Phân tích hình tượng người lái đò (Sơ đồ tư duy) hay nhất | Văn mẫu lớp 12
Hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn đã bày tỏ thái độ yêu mến, tự hào và cảm phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là “chất vàng mười” quý giá của Tổ quốc. Vậy sau đây là 25 bài hình ảnh người lái đò sông Đà cực hay mời các bạn cùng theo dõi.
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Dàn ý hình tượng người lái đò sông Đà Dàn ý số 1 I. Mở bài
- Nguyễn Tuân là một tác giả tài hoa, uyên bác, luôn kiếm tìm cái đẹp. Trước cách
mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành công ông tìm kiếm vẻ
đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Người lái đò sông Đà là tùy bút tiêu biểu cho
những sáng tác sau cách mạng của ông.
- Ông lái đò chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm kiếm,
người anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình ảnh người anh
hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao – Chữ người tử tù) II. Thân bài
-Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với thiên nhiên hung bạo.
- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình để ngợi ca những
con người vô danh âm thầm cống hiến: “tay lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào
cũng khuỳnh khuỳnh, ... chất mun”, đó là ngoại hình khỏe khoắn của con người lao
động luôn gắn bó với nghề
- Là người có lòng dũng cảm, tình yêu nghề: “giữ mái chèo, nén vết thương, hai chân
kẹp chặt lấy cuống lái”
- Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của
Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.
- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
- Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi
ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, “sông Đà đối với ông lái
đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc ... xuống dòng”, ...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
- Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:
● Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo
...” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất,
● Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi
chiến thuật, ông ”“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy
luật phục kích của lũ đá nơi ải nước”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên
bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...”
● Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái
đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện
thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và toàn bàn về
chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, ...
- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên bác, suốt
đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mĩ, luôn miêu tả
con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. III. Kết bài
- Nêu cảm nhận về hình tượng nhân vật ông lái đò: là đại diện cho con người lao động
Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con người vừa có phẩm chất
anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, chứa đựng chất vàng mười đã qua thử lửa.
- Người lái đò sông Đà là tùy bút xuất sắc miêu tả chân thực vẻ đẹp vừa hung bạo vừa
trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa nền thiên nhiên nổi bật lên là vẻ đẹp của những
người lao động bình dị. Dàn ý số 2 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò Sông Đà và hình tượng nhân
vật người lái đò với những vẻ đẹp tráng lệ: người anh hùng sông nước, người nghệ sĩ
tài ba và người lao động bình dị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò 2. Thân bài
* Nhận xét khái quát về phong cách sáng tác của tác giả Nguyễn Tuân:
- Từ nhan đề, tác giả đã đưa hình tượng con người vào trung tâm, cốt để miêu tả con người
- Phong cách nghệ thuật vốn có của tác giả là hướng tới cái đẹp, cái hoàn mỹ. Ở đây,
con người là chủ thể trữ tình và là nhân vật trung tâm, tác phẩm xoay quanh cái đẹp của con người
*Hình tượng người lái đò được xây dựng với những nét đẹp điển hình
- Người lái đò là một người anh hùng trên sông nước.
• Vượt thạch trận sông Đà đã chứng minh sự dũng cảm, kiên cường của nhân
vật: Ông nắm chắc từng luồng nước, từng con sóng, binh pháp của thần sông thần đá.
• Ông thuộc lòng từng cửa sinh, cửa tử, từng đá hòn đá tảng, từng cái hút nước trên thạch trận.
• Hình dung ra bộ mặt dữ tợn của nước, đá, sóng, gió, cảm nhận được thái độ
giận dữ, tâm trạng cáu kỉnh của nó để rồi có những sách lược chiến thắng từng
con thác, từng tảng đá.
- Người lái đò là một người nghệ sĩ.
+ Những hành động đều nhanh gọn, dứt khoát và điêu luyện. “Thuyền vút qua cổng đá
cánh mở cánh khép, vút, vút… Cửa ngoài rồi cửa trong cùng. Thuyền như một mũi
tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được.”
- Người lái đò là một người lao động bình dị đã cống hiến thầm lặng mà cao cả.
→ Biểu tượng cho những con người say mê với công việc, tình yêu với nghề nghiệp
mà bất chấp hiểm nguy, vất vả. Nguyễn Tuân không gọi nhân vật với cái tên cụ thể,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
chỉ đơn giản là “ông lái đò”, tên gọi gắn liền với nghề nghiệp để khắc họa hình ảnh
người lao động bình dị giống bao người khác. 3. Kết Bài
Khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân nói chung và khả năng xây dựng
hình tượng nhân vật điển hình của tác giả. Dàn ý số 3 I. Mở bài
• Nguyễn Tuân là một tác giả tài hoa, uyên bác, luôn kiếm tìm cái đẹp. Trước
cách mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành công ông
tìm kiếm vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Người lái đò sông Đà là tùy bút
tiêu biểu cho những sáng tác sau cách mạng của ông.
• Ông lái đò chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm
kiếm, người anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình
ảnh người anh hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao – Chữ người tử tù) II. Thân bài
-Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với thiên nhiên hung bạo.
- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình để ngợi ca những
con người vô danh âm thầm cống hiến: “tay lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào
cũng khuỳnh khuỳnh, ... chất mun”, đó là ngoại hình khỏe khoắn của con người lao
động luôn gắn bó với nghề
- Là người có lòng dũng cảm, tình yêu nghề: “giữ mái chèo, nén vết thương, hai chân
kẹp chặt lấy cuống lái”
- Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của
Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
- Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi
ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, “sông Đà đối với ông lái
đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc ... xuống dòng”, ...
- Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:
• Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo
...” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất,
• Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi
chiến thuật, ông ”“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy
luật phục kích của lũ đá nơi ải nước”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên
bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...”
• Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái
đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện
thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và toàn bàn về
chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, ...
- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên bác, suốt
đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mĩ, luôn miêu tả
con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. III. Kết bài
• Nêu cảm nhận về hình tượng nhân vật ông lái đò: là đại diện cho con người lao
động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con người vừa có
phẩm chất anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, chứa đựng chất vàng mười đã qua thử lửa.
• Người lái đò sông Đà là tùy bút xuất sắc miêu tả chân thực vẻ đẹp vừa hung
bạo vừa trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa nền thiên nhiên nổi bật lên là vẻ
đẹp của những người lao động bình dị.
