
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
thực gợi lên một cuộc truy đuổi dữ dội, quyết liệt của sóng nước Sông Đà hòng cướp
đi sinh mạng của bao con người Sông Đà đã phát huy hết sức mạnh của mình nhằm
tấn công con người.
Đặc biệt nét hung bạo dữ dội của con ng Đà được thể hiện nét hơn bao giờ hết
hình ảnh những cái hút nước xoáy tít cả đáy với biện pháp so sánh kết hợp với trí
tưởng tượng phong phú của mình, Nguyễn Tuân Đã có những phát hiện vô cùng thú vị
khi miêu tả những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát.
Đó là "Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông", Âm thanh của nước thì được
nhân hoá Lên thành "thở kêu như cửa cống cái bị sặc". Đặc biệt cách dùng từ độc
đáo "xoáy tít đáy"đã gợi tả một cách cụ thể, ấn tượng những hút nước sâu nguy
hiểm, mặt sông những vòng xoáy nhanh mạnh. Cái cảm giác đầy gay cấn, hồi
hộp khi trèo qua quãng sông ấy "y như ô sang số ấn ga cho nhanh"xuất phát từ
những liên tưởng thật độc đáo và thú vị. Tác giả đặt mình vào vị trí của con người trên
thuyền khi đi qua quãng ấy, sự nguy hiểm còn được Minh họa bằng những dẫn chứng
rất sinh động có những thuyền đã bị i hút đổ xuống thuyền trồng ngay cây chuối
ngược … tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Để có được những góc nhìn Đầy đủ và đa chiều, tác giả đã mượn góc nhìn điện ảnh để
chuyển lại cho người đọc những cảm nhận cùng chân thực về con Sông Đà,
nguyễn tuân hình dung về một anh quay phim nào dám ngồi vào một thuyền "rồi cho
cả thuyền cả mình cầm máy quay xuống đây cái hồ Sông Đà "rồi nhìn ngược lên"làm
cho hình ảnh về những cái hút hiện lên nét như miệng con thuỷ quái khổng lồ cố
nuốt chửng bất cứ thứ đi qua đó. Hình ảnh những cái hút nước được miêu tả cụ thể,
tỉ mỉ từ hình dáng, u sắc, âm thanh, sự vận động dữ dội. Bằng vốn sống phong phú
trí tưởng tượng sáng tạo, Nguyễn Tuân đã đậm mức độ khủng khiếp của những
cái hút qua hàng loạt các hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo vừa giúp người đọc
hình dung về những cái hút như những hung thần tàn bạo vừa khiến họ cảm thấy ghê
sợ, khó bứt thoát khỏi những ghê người ma lực ngôn từ Nguyễn Tuân đã truyền
đến cho họ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nét hoang của con sông Đà đã được Nguyễn Tuân khắc họa qua những nét đặc tả
về thác đá. Âm thanh thác nước được cảm nhận từ xa tới gần với thủ pháp nhân hoá
"oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng găng chế nhạo"kết hợp với phép so
sánh "rống lên như tiếng 1 ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre
nứa nổ lửa… gầm thét với đàn trâu da cháy bùm bùm". Dòng thác dường như đã mở
hết âm lượng, tiếng thét của thiên nhiên bừng bừng, phấn khích, mạnh mẽ man dại.
Từ những âm thanh đó, tác giả giúp người đọc cảm nhận được tính cách hung dữ y
như 1 con thuỷ quái khổng lồ với những âm thanh cuồng loạn, khiêu khích.
Đặc biệt tác giả sử dụng phép so sánh với những hình ảnh ở thế hoàn toàn đối lập. Lấy
lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy trâu mộng để tả thác nước như réo, oán trách,
van xin… Cách miêu tả của tác giả rất độc đáo nhờ thủ pháp so nh kết hợp với lối
viết riêng đã gợi ra nhiều trường liên tưởng, tưởng ợng phong phú. Nhờ đó, ta thấy
được, Nguyễn Tuân quả là 1 nhà văn có tầm.
Qua thủ pháp nhân hoá, Nguyễn Tuân đã thổi hồn cho đá, biến chúng thành những
gương mặt với hành động rất “tướng"với chân dung, diện mạo "ngỗ ngược, hòn nào
cũng nhăn nhúm méo mó", hình dáng, phong thái thì "bệ vệ oai phong lẫm liệt"rồi còn
"hất hàm", "thách thức", mỗi lần xuất hiện bóng dáng cái thuyền nào chúng bèn
"nhổm cả dậy", "vồ", "chặn ngang", “đánh tan","tiêu diệt"cho bằng được cái thuyền.
Thủ pháp nhân hóa đã phát huy tính độ tác dụng để làm nổi bật tính cách đầy hung
bạo độc ác yêu chiến. Hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với nhiệm vụ tiêu
diệt con người. Những hòn đảo ấy trong cảm nhận của Nguyễn tuân những tên
chiến binh với nhiệm vụ khác nhau nhằm giúp con chuyển vào để tiêu diệt. Chỉ vài
dòng đặc tả thôi cũng đkhiến nơi đây trở thành nỗi sợ khủng khiếp đối với những kẻ
yếu bóng vía.
Đá kết hợp với nước bày binh bố trận thành 3 tuyến tấn công: hàng tiền vệ, tuyến
giữa, boongke chìm pháo đài nổi. Sóng ớc la thanh viện Để uy hiếp tinh thần
con người. Sông Đà đã huy động sức mạnh tổng lực của mình "ùa o bẻ gãy cán
chèo", "Sông ớc như thể quân liều mạng", đá trái, thúc gối o bụng hông
thuyền", "Đội cả thuyền lên bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông đò".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Qua những dòng văn miêu tả về trận thạch thuỷ sông Đà, Nguyễn Tuân lại một lần
nữa làm người đọc rùng mình trước tâm địa hiểm độc, đáng sợ của con sông Đà.
Binh pháp thần ng thần đá đầy hiểm, thạch trận được bố trí thành ba trùng vi.
các trùng vi nhiều cửa tử chỉ một cửa sinh đặc biệt vị trí của sinh thường
xuyên thay đổi. Đọc đến đây, ta nghĩ ngay đến trận đồ bát quái của Khổng Minh khi
xưa chỉ có điều trận địa nay đã chuyển xuống mặt nước Sông Đà.
Nguyễn Tuân sử dụng hàng loạt thuật ngữ quân sự như binh pháp, pháo đài, cửa sinh
cửa tử, đánh khuýp quật vu hồi, mai phục, trùng vi thạch trận, hậu vệ, boong-ke chìm,
pháo đài nổi…. tạo không khí căng thẳng, kịch tính như 1 trận chiến thực sự giữa con
người và thiên nhiên đã diễn ra hàng bao thế kỷ.
Con Sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp hung bạo dữ dằn kẻ thù số một của con người
con sông y còn hiện lên với một bức chân dung hoàn toàn đối lập, một nét vẽ
tương phản cùng tồn tại trong một chỉnh thể, chính vậy nét đẹp của càng trở
nên độc đáo ấn tượng, hấp dẫn. Vẻ đẹp trữ tình của con Sông Đà hiện lên dưới nhiều
khía cạnh được Nguyễn Tuân cảm nhận theo những góc nhìn khác nhau.
Con Sông Đà từ trên cao nhìn xuống với hình dáng thướt tha màu sắc biến đổi
cùng phong phú. Từ trên tàu bay nhìn xuống, trông con Sông Đà như “cái dây
thừng ngoằn ngoèo… tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân". Điệp từ tuôn dài cùng với Nhịp thơ nhẹ nhàng như ru như
ngân tạo nên về được Lững lờ thướt tha,đầy chất thơ cho con Sông Đà. Phép so sánh
con sông như một áng tóc trữ tình một nét nghệ thuật độc đáo mới mẻ. Chính lối so
sánh giàu chất thơ, chất hoạ này vừa giúp phô ra vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm kiều diễm
kiêu sa vừa bộc lộ được chất phong tình hào hoa của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Qua
phép so sánh, sông Đà mang dáng vẻ của 1 người thiếu nữ đầy xuân sắc đang buông
hờ mái tóc làm duyên giữa cánh rừng hoa bồng bềnh màu khói. Bao nhiêu vẻ đẹp
quyến rũ, thơ mộng của đất trời bỗng ùa về thức dậy trong những câu văn của Nguyễn
Tuân.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Đà Giang hiện lên với đủ màu sắc biến hoá theo từng mùa. Mùa xuân sông xanh ngọc
bích mùa thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi rượu bữa. Tác giả
còn so sánh màu xanh ngọc bích của Sông Đà Với màu xanh cánh hiện của sông Gâm
sông lô. Đồng thời, nhà văn còn đặt sông Đà trong dòng chảy lịch sử, ông bày tỏ sự
bất bình trước cách gọi tên đầy lếu láo của bọn thực dân gọi Sông Đà sông đen.
Đoạn văn không chỉ thể hiện những cảm nhận tinh tế của 1 ngòi t tài hoa còn
bộc lộ được 1 cái tôi đầy uyên bác của nhà văn.
Con sông Đà dưới cái nhìn của 1 người rừng lâu ngày trở nên đầy mới mẻ và gợi cảm.
Với Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như 1 “cnhân". 2 chữ “cố nhân"vang lên ng
biết bao tình cảm trìu mến, niềm xúc động của tác giả khi gặp lại sông Đà đã cho thấy
mối quan hệ gắn bó vô cùng sâu nặng, tâm tình, tri kỉ.
Khoảnh khắc tác giả phát hiện vẻ đẹp cổ kính của dòng sông, mặt ng loang
loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt, sáng lóe lên 1 màu nắng tháng 3
Đường thi “Yên hoa tam nguyệt Dương Châu"( Bạch ). Dòng sông như đang
chảy về từ quá khứ xa xưa mang vẻ đẹp cổ kính như những câu thơ của tiền nhân. Bờ
bãi sông Đà ngập tràn chuồn chuồn, bươm bướm, dệt nên 1 bức tranh rực rỡ sắc màu,
tô điểm thêm cho vẻ đẹp dòng sông.
Bên cạnh việc miêu tả dòng sông, nhà văn còn trực tiếp giãi bày, bộc lộ niềm xúc
động và hạnh phúc của mình khi gặp lại cố nhân. Những câu văn đầy tính nhạc và cảm
xúc: “Chao ôi, trông dòng sông vui như thấy nắng giòn tan sau khi mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng". Thán từ “chao ôi"mở đầu câu thơ thể hiện bao niềm
xúc động ngỡ ngàng, trầm trồ,đầy hân hoan mà "đằm đằm ấm m "của tác giả khi gặp
lại người "cnhân "ấy. Cách dùng từdiễn đạt mới mẻ, đầy ấn tượng "đằm đằm ấm
ấm". Nguyễn tuân với góc nhìn của người ngồi trên thuyền thả trôi trên sông đã cảm
nhận được đầy đủ vẻ đẹp thơ mộng hoang sơ, tĩnh lặng nhưng đầy sức sống của đà
Giang. Câu văn "Thuyền tôi trôi trên sông Đà"là 1 câu toàn thanh bằng gợi âm điệu
nhẹ nhàng dịp trôi êm ả, khoan thai của con thuyền đồng thời gợi nh ảnh con người
thoải mái khoan khoái, tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Điệp từ lặng từ được lập lại hai lần diễn tả sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối thậm chí
Tịnh không một bóng người. Sự tĩnh lặng ờng như đưa ta trở về quá khứ đến đời lý
đời trên đời lê, Đó một vẻ đẹp cổ kính hoang như một bờ tiền sử hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đặc biệt tác giả còn sử dụng nghệ thuật lấy động tả
tính, từ những âm thanh trong tâm ởng như tiếng còi súp của một chuyến xe lửa
cho đến âm thanh của hiện tại tiền cả đất nước sông, tất cả đều phần gợi ra một
không gian được bao phủ bởi một sự tĩnh lặng đến tuyệt đối.
Vẻ hoang dại, mộng mơ được thể hiện đầy ấn tượng qua hình ảnh “hoang dại như 1 b
tiền sử", “hồn nhiên như 1 nỗi niềm cổ tích tuổi xưa", thường người ta so sánh cái trừu
tượng với cái cụ thể, cái lạ với cái quen vậy mà ở đây, Nguyễn Tuân đã làm ngược lại.
Qua cách so sánh này, tác giả vừa vẽ nên bức tranh sông Đà hoang sơ, thơ mộng vừa
thể hiện được tình cảm cùng trìu mến thân thương ông dành cho gái sông
Đà. Hình ảnh con yêu thơ ngộ lần đầu nhung khỏi ai ơng đã thêm nét thơ
mộng cho cảnh dòng sông
Hình ảnh những nương ngô nhú lên mấy ngô non đầu mùa rồi cỏ gianh ra những
nõn búp, "Đàn dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi"gửi
hình ảnh một con Sông Đà thoát ra khỏi cuộc sống nhiều bề lắng đọng bâng khuâng
cùng với đó tiếng còi trong tâm tưởng của tác giả diễn tả khát khao của con người hứa
hẹn về một tương lai giàu tiềm năng du lịch của Tây Bắc
Nguyễn tuân đã miêu tả con Sông Đà cùng ấn tượng với những đặc điểm tính
chất đối nghịch vừa hùng vĩ hung bạo lại kết hợp với nét thơ mộng trữ tình. Về đẹp ấy
được khắc họa qua các hình thức nghệ thuật tiêu biểu như thủ pháp tương phản các
biện pháp tu từ quen thuộc đặc biệt hình tượng con Sông Đà à được cảm nhận dưới
nhiều góc nhìn khác nhau mang đến một Về đẹp cụ thể đa chiều Cho dòng sông. Qua
hình tượng con Sông Đà, tác giả đã gửi gắm tình yêu sự gắn bó sâu sắc với quê hương
xứ sở và niềm tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên Đất nước.
Phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 4
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Thiên nhiên con người Việt Nam vốn tươi đẹp, thân thương đáng yêu. rất
nhiều tác giả lấy thiên nhiên con người m chủ đề chính cho tác phẩm của mình.
Một trong số các tác giả thành công đề tài này không thể không nhắc đến Nguyễn
Tuân cùng tùy bút Người lái đò sông Đà. Với thể loại tùy bút đặc trưng, tác giả đã
khắc họa thành công hình tượng con sông Đà hung bạo, dữ tợn nhưng cũng rất thơ
mộng, trữ tình.
Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch có rất nhiều tác phẩm thành công dù ở
bất cứ giai đoạn nào gây ấn tượng sâu sắc với người đọc. Trước cách mạng tháng
Tám Năm 1945, phong cách sáng tác của ông được gói gọn trong một chữ "Ngông". Ở
giai đoạn này, do hội lúc bấy giờ chìm trong kiếp lầm than, lệ thối nát nên
Nguyễn Tuân đắm chìm trong những vẻ đẹp của quá khứ. Ông luôn sống với những
hoài niệm, những cái đẹp “vang bóng” của một thời đã xa để quên đi thực tại. Sau
cách mạng tháng Tám năm 1945, khi miền Bắc giành lại được độc lập đi lên xây
dựng CNXH thì phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân đã nhiều chuyển biến quan
trọng. Các tác phẩm của ông giai đoạn này mang giá trị nghệ thuật cao, ông viết nhiều
về đề tài quê hương đất nước, nhân dân lao động trong chiến đấu, sản xuất. Ông tìm
tòi, khám phá vẻ đẹp của con người ngay trong chính cuộc sống đời thường, trong
những công việc nh dị nhất. Tâm hồn của tác giả hòa cùng thiên nhiên và sự phát
triển của đất nước tạo nên những tác phẩm tươi mới khác hẳn giai đoạn trước. Tùy bút
“Người lái đò sông Đàra đời giai đoạn này, kết quả của chuyến đi thực tế của
nhà văn đến vùng núi Tây Bắc để tìm kiếm chất vàng mười đã qua thử lửa”. Bài y
bút mang đến cho chúng ta hai vẻ đẹp đối lập của con sông Đà: hùng vĩ, dữ dội thơ
mộng, trữ tình.
Mở đầu tùy bút hai lời đề từ cùng đặc sắc độc đáo: Đẹp vậy sao tiếng hát
trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà tiếng hát của những con người cần
mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu”
mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương
Bắc để nói lên sự khác biệt độc nhất nhị của sông Đà, gợi ra những tính riêng
của con sông. Chỉ với hai lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
những vẻ đẹp cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc
phần nào thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này.
Sau lời đề từ, tác giả đi vào cụ thể vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của con sông: Cảnh vách
đá hai bên ng dựng đứng như vách thành; vách đá chẹt dòng sông Đà như một
cái yết hầu; đứng bên này bờ nhẹ tay némn đá qua bên kia vách; quãng con nai
con hổ đã lần vọt từ bên bờ này sang bên kia; mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ
mới mặt trời.” bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân mang đến cho bạn
đọc nhiều liên tưởng tvị về con sông Đà: nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông
được ví như những thành trì kiên cố, vững chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe dọa
trực chờ. Tác giả đã sử dụng nhiều giác quan để cảm nhận được hết vẻ đẹp hung tợn
quãng này của con sông: vừa hẹp lại nhiều đá dựng cao ngang ngược nhưng tiềm
ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được.
Không chỉ quãng này của con sông nguy hiểm quãng mặt ghềnh Hát Loóng cũng
nhiều hiểm nguy không kém: “Dài hàng cây số nước đá, đá sóng, sóng gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái
đò sông Đà…; quãng này khinh suất tay i thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Đến đây, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều câu văn ngắn móc xích với nhau, điệp từ, điệp
cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau để
“hoành hành” tạo thêm nét hung bạo của sông Đà; không chỉ đá dựng thành vách
hăm dọa con người nữa mà ngay cả mặt nước cũng tạo sóng hung tợn để đe dọa bất cứ
con thuyền hay người nào qua đấy cho ta thấy một con sông Đà ngang ngược, đạo
và vô cùng bướng bỉnh.
Quãng Mường t con sông cũng hung tợn không m: Trên sông bỗng
những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm
móng cầu; nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước
ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào; nhiều thuyền gỗ đi nghênh ngang ý những
cái giếng hút nước ấy lôi tụt xuống” Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của
Nguyễn Tuân làm tạo cho câu n trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không
sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.
Không chỉ riêng những quãng trên con sông Đà mới hung tợn dòng chảy của
cũng cùng hung tợn: những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị m đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác khuỷnh sông dưới”. Sự hung dữ này được Nguyễn Tuân
liên tưởng đến một anh quay phim bạo dạn dám ngồi vào trong cái thuyền thúng tròn
vành rồi cả người cả thúng cùng theo dòng xoáy xuống dưới cùng của xoáy nước
lia máy ảnh lên, thu vào tầm mắt tất cả xoáy nước như “một cái giếng mà thành giếng
xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha xanh
như sắp vỡ tan ụp c vào máy vào người quay phim cả người đang xem.” Sự liên
tưởng đặc sắc, tvị này không chỉ giúp bạn đọc hình dung ra sự hung tàn của con
sông mà còn làm cho vẻ hung tàn đó trở nên đa sắc màu hơn.
Bên cạnh sự hung tàn như một con thủy quái, sông Đà cũng hết sức mưu mẹo khi bày
ra nhiều trùng vi thạch trận hòng ớp đi sinh mạng của những người lái đò qua đây.
Phối hợp với sóng ớc với tiếng thác ầm ầm sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá. Đá đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng ng. Mặt hòn đá nào
trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo hơn cả cái mặt nước ch
này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, đchúng phối hợp lại thành ba trùng vi
thạch trận nguy hiểm. Ở trùng vi thứ nhất sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử,
một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, hai hòn canh
một cửa đá đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào trận địa, chúng tấn
công chiếc thuyền tới tấp: "Mặt nước la vang dậy quanh mình, ùa vào bẻ gãy
cán chèo khí trên cánh tay mình. Sóng ớc như thể quân liều mạng vào sát nách
đá trái thúc gối vào bụng hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên.
Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả
cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Vượt qua trùng vây thnhất, người lái đò lại tiếp tục chiến đấu với trùng vi thạch trận
thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại btrí
lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh
khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp này, chúng quyết sinh
quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn
không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến cửa vào đã tiu
nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.
Đến trùng vi thạch trận thứ ba: “Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều luồng chết cả.
Cái luồng sống chặng ba này lại ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác” nhưng
vẫn không thắng nổi người lái đò dũng cảm, mưu trí. Cuối cùng sông Đà vẫn nhận lấy
cái kết đắng trong trận chiến thiên nhiên - con người. Qua đây ta thấy con Sông Đà
như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện
mạo tâm địa một thứ kẻ thù số một” nhưng cũng mang một màu sắc riêng biệt
không thể nhầm lẫn với bất kì con sông nào khác.
Nếu vẻ đẹp của ng Đà chỉ dừng lại sự hung bạo thì chẳng đáng để tác giả
yêu quý, chính dòng sông này lại mang vẻ đẹp khác biệt vô cùng thơ mộng, trữ tình
làm người ta xao xuyến: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đến đây, Nguyễn Tuân giúp bạn đọc
hình dung ra con sông Đà như một người thiếu nữ của Tây Bắc với mái tóc tuôn dài
giữa núi rừng mộng mơ mang màu sắc thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa
thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt
Dương Châu”, còn những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ
mộng: “Cảnh ven sông đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn “những nương ngô
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
nhú lên những ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.
Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn đen xen cùng thơ mộng, trữ tình đã làm cho Nguyễn Tuân
say miêu tả dòng sông ấy với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, một tình yêu thiên
nhiên đất nước sâu nặng. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu, tự hào về một dòng
sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những trang văn
đẹp hiếm có qua ngôn từ uyên bác và những liên tưởng thú vị.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác
“ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm
đã đóng góp không nhvào nền n học Việt Nam được nhiều thế hệ con người
đón nhận.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 5
Nguyễn Tuân một nvăn tài ba uyên bác. Trước cách mạng tháng 8, ông đi tìm
vẻ đẹp của “một thời vang bong". Sau cách mạng tháng 8, ta nhận ra diện mạo của
một nhà văn Nguyễn Tuân mới mẻ, khát khao được hoà nhập với đất nước cuộc
đời. Ông tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi không chỉ để thoả n cái thú tìm đến
miền đất lạ cho thoả niềm khát khao “Xê dịch"mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của
thiên nhiên tâm hồn của người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và
thơ mộng đó. “Người lái đò sông Đà"là một áng văn trong tập tuỳ bút sông Đà (1960).
Trong tác phẩm, hình tượng con sông Đà hiện lên vô cùng hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng
rất trữ tình và lãng mạn.
Cảnh đá bsông “Dựng vách thành", phía thượng nguồn “chẹt lòng sông như một cái
yết hầu"khiến dòng nước phải xoáy o “ruột đất"mà chảy. Người ngồi đò qua đây
đang giữa trưa mùa cũng thấy lạnh. Để rồi khi long sông đột ngột mở ra lại tạo
thành những mặt ghềnh hang cây số, lúc nào cũng ầm ào, náo động như trong cơn bão
tố “Hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Những cái hút nước nằm rải rác trên mặt sông Đà, mỗi xoáy nước một cạm bẫy
nguy hiểm chết người. Sức mạnh ghê gớm của dòng nước xoáy được nhà văn lột tả
bằng hàng loạt hình nh so sánh các thủ pháp của điện ảnh. Đây hình ảnh của
một con thuyền không may bị xoáy nước hút tụt xuống lòng sông “Thuyền trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm đi ngầm xuống lòng sông, đến mươi phút
sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Nhưng dữ dội nhất vẫn là thác đá sông Đà.
Từ xa nó đã đe doạ người lái đò bằng những âm thanh cuồng nộ như tiếng cả ngàn con
trâu mộng đang gầm thét giữa rừng tre nứa nổ lửa “Rừng lửa cùng gầm thét với đàn
trâu da cháy bùng bùng". Đến gần sẽ thấy nó bừng ra “cả một chân trời đá"mà mặt
đứa nào trông cũng nhăn nhúm, méo mó, hung tợn.
Bãi đá ngầm được nhà văn miêu tả như một thạch trận dàn bày công phu, khéo léo với
ba trùng vây kiên cố. Mỗi trùng vây được thần sông thần đá “thiết kế"theo một đồ
riêng, giao phó cho nhiệm vụ riêng. Hàng tiền vệ trách nhiệm lừa dụ con thuyền
vào sâu thạch trận nên chỉ có hai tảng đá canh cửa “trông như là sơ hở". Tuyến giữa sẽ
đón đánh trực diện trong khi tuyến đầu vòng lại đánh khuýp quật vu hồi". Tuyến đá
cuối cùng kiên quyết nhất gồm những “boong ke chìm những pháo đài đá nổi"sẽ
tiêu diệt con thuyền cùng tất cả thuyền trưởng thuỷ thủ nếu lọt khỏi hai vòng
vây trướcBằng hệ thống từ ngữ, hình ảnh nhân hoá phong phú, độc đáo, Nguyễn
Tuân đã khiến ng Đà hiện lên như một loài thuỷ quái khổng lồ “độc dữ nham
hiểm".
Nhà văn chọn điểm nhìn từ trên cao để thu lấy vóc dáng mềm mại của dòng sông như
một áng tóc mun “dài ngàn ngàn, vạn vạn sải". Áng tóc mây y được miêu tả bằng
một thứ ngôn ngữ văn xuôi giàu cả chất thơ, chất nhạc, chất họa “Con sông Đà tuôn
dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai cuồn cuộn khói núi mèo đốt nương
xuân". Từ đỉnh trời Tây Bắc, mái tóc huyền thoại sông Đà nối liền những khoảng
không gian mênh mông của đất nước…
Mặt nước sông Đà cũng được tái hiện với vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân khẳng định rằng
nước Đà Giang chưa bao giờ đen “như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
tây vào gọi bằng một cái tên Tây láo lếu". Trái lại, ớc sông Đà vào mùa xuân
trong trẻo xanh một ng “xanh ngọc bích", chứ không xanh màu xanh canh hến của
sông Gâm, ng Lô. Mùa hạ dòng psa lại “lừ lừ chín đỏ"xuôi bùi đắp cho một
dải đồng bằng. Nhiều quãng nước sông Đà ngập trong “nắng Đường thi"và dập cánh
chuồn chuồn bươm ớm đẹp tới mức khiến người ta muốn nổi hứng đề thơ o
sông nước.
Đẹp nhất có lẽ vẫn là những triền sông yên vắng, nguyên sơ như thời tiền sử, như “nỗi
niềm cổ tích xưa". Khung cảnh nơi đây dường chưa từng đổi thay từ thuở khai thiên
lập địa tới giờ. Thuyền trôi qua những quãng sông này nthể lạc vào một thế giới
thần tiên tịnh không một bóng người. Cgianh đồi núi đang ra những nõn búp.
Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm ơng đêm… Đàn cá dầm xanh quẫy
vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Sông Đà thơ mộng, tình tứ, gợi lên trong
lòng người cảm giác đằm đằm, ấm áp như được gặp lại cố nhân sau bao ngày xa cách.
Người lái đò sông Đà một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm,
thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp kì vĩ, hào hùng,
vừa trữ tình tmộng của thiên nhiên. Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động khó
nhọc, cùng sự tài hoa uyên bác của người nghệ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ
nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hoá. Với tài năng này, tác phẩm của ông hẳn sẽ
mãi còn “vang bóng "trong tâm hồn độc giả.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 6
Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân có lời đề từ:
"Chúng thuỷ giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu"
Tạm dịch là:
" Mọi dòng sông đều chảy về Đông
Chỉ có sông Đà ngược Bắc"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Lời đề từ ý nghĩa riêng, dòng Đà giang độc đáo chỗ: "ngược Bắc". Phải chăng
dòng sông văn chương của Nguyễn Tuân cũng những nét riêng, độc đáo như sông
Đà kia? Quả thật, dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân thể hiện rất trong hình tượng
sông Đà. Phong cách nghệ thuật của nhà văn diện mạo sáng tác riêng của người
nghệ sĩ. Đó sự kết hợp hài a giữa khả năng chiếm lĩnh hiện thực độc đáo hệ
thống phương tiện biểu hiện riêng của người nghệ sĩ.
Với Nguyễn Tuân, sông Đà không còn một vật tri giác, một hiện ợng thiên
nhiên nữa sông Đà đã trở thành hình tượng văn học,sông Đà như một sinh mệnh
có tính cách, tâm trang độc đáo. Sông Đà có hai tính cách đối lập nhau : "hung bạo
trữ tình", như nhà văn từng nói. Lúc trở mặt hung bạo, ng Đà kẻ thù số một của
con người, lúc trữ tình, sông Đà đầy chất thơ, dịu dàng, thân thiết. Hai nét tính cách
đối lập nhau của sông Đà phù hợp với khả năng chiếm lĩnh hiện thực của Nguyễn
Tuân. Sông Đà hung bạo cũng phù hợp với phong cách của Nguyễn Tuân chỗ, nhà
văn say mê miêu tả những cảm giác mạnh.
Tính chất hung bạo của sông Đà được thể hiện chỗ vách thành dựng đứng. Chỗ ấy
lòng sông hẹp như một cái yết hầu. Chỗ ấy hẹp, nguy hiểm, chỉ thấy mặt giời lúc đúng
ngọ. Sông Đà hẹp đến nỗi : "con nai con hổ đã lần vọt từ bờ này sang bờ kia".
Nguyễn Tuân cảm nhận sông Đà đoạn này không chỉ bằng thị giác còn bằng xúc
giác, ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, giữa mùa hè không chỉ lạnh mà còn thấy tối.
Người ta cảm thấy ghê rợn và nguy hiểm vì sông Đà hẹp, vách thành dựng đứng.
Sông Đà hung bạo còn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát lóng dài hàng cây số : "nước xô
đá, đá sóng, sóng gió, cuồn cuộn, gùn ghè suốt năm...". Câu văn của Nguyễn
Tuân nhịp điệu 3/3/3..., nhịp điệu này phỏng độ lượn của mặt ghềnh. mặt
ghềnh con thuyền phải vượt qua chỉ thấy nước - đá -sóng- gió thôi. Những từ
lặp lại : "nước -đá-sóng-gió" như gối lên nhau hồi hoàn của mặt ghềnh nguy hiểm.
Nhờ vậy, u văn tạo nên một cảm giác mạnh của mặt ghềnh ào ạt. Nếu không phải
một cây bút tài hoa thì không thể tổ chức được những câu văn giàu nhạc điệu, giàu
hình ảnh như Nguyễn Tuân.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Sông Đà hung bạo, dữ dội thể hiện những hút nước, xoáy nước trên sông. Nguyễn
Tuân miêu tả những cái hút nước ấy bằng cách so nh rất tài tình. Khi thì nhà văn so
sánh cái hút nước ấy như cái giếng bê tông. Lúc thì Nguyễn Tuân ví : "Nước ở đây thở
kêu như cửa cống cái bị sặc". khi Nguyễn Tuân so sánh như những cái giếng
sâu, nước ặc ặc vừa rót dầu sôi vào. Nhờ so sánh, Nguyễn Tuân đã truyền được cảm
giác mạnh cho người đọc về sự nguy hiểm của hút nước sông Đà. Nhà văn còn sử
dụng con mắt của nhà điện ảnh để tưởng tượng, một anh quay phim táo tợn nào đấy,
ngồi vào cái thuyền thúng, cho hút vào cái đáy của hút nước khủng khiếp kia tạo
cho người xem cảm giác hãi hùng. Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân thật diệu
trước tạo hóa.
Sự dữ dội của sông Đà thể hiện âm thanh thác nước. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân,
sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của qua
những thác dữ, tiếng nước réo gần, réo to i lên. Tiếng nước thác nghe như oán
trách, như van xin, như khiêu khích, giọng gằn chế nhạo. Khi đến gần,
bỗng rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang "lồng lộn giữa rừng tre nứa nổ
lửa". Khủng khiếp thay là thác nước sông Đà!
Sông Đà hung bạo còn được thể hiện đám đá tảng đá hòn bày thạch trận. Người ta
nói Nguyễn Tuân thầy phủ thủy của ngôn từ, thổi hồn người vào sự vật tri vô
giác. Nguyễn Tuân nhìn vào đau những tảng đá sống động đến đấy. Đá đấy mai
phục ngàn năm, mỗi hòn nhiệm vụ riêng, bộ mặt độc đáo, hình dáng không giống
nhau. Mặt hòn đá nào cũng ngngược, hòn thì nhăn nhúm, hờn thì méo mó, hòn thì
oai phong, bệ vệ, lẫm liệt. hòn đá trông nghiêng y như hất hàm hỏi cái thuyền
phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Khi thất trận, hòn đá tướng tiu nghỉu cái mặt
xanh thất vọng. Cái đôi đũa thần ngôn từ của Nguyễn Tuân chạm vào đến đâu thì
nổi hình nổi dáng, phảng phất linh hồn của sự vật tới ấy. Đó phải chăng phong cách
uyên bác, tài hoa, độc đáo của cụ Nguyễn vậy sao?
Đối lập với sông Đà hung bạo, nhà văn Nguyễn Tuân đã phát hiện ra một nét tính cách
nữa của sông Đà: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả. Tính cách trữ tình của sông
Đà cũng phù hợp với phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Với Nguyễn Tuân,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
sông Đà sản phẩm tuyệt của tạo hóa, ông chiếm lĩnh trên phương diện văn
hóa thuật. Nguyễn Tuân quan sát sông Đà trữ tình nhiều góc độ khác nhau.
Lúc thì nhà văn nhìn con sông từ trên tàu bay, từ trên cao. lúc Nguyễn Tuân nhìn
sông Đà qua đám mây của mùa xuân, có khi người nghệ sĩ nhìn sông Đà qua đám mây
của mùa thu. Cũng có khi tác giả cảm nhận sông Đà bằng nỗi nhớ của cố nhân, gặp thì
vui mừng, xa thì nhớ nhung. Cũng khi Ng Tuân tiếp cận sông Đà bằng đôi mắt của
lịch sử, của hồi ức, của quá khứ.
Mỗi góc độ ấy, Nguyễn Tuân đã so sánh sông Đà với nhiều đối tượng khác nhau rất
tài tình biến hóa. Nvăn đã so sánh sông Đà với trên dưới ời đối tượng, tạo
cho người đọc cảm giác ngạc nhiên, thán phục nhận ra rằng không nhà văn nào
so sánh hay hơn, đúng hơn Nguyễn Tuân. Từ trên cao sông Đà ngoằn ngoèo như một
cái dây thừng. Nhìn sông Đà từ xa, Nguyễn Tuân so sánh như một tiên nữ giáng trần :
"tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo...." Đẹp biết bao khi ngắm sông Đà, a xuân
xanh một màu xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu
bữa. Nhờ so sánh, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra bao vẻ đẹp trữ tình của sông Đà. Nếu
không gắn yêu thiết tha phong cảnh quê hương, đất nước thì hẳn Nguyễn Tuân
không có những so sánh, phát hiện ra vẻ đẹp của sông Đà.
Nguyễn Tuân phát hiện vẻ đẹp trữ tình của sông Đà thể hiện màu sắc hài hòa. Rừng
Tây Bắc bạt ngàn một màu xanh, sòng Đà giang mênh mông một u xanh. Trên cái
điệp trùng của màu xanh ấy nổi lên màu trắng của mây trời, màu trắng của sương, của
khói Tây Bắc, của hoa ban, của cá như bạc rơi thoi trên sông Đà. Màu sắc của sông Đà
thay đổi theo mùa, theo cách nhìn theo tâm trạng của tác giả. Mùa xuân xanh ngọc
bích, mùa thu đỏ phù sa. Màu vàng của cái nắng tháng 3 giòn tan, màu vàng của con
hươu thơ ngây, ngộ nghĩnh...những màu sắc ấy vẻ đẹp của thiên nhiên, đất ớc,
đồng thời là sản phẩm của một tâm trạng Nguyễn Tuân, một m hồn tinh tế tài
hoa.
Miêu tả sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân những trang văn tuyệt bút. Đó một thứ
văn xuôi đầy chất thơ, giàu nhạc học chạm khắc tạo hình. Nguyễn Tuân miêu tả
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
sông Đà bằng ngôn ngphong phú : "Thuyền tôi trôi trên sông Đà". Câu văn 6 tiếng
toàn thanh bằng, có vần, nhịp điệu, giàu hình ảnh, gợi cảm giác. Sông Đà đoạn này êm
đềm nhẹ nhàng, bồng bềnh, lững lờ. Câu văn của Nguyễn Tuân không chỉ giàu hình
ảnh, màu sắc còn có đường nét, chạm khắc: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung
khỏi áng cỏ sương chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò". Đây không còn
văn xuôi nữa mà nó trở thành bức họa tuyệt đẹp, cái đẹp thể hiện ở ngôn từ tài hoa của
Nguyễn Tuân.
Phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 7
Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần sáng
tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác
ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt đầu lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...
(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về
sông núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình yêu sông núi. Trong
đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:
Chúng thủy giai đông tẩu,
Đà Giang độc bắc lưu.
Sông Đà ngày nay đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến
mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi m (1960), nhà văn
Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm Sông Đà ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ thú,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút Người lái đò
Sông Đà một trong số 15 bài của tác phẩm Sông Đà, một “tờ hoa", “trang hoa"
đích thực. đã th hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Tuân: uyên bác, tài hoa, độc đáo. Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông
Đà được Nguyễn Tuân nói đến với tất cả tình yêu sông núi quê hương.
Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng. Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một
“cố nhân", một cố nhân “chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẩn tính và gỏng thác lũ ngay
đấy".
Sông Đà hung bạo lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa - bảy cái
thác, trăm ba cái ghềnh"(Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du lịch đi
xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận cho ta biết Ly Tiên Bả Biên Giang hai cái
tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho ta biết rằng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ
hay hay: thác Em, thác Giăng, Mỏ Tôm, MNăng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng,
thác Tiếu... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, thế
đồng bào Thái mới có tục ngữ: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm".
phía trên trung lưu sông Đà. đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng ng đúng
ngọ mới ánh mặt trời, đoạn lòng sông bị “chẹt"như cái yết hầu. quãng con
nai con hổ đã lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật
ghê rợn. ghềnh Hát Loóng “nước đá, đá sóng, sóng gió, cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt m...". Những cái hút nước Mường Vát, nước kêu “ặc ặc"như
rót dầu sôi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những nh quđàn. Tiếng thác
rống nghe càng sợ. Nghe “như oán trách..., như van xin..; như khiêu khích,
giọng gằn chế nhạo". Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút
của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng thuật điện
ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên
tưởng rất “đắt"để miêu tả, tái hiện cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà
Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ “diện mạo và tâm địa"nham hiểm, xảo
quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi “thạch trận", dày đặc “cửa tử", la liệt ‘‘boong ke
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
chìm vào pháo đài đá nổi", những ông tướng đá trấn giữ “oai phong lẫm liệt"có bộ
mặt “xanh lè"đáng sợ, sẵn sàng “bẻ gãy cán chèo", “bắt chết"những chiếc thuyền đi
qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi
thạch trận nơi “cửa ủi nước", đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta
nhiều cảm giác mạnh.
Đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông
miền Tây Bắc này. ng hình sông Đà mềm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân với
“một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải", hoặc “tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai". Một cách so sánh tài hoa, phong tình như Nước sông Đà thay đổi bốn mùa,
nhưng đẹp nhất mùa xuân mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích (...); Mùa
thu nước sông Đà lừ lừ chín đi như da mặt người bầm đi vì rượu bữa".
Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh còn những quãng, những không gian, những
cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà “lặng lờ"; hình như từ đời
Lí, đời Trần, đời “quãng sông này cũng lặng lờ đến thế thôi". những cảnh
hoang vu, hoang kỳ lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ
kính hoa lệ như hai vế song quan trong một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng
bút pháp chấm phá “điểm nhấn" để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình
của con sông Đà xa lạ mến thương. màu xanh của những ơng ngô xuân đầu
mùa. những đồi giăng đầy “nõn p". những con hươu rừng “thơ ngộ"ngẩng
đầu nhung khỏi áng cỏ sương. đàn dầm xanh quẫy vọt lên mặt “bụng trắng
như bạc rơi thoi". chuồn chuồn bươm bướm bờ bãi sông đem lại cho người đi
rừng niềm vui “như thấy nắng giòn tan sau mưa dầm vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng". Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm, “lững lờ như nhớ thương những hòn
đá thác xa xôi", hoặc "con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của
người xuôi"...
nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút Sông Đà loại “tùy bút bút kí". Đọc
tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
văn hóa, phong tục về một xứ sở, một dòng sông, về cảnh và người Tây Bắc... chỉ nói
về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất sành điệu, tài hoa uyên bác. Hai câu
thơ “đề từ"mà ít người biết được xuất xứ ca ngợi vẻ đẹp nên thơ cua sông nước, vẻ
đẹp độc đáo của Đà Giang: “Đẹp thay tiếng hát trên dòng sông", “Chúng thủy giai
đông tẩu - Đà Giang bác lưu". Cũng ncon sông Trường Giang bên Trung Quốc,
con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp “Đường thi"như một câu thơ tuyệt bút của
Bạch hơn 1.300 năm về trước:
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành
người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm
báo oán đời đời đánh ghen". Thi Tản Đà với Nguyễn Tuân đôi bạn vong niên. Ta
bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật là thú vị.
Dái sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.
Qua đó ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng tình tri âm tri kỷ. i về truyền thống
yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng", nhà
văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích - bậc phú kiên cường
chống Pháp cuối thế kỉ XIX – để đưa vào bài kí:
Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu.
Trang văn của Nguyễn Tuân lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông
Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi
dậy, trở nên bừng sáng giàu có. Người i đò Sông Đà đúng một giai phẩm
Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa nghệ thuật Việt Nam.
Ai đã từng đọc Vang bóng một thời chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa
của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, vuống trà, chơi đèn trung thu của những
nhà nho thutrước. lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa
Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm. Đọc tùy bút
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Người lái đò sông Đà, ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã “để thơ vào sông nước". Ông
đã khám psự vật - con sông Đà - phương diện văn nghệ thuật, đã miêu tả, nhận
diện con người - ông lái đò - phương diện thi hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa
trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu, bằng
tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc
góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Văn của Nguyễn Tuân đứng
những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần sáng tạo, đem thơm thảo cho đời.
Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang
vị của hương nguồn hoa núi.
Phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 8
Nguyễn Tuân (1910 1987) cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say tìm kiếm vẻ
đẹp của cuộc sống. Ông đặc biệt sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những
sáng tác tiêu biểu của ông tùy bút Người lái đò sông Đà. Bên cạnh hình ảnh ông lái
đò giản dị tài hoa, tác phẩm còn khắc hoạ được vẻ đẹp của con sông Đà trong
những góc nhìn khác nhau: khi hùng tráng, hung bạo, lúc lại trữ tình, duyên dáng
nên thơ.
Trước hết, hình ảnh con sông Đà được hiện lên qua cái nhìn của tác giả về một con
sông tự nhiên, lắm thác nhiều ghềnh, hung bạo ngỗ ngược, không chảy theo khuôn
khổ lẽ thường. Vẻ nguy hiểm của con sông không chỉ được thể hiện qua việc lắm thác
nhiều ghềnh đó còn là cảnh “đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỗ y chỉ lúc
đúng ngọ mới mặt trời. vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu.
Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. quãng con nai con hổ đã
có lần vọt từ bờ này sang bờ kia".
Chỉ với vài chi tiết phác họa như thế, người đọc đã hình dung ra được sự hiểm trở,
hùng của con sông. Không chỉ thế, tác giả còn diễn tcảm xúc khi đi qua đoạn
sông trắc try: Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ
nào trên cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện". Bằng nghệ thuật so sánh độc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
đáo, Nguyễn Tuân đã khắc họa nên nh ảnh một con sông Đà độc đáo, đẹp vẻ đẹp
hùng vĩ, hoang dại nhưng cũng ẩn chứa đầy hiểm nguy.
Thế nhưng vẻ hùng vĩ, hoang dại của sông Đà chưa dừng lại đó. Quãng mặt ghềnh
hát loong, dài hàng cây số nước đá, đá sóng, sóng gió, cuồn cuộn luồng gió
gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua
quãng ấy". Với cách dùng động từ mạnh kết cấu trùng điệp, tác giả đã làm sự
nguy hiểm của con ng hung dữ, sẵn sàng không kiêng nể lấy đi tính mạng của
bất cứ tay lái nào khinh suất.
Những cái xoáy hút ớc ở quãng Mường Vát phía dưới Sơn La được tác giả miêu
tả còn ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái
hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. […] những thuyền đã
bị cái hút hút xuống, thuyền trồng ngay y chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm
đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác khuỷnh sông dưới".
“Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng
tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng". Với giọng điệu dồn dập, gay cấn, đầy cảm xúc, những câu văn gằn lên
một cảnh tượng hùng vĩ nhưng nguy hiểm cùng. Một cách so sánh, nhân hóa tài ba
những liên tưởng “rất đắt", rất hiếm thấy trong văn học. Điều đó cho thấy Nguyễn
Tuân thực sự một bậc thầy về ngôn ngữ. Ông thổi hồn vào những con chữ, khiến
từng con chữ như biết nói, biết rung động.
