



Preview text:
ĐỀ: PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀNG CHÀI TRONG TÁC
PHẨM “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU. BÀI LÀM
Nguyễn Minh Châu từng phát biểu: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản mà nhà
văn cần phấn đấu để đào xới bản chất của con người vào các tầng sâu lịch sử”. Để làm được điều đó,
mỗi người nghệ sĩ của văn học cần phải biết đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những rung
động của cuộc đời, và nhà văn NMC thật sự đã đón lấy tất cả những thanh âm của cuộc đời thông qua tác
phẩm CTNX. Nếu trước 1975, các tác phẩm của ông mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn thì
sau 1975, nhà văn hướng ngồi bút của mình đến những vấn đề đạo đức và triết lý nhân sinh. Với quan
điểm đó, ông đã trở thành một cây bút tinh anh, người mở đường cho văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
NMC đã thể hiện thành công quan niệm văn chương của mình thông qua điểm sáng của tác phẩm là
người đàn bà làng chài, một người mẹ giàu tình thương con, một người vợ thương chồng với tấm
lòng nhân hậu bao dung và đức hy sinh cao cả.
Truyện được sáng tác năm 1983 và được in trong tập “Bến quê” 1985. Truyện ngắn CTNX kể về
chuyến đi thực tế về miền biển của nhiếp ảnh Phùng. Khi nhìn xa nó là bức tranh thiên nhiên hoàn mỹ.
Khi đến gần lại là bức tranh hiện thực cuộc sống phũ phàng. Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh đất nước
đang dần đổi mới, đời sống người dân còn rất khó khăn. Trong cơn trở dạ đau đớn ấy, nhà văn NMC yêu
cầu văn chương cần phải khác và con người cần được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa”. Hình tượng
người đàn bà làng chài với số phận bất hạnh, trải đời giàu tình thương và đức hy sinh đã gây ấn tượng
mạnh với độc giả. Đi sâu vào phân tích ta sẽ thấy rõ điều này.
Thông qua nhân vật người đàn bà hàng chài, nhà văn đã thể hiện sự thấu hiểu, xót thương cho
số phận bất hạnh, nghèo khổ của con người. Nỗi xót xa cho nhân vật đã hiện ra ngay trong từ
những đường nét miêu tả đầu tiên về ngoại hình và số phận. Trong tác phẩm, người đàn bà không rõ
tên tuổi, người đọc chỉ biết chị trạc ngoài 40 và được coi là “mụ”, là “người đàn bà”. Đó là hình ảnh tiêu
biểu cho biết bao người phụ nữ miền biển đang oẳn mình trong kiếp sống đói nghèo, tăm tối. Ngay từ khi
mới suất hiện, người đọc không tránh khỏi cảm giác ngỡ ngàng, xót xa khi thấy một người đàn bà xấu xí
“thô kệch, rỗ mặt”. Dường như những sóng gió “sau một đêm thức trắng kéo lưới” cùng gánh nặng
cơm áo gạo tiền đã vắt kiệt sức lực của chị, khiến gương mặt chị trở nên “mệt mỏi, tái ngắt” chẳng còn
sức sống, chẳng còn niềm vui. Điểm thêm vào đó là “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân
dưới ướt sũng”. Thật lam lũ cơ cực và nhết nhát biết bao! Điều khiến người đọc ám ảnh nhất chính là
dáng vẻ nhẫn nhục đến kỳ lạ của chị. Khi đi ra bãi xe tăng hỏng để hứng chịu một trận đòn như lửa cháy,
ánh mắt chị nhìn về chổ chiếc thuyền đang đậu, cánh tay bất giác đưa lên định gãi hay sửa lại tóc những
rồi bất lực buông thõng xuống, mắt nhìn xuống chân buông xuôi, phó mặt. Khi bị chồng vừa đánh vừa
nguyền rủa, chị vẫn lặng im như một tảng đá, không kêu khóc, không chống trả, không tìm cách trốn chạy.