Phân tích hình tượng người lái đò học sinh giỏi - Mẫu 1
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Tố Hữu đã từng viết:
"Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng"
Sau cuộc chiến thắng Điện Biên lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu với hiệp đinh
Giơnevơ được kí kết, miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo lời kêu gọi của Đảng,
miền Bắc dấy lên phong trào tình nguyện, đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi
phục kinh tế, để hàn gắn vết thương chiến tranh. Họ trở lại nhiều hơn cả những nơi
xưa vốn là chiến trường. Tây Bắc Điện Biên được xem là một miền đất hứa. Hàng loạt
con người mới của xã hội chủ nghĩa nô nức đến miền Tây của Tổ quốc. Họ ra đi đầy
ắp tiếng hát, đầy sông đầy cầu. Sự thật cuộc sống bước vào văn chương như một quy
luật tất yếu bởi nhà văn là thư kí trung thành của thời đại. Nếu Nguyễn Khải có tập
truyện "Mùa lạc", Nguyễn Huy Tưởng có tác phẩm "Bốn năm sau", Chế Lan Viên có
"Tiếng hát con tàu" thì Nguyễn Tuân có tập tùy bút "Sông Đà" gồm mười lăm bài kí
sáng tác năm 1958 - 1960 khi nhà văn đi thực tế trên mảnh đất Tây Bắc. Linh hồn của
tập tùy bút là bài kí "Người lái đò sông Đà". Tác phẩm được đưa vào trong chương
trình giảng dạy như là một trong những kiệt tác của Nguyễn Tuân ở thể kí. Thành
công của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này bên cạnh việc xây dựng được hình tượng
con sông Đà chân thực, sống động, ta phải kể đến tác giả đã thể hiện được hình tượng
Người lái đò sông Đà tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa. Có thể
khẳng định không quá lời rằng với tác phẩm "Người lái đò sông Đà", ngòi bút của
Nguyễn Tuân đã nở hoa trên dòng sông văn chương của mình.
Đến với "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân, điều đầu tiên người yêu văn bắt
gặp đó là hình ảnh con sông Đà được nhà văn tài ba này xây dựng vô cùng chân thực
và sống động. Dòng sông ấy hiện lên dữ dội khác thường nhưng cũng nên họa, nên
thơ. Nhưng con sông Đà hiện lên dù chân thực, hung bạo hay trữ tình đến đâu cũng
chỉ làm nền cảnh để Nguyễn Tuân tô lên chân dung của con người mới xã hội chủ
nghĩa thông qua hình tượng ông lái đò Lai Châu. Chỉ khi ông đò xuất hiện thì bức
tranh Đà Giang của Nguyễn Tuân mới trở nên hoàn chỉnh bởi ông đò Lai Châu chính
là chủ thể của bức tranh thiên nhiên. Có được điều đó bởi Nguyễn Tuân đã được giác
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
ngộ lí tưởng của Đảng. Trong văn chương, những người nghệ sĩ cách mạng, thiên
nhiên hiện ra dù hùng vĩ, mĩ lệ đến đâu cũng chỉ là nền cảnh để tô lên sự hiện diện của
con người. Con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng, làm chủ dòng sông, làm
chủ cả cuộc đời mình. Ông đò Lai Châu là một nhân vật như vậy.
Sở dĩ Nguyễn Tuân viết thành công ông đò Lai Châu trong thiên tùy bút của mình bởi
nhắc đến Nguyễn Tuân là phải nhắc đến một nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ, cả đời chỉ
phụng sự cái đẹp. Vì vậy, những nhân vật của Nguyễn Tuân dù làm bất cứ nghề
nghiệp gì cũng phải là người nghệ sĩ trên nghề nghiệp của mình. Ta đã từng bắt gặp
một Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, là một nghệ sĩ viết chữ đẹp. Đó còn là một Bát Lê
trong "Bữa rượu máu" tuy chỉ là một đao phủ nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Tuân
lại trở thành một nghệ sĩ chém người... Ở đây, ta thấy ông đò Lai Châu cũng là một
người nghệ sĩ như vậy. Dù tuổi đã vào bảy mươi nhưng khi lái thuyền trên dòng sông
Đà hung bạo với nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy, tay lái của ông vẫn
ra hoa. Ông làm chủ dòng sông Đà, làm chủ cả thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Ông là
người nghệ sĩ trên sông nước mà Nguyễn Tuân đã tìm thấy ở trên Tây Bắc. Có thể
khẳng định chính người nghệ sĩ trên dòng sông Đà này đã trở thành một nguồn cảm
hứng bất tận đối với ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân
Như vậy, ta có thể thấy ông đò Lai Châu bước vào trang văn đã được thể hiện một
cách vô cùng trân trọng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân. Điều này chỉ có thể có ở một
Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám vì lúc này, Nguyễn Tuân đã được ánh sáng
của Đảng soi rọi, phù sa của nhân dân bồi đắp. Ông đứng giữa lòng nhân dân mà nhân
dân là cội nguồn của nghệ thuật. Sự gắn kết đó đã được Tố Hữu nâng lên thành hình tượng thơ đẹp: "Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Nhớ lại trước cách mạng Nguyễn Tuân vẫn chìm đắm trong vòng cái "Tôi" của một
nhà văn lãng mạn tiêu biểu. Ông chỉ viết về những con người kì vĩ, lớn lao của một
thời vang bóng ví như nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm "Chữ người tử tù" lấy từ
nguyên mẫu ngoài đời là Cao Bá Quát. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân đi từ cái "Tôi"
cô đơn đến cái "Ta" của cộng đồng. Tuy vậy, cái "Tôi" của Nguyễn Tuân không mất
đi mà trái lại, nó được ánh sáng của Đảng nuôi dưỡng, được bồi đắp bởi phù sa nhân
dân và trở nên đa cảm hơn, mẫn cảm hơn. Ông tìm thấy chủ nghĩa anh hùng ngay
trong đời của những người dân bình thường thời hiện đại. Vì vậy, sau cách mạng
Nguyễn Tuân viết nhiều về anh bộ đội, chị dân quân, anh du kích... Đó là những con
người anh hùng ngay trong đời bình thường, những con người rất bình dị. Ông đò Lai
Châu là một nhân vật như vậy. Để khẳng định rằng mình đã tìm thấy chủ nghĩa anh
hùng ở những người dân bình thường, Nguyễn Tuân đã để ông đò Lai Châu là một
người khuyết danh khiến cho ông cũng là một con người bình thường như muôn nghìn
người dân Tây Bắc khác. Họ rất bình thường nhưng cũng lại rất anh hùng mà như
Nguyễn Khoa Điềm đã viết:
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"
Hơn nữa, như đã nói ở trên, "Người lái đò sông Đà" nói riêng cũng như tập tùy bút
"Sông Đà" nói chung được sáng tác vào những năm 1958 - 1960. Trong gi¬ai đoạn
này, miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nghe theo tiếng gọi của
Đảng, các nhà văn đã lên Tây Bắc để khai phá hồn thơ, xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa trong văn chương. Đó là anh Nhẫn trong "Cỏ non" của Hồ Phương, anh
Khôi trong "Nước về", Quyên trong "Cái sân gạch" của Đào Vũ, anh thanh niên không
tên trong "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Tuân Long, là Huân, là Đào, là Duệ, là Dịu, là
Lâm trong "Mùa lạc" của Nguyễn Khải... Hòa vào phong trào của Đảng, Nguyễn Tuân
cũng tìm thấy chân dung của con người mới xã hội chủ nghĩa ấy chính là ông đò Lai
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Châu. Có thể khẳng định không quá lời rằng họ chính là những bông hoa đẹp trong
vườn hoa xã hội chủ nghĩa.
Như đã nói ở trên, ông đò Lai Châu trong tác phẩm này là một nhân vật khuyết danh.