Đặc biệt hơn nữa, không chỉ dữ tợn ng Đà còn “nham hiểm"bủa vây ba trận
chiến. Những tay lái đò muốn ợt qua khúc sông này thì đều phải vượt qua ba trận
chiến hiểm trở, táo bạo này. Với giọng văn ngày càng dồn dập, tác giả như kéo người
đọc cùng hồi hộp vượt thác với người lái đò. Trận thứ nhất “mặt nước la vang dậy
quanh mình, ùa vào bẻ gãy cán chèo. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát
nách". Sang đến trận thứ hai “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào,
cửa sinh lại bố trí lệch qua bên phía bờ hữu ngạn". Đến trận thứ ba vẻ như ít cửa
hơn nhưng lại quyết liệt và cam go hơn. Với tất cả những gì mà Nguyễn Tuân miêu tả,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
sông Đà hiện lên không khác nào một con thủy quái đầy nham hiểm thâm độc, chỉ
rình mò nuốt chửng lấy con mồi bất cứ khi nào.
Hung bạo thế, nham hiểm thế, vậy qua những thác ghềnh, con sông Đà lại trở
nên duyên dáng, thơ mộng trữ tình. “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Cái đẹp còn có ở nước
sông Đà thay đổi theo mùa, trong đó con ng đẹp nhất mùa xuân mùa thu:
“Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến
của sông m, sông Lô. Mùa thu ớc sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ một người bất mãn bực bội mỗi độ
thu về".
Đẹp nhưng sông Đà cũng những lúc buồn mênh mang hoang đến lạ kỳ: “Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích xưa".
“Cảnh ven sông đây lặng tờ. Hình như từ đời đời Trần đời Lê, quãng sông này
cũng lặng tờ đến thế thôi". Cảnh sông Đà còn “những nương ngô nhú lên những
ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn p. Một đàn hươu
cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm". Đến đây, người đọc gần như đã quên đi vẻ
hung bạo, toan tính của sông Đà trên kia. Thay vào đó, người ta chỉ thấy một vẻ đẹp
nhẹ nhàng, cổ kính tươi mới biết bao nhiêu. Con sông Đà lúc này còn như một
người bạn tâm giao, m tình: con sông “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để
lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi".
Sông Đà trở nên hiền hòa thơ mộng lạ kì, “trôi những con đò mình nở chạy
buồm vải, nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên".
thể nói rằng, sông Đà mang một vẻ đẹp độc đáo đến nỗi khiến người đọc chúng ta
phải ngỡ ngàng. Bằng tình yêu cái đẹp, yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với vốn từ
phong phú, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng
trữ tình, nên thơ. Sông Đà quả một n quà ưu ái của thiên nhiên, một công
trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.
Hình tượng sông Đà - Mẫu 9
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Bằng phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố
gắng khai thác kho cảm giác liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm cho ra những
chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng lay động người đọc nhiều nhất, Nguyễn Tuân đã
sáng tác được rất nhiều tác phẩm giá trị lớn, trong đó sông Đà, một thành quả
nghệ thuật đẹp đẽ tác giả thu hoạch được trong chuyến đi tới vùng Tây Bắc tổ
quốc xa xôi, rộng lớn. Ông đã tìm được cái chất vàng của thiên nhiên cùng thứ vàng
mười đã qua thử lửa được thể hiện trong thiên tùy bút “người lái đò Sông Đà"con
sông Đà với sự hung bạo, trữ tình thơ mộng của đã được tác giả miêu tả thật tài
hoa.
Sông Đà bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một
vùng núi ác, đến gần nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. ng tổng cộng 73
con thác dữ tổng chiều dài 983 km. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông
Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp, như một cố nhân “lắm bệnh lắm chứng,
chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy".
Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa Trăm bảy
cái thác, trăm ba cái ghềnh"(Ca dao) cái hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng
chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đông tẩu Đà giang độc bắc lưu", một
dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Vẻ nguy hiểm của sông không chỉ
được thể hiện qua thác ghềnh đó còn đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông
chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như
một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. quãng
con nai con hổ đã lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng
ấy, đang mùa cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng hè một cái nmà
ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên i tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn
điện". Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của
dòng sông, một nơi hẹp như thế lưu tốc dòng ớc vốn nhanh bây giờ lại trở nên
siết vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào kẹt vào cái khe ấy thì tiến không
được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Cũng như “quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước đá, đá sóng,
sóng gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất
cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy". Bằng kết cấu trùng điệp, tác
giả đã làm sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ
tay lái nào khinh suất.
Những cái hút nước quãng Mường Vát phía ới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa.
“Nước đây thở kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng
đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào m men gần những cái hút
nước ấy, thuyền nào qua cũng trèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô sang số
ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh
tay lái cho vững phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu i vào. những thuyền đã bị cái hút hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị m đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác khuỷnh sông ới". Thật những cái bẫy ghê sợ, chết
người !
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi
lại như khiêu khích, giọng gằn chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Bằng nghệ thuật so
sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên ởng “rất đắt", Nguyễn Tuân đã cho thấy một
cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn
người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố sức hủy diệt rất lớn lại luôn
tương khắc với nhau, nước thì không lửa, ngược lại, lửa thì không nước.
Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá. Đá đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng ng. Mặt hòn đá nào
trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo hơn cả cái mặt nước ch
này". Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy
hiểm:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh
nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, hai hòn canh một cửa đá trông như
hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. trùng vi thứ
nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa,
chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: Mặt nước la vang dậy quanh mình, ùa vào
mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào
sát nách đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền
lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật m thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa
trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc
nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò".
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ hai: “Tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi
chiếc thuyền". Tại trận chiến đánh giáp này, chúng quyết sinh quyết tử với ông
lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh
thất vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống
chặng ba này lại ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boongke
chìm pháo đài đá nổi đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng
đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng,
chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, như một
mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn
được, tiến về phía khung thành cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về
phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa".
Qua đó, ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung ng, bạo ngược biết bày
thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền trên dòng nước của nó, một thứ thiên
nhiên Tây Bắc với “diện mạo tâm địa một thứ kẻ thù số một". Con sông “hằng
năm đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc phản ng giận
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
dỗi tội vạ với người lái đò Sông Đà". Chẳng thế sông Đà được gắn với câu
đồng dao thần thoại n Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài Năm năm o
oán đời đời đánh ghen".
Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò còn đậm
nét thơ mộng, trữ tình: “Con Sông Đà tuôn i tuôn i như một áng tóc trữ nh, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân". Một cách so sánh tài hoa, phong tình.
Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, trong đó đẹp nhất mùa xuân mùa thu:
“Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến
của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ một người bất mãn bực bội mỗi độ
thu về".
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt
Dương Châu", làm cho người đi rừng dài ngày “vui như thấy nắng giòn tan sau
mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng".
Sông Đà còn những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng:
“Cảnh ven sông đây lặng tờ. Hình như từ đời đời Trần đời , quãng sông này
cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: “Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa".
Cảnh sông Đà n “những nương ngô nhú lên những ngô non đầu mùa, những
cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm
sương đêm". Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên tmộng tuyệt đẹp
như thế, nhà văn bỗng cảm thấythèm được giật mình một tiếng còi xúp-của một
chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Th Yên Bái Lai Châu", muốn được đánh
thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh
không một bóng người", một nương ngô nhú lên mấy ngô non đầu mùa"không
ai chăm sóc, dường như từ đời đời Trần đời Lê, quãng ng này cũng vắng
lặng như thế thôi. Thật buồn tẻ! Từ quá khứ nhà văn trở về với hiện tại hướng
tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai đây sẽ con người khai phá, đường sẽ được mở,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi
người. ng cảnh vật nếu không con người thì vẫn chỉ hoang sơ, tẻ nhạt
thôi! Đang mộng bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm lạ với loài
vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ
lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt như hỏi tôi bằng
cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, phải ông cũng vừa
nghe thấy một tiếng còi sương?". đây dường như con vật hỏi người hay chính
người đang say trong cảnh mộng tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng thế,
những khoảng lặng diệu khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng
đập nước của "đàn dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi
đuổi mất đàn hươu vụt biến"đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái
động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng diệu. Trở về với thực tại, nh đênh trên dòng
nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ sự đồng điệu trong cảm xúc về sông
Đà như Tản Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh đênh Bao nhiêu cảnh bấy
nhiêu tình"của một người tình nhân chưa quen biết". Con sông Đà như một sinh vật
linh hồn, dòng nước trôi lững l“như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại
trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi". Con
sông trở nên hiền hòa thơ mộng, “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải
khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên".
Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn
Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng cũng thật trữ tình, làm
ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà qumột quà tặng
giá của thiên nhiên một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút
Nguyễn Tuân.
Hình tượng sông Đà - Mẫu 10
Nguyễn Tuân một nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại nước ta. Những tác
phẩm của ông thường viết bằng ngòi bút khá độc đáo bằng tình yêu dành cho những
số phận con người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà"kể về một người lái đò bình thường nhưng vô cùng
anh dũng, thể chiến thắng thiên nhiên, làm chủ thiên nhiên trong tay lái của mình.
Thông qua sự tinh tế trong cách viết của mình Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà
vô cùng huyền bí, hùng vĩ và nguy hiểm.
Tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng hình ảnh con sông Đà bằng chất liệu ngôn ngữ độc
đáo, phong cách có chút “ngông"thể hiện sự quan sát tinh tế của mình với thiên nhiên,
và con người. Thông qua sự quan sát của tác giả người đọc thấy hiện lên hình ảnh con
sông Đà “lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng…chốc lại bản tính gắt gỏng thác
lũ…"
Trong thực tế con sông Đà dòng sông nhiều hung dữ, thác ghềnh nước chảy không
theo một ng nào cả. như một con ngựa bất kham lúc thế này lúc thế khác khiến
cho người điều khiển phải cùng hiểu tính nết của nó. Tuy nhiên, sông Đà hiện lên
cùng sinh động và đẹp lạnh lùng, vừa hiểm trở, ác liệt, nhiều nguy hiểm vừa hiền
hòa, dịu êm với những dòng thác ghềnh hùng vĩ, những vách núi đá sừng sững.
Đặc biệt sông Đà phải đúng 12 giờ trưa mới nhìn thấy mặt trời . Tác giả đã miêu
tả hình ảnh con sông Đà như thế nào “Đá bờ sông, dựng vách thành…Có vách đá
thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay m hòn đá
qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia".
Chỉ với vài chi tiết nhnhưng tác giả Nguyễn Tuân đã phác họa sông Đà hiện lên
nhiều nguy hiểm, khó khăn khôn lường, việc di chuyển qua dòng sông này thật sự
một việc làm rất mạo hiểm đòi hỏi nhiều mưu trí, gan dạ.
Khi tác giả miêu tả tiếng thác chảy, người đọc cảm thấy như chính mình đang được
ngắm nhìn dòng thác hùng sông Đà. thật sự một bức tranh thiên nhiên
cùng hùng vĩ, tươi đẹp mang chút đó hoang sơ khiến cho con người say đắm. Tiếng
thác nhiều khi ai oán, như đang than trách điều gì, khi thì lại giống ncon trâu mộng
lồng lộn điên cuồng, khiến người ta khiếp sợ.
Qua những lời văn của tác giả người đọc cảm nhận thấy sự tinh tế của tác giả. Ông
đúng bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ cùng độc đáo bởi là một dòng sông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
nhưng ông có thể miêu tả nó với nhiều phương diện, trạng thái cảm xúc khác nhau dẫn
dắt người đọc đi hết từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.
Ông đã thổi linh hồn cho những câu chữ của mình làm cho tác phẩm cùng sinh
động, sức truyền cảm cùng mãnh liệt, khiến người đọc khi thì hồi hộp lo lắng,
khi thì nhẹ bẫng khoan thai, sung sướng.
Trong tác phẩm của mình tác giả đã chia con sông Đà thành ba trận chiến cùng
cam go khốc liệt. Người lái đò muốn vượt qua con sông nguy hiểm này thì phải vượt
qua ba trận chiến đó.
Trận chiến đầu tiên đó chính mặt nước của sông Đà cùng mạnh mẽ thể ùa
đến và làm gãy cán chèo của người lái đò bất kỳ lúc nào. Một người lái đò mà mất cây
chèo thuyền thì coi nhưng thua. Trận chiến thứ hai đó chính là việc con sông Đà có rất
nhiều cửa ngõ thể dẫn con người tới chỗ nguy hiểm tới tính mạng, để tìm được
đúng cửa đi thật sự việc cùng cam go, chỉ những con người hiểu sông Đà
nhiều lắm mới nắm rõ được quy luật của nó.
Trong trận chiến cuối cùng sông Đà hiện ra ít cửa hơn không làm cho người lái đò
hoang mang nhưng mọi thứ lại tập trung đánh toàn diện khiến cho mọi thứ trở nên
quyết liệt hơn.
Qua những lời văn miêu tả của mình ta thấy hình ảnh con sông Đà hiện lên không
khác một con quái thú cùng hung dữ, nhiều âm mưu thâm hiểm, thể giết chết
tính mạng con người bất cứ lúc nào . kẻ thù nguy hiểm ng những người làm
nghề lái đò qua sông.
Tuy nhiên, ng Đà ng những nét đáng yêu riêng của khiến con người phải
say đắm ngỡ ngàng đó sự hoang sơ, hùng vĩ của nó. Qua miêu tả của Nguyễn Tuân
sông Đà hiện lên như một bức tranh thủy mạc “Bờ sông hoang dại như một btiền
sử….như một nỗi niềm cổ tích a"đúng một vẻ đẹp cùng nên thơ, trữ tình như
một chốn bồng lai tiên cảnh nơi trần gian.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà"người đọc cảm nhận được sự thần tiên trong
công việc thầm lặng của những người chèo thuyền qua sông Đà. Đó tưởng chừng như
một công việc vô cùng đơn giản, nhưng thực chất lại chứa rất nhiều hiểm nguy.
Người lái đò qua ngôn ngữ miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân đã trở thành những anh
hùng trên mặt trận quân thủy binh. Họ vừa giống như người thuyền trưởng đa tài
thể vượt qua những thác ghềnh, nước vừa như một nhà thơ ngân nga trên con sông
với những điệu hò khoan.
Khi đọc xong tác phẩm hình ảnh hùng vĩ, hoang tươi đẹp của sông Đà vẫn còn ám
ảnh trong tâm trí người đọc khiến cho họ muốn được đặt chân đến mảnh đất này để
một lần được ngắm sông Đà bằng chính đôi mắt của mình.
Hình tượng con sông Đà - Mẫu 11
Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất trong tập tùy bút “Sông
Đà"của Nguyễn Tuân, tập tùy bút cũng đánh dấu sự chuyển biến trong tưởng, tình
cảm của Nguyễn Tuân so với giai đoạn trước cách mạng. Trong Người lái đò sông Đà
không chỉ nổi bật nh ảnh của người lao động kiên ờng dũng cảm còn nổi bật
một thiên nhiên đẹp đẽ, mang trong mình hai vẻ đẹp đối lập vẻ đẹp hung bạo vẻ
đẹp trữ tình. Hai vẻ đẹp này hòa quyện, tạo nên bức tranh hoàn chỉnh cho dòng sông.
Trước hết về lai lịch của dòng sông, theo như Nguyễn Tuân, dòng sông khai sinh
huyện Cảnh Đông Vân Nam Trung Quốc, sau đó ra nhập quốc tịch Việt Nam
cứ thể trưởng thành mãi lên. Những chữ như khai sinh, quốc tịch, đã biến dòng
chảy của con sông trở nên dòng đời, số phận và sinh thể sống.
Trước hết dòng sông mang vẻ đẹp hung bạo, dữ dội, bởi trước khi nhập quốc tịch Việt
Nam nó đã chảy qua một vùng núi khác của Trung Quốc. Diện mạo của dòng sông hết
sức dữ dằn: đá bờ sông dựng đứng “vách đá thành chẹt ng Sông Đà như một cái yết
hầu". Hình nh so sánh lạ đã tái hiện được sự thu hẹp đột ngột bất ngờ của dòng ng,
kết hợp với thuật miêu tả tỉ mỉ: mặt ng chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới mặt
trời"cho thấy quang cảnh vừa hùng vĩ, vừa âm u, rợn ngợp. Cùng với đó là trường liên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
tưởng độc đáo và lạ, Nguyễn Tuân đã gợi ra cái lạnh lẽo từ quang cảnh. Thông thường
để tạo ra cái lạnh người ta thường liên ởng đến mùa đông, còn Nguyễn Tuân lại liên
tưởng: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa cũng thấy lạnh, cảm
thấy mình như đứng một i ngõ ngóng vọng lên một khung cửa sổ o trên
cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Cái này này thấm sâu vào da thịt,
khiến người ta phải run rẩy vì sợ hãi.
Cái dữ dội, nguy hiểm của dòng sông còn được nhà văn tạo hình đoạn mặt ghềnh
Hát Loóng. Bằng kiến thức địa sâu rộng, với vốn ngôn từ phong phú, Nguyễn Tuân
đã tái hiện thành công vẻ đẹp hung bạo của dòng sông: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát
Loóng, dài hàng cây số nước đá, đá sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được
qua đấy. Quãng này khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra". Câu
văn trải dài, chia làm nhiều vế ngắn, sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên nhịp nhanh,
mạnh, gấp gáp để diễn tả phản ứng dây chuyền giữa sóng, gió, nước đá, chứa đựng
đầy sự hiểm nguy.
Sự nguy hiểm còn thể hiện qua những cái hút nước trên sông. Âm thanh ghê rợn, “ặc
ặc lên như vừa rót dầu sôi vào", âm thanh vừa dữ dội, vừa kì quái, nó dường như được
phát ra từ cổ họng một con quái vật. Về hình ảnh tác giả đặc tả những “đàn quạ bay lừ
lừ trên những cái hút nước"gợi ra điềm gở, sự chết chóc. Tài hoa nhất khi Nguyễn
Tuân đẩy trường liên tưởng đến giới hạn xa nhất, khi tác giả vẽ ra cảnh một anh bạn
quay phim táo tợn ngồi vào thuyền thúng để thả mình vào những cái hút nước ấy:
“ngồi o một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay
xuống đáy cái hút sông Đà…".
Sau khi miêu tả diện mạo hiểm ác, Nguyễn Tuân tiếp tục đi sâu vào tâm địa của con
sông. ng ng Đà mang tâm địa thâm độc, hiểm ác, được Nguyễn Tuân tái
hiện rõ nhất trong cách chúng bày các trùng vi thạch trận. Ở đây Nguyễn Tuân đã khai
thác tối đa hiệu quả của biện pháp nhân hóa, để nhận ra những hòn đá kia mang tính
cách, sắc diện của con người. Theo như lời tả của Nguyễn Tuân, hòn đá nào cũng
nhăn nhúm, méo và dữ dằn, chúng phối hợp với nhau tạo thành thiên la, địa võng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
trên sông. Trước khi vào trận chiến đã tổ chức bố trí trận địa, chúng chia thành ba
trùng vi thạch trận liên tiếp nhau chứa vàn những cửa tử, mỗi trùng vi thạch
trận chỉ một cửa sinh duy nhất, cửa sinh này biến hóa khôn lường. Qua đó thể hiện
sự mưu mô, xảo quyệt của con sông với người lái đò. Bằng kiến thức phong phú, uyên
bác trên nhiều lĩnh vực cùng với vốn ngôn ngữ giàu chất tạo hình, Nguyễn Tuân đã
miêu tả trọn vẹn sự nguy hiểm, hung bạo của dòng sông, không chdiện mạo
còn ở cả tâm địa, tính cách.
thượng nguồn sông Đà mang trong mình vẻ đẹp vĩ, hung bạo, còn về đến hạ
nguồn sông Đà lại mang một vẻ đẹp khác, dường như đối lập hoàn toàn đó vẻ đẹp
trữ tình, lãng mạn. trên phương diện này Nguyễn Tuân nhìn nhận sông Đà như
một món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho đất trời Tây Bắc.
Để cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp sông Đà tác giả đã soi ngắm nó ở nhiều góc độ, thời
gian khác nhau. Nhìn ttrên cao, sông Đà như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo, hết
sức mềm mại, uyển chuyển. Sông đà được “tuôn dài như một áng tóc trữ tình"dòng
sông hiện lên cùng lệ, tựa như một người thiếu nữ kiều diễm. Đặc biệt vẻ đẹp
của dòng sông lại càng nổi bật hơn khi xuất hiện sắc trắng tinh khiết của hoa ban, sắc
đỏ đến nao lòng của hoa gạo cùng với làn khói mờ ảo, khiến cho dòng sông dường
như chảy ra từ miền cổ tích. Màu sắc của dòng sông cũng thay đổi theo mùa, mùa
xuân nước xanh ngọc bích, nước chảy êm đềm. Mùa thu lại lừ lừ chín đỏ như người
say vì rượu bữa, hình ảnh so sánh thật đặc sắc cho thấy dòng chảy chậm chạp trở nặng
phù sa của dòng sông.
Đặc biệt vẻ đẹp trữ tình của dòng sông được thể hiện t qua cảnh ven sông. Tác
giả cố tình đẩy dòng sông vào miền cổ tích, để cảm giác “từ thời Lí, Trần, cũng
tĩnh lặng đến thế thôi". Để miêu tả cái tĩnh lặng của dòng sông tác giả đã sử dụng
bút pháp lấy động tả tĩnh, chỉ tiếng động của con dầm xanh song cũng đủ làm
cho đàn hươu thơ ngộ giật mình ngơ ngác.
Về đến hạ lưu dòng chảy của sông Đà trở nên hiền hòa hơn, điều đó đã được Nguyễn
Tuân diễn tả bằng một câu văn ng tinh tế: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
không miêu tả trực tiếp song âm điệu của câu văn đã toát n sự nhẹ nhàng, êm ả, đầy
duyên dáng của dòng sông.
Tác giả đi sâu vào miêu tả cảnh vật ven sông để làm nổi bật cái thơ mộng, lãng mạn
của cảnh vật. Ông không tham lam các chi tiết chỉ một vài chi tiết rất đẹp, rất đặc
sắc đã làm toát lên tất cả cái thần thái của bức tranh, đó là những ơng ngô mới nhú,
đồi cỏ ranh đang độ n búp,… Tất cả các chi tiết đều nhẹ nhàng, thanh thoát, nhưng
để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Bằng ngòi bút tài hoa, vốn sống phong phú Nguyễn Tuân đã vẽ n bức tranh thiên
nhiên sông ớc của sông Đà hết sức đẹp đẽ. Sông Đà hiện lên qua những trang văn
của Nguyễn Tuân không chỉ thuần túy thiên nhiên, còn một sản phẩm nghệ
thuật giá. Qua đây tác giả cũng n đáo thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết
niềm say mê, tự hào với thiên nhiên của quê hương xứ sở mình.
Hình tượng con sông Đà - Mẫu 12
một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái dữ dội,
mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường
những trang tả đèo cao, vực sâu, thác ớc... Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết,
ông nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút
"Người lái đò sông Đà" đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng
về dòng ng Đà "hung bạo trữ tình" chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến
vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.
"Người lái đò sông Đà" rút từ tập tùy t "Sông Đà" của Nguyễn Tuân. Tác phẩm
kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc
biệt kết qucủa chuyến đi thực tế y Bắc năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều
vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường
đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã đem lại cho nhà văn
nguồn cảm hứng sáng tạo.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân ta đang đến với một tâm hồn cùng
phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân
một nhà văn yêu nước, giàu ng tự hào dân tộc. Tình yêu ớc ấy cũng chính
tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà - dòng chảy dữ dội của núi rừng
Tây Bắc một thành công đặc sắc của ông. Chỉ Nguyễn Tuân mới không nhọc
công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà,
để biết chỗ phát nguyên của thuộc huyện Cảnh Đông thoạt thủy, dòng ng
mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa
nhà văn nào trước Nguyễn Tuân thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm
nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không ai như Nguyễn,
để thể hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã phải mấy lần bay
ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn hai nét tính
cách đối lập: hung bạo và trữ tình.
Vách đá "đá bờ sông dựng vách thành" những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy
lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả ttheo đủ cách: Mặt ng chỗ ấy chỉ lúc
đúng ngọ mới mặt trời. Con hổ con nai thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi
cũng thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách... "Ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng một cái ngõ
ngóng vọng lên một i khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt
đèn điện". So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ lạ lùng. Cảm giác như
Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho
được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
"Dài ng y số ớc đá, đá sóng, ng gió, cuồn cuộn luồng gió n ghè
suốt năm..." bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc
câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như c nào cũng muốn
tiêu diệt con người. Những hút nước quãng Mường Vát: "nước đây thở kêu
như cửa cống cái bị sặc", "chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên ..." những cái hút nước lôi
tuột gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác" Lối so
sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu g
rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một n giao hưởng chơi thật
hùng tráng bài ca của gió thác sóng đá. Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như
đang "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng gằn chế nhạo". Thế rồi bất ngờ
âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc kbừng bừng thét lên khúc nhạc của một
thiên nhiên đang đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ man dại: "nó rống
lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ
lửa ... rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng..." Sự liên tưởng
cùng phong phú, âm thanh của thác ớc sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không
khác âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy
lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong
nghệ thuật.
Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù
đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng
thớ đá: "Cả một chân trời đá ... mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm",
"méo mó" -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng
mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách thức", "mặt nước
la ùa vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái, thúc gối vào bụng vào hông
thuyền"...
Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận khắp nơi, tăng nhiều cửa tử,
cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn...
Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều luồng chết, luồng
sống ở ngay giữa.
Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác "kẻ thù số một của con người". Nhưng
cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử
và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút Việt Nam.
Dòng sông Đà không chỉ những "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạng trên
sông đá" mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo ..."
Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa: "Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với
sông Gâm, ng "màu xanh canh hến". Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da
mặt một người bầm đi rượu bữa ..." Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng,
quyến rũ và tình tứ.
Đến với sông Đà, hăm hở, say đến nỗi tác giả như thấy mình như đang "sắp đổ ra
sông Đà". Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên
bờ cực gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con ơu "ngẩng đầu
nhung khỏi áng cỏ sương"... Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong
lịch sử đất Việt: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ ng hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa... lặng tờ "như từ Lí, đời Trần, đời Lê".
Nguyễn Tuân say miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, bằng
một tình u thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự
hào về một dòng ng, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp
hiếm - Nguyễn Tuân xứng đáng một y bút tài hoa bậc nhất của nền văn học
Việt Nam.
Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo phong phú. tùy bút "Người lái đò sông Đà"
chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện nhất sự nhọn sắc của giác quan
nghệ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa.
Dòng sông Đà "hung bạo trữ tình" chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như
niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.
Hình tượng con sông Đà - Mẫu 13
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về quê mình thì bắt lên câu hát
Người ta đến hát khi chèo đò vượt thác
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"
(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm).
Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi ta nhớ tới dòng sông Đà trong thiên tùy bút
“Người lái đò Sông Đà"của Nguyễn Tuân. Bằng tình yêu sông núi của con người tài
hoa, Sông Đà được nhà văn phác họa độc đáo với hai nét tính cách hung bạo, trữ tình
để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.
Mỗi nơi trên lãnh thổ của Tổ quốc đều tên những dòng sông. Cuồn cuộn đỏ nặng
phù sa như sông Hồng, nhẹ nhàng thơ mộng như sông Hương. Sông Đà trong trang
văn Nguyễn Tuân hiện lên như một nhân vật nguồn gốc, có nh cách. Nguyễn
Tuân luôn viết hoa hai chữ “Sông Đà". Theo tác giả, Sông Đà khai sinh từ tỉnh n
Nam Trung Quốc qua nhiều núi ác đến nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. Mở
đầu tùy bút, tác giả đã hai câu thơ đề từ giới thiệu hai đặc điểm của con sông “Đẹp
vậy thay tiếng hát trên dòng sông"và “Chúng thủy giai đông tẩu-Đà giang độc bắc
lưu". Câu thứ nhất gợi vẻ đẹp thơ mộng, kiều diễm của dòng ng. Câu thứ hai giới
thiệu tính khác biệt của sông Đà, mọi con sông đều chảy theo ớng Đông riêng
sông Đà chảy ngược về hướng Bắc. Cái “bắc lưu"cưỡng lại cái động khẩu"khiến
dòng sông trở nên ngỗ ngược dữ tợn nhiều guồng xoáy guồng chết sóng thác đá
ghềnh. Vậy dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn một vật giác
một thân thể có hành động, tâm trạng, tính cách. Và nổi bật là hung bạo và trữ tình.
Lúc hung bạo, sông Đà diện mạo tâm địa như kẻ thù số một của con người.
Dòng sông như một con quái thú khổng lồ khôn ngoan mưu trí, nham hiểm và hung ác
luôn khiêu khích, thách thức, chế nhạo con người. Tác giả như một nhà thám hiểm kể
cho ta nghe về dòngng. Ở vùng thượng nguồn cạnh bờ sông dựng đứng vách thành,
đúng ngọ mới có mặt trời. Chỗ vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu có thể ném
nhẹ hòn đá sang bờ bên kia có chỗ con nai con hổ có thể nhảy vọt từ bên này sang bên
kia một cách dễ dàng. Cảnh ghềnh đá sóng gió thật mênh mang. Ở ghềnh Hát Lóng
“dài hàng cây số, nước đá, đá sóng, sóng gió cuồn cuộn ùm ghè suốt năm
như đòi nợ xuýt". Hút nước sông Đà mới ghê sợ làm sao, những cái hút nước sâu
thẳm như giếng tông. Nước thở kêu như một cái cống bị sặc, phía trên lừ lừ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
những cái quạt đàn. những cái hút ớc thuyền ý đi vào trồng ngay cây chuối
rồi vụt biến đi mươi phút sau tan xác khuỷu sông. Trên sông Đà 73 cái thác, âm
thanh tiếng thác mới ghê rợn lạ lùng. Khi thì nghe như oán trách, khi thì lại van xin có
lúc khiêu khích giọng gằn chế nhạo thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa đang phá tuông rừng lửa. Rừng lửa càng
gào thét với đàn trâu da cháy bùng ng. Nguyễn Tuân khiến người đọc phải kinh
ngạc thán phục khi lấy rừng lửa để tả nước. Nhà văn đã liên tưởng rất đắt vừa tạo n
nét riêng vừa thấy được óc quan sát, cách nghĩ tài tình. Tác giả đã thức dậy cả một thế
giới thiên nhiên man dại đang đỉnh điểm của sự dữ dội. Không chỉ thế, sông Đà còn
hung n nham hiểm xảo quyệt độc ác với bao thạch trận của đá “bọt tung trắng xóa
cả một chân trời đá". Đá bày thạch trận trên sông với những ng đá tướng dữ tợn lạnh
lùng chỉ huy đứng trấn giữa lớp lớp cửa sinh. Dưới con mắt tác giả đá sống động
như một nhân vật “mặt đứa nào cũng nhăn nhúm, méo đứng ngồi tùy sthích".
Phối hợp với đá sóng ớc cũng sẵn sàng nhấn chìm, bẻ gãy những con thuyền trên
sông.
Không chỉ dữ dằn hung bạo, sông Đà còn một dòng sông trữ tình thơ mộng. N
văn đã dùng hết tâm huyết tìm tòi mang đến cho người đọc về một con ng, một
vùng đất với dạt dào cảm xúc. Từ trên cao nhìn xuống “con sông tuôn dài như một
áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện giữa mây trời Tây Bắc bùng nở hoa ban hoa
gạo tháng 2, cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân. Nước sông Đà thay đổi theo
mùa. Mùa xuân dòng sông xanh màu ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ
như da mặt người bầm đi rượu bữa. Sông Đà được miêu tả bằng cách quan sát của
nhiều ngành nghệ thuật từ thi ca, hội họa. Dòng sông hiện lên mềm mại như một mái
tóc của người nữ. Con sông Đà gợi cảm với mỗi người, với Nguyễn Tuân sông Đà
như một cố nhân để rồi gặp lại với những niềm vui "như cái nắng giòn tan sau mưa
dầm", vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Bờ bãi sông Đà chuồn chuồn bươm bướm
bay lượn, nắng sông Đà đẹp như sắc nắng vàng hoe của yên hoa tam nguyệt dương
châu trong thơ Đường. những đoạn miêu tả sông Đà với nét đẹp hoang đầy
thú. Ven sông êm lặng tờ, một vẻ đẹp thấm đẫm chất thơ. “Thuyền tôi trôi trên sông
Đà, cảnh ven sông ở đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một thời tiền sử hồn nhiên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
như nỗi niềm cổ tích. Con sông mang trong mình nét cổ kính thiêng liêng của hồn
thiêng sông i. Cảnh đôi bờ cũng thật thú, thiên nhiên trong trẻo nguyên
“nương ngô núi non, cỏ gianh đổ núi đang ra những nõn búp, đàn hươu i đầu ăn
cỏ". Một vẻ đẹp tinh khôi mơn mởn căng tràn nhựa sống! ới sông những đàn
dầm xanh quẫy vọt lên lòng sông bụng trắng như vạc. Hình ảnh sông Đà được nhìn
nhận nhiều chiều nhiều góc độ khác nhau với ngòi bút tài hoa, với sự am hiểu của
nhiều ngành nghệ thuật, nhà văn đã phát hiện, miêu tả sông Đà một cách đa dạng, biến
hóa bằng cả đôi mắt và tâm hồn của người nghệ sĩ.
Bằng trí tưởng tượng phong phú, tài năng uyên bác tâm hồn nghệ tài năng nặng
lòng với quê hương, Nguyễn Tuân đã tạo nên một thiên tùy bút thú về vẻ đẹp của
dòng sông Đà tạo hóa đã ban tặng. Tùy bút này đã thể hiện phong cách trình
độ nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Tuân.
Hình tượng con sông Đà - Mẫu 14
Được rút ra từ tập y bút Sông Đà năm 1960 của tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút
“Người lái đò sông Đà"của tác giả Nguyễn Tuân kết quả của chuyến đi thực tế lên
Tây Bắc của c giả từ năm 1958 đến năm 1960 khi miền Bắc đang thực hiện hàn
gắn vết thương chiến tranh bước đầu xây dựng hội chủ nghĩa. Tác phẩm hình
ảnh của một con sông Đà chảy ngược so với những con sông khác Việt Nam mang
trong mình hai tính ch trái ngược nhau đó hung bạo dữ dằn, thứ hai vẻ đẹp
trữ tình đầy thơ mộng.
Tác phẩm được viết theo thể loại đó chính là tùy bút nghĩa là tùy vào người nghệ
phóng bút viết tự do, đây một loại bút ghi chép người thật, việc thật không hề
có cốt truyện cố định nào cả, đặc biệt hơn cả là nó in đậm cảm xúc chủ quan của chính
tác giả nhiều hơn của các nhân vật trong tác phẩm. Tùy bút “Người lái đò ng
Đà"của tác giả Nguyễn Tuân là một trong những thể loại tùy bút như thế.
Để làm rõ vẻ đẹp của con sông Đà tác giả đã miêu tả nó ở hai khía cạnh đó chính là dữ
dằn hùng vĩ, thứ hai thơ mộng trữ nh. Trước hết tính cách hung bạo của
dòng sông, để thhiện sông Đà một dòng sông cùng ng dữ dội tác giả
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nguyễn Tuân đã hướng ngòi bút miêu tả diện mạo của con sông Đà: “đá dựng vách
thành", “đúng ngọ mới thấy mắt trời", “chẹt nmột cái yết hầu", nén nhẹ sang bên
kia bờ", “tối thì rất lạnh",… Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh bất ngờ đến lạ lùng
vừa gần gũi lại mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc thật tinh tế qua từng câu văn
dàn trải có sức tạo hình và đem lại những liên tưởng khác nhau cho người đọc.
Tiếp đến tác giả miêu tả cánh thoát nước của con sông Đà “quãng mặt ghềnh Hát
Loong dài hàng cây số nước đá, đá sóng, sóng gió cuồn cuộn luồng gió n
ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được
quả đấy". Câu văn của Nguyễn Tuân trùng điệp co duỗi nhịp nhàng, tác còn sử dụng
kiểu câu móc xích thông qua động từ “xô"nhưtừ câu văn này sang câu văn khác để
thể hiện vẻ dữ dằn, cuồn cuộn của con sông Đà. Đến “quãng Tà Mường Vát phía dưới
Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái miệng giếng bê tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước đáy thở kêu như cái cống bị sặc.
Trên mặt cái hút nước xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ như tiếng cánh quạ đàn.
Không thuyền nào m men gần cái hút ớc ấy,…"Tác giả sử dụng nghệ thuật so
sánh để miêu tả cái t ớc trên dòng sông giống như miệng của một cái giếng
tông, với những âm thanh được phát ra nhưng những tiếng thở của những đồ vật như
đang sắc như tiếng quạ. Tất cả để thể hiện cái dữ dằn hung bạo của dòng sông Đà,
sau đó lại: “nghe như oán trách khiêu khích", “giống như một ngàn con trâu
mộng"đang trong một khu rừng bị cháy. Tác giả đã dùng lửa để miêu tả sức nước.
Tiếp đến tác giả miêu tả thạch trận của con sông Đàđược tất cả làm ba vòng tất cả.
Vòng một gồm ba ng luôn săn săn để ăn chết con thuyền, hàng một bao gồm hai
hòn đá hai bên mở ra gồm một cửa sinh đến bốn cửa tử, tác giả đã vận dụng
kiến thức của ngành võ thuật quân sự để miêu tả đoạn này của con sông Đà. Tiếp
đến tâm địa hiểm ác hết sức mờ ám của con sông khiến trở thành một loài
thủy quái khổng lồ và kẻ thù số một của những người lái đò khi đi qua dòng sông,
nó luôn săn m lật thuyền ở bất cứ chỗ nào, đá ngàn năm dựng thành vách hai bên bờ
của con sông nhưng khi lại hiện ra lổm ngổm giữa sông lừa cho những con thuyền
bị lật.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Tính cách thứ hai của dòng sông Đà mang vẻ đẹp huyền ảo, trữ tình thì tác giả miêu t
dáng vẻ của con sông như một chiếc dây thừng ngoằn ngoèo, tác giđã thay đổi góc
quan sát của mình từ trên mắt sông giờ chuyển sang là từ trên cao nhìn xuống. Tác giả
sử dụng nghệ thuật so sánh con sông Đà “như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc
ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa bạn, hoa gạo tháng hai cuồn cuộn như
mùi khói núi Mèo đốt nương". Con sông Đà mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ Tây
Bắc kiều diễm, mỹ lệ. Nước của con sông đà thay đổi màu theo mùa. Bờ của con sông
hoang dại như một bờ tiền sử, hiện lên như một niềm cổ tích ngày xưa, tác giả còn gọi
con sông Đà như một cố nhân lắm chứng lắm bệnh,…
Thông qua việc miêu tcon sông Đà hai tính cách trái ngược nhau hung bạo
dữ dằn, tác giả Nguyễn Tuân nhằm thể hiện tình yêu quê hương đất nước phong
cách nghệ thuật của ông đó chính là tài hoa uyên bác sâu sắc, thích miêu tả, đậm
những ấn tượng phi thường trong câu văn của mình.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 15
Trong lịch sử nhân loại, mỗi dòng sông lớn đều bồi đắp nên một nền văn minh. Trong
địa hạt văn học Việt Nam, mỗi dòng sông đều gắn với một phong cách nghệ thuật. Ta
đã được chiêm ngưỡng một ng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác, thấm
đẫm nỗi nhớ nhà trong “Tràng Giang"của Huy Cận; hay một khung cảnh đìu hiu, cách
biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong “Bên kia sông Đuống"của Hoàng Cầm.
Nếu những bài thơ trên chỉ điều kiện, khách thể để các nhà thơ bày tỏ lòng mình
thì đến với Người lái đò sông Đà, người đọc mới cảm nhận được nét về một tác
phẩm viết về một dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, hình
ảnh dòng sông “độc bắc lưu"hiện lên với những vẻ đẹp độc đáo. Trên cái nền thiên
nhiên y, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa nghệ trong
những người lao động bình thường ông luôn gọi “chất vàng ời đã qua thử
lửa"bấy lâu mình vẫn khao khát, kiếm tìm.
“Người lái đò sông Đà"được sáng tác vào năm 1958 được in vào tập “Sông
Đà"năm 1960. Trong chuyến đi gian khổ hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
lớn không chỉ thỏa mãn khát khao dịch chủ yếu tìm kiếm chất vàng của thiên
nhiên Tây Bắc và thứ vàng mười đã qua thử lửa nơi tâm hồn con người.
Mở đầu bài lời đề t“Chúng thủy giai đông tẩu Đà giang độc bắc lưu". Khẳng
định nét độc đáo của dòng sông Đà: Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ
sông Đà chảy theo ớng Bắc. Khẳng định tính độc đáo của Nguyễn Tuân trong
dòng sông văn chương: Một nhà văn ý thức sâu sắc về cái tôi nhân, về bản ngã,
về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ thuật.
Nguyễn Tuân không khỏi làm ta ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con Sông Đà.
Cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng “Mặt sông chỗ
ấy chỉ lúc đúng ngọ mới mặt trời". Lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn, “Có
vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném
hòn đá qua bên kia ch. quãng con nai con hổ đã lần vọt từ bờ này sang bờ
kia". “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đang đứng một cái ngõ ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên
cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo,
Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, ẩn của dòng sông. Một nơi lòng sông nhỏ
hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách đá cao vút, vững chãi giờ đây đang trở nên
nguy hiểm cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến
không được, lùi cũng không xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Quần thể thiên nhiên: nước, sóng, gió đá sông Đà “Lại như quãng mặt ghềnh Hát
Loóng dài hàng cây số ớc đá, đá sóng, sóng gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm…". Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước đá, đá sóng, sóng
gió"như phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm n nhau theo chiều
ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, cuồn cuộn ghê rợn trên mặt ghềnh.
Từ trên nhìn xuống mặt sông: những cái hút nước “như những cái giếng tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu", “những cái hút xoáy tít đáy". Từ dưới lòng
sông nhìn ngược lên: “thành giếng xây bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh
khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Những âm thanh ghê rợn “Nước thở kêu như cửa cống cái bị sặc", “những cái
giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào"khủng bố tinh thần con người, “thở
kêu như cửa cống cái bị sặc", “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào", sẵn sàng
nhấn chìm bất con thuyền nào không kịp chèo nhanh hay tay lái không vững, hoặc
bất gỗ nào ý khi đi qua chúng. “Không thuyền nào dám men gần những cái
hút nước ấy, thuyền nào cũng trèo nhanh để lướt quãng sông", “chèo nhanh tay lái
cho vững phóng qua cái giếng sâu", “nhiều gỗ rừng đi nghênh ngang ý
những cái giếng hút ấy lôi tuột xuống", “có những thuyền đã bị cái hút hút
xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm đi ngầm dưới
lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác khuỷu sông dưới". Ám ảnh, đe dọa
con người. Những âm thanh man rợ của sông Đà gợi liên tưởng đến một loài động vật
hung dữ, đang cuồng loạn tìm lối thoát thân. Hùng vĩ, choáng ngợp bởi một chân trời
đá với những bọt nước trắng xóa mđi trên mặt sóng“. Tới cái thác rồi, ngoặt khúc
sông lượn, sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá".
Tác giả đã dùng kiến thức về quân sự, thuật, thể thao, thủ pháp nghệ thuật nhân
hóa, thậm ng để m nổi bật cái nham hiểm, xảo quyệt của ng Đà. ới ngòi bút
của Nguyễn Tuân, con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác “kẻ thù số một"của
con người. Chẳng thế sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh
Thủy Tinh: “Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 16
Nguyễn Tuân bậc thầy về ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Những
tác phẩm của ông viết bằng cái “ngông"và bằng tình u tha thiết. “Người lái đò sông
Đà"là bài tùy bút lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình ảnh con sông Đà được nhìn
qua lăng kính m hồn nghệ sỹ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo
đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng hình tượng sông Đà
bằng chất liệu ngôn ngữ và tình cảm phong phú.
Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi
chốc lại bẳn nh gắt gỏng thác ngay đấy". thể nói phải thật tinh tế khéo
léo mới có thể nhận ra sự chuyển đổi của sông Đà như vậy.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Sông Đà hiện lên là dòng sông hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược, không chảy theo
khuôn khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông Đà được tác giả viết “đá bờ sông,
dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ mới mặt trời. vách đá
thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay m hòn đá
qua bên kia vách. quãng con nai con hổ đã lần vọt từ bờ này sang bờ kia". Chỉ
với vài chi tiết phác họa con sông đà hiện lên với nhiều phức tạp, khó khăn, nguy
hiểm khôn lường. Tác giả đã diễn tả cảm xúc khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong
khoang đò qua quãng y, đang mùa cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng
một cái ngõ ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mất
vừa vụt tắt điện". Một lối so sánh độc đáo, đầy táo bạo cũng không kém phần tinh
tế. Sông Đà đẹp, nhưng đẹp vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.