Thậm chí ngay cả khi được pháp luật che chở, người đàn bà khốn khổ ấy vẫn cảm thấy “lúng túng, sợ sệt,
rón rén, cổ thu người lại”. Tất cả đã toát ra sự mặc cảm, tự ti. Đã thế, người đàn bà còn là nạn
nhân của đói nghèo, lạc hậu. Trong câu chuyện chị kể ở toàn án huyện, người đọc mới thấm thía hết cuộc
đời cơ cực, bế tắc của người đàn bà vùng biển. Từ khi lấy chồng, cuộc sống mưu sinh trên viện cả luôn
bấp bênh và nhiều sóng gió. Dù chăm chỉ thức trắng đêm kéo lưới cùng chồng nhưng cái nghèo cứ bám
riết lấy gia đình chị, mỗi khi biển động, “cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm
muối”. Không dừng ở đó, người đàn bà còn là nạn nhân của bạo lực gia đình. Chị thường xuyên phải chịu
đựng những trân đòn vũ phu “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Nhưng nổi đau về thể
xác không bằng nổi đau về tinh thần. Sợ con cái bị tổn thương, sợ con căm hận bố. Hình ảnh chị vừa khóc
“vừa chắp tay vái lấy vái để đứa con” để ngăn nó lại làm điều trái đạo với bố khiến người đọc ám ảnh vô
cùng. Còn nỗi đau nào hơn thế? Sau bãi xe tăng hỏng, sau cuộc chiến giành độc lập, đất nước bước vào
cuộc chiến chống đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Cuộc chiến này bao giờ mới kết thúc? Con người bao giờ
mới được sống cho ra sống? Đó là những câu hỏi trăn trở của nhà văn NMC.
Qua nhân vật người đàn bà làng chài đau khổ, bất hạnh, nhà văn cũng đồng thời bộc lộ niềm
tin yêu với những vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn và tính cách con người. Trước hết, đó chính là vẻ
đẹp của tình mẫu tử, là một người mẹ rất yêu thương con. Chị ý thức rõ thiên chức của một người mẹ:
“Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Tình thương con đã tạo
thành một sức mạnh lớn lao để chị gồng mình đương đầu với những vất vả trong mưu sinh, nhẫn nhục
chịu những trận đòn như lửa cháy để giữ gìn sự sống cho các con. Thậm chí, chị vị tha đến mức muốn
hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, cố gắng tránh cho các con bị tổn thương về tinh thần bằng cách xin
chồng đưa lên bờ đánh. Cũng vì thương con, lo sợ bạo lực gia đình làm tính cách con xấu đi và chị phải
cắn răng gửi thằng Phác lên rừng sống với ông ngoại. Sâu thẳm trong tâm hồn chị là nổi đau day dứt về
bổn phận làm mẹ. Chứng kiến cảnh thằng Phác “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ
đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rõ xuống những dòng nước mắt”, chị đau đớn tột cùng.
Còn gì đâu hơn khi làm mẹ mà không bảo vệ được tuổi thơ của con, khiến tâm hồn non nớt của con bị tổn
thương. Tình thương con không chỉ gắn với nỗi đau mà còn thể hiện qua niềm vui. Người mẹ nào cũng
thế, mọi vui buồn sướng khổ của cuộc sống đều gắn với đàn con: thức trắng đêm vì con, đau đớn vì con
và hạnh phúc cũng từ các con. Qua hình ảnh người đàn bà làng chài, ta như gặp được biết bao người mẹ
Việt Nam tảo tần và thương con vô bờ:
“Những nại nuôi con suốt đời im lặng
Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời”. (Tố Hữu)
Mặc dù bị đánh đập đánh chửi rủa một cách tàn bạo nhưng thấp thoáng trong người đàn bà
hàng chài là bóng dáng của người phụ nữ VN, một vẻ đẹp bao dung, vị tha và thấu hiểu người
chồng của mình. Nếu Phùng và Đẩu coi lão chồng là một kẻ tàn độc, đáng bị lên án thì chị lại cảm thông
và thương xót cho những u uất của chồng. Chị hiểu anh con trai cục tính, hiền lành chưa bao giờ đánh vợ
ấy chính là nạn nhân của đói nghèo. Chị cũng hiểu lão đánh vợ không phải vì thù ghét vợ mà vì muốn giải
tỏ những bế tắc, túng quẫn trong lòng mình. Do đó, chị chịu đựng không phải vì nhu nhược, cũng không
hoàn toàn do hoàn cảnh bắt buộc “trên thuyền phải có một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba
để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con” mà đó là cách giúp người chồng vui quên khổ sở. Cách
hành xử ấy thật nhân hậu, vị tha và cao thượng. Nó khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Tagore “Chiếc
rìu của bác tiều phu tìm đến cây rừng xin cái cán. Và cây rừng đã cho” . Không dừng lại ở đó người đàn
bà nhân hậu ấy còn nhận lỗi về mình “đám đàn bà ở thuyền để nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Thậm
chí trong lời lẽ của chị hàm chứa một sự chịu ơn, vì nhờ chồng bà chị một người vốn xấu xí, không ai lấy
đã có niềm vui được làm vợ, làm mẹ. Sự thấu hiểu, bao dung của chị dành cho chồng đã chạm đến tâm
hồn và nhận thức của Phùng và Đẩu.