Điều này cho thấy Nguyễn Tuân không có ý định xây dựng ông đò theo một kiểu nhân
vật điển hình. Nói cách khác, ông đò Lai Châu không phải là một điển hình văn học vì
nhân vật điển hình bao giờ cũng có tên tuổi, có địa chỉ xác định, có hoàn cảnh phải
điển hình. Ông đò Lai Châu tuy chỉ là một nhân vật khuyết danh bình thường trong
đời sống thường nhật nhưng ông lại có một vị trí đứng rất đặc biệt trong tâm hồn
người yêu văn Nguyễn Tuân. Cả đời ông có mười năm gắn bó với nghiệp sông nước.
Mười năm đối với đời của một con người không phải thời gian dài. Thế nhưng trong
suốt mười năm ấy, ngày nào ông cũng phải cưỡi thác sông Đà như cưỡi hổ, phải đối
mặt với những trùng vi thạch trận; ngày nào ở nơi ấy ranh giới giữa sự sống và cái
chết cũng vô cùng mỏng manh. Điều ấy đã khiến cho mười năm ấy dài tựa trăm năm.
Chính cuộc đời gắn bó với sông nước đã làm nên cái dáng vẻ rất riêng của ông đò Lai
Châu. Nguyễn Tuân đã chỉ ra được những đặc điểm rất riêng ấy: Tay ông lêu nghêu
như cái sào. Chân ông khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp cái cuỗng lái trong tưởng tượng.
Ông đò Lai Châu bỏ nghề đôi chục năm nay rồi nhưng ngày nào ông cũng ngỡ mình
như đang lái thuyền trên sông nước. Tiếng ghềnh sôi thác réo vẫn còn âm vang trong
giọng nói của ông. Đôi mắt của ông nửa thực nửa mơ như muốn mơ về một cõi mơ xa
thẳm. Nhỡn giới của ông cao vòi vọi như lúc nào cũng hướng về một bến bờ nào đó ở
trong sương mù. Đã vào độ tuổi bảy mươi nhưng ông vẫn còn lực lưỡng quá. Cái đầu
quắc thước được đặt trên một thân hình to khỏe gọn quánh chất sừng chất mun. Người
xưa có câu "giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay". Với người lái đò, có lẽ điều quan tâm
của Nguyễn Tuân là ở đôi bàn tay của ông. Đôi tay ông còn trẻ trung quá khiến cho
dường như thời gian đã có bước lùi trong tuổi tác của ông đò. Như một lẽ thường tình,
người nào sống quá lâu trong lam lũ vất vả thì người ấy chóng già. Riêng với ông đò
Lai Châu, từ khuôn mặt đến nụ cười của ông đều là của tuổi trẻ. Đây chính là tiền đề
để Nguyễn Tuân xuất thần câu văn rất đẹp: "Khuôn mặt ông he hé nửa miệng cười".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Không chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút tài tình của Nguyễn còn lách sâu vào để khắc họa
những tính cách rất riêng của ông đò Lai Châu. Vẫn biết rằng Đà giang là một con
sông rất đặc biệt trên đất nước trăm sông nghìn núi này. Điều ấy đã hơn một lần được
Nguyễn Quang Bích khẳng định:
"Chúng thủy giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu"
Sự độc đáo của Đà giang đã tạo nên sự hung bạo của nó. Để chinh phục được con
sông Đà hung bạo, ông đò Lai Châu đã bộc lộ mình là một người có tính cách phi
thường như "chim hải âu chỉ quen đối đầu với sóng dữ". Ông chỉ thích lướt sóng lướt
thuyền trên đoạn "thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ông cũng đã
từng tâm sự "Lái thuyền trên dòng sông Đà ở quãng sông không có sóng rất dễ dại
chân tay và rất dễ buồn ngủ." Như vậy, một người thích đương đầu với sóng gió, thích
đương đầu với gian khổ hi sinh, ông đò Lai Châu thực sự là một con người có tính
cách phi thường. Nhìn rộng ra, đây là sự hóa thân của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ông
không thích những gì là bình thường, là quen nhàm bởi "cái bình thường là cõi chết
của nghệ thuật". Chính vì lẽ đó, Nguyễn Tuân đã khẳng định được vị trí của mình trên
tao đàn bằng những đề tài khá gai góc để bộc lộ sở trường, phong cách của một người
nghệ sĩ đã được giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đóng đanh trong một chữ "ngông".
Bên cạnh đó, ông đò Lai Châu còn là một người có trí nhớ rất tuyệt vời. Trí nhớ của
ông chẳng khác nào cuốn thủy văn sông Đà. Ông nhờ đến tường tận như đóng đanh
vào trong lòng từng con thác. Tuy bỏ nghề đã đôi chục năm nay nhưng khi Nguyễn
Tuân đi khảo sát dòng sông, ông vẫn kể vanh vách năm mươi trên tổng số bảy mươi
ba con thác dữ từ ngã ba biên giới Việt - Trung về đến Chợ Bờ. Ông hiểu rõ tính cách
qui luật của từng con thác dữ, của từng tướng đá nơi đây từ cách bày binh bố trận của
nó. Đây không chỉ là biểu hiện trí nhớ đơn thuần của một con người mà nó còn là biểu
hiện của lòng yêu nghề, coi "nghề" như "nghiệp". Ông gắn bó với nghề nghiệp của
mình như con ong làm mật yêu hoa, con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời. Nhìn
rộng ra, đây cũng là biểu hiện phong cách của Nguyễn Tuân. Ông cả đời chăm chỉ cần
mẫn như con ong hút nhụy từ những bông hoa của cuộc sống. Không có sự cần mẫn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
của con ong, nhụy hoa không thể trở thành mật ngọt. Có thể khẳng định, nếu coi ông
lái đò thuộc những con thác ở Đà giang như người nghệ sĩ thuộc tác phẩm của mình,
coi con sông Đà là một thiên anh hùng ca của thiên nhiên Tây Bắc dữ dội, khác
thường, nên họa, nên thơ thì ông đò Lai Châu thuộc bản anh hùng ca ấy đến từng dấu chấm, dấu phẩy.
Không chỉ có trí nhớ tuyệt vời, có tính cách phi thường, ông đò còn là một con người
rất khỏe mạnh. Ngày nào lái thuyền trên dòng sông Đà, ông luôn phải tập trung cao
độ, người luôn phải dựng đứng. Ông phải luôn mắt, luôn chân, luôn tay, luôn gân và
cả luôn tim. Chỉ cần khinh suất một chút là cả người và thuyền sẽ bị lật úp dưới dòng
sông Đà mà như có lần Nguyễn Tuân đã mô tả: "Có những con thuyền đã bị cái hút nó
hút xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng
sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới." Thế nhưng ông đò Lai
Châu vẫn chiến thắng những đoạn sông hung bạo vì ông là một người trí dũng. Gặp
những cái hút nước, người khác phải run tay thì ông lại bơi dẻo tay chèo, nắm chặt lấy
bờ sóng để phóng qua. Cũng đã có những lúc thuyền của ông đò bị sóng nước ùa vào
bẻ gãy cán chèo, tóm lấy thắt lưng, dùng đòn tỉa, đòn âm làm ông đuối sức, mắt hoa
lên, nhìn cửa sông ngỡ là cửa biển, cả một rừng đom đóm ùa xuống châm lửa xuống
đầu sóng... Mặc dù vậy, ông đò vẫn không hề buông tay, tiếng chỉ huy tay chèo vẫn vô
cùng ngắn gọn và đầy tỉnh táo vì ông là một người trí dũng hơn người.