Chưa dừng lại đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc bất ngờ hơn nữa khi miêu tả
sự hùng vĩ, hung dữ đó “quãng mặt ghềnh hát loong, dài hàng cây số nước đá, đá
sóng, sóng gió, cuồn cuộn luồng gió n ghè suốt năm như c nào cũng đòi nợ
xuyết bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy". Sông Đà hiện lên như một kẻ
bất chấp hết, thể lấy đi tính mạng của những ai tình đi qua đây. Thật táo bạo,
mãnh liệt và mạnh mẽ.
Khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng thác réo, người đọc cảm tưởng như đang đứng
trước sông đà hùngchiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng đó “Như là oán trách gì, rồi lại
như là van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn chế nhạo. tiếng thác rống n
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Những
câu văn với giọng điệu dồn dập, gay cấn, đầy cảm xúc. Một cảnh tượng hùng vĩ, nguy
hiểm cùng. Một ch so sánh, tuyệt vời, hiếm thấy trong văn học. Nguyễn Tuân
thực sự là bậc thầy của ngôn ngữ, ông thổi hồn vào những con chữ, khiến con chữ như
biết nói, biết rung động.
Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành ba trận chiến, người lái đò muốn vượt qua dòng
chảy này thì phải vượt qua ba trận chiến hiểm trở, táo bạo này. Với giọng văn dồn
dập, tác giả kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái đò. Trận thứ nhất mặt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo. Sóng nước như thể quân
liều mạng vào sát nách…"Sang đến trận thứ hai “tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa
con thuyền vào, cửa sinh lại btrí lệch qua bên phía bờ hữu ngạn". Sang đến trận
thứ ba dường như ít cửa hơn nhưng lại quyết liệt mãnh liệt n. Sông Đà hiện lên
không khác o một con thủy quái đang đòi nuốt chửng người lái đò chiếc thuyền
bất cứ lúc nào có thể. Con sống chính “kẻ thù số một"của người lái đò, với tất cả
đặc tính nham hiểm, thâm độc nhất.
Tuy nhiên n cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sông Đà còn hiện lên thật
nên thơ trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân “sông Đà
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai cuồn cuộn khói mèo đốt nương xuân". Thật
tài hoa thật trữ tĩnh, một hình ảnh tuyệt đẹp hiện lên giữa rừng núi hiểm trở Tây
bắc. Đặc biệt khi c giả miêu tả nước của dòng sông mới thật tuyệt vời thi vị biết
bao “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu canh hến
của sông Gâm sông lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi rượu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ một người bất mãn bực bội mỗi độ thu
về". Những từ ngữ mượt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm của một dòng sông
tưởng chừng chỉ có giận dỗi và hung dữ.
Sông Đà những lúc buồn mênh mang hoang đến lạ kỳ “Bsông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bsông hồn nnhư một nỗi niềm cổ tích xưa". Thật một vẻ
đẹp nhẹ nhàng, chân chất và tươi mới biết bao nhiêu.
Qua đôi mắt người lái đò, hay đôi mắt của tác giả sông Đà tạo nên những dòng cảm
xúc thật lạ kì, thần tiên mộng quá đỗi. lẽ khi yêu mảnh đất này, cảm nhận
nó ở mọi khía cạnh đều toát n vẻ đẹp không phải nơi nào cũng được. sông Đà
cũng vậy, một vẻ đẹp khiến người đọc phải ngỡ ngàng.
Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông
Đà"lại ám ảnh người đọc cho đến sau này. Một vẻ đẹp ng vĩ, hung dữ của thiên
nhiên đan xen sự thơ mộng, nhẹ nhàng như chốn bồng lai. Đó chính sự thành công
của Nguyễn Tuân.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 17
Đất nước Việt Nam ta với trăm sông, nghìn núi. Biết bao nhiêu con sông đã bước vào
thơ ca, khơi nguồn cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ. Trong số những dòng sông ấy, ta phải
kể đến con sông Đà. đối tượng cảm hứng của các bậc tao nhân mặc khách
nhưng có lẽ đến với Nguyễn Tuân, sông Đà mới thực sự trở nên chân thực, sống động.
nhà văn cả đời theo chủ nghĩa duy mĩ, trước Cách mạng, ông đi tìm cái đẹp một
thời vang bóng. Sau Cách mạng tháng Tám , Nguyễn Tuân lại m thấy cái đẹp ở ngay
trong cuộc sống đời thường của nhân dân lao động. Ông gọi đó “chất vàng mười đã
qua thử lửa"còn theo Nguyễn Minh Châu đó là “viên ngọc ẩn giấu trong chiều sâu tâm
hồn của con người Việt Nam". Toàn bộ vẻ đẹp ấy ánh lên trong thiên tùy bút “Sông
Đà"sáng tác năm 1958 1960 với linh hồn bài “Người lái đò sông Đà". Với tác
phẩm “Người lái đò sông Đà", ngòi bút của Nguyễn Tuân đã thực sự nở hoa trên dòng
sông văn chương của mình.
“Người lái đò sông Đà"là bài tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập
Sông Đà năm 1960. Sông Đà thành quả chuyến đi gian khổ hào hứng của
Nguyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi rộng lớn những năm 1958 1960,
chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khát khao dịch chủ yếu để tìm kiếm
chất vàng trong vẻ đẹp hùng thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ
vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn con người Tây Bắc trong cuộc sống hằng ngày
của họ. Tác phẩm đã thể hiện nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tuân.
Nói đến Nguyễn Tuân nói đến một nhà văn ưa cảm giác mạnh. Với Nguyễn, đã
đẹp phải đẹp tuyệt mĩ, đã dữ dội phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Ông
không thích những tầm thường. Con ng Đà đáp ứng được hai xúc cảm của
Nguyễn Tuân con sông Đà mang trong nh hai tính cách trái ngược nhưng thống
nhất với nhau. phần thượng u, con sông cùng hung bạo, dữ dội. Nhưng hạ
nguồn, nó lại toát lên một vẻ đẹp rất trữ tình, thơ mộng.
Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong
thiên tùy bút này. Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh "
(Ca dao)
Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai
đông tẩu Đà giang độc bắc lưu " , một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ
thường. Như đã nói ở trên, sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, xin nhập quốc tịch Việt
Nam. phải trải qua rất nhiều triền núi đá. vậy, phần thượng lưu của sông Đà
rất nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy… Từ đó, Nguyễn đã tìm thấy
những tính cách hung bạo khác thường của dòng sông. Nhưng khi xuôi về phần hạ
lưu, lòng sông như được mở rộng ra, con thác không còn nữa, dòng nước trôi êm đềm,
hiền hòa qua đôi bờ ccây tươi tốt sông Đà lại hiện lên cùng lãng mạn, thơ
mộng, trữ tình. Ngoài ra, Nguyễn nhìn thấy sự hung bạo của con sông Đà không chỉ
tập trung thác dữ, luồng chết, vực xoáy. Ông còn nhìn thấy sự hung bạo ấy
những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng của núi rừng Tây Bắc.
Cái hùng vĩ, sừng sững của sông Đà được thhiện ngay cảnh đá bờ sông: “đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá
qua bên kia vách. quãng con nai con hđã lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi
trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như
đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ
mấy nào vừa tắt phụt đèn điện " .
Cảnh đá bờ sông được miêu tả dựng vách thành, sự so sánh liên tưởng khá độc đáo
khiến con ng Đà hiện ngay ra trước mắt người đọc như thành quách sừng sững,
đứng án ngữ ngay trước mặt những du khách khi đặt chân đến đây. Bằng nghệ thuật
so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp
như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại xiết hơn nữa. Cứ thử tưởng tượng
con thuyền nào kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, i cũng không xong chỉ
chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nguyễn Tuân cho người đọc cảm nhận bằng trực cảm như chính mình được lái đò qua
quãng sông hẹp với những vách đá dựng đứng hai bên. Cái lạnh rợn người được so
sánh như ta đang đứng giữa mùa ngột ngạt bởi cái chật hẹp, tối đến bất ngờ
sâu thăm thẳm như đứng ở dưới một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn tràn dòng với
những liên tưởng của liên ởng cho thấy sự tài hoa uyên thâm trong việc sử dụng
ngôn ngữ của Nguyễn.
Cũng như đá bờ sông, thì “quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước đá,
đá ng, sóng gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào m được qua quãng đấy " . Bằng kết cấu
trùng điệp: nước đá, đá sóng, sóng gió " tác giả đã làm sự nguy hiểm của
con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi nh mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. Không
từ nào trực tiếp tả ghềnh đá nhưng người đọc hình dung diện mạo con sông. Quãng
dài ghềnh đá nổi trên mặt sông, nước mạnh ghềnh tạo sóng dữ, sóng cuộn trào sinh
ra gió thổi rít lên gùn ghè, gùn ghè quanh m suốt tháng. Con sông đến đây đã trở
thành một kẻ thù nguy hiểm của con người. Với nghệ thuật nhân hóa, con sông như
một kẻ thù tính khí thất thường, đòi nợ duyên cớ không bsót một ai. Ấy mới thấy
hết cái hung bạo của sông Đà. Sự kết hợp ngẫu nhiên hay lựa chọn giữa tên địa
danh với đặc điểm của sông Đà quãng sông này? Chỉ biết khi Nguyễn tả luồng gió
gùn ghè i mặt ghềnh lại nằm đúng vị trí Hát Lóong. Đọc tên địa danh phải nén
hơi, uốn lưỡi như chính như chính mình vừa phải đi qua chỗ ớc giữ, với sóng, với
đá, với ghềnh thác của sông Đà.
Những cái hút nước quãng Mường Vát phía ới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa.
“Nước đây thở kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng
đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào m men gần những cái hút
nước ấy, thuyền o qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô sang số
ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh
tay lái cho vững phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu i vào. Có những thuyền đã bị cái hút hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị m đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
phút sau mới thấy tan xác khuỷnh sông ới " . Những cái bẫy ghê sợ, chết người!
Vẫn nghệ thuật so sánh liên tưởng độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa nước biết
thở kêu nghe đã đcho người đọc ng mình nhưng Nguyễn Tuân không dừng lại
ở đó tiếp tục thử độ trong giác quan của người đọc khi so sánh liên tưởng với
cái cửa cống cái bị sặc nước. Khi dòng chảy siết, thở kêu, nhưng kêu như thế
nào thì nhà văn lại tiếp tục tả những cái hút nước độ u: cái hút xoáy tít đáy, như
cái giếng u cho thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như những
cánh quạ đàn; rồi âm thanh : những i giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào, cuối cùng độ nguy hiểm: những thuyền đã bị cái hút hút xuống, thuyền
trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm đi ngầm dưới lòng sông đến
mươi phút sau mới thấy tan xác khuỷnh sông dưới . Hình ảnh sông Đà qua ngòi bút
của Nguyễn, lẽ không chỉ làm những người lái đò qua đây cảm thấy rùng rợn
chính người đọc cũng như vừa tự mình chèo thuyền qua quãng ng này thử cảm
giác. Thế nên khi chèo thuyền men qua những vực nước sông Đà cần phải chèo nhanh
để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng
đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Cảm giác lạnh người rợn tóc gáy câu văn tác
động mạnh mẽ vào trực cảm của người đọc.
Cho cảm giác thật đến từng mi-li-met nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng điệp.
Khi nhập vào vai một anh thợ quay phim táo tợn muốn truyền cho người đọc cảm giác
lạ đã dũng cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng rồi thả mình thuyền văng xuống
cái hút nước sông Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn lên vách thành hút chênh nhau
đến vài sải tay. Người xoay theo thuyền cả thuyền, người, máy nh quay tít. Nhìn lên
nước sông Đà trong i hút ấy làm bằng một màu xanh ngọc bích của một khối pha
đúc dày như sắp vỡ tan ụp o cả người quay lẫn người xem, khiến ai cũng như đang
khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái mép lá rừng vừa bị cho vào cái cốc pha quay tít
như vừa rút ra i gậy đánh phèn. Liên tưởng của liên ởng để người đọc thể cảm
nhận rõ nhất. Phải có sự am hiểu về kiến thức trong lĩnh vực điện ảnh thì Nguyễn mới
thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà
và trên trang văn của Nguyễn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi
lại như khiêu khích, giọng gằn chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng " . Nghệ thuật so sánh,
nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng rất đắt ", Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh
tượng thác ớc hùng vĩ, nguy hiểm tận độ. Lần đầu tiên trong thơ văn người lại
dùng lửa để miêu tả ớc, hai nguyên tố sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc
với nhau, nước thì không lửa, ngược lại, lửa thì không ớc. Vậy
Nguyễn Tuân đã làm được điều đó như một nghệ bậc thầy! Trước mắt người đọc
cả một rừng vầu, tre nứa hàng ngàn cây đang bị đốt cháy phát ra tiếng nổ nhưng
chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang cháy ấy lại được thả vào đó hàng ngàn
con trâu mộng to khỏe, nên khi da của chúng bị đốt cháy và nóng thì chúng sẽ lồng
lộn mà phá tan rồi tìm đường thoát thân. Khi chạy, nó va đập mạnh vào những cây tre,
cây nứa tạo nên những tiếng nổ lớn, liên hoàn như âm thanh vang la não bạt, kinh
thiên động địa. Hình nh của Nguyễn tác động mạnh mẽ lên hệ thần kinh người đọc
để mang đến cảm giác chân thực sống động nhất. Con sông ấy như một kẻ lắm
mưu, nhiều kế để khiêu khích người lái đò. biết: oán trách, van xin, khiêu khích,
giọng gằn chế nhạo. Bộ mặt tâm địa của một người xấu xa, lắm mưu, nhiều kế
kẻ thù số một của con người.
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá. Đá đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng ng. Mặt hòn đá nào
trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo hơn cả cái mặt nước ch
này " . Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi
nguy hiểm. Khi miêu tả thạch trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong
lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối tượng miêu tả.
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà y ra năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa
sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như
hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. trùng vi thứ
nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa,
chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: Mặt nước la vang dậy quanh mình, ùa vào
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào
sát nách đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền
lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật m thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa
trận nước vang trời thanh la não nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc
nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò " . Trận chiến
đầu, sóng nước tuệ binh con sông tung ra để thử thách người lái đò. Nhưng
bằng sự mưu trí, dũng cảm, ông lái đã vượt qua dễ dàng.
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông i đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai : “Tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi
chiếc thuyền " . Tại trận chiến đánh giáp này, chúng quyết sinh quyết tử với ông
lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh
thất vọng " . Bọn đá, sóng nước dở những món đòn hiểm độc và tinh vi nhất!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều luồng chết cả. Cái luồng
sống chặng ba này lại ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những
boong-ke chìm pháo đài đá nổi đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta
liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng
thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn
được , tiến về phía khung thành cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về
phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa".
Con ng Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy
trận hòng tiêu diệt thuyền trên dòng nước, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện
mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một " . Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp
làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái
đò Sông Đà " . Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh
Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Viết về Đà giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân cùng phóng túng, thoải mái bởi
Người Lái Đò Sông Đà " được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một nhà
quay phim o luyện. khi ống kính của nhà văn tiếp cận con ng Đà từ phía viễn
cảnh. Có đôi lúc, ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp,
cắt từng đoạn sông để tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh “đá
bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới mặt trời. " Thậm
chí những đoạn “vách đá thành chẹt ng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng n
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. quãng con nai con hổ đã lần vọt
từ bờ này sang bờ kia. "
Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ
yếu kiến thức thuật quân sự để miêu tả sự vận động của dòng nước. Ông cũng
cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của độc giả.
đây, ta thấy xuất hiện những câu văn rất ngắn gồm toàn thanh trắc với hơn 300
động từ mạnh cùng kết cấu điệp trùng miêu tả sự khẩn trương, gấp gáp của nước, của
đá, của sóng của gió. Thể hiện nhất đó đoạn mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng
cây số nước đá, đá sóng, sóng gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào m được qua đấy. "
Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả sự hung bạo của Đà giang những
hút nước với cách liên tưởng cùng táo bạo. Đó đoạn Mường Vát phía dưới
sông La: “Có những con thuyền đã bị cái hút hút xuống, thuyền trồng ngay cây
chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới
thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. " Thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn nhìn thấy sự hung
bạo mùa lụt của con sông Đà. Mùa lụt của sông Đà vẫn còn cái ngấn nước cổng
châu Quỳnh Nhai. Ngày lụt sông Đà, xác ơu, xác nai cùng gChò Vẩy, Chò Hoa
trôi lềnh bềnh trên mặt sông. Nguyễn Tuân lúc này dòng sông Đà chẳng khác nào
“kẻ thù số một"của người dân Tây Bắc. Khi hung bạo thì cực nguy hiểm, m địa
độc ác đến tột cùng.
Con sông Đà hung bạo đâu bởi thiên nhiên y ra với: thác dữ, những luồng chết, vực
xoáy mà Nguyễn Tuân còn thấy đó do con người. Đó chính là bọn thổ ti lang tạo đã
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
đắp bến chia ngăn dòng sông Đà, khiến con sông trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của
người dân Tây Bắc. Đó còn bọn thực dân Pháp đóng đồn bốt hai bên bờ sông
khiến Đà giang trở nên càng hung bạo. ràng, con sông Đà mang cốt cách của
người dân Tây Bắc. Nhìn rộng ra, ta thấy những con sông hầu như đều mang nét đẹp
văn hóa vùng miền nơi đi qua. Nếu “sông ơng"của Hoàng Phủ Ngọc Tường
mang vẻ đẹp trầm mặc của cố đô người dân Huế thì con sông Đà lại biểu tượng,
lại mang cái văn hóa của người dân Tây Bắc. Như vậy, thể khẳng định Đà giang
qua ngòi bút của Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội đến khác thường, tột đỉnh, thể hiện rất
rõ phong cách rất riêng của Nguyễn Tuân một phong cách rất “ngông " .
Nguyễn Tuân miêu tả hình dáng sông Đà nhìn từ trên cao xuống để phát hiện ra vẻ
đẹp tòan diện của con sông, thơ mộng, mềm mại đẹp ngay từ hình dáng. Từ trên
cao, tác giả nhìn thấy con sông Đà dài như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân
mình . biết mềm mại, uốn lượn qua các dãy núi, triền đồi, các ghềnh thác để làm
cho mình trở nên dịu dàng, nữ tính.
Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò còn đậm
nét thơ mộng, trữ tình: “Con Sông Đà tuôn i tuôn i như một áng tóc trữ nh, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
cuồn cuộn khói i Mèo đốt nương xuân " . Một câu văn với nghệ thuật kết cấu
trùng điệp cách so sánh liên tưởng gần gũi, sông Đà đã hiện lên như một thiếu
nữ của mảnh đất Tây Bắc đẹp e lệ, dịu dàng. gái ấy mái tóc tuôn dài, mềm mại.
Mái tóc ấy lại được ẩn hiện trong mây trời của Tây Bắc, của khói sương mờ ảo khi
người dân đốt nương làm rẫy vào mùa xuân với những chùm hoa ban với sắc trắng,
sắc tím màu đỏ tươi của hoa gạo tháng ba phảng phất vị Đường thi. Nếu nhìn
cảm nhận, con sông hiện lên hiền hòa dịu dàng như một gái đang e lệ với mái
tóc dài buông xõa, trên mái tóc đen óng ấy cài điểm những bông hoa ban, hoa gạo
sặc sỡ sắc màu, thẹn thùng che mặt bằng một tấm khăn voan mỏng manh màu
trắng khi bước những ớc chân ngập ngừng, e p về n chồng. Còn đẹp, thơ
mộng trữ tình hơn khi dòng sông Đà với hình ảnh một thiếu nữ đang thẹn
thùng cất bước chân về nhà chồng. Ngòi bút của Nguyễn không chỉ thể hiện sự tài hoa
còn sự tinh tế thông qua sự liên tưởng độc đáo cách so sánh trùng điệp, một
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
cách so sánh tài hoa, đượm chất phong tình. Hơn nữa, nếu để ý hẳn độc giả bạn đọc sẽ
nhận thấy trong thơ ca cổ trung đại, các bậc tao nhân thường lấy thiên nhiên làm
chuẩn mực cho con người. Làm sao quên được hình ảnh:
“Cổ tay em trắng như ngà
Đuôi mắt em sắc như là dao cau
Nụ cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen "
Ngược lại, đến với Nguyễn, con người chuẩn mực để so sánh. Ông kéo thiên nhiên
lại gần với con người. Với Nguyễn Tuân, con người trung tâm của trụ, một
tiểu vũ trụ. Vì vậy, ông nhìn sông Đà như áng tóc của người thiếu nữ.
Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, đẹp nhất mùa xuân mùa thu: “Mùa
xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của
Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm
đi rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ một người bất mãn bực bội mỗi độ thu
về " . Nguyễn tả sắc xanh của nước sông Đà cũng lạ lẫm, màu xanh ngọc bích, sắc
xanh trong vắt như pha lê, ngọc thạch mắt người thể nhìn thấu đáy. Để thấy
được sắc xanh như màu xanh của sông Đà hiếm khác biệt với nhiều dòng sông
khác Nguyễn Tuân đã so sánh màu sắc của nước sông Đà với màu nước của sông
Gâm, sông là màu xanh đục lờ lờ canh hến. Sắc nước mùa thu của sông Đà tự thân
nó không thể coi đẹp nhưng cái đẹp đáng nói đây chính bởi sựm duyên của con
sông. Mùa thu ớc sông Đà dần thay u, lừ lừ rồi chín đỏ như mặt người
đang tím bầm rượu bữa, hoặc của một người đang bất mãn, đang bực bội mỗi độ
thu về. Xanh trong, dịu dàng thế vào mùa xuân lại chuyển ngay sang sắc tím đ
giận dỗi vào mùa thu. Thế mới biết tính khí của con sông kia cũng thất thường lắm,
dịu dàng đấy giận dỗi được ngay. Không chỉ tính cách đa dạng chúng ta
thấy sông Đà hiện lên như một gái biết trưng diện, biết điệu đà bởi mỗi mùa ấy
tự thay tấm áo đã cũ màu, khoác cho mình tấm áo mới, luôn luôn thay đổi, luôn tự làm
mới mình để đẹp hơn, hấp dẫn hơn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt
há Dương Châu " , làm cho người đi rừng dài ngày bất ngờ gặp lại con sông “vui như
thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng " . Với nghệ
thuật so sánh cụ thể Nguyễn đã cho người đọc thấy được tình cảm, cảm xúc của mình
đối với con sông của miền tây tổ quốc, không chỉ đơn thuần cảm xúc của một con
người đối với một con sông đó xúc cảm của những “cố nhân"sau bao ngày xa
cách. Niềm vui ấy như tiếng ời giòn tan trong ánh nắng của mặt trời bừng chói sau
một kì mưa dầm ẩm ướt, hay như một giấc chiêm bao ngọt ngào nhưng ta choàng tỉnh
giấc và giờ đây lại được nối lại. Niềm vui của sự hân hoan và mãn nguyện sau bao nỗi
đợi chờ.
Sông Đà với Nguyễn như một “cố nhân " , nhưng khổ nỗi cố nhân này lại “lắm bệnh
lắm chứng, chốc dịu dàng đấy rồi chốc lại bẳn tính, thác lũ, gắt gỏng ngay đấy " . y
thế khi được gặp lại cố nhân lại trào dâng một cảm giác đằm đằm, ấm ấm. Phải
chăng bởi con ng kia quá gợi cảm quyến rũ. Nét quyến của một “người tình
nhân chưa quen biết " .
Sông Đà còn những khoảng không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng : “Cảnh
ven sông đây lặng tờ. Hình như từ đời đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng
lặng tờ đến thế thôi ". Cái lặng lẽ của thanh bình, yên lẽ bất cứ một tâm
hồn khó tính nào cũng muốn ở trọ nơi đây.
những cảnh hoang vu, hoang đến lạ : “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa " . Chút hoang dại của lịch
sử đất nước thời khai thiên lập địa, chút hồn nhiên của tuổi thơ với bao mộng gửi
theo những câu chuyện cổ tích mẹ, thường hay kể, tất cả lại về đây hội tụ trên
bờ sông Đà vừa hoang vu, vừa hồn nhiên, thơ trẻ.
Cảnh sông Đà n “những nương ngô nhú lên những ngô non đầu mùa, những
cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm
sương đêm " . Một cảnh thơ mộng, tuyệt đẹp trong mùa xuân với sự sống đang cựa
mình, sinh sôi. Thực mộng chảy tràn vào nhau. Trong lúc đang thưởng thức cảnh
sắc thiên nhiên thơ mộng tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy “thèm được
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
giật mình vì một tiếng còi xúp-của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ
Yên Bái Lai Châu " , được đánh thức bởi shiện diện của con người. Thiên nhiên
tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không một bóng người " , một nương ngô nhú lên
mấy ngô non đầu mùa " không ai chăm sóc, dường như từ đời đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế thôi. Từ quá khứ nhà văn trở
về với hiện tại ớng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai đây sẽ con người khai phá,
đường sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp
tiếng cười. ràng cảnh vật nếu không con người thì vẫn chỉ hoang sơ, tẻ nhạt
thôi! Đang mộng bên cảnh ng Đà, Nguyễn Tuân mối giao cảm lạ với
loài vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi
lừ lừ trôi trên một i đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt như hỏi tôi
bằng i tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, phải ông cũng
vừa nghe thấy một tiếng còi sương? " . Con vật hỏi người hay chính người đang say
trong cảnh mộng tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng thế, những khoảng
lặng diệu khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của
“đàn dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn
hươu vụt biến " đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật
tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc
đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà văn sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà
khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh bênh Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu nh " của
một người tình nhân chưa quen biết " . Con sông Đà như một sinh vật linh hồn,
dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng
nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi " . Con sông trở
nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn
những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên " . Đó niềm mong ước
của nhà văn nửa muốn gìn giữ những nét nguyên của con sông, nửa muốn cải tạo
mà khai phá nó để phục vụ con người đó phải chăng cũng là lòng yêu nước thầm kín
của Nguyễn?
Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn, trữ tình đồng
thời vô cùng kiều diễm. Nếu ở đoạn văn trên, Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà hung
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
bạo với những kiến thức nền chủ yếu quân sự hay thuật cùng những câu văn
ngắn, nhiều động từ, nhiều thanh trắc thì đến đoạn văn này, Nguyễn Tuân chủ yếu sử
dụng kiến thức du lịch, kiến thức lịch sử kiến thức văn học với câu văn vươn dài ra
như nhịp chèo khoan thai của thuyền tôi trôi trên sông Đà ". Nếu để ý, người yêu
văn hẳn sẽ nhận thấy có đến 14 câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để
tạo cảm giác mênh mang mềm mại. Người yêu văn thể dễ dàng chuyển thẳng
những đoạn văn Nguyễn Tuân viết về dòng sông Đà hạ lưu thành những bài thơ trữ
tình viết bằng văn xuôi. Phong cách nghệ thuật này trước cách mạng ta chỉ bắt gặp
nhà văn Thạch Lam với lối viết truyện không mâu thuẫn, không kịch tính, không gay
cấn, truyện như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Đến đây, ta lại bắt gặp nhà
ngôn ngữ tài ba Nguyễn Tuân một phong cách nghệ thuật tương tự.
Khi viết vsông Đà, Nguyễn Tuân đã bộc lộ mình một nhà văn với tình yêu quê
hương đất ớc tha thiết bởi trong văn chương nghệ thuật, viết về sông núi viết về
giang sơn viết về giang sơn, viết về Tổ quốc. Đây tình yêu nhất quán trong
cuộc đời cầm bút của nhà văn. Trước Cách mạng, tình yêu quê hương Tổ quốc của
Nguyễn Tuân được bộc lộ một cách thầm kín thông qua tác phẩm “ Thiếu quê hương "
. Đó nỗi lòng của những con người “sống giữa quê hương nhưng vẫn thấy mình
thiếu quê hương. " Còn nói như Chế Lan Viên:
“Nhân dân ở quanh ta mà sao chẳng thấy
Tổ quốc ở quanh mình mà có cũng như không "
Giờ đây, khi viết về con sông Đà, ánh sáng Cách mạng đã rọi chiếu vào tâm hồn của
nhà văn, phù sa của nhân dân đã bồi đắp cho văn chương của nhà văn. Ông đứng giữa
dòng sông Đà, đứng giữa nhân dân Tây Bắc đbộc lộ trực tiếp tình yêu nước sâu sắc
qua từng câu chữ. Không yêu sao được khi ông đến với Đà giang, viết về một con
sông hùng vĩ, ông đã đọc hàng trăm trang csử, hàng trăm trang “Dư địa chí", đọc
biết bao nhiêu áng thơ trữ tình của Tản Đà, của Bạch, của Nguyễn Quang ch,…
nhưng viết về Đà giang, Nguyễn không bị lệ cổ, không bị tập cổ, không bị ảnh hưởng
bởi người xưa đã tái tạo mới trên từng trang viết nói như Nam Cao: “Văn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn
chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có. "
Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ, vừa dữ dội nhưng cũng
cùng lệ, trữ tình cùng lãng mạn. Hai tính cách ấy đặt bên cạnh nhau
nhưng không hề bài trnhau lại tôn vinh nhau, khiến con sông Đà trở nên chân
thực sống động, cựa mình trên trang viết. Quan trọng hơn, đằng sau dòng sông ta thấy
hiện lên một bức chân dung của một Nguyễn Tuân với tình yêu quê hương đất nước;
một Nguyễn Tuân đã được ánh sáng của Đảng soi rọi, được phù sa của nhân dân bồi
đắp; một Nguyễn Tuân với tâm hồn mà như Tố Hữu đã viết:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim "
Như vậy, Nguyễn Tuân viết bài “Người lái đò sông Đà"bằng một tâm hồn rộn ràng
tiếng chim như thế, bằng một tâm hồn như một vườn hoa thơm quả ngọt. ràng ông
là người chiến sĩ trên mặt trận văn chương.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 18
Nguyễn Tuân nhà văn phong cách nghệ thuật độc đáo tài hoa trong nền văn
học Việt Nam hiện đại. Ông một trong số những nhà văn nhiều đóng góp cho sự
phát triển của thể loại tùy bút tiếng Việt. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà"in trong
tập “Tùy bút sông Đà"là một trong số những sáng tác tiêu biểu xuất sắc nhất của
ông. kết quả của chuyến đi thực tế lên miền Tây Bắc của Tổ quốc, với cảm hứng
ngợi ca, u mến quê hương, đất nước, tùy bút “Người lái đò sông Đà"đã xây dựng
thành công hình tượng con sông Đà một sinh thể hồn với những tính cách trái
ngược, đầy mâu thuẫn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Trước hết, hình tượng con sông Đà hiện lên với tính cách hung bạo, dữ dội. lẽ, sự
hung bạo, dữ dội chính đặc điểm nổi bật của thiên nhiên Tây Bắc với sông Đà,
sự hung bạo, dữ dội của hiện lên nhiều phương diện khác nhau. Nếu mọi dòng
sông đều chảy về hướng đông thì chỉ duy nhất sống Đà chảy về hướng bắc lẽ
chỉ với dòng chảy này thôi cũng đã phần nào thể hiện được cái hung bạo, ngạo nghễ
khác thường của sông Đà. Không dừng lại đó, bằng trí tưởng tượng phong phú, độc
đáo nghệ thuật nhân hóa đặc sắc, nhà văn Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm
nhận rõ nét sự hiểm nguy của sông Đà qua hàng loạt hình ảnh, từ ngữ, câu văn miêu tả
chi tiết những vách đá dựng đứng nơi sông Đà, “hẹp đến mức có quãng con nai con hổ
nhảy vọt từ bờ y sang bờ kia hoặc nhẹ tay ném hòn đá cũng qua hoặc chỉ lúc đúng
ngọ mới có mặt trời.
Cùng với những vách đá, cái dữ dội của sông Đà còn được Nguyễn Tuân lột tả qua
hình ảnh mặt ghềnh Hát Loong, “dài ng cây số, nước đá, đá sóng, sóng
gió". Với điệp từ “xô"được lặp lại nhiều lần đã diễn tả cuộc truy đuổi quyết liệt của
sông Đà hòng cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu con người, bao con thuyền
gỗ đi qua nơi đây. Thêm vào đó, mặt ghềnh nói riêng, dòng sông nói chung cũng
mang trong mình một tâm trạng. Tâm trạng y được thể hiện nét qua việc sử dụng
từ láy “gùn ghè"đầy ng tạo, qua đó bộc lộ thái độ hậm hực, tức tối, dọa dẫm. Những
cơn gió vốn vô hình cũng được hữu hình hóa với dáng vẻ giận dữ, đầy dữ dội qua việc
sử dụng từ láy “cuồn cuộn". Dòng ng giống như kẻ thù, mang tâm địa ác độc, luôn
tìm cách cướp đi tính mạng của con người.
Không chỉ dừng lại mặt ghềnh Hát Loong, sự dữ dội của sông Đà còn được tác giả
Nguyễn Tuân m qua những thác ớc với âm thanh vang dội đến rợn người của
chúng. Dòng thác cuồn cuộn như đang mở hết âm ợng tiếng thét của thiên nhiên
bừng bừng phấn khích, mạn rợn hoang dại. Từ âm thanh của tiếng thác, tác giả đã
giúp người đọc cảm nhận được tâm trạng, tính cách hung dữ của sông Đà sông Đà
thực sự như một con thủy quái, đang khiêu khích, thách thức điên loạn, thù hận con
người.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Đặc biệt, sự độc dữ của sông Đà được tác giả Nguyễn Tuân tập trung làm nổi bật qua
việc miêu tả cụ thể, nét những cái hút nước. Nguyễn Tuân đã miêu tả những cái hút
nước với hàng loạt chi tiết nghệ thuật đặc sắc để lại ấn tượng sâu sắc. Tác giả đã sử
dụng hình ảnh so sánh “hút nước như những cái giếng tông"kết hợp liên tưởng
“trên mặt cái hút nước xoáy tít đáy đang lừ lừ những cánh quạ đàn"với cách dùng từ
độc đáo “xoáy tít đáy"đã gợi tả một cách cụ thể, ấn tượng những hút nước sâu và nguy
hiểm, mặt sông những dòng xoáy nhanh mạnh. Đồng thời, tác giả còn miêu tả
âm thanh của những cái hút ớc bằng biện pháp so sánh nhân hóa “nước đây
thở kêu như cửa sông cái bị sặc", “giếng sâu", “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào"giúp người đọc cảm nhận được sự dữ dội nguy hiểm của xoáy ớc. Cùng với
đó, sự nguy hiểm của sông Đà còn được miêu tả qua hình ảnh liên tưởng, so sánh độc
đáo “những con thuyền đi qua quãng đó phải chèo thật nhanh y như ô tô sang số ấn ga
để hút qua". Hơn thế nữa, tác giả còn mượn góc nhìn của điện ảnh đtăng cường khả
năng quan sát, diễn tả để người đọc thể cảm nhận nét về dòng sông. Như vậy,
hình ảnh những cái hút nước được miêu tả tỉ mỉ từ hình dáng, màu sắc, âm thanh. Tác
giả đã sử dụng hàng loạt hình ảnh so sánh, nhân hóa, liên tưởng để làm bật nổi hình
ảnh những cái hút nước nguy hiểm, truyền đến người đọc cảm giác sợ hãi, rợn ngợp.
Cuối cùng, tính cách hung bạo của sông Đà được thể hiện qua thạch trận. Tác giả đã
sử dụng biện pháp nhân hóa để làm chân dung, hình dáng, tính cách của từng hòn
đá – “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả
cái mặt nước chỗ này". thể thấy, thủ pháp nhân hóa đã phát huy tột cùng tác dụng
của để làm nổi bật tính cách hung bạo, hiếu chiến của sông Đà. Mỗi hòn đá như
một chiến binh đã được dòng sông giao cho những nhiệm vkhác nhau để tiêu diệt
con người. Sông Đà đã giao nhiệm vụ cho chúng bày binh bố trận thành ba tuyến:
hàng tiền vệ, tuyến giữa, boong ke chìm, pháo đài nổi. để rồi chúng đã huy động
sức mạnh tổng lực của mình để uy hiếp tinh thần con người với những binh pháp đầy
hiểm. Thạch trận đã được bố trí thành ba trùng vi, mỗi trùng vi được bố trí cửa tử
nhiều cửa sinh thì ít đặc biệt thường xuyên thay đổi vị trí của cửa sinh. Như
vậy, thể thấy, tác giả Nguyễn Tuân đã làm nổi bật tính cách hung bạo, dữ dội của
sông Đà qua việc miêu tả chi tiết dòng chảy, những vách đá, thác nước, thạch trận,…
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Không chỉ có tính cách hung bạo, sông Đà còn mang trong mình tính cách trữ tình. Vẻ
đẹp trữ nh, thơ mộng của sông Đà trước hết được tác giả thể hiện qua hình dáng của
nó. Từ trên y bay nhìn xuống, dòng sông Đà uốn lượn mềm mại, duyên dáng , điều
đó thể hiện qua nhiều hình ảnh so sánh, gợi cảm như “dây thừng ngoằn ngoèo",
“áng tóc vạn sải"và đặc biệt, hình ảnh so sánh vẻ đẹp trữ tình của dòng sông được
với “áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa
ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
Đồng thời, tác giả cũng miêu tmàu sắc của sông Đà để làm bật nổi tính cách trữ tình
của nó. Sắc nước sông Đà thay đổi, biến ảo diệu và tác giả Nguyễn Tuân đã miêu tả
sắc nước sông Đà qua bốn mùa mùa xuân nước xanh ngọc bích, còn mùa thu lại lừ
lừ chín đỏ. thể thấy, sông Đà luôn biết tự làm mới , làm đẹp cho chính mình.
một sinh thể sống động và đầy cá tính.
Thêm vào đó, dưới điểm nhìn của một cố nhân, dòng sông mang vẻ đẹp cổ kính “mặt
sông loang loáng nước’, “sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi". Dường
như, dòng sông đang chảy về từ quá khứ, mang vẻ đẹp cổ kính như những câu thơ của
tiền nhân, đó là vẻ đẹp “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân".
Cuối cùng, tác giả đã chuyển sang điểm nhìn của một du khách để cảm nhận toàn diện
sâu sắc hơn về sông Đà. Dưới điểm nhìn này, sông Đà hiện lên với vẻ đẹp thơ
mộng hoang qua hai hình ảnh so sánh gợi cảm “bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử", “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi thơ". Với cách so sánh
giữa cái cụ thể với cái trừu ợng, tác giả không chỉ cho thấy vđẹp thơ mộng, hoang
của dòng sông còn thể hiện niềm trìu mến của tác giả trước vẻ đẹp ấy. hơn
thế nữa, dưới điểm nhìn của một du khách, ng Đà còn hiện lên với một vẻ đẹp tràn
đầy sức sống. Điều đó được thể hiện qua hàng loạt các hình ảnh sinh động, gợi cảm,
những ơng ngô đang nhú lên những non đầu mùa, những khóm cỏ gianh đang ra
những búp nõn đó còn hình ảnh của đàn dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông
bụng trắng như bạc rơi thoi".
Tóm lại, tùy bút “Người lái đò sông Đà"với việc sử dụng những u văn giàu nhạc
điệu, cách dùng từ mới lạ, độc đáo cùng những so sánh, liên tưởng độc đáo, thú vị đã
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
miêu tả thật sinh động ấn tượng hình ợng con sông Đà với những đặc điểm, tính
cách đối nghịch vừa hùng vĩ, hung bạo, dữ dội vừa thơ mộng, trữ tình. Sông Đà
hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 19
Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 28 tháng 7 năm 1987), quê gốc thủ đô
Nội. Ông sinh ra trong một gia đình truyền thống Nho học, nhưng lại gặp buổi Hán
học đã tàn, người thân phụ dâu tài hoa nhưng lại bất đắc ctrong con đường công
danh cũng người đã nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến con đường sáng tác của
Nguyễn Tuân. Strường của Nguyễn Tuân tùy bút ký, bên cạnh đó ông cũng
tham gia sáng tác cả truyện ngắn tiểu thuyết, đồng thời ông còn một diễn viên
điện ảnh, kịch nói. Cuộc đời ông trải qua hai giai đoạn sáng tác, thuở đầu đề tài của
ông chủ yếu hoài niệm về những vẻ đẹp trong văn hóa dân tộc, chủ nghĩa “xê
dịch"thoát ly, sau phê phán lối sống trụy lạc, tầm thường. Sau cách mạng, Nguyễn
Tuân bắt đầu viết về đề tài yêu nước, ca ngợi vẻ đẹp của con người thiên nhiên
trong công cuộc lao động sản xuất. thể nhận xét chung về Nguyễn Tuân, với mấy
chữ uyên bác tài hoa, văn chương của ông nổi bật lên với một chữ ngông"rất
riêng biệt, nêu bật lên cái tính muốn “xê dịch", kết hợp với nghệ thuật sử dụng câu
từ Tiếng Việt điêu luyện bậc thầy đã làm nên một Nguyễn Tuân - với ngón tùy bút
đỉnh cao của văn học Việt Nam, được xếp vào 1 trong 9 tác giả văn học hiện đại tiêu
biểu nhất. Người lái đò sông Đà trích rút từ tập tùy bút Sông Đà (1960), một trong
những tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân đã thể hiện được hoàn toàn tính
lối hành văn của nhà văn, trong đó nổi bật lên nh ảnh con sông Đà với hai
tính đối lập, vừa hùng vĩ, dữ dội, nhưng cũng chẳng thiếu phần dịu dàng, lãng mạn
đậm chất trữ tình.
Nguyễn Tuân đã mượn thơ của Nguyễn Quang Bích để làm lời đề từ cho tác phẩm của
mình rằng: “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu", rằng mọi con sông đều
chọn xuôi dòng về hướng đông, riêng chmột mình con sông Đà chọn ngược dòng về
hướng Bắc. lẽ rằng với cái thế chảy ngược đời chẳng giống ai này của con sông đã
khơi gợi lên trong tâm hồn của Nguyễn Tuân sự đồng cảm thấu hiểu sâu sắc, bởi lẽ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
bản thân nhà văn cũng là một con người có cái “tôi"rất riêng, với ngòi bút độc lạ được
ví như cây độc huyền cầm của nền văn chương nước ta. Chính vì thế nên từng câu chữ
người viết về sông Đà luôn một cái đó rất chuyên chú, rất tình cảm thấm
thía hơn bao giờ hết. Thế nên Nguyễn Tuân cũng ợn thêm một câu thơ khác của
nhà thơ Ba Lan Wladyslaw Broniewski viết rằng: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng
sông", bày tỏ cái nỗi lòng thương mến, xúc động trước vẻ đẹp của con sông hùng
bậc nhất Tổ quốc, khơi gợi ra vẻ đẹp nên thơ trữ tình của dòng sông Đà với “tiếng
hát"bay bổng, lãng mạn.
Nguyễn Tuân một nghệ rất tận tâm với nghề nghiệp của mình, sự uyên bác, tài
hoa của ông thể hiện trong việc dẫn dắt người đọc tìm về nguồn gốc của con sông với
những kiến thức Địa sâu rộng. Sông Đà vốn bắt nguồn từ Trung Quốc, trải qua hơn
400km lưu lạc nơi xứ người, rồi với về đến Việt Nam chính thức nhập tịch vào nước
ta tại Mường Tè, Lai Châu. Nguyễn Tuân viết như thế, khiến độc giả bỗng cảm
tưởng, hóa ra sông Đà cũng như một con người lam lũ, bôn ba, lắm tài nhưng cũng
nhiều tật, trải qua biết bao sóng gió của cuộc đời, rồi khi bước chân vào ớc ta
mới lại cái bộ dạng khó ở, lúc hung hăng, giận dữ, lúc lại hiền hòa, dịu êm. Khiến
người ta phải quan sát, suy ngẫm thật nhiều về cuộc đời lẽ chất chồng đầy chông
gai, bão táp của con sông đặc biệt này.
đầu đoạn trích, sông Đà đã hiện lên với một hình hài dáng vẻ cùng hung bạo,
nhưng lại mang trong mình những vẻ đẹp dữ dội hùng nơi thượng nguồn, với
hình ảnh những thác đá, ghềnh đá với độ dốc lớn, nước chảy xiết cùng hung hiểm.