Trong cuộc sống chồng chất bi kịch, chị vẫn chắt chiu niềm hạnh phúc nhỏ nhặt đời thường.
Đó là lúc vợ chồng con cái hòa thuận. Trong cuộc trò chuyện với Phùng và Đẫu , chị bày tỏ: “Vui nhất là
lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Niềm vui đơn giản thế thôi nhưng với gia đình chị nó
xuất hiện rất hiếm hoi. Sự cam chịu, nhẫn nhục của chị không phải là vô lí mà hoàn toàn có lí bởi vì con
và vì chồng, đó là đức hi sinh cao đẹp. Người đàn bà không đắm chìm trong đau khổ mà vẫn biết sống
vươn lên, tìm niềm vui trong cuộc sống đời thường. Hạnh phúc không ở đâu xa, hạnh phúc là biết trân
trọng những điều bình dị trong cuộc sống.
Từ những lời kể của người đàn bà làng chài ta thấy người đàn bà ấy có những suy nghĩ và trải
nghiệm sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Khi kể câu chuyện cuộc đời cho Phùng và Đẩu nghe, người đàn bà
nhìn thẳng vào hai anh, “con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình”. Trong cách xưng hô của người bề
trên “chị-các chú” cùng với giọng điệu từ tốn, thâm trầm và những lý lẽ vô cùng thuyết phục, người đàn
bà quê mùa, thất học đã dạy cho Phùng và Đẩu một bài học vô giá. Trước hết chị giúp P và Đ nhận ra sự
non nớt, giản đơn, xa rời thực tế của họ: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn
… đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc”. Chị cũng giúp họ hiểu được những
nghiệt ngã của cuộc đời những bấp bênh, túng quẩn trong mưu sinh của người đàn bà miền biển: “cần có
người đàn ông để chèo chông khi phong ba”. Chị cũng giúp họ ngộ ra khi đói nghèo còn vay bủa, khi
sóng gió còn ấp đến thì hạnh phúc không quan trọng bằng sự sống. Không chỉ thế, hai anh cũng nhận ra
sự bất cập trong chính sách của nhà nước: “Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng
chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được”. Những lý lẽ đơn giản mà sâu sắc ấy đã khiến P và Đ vỡ ra “Bây giờ
tôi đã hiểu. . trên thuyền phải có một người đàn ông. . dù hắn man, tàn bạo”. Cả hai đều bất lực khi
thấy pháp luật và lòng tốt nhiều khi không thể giải phóng con người thoát khỏi những khổ đau. .
Tác phẩm “CTNX” không chỉ thành công về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật. Nhà văn đã
khắc họa nhân vật ấn tượng qua ngoại hình, dáng vẻ, cử chỉ, lời nói ; sử dụng nghệ thuật đối lập giữa bề
ngoài và bản chất. Xây dựng cốt truyện đọc đáo, tình huống truyện mang tính nhận thức. Giọng điệu trăn
trở, xót xa, thắm thía triết lý nhân sinh với những con người nghèo khổ oằn mình trong mưu sinh. NMC
đã vẽ nên bức chân dung về người phụ nữ nghèo khổ, bất hạnh những vẫn giữ được những vẻ đẹp khuất
lấp của họ. Qua nhân vật này, nhà văn thể hiện tư tưởng nhân đạo của mình, sự xót thương trước số phận
bất hạnh, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của họ, hướng đến cuộc cách mạng để giải phòng con người thoát khỏi đói nghèo.
Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng phải gắn bó với cuộc đời. Qua hình
tượng người đàn ba hàng chài trong tác phẩm CTNX, tác giả đã thể hiện cái nhìn đa diện, đầy yêu thương
với con người. Dám “cất lên những tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than” đừng vì nghệ thuật
mà bỏ quên cuộc đời, với quan niệm tiến bộ đó NMC xứng đáng là “nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”.
Càng đọc tác phẩm ta càng thấm thía hơn bài học về cách nhìn nhận và đánh giá con người, không nên
giữ cái nhìn định kiến mà cần giữ cái nhìn tin yêu vào con người và đi sâu vào thế giới tinh thần bên
trong họ để tìm thấy những “hạt ngọc” quý giá. MỘT SỐ LỜI BÌNH:
*NHẬN XÉT VỀ CÁCH NHÌN CON NGƯỜI CỦA NHÀ VĂN.
Thông qua nhân vật người đàn bà hàng trai, nhà văn gửi gắm thông điệp về cách nhìn con người:
Không phải cái bên ngoài bao giờ cũng là sự thể hiện bản chất bên trong. Vì thế, muốn hiểu đúng bản
chất con người, con có cái nhìn đa diện, thấu đáo, không nên đánh giá con người một cách hời hợt, nông
cạn, dễ dãi từ cái nhìn chủ quan bên ngoài đối tượng. Đây là cách nhìn con người sâu sắc, tiến bộ và rất
nhân đạo của tác giả. Nó thể hiện sự phát triển trong nhận thức của Nguyễn Minh Châu khi tiếp cận hiện
thực đời sống sau 1975, mang đến cho văn học 1975 một hướng đi mới.
*NHẬN XÉT CÁCH NHÌN CON NGƯỜI VÀ CUỘC SỐNG CỦA NHÀ VĂN.
Thông điệp về cách nhìn con người và đời sống: cuộc đời thì đa sự, con người thì đa đoan. Vì thế,
muốn hiểu đúng bản chất con người và các sự việc trong đời sống cần phải có cái nhìn đa diện, thấu đáo,
không nên đánh giá một cách hời hợt, nông cạn dễ dãi từ cái nhìn chủ quan bên ngoài đối với đối tượng.
Sau chiến tranh, cuộc sống con người còn nhiều đau khổ, vì thế cần làm một cuộc cách mạng khác giải
quyết đói nghèo, lạc hậu. Đây là cách nhìn nhận con người và cuộc sống sâu sắc, tiến bộ và rất nhân đạo
của tác giả. Nó thể hiện sự phát triển trong nhận thức của Nguyễn Minh Châu khi tiếp cận hiện thực đời
sống sau 1975, mang đến cho văn học 1975 một hướng đi mới.
*NHẬN XÉT QUAN NIỆM CỦA NHÀ VĂN VỀ NGHỆ THUẬT VÀ CUỘC ĐỜI.
Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng
đẹp, cái xấu cái ác vẫn tồn tại trong cuộc đời như một lẽ bất khả kháng. Khát vọng tìm đến cái đẹp với
mong muốn làm cho con người đẹp lên là rất đáng quý nhưng không thể vì nghệ thuật mà quên đi cuộc
đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn gắn bó khăng khít với cuộc đời và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ chân
chính không chỉ biết rung động trước cái đẹp mà còn phải gắn bó với đời sống nhân dân, dám “cất lên
những tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than”, dám đấu tranh để có một cuộc sống xứng đáng
với con người, đừng vì nghệ thuật mà bỏ quên cuộc đời. Đây là quan niệm đúng đắn, tiến bộ và sâu sắc
thể hiện rõ ý thức trách nhiệm của nhà văn Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật và cuộc đời, mở ra một
hướng đi mới cho văn học Việt Nam sau năm 1975.
Document Outline
- BÀI LÀM
- MỘT SỐ LỜI BÌNH:
- *NHẬN XÉT CÁCH NHÌN CON NGƯỜI VÀ CUỘC SỐNG CỦA NHÀ
- *NHẬN XÉT QUAN NIỆM CỦA NHÀ VĂN VỀ NGHỆ THUẬT VÀ C