Ngoài ra, ông đò Lai Châu còn là một con người rất khéo léo. Lái thuyền trên dòng
sông Đà thực sự là một nghệ thuật. Ông đò Lai Châu vốn là một nghệ sĩ trên sông
nước vậy nên tất cả những nhịp chèo của ông khi thì khoan thai, khi thì mạnh khỏe,
dứt khoát. Ông nhớ rất rõ từng con thác, từng tướng đá và biết rất rõ lúc lui lúc tiến vô
cùng nhịp nhàng. Có những tướng đá ông tránh ra để giảm tay chèo, nhưng có những
con thác ông đè sấn lên, chặt đôi ra để mở đường tiến. Nhiều lúc thuyền của ông đò
như một cái tên tre xuyên qua cổng đá cánh mở, cánh khép. Sau khi vượt qua ba trùng
vi thạch trận, thuyền của người nghệ sĩ lái thuyền trên dòng sông Đà ấy lại trôi vào
một quãng sông lặng tờ, yên ả, nhịp chèo trở nên khoan thai như thuyền tôi trôi trên
sông Đà. Rồi cứ thế, qua cái quãng sông đầy nên thơ, người nghệ sĩ lúc này ngồi thản
nhiên như để ung dung ngắm cảnh ở nơi đây. Tối đến, nhà đò lại neo đậu trong một
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
cái hang lạnh thổi lửa nướng cơm lam và kể về việc nhà cửa, về cách làm ăn, kể về
những loài cá quý hiếm chỉ có ở sông Đà. Tuyệt nhiên Nguyễn Tuân không thấy
những con người nơi đây kể về chiến công của mình sau một trận vượt thác. Đó là bởi
đức tính anh hùng là một phần cố hữu trong tâm hồn của người lái đò nơi đây, trở
thành một phần bản chất của người dân Tây Bắc. Đứng trước đức tính khiêm nhường
của người Tây Bắc, cái "Tôi" của Nguyễn Tuân co cụm lại, câu văn trở nên đầy tế nhị,
không phô trương, kéo dài, ngồn ngộn ngôn ngữ như ở những đoạn văn trên nữa. Điều
này chỉ có thể có ở một Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám mà thôi.
Như vậy rõ ràng, thông qua "Người lái đò sông Đà", với khoảng vài trang sách, vài
trang tùy bút, Nguyễn Tuân đã dựng lên trước mắt chúng ta một bức chân dung của
người nghệ sĩ lái đò. Ông thực sự là người nghệ sĩ trên sông nước. Lái thuyền trên
dòng sông Đà hung bạo, tay lái của ông vẫn ra hoa nhưng điều quan trọng mà ta cần
phải bàn đến đó là ông chính là bông hoa đẹp trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa. Có lẽ
đây là bức chân dung chân thực nhất về vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa,
những con người sống rất âm thầm, giản dị, sẵn sàng trở thành một hậu phương lớn
của một miền Bắc để sau này chi viện cho tiền tuyến lớn ở miền Nam thành đồng Tổ quốc.
Có thể khẳng định rằng bài kí "Người lái đò sông Đà" đã bộc lộ toàn bộ sở trường,
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người ta yêu Nguyễn Tuân vì Nguyễn Tuân
rất có tài. Người ta trọng Nguyễn Tuân vì ông là một người nghệ sĩ của cái đẹp, người
nghệ sĩ của hai chữ "thiên lương" trong sáng. Nhưng nói một cách khách quan, văn
của Nguyễn Tuân không phải ai cũng ưa chuộng, nhất là những bài tùy bút bởi
Nguyễn Tuân hay viết những câu văn rất dài cùng những tư liệu khá khô khan, khó
hiểu. Bài kí "Người lái đò sông Đà" cũng không tránh khỏi những tì vết kể trên. Tuy
nhiên, với bức chân dung của ông đò Lai Châu cùng tất cả những gì Nguyễn Tuân đã
cống hiến trên thi đàn văn chương, Nguyễn Tuân thực sự là một tài năng lớn, là một
nhân cách lớn mà như Nguyễn Minh Châu đã nói: "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ."
Hình ảnh người lái đò sông Đà - Mẫu 2
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Đoạn trích “Người lái đò sông Đà” là đoạn văn xuất sắc, là dấu ấn chứng minh tài hoa
của nhà văn Nguyễn Tuân cũng như là sự hiểu biết về thiên nhiên và con người Tây
Bắc của ông. Đây chính là áng văn ca ngợi con người lao động vượt mọi khó khăn để
chinh phục thiên nhiên cũng như miêu tả được sự hùng vĩ của dòng sông Đà.
Bên cạnh hình ảnh con Sông Đà hung ác với địa hình nhấp nhô nguy hiểm kèm theo
dòng nước chảy siết chính là con người lao động nhỏ bé nhưng luôn cần mẫn và luôn
làm chủ được công việc của mình. Đó là một ông lão hơn bảy mươi tuổi, tác giả
không miêu tả về khuôn mặt ông nhưng lại kể khá rõ về dáng người đậm chất dân lao
động. Đó là người có cánh tay rắn chắc như trai trẻ “tay ông lêu lêu như cái sào, chân
ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng” cùng với
cặp mắt tinh anh nhìn được rất xa. Ông lái đò đã dành phần lớn thời gian trong cuộc
đời mình để làm công việc lái đò vượt sông Đà. Trên dòng sông nguy hiểm đó, ông đã
đi đi lại lại hơn một trăm lần với hơn sáu mươi lần giữ tay lái chính. Hơn chục năm
trong nghề giúp ông có những trải nghiệm quý giá, ông là người hiểu biết, từng trải và
đã thông thạo từng nước đi đến mức có thể nhớ được “tất cả những luông nước của tất
cả những con thác hiểm trở”. Như nhà văn Nguyễn Tuân, người lái đò chuyên nghiệp
này có thể coi “sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã
thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Con sông Đà
hung dữ đó có ba chặng chính cần phải vượt qua.
Đầu tiên là trùng vi thạch trận thứ nhất mở ra từ khi xuất phát. Ngay khi vào trận,
những vũ khí ác liệt của dòng sông đã xuất trận với sóng nước dữ dội, đá sông được
bài trí để đánh vào mạn thuyền. Đá sông cứng rắn lao vào bẻ gãy cán chèo thuyền,
đâm thẳng vào bụng và hông thuyền. Còn dòng nước như một vận động viên đô vật,
luôn tìm cách túm lấy ông lái đò để vật ngã người chỉ huy xuống. Dù ông lái đò đã bị
thương nhưng ông vẫn kiên cường nghiến răng nén đau đớn, hai chân vẫn trụ vững
kẹp chặt không buông cuống lái thuyền. Ông vẫn luôn giữ được sự tỉnh táo để chỉ huy
con thuyền đi đúng hướng, vượt qua được chiến trường.