Người đọc ấn tượng với những hình ảnh hấp dẫn thể hiện sự tỉ mỉ, tinh tế của nhà n
trong công cuộc khám phá con sông Đà như “cảnh đá bờ sông dựng vách thành",
“đúng ngọ mới mặt trời", “chẹt lòng sông như yết hầu", “con nai nai con hổ đã có
lần vọt qua bờ bên kia","đang màu cũng cảm thấy lạnh", khiến dòng sông hiện
lên với những nét bí hiểm, khó lường, điệu bộ như đang ngấm ngầm quan sát từng con
người bước vào lòng sông vậy. Nếu như hình ảnh mang đến cảm giác lạnh lẽo, rùng
rợn thì âm thanh lại mang đến sự hung bạo dữ dằn dường như đang thách thức
phô diễn cái vhoang sơ, hùng của dòng sông. Tác giả chọn viết về ghềnh Hát
Loóng với lối viết trùng điệp nghệ thuật dùng từ độc đáo, khúc ghềnh ấy “dài hàng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
cây số nước đá, đá sóng, sóng gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào m được qua đấy".
Làm nổi bật nên hình ảnh của một con sông dữ dằn, kinh khủng, cùng hình tượng
ghềnh thác liên tiếp, gập ghềnh hiểm trở, sẵn sàng nuốt chửng bất kỳ kẻ nào lỡ sẩy
chân lọt vào tầm ngắm. Cảm giác hầm hè, hung dữ của con sông còn tiếp tục được tác
giả miêu tả cả quãng Mường Vát phía dưới Sơn La, với tiếng “thở kêu như
cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào". Đôi lúc người ta còn cảm
thấy con sông Đà có phần quái dị, với điệu b“nghe như là oán trách gì, rồi lại như
van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn chế nhạo", khiến người ta phải
chừng". Rồi có lúc lại “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét
với đàn trâu da cháy bùng bùng…", gợi ra sgiận dữ, cảm giác sôi động của dòng
sông khúc đổ thác, mở ra những dự báo về sự hủy diệt mạnh mẽ, điên cuồng của dòng
sông, đe dọa tất cả những kẻ ý định thách thức nhằm vượt đoạn thác này. Cảm xúc
mạnh mẽ ấn tượng đó đến từ cách sử dụng những câu văn ngắn, kết cấu trùng điệp,
cùng với các từ ngữ đặc tả cực hạn, tất cả đã mang đến những cảm xúc dữ dội, hãi
hùng, và ghi ấn tượng sâu sắc về một con sông Đà với cái vẻ hầm hố, ngang tàn.
Dĩ nhiên rằng con sông Đà không chỉ có mỗi những hình ảnh và âm thanh kỳ quái như
thế, mặc dầu chúng ta cũng thấy đủ khủng khiếp rồi. Thế nhưng cái đặc sắc ấn
tượng hơn tất thảy hình ảnh những cái hút nước của con sông - mối kinh sợ của
những người lái đò. Có lẽ chẳng ai thể đặc tả những cái xoáy ớc này hay
ấn tượng hơn Nguyễn Tuân được, nhà văn đã tỉ mỉ quan sát, thậm chí đã từng trải
nghiệm cảm giác vượt thác sông Đà, để cho ra những góc nhìn rất kính nghiệp. Trong
lăng kính của Nguyễn Tuân những cái hút ớc được xây dựng bằng những hình ảnh
rất độc lạ “giống như cái giếng tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu",
“Mặt giếng y toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối
pha lê xanh", tựa “Cốc pha lê nước khổng lồ", rồi thì “Từ đáy hút nước nhìn ngược lên
vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải",... Chỉ bấy
nhiêu câu chữ thôi, thế nhưng cũng đã đủ để người ta hình dung ra những cái xoáy
nước vừa đẹp nhưng cũng sẵn sàng nuốt chửng bất cứ kẻ nào dám bén mảng lại gần
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
nó, nguy hiểm cùng. Một điều thú vị nữa là, vốn Nguyễn Tuân một diễn viên
đạo diễn điện ảnh thế nên trong tùy bút của ông không bao giờ thiếu những liên
tưởng thú vị đậm chất nghệ thuật như hình ảnh một anh quay phim cầm máy ảnh,
cho cả mình cả máy quay xuống cái hút nước của sông Đà để những khung hình
tuyệt vời nhất, đem đến cho độc giả những cảm xúc chân thực như bản thân tự nhìn
thấy vậy.
Một điểm nhấn khác khi Nguyễn Tuân nói về sông Đà ấy những cái “trùng vi thạch
trận"với những cửa sinh, cửa tự ngặt nghèo con sông đã giăng mắc ra để đánh bẫy
những kẻ đi ngang qua nó, cùng nham hiểm xảo quyệt. Kiến tạo nên cái “thạch
trận"ghê gớm ấy đá với hình dạng quái dị tính tình cũng chẳng dễ chịu gì cho
cam. theo như Nguyễn Tuân nói thì đá đây nghìn năm vẫn mai phục dưới lòng
sông, chỉ trực chờ mỗi lần có chiếc thuyền nào mà đi qua khúc sông quạnh quẽ này thì
chúng liền “nhổm cả dậy"để vồ lấy thuyền, hòn nào hòn nấy cũng mang bộ dạng “ngỗ
ngược", “nhăn nhúm", “méo mó", hòn đứng, hòn ngồi, hòn lại nằm, muôn hình vạn
trạng. Những hòn đá ấy chính là tay chân của con sông Đà ghê gớm này, chúng dường
như linh tính, bày binh bố trận, lại giở trò khiêu khích, ờng như thù với tất cả
những người đi qua khúc này, hoặc giả như sơn tặc, biến những người lái đò thành
miếng mồi ngon, quả không thể khinh thường. Chúng những tay lão luyện, đứa
nào cũng chọn riêng cho mình một nhiệm vụ, dưới sự phân chia binh pháp của “thần
sông thần đá", lập thành hẳn ba “trùng vi thạch trận", chỗ thì dàn hàng ngang chặn lối,
chỗ lại đứng giữa khiêu khích, dẫn dụ, chỗ thì đòi đánh giáp cà", chỗ nhảy ra phục
kích. Thông qua đôi mắt của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên như một kẻ thù
không đội trời chung với con người, mỗi trận chiến đều là kẻ sống ta chết, không chừa
lối thoát. Cũng chính điều ấy hình tượng người lái đò hiện lên thật ấn tượng
đặc sắc trong lòng người đọc sau trận chiến với con sông ngỗ nghịch đáng gờm này.
Bên cạnh vẻ hung bạo, dữ dội hùng thì con sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp trữ
tình, nên thơ sau khi về tới khúc sông hlưu, dòng ng trở nên hiền hòa đằm
thắm hơn hẳn trái ngược với cái vẻ bí hiểm, ghê gớm lúc thượng nguồn. Từ điểm nhìn
trên cao và xa Nguyễn Tuân đã vẽ ra hình dáng của dòng sông thật mềm mại, dài rộng
với hình ảnh “cái dây thừng ngoằn ngoèo". Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông hiện lên qua
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
những liên tưởng rất đặc sắc, dòng chảy “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai
cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân". Người ta nhận ra trong ấy cái nét
duyên dáng yêu kiều của một thiếu nữ e ấp, với mái tóc suôn dài, ẩn hiện trong sương
khói, quyến cả núi rừng Tây Bắc, nhưng cũng mang cả những nét đỏng đảnh, khó
chiều của một mỹ nhân hiếm có. Rồi bằng nh yêu quê hương đất nước sâu sắc, bằng
tâm hồn tinh tế nhạy cảm của mình, Nguyễn Tuân còn quan sát thấy cả sự biến đổi
lãng mạn của con ng qua từng mùa, dáng vnào cũng như khắc sâu vào lòng người
đọc. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến
của Sông m ng Lô", “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người
bầm đi rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ một người bất mãn bực bội mỗi độ
thu về". Đấy con sông Đà đã hiện lên một cách sinh động như thế, dẫu dịu dàng,
nên thơ nhưng cái tính trái khuấy, thích làm mình làm mẩy, giận dỗi với cả Tây Bắc
thì chưa bao giờ bỏ được. với Nguyễn Tuân con sông ấy, không chỉ một mỹ
nhân, mà còn một “cnhân", đôi lúc còn là một “tình nhân chưa quen biết", rất tình
tứ, yêu thương với cảm xúc “màu nắng tháng ba Đường thi của “Yên hoa tam nguyệt
há Dương Châu"". Người cố nhân ấy người bạn tri kỷ, thân thiết, dẫu đôi lúc gắt
gỏng, khó chiều, nhưng trân quý cùng. Rôi những hình ảnh nương ngô, đàn hươu,
đồi cỏ gianh, bờ sông hoang dại,... đã mang đến cho sông Đà một vẻ đẹp giản dị, mộc
mạc cổ điển, khơi gợi người ta nhớ về những ngày tháng xưa kia, êm đềm lặng
lẽ…
Bằng thái độ kính nghiệp, tinh thần nghệ sĩ, ham tìm tòi khám pngòi bút độc
đáo, uyên bác tài hoa của mình, sông Đà trong tùy bút của Nguyễn Tuân đã hiện
lên như một thực thể linh hồn, cuộc đời với những nét tính tính đối lập vừa
hung bạo, hùng vĩ nhưng cũng lại vẻ nên thơ, trữ tình. Từ đó nổi bật lên tình yêu
quê hương đất nước, niềm tự hào với vẻ đẹp hoang hùng của thiên nhiên núi
rừng Tây Bắc qua lối hành văn phóng khoáng, tỉ mỉ, chân thực sáng tạo không
ngừng nghỉ.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 20
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nguyễn Tuân nhà văn phong cách độc đáo, tài hoa và hiểu biết về nhiều lĩnh
vực vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện, là bậc thầy ngôn ngữ trong nền văn học
nên ông được đánh giá 1 trong số những nhà văn ảnh hưởng lớn trong nền văn
học hiện đại Việt Nam. Thể loại văn học thành công nhất của ông bút tùy bút
với một số tác phẩm tiêu biểu như “Vang bóng một thời", “Một chuyến đi", “Thiếu
quê hương". “Chiếc đồng mắt cua"…nhưng trong số đó nổi tiếng nhất tùy bút
“Người lái đò sông Đà"được in trong tập “sông Đà", tùy bút này một áng văn đẹp
được kết nên từ tìnhu quê hương đất nước tha thiết, say đắm để ca ngợi vẻ đẹp vừa
hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc cũng như “chất vàng
mười"của con người nơi đây. Xuyên suốt tác phẩm hình tượng con sông Đà vừa dữ
dội hiểm trở nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình.
Dưới ngòi bút miêu tả tài tình của Nguyễn Tuân con sông Đà hiện lên với 2 vẻ đẹp đối
lập nhau, con sông Đà lúc dữ dằn “hung bạo"nhưng chốc lại dịu dàng thơ mộng,
hùng vĩ. Phải con mắt quan sát tỉ mỉ tâm hồn tinh tế, khéo léo lắm thì tác giả
Nguyễn Tuân mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của con sông cũng như quá trình chuyển
đổi phức tạp ấy. Ngay từ đầu đoạn trích, con sông Đà hiện lên với vẻ hung bạo, dữ
dằn, nhiều thác ghềnh hiểm trở, vẻ đẹp hùng của con sông Đà không chỉ
nhiều thác đá còn những cảnh đá 2 bên bờ sông, đá dựng vách thành
những bức thành đá cao thành chẹt lấy lòng sông hẹp như một cái yết hầu. Với cách
so sánh rất độc đáo, mới lạ nhưng cũng rất lạ lùng khi đem cái “yết hầu"của con người
ra để von với những bức thành đá cao lớn ép chặt lấy ng sông Đà. Cái hẹp của
lòng sông Đà được c giả tả hẹp theo đủ cách khác nhau nào chỉ đúng lúc
“ngọ"giữa buổi trưa, khi mặt trời lên cao nhấtchiếu thẳng xuống lòng sông thì lòng
sông mới nhận được chút tia nắng m áp ít ỏi khi thời gian trôi đi thì những tia
nắng ấy cũng dần biến mất, hay chỉ cần đứng từ bên bờ bên này nhẹ tay ném một
hòn đá nhỏ cũng thể qua đến vách đá bên kia bờ sông, hơn nữa quãng hẹp đến
nỗi con nai con hổ cũng lần đã vọt từ n bờ bên này sang được bờ sông bên kia,
hay mùa ngồi trong khoang đò đi qua quãng sông ấy cũng cảm thấy mát lạnh,
thấy mình như đứng một cái ngõ ngóng vọng lên một khung cửa sổ của một tòa
nhà cao tầng nào đó. Bằng việc so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ lạ lùng tác
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
giả Nguyễn Tuân nđã lục lọi hết cả kho từ ngữ phong phú của mình để tìm ra được
những ngôn từ đắt giá nhất thể làm kinh động đến hồn trí người đọc khi miêu tả
những vách đá bên bờ sông Đà.
Con ng Đà không chnhững vách đá dựng đứng quãng Hát Loong n
hàng dài cây số ớc đá, nước đá, đá sóng, sóng lại gnhư một vòng
tuần hoàn tự nhiên của con sông cứ lặp đi lặp lại dòng nước lúc nào cũng cuồn
cuộn chảy xiết với những luồng gió gùn ghè quanh năm như đòi nợ bất một người
nào đi qua nó, bằng lối viết rất văn hoá, cấu trúc câu trùng điệp gợi lên hình ảnh một
con sông Đà lúc nàong cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn nuốt chửng bất kì
con thuyền xấu số nào rơi vào trận địa mà nó đã bày sẵn.
Đến quãng Mường, ta lại bắt gặp “những cái hút nước giống như cái giếng tông
thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu", trên bề mặt cái hút ấy lúc nào cũng xoáy
tít xuống tận đáy và quay lừ lừ chỉ chẹc con thuyền nào đi qua lôi tuột"ngay
xuống đáy ng và đánh chúng tan xác ngay lập tức, hay âm thanh của tiếng nước kêu
thở ừng ực như cái cống bị sặc. Với lối so sánh độc đáo, sử dụng những từ ngữ
miêu tả rất chân thực sống động khiến con sông Đà hiện lên như một loài thủy quái
luôn gầm gừ đe dọa với những âm thanh ghê rợn thể khủng bố tinh thần bất cứ ai
và uy hiếp con người.
Không chỉ miêu tả hình ảnh những vách đá dựng đứng, những cái hút nước sâu hút
hay hơi thở ừng ực của dòng nước cuồn cuộn, con sông Đà n phối hợp hài hòa với
âm thanh réo rắt của những thác nước, Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang đắm
mình điều khiển dàn nhạc giao hưởng hùng tráng của sông Đà với bài ca của sóng hòa
âm với tiếng gió ớc lên những vách đá. Tiếng thác nước réo rắt nghe như ai oán,
oán trách điều gì, rồi lại van xin, khiêu khích hay gằn mình lên chế nhạo, thế rồi âm
thanh được phóng đại lên bất ngờ như bừng lên cơn thịnh nộ đỉnh điểm “rống lên
như hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa rừng lửa
cũng gầm thét lên với nó", tác giả Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của thác nước
như một trận đánh kịch liệt, dữ dội của tự nhiên.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Khi đến cái thác với sóng bọt trắng xóa cả một chân trời, và xung quanh đó là một trận
địa đá bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, tác giả như thổi hồn vào từng hòn đá khiến
chúng trở nên chân thực sống động. Trận địa đá với kích cỡ đa dạng từ to đến nhỏ
ấy đã “mai phục"ở ng sông từ ngàn năm trước rồi , hòn thì “nhổm cả dậy"khi
chiếc thuyền nào đó nhô vào đường ngoặt của sông hay mặt hòn đá nào đây cũng
trông “ngỗ ngược"như một đứa trẻ bướng bỉnh hay “nhăn nhúm méo mó"hơn cả mặt
nước cuộn sóng, những hòn đá muôn hình vạn trạng có hòn “đứng"có hòn “nằm"hay
“ngồi"tùy vào sở thích riêng của chúng. Qua ngòi bút miêu tả tài tình của tác giả t
những hòn đá tri giác ấy như được thổi hồn vào một cách chân thực sống động
khiến chúng giống như những tên du côn hung dữ của thiên nhiên hoang dại. Những
“tên du côn"ấy còn hống hách bày thạch trận trên lòng sông để giăng bẫy mọi thứ đi
qua con sông này, thạch trận thứ nhất bày ra năm cửa trận thì đến 4 cửa tử chỉ
duy nhất 1 của sinh giữa, bọn đá đứa thì hất hàm đứa thì thách thức trêu ngươi, đến
cả mặt nước cũng hùa vào với bọn đá ùa vào bẻ gãy cán chèo, sóng nước đá trái thúc
gối vào bụng thuyền hông thuyền. Thạch trận thứ hai với sông nước cũng bài binh
bố trận khắp i trên lòng sông, tăng nhiều cửa sinh cửa tử phía hữu ngạn con
sông, còn thạch trận thứ ba thì trái phải đều luồng chết, duy chỉ luồng sống
ngay chính giữa. Qua đó, ta thấy con sông Đà hung bạo hống hách như một loài thủy
quái hết bày thạch trận lại đến thủy trận nhằm uy hiếp, nuốt chửng những con thuyền
trên lòng sông, như “kẻ thù số 1"của con người nơi vùng Tây Bắc hùng vĩ, nhờ
vậy mà thể tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa của tác giả với ch sử dụng từ ngữ
điêu luyện, độc đáo.
Hình ảnh con sông Đà hiện lên dưới ngòi t của Nguyễn Tuân không chỉ mang vẻ
“hung bạo, dữ dằn"còn ẩn chứa nét thơ mộng, trữ tình. Dòng sông Đà không ch
có những vách đá dựng đứng, những cái giếng hút sâu hoắm hay những trận thạch bàn
nguy hiểm còn bức tranh thủy mặc vấn vương lòng người. Từ trên tàu bay nhìn
xuống, dòng sông Đà như cái sợi dây thừng ngoằn ngoèo không n nét dữ tợn hung
bạo nữa thay vào đó tuôn dài như một áng tóc trữ tình, cả đầu tóc chân tóc
như đang thoắt ẩn thoắt hiện trong làn mây trời xanh thẳm rợp trời sắc trắng của hoa
ban hay sắc đỏ của hoa gạo và cuồn cuộn lên những làn khói của những người đốt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
nương xuân chuẩn bị canh tác. Như một người hình điều khiển dòng nước
sông Đà thay đổi theo mùa, vào mùa xuân sắc nước màu xanh ngọc bích, lẽ sức
sống xanh mơn mởn của cây cỏ mùa xuân đã nhuộm cho dòng sông màu ngọc bích
đẹp đến nao lòng như vậy. Nhưng mùa hạ qua đi khi a thu đến dòng sông ncởi
bỏ lớp áo để khoác lên mình chiếc áo màu lừ lừ chín đỏ như da mặt một người say
rượu hay giận dữ việc đó. Cứ mỗi mùa qua đi dòng sông Đà như được thay da đổi
thịt, mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp quyến tình tứ, thơ mộng đến xao
xuyến lòng người. Nguyễn Tuân nhìn con sông Đà như một người cố nhân đã lâu
không gặp lại, tác giả say đến mức như sắp đổ ra sông Đà, nó mang vẻ gợi cảm
nhưng trong con mắt mỗi người lại được cảm nhận theo cách khác nhau. Cảnh ven
2 bên bsông lặng như tờ nhưng lại mộng mơ, quen thuộc với những nương nmới
nhú lên xanh mướt, bãi cỏ gianh góc kia đang nhú n những búp xanh mơn mởn hay
những chú hươu cái cúi đầu bứt những búp cỏ xanh non vẫn còn đẫm sương mai rồi
ngẩng đầu lên khỏi những áng cỏ sương, bờ sông mang vẻ đẹp hoang dại của một bờ
tiền sử cổ kính, hay hồn nhiên như một câu chuyện cổ ch xa xưa. Bức tranh thơ
mộng về sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả một cách tỉ mỉ, tinh tế bức tranh ấy có
màu sắc, hình ảnh hiện lên với nét hoang nguyên thủy chưa đôi bàn tay con
người tác động.
Bằng cả tâm hồn yêu thiên nhiên, quê hương đất nước say đắm, thiết tha lòng
ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu vẻ đẹp của một dòng sông nơi y Bắc của tổ quốc,
tác giả Nguyễn Tuân đã mang cho người đọc hình dung ra được hình ảnh con sông Đà
vừa mang vẻ “hung bạo, dữ dằn"nhưng cũng không kém phần “thơ mộng, trữ
tình"cùng hình ảnh giản dị của những người lao động bình dị vùng Tây Bắc. Bằng
tài năng việc sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, tác giả Nguyễn Tuân đã viết nên tùy
bút “Sông Đà"và khắc họa thành công hình ợng con sông Đà cũng như “chất vàng
mười"của những người dân lao động bình dị, tác phẩm xứng đáng một tuyệt tác của
của một tài năng nghệ thuật độc đáo nhưng không kém phần tinh tế.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 21
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nguyễn Tuân (1910-1987) một nhà văn lớn, một nghệ suốt đời đi tìm cái đẹp.
Với phong cách viết tài hoa uyên bác, Nguyễn Tuân đã đóng góp to lớn cho nền
văn học nước nhà, góp phần đưa thể loại truyện ngắn y bút lên một tầm cao mới.
Tiêu biểu cho sáng tác của NT là tác phẩm Người lái đò Sông Đà. Thành công nhất
tác phẩm này bởi Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình ợng con sông Đà
với hai tính cách hùng vĩ hung bạo và thơ mộng trữ tình.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân trước hết con Sông Đà hiện lên mang một vẻ đẹp
hùng hung bạo. Sự hùng hung bạo của dòng ng Đà được thể hiện qua cả
diện mạo và tâm địa.
Với con mắt của nhà điêu khắc, Nguyễn Tuân đã có những so sánh liên tưởng đầy mới
lạ bất ngờ. cảnh đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chấy chỉ lúc đúng ngọ
mới mặt trời". vách đá thành chẹt ng sông nmột cái yết hầu". Có những
quãng lòng sông hẹp tới mức con nay con hổ có thể vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia.
Bằng những lời n y ấn tượng mạnh pha chút hóm hỉnh, những trang văn của NT
đã khiến người đọc liên tưởng đến những bài ca dao khi nói về mơ ước xưa của gái
khi yêu: “Ước sông…chơi". Nhà n tiếp tục tấn công vào giác quan của người đọc
khi ông nói ngồi trên khoang đò quãng y đã mùa vẫn thấy lạnh, cảm thấy mình
như đang đứng ở hẻm một con ngõ mà ngóng vọng lên cái cửa sổ nào trên cái tầng thứ
mấy vừa tắt phụt ánh điện.
Bằng cách miêu tả bờ đá vách đá Sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên khung
cảnh một dòng sông heo hút đến rợn ngợp.
Con sông Đà có tất cả 73 con thác trải dài từ biên giới Việt – Trung về tới thác bờ thác
ở đây dữ dội tạo thành những mặt ghềnh của sóng
Sông Đà nơi ghềnh Hát Loong “dài hàng cây số nước đá, đá sóng, sóng gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt bất cứ con
thuyền nào tóm được qua đây". Những âm thanh của gió của nước gió đã tạo thành
một bản hợp xướng hùng đang đang ầm ập, đổ sập lao tới. Câu chữ của Nguyễn
Tuân ờng ncũng đuổi nhau trong cái âm ởng cuồn cuộn gùn ghè của nước
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
sông Đà. Đặc điểm ấy của khúc sông khiến giống như một kẻ lưu manh lúc nào
cũng thích gây gổ, lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt người lái đò.
Thác đây từ rất xa đã nghe thấy âm thanh hãi hùng ghê rợn của nước. Âm thanh ấy
khi thì như “oán trách gì"rồi lại như van xin", rồi lại như khiêu khích, giọng
“gằn và chế nhạo". Một câu văn ngắn mà đủ các cung bậc âm thanh của tiếng thác vừa
thể hiện vốn từ phong phú vừa thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế của tác giả.
Không chỉ như vậy âm thanh của thác nước còn được so sánh âm thanh “ rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Bằng
nghệ thuật so sánh kết hợp với liên tưởng mở rộng nhà văn Nguyễn Tuân đã giúp
người đọc nnghe thấu được những âm thanh đa dạng của thác nước Sông Đà từ đó
khắc họa tính cách hung bạo của con sông.
Với việc sử dụng những động từ mạnh: giống nổ lửa, phá tuông, gầm thét, cháy bùng
bùng khiến câu chữ như đập mạnh vào giác quan người đọc. Từ đó tính chất hung bạo
của con ng như hằn lên nổi lên thành hình thành khối đang gào thét trong muôn vàn
âm thanh. Cảnh vật cũng như náo động, chuyển động qua hàng loạt ngôn từ nhân hóa.
Lời văn cũng thể hiện sự liên tưởng tài hóa lối chơi ngông trong cách nói của
Nguyễn Tuân . Trong ngũ hành, thủy hỏa vốn hai yếu ttương khắc với nhau,
dân gian câu kỵ nhau như nước với lửa". Vậy đây Nguyễn Tuân lại dùng
lửa để tả ớc, lấy núi rừng để tả dòng sông từ đó làm nổi bật sự tương giao về sức
mạnh của những hiện tượng tự nhiên. Tiếng thác nước như được phóng to lên hết kích
cỡ giống như bản nhạc của thiên nhiên các nhạc khí đều bừng bừng đỉnh điểm
của một cơn phấn khích mạnh mẽ man dại. Những âm thanh cuồng loạn như thanh
viện hỗ trợ làm cho sự giận dữ của nước sông như tăng lên gấp bội. Chúng va đập vào
vách đá tạo nên một sức mạnh hoang dại ghê gớm khủng khiếp, sức mạnh hoang dại
ấy của Sông Đà mang đến cho người đọc cảm giác sợ hãi như phải chứng kiến trận
động đất chấn động khiến núi lửa phun trào hay một cơn đại hồng thủy với sóng thần
cao ngất.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Bằng biện pháp nghệ thuật so nh liên ởng tài hoa độc đáo cách dùng động từ
mạnh nhà văn Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên chân dung của con sông Đà hung hãn
quái dị và đáng sợ.
+ Ấn tượng về sự sợ hãi chết chóc được tạo ra rất đoạn văn nói về những cái
hút nước. Về hình thù giống như cái giếng tông thả xuống để chuẩn bị làm
móng câu. Về âm thanh ớc đây thở kêu như cửa cống cái bsặc, kêu ặc ặc
như tiếng rót dầu sôi. Với cách dùng từ tượng thanh “ ặc ặc", nhà văn Nguyễn Tuân đã
khiến người đọc như được nghe thấy âm thanh của một con thủy quái khổng lồ đang
bị bóp cổ. Điều đó đã khiến chúng ta sởn gai ốc khi nghe cái âm thanh quái lạ của cái
hút nước này.
Sự chết chóc hiện ra khi nhà văn so sánh trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang
quay lừ lừ những cánh quạ đàn", rồi tường thuật những thuyền đã bị cái hút
hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm đi ngầm dưới
lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới".
Thay kể lại nỗi sợ hãi, Nguyễn Tuân đã bắt người đọc phải chiêm nghiệm tự mình
phải trải qua nỗi sợ hãi khi nhà văn nhấn mạnh cái dữ dội ấy qua góc nhìn điện ảnh.
Ông hình dung một nhà quay phim nào đó dũng cảm dám ngồi trên chiếc thuyền
thúng cùng với máy quay, để cái hút nó hút cả thuyền, cả người và máy quay xuống tít
đáy thế rồi quay ngược ống kính lên thu ảnh. Cái thước phim màu quay tít ấy đã
truyền cảm giác sợ hãi đặc biệt cho người đọc. giống như chúng ta đang sợ hãi ghì
chặt lấy mép ghế khi phải ngồi xem cái cảnh tượng hãi hùng của một thước phim 3D.
Với phong cách viết tài hoa kết hợp với vốn kiến thức uyên bác Nguyễn Tuân đã tạo
ấn tượng mạnh mẽ mạnh vào giác quan người đọc một hình ảnh ddội đến khủng
khiếp khi miêu tả những hút nước của sông Đà.
Không chỉ dữ dội ở diện mạo, con sông Đà còn dữ dội và hung bạo cả ở sâu trong tâm
địa. Người ta nói tri nhân tri diện bất tri m", bởi thế với đặc điểm này Sông Đà đã
thực sự trở thành một kẻ thù nham hiểm đối với con người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Điều đó thể hiện qua những trùng vi thạch trận dưới lòng sông. Đá Sông Đà một
đạo quân thiện chiến được tương trợ bởi những boongke chìm những pháo đài nổi.
Với những thạch trận nham hiểm dữ dội, Sông Đà đã quyết tiêu diệt hết thảy các
thủy thủ và thuyền trưởng trên sông.
Những trùng vi thạch trận trên Sông Đà như những trận đồ bát quái với nhiều cửa tử
chỉ duy nhất một cửa sinh. ng đầu bày ra năm cửa trận trong đó tới 4
cửa tử mà chỉ có một cửa sinh duy nhất, cái cửa sinh nằm lập lờ nơi phía tả ngạn sông.
Vòng thứ hai lại ng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh chúng
chuyển mãi qua phía bhữu ngạn. Vòng thứ ba thì cả hai bên gần tả hữu bờ sông đều
là luồng chết, cửa sinh duy nhất nằm ở giữa hòn đá hậu vệ của con thác.
Mỗi hòn đá trên Sông Đà đều thiện chiến liều mạng và nhiệm vụ riêng. Chúng chia
ra làm hàng tiền vệ hậu vệ, chúng dàn hàng ngang để chặn đánh đòi ăn chết con
thuyền muốn vượt. Đá đây hàng ngàn năm vẫn mai phục kiên nhẫn bền bỉ dưới
lòng sông. Cứ thấy con thuyền nào đi qua như một đám lưu manh ngỗ ngược
hung hãn, những hòn đá lại giáng tai họa cho những con thuyền trên sông. Chúng nhất
tề nhổm cả dậy vồ lấy thuyền. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng như muốn khắc sâu cho
người đọc ấn tượng về những hòn đá sông Đà nên ông đã không chỉ thổi hồn còn
tạo ra diện mạo cho từng viên đá. đá mặt thằng nào cũng nhăn nhúm, méo mó,
ngỗ ngược. Với nghệ thuật nhân hóa, Nguyễn Tuân đã làm sống dậy một cách dữ dội
hình thù của những viên đá vô tri: “ một hòn trông nghiêng thì y như đang hất hàm hỏi
con thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút
thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào."
Sự kết hợp giữa những trùng vi thạch trận với sóng nước Sông Đà đã tạo nên chân
dung loài thủy quái khổng lồ hung hãn bạo ngược cùng nham hiểm xảo quyệt.
như một hung thần với một sức mạnh hủy diệt ghê gớm. Trong cuộc chiến với
người lái đò, Sông Đà đã giở ra đủ mọi mánh khóe mưu ma để đánh lừa con thuyền
vào thế trận đã bày sẵn hướng người lái đò vào những cửa tử.
Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích, giữa lòng sông thì lại tỏ ra hở để dụ con
thuyền theo vào để rồi bất ngđánh khuýp vu hồi, khi giáp tgiở mọi ngón
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
đòn hiểm ác như đánh đòn âm, đòn tỉa, đá trái, thúc gối vào bụng vào hông, tóm thắt
lưng, bóp chặt bộ hạ… vừa đánh vừa hò la vang trời để áp đảo tinh thần đối phương.
Dưới con mắt nhìn của Nguyễn Tuân hầu như tất cả những thuộc về sông Đà đều
dữ dội. Gió thì gùn ghè suốt năm như lúc o cũng muốn đòi nợ xuýt bất cứ con đò
nào tóm được trên sông. Cát Sông Đà thì đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vết
hà, đục thủng đáy và mạn dưới con thuyền.
Với lời văn góc cạnh câu văn giàu tính tạo hình lại kết hợp với các động từ mạnh, lối
von ẩn dụ tượng trưng tác giả đã những liên tưởng bất ngờ thú vị về sự khôn
ngoan mưu trí hiểm ác của con Sông Đà. thực sự một kẻ thù số một trong cuộc
đấu trí, đấu lực với con người.
Qua phân tích trên chúng ta thấy Sông Đà vừa mang vẻ đẹp hùng dữ dội vừa hung
bạo và thực sự đã trở thành một loài thủy quái nham hiểm độc ác, đúng kẻ
thù số một của con người.
Bên cạnh vẻ hùng hung bạo ng Sông đà còn mang một vẻ đẹp thơ mộng trữ tình.
Điều này được tác giả khắc họa thông qua dáng vẻ và tâm hồn của dòng sông.
Dưới con mắt của Nguyễn Tuân dòng Sông Đà giống như một cô gái trẻ trong dáng vẻ
diễm lệ yêu kiều.
Khi nhìn từ trên cao nhà văn Nguyễn Tuân cảm nhận Sông Đà tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
hoa gạo tháng hai cuồn cuộn khói i Mèo đốt ơng xuân".Nhà văn Nguyễn
Tuân đã có cách dùng từ thật độc đáo:Từ “áng"vốn từ thường được đi liền với tác
phẩm văn học lớn nhưng đây nvăn lại dùng từ “áng"để miêu tả dòng Sông Đà .
Bằng cách này Nguyễn Tuân đã khiến người đọc cảm nhận dòng Sông Đà giống như
một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ thiên nhiên ban tặng cho con người. Hơn nữa
tác giả lại cách kết hợp từ cùng thú vị. Từ áng"lại đi liền với “tóc"và “tóc’’ đi
liền với “trữ tình", cách kết hợp này cho ta thấy dòng Sông Đà đẹp như một gái
Tây Bắc với mái tóc dài duyên dáng đang thả dài trong ơng khói. Cách viết của tác
giả còn gợi lên một dòng sông vừa mang dáng vẻ yểu điệu trong những sắc màu, vừa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
mang cái huyền ảo mềm mại trong khói sương của những dòng sông từng xuất hiện
trong ca dao:
Dòng sông như dải lụa đào.
Sông Đà còn rất đẹp với sắc màu của nước thay đổi theo mùa. “Mùa xuân dòng xanh
ngọc bích". Màu ngọc bích màu vừa sắc vừa ánh sáng, thứ ánh sáng mát dịu
quyến toát ra từ bên trong. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
một người bầm đi rượu bữa". Chính sự thay đổi màu nước ấy đã khiến dòng sông
luôn luôn mới mẻ. Trên sông còn những con thuyền đuôi én lướt trên sông,
những con dầm xanh, anh “bụng trắng như bạc rơi thoi"quấy vọt lên mặt
nước.
Tất cả đem đến cho Sông Đà một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa huyền ảo lại rất duyên
dáng dịu dàng giàu chất thơ.
Qua nhiều lần đi thực tế Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã cảm nhận dòng sông như
một cố nhân. Cảnh sông nước êm đềm đã khơi gợi lòng người bao ý tình lãng mạn.
Nhà thơ Tản Đà đã từng lấy tên núi tên sông làm bút danh thì cảm nhận: Dải sông
Đà bọt ớc lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình."Còn Nguyễn Tuân, ông thấy
dòng sông như một người tình nhân chưa quen biết. Rồi lúc Nguyễn Tuân lại thấy
Sông như một Cố nhân. Hai chữ cố nhân thật khiến người ta bùi ngùi bao cảm xúc. Đó
là người bạn tâm giao, một người bạn khi gần thì dạt dào cảm xúc khi xa thì muôn
vàn nhung nhớ.
Giọng văn của tác giả ở đây bỗng trở nên tươi tắn lạ thường khi nói đến Sông Đà: “ bờ
Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn ơm bướm trên Sông Đà. Chao ôi! Trông con
sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.
Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, đằm đằm ấm m như gặp lại cố
nhân". thể nói nhà văn đã lồng ảnh vào cảnh, tình o tình đtnhận với chính
mình về nỗi đắm say, phải lòng trước vẻ đẹp duyên dáng tuyệt mỹ của sóng nước Đà
giang và mây trời Tây Bắc, để cảm xúc thăng hoa, để thi ca lai ng, để dòng Sông Đà
hiện lên với cảnh sắc đắm say lòng người.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Sắc màu cổ tích được thể hiện trong một đoạn văn vừa đặc sắc vừa giàu chất thơ.
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà…"Câu văn mở đầu toàn thanh bằng, nhẹ nhàng và êm ái.
Như thểchứa đựng bên trong lời tự tình của con sông, tạo tâm thế của một cuộc du
ngoạn, gợi hình ảnh con đò lặng lẽ trôi. đưa người đọc vào thế giới cổ tích, vào
không gian yên ắng lặng lờ thời tiền sử xa xưa.
Ghềnh thác đã lùi xa, dòng sông bỗng dịu dàng mê đắm, cảnh ven sông trở nên lặng lờ
thơ mộng. “ Hình như từ đời Lý, Trần, đời Lê quãng sông này cũng chỉ lặng lờ đến thế
mà thôi".
Cái độc đáo của nhà văn khi miêu tả bờ sông chỗ, người ta thường lấy cái cụ thể
để so sánh m cái trừu tượng hoặc ít cụ thể hơn. Nhưng đây Nguyễn Tuân lại
ngược lại ông đã lấy cái trừu tượng để so sánh làm mờ cái cụ thể: bờ sông hoang dại
như một btiền sử. Bsông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Điều này
khiến người đọc như chìm sâu hơn vào ảo giác, như trở về thời ấu tvới câu những
chuyện “ngày xửa ngày xưa"củacủa mẹ. Ta hiểu sao đây tác giả lại thèm nghe
một tiếng còi sương. Phải chăng nhà văn Nguyễn Tuân đang thèm muốn một âm
thanh để thoát khỏi cái “lặng tờ"của cảnh vật? Chính điều này đã khiến cả cảng vật và
con người đều như đang chìm vào không gian đượm màu cổ tích.
Qua phân tích trên quả thật chúng ta thấy dòng sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp hùng
dữ dội còn một vẻ đẹp thơ mộng trữ tình. Với những câu văn tả sông Đà nới
đồng bằng nhà thơ như muốn đề thơ vào sóng nước Đà giang.
Với Nguyễn Tuân, sông Đà mang một vẻ đẹp hoàn mĩ, trở thành một sinh thể sống
động, hồn.Dòng sông vừa hùng dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình. Phải một con
người yêu mến tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước , nhà văn mới thể
miêu tả được Sông Đà như thế. thể nói , qua lời văn ca ngợi sông nước Đà giang,
ta thấy được sự gắn của Nguyễn Tuân đối với quê hương đất ớc.Tác phẩm
Người lái đò sông Đà tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân . Tác giả
quan niệm cái đẹp phải cái gây cảm giác mạnh, đập mạnh o cảm giác người đọc.
Cho nên đẹp thì phải đến mức tuyệt mỹ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp. Sông Đà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
đúng thVàng mười của thiên nhiên Tây Bắc nhà văn luôn khao khát kiếm tìm
và thể hiện trong các sáng tác của mình.
| 1/95

Preview text:

Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Dàn ý phân tích hình tượng con Sông Đà I. Mở bài
● Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân: là tác giả yêu cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp,
có phong cách nghệ thuật độc đáo, uyên bác, tài hoa.
● Tác phẩm: là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân.
● Hình tượng con sông Đà chính là thứ vàng mười của thiên nhiên mà Nguyễn Tuân tìm kiếm. II. Thân bài
1. Sông đà “hung bạo”
● Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông ...”.
● Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng
ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”
● Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn
độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
● Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng
“thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô
tô ...mượn cạp ngoài bờ vực”,
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
● Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo
to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van
xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một
ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
● Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai
phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”,
“đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
● Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh,
một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có
ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm,
mẹo lược, biến hóa khôn lường.
- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác
hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người
2. Sông Đà “trữ tình”
- Khi từ tàu bay nhìn xuống:
● Sông Đà “”tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình ... đốt nương xuân ”
● Sông đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.
- Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:
● Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan
sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
● Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch,
có vẻ đẹp Đường thi.
- Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:
● Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con
hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
● Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”
- Nhận xét: Sông Đà trữ tình như một cố nhân, một tình nhân.
- Như vậy: hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua
hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc. III. Kết bài
● Nêu cảm nhận về hình tượng Sông Đà.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
● Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của
nhiều lĩnh vực, xây dựng hình tượng thành công.
● Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người
muốn dùng văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Mẫu 2 I. Mở Bài
- Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống.
- Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là
tùy bút “ Người lái đò sông Đà”.
- Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và
ca ngợi người lái đò giản dị mà kỳ vĩ trên dòng sông. II. Thân Bài
1. Giới thiệu chung.
- Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15
bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc.
- Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến
chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng
đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây
dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát
hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã
được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
- Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc họa
những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình
ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình.
- Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con
người lao động mới : chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình
ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng
vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.
2. Phân tích hình tượng dòng sông Đà.
- Trước hết, con sông đà được Nguyễn Tuân miêu tả là dòng sông hung bạo, dữ dội.
Khi hung bạo, sông Đà là kẻ thù số một sẵn sàng cướp đi mạng sống con người, có
tâm địa độc ác như người dì ghẻ. Để khắc họa tính cách của sông Đà, tác giả đã dựng
lại khúc sông nguy hiểm. Đó là đoạn cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành: chẹt
lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đó là quãng Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá,
đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây. Lại một đoạn sông khác,
sông Đà là cái hút nước xoáy tít. Có những thuyền đã bị nó hút tụt xuống, thuyền
trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi đến mười phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh
sông dưới..Nhưng dữ dội nhất là ở những thác đá. Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ dội,
nham hiểm của sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh.
Chưa thấy sông nhưng người ta đã bị đe dọa bởi tiếng thác nước nghe như oán trách gì,
rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng nghe gằn mà chế nhạo. Tác giả đã
dựng lại cuộc thuỷ chiến giữa sông Đà và người lái đò để lột tả cho được tính hung
bạo của nó và tài nghệ của người lái đò. Thác đá được xếp thành từng tuyến mà nhà
văn gọi là thạch trận, nhằm ăn chết cái thuyền đơn độc. Ở tuyến một, thác đá mở ra
năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Ở tuyến hai,
tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên phía hữu
ngạn. Ở tuyến bã, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa. Người
lái đò phải nhắm đúng luồng sinh để vượt qua.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Bên cạnh tính cách hung bạo, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân con sông Đà lại rất trữ tình,
gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người. Khi trữ tình, sông Đà hiền hoà, mềm mại,
huyền ảo như mái tóc của một phụ nữ kiều diễm: con sông tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mây mù khói núi Mèo nương xuân.
Không chỉ đẹp ở hình dáng, sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, mà tác giả đã bao lần
dày công quan sát mới nói hết được vẻ độc đáo ấy: Mùa xuân dòng sông xanh ngọc
bích (nghĩa là một màu xanh trong và sáng); mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như
mặt người bầm đi vì rượu bữa. Đặc biệt là không khí hoang dại, tĩnh lặng : Bờ sông
hoang dại như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đề
lột tả không khí đầy thơ ấy.Nguyễn Tuân đã tả đàn hươu ngẩng đầu ngơ ngác mơ một
tiếng còi sương, và cái nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu,
gợi tâm sự của người tình nhân chưa quen biết ! Lúc này, không thấy đâu con sông Đà
diện mạo và tâm địa độc ác, mà chỉ thấy tình cảm của dòng sông đối với con người
như một cố nhân, xa thì thấy nhớ thương, gặp lại thì thấy mừng vui như nối lại chiêm
bao đứt quãng. Còn con sông lại mang bao rung động yêu thương như nhớ những hòn
đá xa xôi để lại nơi thượng nguồn. Khi tả con sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã sử
dụng những câu văn nhẹ nhàng, êm ái. Câu ngắn, vị ngữ diễn tả trạng thái bình lặng,
để lại trong lòng người âm hưởng mênh mang, thơ mộng. III. Kết bài
Trong tùy bút “ Người lái đò sông Đà”, nhà văn Nguyễn Tuân đã rất thành công trong
việc sử dụng nhiều thuật ngữ của các ngành nghề khác nhau nhằm miêu tả vẻ hùng vĩ,
thơ mộng của con sông Đà và mở ra bao liên tưởng độc đáo, bất ngờ trong tâm trí
người đọc. Qua đó, ta thấy được tài hoa, vốn văn hoá uyên thâm và phong cách nghệ
thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Đồng thời ta còn thấy được cảm hứng ngợi ca, tự hào
về chất vàng thiên nhiên, về giang sơn gấm vóc Việt Nam của tác giả. Mẫu 3 I. Mở bài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân: “nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp” - có phong
cách nghệ thuật độc đáo, uyên bác, tài hoa. •
Tác phẩm Người lái đò sông Đà: là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân. •
Hình tượng con sông Đà chính là thứ vàng mười của thiên nhiên mà Nguyễn Tuân tìm kiếm. II. Thân bài
1. Sông Đà hung bạo
- Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai
đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”.
- Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ
mới có mặt trời”, chỗ “vách đá... như một cái yết hầu”
- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn,
lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
- Ở quãng Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”,
chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô
tô...mượn cạp ngoài bờ vực”,
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần: •
Từ xa, âm thanh thác đá “còn xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại,
réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc
“van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như
một ngàn con trâu... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước). •
Đến gần, đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai
phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”,
“đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa” •
Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh,
một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
cửa và 1 cửa sinh (giữa), gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo
lược, biến hóa khôn lường.
=> Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái - “dòng thác hùm beo
đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”.
2. Sông Đà trữ tình
- Khi từ tàu bay nhìn xuống: •
“Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình... đốt nương xuân” •
Nước sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.
- Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông: •
Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan
sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”. •
Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch,
có vẻ đẹp Đường thi.
- Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu: •
Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con
hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”. •
Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”
=> Sông Đà trữ tình như một cố nhân.
- Như vậy: Hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua
hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc. III. Kết bài
- Nội dung: Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con
người muốn dùng văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
- Nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của nhiều
lĩnh vực, xây dựng hình tượng thành công.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà Mẫu 4 I. Mở bài
Giới thiệu đôi nét về nhà văn Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà. •
Dẫn dắt giới thiệu về hình tượng con sông Đà với hai nét đẹp tiêu biểu: hung bạo và trữ tình. II. Thân bài 1. Khái quát chung
- “Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân.
- Tác phẩm là thành quả của chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng
lớn, xa xôi. Vừa thỏa mãn thú phiêu lãng vừa để tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và “chất
vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu
trên miền sông núi hùng vĩ và thơ mộng đó. 2. Phân tích a. Sông Đà hung bạo
- Vách đá sông Đà “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao
chẹt chặt lấy lòng sông hẹp: •
“Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời…” •
Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném
hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách •
“Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào
trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
=> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng.
- Thác nước sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt”. Hình ảnh con sông Đà cuồng nộ,
dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
- Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái
bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc
hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác”. Lối so sánh độc đáo khiến con
sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng
bố tinh thần và uy hiếp con người.
- Âm thanh thác nước sông Đà: •
Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi
thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá. •
Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu
khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết
cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh
điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “Nó rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa rừng lửa
cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Sự liên tưởng vô cùng phong
phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì
âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa
để tả nước, lấy rừng để tả sông.
- Đặc biệt nhất là thạch trận sông Đà: Cả một chân trời đá mặt hòn nào trông cũng
“ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Với ba trùng vi thạch trận đều vô cùng nguy hiểm.
=> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”. b. Sông Đà trữ tình
- Dòng sông Đà không chỉ có những "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên
sông đá" mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn
xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”.
- Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
“Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”. •
Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”.
Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
- Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì
gợi cảm: Lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”.
- Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: “Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa
lặng tờ như từ Lí, đời Trần, đời Lê...”
=> Sông Đà hiện lên với nét đẹp thơ mộng. III. Kết bài
Cảm nhận về vẻ đẹp của con sông Đà, tài năng nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
Phân tích sông Đà học sinh giỏi - Mẫu 1
Nói đến Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.
Cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ.
Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành tựu kể cả trước và sau
cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một trong những
sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng
thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.
Ngay ở những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ sự hung bạo của sông
Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng mà bờ sông
“dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ
có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt
trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”, cái lạnh của từng lớp da
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
thịt, của sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây. Khi đi qua quãng này, người ta cảm
tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái
tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng một loạt hình ảnh miêu tả, Nguyễn
Tuân đã đẩy người đọc từ phố xá đô thị về khung cảnh hoang sơ đến đáng sợ của thiên
nhiên sông nước. Người ta thấy hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa
hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.
Đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, có thể kể tên đến năm mươi cái ghềnh nhưng sợ hãi
nhất là ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp, nhịp văn nhanh mạnh khiến
người đọc không khỏi hãi hùng trước những âm thanh của sóng, gió, nước, đá. Các từ
láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng
khiếp của nơi đây. Sông Đà được miêu tả như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những
người trên sông. Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.
Nhiêu đó vẫn chưa kể hết những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dụng
một loạt thủ pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết cái vẻ hung bạo của hút nước
sông Đà. Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên
má cô gái nhưng nó lại không hề duyên dáng, dễ thương, thay vào đó nó có thể lôi
tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác. Không chỉ vậy, Nguyễn
Tuân còn so sánh những cái hút nước với những cái giếng bê tông thả xuống sông để
chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh này vừa gợi độ sâu hun hút của những cái
xoáy nước vừa khiến người đọc khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng sợ hãi hơn khi đọc
những câu văn miêu tả âm thanh của những cái hút nước. “Nước ở đây thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc”. Nước không chỉ dồn về nhiều và nhanh mà còn ặc ặc lên như
mới rót dầu sôi vào. Từ láy “ặc ặc” gợi cảm giác sông Đà giống như một loài thuỷ
quái bị bóp chặt yết hầu đang quằn quại giãy giụa. Sự hung bạo này khiến nhà văn
liên tưởng đến hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào đó mang máy quay ngồi trên
thuyền thúng xuống tận cái hút sông Đà rồi từ đó lia ngược ống kính để ghi lại cảnh
tượng ghê sợ: một cái giếng như xanh toàn bằng thuỷ tinh như sắp vỡ tan đổ ụp xuống
cả người, cả máy quay phim. Con thuyền xoáy tít, những thước phim màu cũng quay
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
tít. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem
một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.
Sự hung bạo của sông Đà còn được miêu tả qua những cái thác nước. Nhà văn hướng
người đọc chú ý vào âm thanh của chúng và miêu tả lần lượt theo trình tự từ xa đến
gần. “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng tâm địa và diện mạo thứ “kẻ thù số một
của con người” đã dần hiện ra. Chúng vẳng tới bằng âm thanh “réo gần mãi lại réo to
mãi lên”. Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”,
giọng gằn mà “chế nhạo”. Cách kết hợp khéo léo giữa so sánh và nhân hoá này đã
khiến sông Đà hiện lên với một tâm địa phức tạp. “Thế rồi nó rống lên”, âm thanh
được phóng to hết cỡ giống như đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại.
Nguyễn Tuân còn so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
Và để tăng thêm sự hung dữ của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút của mình
vào miêu tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi cảm giác đá sông Đà
nhiều vô kể. Những tảng Đá sông Đà đã được Nguyễn Tuân thổi hồn vào đó với từng
tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng
còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.
Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông hung bạo này chẳng khác gì kẻ thù số một
của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung bạo trôi qua, nó lại hiện lên với cả
vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin.
Từ trên máy bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Với việc so sánh sông Đà “như một
áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến dòng sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm của một
người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ thấy chữ “áng” hay được dùng để chỉ những
tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân đã dùng để chỉ sông Đà. Có thể thấy
trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước. Tác giả đã quan sát
dòng sông ở những không gian và thời gian khác nhau. Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm
đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng những so sánh độc đáo sông Đà
hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đây ta cũng thấy được sự hiểu biết sâu rộng
cũng như khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.
Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm sông Đà”. Câu văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo nên nhịp văn hối hả, mau lẹ.
Rồi khi nhìn từ trên thuyền xuống, sông Đà mang dáng vẻ “lặng tờ”, tĩnh lặng tuyệt
đối. Sự tĩnh lặng của dòng sông ẩn chứa trong đó là một sức sống dạt dào. Nhà văn
còn dùng những so sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn
đã sử dụng những khái niệm trừu tượng để miêu tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà khiến
sông Đà hiện ra không chỉ là dòng không của không gian mà còn là dòng sông của
thời gian. Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gợi ra cái vẻ tĩnh lặng của sông
Đà và sự thanh thản trong tâm hồn con người. Giữa cái khung cảnh thơ mộng ấy nhà
văn nghe thấy một tiếng còi sương - tiếng còi xúp lê của một chuyến tàu đường sắt
Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu, đó là âm thanh của một cuộc sống hiện đại, đủ đầy.
Có thể thấy những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một
đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cảnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm hồn con người.
Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo của mình, Nguyễn Tuân đã
đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo
và trữ tình của sông Đà.
Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn của
Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác phẩm một lần
nữa khẳng định tài năng bậc thầy của Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn từ vừa
giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước mà ông gửi gắm trong các tác phẩm của mình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 2
Sông Đà có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân. Thể
hiện những nét đặc trưng phong cách của ông.Đặc biệt là qua hình tượng con sông Đà
Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy một nhà thám hiểm, một nhà văn, một nhà thơ,
một nhà ngôn ngữ đại tài. Ở mỗi trường đoạn khác nhau, vẻ đẹp của sông Đà lại hiện
lên với những nét riêng biệt, đầy sống động, đầy sức sống.
Người Lái Đò Sông Đà nói riêng cũng như tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả
chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm
1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang dấy lên phong trào tình nguyện đến
những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Đoạn trích Người lái đò sông Đà có lẽ là trích đoạn hay nhất, diễn tả được nhiều nhất
vẻ đẹp của sông Đà. Từ đầu đến cuối tác phẩm hình ảnh sông Đà hiện lên với khuôn
dung, trạng thái khác nhau, vô cùng phong phú độc đáo. Có lẽ Nguyễn Tuân đã phải
dày công nghiên cứu, tìm tòi và quan sát kĩ lưỡng mới có thể đem đến cái nhìn hoàn
chỉnh, đẹp đẽ về sông Đà đến như vậy.
Dòng sông Đà hiện lên trong trang văn Nguyễn Tuân trước hết mang dáng vẻ của sự
hung bạo, dữ dội, nó dường như chính là kẻ thù số một của con người. Sông Đà lạnh
lẽo, thâm u, mà khi người ta đứng dưới đó dường như không cảm nhận đường ánh
nắng lọt xuống, cái lạnh thấu xương dường như xâm chiếm vào những người ngồi trên
thuyền. Đặc biệt hình ảnh so sánh: “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết
hầu"đã diễn tả tận cùng sự chật hẹp của dòng sông, và những hiểm nguy rình rập con
người khi mùa nước lên. Sự độc ác đó tiếp tục được Nguyễn Tuân nhấn mạnh ở những
phần tiếp theo như cái hút nước chết người, chỉ rình người lái đò đến đó hút vào, rồi
cho tan xác ở đoạn sông phía dưới. Những người lái đò không ai dám đến gần:
“Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo
nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu…".
Nhưng sự hung bạo của con sông Đà được thể hiện rõ nhất chính là trong trận chiến
với người lái đò trên sông, với trùng trùng những trùng vi thạch trận được bố trí vô
cùng bài bản. Sự hung bạo của chúng được dự báo ở tiếng thác nước từ phía xa.
Chúng khi oán trách, khi van xin, khi lại gầm rống lên khiến cho bất cứ ai cũng phải
sợ hãi. Và dần dần khuôn mặt của chúng mới lộ diện. Ở trùng vi thạch trận thứ nhất,
những khối đá với muôn vàn khuôn mặt khác nhau, méo mó, rúm ró, tàn ác vô cùng
ngỗ ngược, dàn đan thế trận. Trong thế trận đó có đến bốn cửa tử nhưng chỉ có duy
nhất một cửa sinh. Không chỉ vậy, đá còn phối hợp với sóng, với nước tạo nên những
cơn cuồng phong dữ dội nhằm nhấn chìm con thuyền. Ở trùng vi thạch trận thứ hai,
cửa tử cứ thế nhiều mãi lên, “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông
đá"và lũ thủy quân xô như trực nuốt chửng con thuyền. Khí thế của chúng vô cùng
mạnh mẽ và hung hãn. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng Ít cửa ra vào, “bên phải bên trái
đều là luồng chết cả", chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con
thác". Với sự bày binh bố trận vô cùng linh họa, sông Đà chỉ với mục đích duy nhất ấy
là lấy mạng của những người đi thuyền. Đồng thời những câu văn miêu tả này cũng
cho thấy nghệ thuật dùng từ tài tình, sự quan sát tinh tế, nhạy bén của Nguyễn Tuân.
Nhưng đẹp đẽ nhất, lưu lại nhiều ấn tượng trong lòng chúng ta nhất không phải con
sông Đà hung bạo kia, mà chính là dòng sông hiền hòa, thấm đẫm chất trữ tình. Ở một
góc nhìn khác, từ trên cao trông xuống sông Đà thật dịu dàng, đằm thắm: con sông Đà
tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân". Đoạn văn quả như một khúc nhạc nhẹ nhàng, êm ái, lại tựa như một bức tranh
thủy mặc. Nét vẽ đơn sơ, chấm phá kết hợp với những làn sương khói khiến cho bức
tranh đó càng trở nên mơ hồ, huyền ảo hơn. Nhìn ngắm sông Đà ở những thời điểm
khác nhau, ông còn phát hiện, mỗi một mùa sông Đà sẽ mang trong mình những dấu
ấn riêng. Và dấu ấn đó được thể hiện qua màu sắc của nước thay đổi theo các mùa
trong năm. Mùa xuân nước xanh màu ngọc bích, lấp lánh, trong trẻo, dường như có
thể soi gương được. Nhưng đến mùa thu, mùa nước lũ, với lượng phù sa đổ về, sông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Đà lại mang một diện mạo khác hẳn: “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì
rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
Thật nhạy cảm mà cũng rất đỗi tinh tế, bằng sự kết hợp giữa sự tìm tòi, khám phá với
tình yêu thiên nhiên sông Đà đã được Nguyễn Tuân cảm nhận một cách trọn vẹn và đầy đủ nhất.
Không chỉ cảm nhận sông Đà là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ, mà ông còn coi
sông Đà như một con người, đặc biệt là một cố nhân: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà,
chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng
giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi
lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân". Bờ bãi sông Đà
gợi nhắc ta nhớ đến thế giới đường thi cổ kính, lại vừa gợi nhớ đến thế giới cổ tích
đầy diệu kì. Nỗi nhớ sông Đà không chỉ đơn thuần là nhớ tới một địa danh, một nơi đã
từng đi qua, mà nỗi nhớ ấy như dành cho một người cố nhân, người bạn cũ. Bởi vậy
mà càng trở nên thâm trầm, sâu sắc hơn.
Sông Đà mang trong mình vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, hoang sơ như thời tiền sử. Cảnh
đẹp quá nên đã gợi cảm hứng cho thi ca bao đời. Vẻ đẹp ấy đã cùng với sông Đà chảy
qua không gian, thời gian, và đặc biệt là chảy qua cả những áng thơ ca bao đời, thơ
Nguyễn Quang Bích rồi Tản Đà… để trở thành bất tử. Trong cái nhìn của thi sĩ Tản
Đà, Sông Đà đã trở thành “một người tình nhân chưa quen biết".
Sông Đà trong những trang văn của Nguyễn Tuân không đơn thuần là một cảnh trí
thiên nhiên tuyệt mĩ, đặc sắc. Mà hơn hết thông qua sông Đà ông thể hiện tình yêu quê
hương sâu sắc của mình. Đồng thời cũng cho thấy sự chuyển biến trong quan niệm
nghệ thuật của ông. Ông tìm thấy cái đẹp, cái mĩ ở đây, tại cuộc sống, thời điểm này
chứ không phải tìm về quá khứ của một thời vang bóng.
Phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 3
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật muôn đời. Đặc biệt trong
những năm miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhiều nhà thơ nhà văn
đã đến với nơi đây Để tìm cho mình Những nguồn cảm hứng mới trong đó có Nguyễn
tuân. Ông đã thăng hoa trên chính mảnh đất này với tập "Tùy bút Sông Đà"với linh
hồn là bút chì người lái đò Sông Đà. Bài văn Được dệt nên bằng thứ ngôn ngữ điêu
luyện, Những đoạn tả đèo cao vực sâu, thác nước dữ dội hòa quyện kết hợp cùng về
đẹp thiên nhiên hùng vĩ thơ mộng trữ tình. Và lấp lánh giữa bao vẻ đẹp đó chính là
hình ảnh con Sông Đà mang nét hung bạo, dữ dội mà hùng vĩ, đầy cá tính.
Vẻ đẹp sông Đà trước tiên được thể hiện ở dòng chảy của con Sông Đà. Như lời đề từ
ngay phần mở đầu bài văn "Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc Bắc lưu". Mọi
con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ riêng con sông Đà là theo hướng Bắc mà chảy.
Chính đặc điểm thú vị này đã tạo nên nét cá tính rất riêng, rất ngang ngược và đầy độc đáo cho Đà giang.
Vẻ hùng vĩ, dữ dội của dòng sông Đà còn biểu hiện ở những vách đá đầy hiểm trở và
đáng sợ đối với con người. Tác giả miêu tả cụ thể, sống động với nhiều chi tiết đặc sắc
những vách đá hẹp và cao chót vót "dựng vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt
trời"gợi cảm giác âm u, lạnh lẽo đến mức "đang mùa hè mà cũng thấy lạnh".
Qua cách miêu tả của tác giả người đọc Được truyền một cảm giác chân thực Đến
mức như đang đứng ở ngay trước mặt con Sông Đà ấy, Dường như chính họ cũng cảm
thấy sờn sợn và sợ hãi khi phải qua quãng ấy: "vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như
một cái yết hầu"rồi "cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ nào.. vừa tắt phụt đèn điện". Bằng nghệ thuật miêu tả cùng các biện
pháp tu từ như nhân hóa, so sánh liên tưởng tưởng tượng, Nguyễn tuân Đã khiến
người đọc cảm nhận rõ hơn bao giờ hết sự nguy hiểm của vách đá Sông Đà
Con Sông Đà với vẻ đẹp hùng vĩ được gợi lên qua những nét miêu tả ở quãng mặt
ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm". Câu văn dài, nhiều về các vế móc xích nối lên nhau đặc
biệt nhịp thơ nhanh mạnh kết hợp với các từ động từ mạnh, Từ láy, Nghệ thuật điệp
"xô ", "cuồn cuộn “, "gùn ghè"đã đặc tả bức tranh sông nước quả thật vô cùng chân
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
thực gợi lên một cuộc truy đuổi dữ dội, quyết liệt của sóng nước Sông Đà hòng cướp
đi sinh mạng của bao con người Sông Đà đã phát huy hết sức mạnh của mình nhằm tấn công con người.
Đặc biệt nét hung bạo dữ dội của con Sông Đà được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết ở
hình ảnh những cái hút nước xoáy tít cả đáy với biện pháp so sánh kết hợp với trí
tưởng tượng phong phú của mình, Nguyễn Tuân Đã có những phát hiện vô cùng thú vị
khi miêu tả những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát.
Đó là "Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông", Âm thanh của nước thì được
nhân hoá Lên thành "thở và kêu như cửa cống cái bị sặc". Đặc biệt cách dùng từ độc
đáo "xoáy tít đáy"đã gợi tả một cách cụ thể, ấn tượng những hút nước sâu và nguy
hiểm, mặt sông có những vòng xoáy nhanh và mạnh. Cái cảm giác đầy gay cấn, hồi
hộp khi trèo qua quãng sông ấy "y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh"xuất phát từ
những liên tưởng thật độc đáo và thú vị. Tác giả đặt mình vào vị trí của con người trên
thuyền khi đi qua quãng ấy, sự nguy hiểm còn được Minh họa bằng những dẫn chứng
rất sinh động có những thuyền đã bị cái hút đổ xuống thuyền trồng ngay cây chuối
ngược … tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Để có được những góc nhìn Đầy đủ và đa chiều, tác giả đã mượn góc nhìn điện ảnh để
chuyển lại cho người đọc những cảm nhận Vô cùng chân thực về con Sông Đà,
nguyễn tuân hình dung về một anh quay phim nào dám ngồi vào một thuyền "rồi cho
cả thuyền cả mình cầm máy quay xuống đây cái hồ Sông Đà "rồi nhìn ngược lên"làm
cho hình ảnh về những cái hút hiện lên rõ nét như miệng con thuỷ quái khổng lồ cố
nuốt chửng bất cứ thứ gì đi qua đó. Hình ảnh những cái hút nước được miêu tả cụ thể,
tỉ mỉ từ hình dáng, màu sắc, âm thanh, sự vận động dữ dội. Bằng vốn sống phong phú
và trí tưởng tượng sáng tạo, Nguyễn Tuân đã tô đậm mức độ khủng khiếp của những
cái hút qua hàng loạt các hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo vừa giúp người đọc
hình dung về những cái hút như những hung thần tàn bạo vừa khiến họ cảm thấy ghê
sợ, khó bứt thoát khỏi những ghê người mà ma lực ngôn từ Nguyễn Tuân đã truyền đến cho họ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nét hoang sơ của con sông Đà đã được Nguyễn Tuân khắc họa qua những nét đặc tả
về thác đá. Âm thanh thác nước được cảm nhận từ xa tới gần với thủ pháp nhân hoá
"oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng găng mà chế nhạo"kết hợp với phép so
sánh "rống lên như tiếng 1 ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre
nứa nổ lửa… gầm thét với đàn trâu da cháy bùm bùm". Dòng thác dường như đã mở
hết âm lượng, tiếng thét của thiên nhiên bừng bừng, phấn khích, mạnh mẽ và man dại.
Từ những âm thanh đó, tác giả giúp người đọc cảm nhận được tính cách hung dữ y
như 1 con thuỷ quái khổng lồ với những âm thanh cuồng loạn, khiêu khích.
Đặc biệt tác giả sử dụng phép so sánh với những hình ảnh ở thế hoàn toàn đối lập. Lấy
lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy trâu mộng để tả thác nước như réo, oán trách,
van xin… Cách miêu tả của tác giả rất độc đáo nhờ thủ pháp so sánh kết hợp với lối
viết riêng đã gợi ra nhiều trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Nhờ đó, ta thấy
được, Nguyễn Tuân quả là 1 nhà văn có tầm.
Qua thủ pháp nhân hoá, Nguyễn Tuân đã thổi hồn cho đá, biến chúng thành những
gương mặt với hành động rất “tướng"với chân dung, diện mạo "ngỗ ngược, hòn nào
cũng nhăn nhúm méo mó", hình dáng, phong thái thì "bệ vệ oai phong lẫm liệt"rồi còn
"hất hàm", "thách thức", mỗi lần xuất hiện bóng dáng cái thuyền nào là chúng bèn
"nhổm cả dậy", "vồ", "chặn ngang", “đánh tan","tiêu diệt"cho bằng được cái thuyền.
Thủ pháp nhân hóa đã phát huy tính độ tác dụng để làm nổi bật tính cách đầy hung
bạo độc ác yêu chiến. Hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với nhiệm vụ tiêu
diệt con người. Những hòn đảo ấy trong cảm nhận của Nguyễn tuân là những tên
chiến binh với nhiệm vụ khác nhau nhằm giúp con chuyển vào để tiêu diệt. Chỉ vài
dòng đặc tả thôi cũng đủ khiến nơi đây trở thành nỗi sợ khủng khiếp đối với những kẻ yếu bóng vía.
Đá kết hợp với nước bày binh bố trận thành 3 tuyến tấn công: hàng tiền vệ, tuyến
giữa, boongke chìm và pháo đài nổi. Sóng nước hò la thanh viện Để uy hiếp tinh thần
con người. Sông Đà đã huy động sức mạnh tổng lực của mình "ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo", "Sông nước như thể quân liều mạng", đá trái, thúc gối vào bụng và hông
thuyền", "Đội cả thuyền lên bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông đò".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Qua những dòng văn miêu tả về trận thạch thuỷ sông Đà, Nguyễn Tuân lại một lần
nữa làm người đọc rùng mình trước tâm địa hiểm độc, đáng sợ của con sông Đà.
Binh pháp thần sông thần đá đầy bí hiểm, thạch trận được bố trí thành ba trùng vi. Ở
các trùng vi nhiều cửa tử mà chỉ có một cửa sinh và đặc biệt vị trí của sinh thường
xuyên thay đổi. Đọc đến đây, ta nghĩ ngay đến trận đồ bát quái của Khổng Minh khi
xưa chỉ có điều trận địa nay đã chuyển xuống mặt nước Sông Đà.
Nguyễn Tuân sử dụng hàng loạt thuật ngữ quân sự như binh pháp, pháo đài, cửa sinh
cửa tử, đánh khuýp quật vu hồi, mai phục, trùng vi thạch trận, hậu vệ, boong-ke chìm,
pháo đài nổi…. tạo không khí căng thẳng, kịch tính như 1 trận chiến thực sự giữa con
người và thiên nhiên đã diễn ra hàng bao thế kỷ.
Con Sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp hung bạo dữ dằn kẻ thù số một của con người
mà con sông ấy còn hiện lên với một bức chân dung hoàn toàn đối lập, một nét vẽ
tương phản cùng tồn tại trong một chỉnh thể, chính vì vậy mà nét đẹp của nó càng trở
nên độc đáo ấn tượng, hấp dẫn. Vẻ đẹp trữ tình của con Sông Đà hiện lên dưới nhiều
khía cạnh được Nguyễn Tuân cảm nhận theo những góc nhìn khác nhau.
Con Sông Đà từ trên cao nhìn xuống với hình dáng thướt tha và màu sắc biến đổi vô
cùng phong phú. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống, trông con Sông Đà như “cái dây
thừng ngoằn ngoèo… tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân". Điệp từ tuôn dài cùng với Nhịp thơ nhẹ nhàng như ru như
ngân tạo nên về được Lững lờ thướt tha,đầy chất thơ cho con Sông Đà. Phép so sánh
con sông như một áng tóc trữ tình là một nét nghệ thuật độc đáo mới mẻ. Chính lối so
sánh giàu chất thơ, chất hoạ này vừa giúp phô ra vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm kiều diễm
kiêu sa vừa bộc lộ được chất phong tình hào hoa của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Qua
phép so sánh, sông Đà mang dáng vẻ của 1 người thiếu nữ đầy xuân sắc đang buông
hờ mái tóc làm duyên giữa cánh rừng hoa bồng bềnh màu khói. Bao nhiêu vẻ đẹp
quyến rũ, thơ mộng của đất trời bỗng ùa về thức dậy trong những câu văn của Nguyễn Tuân.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Đà Giang hiện lên với đủ màu sắc biến hoá theo từng mùa. Mùa xuân sông xanh ngọc
bích mùa thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Tác giả
còn so sánh màu xanh ngọc bích của Sông Đà Với màu xanh cánh hiện của sông Gâm
sông lô. Đồng thời, nhà văn còn đặt sông Đà trong dòng chảy lịch sử, ông bày tỏ sự
bất bình trước cách gọi tên đầy lếu láo của bọn thực dân gọi Sông Đà là sông đen.
Đoạn văn không chỉ thể hiện những cảm nhận tinh tế của 1 ngòi bút tài hoa mà còn
bộc lộ được 1 cái tôi đầy uyên bác của nhà văn.
Con sông Đà dưới cái nhìn của 1 người rừng lâu ngày trở nên đầy mới mẻ và gợi cảm.
Với Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như 1 “cố nhân". 2 chữ “cố nhân"vang lên cùng
biết bao tình cảm trìu mến, niềm xúc động của tác giả khi gặp lại sông Đà đã cho thấy
mối quan hệ gắn bó vô cùng sâu nặng, tâm tình, tri kỉ.
Khoảnh khắc mà tác giả phát hiện vẻ đẹp cổ kính của dòng sông, mặt sông loang
loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt, sáng lóe lên 1 màu nắng tháng 3
Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu"( Lý Bạch ). Dòng sông như đang
chảy về từ quá khứ xa xưa mang vẻ đẹp cổ kính như những câu thơ của tiền nhân. Bờ
bãi sông Đà ngập tràn chuồn chuồn, bươm bướm, dệt nên 1 bức tranh rực rỡ sắc màu,
tô điểm thêm cho vẻ đẹp dòng sông.
Bên cạnh việc miêu tả dòng sông, nhà văn còn trực tiếp giãi bày, bộc lộ niềm xúc
động và hạnh phúc của mình khi gặp lại cố nhân. Những câu văn đầy tính nhạc và cảm
xúc: “Chao ôi, trông dòng sông vui như thấy nắng giòn tan sau khi kì mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng". Thán từ “chao ôi"mở đầu câu thơ thể hiện bao niềm
xúc động ngỡ ngàng, trầm trồ,đầy hân hoan mà "đằm đằm ấm ấm "của tác giả khi gặp
lại người "cố nhân "ấy. Cách dùng từ và diễn đạt mới mẻ, đầy ấn tượng "đằm đằm ấm
ấm". Nguyễn tuân với góc nhìn của người ngồi trên thuyền thả trôi trên sông đã cảm
nhận được đầy đủ vẻ đẹp thơ mộng hoang sơ, tĩnh lặng nhưng đầy sức sống của đà
Giang. Câu văn "Thuyền tôi trôi trên sông Đà"là 1 câu toàn thanh bằng gợi âm điệu
nhẹ nhàng dịp trôi êm ả, khoan thai của con thuyền đồng thời gợi hình ảnh con người
thoải mái khoan khoái, tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Điệp từ lặng từ được lập lại hai lần diễn tả sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối thậm chí là
Tịnh không một bóng người. Sự tĩnh lặng dường như đưa ta trở về quá khứ đến đời lý
đời trên đời lê, Đó là một vẻ đẹp cổ kính hoang sơ như một bờ tiền sử và hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đặc biệt tác giả còn sử dụng nghệ thuật lấy động tả
tính, từ những âm thanh trong tâm tưởng như tiếng còi súp lê của một chuyến xe lửa
cho đến âm thanh của hiện tại tiền cả đất nước sông, tất cả đều có phần gợi ra một
không gian được bao phủ bởi một sự tĩnh lặng đến tuyệt đối.
Vẻ hoang dại, mộng mơ được thể hiện đầy ấn tượng qua hình ảnh “hoang dại như 1 bờ
tiền sử", “hồn nhiên như 1 nỗi niềm cổ tích tuổi xưa", thường người ta so sánh cái trừu
tượng với cái cụ thể, cái lạ với cái quen vậy mà ở đây, Nguyễn Tuân đã làm ngược lại.
Qua cách so sánh này, tác giả vừa vẽ nên bức tranh sông Đà hoang sơ, thơ mộng vừa
thể hiện được tình cảm vô cùng trìu mến và thân thương mà ông dành cho cô gái sông
Đà. Hình ảnh con yêu thơ ngộ lần đầu nhung khỏi ai có xương đã tô thêm nét thơ mộng cho cảnh dòng sông
Hình ảnh những nương ngô nhú lên mấy là ngô non đầu mùa rồi là cỏ gianh ra những
nõn búp, "Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi"gửi
hình ảnh một con Sông Đà thoát ra khỏi cuộc sống nhiều bề lắng đọng bâng khuâng
cùng với đó tiếng còi trong tâm tưởng của tác giả diễn tả khát khao của con người hứa
hẹn về một tương lai giàu tiềm năng du lịch của Tây Bắc
Nguyễn tuân đã miêu tả con Sông Đà vô cùng ấn tượng với những đặc điểm và tính
chất đối nghịch vừa hùng vĩ hung bạo lại kết hợp với nét thơ mộng trữ tình. Về đẹp ấy
được khắc họa qua các hình thức nghệ thuật tiêu biểu như thủ pháp tương phản các
biện pháp tu từ quen thuộc đặc biệt hình tượng con Sông Đà à được cảm nhận dưới
nhiều góc nhìn khác nhau mang đến một Về đẹp cụ thể đa chiều Cho dòng sông. Qua
hình tượng con Sông Đà, tác giả đã gửi gắm tình yêu sự gắn bó sâu sắc với quê hương
xứ sở và niềm tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên Đất nước.
Phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 4
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Thiên nhiên và con người Việt Nam vốn tươi đẹp, thân thương và đáng yêu. Có rất
nhiều tác giả lấy thiên nhiên và con người làm chủ đề chính cho tác phẩm của mình.
Một trong số các tác giả thành công ở đề tài này không thể không nhắc đến Nguyễn
Tuân cùng tùy bút Người lái đò sông Đà. Với thể loại tùy bút đặc trưng, tác giả đã
khắc họa thành công hình tượng con sông Đà hung bạo, dữ tợn nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình.
Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch có rất nhiều tác phẩm thành công dù ở
bất cứ giai đoạn nào và gây ấn tượng sâu sắc với người đọc. Trước cách mạng tháng
Tám Năm 1945, phong cách sáng tác của ông được gói gọn trong một chữ "Ngông". Ở
giai đoạn này, do xã hội lúc bấy giờ chìm trong kiếp lầm than, nô lệ thối nát nên
Nguyễn Tuân đắm chìm trong những vẻ đẹp của quá khứ. Ông luôn sống với những
hoài niệm, những cái đẹp “vang bóng” của một thời đã xa để quên đi thực tại. Sau
cách mạng tháng Tám năm 1945, khi miền Bắc giành lại được độc lập và đi lên xây
dựng CNXH thì phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân đã có nhiều chuyển biến quan
trọng. Các tác phẩm của ông giai đoạn này mang giá trị nghệ thuật cao, ông viết nhiều
về đề tài quê hương đất nước, nhân dân lao động trong chiến đấu, sản xuất. Ông tìm
tòi, khám phá vẻ đẹp của con người ngay trong chính cuộc sống đời thường, trong
những công việc bình dị nhất. Tâm hồn của tác giả hòa cùng thiên nhiên và sự phát
triển của đất nước tạo nên những tác phẩm tươi mới khác hẳn giai đoạn trước. Tùy bút
“Người lái đò sông Đà” ra đời ở giai đoạn này, là kết quả của chuyến đi thực tế của
nhà văn đến vùng núi Tây Bắc để tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa”. Bài tùy
bút mang đến cho chúng ta hai vẻ đẹp đối lập của con sông Đà: hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng, trữ tình.
Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo: “Đẹp vậy sao tiếng hát
trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của những con người cần
mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu”
mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương
Bắc để nói lên sự khác biệt độc nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng
của con sông. Chỉ với hai lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
những vẻ đẹp vô cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc
phần nào thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này.
Sau lời đề từ, tác giả đi vào cụ thể vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của con sông: “Cảnh vách
đá hai bên sông dựng đứng như vách thành; có vách đá chẹt dòng sông Đà như một
cái yết hầu; đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; có quãng con nai
con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia; mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ
mới có mặt trời.” bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân mang đến cho bạn
đọc nhiều liên tưởng thú vị về con sông Đà: nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông
được ví như những thành trì kiên cố, vững chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe dọa
trực chờ. Tác giả đã sử dụng nhiều giác quan để cảm nhận được hết vẻ đẹp hung tợn ở
quãng này của con sông: nó vừa hẹp lại nhiều đá dựng cao ngang ngược nhưng tiềm
ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được.
Không chỉ quãng này của con sông nguy hiểm mà quãng mặt ghềnh Hát Loóng cũng
nhiều hiểm nguy không kém: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái
đò sông Đà…; quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Đến đây, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều câu văn ngắn móc xích với nhau, điệp từ, điệp
cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau để
“hoành hành” tạo thêm nét hung bạo của sông Đà; không chỉ có đá dựng thành vách
hăm dọa con người nữa mà ngay cả mặt nước cũng tạo sóng hung tợn để đe dọa bất cứ
con thuyền hay người nào qua đấy cho ta thấy một con sông Đà ngang ngược, bá đạo
và vô cùng bướng bỉnh.
Quãng Tà Mường Vát con sông cũng hung tợn không kém: “Trên sông bỗng có
những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm
móng cầu; nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước
ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào; nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những
cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống” Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của
Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không
sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.
Không chỉ riêng những quãng trên con sông Đà mới hung tợn mà dòng chảy của nó
cũng vô cùng hung tợn: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sự hung dữ này được Nguyễn Tuân
liên tưởng đến một anh quay phim bạo dạn dám ngồi vào trong cái thuyền thúng tròn
vành rồi cả người cả thúng cùng theo dòng xoáy xuống dưới cùng của xoáy nước và
lia máy ảnh lên, thu vào tầm mắt tất cả xoáy nước như “một cái giếng mà thành giếng
xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh
như sắp vỡ tan ụp cả vào máy vào người quay phim cả người đang xem.” Sự liên
tưởng đặc sắc, thú vị này không chỉ giúp bạn đọc hình dung ra sự hung tàn của con
sông mà còn làm cho vẻ hung tàn đó trở nên đa sắc màu hơn.
Bên cạnh sự hung tàn như một con thủy quái, sông Đà cũng hết sức mưu mẹo khi bày
ra nhiều trùng vi thạch trận hòng cướp đi sinh mạng của những người lái đò qua đây.
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào
trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ
này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi
thạch trận nguy hiểm. Ở trùng vi thứ nhất sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử,
một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh
một cửa đá đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào trận địa, chúng tấn
công chiếc thuyền tới tấp: "Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy
cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách
mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên.
Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả
cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Vượt qua trùng vây thứ nhất, người lái đò lại tiếp tục chiến đấu với trùng vi thạch trận
thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí
lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh
khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh
quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn
không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu
nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.
Đến trùng vi thạch trận thứ ba: “Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả.
Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác” nhưng
vẫn không thắng nổi người lái đò dũng cảm, mưu trí. Cuối cùng sông Đà vẫn nhận lấy
cái kết đắng trong trận chiến thiên nhiên - con người. Qua đây ta thấy con Sông Đà
như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện
mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” nhưng cũng mang một màu sắc riêng biệt
không thể nhầm lẫn với bất kì con sông nào khác.
Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì chẳng có gì đáng để tác giả
yêu quý, chính dòng sông này lại mang vẻ đẹp khác biệt vô cùng thơ mộng, trữ tình
làm người ta xao xuyến: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đến đây, Nguyễn Tuân giúp bạn đọc
hình dung ra con sông Đà như một người thiếu nữ của Tây Bắc với mái tóc tuôn dài
giữa núi rừng mộng mơ mang màu sắc thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa
thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt
há Dương Châu”, còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ
mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.
Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn đen xen cùng thơ mộng, trữ tình đã làm cho Nguyễn Tuân
say mê miêu tả dòng sông ấy với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, một tình yêu thiên
nhiên đất nước sâu nặng. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu, tự hào về một dòng
sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những trang văn
đẹp hiếm có qua ngôn từ uyên bác và những liên tưởng thú vị.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác
“ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm
đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 5
Nguyễn Tuân là một nhà văn tài ba và uyên bác. Trước cách mạng tháng 8, ông đi tìm
vẻ đẹp của “một thời vang bong". Sau cách mạng tháng 8, ta nhận ra diện mạo của
một nhà văn Nguyễn Tuân mới mẻ, khát khao được hoà nhập với đất nước và cuộc
đời. Ông tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến
miền đất lạ cho thoả niềm khát khao “Xê dịch"mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của
thiên nhiên và ở tâm hồn của người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và
thơ mộng đó. “Người lái đò sông Đà"là một áng văn trong tập tuỳ bút sông Đà (1960).
Trong tác phẩm, hình tượng con sông Đà hiện lên vô cùng hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng
rất trữ tình và lãng mạn.
Cảnh đá bờ sông “Dựng vách thành", phía thượng nguồn “chẹt lòng sông như một cái
yết hầu"khiến dòng nước phải xoáy vào “ruột đất"mà chảy. Người ngồi đò qua đây
đang giữa trưa mùa hè cũng thấy lạnh. Để rồi khi long sông đột ngột mở ra lại tạo
thành những mặt ghềnh hang cây số, lúc nào cũng ầm ào, náo động như trong cơn bão
tố “Hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Những cái hút nước nằm rải rác trên mặt sông Đà, mỗi xoáy nước là một cạm bẫy
nguy hiểm chết người. Sức mạnh ghê gớm của dòng nước xoáy được nhà văn lột tả
bằng hàng loạt hình ảnh so sánh và các thủ pháp của điện ảnh. Đây là hình ảnh của
một con thuyền không may bị xoáy nước hút tụt xuống lòng sông “Thuyền trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm xuống lòng sông, đến mươi phút
sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Nhưng dữ dội nhất vẫn là thác đá sông Đà.
Từ xa nó đã đe doạ người lái đò bằng những âm thanh cuồng nộ như tiếng cả ngàn con
trâu mộng đang gầm thét giữa rừng tre nứa nổ lửa “Rừng lửa cùng gầm thét với đàn
trâu da cháy bùng bùng". Đến gần sẽ thấy nó bừng ra “cả một chân trời đá"mà mặt
đứa nào trông cũng nhăn nhúm, méo mó, hung tợn.
Bãi đá ngầm được nhà văn miêu tả như một thạch trận dàn bày công phu, khéo léo với
ba trùng vây kiên cố. Mỗi trùng vây được thần sông thần đá “thiết kế"theo một sơ đồ
riêng, giao phó cho nhiệm vụ riêng. Hàng tiền vệ có trách nhiệm lừa dụ con thuyền
vào sâu thạch trận nên chỉ có hai tảng đá canh cửa “trông như là sơ hở". Tuyến giữa sẽ
đón đánh trực diện trong khi tuyến đầu vòng lại đánh khuýp quật vu hồi". Tuyến đá
cuối cùng kiên quyết nhất gồm những “boong ke chìm và những pháo đài đá nổi"sẽ
tiêu diệt con thuyền cùng tất cả thuyền trưởng và thuỷ thủ nếu nó lọt khỏi hai vòng
vây trước… Bằng hệ thống từ ngữ, hình ảnh nhân hoá phong phú, độc đáo, Nguyễn
Tuân đã khiến sông Đà hiện lên như một loài thuỷ quái khổng lồ “độc dữ và nham hiểm".
Nhà văn chọn điểm nhìn từ trên cao để thu lấy vóc dáng mềm mại của dòng sông như
một áng tóc mun “dài ngàn ngàn, vạn vạn sải". Áng tóc mây ấy được miêu tả bằng
một thứ ngôn ngữ văn xuôi giàu cả chất thơ, chất nhạc, chất họa “Con sông Đà tuôn
dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương
xuân". Từ đỉnh trời Tây Bắc, mái tóc huyền thoại sông Đà nối liền những khoảng
không gian mênh mông của đất nước…
Mặt nước sông Đà cũng được tái hiện với vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân khẳng định rằng
nước Đà Giang chưa bao giờ đen “như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu". Trái lại, nước sông Đà vào mùa xuân
trong trẻo xanh một dòng “xanh ngọc bích", chứ không xanh màu xanh canh hến của
sông Gâm, sông Lô. Mùa hạ dòng phù sa lại “lừ lừ chín đỏ"xuôi và bùi đắp cho một
dải đồng bằng. Nhiều quãng nước sông Đà ngập trong “nắng Đường thi"và dập cánh
chuồn chuồn bươm bướm – đẹp tới mức khiến người ta muốn nổi hứng đề thơ vào sông nước.
Đẹp nhất có lẽ vẫn là những triền sông yên vắng, nguyên sơ như thời tiền sử, như “nỗi
niềm cổ tích xưa". Khung cảnh nơi đây dường chưa từng đổi thay từ thuở khai thiên
lập địa tới giờ. Thuyền trôi qua những quãng sông này như thể lạc vào một thế giới
thần tiên mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.
Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm… Đàn cá dầm xanh quẫy
vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Sông Đà thơ mộng, tình tứ, gợi lên trong
lòng người cảm giác đằm đằm, ấm áp như được gặp lại cố nhân sau bao ngày xa cách.
Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm,
thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp kì vĩ, hào hùng,
vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên. Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động khó
nhọc, cùng sự tài hoa uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ
nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hoá. Với tài năng này, tác phẩm của ông hẳn sẽ
mãi còn “vang bóng "trong tâm hồn độc giả.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 6
Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân có lời đề từ:
"Chúng thuỷ giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu" Tạm dịch là:
" Mọi dòng sông đều chảy về Đông
Chỉ có sông Đà ngược Bắc"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Lời đề từ có ý nghĩa riêng, dòng Đà giang độc đáo ở chỗ: "ngược Bắc". Phải chăng
dòng sông văn chương của Nguyễn Tuân cũng có những nét riêng, độc đáo như sông
Đà kia? Quả thật, dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân thể hiện rất rõ trong hình tượng
sông Đà. Phong cách nghệ thuật của nhà văn là diện mạo sáng tác riêng của người
nghệ sĩ. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa khả năng chiếm lĩnh hiện thực độc đáo và hệ
thống phương tiện biểu hiện riêng của người nghệ sĩ.
Với Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là một vật vô tri vô giác, một hiện tượng thiên
nhiên nữa mà sông Đà đã trở thành hình tượng văn học,sông Đà như một sinh mệnh
có tính cách, tâm trang độc đáo. Sông Đà có hai tính cách đối lập nhau : "hung bạo và
trữ tình", như nhà văn từng nói. Lúc trở mặt hung bạo, sông Đà là kẻ thù số một của
con người, lúc trữ tình, sông Đà đầy chất thơ, dịu dàng, thân thiết. Hai nét tính cách
đối lập nhau của sông Đà phù hợp với khả năng chiếm lĩnh hiện thực của Nguyễn
Tuân. Sông Đà hung bạo cũng phù hợp với phong cách của Nguyễn Tuân ở chỗ, nhà
văn say mê miêu tả những cảm giác mạnh.
Tính chất hung bạo của sông Đà được thể hiện ở chỗ vách thành dựng đứng. Chỗ ấy
lòng sông hẹp như một cái yết hầu. Chỗ ấy hẹp, nguy hiểm, chỉ thấy mặt giời lúc đúng
ngọ. Sông Đà hẹp đến nỗi : "con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia".
Nguyễn Tuân cảm nhận sông Đà đoạn này không chỉ bằng thị giác mà còn bằng xúc
giác, ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, giữa mùa hè không chỉ lạnh mà còn thấy tối.