Đến trùng vi thạch trận thứ hai, mọi thứ dường như khác nhiều so với thạch trận một.
Thấy con thuyền qua được hiệp một an toàn, sông Đà đã lập tức thanh đổi thế trận,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
tăng thêm nhiều thử thách hơn, nhiều cửa tử hơn. Cửa sinh duy nhất được bố trí lệch
hẳn sang tả ngạn, có nhiều che chắn hơn, bí ẩn hơn với mục đích đánh lừa ông lái đò.
Nhưng với hơn trăm lần đi, ông lái đò đã nắm rõ được từng nước đi bố trí của chúng
trong lòng bàn tay. Ông cưỡi thác sông Đà như cưỡi trên lưng hổ, nhanh chóng nắm
lấy bờm sóng rồi lấy sức bật con thuyền lách vào cửa sinh. Chính vì ông quá hiểu quy
luật phục kích của đá, quá thuộc binh pháp của dòng sông nên có thể nhanh chóng
hành động khiến cho bọn đá không kịp trở tay để túm lấy ông.
Trùng vi thạch trận cuối cùng xuất hiện với ít cửa hơn nhưng cửa bên phải hay cửa
bên trái đều là cửa tử cả. Sông Đà đã mưu trí đặt luôn cửa sống duy nhất ở giữa trung
tâm con thác. Biết là nguy hiểm nhưng với tất cả kinh nghiệm của mình, ông lái đò đã
kiên quyết chỉ huy con thuyền lao thẳng vào giữa cửa thác ” Vút vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được, lượn được”.
Đây chính là đỉnh điểm của nguy hiểm cũng như cao trào của trận chiến. Con thuyền
lướt trên đỉnh sóng sông Đà và hình ảnh rõ nhất trên mũi thuyền chính là người lái đò
tài ba kiên cường bất khuất. Dù thiên nhiên hùng vĩ nguy hiểm thì con người vẫn làm
chủ được, vẫn huy hoàng chiến thắng mọi trận chiến với thiên nhiên. Bao nhiêu binh
mã được bố trí dưới lòng sông đều phải ở lại vươn theo sắc mặt xanh lè và ánh nhìn
tức giận về phía con thuyền. Hình ảnh con người mà được tác giả ví với “khối vàng
mười” thực tế lại chính là những người lái đò với vết hằn của thời gian, vết tích của
những công việc nguy hiểm. Người lái đò này không được Nguyễn Tuân đặt tên như
là đại diện cho biết bao người lái đò khác cũng đang chăm chỉ lao động, ngày ngày anh dũng chiến đấu.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện cho người đọc một bức hùng ca đầy vẻ đẹp hùng vĩ
của thiên nhiên. Đó là những kiến thức về địa lý, về lịch sử,...những kiến thức thực tế
mà tác giả đã tích lũy được trong thời gian đi thực tế tại vùng Tây Bắc.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 3
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Nhà văn Nga Tolstoi từng viết: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu".
Chính tình yêu cuộc sống, tình yêu thiên nhiên, lòng yêu thương con người là chất xúc
tác thôi thúc người nghệ sĩ tìm thấy "chất vàng mười" cho văn chương của họ. Xuyên
suốt chặng hành trình cùng với người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện tình
yêu da diết của mình cho những người lao động, cho thiên nhiên đất nước Việt Nam.
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc từ năm 1958 đến năm
1960, tất cả vẻ đẹp của sông Đà đã hiện lên rõ nét trong tùy bút này.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đặt tên cho đứa con tinh thần của mình là
"Người lái đò sông Đà", bởi song song với hình tượng con sông Đà vừa dữ dội, hung
bạo, vừa dịu dàng, đằm thắm là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm,
độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà vừa hung hiểm vừa thơ
mộng. Nhà văn miêu tả cái hùng vĩ của dòng sông là để tôn vinh vẻ đẹp con người -
một khúc hùng ca của núi rừng Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế
này "Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hàng ngày với
thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và
tâm địa của một kẻ thù số một". Thế nhưng qua cuộc chiến đấu ấy, ông đò được bộc lộ
tài năng và kinh nghiệm mười năm gắn bó với thác đá Sông Đà, với cái nghề lái đò
này. Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã xuôi ngược trên dòng sông Đà không dưới
trăm lần, trong đó có tới sáu mươi lần ông cầm lái. Con số mười năm, trăm lần, hơn
sáu mươi chính là minh chứng cho kinh nghiệm dày dặn của ông đò Lai Châu.
Bước vào cái tuổi bảy mươi, hình ảnh người lái đò của Nguyễn Tuân hiện lên với một
vẻ ngoài đầy phong sương, cơ thể in hằn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của
ông "tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng
tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa
nào đó,..." Thân hình ông lái đò như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch, nước da
ánh lên chất sừng như mun, ánh lên nắng mưa sương gió của mây trời Tây bắc. Tuổi
đã cao nhưng cặp mắt của ông vẫn tinh anh, thông thạo từng đường đi nước bước trên
sông Đà. Đặc biệt trên ngực ông có nhiều "củ nâu" - đó là vết tích của những ngày
tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn Tuân đã ví von như là "những huân
chương lao động siêu hạng"................
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Nguyễn Minh Châu đã từng nói: "Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu
trong tâm hồn con người". Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cũng vì
thế nhà văn luôn đi tìm những gì còn ẩn nấp trong tâm hồn con người lao động bình
dị. Người lái đò sông Đà là minh chứng cho nét phong cách của Nguyễn Tuân luôn
nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Trong tùy bút "Người lái đò sông Đà",
hình tượng sông Đà và hình tượng người lái đò nổi bật lên và cũng là hai hình tượng
chính, được nhà văn miêu tả bằng tất cả bút lực, với kiến thức sâu sát về nhiều lĩnh
vực, từ tri thức về âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh, văn
học. Có lẽ bao tình cảm, niềm đam mê, yêu quý của người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác đã
gửi gắm vào nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với
sông Đà đến mức máu thịt, hiểu và yêu thương dòng sông đến mức thuộc lòng từng
tên thác tên ghềnh. Ông thuộc dòng sông như thuộc một "bản trường ca, thuộc đến
từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dòng". "Ông lái đò đã
nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá
nơi ải nước". Một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã
đạt đến trình độ "bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những
luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở". Ông lái đò cũng nắm vững "binh
pháp của thần sông, thần núi" như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn
Tử 'biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng", lại cũng như một người nghệ sĩ chuyên
nghiệp nắm rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go mà ông đã theo đuổi gần kết đời
người. Ông không phải thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng
xương bằng thịt nhưng với trí dũng song toàn nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên bạo
liệt để lao động trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Tính cách của ông lái đò
được thể hiện qua những cuộc giao tranh dữ dội của nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận.