Người ta cảm thấy ghê rợn và nguy hiểm vì sông Đà hẹp, vách thành dựng đứng.
Sông Đà hung bạo còn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát lóng dài hàng cây số : "nước xô
đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn, gùn ghè suốt năm...". Câu văn của Nguyễn
Tuân có nhịp điệu 3/3/3..., nhịp điệu này mô phỏng độ lượn của mặt ghềnh. Ở mặt
ghềnh mà con thuyền phải vượt qua chỉ thấy nước - đá -sóng- gió mà thôi. Những từ
lặp lại : "nước -đá-sóng-gió" như gối lên nhau hồi hoàn của mặt ghềnh nguy hiểm.
Nhờ vậy, câu văn tạo nên một cảm giác mạnh của mặt ghềnh ào ạt. Nếu không phải là
một cây bút tài hoa thì không thể tổ chức được những câu văn giàu nhạc điệu, giàu
hình ảnh như Nguyễn Tuân.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Sông Đà hung bạo, dữ dội thể hiện ở những hút nước, xoáy nước trên sông. Nguyễn
Tuân miêu tả những cái hút nước ấy bằng cách so sánh rất tài tình. Khi thì nhà văn so
sánh cái hút nước ấy như cái giếng bê tông. Lúc thì Nguyễn Tuân ví : "Nước ở đây thở
và kêu như cửa cống cái bị sặc". Có khi Nguyễn Tuân so sánh như những cái giếng
sâu, nước ặc ặc vừa rót dầu sôi vào. Nhờ so sánh, Nguyễn Tuân đã truyền được cảm
giác mạnh cho người đọc về sự nguy hiểm của hút nước sông Đà. Nhà văn còn sử
dụng con mắt của nhà điện ảnh để tưởng tượng, một anh quay phim táo tợn nào đấy,
ngồi vào cái thuyền thúng, cho nó hút vào cái đáy của hút nước khủng khiếp kia tạo
cho người xem cảm giác hãi hùng. Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân thật là kì diệu trước tạo hóa.
Sự dữ dội của sông Đà thể hiện ở âm thanh thác nước. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân,
sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua
những thác dữ, tiếng nước réo gần, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán
trách, như là van xin, như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Khi đến gần, nó
bỗng rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang "lồng lộn giữa rừng tre nứa nổ
lửa". Khủng khiếp thay là thác nước sông Đà!
Sông Đà hung bạo còn được thể hiện ở đám đá tảng đá hòn bày thạch trận. Người ta
nói Nguyễn Tuân là thầy phủ thủy của ngôn từ, thổi hồn người vào sự vật vô tri vô
giác. Nguyễn Tuân nhìn vào đau là những tảng đá sống động đến đấy. Đá ở đấy mai
phục ngàn năm, mỗi hòn có nhiệm vụ riêng, bộ mặt độc đáo, hình dáng không giống
nhau. Mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, hòn thì nhăn nhúm, hờn thì méo mó, hòn thì
oai phong, bệ vệ, lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng y như là hất hàm hỏi cái thuyền
phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Khi thất trận, hòn đá tướng tiu nghỉu cái mặt
xanh lè thất vọng. Cái đôi đũa thần ngôn từ của Nguyễn Tuân chạm vào đến đâu thì
nổi hình nổi dáng, phảng phất linh hồn của sự vật tới ấy. Đó phải chăng là phong cách
uyên bác, tài hoa, độc đáo của cụ Nguyễn vậy sao?
Đối lập với sông Đà hung bạo, nhà văn Nguyễn Tuân đã phát hiện ra một nét tính cách
nữa của sông Đà: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả. Tính cách trữ tình của sông
Đà cũng phù hợp với phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Với Nguyễn Tuân,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
sông Đà là sản phẩm tuyệt mĩ của tạo hóa, ông chiếm lĩnh nó trên phương diện văn
hóa và mĩ thuật. Nguyễn Tuân quan sát sông Đà trữ tình ở nhiều góc độ khác nhau.
Lúc thì nhà văn nhìn con sông từ trên tàu bay, từ trên cao. Có lúc Nguyễn Tuân nhìn
sông Đà qua đám mây của mùa xuân, có khi người nghệ sĩ nhìn sông Đà qua đám mây
của mùa thu. Cũng có khi tác giả cảm nhận sông Đà bằng nỗi nhớ của cố nhân, gặp thì
vui mừng, xa thì nhớ nhung. Cũng có khi Ng Tuân tiếp cận sông Đà bằng đôi mắt của
lịch sử, của hồi ức, của quá khứ.
Mỗi góc độ ấy, Nguyễn Tuân đã so sánh sông Đà với nhiều đối tượng khác nhau rất
tài tình và biến hóa. Nhà văn đã so sánh sông Đà với trên dưới mười đối tượng, tạo
cho người đọc cảm giác ngạc nhiên, thán phục và nhận ra rằng không có nhà văn nào
so sánh hay hơn, đúng hơn Nguyễn Tuân. Từ trên cao sông Đà ngoằn ngoèo như một
cái dây thừng. Nhìn sông Đà từ xa, Nguyễn Tuân so sánh như một tiên nữ giáng trần :
"tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo...." Đẹp biết bao khi ngắm sông Đà, mùa xuân
xanh một màu xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu
bữa. Nhờ so sánh, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra bao vẻ đẹp trữ tình của sông Đà. Nếu
không gắn bó và yêu thiết tha phong cảnh quê hương, đất nước thì hẳn Nguyễn Tuân
không có những so sánh, phát hiện ra vẻ đẹp của sông Đà.
Nguyễn Tuân phát hiện vẻ đẹp trữ tình của sông Đà thể hiện ở màu sắc hài hòa. Rừng
Tây Bắc bạt ngàn một màu xanh, sòng Đà giang mênh mông một màu xanh. Trên cái
điệp trùng của màu xanh ấy nổi lên màu trắng của mây trời, màu trắng của sương, của
khói Tây Bắc, của hoa ban, của cá như bạc rơi thoi trên sông Đà. Màu sắc của sông Đà
thay đổi theo mùa, theo cách nhìn và theo tâm trạng của tác giả. Mùa xuân xanh ngọc
bích, mùa thu đỏ phù sa. Màu vàng của cái nắng tháng 3 giòn tan, màu vàng của con
hươu thơ ngây, ngộ nghĩnh...những màu sắc ấy là vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước,
đồng thời là sản phẩm của một tâm trạng Nguyễn Tuân, một tâm hồn tinh tế và tài hoa.
Miêu tả sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân có những trang văn tuyệt bút. Đó là một thứ
văn xuôi đầy chất thơ, giàu nhạc học và chạm khắc tạo hình. Nguyễn Tuân miêu tả
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
sông Đà bằng ngôn ngữ phong phú : "Thuyền tôi trôi trên sông Đà". Câu văn 6 tiếng
toàn thanh bằng, có vần, nhịp điệu, giàu hình ảnh, gợi cảm giác. Sông Đà đoạn này êm
đềm nhẹ nhàng, bồng bềnh, lững lờ. Câu văn của Nguyễn Tuân không chỉ giàu hình
ảnh, màu sắc mà còn có đường nét, chạm khắc: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung
khỏi áng cỏ sương chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò". Đây không còn là
văn xuôi nữa mà nó trở thành bức họa tuyệt đẹp, cái đẹp thể hiện ở ngôn từ tài hoa của Nguyễn Tuân.
Phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 7
Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng
tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác
ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt đầu lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...
(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về
sông núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình yêu sông núi. Trong
đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:
Chúng thủy giai đông tẩu,
Đà Giang độc bắc lưu.
Sông Đà ngày nay đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến
mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi năm (1960), nhà văn
Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm Sông Đà ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ kì thú,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút Người lái đò
Sông Đà là một trong số 15 bài của tác phẩm Sông Đà, là một “tờ hoa", “trang hoa"
đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Tuân: uyên bác, tài hoa, độc đáo. Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông
Đà được Nguyễn Tuân nói đến với tất cả tình yêu sông núi quê hương.
Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng. Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một
“cố nhân", một cố nhân “chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẩn tính và gỏng thác lũ ngay đấy".
Sông Đà hung bạo lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa - bảy cái
thác, trăm ba cái ghềnh"(Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du lịch đi
xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận cho ta biết Ly Tiên và Bả Biên Giang là hai cái
tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho ta biết rằng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ
hay hay: thác Em, thác Giăng, Mỏ Tôm, Mỏ Năng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng,
thác Tiếu... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế
đồng bào Thái mới có tục ngữ: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm".
Ở phía trên trung lưu sông Đà. đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng
ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị “chẹt"như cái yết hầu. Có quãng con
nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật
ghê rợn. Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt năm...". Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu “ặc ặc"như
rót dầu sôi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác
rống nghe càng sợ. Nghe “như là oán trách..., như là van xin..; như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo". Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút
của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng kĩ thuật điện
ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên
tưởng rất “đắt"để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà
Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có “diện mạo và tâm địa"nham hiểm, xảo
quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi “thạch trận", dày đặc “cửa tử", la liệt ‘‘boong ke
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
chìm vào pháo đài đá nổi", những ông tướng đá trấn giữ “oai phong lẫm liệt"có bộ
mặt “xanh lè"đáng sợ, sẵn sàng “bẻ gãy cán chèo", “bắt chết"những chiếc thuyền đi
qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi
thạch trận nơi “cửa ủi nước", đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm giác mạnh.
Đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông
miền Tây Bắc này. Dáng hình sông Đà mềm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với
“một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải", hoặc “tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai". Một cách so sánh tài hoa, phong tình như Nước sông Đà thay đổi bốn mùa,
nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích (...); Mùa
thu nước sông Đà lừ lừ chín đi như da mặt người bầm đi vì rượu bữa".
Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những
cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà “lặng lờ"; hình như từ đời
Lí, đời Trần, đời Lê “quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi". Có những cảnh
hoang vu, hoang sơ kỳ lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ
kính hoa lệ như hai vế song quan trong một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng
bút pháp chấm phá “điểm nhấn" để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình
của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu
mùa. Là những đồi giăng đầy “nõn búp". Là những con hươu rừng “thơ ngộ"ngẩng
đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt xô “bụng trắng
như bạc rơi thoi". Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông đem lại cho người đi
rừng niềm vui “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng". Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm, “lững lờ như nhớ thương những hòn
đá thác xa xôi", hoặc "con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi"...
Có nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút Sông Đà là loại “tùy bút – bút kí". Đọc
tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
văn hóa, phong tục về một xứ sở, một dòng sông, về cảnh và người Tây Bắc... chỉ nói
về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất sành điệu, tài hoa và uyên bác. Hai câu
thơ “đề từ"mà ít người biết được xuất xứ ca ngợi vẻ đẹp nên thơ cua sông nước, vẻ
đẹp độc đáo của Đà Giang: “Đẹp thay tiếng hát trên dòng sông", và “Chúng thủy giai
đông tẩu - Đà Giang bác lưu". Cũng như con sông Trường Giang bên Trung Quốc,
con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp “Đường thi"như một câu thơ tuyệt bút của Lí
Bạch hơn 1.300 năm về trước:
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành
người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm
báo oán đời đời đánh ghen". Thi sĩ Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Ta
bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật là thú vị.
Dái sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.
Qua đó ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kỷ. Nói về truyền thống
yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng", nhà
văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích - bậc sĩ phú kiên cường
chống Pháp cuối thế kỉ XIX – để đưa vào bài kí:
Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu.
Trang văn của Nguyễn Tuân có lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông
Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi
dậy, trở nên bừng sáng và giàu có. Người lái đò Sông Đà đúng là một giai phẩm mà
Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa nghệ thuật Việt Nam.
Ai đã từng đọc Vang bóng một thời chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa
của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu của những
nhà nho thuở trước. Mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa
Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm. Đọc tùy bút
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Người lái đò sông Đà, ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã “để thơ vào sông nước". Ông
đã khám phá sự vật - con sông Đà - ở phương diện văn nghệ thuật, đã miêu tả, nhận
diện con người - ông lái đò - ở phương diện thi hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa
trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu, bằng
tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc
và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Văn của Nguyễn Tuân đứng là
những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời.
Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư
vị của hương nguồn hoa núi.
Phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 8
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ
đẹp của cuộc sống. Ông đặc biệt có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những
sáng tác tiêu biểu của ông là tùy bút Người lái đò sông Đà. Bên cạnh hình ảnh ông lái
đò giản dị mà tài hoa, tác phẩm còn khắc hoạ được vẻ đẹp của con sông Đà trong
những góc nhìn khác nhau: có khi hùng tráng, hung bạo, lúc lại trữ tình, duyên dáng nên thơ.
Trước hết, hình ảnh con sông Đà được hiện lên qua cái nhìn của tác giả về một con
sông tự nhiên, lắm thác nhiều ghềnh, hung bạo ngỗ ngược, không chảy theo khuôn
khổ lẽ thường. Vẻ nguy hiểm của con sông không chỉ được thể hiện qua việc lắm thác
nhiều ghềnh mà đó còn là cảnh “đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc
đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu.
Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã
có lần vọt từ bờ này sang bờ kia".
Chỉ với vài chi tiết phác họa như thế, người đọc đã hình dung ra được sự hiểm trở,
hùng vĩ của con sông. Không chỉ có thế, tác giả còn diễn tả cảm xúc khi đi qua đoạn
sông trắc trở này: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ
nào trên cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện". Bằng nghệ thuật so sánh độc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
đáo, Nguyễn Tuân đã khắc họa nên hình ảnh một con sông Đà độc đáo, đẹp vẻ đẹp
hùng vĩ, hoang dại nhưng cũng ẩn chứa đầy hiểm nguy.
Thế nhưng vẻ hùng vĩ, hoang dại của sông Đà chưa dừng lại ở đó. “Quãng mặt ghềnh
hát loong, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió
gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua
quãng ấy". Với cách dùng động từ mạnh và kết cấu trùng điệp, tác giả đã làm rõ sự
nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng không kiêng nể mà lấy đi tính mạng của
bất cứ tay lái nào khinh suất.
Những cái xoáy hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La được tác giả miêu
tả còn ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái
hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. […] Có những thuyền đã
bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và
đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới".
“Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng
tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng". Với giọng điệu dồn dập, gay cấn, đầy cảm xúc, những câu văn gằn lên
một cảnh tượng hùng vĩ nhưng nguy hiểm vô cùng. Một cách so sánh, nhân hóa tài ba
và những liên tưởng “rất đắt", rất hiếm thấy trong văn học. Điều đó cho thấy Nguyễn
Tuân thực sự là một bậc thầy về ngôn ngữ. Ông thổi hồn vào những con chữ, khiến
từng con chữ như biết nói, biết rung động.
Đặc biệt hơn nữa, không chỉ dữ tợn mà sông Đà còn “nham hiểm"bủa vây ba trận
chiến. Những tay lái đò muốn vượt qua khúc sông này thì đều phải vượt qua ba trận
chiến hiểm trở, táo bạo này. Với giọng văn ngày càng dồn dập, tác giả như kéo người
đọc cùng hồi hộp vượt thác với người lái đò. Trận thứ nhất “mặt nước hò la vang dậy
quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát
nách". Sang đến trận thứ hai “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và
cửa sinh lại bố trí lệch qua bên phía bờ hữu ngạn". Đến trận thứ ba có vẻ như ít cửa
hơn nhưng lại quyết liệt và cam go hơn. Với tất cả những gì mà Nguyễn Tuân miêu tả,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
sông Đà hiện lên không khác nào một con thủy quái đầy nham hiểm và thâm độc, chỉ
rình mò nuốt chửng lấy con mồi bất cứ khi nào.
Hung bạo là thế, nham hiểm là thế, vậy mà qua những thác ghềnh, con sông Đà lại trở
nên duyên dáng, thơ mộng và trữ tình. “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Cái đẹp còn có ở nước
sông Đà thay đổi theo mùa, trong đó con sông đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu:
“Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến
của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
Đẹp nhưng sông Đà cũng có những lúc buồn mênh mang và hoang sơ đến lạ kỳ: “Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích xưa".
“Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này
cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những
lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu
cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm". Đến đây, người đọc gần như đã quên đi vẻ
hung bạo, toan tính của sông Đà trên kia. Thay vào đó, người ta chỉ thấy một vẻ đẹp
nhẹ nhàng, cổ kính mà tươi mới biết bao nhiêu. Con sông Đà lúc này còn như một
người bạn tâm giao, tâm tình: con sông “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để
lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi".
Sông Đà trở nên hiền hòa và thơ mộng lạ kì, nó “trôi những con đò mình nở chạy
buồm vải, nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên".
Có thể nói rằng, sông Đà mang một vẻ đẹp độc đáo đến nỗi khiến người đọc chúng ta
phải ngỡ ngàng. Bằng tình yêu cái đẹp, yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với vốn từ
phong phú, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ
mà trữ tình, nên thơ. Sông Đà quả là một món quà ưu ái của thiên nhiên, là một công
trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.
Hình tượng sông Đà - Mẫu 9
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Bằng phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố
gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm cho ra những
chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng lay động người đọc nhiều nhất, Nguyễn Tuân đã
sáng tác được rất nhiều tác phẩm có giá trị lớn, trong đó có sông Đà, một thành quả
nghệ thuật đẹp đẽ mà tác giả thu hoạch được trong chuyến đi tới vùng Tây Bắc tổ
quốc xa xôi, rộng lớn. Ông đã tìm được cái chất vàng của thiên nhiên cùng thứ vàng
mười đã qua thử lửa được thể hiện trong thiên tùy bút “người lái đò Sông Đà"mà con
sông Đà với sự hung bạo, trữ tình và thơ mộng của nó đã được tác giả miêu tả thật tài hoa.
Sông Đà bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một
vùng núi ác, đến gần nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. Sông có tổng cộng 73
con thác dữ và có tổng chiều dài là 983 km. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông
Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp, như một cố nhân “lắm bệnh lắm chứng,
chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy".
Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa – Trăm bảy
cái thác, trăm ba cái ghềnh"(Ca dao) và cái hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng
chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu", một
dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Vẻ nguy hiểm của sông không chỉ
được thể hiện qua thác ghềnh mà đó còn là “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông
chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như
một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng
con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng
ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà
ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn
điện". Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của
dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại trở nên
siết vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không
được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Cũng như “quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất
cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy". Bằng kết cấu trùng điệp, tác
giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất.
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa.
“Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng
đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút
nước ấy, thuyền nào qua cũng trèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số
ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh
và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết người !
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi
lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Bằng nghệ thuật so
sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt", Nguyễn Tuân đã cho thấy một
cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có
người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn
tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước.
Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào
trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ
này". Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh
nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là
sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ
nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa,
chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào
mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào
sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền
lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa
trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc
nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò".
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ hai: “Tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi
chiếc thuyền". Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông
lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè
thất vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống
ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boongke
chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng
đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng,
chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một
mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn
được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về
phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa".
Qua đó, ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày
thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên
nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một". Con sông mà “hằng
năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà". Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu
đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo
oán đời đời đánh ghen".
Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm
nét thơ mộng, trữ tình: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Một cách so sánh tài hoa, phong tình.
Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, trong đó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu:
“Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến
của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt
há Dương Châu", làm cho người đi rừng dài ngày “vui như thấy nắng giòn tan sau kì
mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng".
Sông Đà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng:
“Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này
cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: “Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa".
Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những
cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm
sương đêm". Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp
như thế, nhà văn bỗng cảm thấy“thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một
chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu", muốn được đánh
thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh
không một bóng người", “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa"mà không
có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng
lặng như thế mà thôi. Thật buồn tẻ! Từ quá khứ nhà văn trở về với hiện tại và hướng
tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi
người. Rõ ràng cảnh vật nếu không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà
thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài
vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ
lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng
cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa
nghe thấy một tiếng còi sương?". Ở đây dường như là con vật hỏi người hay chính là
người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có
những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng
đập nước của "đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi
đuổi mất đàn hươu vụt biến"đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái
động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng
nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông
Đà như Tản Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy
nhiêu tình"của “một người tình nhân chưa quen biết". Con sông Đà như một sinh vật
có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại
trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi". Con
sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó
khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên".
Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn
Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm
ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng
vô giá của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.
Hình tượng sông Đà - Mẫu 10
Nguyễn Tuân là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại nước ta. Những tác
phẩm của ông thường viết bằng ngòi bút khá độc đáo bằng tình yêu dành cho những
số phận con người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà"kể về một người lái đò bình thường nhưng vô cùng
anh dũng, có thể chiến thắng thiên nhiên, làm chủ thiên nhiên trong tay lái của mình.
Thông qua sự tinh tế trong cách viết của mình Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà
vô cùng huyền bí, hùng vĩ và nguy hiểm.
Tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng hình ảnh con sông Đà bằng chất liệu ngôn ngữ độc
đáo, phong cách có chút “ngông"thể hiện sự quan sát tinh tế của mình với thiên nhiên,
và con người. Thông qua sự quan sát của tác giả người đọc thấy hiện lên hình ảnh con
sông Đà “lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng…chốc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ…"
Trong thực tế con sông Đà là dòng sông nhiều hung dữ, thác ghềnh nước chảy không
theo một dòng nào cả. Nó như một con ngựa bất kham lúc thế này lúc thế khác khiến
cho người điều khiển phải vô cùng hiểu tính nết của nó. Tuy nhiên, sông Đà hiện lên
vô cùng sinh động và đẹp lạnh lùng, vừa hiểm trở, ác liệt, nhiều nguy hiểm vừa hiền
hòa, dịu êm với những dòng thác ghềnh hùng vĩ, những vách núi đá sừng sững.
Đặc biệt là ở sông Đà phải đúng 12 giờ trưa mới nhìn thấy mặt trời . Tác giả đã miêu
tả hình ảnh con sông Đà như thế nào “Đá bờ sông, dựng vách thành…Có vách đá
thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá
qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia".
Chỉ với vài chi tiết nhỏ nhưng tác giả Nguyễn Tuân đã phác họa sông Đà hiện lên
nhiều nguy hiểm, khó khăn khôn lường, việc di chuyển qua dòng sông này thật sự là
một việc làm rất mạo hiểm đòi hỏi nhiều mưu trí, gan dạ.
Khi tác giả miêu tả tiếng thác chảy, người đọc cảm thấy như chính mình đang được
ngắm nhìn dòng thác hùng vĩ ở sông Đà. Nó thật sự là một bức tranh thiên nhiên vô
cùng hùng vĩ, tươi đẹp mang chút gì đó hoang sơ khiến cho con người say đắm. Tiếng
thác nhiều khi ai oán, như đang than trách điều gì, khi thì lại giống như con trâu mộng
lồng lộn điên cuồng, khiến người ta khiếp sợ.
Qua những lời văn của tác giả người đọc cảm nhận thấy sự tinh tế của tác giả. Ông
đúng là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ vô cùng độc đáo bởi là một dòng sông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
nhưng ông có thể miêu tả nó với nhiều phương diện, trạng thái cảm xúc khác nhau dẫn
dắt người đọc đi hết từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.
Ông đã thổi linh hồn cho những câu chữ của mình làm cho tác phẩm vô cùng sinh
động, có sức truyền cảm vô cùng mãnh liệt, khiến người đọc khi thì hồi hộp lo lắng,
khi thì nhẹ bẫng khoan thai, sung sướng.
Trong tác phẩm của mình tác giả đã chia con sông Đà thành ba trận chiến vô cùng
cam go khốc liệt. Người lái đò muốn vượt qua con sông nguy hiểm này thì phải vượt qua ba trận chiến đó.
Trận chiến đầu tiên đó chính là mặt nước của sông Đà vô cùng mạnh mẽ nó có thể ùa
đến và làm gãy cán chèo của người lái đò bất kỳ lúc nào. Một người lái đò mà mất cây
chèo thuyền thì coi nhưng thua. Trận chiến thứ hai đó chính là việc con sông Đà có rất
nhiều cửa ngõ có thể dẫn con người tới chỗ nguy hiểm tới tính mạng, để tìm được
đúng cửa đi thật sự là việc vô cùng cam go, chỉ có những con người hiểu sông Đà
nhiều lắm mới nắm rõ được quy luật của nó.
Trong trận chiến cuối cùng sông Đà hiện ra ít cửa hơn không làm cho người lái đò
hoang mang nhưng mọi thứ lại tập trung đánh toàn diện khiến cho mọi thứ trở nên quyết liệt hơn.
Qua những lời văn miêu tả của mình ta thấy hình ảnh con sông Đà hiện lên không
khác gì một con quái thú vô cùng hung dữ, nhiều âm mưu thâm hiểm, có thể giết chết
tính mạng con người bất cứ lúc nào . Nó là kẻ thù nguy hiểm cũng những người làm nghề lái đò qua sông.
Tuy nhiên, sông Đà cũng có những nét đáng yêu riêng của nó khiến con người phải
say đắm ngỡ ngàng đó là sự hoang sơ, hùng vĩ của nó. Qua miêu tả của Nguyễn Tuân
sông Đà hiện lên như một bức tranh thủy mạc “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử….như một nỗi niềm cổ tích xưa"đúng là một vẻ đẹp vô cùng nên thơ, trữ tình như
một chốn bồng lai tiên cảnh nơi trần gian.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà"người đọc cảm nhận được sự thần tiên trong
công việc thầm lặng của những người chèo thuyền qua sông Đà. Đó tưởng chừng như
một công việc vô cùng đơn giản, nhưng thực chất lại chứa rất nhiều hiểm nguy.
Người lái đò qua ngôn ngữ miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân đã trở thành những anh
hùng trên mặt trận quân thủy binh. Họ vừa giống như người thuyền trưởng đa tài có
thể vượt qua những thác ghềnh, nước lũ vừa như một nhà thơ ngân nga trên con sông
với những điệu hò khoan.
Khi đọc xong tác phẩm hình ảnh hùng vĩ, hoang sơ tươi đẹp của sông Đà vẫn còn ám
ảnh trong tâm trí người đọc khiến cho họ muốn được đặt chân đến mảnh đất này để
một lần được ngắm sông Đà bằng chính đôi mắt của mình.
Hình tượng con sông Đà - Mẫu 11
Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất trong tập tùy bút “Sông
Đà"của Nguyễn Tuân, tập tùy bút cũng đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng, tình
cảm của Nguyễn Tuân so với giai đoạn trước cách mạng. Trong Người lái đò sông Đà
không chỉ nổi bật hình ảnh của người lao động kiên cường dũng cảm mà còn nổi bật
một thiên nhiên đẹp đẽ, mang trong mình hai vẻ đẹp đối lập là vẻ đẹp hung bạo và vẻ
đẹp trữ tình. Hai vẻ đẹp này hòa quyện, tạo nên bức tranh hoàn chỉnh cho dòng sông.
Trước hết về lai lịch của dòng sông, theo như Nguyễn Tuân, dòng sông khai sinh ở
huyện Cảnh Đông – Vân Nam – Trung Quốc, sau đó ra nhập quốc tịch Việt Nam và
cứ thể trưởng thành mãi lên. Những chữ như khai sinh, quốc tịch, … đã biến dòng
chảy của con sông trở nên dòng đời, số phận và sinh thể sống.
Trước hết dòng sông mang vẻ đẹp hung bạo, dữ dội, bởi trước khi nhập quốc tịch Việt
Nam nó đã chảy qua một vùng núi khác của Trung Quốc. Diện mạo của dòng sông hết
sức dữ dằn: đá bờ sông dựng đứng “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết
hầu". Hình ảnh so sánh lạ đã tái hiện được sự thu hẹp đột ngột bất ngờ của dòng sông,
kết hợp với kĩ thuật miêu tả tỉ mỉ: “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt
trời"cho thấy quang cảnh vừa hùng vĩ, vừa âm u, rợn ngợp. Cùng với đó là trường liên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
tưởng độc đáo và lạ, Nguyễn Tuân đã gợi ra cái lạnh lẽo từ quang cảnh. Thông thường
để tạo ra cái lạnh người ta thường liên tưởng đến mùa đông, còn Nguyễn Tuân lại liên
tưởng: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm
thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên
cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Cái này này thấm sâu vào da thịt,
khiến người ta phải run rẩy vì sợ hãi.
Cái dữ dội, nguy hiểm của dòng sông còn được nhà văn tạo hình ở đoạn mặt ghềnh
Hát Loóng. Bằng kiến thức địa lí sâu rộng, với vốn ngôn từ phong phú, Nguyễn Tuân
đã tái hiện thành công vẻ đẹp hung bạo của dòng sông: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát
Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được
qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra". Câu
văn trải dài, chia làm nhiều vế ngắn, có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên nhịp nhanh,
mạnh, gấp gáp để diễn tả phản ứng dây chuyền giữa sóng, gió, nước và đá, chứa đựng đầy sự hiểm nguy.
Sự nguy hiểm còn thể hiện qua những cái hút nước trên sông. Âm thanh ghê rợn, “ặc
ặc lên như vừa rót dầu sôi vào", âm thanh vừa dữ dội, vừa kì quái, nó dường như được
phát ra từ cổ họng một con quái vật. Về hình ảnh tác giả đặc tả những “đàn quạ bay lừ
lừ trên những cái hút nước"gợi ra điềm gở, sự chết chóc. Tài hoa nhất là khi Nguyễn
Tuân đẩy trường liên tưởng đến giới hạn xa nhất, khi tác giả vẽ ra cảnh một anh bạn
quay phim táo tợn ngồi vào thuyền thúng để thả mình vào những cái hút nước ấy:
“ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay
xuống đáy cái hút sông Đà…".
Sau khi miêu tả diện mạo hiểm ác, Nguyễn Tuân tiếp tục đi sâu vào tâm địa của con
sông. Dòng sông Đà mang tâm địa thâm độc, hiểm ác, và nó được Nguyễn Tuân tái
hiện rõ nhất trong cách chúng bày các trùng vi thạch trận. Ở đây Nguyễn Tuân đã khai
thác tối đa hiệu quả của biện pháp nhân hóa, để nhận ra những hòn đá kia mang tính
cách, sắc diện của con người. Theo như lời mô tả của Nguyễn Tuân, hòn đá nào cũng
nhăn nhúm, méo mó và dữ dằn, chúng phối hợp với nhau tạo thành thiên la, địa võng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
trên sông. Trước khi vào trận chiến đã tổ chức bố trí trận địa, chúng chia thành ba
trùng vi thạch trận liên tiếp nhau chứa vô vàn những cửa tử, mà mỗi trùng vi thạch
trận chỉ có một cửa sinh duy nhất, cửa sinh này biến hóa khôn lường. Qua đó thể hiện
sự mưu mô, xảo quyệt của con sông với người lái đò. Bằng kiến thức phong phú, uyên
bác trên nhiều lĩnh vực cùng với vốn ngôn ngữ giàu chất tạo hình, Nguyễn Tuân đã
miêu tả trọn vẹn sự nguy hiểm, hung bạo của dòng sông, không chỉ ở diện mạo mà
còn ở cả tâm địa, tính cách.
Ở thượng nguồn sông Đà mang trong mình vẻ đẹp kì vĩ, hung bạo, còn về đến hạ
nguồn sông Đà lại mang một vẻ đẹp khác, dường như đối lập hoàn toàn đó là vẻ đẹp
trữ tình, lãng mạn. Và ở trên phương diện này Nguyễn Tuân nhìn nhận sông Đà như
một món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho đất trời Tây Bắc.
Để cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp sông Đà tác giả đã soi ngắm nó ở nhiều góc độ, thời
gian khác nhau. Nhìn từ trên cao, sông Đà như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo, hết
sức mềm mại, uyển chuyển. Sông đà được ví “tuôn dài như một áng tóc trữ tình"dòng
sông hiện lên vô cùng mĩ lệ, tựa như một người thiếu nữ kiều diễm. Đặc biệt vẻ đẹp
của dòng sông lại càng nổi bật hơn khi xuất hiện sắc trắng tinh khiết của hoa ban, sắc
đỏ đến nao lòng của hoa gạo cùng với làn khói mờ ảo, khiến cho dòng sông dường
như chảy ra từ miền cổ tích. Màu sắc của dòng sông cũng thay đổi theo mùa, mùa
xuân nước xanh ngọc bích, nước chảy êm đềm. Mùa thu lại lừ lừ chín đỏ như người
say vì rượu bữa, hình ảnh so sánh thật đặc sắc cho thấy dòng chảy chậm chạp trở nặng phù sa của dòng sông.
Đặc biệt vẻ đẹp trữ tình của dòng sông được thể hiện rõ nét qua cảnh ven sông. Tác
giả cố tình đẩy dòng sông vào miền cổ tích, để có cảm giác “từ thời Lí, Trần, Lê cũng
tĩnh lặng đến thế mà thôi". Để miêu tả cái tĩnh lặng của dòng sông tác giả đã sử dụng
bút pháp lấy động tả tĩnh, chỉ có tiếng động của con cá dầm xanh song cũng đủ làm
cho đàn hươu thơ ngộ giật mình ngơ ngác.
Về đến hạ lưu dòng chảy của sông Đà trở nên hiền hòa hơn, điều đó đã được Nguyễn
Tuân diễn tả bằng một câu văn vô cùng tinh tế: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà". Dù
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
không miêu tả trực tiếp song âm điệu của câu văn đã toát lên sự nhẹ nhàng, êm ả, đầy
duyên dáng của dòng sông.
Tác giả đi sâu vào miêu tả cảnh vật ven sông để làm nổi bật cái thơ mộng, lãng mạn
của cảnh vật. Ông không tham lam các chi tiết mà chỉ một vài chi tiết rất đẹp, rất đặc
sắc đã làm toát lên tất cả cái thần thái của bức tranh, đó là những nương ngô mới nhú,
đồi cỏ ranh đang độ nõn búp,… Tất cả các chi tiết đều nhẹ nhàng, thanh thoát, nhưng
để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Bằng ngòi bút tài hoa, vốn sống phong phú Nguyễn Tuân đã vẽ nên bức tranh thiên
nhiên sông nước của sông Đà hết sức đẹp đẽ. Sông Đà hiện lên qua những trang văn
của Nguyễn Tuân không chỉ thuần túy là thiên nhiên, mà còn là một sản phẩm nghệ
thuật vô giá. Qua đây tác giả cũng kín đáo thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết và
niềm say mê, tự hào với thiên nhiên của quê hương xứ sở mình.
Hình tượng con sông Đà - Mẫu 12
Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội,
mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là
những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước... Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết,
ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút
kí "Người lái đò sông Đà" đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng
về dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến
vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.
"Người lái đò sông Đà" rút từ tập tùy bút "Sông Đà" của Nguyễn Tuân. Tác phẩm là
kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc
biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều
vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và
đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã đem lại cho nhà văn
nguồn cảm hứng sáng tạo.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng
phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân
là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là
tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà - dòng chảy dữ dội của núi rừng
Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không nhọc
công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà,
để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông
mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có
nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm
lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn,
để có thể hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay
ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính
cách đối lập: hung bạo và trữ tình.
Vách đá "đá bờ sông dựng vách thành" và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy
lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách: Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc
đúng ngọ mới có mặt trời. Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi
cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách... "Ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà
ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt
đèn điện". So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như
Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho
được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
"Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè
suốt năm..." bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc
câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn
tiêu diệt con người. Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: "nước ở đây thở và kêu
như cửa cống cái bị sặc", "chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên ..." những cái hút nước lôi
tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác" Lối so
sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê
rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật
hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá. Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như
đang "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng gằn mà chế nhạo". Thế rồi bất ngờ
âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một
thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: "nó rống
lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ
lửa ... rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng..." Sự liên tưởng vô
cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không
khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy
lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.
Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù
đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng
thớ đá: "Cả một chân trời đá ... mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm",
"méo mó" -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng
mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách thức", "mặt nước
hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền"...
Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử,
cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn...
Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.
Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì "kẻ thù số một của con người". Nhưng
cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử
và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút Việt Nam.
Dòng sông Đà không chỉ có những "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạng trên
sông đá" mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo ..."
Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa: "Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với
sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến". Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da
mặt một người bầm đi vì rượu bữa ..." Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
Đến với sông Đà, hăm hở, say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang "sắp đổ ra
sông Đà". Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên
bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu
nhung khỏi áng cỏ sương"... Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong
lịch sử đất Việt: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa... lặng tờ "như từ Lí, đời Trần, đời Lê".
Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng
một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự
hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp
hiếm có - Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam.
Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Ở tùy bút "Người lái đò sông Đà"
chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan
nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa.
Dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như
niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.
Hình tượng con sông Đà - Mẫu 13
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về quê mình thì bắt lên câu hát
Người ta đến hát khi chèo đò vượt thác
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"
(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm).
Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi ta nhớ tới dòng sông Đà trong thiên tùy bút
“Người lái đò Sông Đà"của Nguyễn Tuân. Bằng tình yêu sông núi của con người tài
hoa, Sông Đà được nhà văn phác họa độc đáo với hai nét tính cách hung bạo, trữ tình
để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.
Mỗi nơi trên lãnh thổ của Tổ quốc đều có tên những dòng sông. Cuồn cuộn đỏ nặng
phù sa như sông Hồng, nhẹ nhàng thơ mộng như sông Hương. Sông Đà trong trang
văn Nguyễn Tuân hiện lên như một nhân vật có nguồn gốc, có tính cách. Nguyễn
Tuân luôn viết hoa hai chữ “Sông Đà". Theo tác giả, Sông Đà khai sinh từ tỉnh Vân
Nam Trung Quốc qua nhiều núi ác đến nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. Mở
đầu tùy bút, tác giả đã có hai câu thơ đề từ giới thiệu hai đặc điểm của con sông “Đẹp
vậy thay tiếng hát trên dòng sông"và “Chúng thủy giai đông tẩu-Đà giang độc bắc
lưu". Câu thứ nhất gợi vẻ đẹp thơ mộng, kiều diễm của dòng sông. Câu thứ hai giới
thiệu cá tính khác biệt của sông Đà, mọi con sông đều chảy theo hướng Đông riêng
sông Đà chảy ngược về hướng Bắc. Cái “bắc lưu"cưỡng lại cái “động khẩu"khiến
dòng sông trở nên ngỗ ngược dữ tợn nhiều guồng xoáy guồng chết sóng thác đá
ghềnh. Vậy dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là một vật vô giác mà là
một thân thể có hành động, tâm trạng, tính cách. Và nổi bật là hung bạo và trữ tình.
Lúc hung bạo, sông Đà có diện mạo và tâm địa như kẻ thù số một của con người.
Dòng sông như một con quái thú khổng lồ khôn ngoan mưu trí, nham hiểm và hung ác
luôn khiêu khích, thách thức, chế nhạo con người. Tác giả như một nhà thám hiểm kể
cho ta nghe về dòng sông. Ở vùng thượng nguồn cạnh bờ sông dựng đứng vách thành,
đúng ngọ mới có mặt trời. Chỗ vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu có thể ném
nhẹ hòn đá sang bờ bên kia có chỗ con nai con hổ có thể nhảy vọt từ bên này sang bên
kia một cách dễ dàng. Cảnh ghềnh đá và sóng gió thật mênh mang. Ở ghềnh Hát Lóng
“dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn ùm ghè suốt năm
như đòi nợ xuýt". Hút nước sông Đà mới ghê sợ làm sao, có những cái hút nước sâu
thẳm như giếng bê tông. Nước thở và kêu như một cái cống bị sặc, ở phía trên lừ lừ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
những cái quạt đàn. Có những cái hút nước thuyền vô ý đi vào trồng ngay cây chuối
rồi vụt biến đi mươi phút sau tan xác ở khuỷu sông. Trên sông Đà có 73 cái thác, âm
thanh tiếng thác mới ghê rợn lạ lùng. Khi thì nghe như oán trách, khi thì lại van xin có
lúc khiêu khích giọng gằn chế nhạo thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa đang phá tuông rừng lửa. Rừng lửa càng
gào thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nguyễn Tuân khiến người đọc phải kinh
ngạc thán phục khi lấy rừng lửa để tả nước. Nhà văn đã liên tưởng rất đắt vừa tạo nên
nét riêng vừa thấy được óc quan sát, cách nghĩ tài tình. Tác giả đã thức dậy cả một thế
giới thiên nhiên man dại đang ở đỉnh điểm của sự dữ dội. Không chỉ thế, sông Đà còn
hung hãn nham hiểm xảo quyệt độc ác với bao thạch trận của đá “bọt tung trắng xóa
cả một chân trời đá". Đá bày thạch trận trên sông với những ng đá tướng dữ tợn lạnh
lùng chỉ huy và đứng trấn giữa lớp lớp cửa sinh. Dưới con mắt tác giả đá sống động
như một nhân vật “mặt đứa nào cũng nhăn nhúm, méo mó đứng ngồi tùy sở thích".
Phối hợp với đá là sóng nước cũng sẵn sàng nhấn chìm, bẻ gãy những con thuyền trên sông.
Không chỉ dữ dằn hung bạo, sông Đà còn là một dòng sông trữ tình thơ mộng. Nhà
văn đã dùng hết tâm huyết tìm tòi mang đến cho người đọc về một con sông, một
vùng đất với dạt dào cảm xúc. Từ trên cao nhìn xuống “con sông tuôn dài như một
áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện giữa mây trời Tây Bắc bùng nở hoa ban hoa
gạo tháng 2, cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân. Nước sông Đà thay đổi theo
mùa. Mùa xuân dòng sông xanh màu ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ
như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Sông Đà được miêu tả bằng cách quan sát của
nhiều ngành nghệ thuật từ thi ca, hội họa. Dòng sông hiện lên mềm mại như một mái
tóc của người mĩ nữ. Con sông Đà gợi cảm với mỗi người, với Nguyễn Tuân sông Đà
như một cố nhân để rồi gặp lại với những niềm vui "như cái nắng giòn tan sau kì mưa
dầm", vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Bờ bãi sông Đà chuồn chuồn bươm bướm
bay lượn, nắng sông Đà đẹp như sắc nắng vàng hoe của yên hoa tam nguyệt há dương
châu trong thơ Đường. Có những đoạn miêu tả sông Đà với nét đẹp hoang sơ đầy kì
thú. Ven sông êm ả lặng tờ, một vẻ đẹp thấm đẫm chất thơ. “Thuyền tôi trôi trên sông
Đà, cảnh ven sông ở đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một thời tiền sử và hồn nhiên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
như nỗi niềm cổ tích. Con sông mang trong mình nét cổ kính thiêng liêng của hồn
thiêng sông núi. Cảnh đôi bờ cũng thật kì thú, thiên nhiên trong trẻo nguyên sơ
“nương ngô núi lá non, cỏ gianh đổ núi đang ra những nõn búp, đàn hươu cúi đầu ăn
cỏ". Một vẻ đẹp tinh khôi mơn mởn căng tràn nhựa sống! Dưới sông những đàn cá
dầm xanh quẫy vọt lên lòng sông bụng trắng như vạc. Hình ảnh sông Đà được nhìn
nhận ở nhiều chiều nhiều góc độ khác nhau với ngòi bút tài hoa, với sự am hiểu của
nhiều ngành nghệ thuật, nhà văn đã phát hiện, miêu tả sông Đà một cách đa dạng, biến
hóa bằng cả đôi mắt và tâm hồn của người nghệ sĩ.
Bằng trí tưởng tượng phong phú, tài năng uyên bác và tâm hồn nghệ sĩ tài năng nặng
lòng với quê hương, Nguyễn Tuân đã tạo nên một thiên tùy bút kì thú về vẻ đẹp của
dòng sông Đà mà tạo hóa đã ban tặng. Tùy bút này đã thể hiện rõ phong cách và trình
độ nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Tuân.
Hình tượng con sông Đà - Mẫu 14
Được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà năm 1960 của tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút
“Người lái đò sông Đà"của tác giả Nguyễn Tuân là kết quả của chuyến đi thực tế lên
Tây Bắc của tác giả từ năm 1958 đến năm 1960 khi mà miền Bắc đang thực hiện hàn
gắn vết thương chiến tranh bước đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tác phẩm là hình
ảnh của một con sông Đà chảy ngược so với những con sông khác ở Việt Nam mang
trong mình hai tính cách trái ngược nhau đó là hung bạo và dữ dằn, thứ hai là vẻ đẹp
trữ tình đầy thơ mộng.
Tác phẩm được viết theo thể loại đó chính là tùy bút có nghĩa là tùy vào người nghệ sĩ
phóng bút viết tự do, đây là một loại bút ký ghi chép người thật, việc thật và không hề
có cốt truyện cố định nào cả, đặc biệt hơn cả là nó in đậm cảm xúc chủ quan của chính
tác giả nhiều hơn là của các nhân vật trong tác phẩm. Tùy bút “Người lái đò sông
Đà"của tác giả Nguyễn Tuân là một trong những thể loại tùy bút như thế.
Để làm rõ vẻ đẹp của con sông Đà tác giả đã miêu tả nó ở hai khía cạnh đó chính là dữ
dằn và hùng vĩ, thứ hai là thơ mộng và trữ tình. Trước hết là tính cách hung bạo của
dòng sông, để thể hiện sông Đà là một dòng sông vô cùng hùng vĩ và dữ dội tác giả
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nguyễn Tuân đã hướng ngòi bút miêu tả diện mạo của con sông Đà: “đá dựng vách
thành", “đúng ngọ mới thấy mắt trời", “chẹt như một cái yết hầu", “nén nhẹ sang bên
kia bờ", “tối thì rất lạnh",… Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh bất ngờ đến lạ lùng
vừa gần gũi lại mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc thật tinh tế qua từng câu văn
dàn trải có sức tạo hình và đem lại những liên tưởng khác nhau cho người đọc.
Tiếp đến tác giả miêu tả cánh thoát nước của con sông Đà ở “quãng mặt ghềnh Hát
Loong dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được
quả đấy". Câu văn của Nguyễn Tuân trùng điệp co duỗi nhịp nhàng, tác còn sử dụng
kiểu câu móc xích thông qua động từ “xô"như xô từ câu văn này sang câu văn khác để
thể hiện vẻ dữ dằn, cuồn cuộn của con sông Đà. Đến “quãng Tà Mường Vát phía dưới
Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái miệng giếng bê tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đáy thở và kêu như cái cống bị sặc.
Trên mặt cái hút nước xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ như tiếng cánh quạ đàn.
Không thuyền nào dám men gần cái hút nước ấy,…"Tác giả sử dụng nghệ thuật so
sánh để miêu tả cái hút nước trên dòng sông giống như miệng của một cái giếng bê
tông, với những âm thanh được phát ra nhưng những tiếng thở của những đồ vật như
đang sắc như tiếng quạ. Tất cả để thể hiện cái dữ dằn và hung bạo của dòng sông Đà,
sau đó lại: “nghe như oán trách khiêu khích", “giống như một ngàn con trâu
mộng"đang trong một khu rừng bị cháy. Tác giả đã dùng lửa để miêu tả sức nước.
Tiếp đến tác giả miêu tả thạch trận của con sông Đà nó được tất cả làm ba vòng tất cả.
Vòng một gồm ba hàng luôn săn săn để ăn chết con thuyền, hàng một bao gồm có hai
hòn đá ở hai bên mở ra gồm một cửa sinh và có đến bốn cửa tử, tác giả đã vận dụng
kiến thức của ngành võ thuật và quân sự để miêu tả đoạn này của con sông Đà. Tiếp
đến là tâm địa hiểm ác và hết sức mờ ám của con sông khiến nó trở thành một loài
thủy quái khổng lồ và là kẻ thù số một của những người lái đò khi đi qua dòng sông,
nó luôn săn làm lật thuyền ở bất cứ chỗ nào, đá ngàn năm dựng thành vách hai bên bờ
của con sông nhưng có khi lại hiện ra lổm ngổm giữa sông lừa cho những con thuyền bị lật.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Tính cách thứ hai của dòng sông Đà mang vẻ đẹp huyền ảo, trữ tình thì tác giả miêu tả
dáng vẻ của con sông như một chiếc dây thừng ngoằn ngoèo, tác giả đã thay đổi góc
quan sát của mình từ trên mắt sông giờ chuyển sang là từ trên cao nhìn xuống. Tác giả
sử dụng nghệ thuật so sánh con sông Đà “như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc
ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa bạn, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn như
mùi khói núi Mèo đốt nương". Con sông Đà mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ Tây
Bắc kiều diễm, mỹ lệ. Nước của con sông đà thay đổi màu theo mùa. Bờ của con sông
hoang dại như một bờ tiền sử, hiện lên như một niềm cổ tích ngày xưa, tác giả còn gọi
con sông Đà như một cố nhân lắm chứng lắm bệnh,…
Thông qua việc miêu tả con sông Đà ở hai tính cách trái ngược nhau là hung bạo và
dữ dằn, tác giả Nguyễn Tuân nhằm thể hiện tình yêu quê hương đất nước và phong
cách nghệ thuật của ông đó chính là tài hoa uyên bác và sâu sắc, thích miêu tả, tô đậm
những ấn tượng phi thường trong câu văn của mình.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 15
Trong lịch sử nhân loại, mỗi dòng sông lớn đều bồi đắp nên một nền văn minh. Trong
địa hạt văn học Việt Nam, mỗi dòng sông đều gắn với một phong cách nghệ thuật. Ta
đã được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác, thấm
đẫm nỗi nhớ nhà trong “Tràng Giang"của Huy Cận; hay một khung cảnh đìu hiu, cách
biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong “Bên kia sông Đuống"của Hoàng Cầm.
Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, là khách thể để các nhà thơ bày tỏ lòng mình
thì đến với Người lái đò sông Đà, người đọc mới cảm nhận được rõ nét về một tác
phẩm viết về một dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, hình
ảnh dòng sông “độc bắc lưu"hiện lên với những vẻ đẹp độc đáo. Trên cái nền thiên
nhiên kì vĩ ấy, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong
những người lao động bình thường mà ông luôn gọi là “chất vàng mười đã qua thử
lửa"bấy lâu mình vẫn khao khát, kiếm tìm.
“Người lái đò sông Đà"được sáng tác vào năm 1958 và được in vào tập “Sông
Đà"năm 1960. Trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
lớn không chỉ thỏa mãn khát khao xê dịch mà chủ yếu là tìm kiếm chất vàng của thiên
nhiên Tây Bắc và thứ vàng mười đã qua thử lửa nơi tâm hồn con người.
Mở đầu bài là lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu". Khẳng
định nét độc đáo của dòng sông Đà: Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ có
sông Đà chảy theo hướng Bắc. Khẳng định cá tính độc đáo của Nguyễn Tuân trong
dòng sông văn chương: Một nhà văn có ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, về bản ngã,
về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ thuật.
Nguyễn Tuân không khỏi làm ta ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con Sông Đà.
Cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng “Mặt sông chỗ
ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời". Lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn, “Có
vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném
hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ
kia". “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên
cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo,
Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, bí ẩn của dòng sông. Một nơi lòng sông nhỏ
hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách đá cao vút, vững chãi giờ đây đang trở nên
nguy hiểm vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến
không được, lùi cũng không xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Quần thể thiên nhiên: nước, sóng, gió và đá sông Đà “Lại như quãng mặt ghềnh Hát
Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm…". Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió"như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều
ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, cuồn cuộn ghê rợn trên mặt ghềnh.
Từ trên nhìn xuống mặt sông: những cái hút nước “như những cái giếng bê tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu", “những cái hút xoáy tít đáy". Từ dưới lòng
sông nhìn ngược lên: “thành giếng xây bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh
khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Những âm thanh ghê rợn “Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", “những cái
giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào"khủng bố tinh thần con người, “thở
và kêu như cửa cống cái bị sặc", “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào", sẵn sàng
nhấn chìm bất kì con thuyền nào không kịp chèo nhanh hay tay lái không vững, hoặc
bất kì bè gỗ nào vô ý khi đi qua chúng. “Không thuyền nào dám men gần những cái
hút nước ấy, thuyền nào cũng trèo nhanh để lướt quãng sông", “chèo nhanh và tay lái
cho vững mà phóng qua cái giếng sâu", “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là
những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống", “có những thuyền đã bị cái hút nó hút
xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới
lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới". Ám ảnh, đe dọa
con người. Những âm thanh man rợ của sông Đà gợi liên tưởng đến một loài động vật
hung dữ, đang cuồng loạn tìm lối thoát thân. Hùng vĩ, choáng ngợp bởi một chân trời
đá với những bọt nước trắng xóa mờ đi trên mặt sóng“. Tới cái thác rồi, ngoặt khúc
sông lượn, sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá".
Tác giả đã dùng kiến thức về quân sự, võ thuật, thể thao, thủ pháp nghệ thuật nhân
hóa, thậm xưng để làm nổi bật cái nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà. Dưới ngòi bút
của Nguyễn Tuân, con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một"của
con người. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh
Thủy Tinh: “Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 16
Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Những
tác phẩm của ông viết bằng cái “ngông"và bằng tình yêu tha thiết. “Người lái đò sông
Đà"là bài tùy bút lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình ảnh con sông Đà được nhìn
qua lăng kính tâm hồn nghệ sỹ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo
đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng hình tượng sông Đà
bằng chất liệu ngôn ngữ và tình cảm phong phú.
Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi
chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy". Có thể nói phải thật tinh tế và khéo
léo mới có thể nhận ra sự chuyển đổi của sông Đà như vậy.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Sông Đà hiện lên là dòng sông hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược, không chảy theo
khuôn khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông Đà được tác giả viết “đá bờ sông,
dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời. Có vách đá
thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá
qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia". Chỉ
với vài chi tiết phác họa con sông đà hiện lên với nhiều phức tạp, khó khăn, nguy
hiểm khôn lường. Tác giả đã diễn tả cảm xúc khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở
hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mất
vừa vụt tắt điện". Một lối so sánh độc đáo, đầy táo bạo và cũng không kém phần tinh
tế. Sông Đà đẹp, nhưng đẹp vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.
Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc bất ngờ hơn nữa khi miêu tả
sự hùng vĩ, hung dữ đó “quãng mặt ghềnh hát loong, dài hàng cây số nước xô đá, đá
xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuyết bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy". Sông Đà hiện lên như một kẻ
bất chấp hết, có thể lấy đi tính mạng của những ai vô tình đi qua đây. Thật táo bạo, mãnh liệt và mạnh mẽ.
Khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng thác réo, người đọc có cảm tưởng như đang đứng
trước sông đà hùng vĩ chiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng đó “Như là oán trách gì, rồi lại
như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. tiếng thác rống như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Những
câu văn với giọng điệu dồn dập, gay cấn, đầy cảm xúc. Một cảnh tượng hùng vĩ, nguy
hiểm vô cùng. Một cách so sánh, tuyệt vời, hiếm thấy trong văn học. Nguyễn Tuân
thực sự là bậc thầy của ngôn ngữ, ông thổi hồn vào những con chữ, khiến con chữ như
biết nói, biết rung động.
Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành ba trận chiến, người lái đò muốn vượt qua dòng
chảy này thì phải vượt qua ba trận chiến hiểm trở, táo bạo này. Với giọng văn dồn
dập, tác giả kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái đò. Trận thứ nhất “mặt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo. Sóng nước như thể quân
liều mạng vào sát nách…"Sang đến trận thứ hai “tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa
con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua bên phía bờ hữu ngạn". Sang đến trận
thứ ba dường như ít cửa hơn nhưng lại quyết liệt và mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên
không khác nào một con thủy quái đang đòi nuốt chửng người lái đò và chiếc thuyền
bất cứ lúc nào có thể. Con sống chính là “kẻ thù số một"của người lái đò, với tất cả
đặc tính nham hiểm, thâm độc nhất.
Tuy nhiên bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sông Đà còn hiện lên thật
nên thơ và trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân “sông Đà
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đốt nương xuân". Thật
tài hoa và thật trữ tĩnh, một hình ảnh tuyệt đẹp hiện lên giữa rừng núi hiểm trở Tây
bắc. Đặc biệt khi tác giả miêu tả nước của dòng sông mới thật tuyệt vời và thi vị biết
bao “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu canh hến
của sông Gâm sông lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi vì rượu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu
về". Những từ ngữ mượt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm có của một dòng sông
tưởng chừng chỉ có giận dỗi và hung dữ.
Sông Đà có những lúc buồn mênh mang và hoang sơ đến lạ kỳ “Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích xưa". Thật là một vẻ
đẹp nhẹ nhàng, chân chất và tươi mới biết bao nhiêu.
Qua đôi mắt người lái đò, hay là đôi mắt của tác giả sông Đà tạo nên những dòng cảm
xúc thật lạ kì, thần tiên và mộng mơ quá đỗi. Có lẽ khi yêu mảnh đất này, cảm nhận
nó ở mọi khía cạnh đều toát lên vẻ đẹp không phải nơi nào cũng có được. Và sông Đà
cũng vậy, một vẻ đẹp khiến người đọc phải ngỡ ngàng.
Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông
Đà"lại ám ảnh người đọc cho đến sau này. Một vẻ đẹp hùng vĩ, hung dữ của thiên
nhiên đan xen sự thơ mộng, nhẹ nhàng như chốn bồng lai. Đó chính là sự thành công của Nguyễn Tuân.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 17
Đất nước Việt Nam ta với trăm sông, nghìn núi. Biết bao nhiêu con sông đã bước vào
thơ ca, khơi nguồn cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ. Trong số những dòng sông ấy, ta phải
kể đến con sông Đà. Nó là đối tượng cảm hứng của các bậc tao nhân mặc khách
nhưng có lẽ đến với Nguyễn Tuân, sông Đà mới thực sự trở nên chân thực, sống động.
Là nhà văn cả đời theo chủ nghĩa duy mĩ, trước Cách mạng, ông đi tìm cái đẹp ở một
thời vang bóng. Sau Cách mạng tháng Tám , Nguyễn Tuân lại tìm thấy cái đẹp ở ngay
trong cuộc sống đời thường của nhân dân lao động. Ông gọi đó là “chất vàng mười đã
qua thử lửa"còn theo Nguyễn Minh Châu đó là “viên ngọc ẩn giấu trong chiều sâu tâm
hồn của con người Việt Nam". Toàn bộ vẻ đẹp ấy ánh lên trong thiên tùy bút “Sông
Đà"sáng tác năm 1958 – 1960 với linh hồn là bài kí “Người lái đò sông Đà". Với tác
phẩm “Người lái đò sông Đà", ngòi bút của Nguyễn Tuân đã thực sự nở hoa trên dòng
sông văn chương của mình.
“Người lái đò sông Đà"là bài tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập
Sông Đà năm 1960. Sông Đà là thành quả chuyến đi gian khổ và hào hứng của
Nguyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1958 – 1960,
chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khát khao xê dịch mà chủ yếu để tìm kiếm
chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ
vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn con người Tây Bắc trong cuộc sống hằng ngày
của họ. Tác phẩm đã thể hiện nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn ưa cảm giác mạnh. Với Nguyễn, đã là
đẹp phải đẹp tuyệt mĩ, đã là dữ dội phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Ông
không thích những gì tầm thường. Con sông Đà đáp ứng được hai xúc cảm của
Nguyễn Tuân vì con sông Đà mang trong mình hai tính cách trái ngược nhưng thống
nhất với nhau. Ở phần thượng lưu, con sông vô cùng hung bạo, dữ dội. Nhưng ở hạ
nguồn, nó lại toát lên một vẻ đẹp rất trữ tình, thơ mộng.
Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong
thiên tùy bút này. Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh " (Ca dao)
Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai
đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu " , một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ
thường. Như đã nói ở trên, sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, xin nhập quốc tịch Việt
Nam. Nó phải trải qua rất nhiều triền núi đá. Vì vậy, ở phần thượng lưu của sông Đà
có rất nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy… Từ đó, Nguyễn đã tìm thấy
những tính cách hung bạo khác thường của dòng sông. Nhưng khi xuôi về phần hạ
lưu, lòng sông như được mở rộng ra, con thác không còn nữa, dòng nước trôi êm đềm,
hiền hòa qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt và sông Đà lại hiện lên vô cùng lãng mạn, thơ
mộng, trữ tình. Ngoài ra, Nguyễn nhìn thấy sự hung bạo của con sông Đà không chỉ
tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xoáy. Ông còn nhìn thấy sự hung bạo ấy ở
những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng của núi rừng Tây Bắc.
Cái hùng vĩ, sừng sững của sông Đà được thể hiện ngay ở cảnh đá bờ sông: “đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá
qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi
trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như
đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ
mấy nào vừa tắt phụt đèn điện " .
Cảnh đá bờ sông được miêu tả dựng vách thành, sự so sánh và liên tưởng khá độc đáo
khiến con sông Đà hiện ngay ra trước mắt người đọc như thành quách sừng sững,
đứng án ngữ ngay trước mặt những du khách khi đặt chân đến đây. Bằng nghệ thuật
so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp
như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại xiết hơn nữa. Cứ thử tưởng tượng
con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ
chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nguyễn Tuân cho người đọc cảm nhận bằng trực cảm như chính mình được lái đò qua
quãng sông hẹp với những vách đá dựng đứng hai bên. Cái lạnh rợn người được so
sánh như ta đang đứng giữa mùa hè mà ngột ngạt bởi cái chật hẹp, tối đến bất ngờ và
sâu thăm thẳm như đứng ở dưới một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn tràn dòng với
những liên tưởng của liên tưởng cho thấy sự tài hoa và uyên thâm trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn.
Cũng như đá bờ sông, thì “quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá,
đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy " . Bằng kết cấu
trùng điệp: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió " tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của
con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. Không có
từ nào trực tiếp tả ghềnh đá nhưng người đọc hình dung rõ diện mạo con sông. Quãng
dài ghềnh đá nổi trên mặt sông, nước mạnh xô ghềnh tạo sóng dữ, sóng cuộn trào sinh
ra gió thổi rít lên gùn ghè, gùn ghè quanh năm suốt tháng. Con sông đến đây đã trở
thành một kẻ thù nguy hiểm của con người. Với nghệ thuật nhân hóa, con sông như
một kẻ thù tính khí thất thường, đòi nợ vô duyên cớ không bỏ sót một ai. Ấy mới thấy
hết cái hung bạo của sông Đà. Sự kết hợp ngẫu nhiên hay có lựa chọn giữa tên địa
danh với đặc điểm của sông Đà ở quãng sông này? Chỉ biết khi Nguyễn tả luồng gió
gùn ghè nơi mặt ghềnh lại nằm đúng vị trí Hát Lóong. Đọc tên địa danh mà phải nén
hơi, uốn lưỡi như chính như chính mình vừa phải đi qua chỗ nước giữ, với sóng, với
đá, với ghềnh thác của sông Đà.
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa.
“Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng
đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút
nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số
ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh
và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới " . Những cái bẫy ghê sợ, chết người!
Vẫn là nghệ thuật so sánh liên tưởng độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa nước biết
thở và kêu nghe đã đủ cho người đọc rùng mình nhưng Nguyễn Tuân không dừng lại
ở đó mà tiếp tục thử độ lì trong giác quan của người đọc khi so sánh và liên tưởng với
cái cửa cống cái bị sặc nước. Khi dòng chảy siết, nó thở và kêu, nhưng kêu như thế
nào thì nhà văn lại tiếp tục tả những cái hút nước ở độ sâu: cái hút xoáy tít đáy, như
cái giếng sâu cho thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như những
cánh quạ đàn; rồi âm thanh : những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào, cuối cùng là độ nguy hiểm: Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền
trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến
mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới . Hình ảnh sông Đà qua ngòi bút
của Nguyễn, có lẽ không chỉ làm những người lái đò qua đây cảm thấy rùng rợn mà
chính người đọc cũng như vừa tự mình chèo thuyền qua quãng sông này mà thử cảm
giác. Thế nên khi chèo thuyền men qua những vực nước sông Đà cần phải chèo nhanh
để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng
đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Cảm giác lạnh người và rợn tóc gáy vì câu văn tác
động mạnh mẽ vào trực cảm của người đọc.
Cho cảm giác thật đến từng mi-li-met nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng điệp.
Khi nhập vào vai một anh thợ quay phim táo tợn muốn truyền cho người đọc cảm giác
lạ đã dũng cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng rồi thả mình và thuyền văng xuống
cái hút nước sông Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn lên vách thành hút chênh nhau
đến vài sải tay. Người xoay theo thuyền cả thuyền, người, máy ảnh quay tít. Nhìn lên
nước sông Đà trong cái hút ấy làm bằng một màu xanh ngọc bích của một khối pha lê
đúc dày như sắp vỡ tan ụp vào cả người quay lẫn người xem, khiến ai cũng như đang
khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái mép lá rừng vừa bị cho vào cái cốc pha lê mà quay tít
như vừa rút ra cái gậy đánh phèn. Liên tưởng của liên tưởng để người đọc có thể cảm
nhận rõ nhất. Phải có sự am hiểu về kiến thức trong lĩnh vực điện ảnh thì Nguyễn mới
có thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà
và trên trang văn của Nguyễn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi
lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng " . Nghệ thuật so sánh,
nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “ rất đắt ", Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh
tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm tận độ. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại
dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc
với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà
Nguyễn Tuân đã làm được điều đó như một nghệ sĩ bậc thầy! Trước mắt người đọc là
cả một rừng vầu, tre nứa hàng ngàn cây đang bị đốt cháy và phát ra tiếng nổ nhưng
chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang cháy ấy lại được thả vào đó hàng ngàn
con trâu mộng to khỏe, nên khi da của chúng bị đốt cháy và nóng thì chúng sẽ lồng
lộn mà phá tan rồi tìm đường thoát thân. Khi chạy, nó va đập mạnh vào những cây tre,
cây nứa tạo nên những tiếng nổ lớn, liên hoàn như âm thanh vang la não bạt, kinh
thiên động địa. Hình ảnh của Nguyễn tác động mạnh mẽ lên hệ thần kinh người đọc
để mang đến cảm giác chân thực và sống động nhất. Con sông ấy như một kẻ lắm
mưu, nhiều kế để khiêu khích người lái đò. Nó biết: oán trách, van xin, khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Bộ mặt và tâm địa của một người xấu xa, lắm mưu, nhiều kế
kẻ thù số một của con người.
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào
trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ
này " . Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi
nguy hiểm. Khi miêu tả thạch trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong
lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối tượng miêu tả.
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa
sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như
là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ
nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa,
chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào
sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền
lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa
trận nước vang trời thanh la não nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc
nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò " . Trận chiến
đầu, sóng nước là tuệ binh mà con sông tung ra để thử thách người lái đò. Nhưng
bằng sự mưu trí, dũng cảm, ông lái đã vượt qua dễ dàng.
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai : “Tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi
chiếc thuyền " . Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông
lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè
thất vọng " . Bọn đá, sóng nước dở những món đòn hiểm độc và tinh vi nhất!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng
sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những
boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta
liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng
thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn
được , tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về
phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa".
Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy
trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện
mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một " . Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp
làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái
đò Sông Đà " . Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh
Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Viết về Đà giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân vô cùng phóng túng, thoải mái bởi “
Người Lái Đò Sông Đà " được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một nhà
quay phim lão luyện. Có khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sông Đà từ phía viễn
cảnh. Có đôi lúc, ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp,
cắt từng đoạn sông để mô tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh “đá
bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. " Thậm
chí có những đoạn “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt
từ bờ này sang bờ kia. "
Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ
yếu kiến thức võ thuật và quân sự để miêu tả sự vận động của dòng nước. Ông cũng
cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của độc giả.
Ở đây, ta thấy xuất hiện những câu văn rất ngắn gồm toàn thanh trắc với hơn 300
động từ mạnh cùng kết cấu điệp trùng miêu tả sự khẩn trương, gấp gáp của nước, của
đá, của sóng và của gió. Thể hiện rõ nhất đó là đoạn mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng
cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. "
Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả sự hung bạo của Đà giang ở những
hút nước với cách liên tưởng vô cùng táo bạo. Đó là đoạn Tà Mường Vát ở phía dưới
sông La: “Có những con thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây
chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới
thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. " Thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn nhìn thấy sự hung
bạo ở mùa lụt của con sông Đà. Mùa lụt của sông Đà vẫn còn cái ngấn nước ở cổng
châu Quỳnh Nhai. Ngày lụt sông Đà, xác hươu, xác nai cùng gỗ Chò Vẩy, Chò Hoa
trôi lềnh bềnh trên mặt sông. Nguyễn Tuân ví lúc này dòng sông Đà chẳng khác nào
“kẻ thù số một"của người dân Tây Bắc. Khi hung bạo thì cực kì nguy hiểm, tâm địa
độc ác đến tột cùng.
Con sông Đà hung bạo đâu bởi thiên nhiên gây ra với: thác dữ, những luồng chết, vực
xoáy mà Nguyễn Tuân còn thấy đó là do con người. Đó chính là bọn thổ ti lang tạo đã
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
đắp bến chia ngăn dòng sông Đà, khiến con sông trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của
người dân Tây Bắc. Đó còn là bọn thực dân Pháp đóng đồn bốt ở hai bên bờ sông
khiến Đà giang trở nên càng hung bạo. Rõ ràng, con sông Đà mang cốt cách của
người dân Tây Bắc. Nhìn rộng ra, ta thấy những con sông hầu như đều mang nét đẹp
văn hóa vùng miền nơi nó đi qua. Nếu “sông Hương"của Hoàng Phủ Ngọc Tường
mang vẻ đẹp trầm mặc của cố đô và người dân Huế thì con sông Đà lại là biểu tượng,
lại mang cái văn hóa của người dân Tây Bắc. Như vậy, có thể khẳng định Đà giang
qua ngòi bút của Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội đến khác thường, tột đỉnh, thể hiện rất
rõ phong cách rất riêng của Nguyễn Tuân –một phong cách rất “ngông " .
Nguyễn Tuân miêu tả hình dáng sông Đà nhìn từ trên cao xuống để phát hiện ra vẻ
đẹp tòan diện của con sông, thơ mộng, mềm mại và đẹp ngay từ hình dáng. Từ trên
cao, tác giả nhìn thấy con sông Đà dài như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân
mình . Nó biết mềm mại, uốn lượn qua các dãy núi, triền đồi, các ghềnh thác để làm
cho mình trở nên dịu dàng, nữ tính.
Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm
nét thơ mộng, trữ tình: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân " . Một câu văn với nghệ thuật kết cấu
trùng điệp và cách so sánh liên tưởng gần gũi, sông Đà đã hiện lên như một cô thiếu
nữ của mảnh đất Tây Bắc đẹp e lệ, dịu dàng. Cô gái ấy có mái tóc tuôn dài, mềm mại.
Mái tóc ấy lại được ẩn hiện trong mây trời của Tây Bắc, của khói sương mờ ảo khi
người dân đốt nương làm rẫy vào mùa xuân với những chùm hoa ban với sắc trắng,
sắc tím và màu đỏ tươi của hoa gạo tháng ba – phảng phất vị Đường thi. Nếu nhìn và
cảm nhận, con sông hiện lên hiền hòa và dịu dàng như một cô gái đang e lệ với mái
tóc dài buông xõa, trên mái tóc đen óng ả ấy cài điểm những bông hoa ban, hoa gạo
sặc sỡ sắc màu, và cô thẹn thùng che mặt bằng một tấm khăn voan mỏng manh màu
trắng khi bước những bước chân ngập ngừng, e ấp về nhà chồng. Còn gì đẹp, thơ
mộng và trữ tình hơn khi ví dòng sông Đà với hình ảnh một cô thiếu nữ đang thẹn
thùng cất bước chân về nhà chồng. Ngòi bút của Nguyễn không chỉ thể hiện sự tài hoa
mà còn là sự tinh tế thông qua sự liên tưởng độc đáo và cách so sánh trùng điệp, một
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
cách so sánh tài hoa, đượm chất phong tình. Hơn nữa, nếu để ý hẳn độc giả bạn đọc sẽ
nhận thấy trong thơ ca cổ trung đại, các bậc tao nhân thường lấy thiên nhiên làm
chuẩn mực cho con người. Làm sao quên được hình ảnh:
“Cổ tay em trắng như ngà
Đuôi mắt em sắc như là dao cau
Nụ cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen "
Ngược lại, đến với Nguyễn, con người là chuẩn mực để so sánh. Ông kéo thiên nhiên
lại gần với con người. Với Nguyễn Tuân, con người là trung tâm của vũ trụ, là một
tiểu vũ trụ. Vì vậy, ông nhìn sông Đà như áng tóc của người thiếu nữ.
Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, nó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa
xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của
Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm
đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu
về " . Nguyễn tả sắc xanh của nước sông Đà cũng lạ lẫm, màu xanh ngọc bích, sắc
xanh trong vắt như pha lê, ngọc thạch mà mắt người có thể nhìn thấu đáy. Để thấy
được sắc xanh như màu xanh của sông Đà là hiếm và khác biệt với nhiều dòng sông
khác Nguyễn Tuân đã so sánh màu sắc của nước sông Đà với màu nước của sông
Gâm, sông Lô là màu xanh đục lờ lờ canh hến. Sắc nước mùa thu của sông Đà tự thân
nó không thể coi là đẹp nhưng cái đẹp đáng nói ở đây chính bởi sự làm duyên của con
sông. Mùa thu nước sông Đà dần thay màu, nó lừ lừ và rồi chín đỏ như mặt người
đang tím bầm vì rượu bữa, hoặc của một người đang bất mãn, đang bực bội mỗi độ
thu về. Xanh trong, dịu dàng là thế vào mùa xuân mà lại chuyển ngay sang sắc tím đỏ
giận dỗi vào mùa thu. Thế mới biết tính khí của con sông kia cũng thất thường lắm,
dịu dàng đấy mà giận dỗi được ngay. Không chỉ có tính cách đa dạng mà chúng ta
thấy sông Đà hiện lên như một cô gái biết trưng diện, biết điệu đà bởi mỗi mùa cô ấy
tự thay tấm áo đã cũ màu, khoác cho mình tấm áo mới, luôn luôn thay đổi, luôn tự làm
mới mình để đẹp hơn, hấp dẫn hơn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt
há Dương Châu " , làm cho người đi rừng dài ngày bất ngờ gặp lại con sông “vui như
thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng " . Với nghệ
thuật so sánh cụ thể Nguyễn đã cho người đọc thấy được tình cảm, cảm xúc của mình
đối với con sông của miền tây tổ quốc, không chỉ đơn thuần là cảm xúc của một con
người đối với một con sông mà đó là xúc cảm của những “cố nhân"sau bao ngày xa
cách. Niềm vui ấy như tiếng cười giòn tan trong ánh nắng của mặt trời bừng chói sau
một kì mưa dầm ẩm ướt, hay như một giấc chiêm bao ngọt ngào nhưng ta choàng tỉnh
giấc và giờ đây lại được nối lại. Niềm vui của sự hân hoan và mãn nguyện sau bao nỗi đợi chờ.
Sông Đà với Nguyễn như một “cố nhân " , nhưng khổ nỗi cố nhân này lại “lắm bệnh
lắm chứng, chốc dịu dàng đấy rồi chốc lại bẳn tính, thác lũ, gắt gỏng ngay đấy " . Ấ y
thế mà khi được gặp lại cố nhân lại trào dâng một cảm giác đằm đằm, ấm ấm. Phải
chăng bởi con sông kia quá gợi cảm và quyến rũ. Nét quyến rũ của một “người tình
nhân chưa quen biết " .
Sông Đà còn có những khoảng không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng : “Cảnh
ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng
lặng tờ đến thế mà thôi ". Cái lặng lẽ của thanh bình, yên ả mà có lẽ bất cứ một tâm
hồn khó tính nào cũng muốn ở trọ nơi đây.
Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ : “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa " . Chút hoang dại của lịch
sử đất nước thời khai thiên lập địa, chút hồn nhiên của tuổi thơ với bao mơ mộng gửi
theo những câu chuyện cổ tích mà mẹ, bà thường hay kể, tất cả lại về đây hội tụ trên
bờ sông Đà vừa hoang vu, vừa hồn nhiên, thơ trẻ.
Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những
cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm
sương đêm " . Một cảnh thơ mộng, tuyệt đẹp trong mùa xuân với sự sống đang cựa
mình, sinh sôi. Thực và mộng chảy tràn vào nhau. Trong lúc đang thưởng thức cảnh
sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy “thèm được
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ –
Yên Bái – Lai Châu " , được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên
tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không một bóng người " , “một nương ngô nhú lên
mấy lá ngô non đầu mùa " mà không có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Từ quá khứ nhà văn trở
về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá,
đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp
tiếng cười. Rõ ràng cảnh vật nếu không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt
mà thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với
loài vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi
lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi
bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng
vừa nghe thấy một tiếng còi sương? " . Con vật hỏi người hay chính người đang say
trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những khoảng
lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của
“đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn
hươu vụt biến " đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật
tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc
đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà văn có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà
khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình " của “
một người tình nhân chưa quen biết " . Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn,
dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng
nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi " . Con sông trở
nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn
những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên " . Đó là niềm mong ước
của nhà văn nửa muốn gìn giữ những nét nguyên sơ của con sông, nửa muốn cải tạo
mà khai phá nó để phục vụ con người – đó phải chăng cũng là lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn?
Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn, trữ tình đồng
thời vô cùng kiều diễm. Nếu ở đoạn văn trên, Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà hung
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
bạo với những kiến thức nền chủ yếu là quân sự hay võ thuật cùng những câu văn
ngắn, nhiều động từ, nhiều thanh trắc thì đến đoạn văn này, Nguyễn Tuân chủ yếu sử
dụng kiến thức du lịch, kiến thức lịch sử và kiến thức văn học với câu văn vươn dài ra
như nhịp chèo khoan thai của “ thuyền tôi trôi trên sông Đà ". Nếu để ý, người yêu
văn hẳn sẽ nhận thấy có đến 14 câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để
tạo cảm giác mênh mang mềm mại. Người yêu văn có thể dễ dàng chuyển thẳng
những đoạn văn Nguyễn Tuân viết về dòng sông Đà ở hạ lưu thành những bài thơ trữ
tình viết bằng văn xuôi. Phong cách nghệ thuật này trước cách mạng ta chỉ bắt gặp ở
nhà văn Thạch Lam với lối viết truyện không mâu thuẫn, không kịch tính, không gay
cấn, truyện như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Đến đây, ta lại bắt gặp ở nhà
ngôn ngữ tài ba Nguyễn Tuân một phong cách nghệ thuật tương tự.
Khi viết về sông Đà, Nguyễn Tuân đã bộc lộ rõ mình là một nhà văn với tình yêu quê
hương đất nước tha thiết bởi trong văn chương nghệ thuật, viết về sông núi là viết về
giang sơn mà viết về giang sơn, là viết về Tổ quốc. Đây là tình yêu nhất quán trong
cuộc đời cầm bút của nhà văn. Trước Cách mạng, tình yêu quê hương Tổ quốc của
Nguyễn Tuân được bộc lộ một cách thầm kín thông qua tác phẩm “ Thiếu quê hương "
. Đó là nỗi lòng của những con người “sống giữa quê hương nhưng vẫn thấy mình
thiếu quê hương. " Còn nói như Chế Lan Viên:
“Nhân dân ở quanh ta mà sao chẳng thấy
Tổ quốc ở quanh mình mà có cũng như không "
Giờ đây, khi viết về con sông Đà, ánh sáng Cách mạng đã rọi chiếu vào tâm hồn của
nhà văn, phù sa của nhân dân đã bồi đắp cho văn chương của nhà văn. Ông đứng giữa
dòng sông Đà, đứng giữa nhân dân Tây Bắc để bộc lộ trực tiếp tình yêu nước sâu sắc
qua từng câu chữ. Không yêu sao được khi ông đến với Đà giang, viết về một con
sông hùng vĩ, ông đã đọc hàng trăm trang cổ sử, hàng trăm trang “Dư địa chí", đọc
biết bao nhiêu áng thơ trữ tình của Tản Đà, của Lí Bạch, của Nguyễn Quang Bích,…
nhưng viết về Đà giang, Nguyễn không bị lệ cổ, không bị tập cổ, không bị ảnh hưởng
bởi người xưa mà đã tái tạo mới trên từng trang viết vì nói như Nam Cao: “Văn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn
chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có. "
Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ, vừa dữ dội nhưng cũng
vô cùng mĩ lệ, trữ tình và vô cùng lãng mạn. Hai tính cách ấy đặt bên cạnh nhau
nhưng không hề bài trừ nhau mà lại tôn vinh nhau, khiến con sông Đà trở nên chân
thực sống động, cựa mình trên trang viết. Quan trọng hơn, đằng sau dòng sông ta thấy
hiện lên một bức chân dung của một Nguyễn Tuân với tình yêu quê hương đất nước;
một Nguyễn Tuân đã được ánh sáng của Đảng soi rọi, được phù sa của nhân dân bồi
đắp; một Nguyễn Tuân với tâm hồn mà như Tố Hữu đã viết:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim "
Như vậy, Nguyễn Tuân viết bài kí “Người lái đò sông Đà"bằng một tâm hồn rộn ràng
tiếng chim như thế, bằng một tâm hồn như một vườn hoa thơm quả ngọt. Rõ ràng ông
là người chiến sĩ trên mặt trận văn chương.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 18
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo và tài hoa trong nền văn
học Việt Nam hiện đại. Ông là một trong số những nhà văn có nhiều đóng góp cho sự
phát triển của thể loại tùy bút và tiếng Việt. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà"in trong
tập “Tùy bút sông Đà"là một trong số những sáng tác tiêu biểu và xuất sắc nhất của
ông. Là kết quả của chuyến đi thực tế lên miền Tây Bắc của Tổ quốc, với cảm hứng
ngợi ca, yêu mến quê hương, đất nước, tùy bút “Người lái đò sông Đà"đã xây dựng
thành công hình tượng con sông Đà – một sinh thể có hồn với những tính cách trái
ngược, đầy mâu thuẫn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Trước hết, hình tượng con sông Đà hiện lên với tính cách hung bạo, dữ dội. Có lẽ, sự
hung bạo, dữ dội chính là đặc điểm nổi bật của thiên nhiên Tây Bắc và với sông Đà,
sự hung bạo, dữ dội của nó hiện lên ở nhiều phương diện khác nhau. Nếu mọi dòng
sông đều chảy về hướng đông thì chỉ có duy nhất sống Đà chảy về hướng bắc và có lẽ
chỉ với dòng chảy này thôi cũng đã phần nào thể hiện được cái hung bạo, ngạo nghễ
khác thường của sông Đà. Không dừng lại ở đó, bằng trí tưởng tượng phong phú, độc
đáo và nghệ thuật nhân hóa đặc sắc, nhà văn Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm
nhận rõ nét sự hiểm nguy của sông Đà qua hàng loạt hình ảnh, từ ngữ, câu văn miêu tả
chi tiết những vách đá dựng đứng nơi sông Đà, “hẹp đến mức có quãng con nai con hổ
nhảy vọt từ bờ này sang bờ kia hoặc nhẹ tay ném hòn đá cũng qua hoặc chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.
Cùng với những vách đá, cái dữ dội của sông Đà còn được Nguyễn Tuân lột tả qua
hình ảnh mặt ghềnh Hát Loong, “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió". Với điệp từ “xô"được lặp lại nhiều lần đã diễn tả cuộc truy đuổi quyết liệt của
sông Đà hòng cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu con người, bao con thuyền và bè
gỗ đi qua nơi đây. Thêm vào đó, mặt ghềnh nói riêng, dòng sông nói chung cũng
mang trong mình một tâm trạng. Tâm trạng ấy được thể hiện rõ nét qua việc sử dụng
từ láy “gùn ghè"đầy sáng tạo, qua đó bộc lộ thái độ hậm hực, tức tối, dọa dẫm. Những
cơn gió vốn vô hình cũng được hữu hình hóa với dáng vẻ giận dữ, đầy dữ dội qua việc
sử dụng từ láy “cuồn cuộn". Dòng sông giống như kẻ thù, mang tâm địa ác độc, luôn
tìm cách cướp đi tính mạng của con người.
Không chỉ dừng lại ở mặt ghềnh Hát Loong, sự dữ dội của sông Đà còn được tác giả
Nguyễn Tuân làm rõ qua những thác nước với âm thanh vang dội đến rợn người của
chúng. Dòng thác cuồn cuộn như đang mở hết âm lượng tiếng thét của thiên nhiên
bừng bừng phấn khích, mạn rợn và hoang dại. Từ âm thanh của tiếng thác, tác giả đã
giúp người đọc cảm nhận được tâm trạng, tính cách hung dữ của sông Đà – sông Đà
thực sự như một con thủy quái, đang khiêu khích, thách thức điên loạn, thù hận con người.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Đặc biệt, sự độc dữ của sông Đà được tác giả Nguyễn Tuân tập trung làm nổi bật qua
việc miêu tả cụ thể, rõ nét những cái hút nước. Nguyễn Tuân đã miêu tả những cái hút
nước với hàng loạt chi tiết nghệ thuật đặc sắc và để lại ấn tượng sâu sắc. Tác giả đã sử
dụng hình ảnh so sánh “hút nước như những cái giếng bê tông"kết hợp liên tưởng
“trên mặt cái hút nước xoáy tít đáy đang lừ lừ những cánh quạ đàn"với cách dùng từ
độc đáo “xoáy tít đáy"đã gợi tả một cách cụ thể, ấn tượng những hút nước sâu và nguy
hiểm, mặt sông có những dòng xoáy nhanh và mạnh. Đồng thời, tác giả còn miêu tả
âm thanh của những cái hút nước bằng biện pháp so sánh và nhân hóa “nước ở đây
thở và kêu như cửa sông cái bị sặc", “giếng sâu", “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào"giúp người đọc cảm nhận được sự dữ dội và nguy hiểm của xoáy nước. Cùng với
đó, sự nguy hiểm của sông Đà còn được miêu tả qua hình ảnh liên tưởng, so sánh độc
đáo “những con thuyền đi qua quãng đó phải chèo thật nhanh y như ô tô sang số ấn ga
để hút qua". Hơn thế nữa, tác giả còn mượn góc nhìn của điện ảnh để tăng cường khả
năng quan sát, diễn tả để người đọc có thể cảm nhận rõ nét về dòng sông. Như vậy,
hình ảnh những cái hút nước được miêu tả tỉ mỉ từ hình dáng, màu sắc, âm thanh. Tác
giả đã sử dụng hàng loạt hình ảnh so sánh, nhân hóa, liên tưởng để làm bật nổi hình
ảnh những cái hút nước nguy hiểm, truyền đến người đọc cảm giác sợ hãi, rợn ngợp.
Cuối cùng, tính cách hung bạo của sông Đà được thể hiện qua thạch trận. Tác giả đã
sử dụng biện pháp nhân hóa để làm rõ chân dung, hình dáng, tính cách của từng hòn
đá – “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả
cái mặt nước chỗ này". Có thể thấy, thủ pháp nhân hóa đã phát huy tột cùng tác dụng
của nó để làm nổi bật tính cách hung bạo, hiếu chiến của sông Đà. Mỗi hòn đá như
một chiến binh đã được dòng sông giao cho những nhiệm vụ khác nhau để tiêu diệt
con người. Sông Đà đã giao nhiệm vụ cho chúng bày binh bố trận thành ba tuyến: có
hàng tiền vệ, tuyến giữa, boong ke chìm, pháo đài nổi. Và để rồi chúng đã huy động
sức mạnh tổng lực của mình để uy hiếp tinh thần con người với những binh pháp đầy
bí hiểm. Thạch trận đã được bố trí thành ba trùng vi, mỗi trùng vi được bố trí cửa tử
nhiều mà cửa sinh thì ít và đặc biệt thường xuyên thay đổi vị trí của cửa sinh. Như
vậy, có thể thấy, tác giả Nguyễn Tuân đã làm nổi bật tính cách hung bạo, dữ dội của
sông Đà qua việc miêu tả chi tiết dòng chảy, những vách đá, thác nước, thạch trận,…
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Không chỉ có tính cách hung bạo, sông Đà còn mang trong mình tính cách trữ tình. Vẻ
đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà trước hết được tác giả thể hiện qua hình dáng của
nó. Từ trên máy bay nhìn xuống, dòng sông Đà uốn lượn mềm mại, duyên dáng , điều
đó thể hiện rõ qua nhiều hình ảnh so sánh, gợi cảm như “dây thừng ngoằn ngoèo",
“áng tóc vạn sải"và đặc biệt, hình ảnh so sánh vẻ đẹp trữ tình của dòng sông được ví
với “áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa
ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
Đồng thời, tác giả cũng miêu tả màu sắc của sông Đà để làm bật nổi tính cách trữ tình
của nó. Sắc nước sông Đà thay đổi, biến ảo kì diệu và tác giả Nguyễn Tuân đã miêu tả
sắc nước sông Đà qua bốn mùa – mùa xuân nước xanh ngọc bích, còn mùa thu lại lừ
lừ chín đỏ. Có thể thấy, sông Đà luôn biết tự làm mới , làm đẹp cho chính mình. nó là
một sinh thể sống động và đầy cá tính.
Thêm vào đó, dưới điểm nhìn của một cố nhân, dòng sông mang vẻ đẹp cổ kính “mặt
sông loang loáng nước’, “sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi". Dường
như, dòng sông đang chảy về từ quá khứ, mang vẻ đẹp cổ kính như những câu thơ của
tiền nhân, đó là vẻ đẹp “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân".