Trong cuộc chiến không cân sức, ông lái đò như một người hùng cưỡi chiến mã, tay
vung gươm vượt qua kẻ địch, như chiến thần Triệu Vân của Tam Quốc, đơn phương
độc mã phá vòng vây quân thù, chỉ khác mặt trận của ông là mênh mông sóng nước.
Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt ghềnh ấy, đòi hỏi người chiến sĩ phải cực
kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường, giảo họa của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
con sóng, bởi chỉ sơ sẩy một chút thôi thì ngay cả mạng sống cũng bị đe dọa, nói gì
đến chuyện làm một người nghệ sĩ tài hoa trên con sông Đà nghệ thuật. Nguyễn Tuân
đã đặt cho những khó khăn, cửa ải mà ông lái đò phải vượt qua một cái tên rất "nhà
binh" và cũng đầy tính nghệ thuật là "trùng vi thạch trận".
Ở trùng vi thứ nhất, một chữ Dũng hiện lên khác biệt bởi sự đọ sức giữa con người và
thiên nhiên không "ngang sức ngang tài", nhưng sự quyết chiến của con người đã làm
cho thiên nhiên phải ngỡ ngàng, bởi ông đò thật quá "lì đòn", thật đáng khâm phục!
Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra với khí thế nghênh chiến quyết tâm thắng trận của ông
lái đò. Nhưng thiên nhiên sông Đà cũng mạnh bạo không kém, những hòn đá "bệ vệ
oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò làm thanh viện", chúng tỏ ra liều mạng,
luồng sóng hung tợn cứ xông vào tới tấp, "đá trái" và "thúc gối" liên tiếp vào bụng và
hông thuyền, rồi chúng còn "đội cả thuyền lên" như muốn nuốt chửng chiếc thuyền bé
nhỏ. Bằng sự chủ động, sông Đà đã tung ra những cú đánh tới tấp, phủ đầu, bao gồm
luôn cả những đòn hiểm, và những kẻ "non tay" sẽ gục ngã ngay từ tuyến đầu này.
Nhưng con người trên thuyền ấy thì lại không hề bé nhỏ, ông lái đò vẫn bình tĩnh giữ
mái chèo bằng hai tay, giúp mái chèo không bị hất lên khỏi sóng giữ. Đến lúc này,
sông Đà lại tung đòn hiểm nhất: "bóp chặt lấy hạ bộ" khiến ông lái đò đau điếng,
nhưng sự đau đớn của thua cuộc còn đáng sợ hơn nỗi đau thể xác quen thuộc của vị
thuyền trưởng này, thế nên, ông vẫn giữ kẹp lấy cuống lái bằng hai chân rất vững, dù
mặt méo bệch vì đau đớn. Ở trùng vây này, thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến
bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác
đánh vỗ mặt con thuyền như thử thách tài nghệ của ông đò, và thật anh hùng, vị
thuyền trưởng lão làng ấy đã vượt qua đầy dũng cảm.
Vòng vây thứ hai có phần hung hiểm hơn trước khi "tăng thêm nhiều cửa tử để lừa
con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn." Thế nhưng cái bẫy đó
cũng chẳng qua nổi con mắt tinh tường của ông lái đò, bởi ông đã nắm chắc "quy luật
phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này". Ông ví lái đò qua khúc này như "cưỡi
hổ phải cưỡi tới cùng", phải nắm đúng cái "bờm sóng", rồi cứ thế "phóng nhanh vào
cửa sinh, lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy". Ngặt thay lại có một bọn đá
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, thì ông đò "vẫn nhớ mặt bọn này", ông tự tin
"tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến". Vậy là
đã qua cửa ải thứ hai, nhanh và chuẩn xác.
Còn một cửa ải cuối cùng, trận này "ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết,
luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ." Mới nghe đã thấy khó khăn
đủ về, nhưng ông lái đò rất mạnh dạn "phóng thẳng thuyền, chọc thủng giữa cửa đó",
"thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước". Vậy là đã vượt qua cả ba
trùng vi thạch trận, trận nào cũng hung hiểm vô cùng.
Qua cảnh vượt thác với ba trùng vi thạch trận đầy cam go, gay cấn của người lái đò
sông Đà, ta cảm tưởng mình vừa trải qua một cuộc hành động gay cấn đến nghẹt thở,
hồi hộp từng giây từng phút, mà ông đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người lao
động anh hùng, hàng ngày chiến đấu giao tranh với thiên nhiên trong sự hiểm nguy
trùng trùng đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và bạo liệt.
Với ông đò Lai Châu, việc bàn đến những con cá dầm xanh, cá anh vũ, việc ngồi lại
với nhau đốt lửa trong hang đá nướng ống cơm lam mới là cái thú vui của đời người
đáng để ta nhắc đến tiêu khiển sau những giờ lao động vất vả. Ở đây, tuyệt nhiên
không có một hồi ức nào về những hiểm nguy đã qua, mà tất cả đều đờm đọng lại lãng
mạn, ngọt ngào. Người lái đò sẵn lòng gác lại mọi giap tranh, hơn thua, chỉ còn lại là
những câu chuyện kể đời thường, đó là khí chất, là một cốt cách đẹp. Có lẽ vì vậy,
chất thơ trong tùy bút cứ bàng bạc trong từng câu mỗi chữ.
Khi gác lại chiếc chèo, khi ngừng chiến đấu với con sóng dữ, người lái đò không còn
là vị tướng chỉ huy trong trận thủy chiến ấy nữa, mà ông trở thành một người anh
hùng trong cuộc sống đời thường, xem mọi chuyện chiến đấu ấy nhẹ nhàng như mây
trôi. Đó chính là người anh hùng trong thời đại mới, thờ kỳ lao động xây dựng đất
nước phát triển. Một trong những thành công của người nghệ sĩ, của một nhà văn là có
thể phác thảo những nét bút hài hòa nhất về một nhân vật điển hình trong hoàn cảnh
điển hình, để chính quảng văn của mình sẽ tôn lên cái tài hoa kiêu bạc của nhân vật ấy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
một cách hoàn hảo nhất. Và qua đó, những cốt cách, những phẩm chất của con người
hiện lên thật trọn vẹn.
Là người đầu tiên kể ra chính xác năm mươi trên tổng số bảy mươi ba con thác dữ, từ
ngã ba biên giới Việt - Trung về đến chợ Bờ, Nguyễn Tuân như được cùng Đà giang
và người đò gắn mình với miền Tây Bắc điệp trùng kỳ vĩ. Mười lăm bài tùy bút bà
một bài thơ phác thảo ra đời sau chuyến đi thực tế của nhà văn đã góp cho văn học
nước nhà một tác phẩm giá trị khẳng định cuộc sống và con người Tây Bắc trong sự
nghiệp xây dựng đất nước. Qua đó, ông gửi gắm những ước mơ của mình về một Tây
Bắc phát triển, cuộc sống của người lao động tốt hơn, người ta sẽ dựng xây Tây Bắc
và sông Đà để từ một con thủy quái dữ dội trở thành một đội quân hào hùng phục vụ
cho con người Tây Bắc. Và tùy bút "Người lái đò sông Đà", đặc biệt hình ảnh ông lái
đò dũng cảm và tài ba đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong tâm trí người đọc. Cùng
với hình tượng này, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân càng thêm ấn
tượng, bởi nó đã chảy tràn thành những áng văn đẹp, góp phần phát triển nền văn
chương Việt Nam với thể loại tùy bút. Và thế, Nguyễn Tuân xứng đáng là một "Đà
giang độc bắc lưu" trên bình diện nghệ thuật.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của người lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ngợi ca dưới
sự kết hợp của những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa , ẩn dụ gợi lên cảm giác
mãnh liệt, hồi hộp cho người đọc. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, một
bức tranh hoành tráng về dũng sĩ vượt thác. Tất cả được tạo nên bởi cái tài, cái tâm,
cái trí tuệ uyên bác cùng vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân.
Nghệ thuật luôn đòi hỏi sự sáng tạo. sáng tạo so với chính mình và người khác. Đọc
"Người lái đò sông Đà", ta thấy được những nét mới trong quan điểm sáng tác của
Nguyễn Tuân. Từ nhân vật Huấn Cao cho đến người lái đò sông Đà ta không chỉ thấy
những đặc điểm phong cách đậm nét vẫn được bảo lưu mà còn hơn nữa thấy được sự
chuyển biến tích cực trong quan niệm về con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
Trước và sau Cách mạng ông đều có những thống nhất riêng, tuy nhiên trước Cách
mạng ông hướng tới vẻ đẹp "Vang bóng một thời", còn sau Cách mạng, ngòi bút của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
ông hướng tới con người lao động. Thế nhưng nhà văn không còn đi tìm đi tìm vẻ đẹp
của những con người xa vời mà đi tìm vẻ đẹp trong chính những con người lao động
đời thường, ngay trong chính cuộc sống bình dị này. Đây chính là điểm chuyển biến
lớn nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân. Họ - những con
người lao động bình dị đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Trước Cách mạng, ông là một người tài tử, thích chơi ngông, thích chiêm ngưỡng cái
đẹp cao sang, thì sau Cách mạng, ông lại nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới
từ góc độ lao động. Ông nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao
động, với cuộc sống đang nảy sinh sôi động. Ông quan niệm rằng vẻ đẹp tài hoa của
người nghệ sĩ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn được thể hiện trong
tất cả mọi lĩnh vực của đời sống. Khi con người đạt đến trình độ điêu luyện trong công
việc của mình thì khi đó vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ sẽ tỏa sáng.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 4
Nguyễn Tuân là nhà văn có hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng. Trước
1945 ông nổi tiếng với các tác phẩm như Vang bóng một thời, Một chuyến đi… sau
năm 1945 ông nổi tiếng với thể loại tùy bút mà tiêu biểu là các tác phẩm: Hà Nội ta
đánh Mỹ giỏi, Tùy bút Sông Đà… Người lái đò sông Đà là tác phẩm trích trong Tùy
bút Sông Đà được viết nhân chuyến thực tế Tây Bắc năm 1958. Tác phẩm để lại dấu
ấn sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ là hình tượng con Sông Đà “hung bạo, trữ
tình” mà còn là bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ – một tay lái ra hoa.
Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ
Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan “nguyện đem cái
quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý” (Hương Cuội).
Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái “một triết nhân ngồi tính bước đi
của thời gian”. Trong ấm trà pha ngon, cụ đã “nhận thấy có một mùi thơ và một vị
triết lí” (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung
bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện “những cái
hoài bão tung hoành của một đời con người” (Chữ người tử tù)… Và hình ảnh ông lái
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
đò người Thái (Tây Bắc) có “tay lái ra hoa”. Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
Trên thác đá đầy đủ tướng dữ quân tợn, những hút nước chết người, những yết hầu
chật hẹp, lạnh lẽo và “sóng xô đá, đá xô gió” bỗng hiên ngang một người lái đò hùng
dũng, oai phong như khắc như chạm. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân
hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên
chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân
ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng”.
Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số “củ
nâu” thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là
“thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Ông lái đò sông Đà này có “tay lái ra hoa” đã
từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”.
Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi
sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững
từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá.
Không chỉ mang vẻ đẹp ngoại hình gắn với lao động sông nước, ở ông còn in đậm vẻ
đẹp tâm hồn tính cách:
Thứ nhất, thể hiện ở sự từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc về luồng
lạch trên sông Đà. Ông lái đò thể hiện sự hình thành “tính cách” của mình qua “trí nhớ
ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất
cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở. Sông Đà, đối với ông lái đò
ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than
chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Chính vì vậy “ông lái đã nắm chắc được binh
pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá”. Đó chính là
hình ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng trải và giàu kinh nghiệm.
Thứ hai, ở sự thông minh linh hoạt, dũng cảm như một viên tướng tài ba, như một
nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. Cuộc sống của người lái đò sông Đà là
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
một cuộc chiến đấu hằng ngày. Và ngày nào cũng phải giành những cái sống từ tay
những con thác. Vẻ đẹp này được ngòi bút Nguyễn Tuân thể hiện qua hình ảnh ông lái
đò vượt thác: Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị
thuyền trưởng dày dạn kinh nghiệm thủy chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là
ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò
đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy.
Ở trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng:
“Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra.
Những hòn đá “bệ vệ oai phong lẫm liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện”
chúng liều mạng xông vào mà “đá trái” mà “thúc gối vào bụng và hông thuyền… Có
lúc chúng đội cả thuyền lên”. Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai
tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy quái này đánh
miếng đòn hiểm nhất “bóp chặt lấy hạ bộ” đau điếng nhưng vị thuyền trưởng vẫn “hai
chân vẫn kẹp lấy cuống lái” dù mặt méo bệch vì đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ông
vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát khỏi nguy hiểm.
Thật là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có! Cao cường biết bao !
Trùng vây thứ hai lại vô cùng hiểm trở, bố trí nhiều cửa tử hơn: “Dòng thác hùm beo
đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Ông lái đò bắt đầu cuộc tấn công bằng cách
“nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi” ông cho con thuyền “phóng nhanh vào
cửa sinh mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Bọn tướng đá, đứa thì “ông
tránh mà rảo bơi chèo lên”, đứa thì bị “ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường
tiến”. Cuối cùng ông thắng còn bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là “luồng chết cả”. Đã vậy, còn bố trí “bọn đá
hậu vệ” canh cửa hòng “bắt chết” cái thuyền. Ông lái đò mưu trí “phóng thẳng con
thuyền”, “chọc thủng” trùng vây rồi “vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”. Chiếc
thuyền như một mũi tên tre “vút, vút” xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác.
Sông nước lại thanh bình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song
toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được
Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử
dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng.
Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần
kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh ngầm, nhân hóa, cường
điệu… Câu chữ tuôn chảy ào ạt, điệp điệp trùng trùng tạo ra một bức tranh hoành
tráng. Nhà văn đã dùng tâm diễn tả cuộc chiến giữa ông lái đò với dòng sông theo
hướng thọat đầu tưởng như không cân sức. Nhưng cuối cùng phần thắng đã thuộc về
con người nhờ sự thông minh và dũng cảm. Cuộc vượt thác thật ngoạn mục, ông lái
đò thực sự là một người nghệ sĩ tài hoa.