Cuối cùng, tác giả đã chuyển sang điểm nhìn của một du khách để cảm nhận toàn diện
và sâu sắc hơn về sông Đà. Dưới điểm nhìn này, sông Đà hiện lên với vẻ đẹp thơ
mộng và hoang sơ qua hai hình ảnh so sánh gợi cảm “bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử", “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi thơ". Với cách so sánh
giữa cái cụ thể với cái trừu tượng, tác giả không chỉ cho thấy vẻ đẹp thơ mộng, hoang
sơ của dòng sông mà còn thể hiện niềm trìu mến của tác giả trước vẻ đẹp ấy. Và hơn
thế nữa, dưới điểm nhìn của một du khách, sông Đà còn hiện lên với một vẻ đẹp tràn
đầy sức sống. Điều đó được thể hiện qua hàng loạt các hình ảnh sinh động, gợi cảm,
những nương ngô đang nhú lên những lá non đầu mùa, những khóm cỏ gianh đang ra
những búp nõn và đó còn là hình ảnh của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông
bụng trắng như bạc rơi thoi".
Tóm lại, tùy bút “Người lái đò sông Đà"với việc sử dụng những câu văn giàu nhạc
điệu, cách dùng từ mới lạ, độc đáo cùng những so sánh, liên tưởng độc đáo, thú vị đã
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
miêu tả thật sinh động và ấn tượng hình tượng con sông Đà với những đặc điểm, tính
cách đối nghịch – vừa hùng vĩ, hung bạo, dữ dội vừa thơ mộng, trữ tình. Sông Đà là
hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 19
Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 – 28 tháng 7 năm 1987), quê gốc ở thủ đô Hà
Nội. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học, nhưng lại gặp buổi Hán
học đã tàn, người thân phụ dâu tài hoa nhưng lại bất đắc chí trong con đường công
danh cũng là người đã có nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến con đường sáng tác của
Nguyễn Tuân. Sở trường của Nguyễn Tuân là tùy bút và ký, bên cạnh đó ông cũng
tham gia sáng tác cả truyện ngắn và tiểu thuyết, đồng thời ông còn là một diễn viên
điện ảnh, kịch nói. Cuộc đời ông trải qua hai giai đoạn sáng tác, thuở đầu đề tài của
ông chủ yếu hoài niệm về những vẻ đẹp cũ trong văn hóa dân tộc, chủ nghĩa “xê
dịch"thoát ly, sau là phê phán lối sống trụy lạc, tầm thường. Sau cách mạng, Nguyễn
Tuân bắt đầu viết về đề tài yêu nước, ca ngợi vẻ đẹp của con người và thiên nhiên
trong công cuộc lao động sản xuất. Có thể nhận xét chung về Nguyễn Tuân, với mấy
chữ là uyên bác và tài hoa, văn chương của ông nổi bật lên với một chữ “ngông"rất
riêng biệt, nêu bật lên cái cá tính muốn “xê dịch", kết hợp với nghệ thuật sử dụng câu
từ Tiếng Việt điêu luyện bậc thầy đã làm nên một Nguyễn Tuân - với ngón tùy bút
đỉnh cao của văn học Việt Nam, được xếp vào 1 trong 9 tác giả văn học hiện đại tiêu
biểu nhất. Người lái đò sông Đà trích rút từ tập tùy bút Sông Đà (1960), một trong
những tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân đã thể hiện được hoàn toàn cá tính
và lối hành văn của nhà văn, trong đó nổi bật lên là hình ảnh con sông Đà với hai cá
tính đối lập, vừa hùng vĩ, dữ dội, nhưng cũng chẳng thiếu phần dịu dàng, lãng mạn đậm chất trữ tình.
Nguyễn Tuân đã mượn thơ của Nguyễn Quang Bích để làm lời đề từ cho tác phẩm của
mình rằng: “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu", rằng mọi con sông đều
chọn xuôi dòng về hướng đông, riêng chỉ một mình con sông Đà chọn ngược dòng về
hướng Bắc. Có lẽ rằng với cái thế chảy ngược đời chẳng giống ai này của con sông đã
khơi gợi lên trong tâm hồn của Nguyễn Tuân sự đồng cảm và thấu hiểu sâu sắc, bởi lẽ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
bản thân nhà văn cũng là một con người có cái “tôi"rất riêng, với ngòi bút độc lạ được
ví như cây độc huyền cầm của nền văn chương nước ta. Chính vì thế nên từng câu chữ
mà người viết về sông Đà luôn có một cái gì đó rất chuyên chú, rất tình cảm và thấm
thía hơn bao giờ hết. Thế nên Nguyễn Tuân cũng mượn thêm một câu thơ khác của
nhà thơ Ba Lan Wladyslaw Broniewski viết rằng: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng
sông", bày tỏ cái nỗi lòng thương mến, xúc động trước vẻ đẹp của con sông hùng vĩ
bậc nhất Tổ quốc, khơi gợi ra vẻ đẹp nên thơ trữ tình của dòng sông Đà với “tiếng hát"bay bổng, lãng mạn.
Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ rất tận tâm với nghề nghiệp của mình, sự uyên bác, tài
hoa của ông thể hiện trong việc dẫn dắt người đọc tìm về nguồn gốc của con sông với
những kiến thức Địa lý sâu rộng. Sông Đà vốn bắt nguồn từ Trung Quốc, trải qua hơn
400km lưu lạc nơi xứ người, rồi với về đến Việt Nam chính thức nhập tịch vào nước
ta tại Mường Tè, Lai Châu. Nguyễn Tuân viết như thế, khiến độc giả bỗng có cảm
tưởng, ừ hóa ra sông Đà cũng như một con người lam lũ, bôn ba, lắm tài nhưng cũng
nhiều tật, trải qua biết bao sóng gió của cuộc đời, rồi khi bước chân vào nước ta nó
mới lại có cái bộ dạng khó ở, lúc hung hăng, giận dữ, lúc lại hiền hòa, dịu êm. Khiến
người ta phải quan sát, suy ngẫm thật nhiều về cuộc đời có lẽ chất chồng đầy chông
gai, bão táp của con sông đặc biệt này.
Ở đầu đoạn trích, sông Đà đã hiện lên với một hình hài và dáng vẻ vô cùng hung bạo,
nhưng lại mang trong mình những vẻ đẹp dữ dội và hùng vĩ nơi thượng nguồn, với
hình ảnh những thác đá, ghềnh đá với độ dốc lớn, nước chảy xiết vô cùng hung hiểm.
Người đọc ấn tượng với những hình ảnh hấp dẫn thể hiện sự tỉ mỉ, tinh tế của nhà văn
trong công cuộc khám phá con sông Đà ví như “cảnh đá bờ sông dựng vách thành",
“đúng ngọ mới có mặt trời", “chẹt lòng sông như yết hầu", “con nai nai con hổ đã có
lần vọt qua bờ bên kia","đang màu hè mà cũng cảm thấy lạnh", khiến dòng sông hiện
lên với những nét bí hiểm, khó lường, điệu bộ như đang ngấm ngầm quan sát từng con
người bước vào lòng sông vậy. Nếu như hình ảnh mang đến cảm giác lạnh lẽo, rùng
rợn thì âm thanh lại mang đến sự hung bạo và dữ dằn dường như đang thách thức và
phô diễn cái vẻ hoang sơ, hùng vĩ của dòng sông. Tác giả chọn viết về ghềnh Hát
Loóng với lối viết trùng điệp và nghệ thuật dùng từ độc đáo, khúc ghềnh ấy “dài hàng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy".
Làm nổi bật nên hình ảnh của một con sông dữ dằn, kinh khủng, cùng hình tượng
ghềnh thác liên tiếp, gập ghềnh hiểm trở, sẵn sàng nuốt chửng bất kỳ kẻ nào lỡ sẩy
chân lọt vào tầm ngắm. Cảm giác hầm hè, hung dữ của con sông còn tiếp tục được tác
giả miêu tả ở cả quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La, với tiếng “thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào". Đôi lúc người ta còn cảm
thấy con sông Đà có phần quái dị, với điệu bộ “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là
van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo", khiến người ta phải dè
chừng". Rồi có lúc lại “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét
với đàn trâu da cháy bùng bùng…", gợi ra sự giận dữ, cảm giác sôi động của dòng
sông khúc đổ thác, mở ra những dự báo về sự hủy diệt mạnh mẽ, điên cuồng của dòng
sông, đe dọa tất cả những kẻ có ý định thách thức nhằm vượt đoạn thác này. Cảm xúc
mạnh mẽ và ấn tượng đó đến từ cách sử dụng những câu văn ngắn, kết cấu trùng điệp,
cùng với các từ ngữ đặc tả cực hạn, tất cả đã mang đến những cảm xúc dữ dội, hãi
hùng, và ghi ấn tượng sâu sắc về một con sông Đà với cái vẻ hầm hố, ngang tàn.
Dĩ nhiên rằng con sông Đà không chỉ có mỗi những hình ảnh và âm thanh kỳ quái như
thế, mặc dầu chúng ta cũng thấy nó đủ khủng khiếp rồi. Thế nhưng cái đặc sắc và ấn
tượng hơn tất thảy có là hình ảnh những cái hút nước của con sông - mối kinh sợ của
những người lái đò. Có lẽ chẳng có ai có thể đặc tả những cái xoáy nước này hay và
ấn tượng hơn Nguyễn Tuân được, nhà văn đã tỉ mỉ quan sát, và thậm chí đã từng trải
nghiệm cảm giác vượt thác sông Đà, để cho ra những góc nhìn rất kính nghiệp. Trong
lăng kính của Nguyễn Tuân những cái hút nước được xây dựng bằng những hình ảnh
rất độc lạ “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu",
“Mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối
pha lê xanh", tựa “Cốc pha lê nước khổng lồ", rồi thì “Từ đáy hút nước nhìn ngược lên
vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải",... Chỉ bấy
nhiêu câu chữ thôi, thế nhưng cũng đã đủ để người ta hình dung ra những cái xoáy
nước vừa đẹp nhưng cũng sẵn sàng nuốt chửng bất cứ kẻ nào dám bén mảng lại gần
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
nó, nguy hiểm vô cùng. Một điều thú vị nữa là, vốn dĩ Nguyễn Tuân là một diễn viên
và đạo diễn điện ảnh thế nên trong tùy bút của ông không bao giờ thiếu những liên
tưởng thú vị đậm chất nghệ thuật ví như hình ảnh một anh quay phim cầm máy ảnh,
cho cả mình cả máy quay xuống cái hút nước của sông Đà để có những khung hình
tuyệt vời nhất, đem đến cho độc giả những cảm xúc chân thực như bản thân tự nhìn thấy vậy.
Một điểm nhấn khác khi Nguyễn Tuân nói về sông Đà ấy là những cái “trùng vi thạch
trận"với những cửa sinh, cửa tự ngặt nghèo mà con sông đã giăng mắc ra để đánh bẫy
những kẻ đi ngang qua nó, vô cùng nham hiểm và xảo quyệt. Kiến tạo nên cái “thạch
trận"ghê gớm ấy là lũ đá với hình dạng quái dị và tính tình cũng chẳng dễ chịu gì cho
cam. Mà theo như Nguyễn Tuân nói thì đá ở đây nghìn năm vẫn mai phục dưới lòng
sông, chỉ trực chờ mỗi lần có chiếc thuyền nào mà đi qua khúc sông quạnh quẽ này thì
chúng liền “nhổm cả dậy"để vồ lấy thuyền, hòn nào hòn nấy cũng mang bộ dạng “ngỗ
ngược", “nhăn nhúm", “méo mó", hòn đứng, hòn ngồi, hòn lại nằm, muôn hình vạn
trạng. Những hòn đá ấy chính là tay chân của con sông Đà ghê gớm này, chúng dường
như có linh tính, bày binh bố trận, lại giở trò khiêu khích, dường như có thù với tất cả
những người đi qua khúc này, hoặc giả như lũ sơn tặc, biến những người lái đò thành
miếng mồi ngon, quả là không thể khinh thường. Chúng là những tay lão luyện, đứa
nào cũng chọn riêng cho mình một nhiệm vụ, dưới sự phân chia binh pháp của “thần
sông thần đá", lập thành hẳn ba “trùng vi thạch trận", chỗ thì dàn hàng ngang chặn lối,
chỗ lại đứng giữa khiêu khích, dẫn dụ, chỗ thì đòi đánh “giáp lá cà", chỗ nhảy ra phục
kích. Thông qua đôi mắt của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên như một kẻ thù
không đội trời chung với con người, mỗi trận chiến đều là kẻ sống ta chết, không chừa
lối thoát. Cũng chính vì điều ấy mà hình tượng người lái đò hiện lên thật ấn tượng và
đặc sắc trong lòng người đọc sau trận chiến với con sông ngỗ nghịch đáng gờm này.
Bên cạnh vẻ hung bạo, dữ dội và hùng vĩ thì con sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp trữ
tình, nên thơ sau khi về tới khúc sông ở hạ lưu, dòng sông trở nên hiền hòa và đằm
thắm hơn hẳn trái ngược với cái vẻ bí hiểm, ghê gớm lúc thượng nguồn. Từ điểm nhìn
trên cao và xa Nguyễn Tuân đã vẽ ra hình dáng của dòng sông thật mềm mại, dài rộng
với hình ảnh “cái dây thừng ngoằn ngoèo". Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông hiện lên qua
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
những liên tưởng rất đặc sắc, dòng chảy “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Người ta nhận ra trong ấy là cái nét
duyên dáng yêu kiều của một thiếu nữ e ấp, với mái tóc suôn dài, ẩn hiện trong sương
khói, quyến rũ cả núi rừng Tây Bắc, nhưng cũng mang cả những nét đỏng đảnh, khó
chiều của một mỹ nhân hiếm có. Rồi bằng tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, bằng
tâm hồn tinh tế và nhạy cảm của mình, Nguyễn Tuân còn quan sát thấy cả sự biến đổi
lãng mạn của con sông qua từng mùa, dáng vẻ nào cũng như khắc sâu vào lòng người
đọc. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến
của Sông Gâm Sông Lô", “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ
thu về". Đấy con sông Đà đã hiện lên một cách sinh động như thế, dẫu có dịu dàng,
nên thơ nhưng cái tính trái khuấy, thích làm mình làm mẩy, giận dỗi với cả Tây Bắc
thì nó chưa bao giờ bỏ được. Và với Nguyễn Tuân con sông ấy, không chỉ là một mỹ
nhân, mà còn là một “cố nhân", đôi lúc còn là một “tình nhân chưa quen biết", rất tình
tứ, yêu thương với cảm xúc “màu nắng tháng ba Đường thi của “Yên hoa tam nguyệt
há Dương Châu"". Người cố nhân ấy là người bạn tri kỷ, thân thiết, dẫu đôi lúc có gắt
gỏng, khó chiều, nhưng trân quý vô cùng. Rôi những hình ảnh nương ngô, đàn hươu,
đồi cỏ gianh, bờ sông hoang dại,... đã mang đến cho sông Đà một vẻ đẹp giản dị, mộc
mạc và cổ điển, khơi gợi người ta nhớ về những ngày tháng xưa kia, êm đềm và lặng lẽ…
Bằng thái độ kính nghiệp, tinh thần nghệ sĩ, ham tìm tòi khám phá và ngòi bút độc
đáo, uyên bác và tài hoa của mình, sông Đà trong tùy bút của Nguyễn Tuân đã hiện
lên như một thực thể có linh hồn, có cuộc đời với những nét cá tính tính đối lập vừa
hung bạo, hùng vĩ nhưng cũng lại có vẻ nên thơ, trữ tình. Từ đó là nổi bật lên tình yêu
quê hương đất nước, niềm tự hào với vẻ đẹp hoang sơ hùng vĩ của thiên nhiên núi
rừng Tây Bắc qua lối hành văn phóng khoáng, tỉ mỉ, chân thực và sáng tạo không ngừng nghỉ.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 20
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo, tài hoa và có hiểu biết về nhiều lĩnh
vực và có vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện, là bậc thầy ngôn ngữ trong nền văn học
nên ông được đánh giá là 1 trong số những nhà văn có ảnh hưởng lớn trong nền văn
học hiện đại Việt Nam. Thể loại văn học thành công nhất của ông là bút kí và tùy bút
với một số tác phẩm tiêu biểu như “Vang bóng một thời", “Một chuyến đi", “Thiếu
quê hương". “Chiếc lư đồng mắt cua"…nhưng trong số đó nổi tiếng nhất là tùy bút
“Người lái đò sông Đà"được in trong tập “sông Đà", tùy bút này là một áng văn đẹp
được kết nên từ tình yêu quê hương đất nước tha thiết, say đắm để ca ngợi vẻ đẹp vừa
kì vĩ hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc cũng như “chất vàng
mười"của con người nơi đây. Xuyên suốt tác phẩm là hình tượng con sông Đà vừa dữ
dội hiểm trở nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình.
Dưới ngòi bút miêu tả tài tình của Nguyễn Tuân con sông Đà hiện lên với 2 vẻ đẹp đối
lập nhau, con sông Đà có lúc dữ dằn “hung bạo"nhưng chốc lại dịu dàng thơ mộng,
hùng vĩ. Phải có con mắt quan sát tỉ mỉ và tâm hồn tinh tế, khéo léo lắm thì tác giả
Nguyễn Tuân mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của con sông cũng như quá trình chuyển
đổi phức tạp ấy. Ngay từ đầu đoạn trích, con sông Đà hiện lên với vẻ hung bạo, dữ
dằn, nhiều thác ghềnh và hiểm trở, vẻ đẹp hùng vĩ của con sông Đà không chỉ có
nhiều thác đá mà nó còn là những cảnh đá ở 2 bên bờ sông, đá dựng vách thành và
những bức thành đá cao thành chẹt lấy lòng sông hẹp như một cái yết hầu. Với cách
so sánh rất độc đáo, mới lạ nhưng cũng rất lạ lùng khi đem cái “yết hầu"của con người
ra để ví von với những bức thành đá cao lớn ép chặt lấy lòng sông Đà. Cái hẹp của
lòng sông Đà được tác giả mô tả hẹp theo đủ cách khác nhau nào là chỉ và đúng lúc
“ngọ"giữa buổi trưa, khi mặt trời lên cao nhất và chiếu thẳng xuống lòng sông thì lòng
sông mới nhận được chút tia nắng ấm áp ít ỏi và khi thời gian trôi đi thì những tia
nắng ấy cũng dần biến mất, hay là chỉ cần đứng từ bên bờ bên này nhẹ tay ném một
hòn đá nhỏ cũng có thể qua đến vách đá bên kia bờ sông, hơn nữa có quãng hẹp đến
nỗi con nai con hổ cũng có lần đã vọt từ bên bờ bên này sang được bờ sông bên kia,
hay mùa hè ngồi trong khoang đò đi qua quãng sông ấy mà cũng cảm thấy mát lạnh,
thấy mình như đứng ở một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ của một tòa
nhà cao tầng nào đó. Bằng việc so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ lạ lùng tác
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
giả Nguyễn Tuân như đã lục lọi hết cả kho từ ngữ phong phú của mình để tìm ra được
những ngôn từ đắt giá nhất có thể làm kinh động đến hồn trí người đọc khi miêu tả
những vách đá bên bờ sông Đà.
Con sông Đà không chỉ có những vách đá dựng đứng mà ở quãng Hát Loong còn có
hàng dài cây số nước và đá, nước xô đá, đá xô sóng, sóng lại xô gió như một vòng
tuần hoàn tự nhiên của con sông cứ lặp đi lặp lại và dòng nước lúc nào cũng cuồn
cuộn chảy xiết với những luồng gió gùn ghè quanh năm như đòi nợ bất kì một người
nào đi qua nó, bằng lối viết rất văn hoá, cấu trúc câu trùng điệp gợi lên hình ảnh một
con sông Đà lúc nào cũng cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn nuốt chửng bất kì
con thuyền xấu số nào rơi vào trận địa mà nó đã bày sẵn.
Đến quãng Tà Mường, ta lại bắt gặp “những cái hút nước giống như cái giếng bê tông
thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu", trên bề mặt cái hút ấy lúc nào cũng xoáy
tít xuống tận đáy và quay lừ lừ chỉ chẹc có con thuyền nào đi qua là “lôi tuột"ngay
xuống đáy sông và đánh chúng tan xác ngay lập tức, hay âm thanh của tiếng nước kêu
và thở ừng ực như cái cống bị sặc. Với lối so sánh độc đáo, sử dụng những từ ngữ
miêu tả rất chân thực sống động khiến con sông Đà hiện lên như một loài thủy quái
luôn gầm gừ đe dọa với những âm thanh ghê rợn có thể khủng bố tinh thần bất cứ ai và uy hiếp con người.
Không chỉ miêu tả hình ảnh những vách đá dựng đứng, những cái hút nước sâu hút
hay hơi thở ừng ực của dòng nước cuồn cuộn, con sông Đà còn phối hợp hài hòa với
âm thanh réo rắt của những thác nước, Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang đắm
mình điều khiển dàn nhạc giao hưởng hùng tráng của sông Đà với bài ca của sóng hòa
âm với tiếng gió xô nước lên những vách đá. Tiếng thác nước réo rắt nghe như ai oán,
oán trách điều gì, rồi lại van xin, khiêu khích hay gằn mình lên chế nhạo, thế rồi âm
thanh được phóng đại lên bất ngờ như bừng lên cơn thịnh nộ đỉnh điểm và “rống lên
như hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa và rừng lửa
cũng gầm thét lên với nó", tác giả Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của thác nước
như một trận đánh kịch liệt, dữ dội của tự nhiên.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Khi đến cái thác với sóng bọt trắng xóa cả một chân trời, và xung quanh đó là một trận
địa đá bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, tác giả như thổi hồn vào từng hòn đá khiến
chúng trở nên chân thực và sống động. Trận địa đá với kích cỡ đa dạng từ to đến nhỏ
ấy đã “mai phục"ở lòng sông từ ngàn năm trước rồi , có hòn thì “nhổm cả dậy"khi có
chiếc thuyền nào đó nhô vào đường ngoặt của sông hay mặt hòn đá nào ở đây cũng
trông “ngỗ ngược"như một đứa trẻ bướng bỉnh hay “nhăn nhúm méo mó"hơn cả mặt
nước cuộn sóng, những hòn đá muôn hình vạn trạng có hòn “đứng"có hòn “nằm"hay
“ngồi"tùy vào sở thích riêng của chúng. Qua ngòi bút miêu tả tài tình của tác giả thì
những hòn đá vô tri vô giác ấy như được thổi hồn vào một cách chân thực sống động
khiến chúng giống như những tên du côn hung dữ của thiên nhiên hoang dại. Những
“tên du côn"ấy còn hống hách bày thạch trận trên lòng sông để giăng bẫy mọi thứ đi
qua con sông này, ở thạch trận thứ nhất bày ra năm cửa trận thì có đến 4 cửa tử và chỉ
duy nhất 1 của sinh ở giữa, bọn đá đứa thì hất hàm đứa thì thách thức trêu ngươi, đến
cả mặt nước cũng hùa vào với bọn đá ùa vào bẻ gãy cán chèo, sóng nước đá trái thúc
gối vào bụng thuyền và hông thuyền. Thạch trận thứ hai với sông nước cũng bài binh
bố trận ở khắp nơi trên lòng sông, tăng nhiều cửa sinh cửa tử ở phía hữu ngạn con
sông, còn thạch trận thứ ba thì trái phải đều là luồng chết, duy chỉ có luồng sống ở
ngay chính giữa. Qua đó, ta thấy con sông Đà hung bạo hống hách như một loài thủy
quái hết bày thạch trận lại đến thủy trận nhằm uy hiếp, nuốt chửng những con thuyền
trên lòng sông, nó như là “kẻ thù số 1"của con người nơi vùng Tây Bắc hùng vĩ, nhờ
vậy mà có thể tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa của tác giả với cách sử dụng từ ngữ điêu luyện, độc đáo.
Hình ảnh con sông Đà hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân không chỉ mang vẻ
“hung bạo, dữ dằn"mà còn ẩn chứa nét thơ mộng, trữ tình. Dòng sông Đà không chỉ
có những vách đá dựng đứng, những cái giếng hút sâu hoắm hay những trận thạch bàn
nguy hiểm mà còn là bức tranh thủy mặc vấn vương lòng người. Từ trên tàu bay nhìn
xuống, dòng sông Đà như cái sợi dây thừng ngoằn ngoèo không còn nét dữ tợn hung
bạo nữa mà thay vào đó nó tuôn dài như một áng tóc trữ tình, cả đầu tóc và chân tóc
như đang thoắt ẩn thoắt hiện trong làn mây trời xanh thẳm rợp trời sắc trắng của hoa
ban hay sắc đỏ của hoa gạo và cuồn cuộn mù lên những làn khói của những người đốt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
nương xuân chuẩn bị canh tác. Như có một người vô hình điều khiển mà dòng nước
sông Đà thay đổi theo mùa, vào mùa xuân là sắc nước màu xanh ngọc bích, có lẽ sức
sống xanh mơn mởn của cây cỏ mùa xuân đã nhuộm cho dòng sông màu ngọc bích
đẹp đến nao lòng như vậy. Nhưng mùa hạ qua đi khi mùa thu đến dòng sông như cởi
bỏ lớp áo cũ để khoác lên mình chiếc áo màu lừ lừ chín đỏ như da mặt một người say
rượu hay giận dữ việc gì đó. Cứ mỗi mùa qua đi dòng sông Đà như được thay da đổi
thịt, mỗi mùa nó mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp quyến rũ tình tứ, thơ mộng đến xao
xuyến lòng người. Nguyễn Tuân nhìn con sông Đà như một người cố nhân đã lâu
không gặp lại, tác giả say mê đến mức như sắp đổ ra sông Đà, nó mang vẻ gợi cảm
nhưng trong con mắt mỗi người nó lại được cảm nhận theo cách khác nhau. Cảnh ven
2 bên bờ sông lặng như tờ nhưng lại mộng mơ, quen thuộc với những nương ngô mới
nhú lên xanh mướt, bãi cỏ gianh góc kia đang nhú lên những búp xanh mơn mởn hay
những chú hươu cái cúi đầu bứt những búp cỏ xanh non vẫn còn đẫm sương mai rồi
ngẩng đầu lên khỏi những áng cỏ sương, bờ sông mang vẻ đẹp hoang dại của một bờ
tiền sử cổ kính, hay hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xa xưa. Bức tranh thơ
mộng về sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả một cách tỉ mỉ, tinh tế bức tranh ấy có
màu sắc, hình ảnh hiện lên với nét hoang sơ nguyên thủy chưa có đôi bàn tay con người tác động.
Bằng cả tâm hồn yêu thiên nhiên, quê hương đất nước say đắm, thiết tha và lòng
ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu vẻ đẹp của một dòng sông nơi Tây Bắc của tổ quốc,
tác giả Nguyễn Tuân đã mang cho người đọc hình dung ra được hình ảnh con sông Đà
vừa mang vẻ “hung bạo, dữ dằn"nhưng cũng không kém phần “thơ mộng, trữ
tình"cùng hình ảnh giản dị của những người lao động bình dị ở vùng Tây Bắc. Bằng
tài năng và việc sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, tác giả Nguyễn Tuân đã viết nên tùy
bút “Sông Đà"và khắc họa thành công hình tượng con sông Đà cũng như “chất vàng
mười"của những người dân lao động bình dị, tác phẩm xứng đáng là một tuyệt tác của
của một tài năng nghệ thuật độc đáo nhưng không kém phần tinh tế.
Phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 21
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Nguyễn Tuân (1910-1987) là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.
Với phong cách viết tài hoa uyên bác, Nguyễn Tuân đã có đóng góp to lớn cho nền
văn học nước nhà, góp phần đưa thể loại truyện ngắn và tùy bút lên một tầm cao mới.
Tiêu biểu cho sáng tác của NT là tác phẩm Người lái đò Sông Đà. Thành công nhất ở
tác phẩm này là bởi Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng con sông Đà
với hai tính cách hùng vĩ hung bạo và thơ mộng trữ tình.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân trước hết con Sông Đà hiện lên mang một vẻ đẹp
hùng vĩ và hung bạo. Sự hùng vĩ hung bạo của dòng sông Đà được thể hiện qua cả diện mạo và tâm địa.
Với con mắt của nhà điêu khắc, Nguyễn Tuân đã có những so sánh liên tưởng đầy mới
lạ và bất ngờ. “ cảnh đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ
mới có mặt trời". “ Có vách đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu". Có những
quãng lòng sông hẹp tới mức con nay con hổ có thể vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia.
Bằng những lời văn gây ấn tượng mạnh pha chút hóm hỉnh, những trang văn của NT
đã khiến người đọc liên tưởng đến những bài ca dao khi nói về mơ ước xưa của cô gái
khi yêu: “Ước gì sông…chơi". Nhà văn tiếp tục tấn công vào giác quan của người đọc
khi ông nói ngồi trên khoang đò quãng ấy đã mùa hè vẫn thấy lạnh, cảm thấy mình
như đang đứng ở hẻm một con ngõ mà ngóng vọng lên cái cửa sổ nào trên cái tầng thứ
mấy vừa tắt phụt ánh điện.
Bằng cách miêu tả bờ đá và vách đá Sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên khung
cảnh một dòng sông heo hút đến rợn ngợp.
Con sông Đà có tất cả 73 con thác trải dài từ biên giới Việt – Trung về tới thác bờ thác
ở đây dữ dội tạo thành những mặt ghềnh của sóng
Sông Đà nơi ghềnh Hát Loong “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt bất cứ con
thuyền nào tóm được qua đây". Những âm thanh của gió của nước và gió đã tạo thành
một bản hợp xướng hùng vĩ đang đang ầm ập, đổ sập lao tới. Câu chữ của Nguyễn
Tuân dường như cũng xô đuổi nhau trong cái âm hưởng cuồn cuộn gùn ghè của nước
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
sông Đà. Đặc điểm ấy của khúc sông khiến nó giống như một kẻ lưu manh lúc nào
cũng thích gây gổ, lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt người lái đò.
Thác ở đây từ rất xa đã nghe thấy âm thanh hãi hùng ghê rợn của nước. Âm thanh ấy
khi thì như là “oán trách gì"rồi lại như là “ van xin", rồi lại như là khiêu khích, giọng
“gằn và chế nhạo". Một câu văn ngắn mà đủ các cung bậc âm thanh của tiếng thác vừa
thể hiện vốn từ phong phú vừa thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế của tác giả.
Không chỉ như vậy âm thanh của thác nước còn được so sánh âm thanh “ rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Bằng
nghệ thuật so sánh kết hợp với liên tưởng mở rộng nhà văn Nguyễn Tuân đã giúp
người đọc như nghe thấu được những âm thanh đa dạng của thác nước Sông Đà từ đó
khắc họa tính cách hung bạo của con sông.
Với việc sử dụng những động từ mạnh: giống nổ lửa, phá tuông, gầm thét, cháy bùng
bùng khiến câu chữ như đập mạnh vào giác quan người đọc. Từ đó tính chất hung bạo
của con sông như hằn lên nổi lên thành hình thành khối đang gào thét trong muôn vàn
âm thanh. Cảnh vật cũng như náo động, chuyển động qua hàng loạt ngôn từ nhân hóa.
Lời văn cũng thể hiện sự liên tưởng tài hóa và lối chơi ngông trong cách nói của
Nguyễn Tuân . Trong ngũ hành, thủy và hỏa vốn là hai yếu tố tương khắc với nhau,
dân gian có câu “ kỵ nhau như nước với lửa". Vậy mà ở đây Nguyễn Tuân lại dùng
lửa để tả nước, lấy núi rừng để tả dòng sông từ đó làm nổi bật sự tương giao về sức
mạnh của những hiện tượng tự nhiên. Tiếng thác nước như được phóng to lên hết kích
cỡ giống như bản nhạc của thiên nhiên mà các nhạc khí đều bừng bừng ở đỉnh điểm
của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại. Những âm thanh cuồng loạn như thanh
viện hỗ trợ làm cho sự giận dữ của nước sông như tăng lên gấp bội. Chúng va đập vào
vách đá tạo nên một sức mạnh hoang dại ghê gớm khủng khiếp, sức mạnh hoang dại
ấy của Sông Đà mang đến cho người đọc cảm giác sợ hãi như phải chứng kiến trận
động đất chấn động khiến núi lửa phun trào hay một cơn đại hồng thủy với sóng thần cao ngất.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh liên tưởng tài hoa độc đáo và cách dùng động từ
mạnh nhà văn Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên chân dung của con sông Đà hung hãn quái dị và đáng sợ.
+ Ấn tượng về sự sợ hãi và chết chóc được tạo ra rất rõ ở đoạn văn nói về những cái
hút nước. Về hình thù nó giống như cái giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm
móng câu. Về âm thanh nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nó kêu ặc ặc
như tiếng rót dầu sôi. Với cách dùng từ tượng thanh “ ặc ặc", nhà văn Nguyễn Tuân đã
khiến người đọc như được nghe thấy âm thanh của một con thủy quái khổng lồ đang
bị bóp cổ. Điều đó đã khiến chúng ta sởn gai ốc khi nghe cái âm thanh quái lạ của cái hút nước này.
Sự chết chóc hiện ra khi nhà văn so sánh “ trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang
quay lừ lừ những cánh quạ đàn", rồi tường thuật “ có những thuyền đã bị cái hút nó
hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới
lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới".
Thay vì kể lại nỗi sợ hãi, Nguyễn Tuân đã bắt người đọc phải chiêm nghiệm tự mình
phải trải qua nỗi sợ hãi khi nhà văn nhấn mạnh cái dữ dội ấy qua góc nhìn điện ảnh.
Ông hình dung có một nhà quay phim nào đó dũng cảm dám ngồi trên chiếc thuyền
thúng cùng với máy quay, để cái hút nó hút cả thuyền, cả người và máy quay xuống tít
đáy thế rồi quay ngược ống kính lên thu ảnh. Cái thước phim màu quay tít ấy đã
truyền cảm giác sợ hãi đặc biệt cho người đọc. Nó giống như chúng ta đang sợ hãi ghì
chặt lấy mép ghế khi phải ngồi xem cái cảnh tượng hãi hùng của một thước phim 3D.
Với phong cách viết tài hoa kết hợp với vốn kiến thức uyên bác Nguyễn Tuân đã tạo
ấn tượng mạnh mẽ mạnh vào giác quan người đọc một hình ảnh dữ dội đến khủng
khiếp khi miêu tả những hút nước của sông Đà.
Không chỉ dữ dội ở diện mạo, con sông Đà còn dữ dội và hung bạo cả ở sâu trong tâm
địa. Người ta nói “ tri nhân tri diện bất tri tâm", bởi thế với đặc điểm này Sông Đà đã
thực sự trở thành một kẻ thù nham hiểm đối với con người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Điều đó thể hiện qua những trùng vi thạch trận dưới lòng sông. Đá Sông Đà là một
đạo quân thiện chiến được tương trợ bởi những boongke chìm những pháo đài nổi.
Với những thạch trận nham hiểm và dữ dội, Sông Đà đã quyết tiêu diệt hết thảy các
thủy thủ và thuyền trưởng trên sông.
Những trùng vi thạch trận trên Sông Đà như những trận đồ bát quái với nhiều cửa tử
mà chỉ có duy nhất một cửa sinh. Vòng đầu nó bày ra năm cửa trận trong đó có tới 4
cửa tử mà chỉ có một cửa sinh duy nhất, cái cửa sinh nằm lập lờ nơi phía tả ngạn sông.
Vòng thứ hai nó lại tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh chúng
chuyển mãi qua phía bờ hữu ngạn. Vòng thứ ba thì cả hai bên gần tả hữu bờ sông đều
là luồng chết, cửa sinh duy nhất nằm ở giữa hòn đá hậu vệ của con thác.
Mỗi hòn đá trên Sông Đà đều thiện chiến liều mạng và có nhiệm vụ riêng. Chúng chia
ra làm hàng tiền vệ và hậu vệ, chúng dàn hàng ngang để chặn đánh và đòi ăn chết con
thuyền muốn vượt. Đá ở đây hàng ngàn năm vẫn mai phục kiên nhẫn và bền bỉ dưới
lòng sông. Cứ thấy con thuyền nào đi qua là như một đám lưu manh ngỗ ngược và
hung hãn, những hòn đá lại giáng tai họa cho những con thuyền trên sông. Chúng nhất
tề nhổm cả dậy vồ lấy thuyền. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng như muốn khắc sâu cho
người đọc ấn tượng về những hòn đá sông Đà nên ông đã không chỉ thổi hồn mà còn
tạo ra diện mạo cho từng viên đá. Là đá mà mặt thằng nào cũng nhăn nhúm, méo mó,
ngỗ ngược. Với nghệ thuật nhân hóa, Nguyễn Tuân đã làm sống dậy một cách dữ dội
hình thù của những viên đá vô tri: “ một hòn trông nghiêng thì y như đang hất hàm hỏi
con thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và
thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào."
Sự kết hợp giữa những trùng vi thạch trận với sóng nước Sông Đà đã tạo nên chân
dung loài thủy quái khổng lồ hung hãn bạo ngược và vô cùng nham hiểm xảo quyệt.
Nó như một hung thần với một sức mạnh hủy diệt ghê gớm. Trong cuộc chiến với
người lái đò, Sông Đà đã giở ra đủ mọi mánh khóe mưu ma để đánh lừa con thuyền
vào thế trận đã bày sẵn hướng người lái đò vào những cửa tử.
Chỗ ngoặt sông thì nó đánh phục kích, giữa lòng sông thì lại tỏ ra sơ hở để dụ con
thuyền theo vào để rồi bất ngờ đánh khuýp vu hồi, khi giáp lá cà thì nó giở mọi ngón
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
đòn hiểm ác như đánh đòn âm, đòn tỉa, đá trái, thúc gối vào bụng vào hông, tóm thắt
lưng, bóp chặt bộ hạ… vừa đánh vừa hò la vang trời để áp đảo tinh thần đối phương.
Dưới con mắt nhìn của Nguyễn Tuân hầu như tất cả những gì thuộc về sông Đà đều
dữ dội. Gió thì gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt bất cứ con đò
nào tóm được trên sông. Cát Sông Đà thì đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vết
hà, đục thủng đáy và mạn dưới con thuyền.
Với lời văn góc cạnh câu văn giàu tính tạo hình lại kết hợp với các động từ mạnh, lối
ví von ẩn dụ tượng trưng tác giả đã có những liên tưởng bất ngờ thú vị về sự khôn
ngoan mưu trí hiểm ác của con Sông Đà. Nó thực sự là một kẻ thù số một trong cuộc
đấu trí, đấu lực với con người.
Qua phân tích trên chúng ta thấy Sông Đà vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội vừa hung
bạo và nó thực sự đã trở thành một loài thủy quái nham hiểm và độc ác, nó đúng là kẻ
thù số một của con người.
Bên cạnh vẻ hùng vĩ hung bạo dòng Sông đà còn mang một vẻ đẹp thơ mộng trữ tình.
Điều này được tác giả khắc họa thông qua dáng vẻ và tâm hồn của dòng sông.
Dưới con mắt của Nguyễn Tuân dòng Sông Đà giống như một cô gái trẻ trong dáng vẻ diễm lệ yêu kiều.
Khi nhìn từ trên cao nhà văn Nguyễn Tuân cảm nhận “ Sông Đà tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".Nhà văn Nguyễn
Tuân đã có cách dùng từ thật độc đáo:Từ “áng"vốn là từ thường được đi liền với tác
phẩm văn học lớn nhưng ở đây nhà văn lại dùng từ “áng"để miêu tả dòng Sông Đà .
Bằng cách này Nguyễn Tuân đã khiến người đọc cảm nhận dòng Sông Đà giống như
một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Hơn nữa
tác giả lại có cách kết hợp từ vô cùng thú vị. Từ “ áng"lại đi liền với “tóc"và “tóc’’ đi
liền với “trữ tình", cách kết hợp này cho ta thấy dòng Sông Đà đẹp như một cô gái
Tây Bắc với mái tóc dài duyên dáng đang thả dài trong sương khói. Cách viết của tác
giả còn gợi lên một dòng sông vừa mang dáng vẻ yểu điệu trong những sắc màu, vừa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
mang cái huyền ảo mềm mại trong khói sương của những dòng sông từng xuất hiện trong ca dao:
Dòng sông như dải lụa đào.
Sông Đà còn rất đẹp với sắc màu của nước thay đổi theo mùa. “Mùa xuân dòng xanh
ngọc bích". Màu ngọc bích là màu vừa có sắc vừa có ánh sáng, thứ ánh sáng mát dịu
mà quyến rũ toát ra từ bên trong. Mùa thu “ nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
một người bầm đi vì rượu bữa". Chính sự thay đổi màu nước ấy đã khiến dòng sông
luôn luôn mới mẻ. Trên sông còn có những con thuyền đuôi én lướt trên sông, có
những con cá dầm xanh, cá anh vũ “bụng trắng như bạc rơi thoi"quấy vọt lên mặt nước.
Tất cả đem đến cho Sông Đà một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa huyền ảo lại rất duyên
dáng dịu dàng giàu chất thơ.
Qua nhiều lần đi thực tế Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã cảm nhận dòng sông như
một cố nhân. Cảnh sông nước êm đềm đã khơi gợi ở lòng người bao ý tình lãng mạn.
Nhà thơ Tản Đà đã từng lấy tên núi tên sông làm bút danh thì cảm nhận: “ Dải sông
Đà bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình."Còn Nguyễn Tuân, ông thấy
dòng sông như một người tình nhân chưa quen biết. Rồi có lúc Nguyễn Tuân lại thấy
Sông như một Cố nhân. Hai chữ cố nhân thật khiến người ta bùi ngùi bao cảm xúc. Đó
là người bạn tâm giao, một người bạn khi gần thì dạt dào cảm xúc mà khi xa thì muôn vàn nhung nhớ.
Giọng văn của tác giả ở đây bỗng trở nên tươi tắn lạ thường khi nói đến Sông Đà: “ bờ
Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi! Trông con
sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.
Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố
nhân". Có thể nói nhà văn đã lồng ảnh vào cảnh, tình vào tình để thú nhận với chính
mình về nỗi đắm say, phải lòng trước vẻ đẹp duyên dáng tuyệt mỹ của sóng nước Đà
giang và mây trời Tây Bắc, để cảm xúc thăng hoa, để thi ca lai láng, để dòng Sông Đà
hiện lên với cảnh sắc đắm say lòng người.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
Sắc màu cổ tích được thể hiện trong một đoạn văn vừa đặc sắc vừa giàu chất thơ. “
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà…"Câu văn mở đầu toàn thanh bằng, nhẹ nhàng và êm ái.
Như thể nó chứa đựng bên trong lời tự tình của con sông, tạo tâm thế của một cuộc du
ngoạn, gợi hình ảnh con đò lặng lẽ trôi. Nó đưa người đọc vào thế giới cổ tích, vào
không gian yên ắng lặng lờ thời tiền sử xa xưa.
Ghềnh thác đã lùi xa, dòng sông bỗng dịu dàng mê đắm, cảnh ven sông trở nên lặng lờ
thơ mộng. “ Hình như từ đời Lý, Trần, đời Lê quãng sông này cũng chỉ lặng lờ đến thế mà thôi".
Cái độc đáo của nhà văn khi miêu tả bờ sông là ở chỗ, người ta thường lấy cái cụ thể
để so sánh làm rõ cái trừu tượng hoặc ít cụ thể hơn. Nhưng ở đây Nguyễn Tuân lại là
ngược lại ông đã lấy cái trừu tượng để so sánh làm mờ cái cụ thể: “bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Điều này
khiến người đọc như chìm sâu hơn vào ảo giác, như trở về thời ấu thơ với câu những
chuyện “ngày xửa ngày xưa"của bà của mẹ. Ta hiểu vì sao ở đây tác giả lại thèm nghe
một tiếng còi sương. Phải chăng nhà văn Nguyễn Tuân đang thèm muốn một âm
thanh để thoát khỏi cái “lặng tờ"của cảnh vật? Chính điều này đã khiến cả cảng vật và
con người đều như đang chìm vào không gian đượm màu cổ tích.
Qua phân tích trên quả thật chúng ta thấy dòng sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp hùng
vĩ dữ dội mà còn có một vẻ đẹp thơ mộng trữ tình. Với những câu văn tả sông Đà nới
đồng bằng nhà thơ như muốn đề thơ vào sóng nước Đà giang.
Với Nguyễn Tuân, sông Đà mang một vẻ đẹp hoàn mĩ, trở thành một sinh thể sống
động, có hồn.Dòng sông vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình. Phải là một con
người yêu mến tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước , nhà văn mới có thể
miêu tả được Sông Đà như thế. Có thể nói , qua lời văn ca ngợi sông nước Đà giang,
ta thấy được sự gắn bó của Nguyễn Tuân đối với quê hương đất nước.Tác phẩm
Người lái đò sông Đà tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân . Tác giả
quan niệm cái đẹp phải là cái gây cảm giác mạnh, đập mạnh vào cảm giác người đọc.
Cho nên đẹp thì phải đến mức tuyệt mỹ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp. Sông Đà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng con Sông Đà
đúng là thứ Vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc mà nhà văn luôn khao khát kiếm tìm
và thể hiện trong các sáng tác của mình.