Thứ ba, ở sự khiêm nhường, bình dị, phong thái ung dung mang cốt cách nghệ sĩ.
Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc
sống của ông. Khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ “sông
nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, và
toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh… Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về
cuộc chiến thắng vừa qua”.
Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đua tranh
tài trí với thiên nhiên hung dữ. Song qua giọng văn nhẹ nhàng, ta lại thấm thía thêm
một vẻ đẹp của người lái đò. Đó là sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày
nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp
đáng nhớ…”. Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa
quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ.
Có thể nói Người lái đò sông Đà được miêu tả trong tác phẩm vừa có tư thế của một
người lao động trí dũng, vừa có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Hình tượng người
lái đò thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân ở giai đoạn sau Cách
mạng Tháng Tám: người lái đò dù là người lao động bình dị vẫn hiện lên với chất tài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
hoa, nghệ sĩ; để miêu tả vẻ đẹp của hình tượng, nhà văn sử dụng kiến thức của nhiều
ngành khoa học khác nhau; ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh…
Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và cảm phục trước
những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là
“chất vàng mười” quý giá của Tổ quốc. Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân cho
rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa. Nó có trong cuộc sống tìm miếng
cơm manh áo của nhân dân lao động. Những người bình dị có trí dũng tài ba họ có thể
tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật.
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 5
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn
Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tùy bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là
người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng
mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó
với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, được vui và vững bền. Chất vàng
mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của
Nguyễn Tuân, người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sĩ tài hoa trong nghề của mình.
Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là
máu thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn bó, yêu thương
và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông.
Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò đã 70
tuổi, cái tuổi của buổi xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười năm liền và đã
nghỉ đôi chục năm. Ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt «ông có thân hình quắc
thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng quá ». Những nét ngoại hình ấy vì
đâu mà có, phải chăng mười năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên
ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh
khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng
nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
bến xa nào đó trong sương mù. Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, dấu tích tì sào của
nghề lái đò mười năm liền trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà Nguyễn Tuân
đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà Nguyễn Tuân đã chạm khắc vào tiềm thức của
người đọc một hình ảnh nhân vật ông lái đò gần gũi với với môi trường lao động trên
sông nước, sinh ra trên sông nước và để sống với sông nước. Một con người suốt một
đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước sông Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây
Bắc. Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con
người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó.
Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải,
thành thạo trong nghề. Nhưng như vậy cũng vẫn là chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho
biết: người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò
đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay
ông giữ lái độ sáu chục lần…Cứ đọc trong thiên tùy bút này sự hung bạo của con sông
Đà với thác, nước, sóng, đá mà để lái đò dọc sông Đà là một thử thách lớn trong nghiệp đời của ông.
Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mươi ba con thác
nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước
của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một
trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than, chấm câu và
cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa
vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li,
cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão
lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con
người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà.
Ông lái đò đã từng ngược xuôi trên ghềnh thác sông Đà nhiều năm trong cuộc đời nên
ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích của lũ đá
nơi ải nước, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và chiến thắng thiên nhiên nghiệt
ngã để tồn tại, lao động và sáng tạo. Ông lái đò hiện lên khác nào vị thần Thủy Tinh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
trong thần thoại VN, nhưng có điều ông không có phép tiên mà chỉ đơn thuần là con
người lao động bình dị, đời thường tiêu biểu cho phẩm chất của người lao động mới
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.
Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có
lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân
đưa nhân vật của mình vào trong hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất
ấy được bộc lộ, nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn
gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên
quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết
người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo
và tâm địa của kẻ thù số một.
Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đò được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc đối đầu
với đám đá đang bày binh bố trận trên sông. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã
trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông,
hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này,
mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ
lấy thuyền. Với những từ ngữ : mai phục, vồ lấy thuyền khiến cho lũ đá nơi ải nước
như những kẻ thù nham hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn công con
người bất cứ khi nào và tai họa sẽ ập đến mà không báo trước. Mặt hòn đá nào trông
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này.
Nguyễn đã miêu tả lũ đá ở đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hòn thì ngỗ
ngược, hòn méo mó, hòn mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách thức… mỗi hòn mỗi
dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy thì không có chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh
lùng, hung ác và giữ tợn.
Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một trận địa
chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính toán kĩ lưỡng. Sông Đà đã
giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng
hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn
độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
bọn đá tiền vệ, hậu vệ, đá cũng biết mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung
tợn và dữ dội, quyết liệt của con sông Đà hung bạo này. Hàng tiền vệ : Có hai hòn
cánh cửa thoạt nhìn tưởng chúng như sơ hở nhưng thực chất đang đóng vai trò dụ cái
thuyền tiến sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã bị dụ vào trong thì nước sóng luồng
mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nhưng con thuyền của ông đò đã dễ dàng vượt qua
nên tuyến thứ ba là các boongke chìm và pháo đài đá nổi là phải đánh tan con thuyền.
Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, phối hợp của cả sóng nước biết tung ra bao đòn
đánh hiểm độc : khuýp quật vu hồi, đưa ra những đòn độc : đá trái, thúc gối, đội
thuyền, túm thắt lưng, bóp chặt hạ bộ người lái đò…rồi liên tiếp các đòn trùng điệp :
đánh đòn tỉa, đòn âm, hồi lùng…
Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự hung hăng,
dữ tợn và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn
lên vẻ đẹp của ông lái đò bấy nhiêu vì con sông coi như một hình ảnh làm nền cho
người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự
sống trên dòng sông chết. Hay chúng ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy bóng mà lộ được hình.
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận
địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hò la vang dậy như muốn bẻ gãy cán chèo, vũ
khí duy nhất có trên tay ông lái đò. Sóng nước chiến đấu như một kẻ liều mạng, không
do dự mà xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và
hông thuyền. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền
như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não
bạt, ông lái đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái
con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh
hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Đặc biệt trên con thuyền có đến
sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người cầm lái.
“Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái đò đã
hiện lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng vây
thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Biết ở vòng vây
thứ hai con sông đã bố trí tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa
sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Với vòng vây thứ hai không phải chiến đấu với
đá, sóng như cửa thứ nhất mà là đương đầu với dòng thác sông Đà. Bằng nghệ thuật
liên tưởng độc đáo Nguyễn như thấy ông lái đò không phải chèo thuyền vượt thác mà
là cưỡi lên thác nước sông Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy tác giả đã ví
thác sông Đà như một con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử với người lái đò.
Nên ông lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng
mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi
ông đò ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng nước mà
lái miết một đường vào cửa Sinh. Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó không để
chút sơ hở cho con thuyền có lối thoát. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá
đang mai phục. Không chỉ có thế, một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ
chờ con thuyền đến là xô ra để níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ông đò đã nhớ mặt
từng đứa một, đứa thì ông tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi ra
để lấy đường tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe
bên tai tiếng reo hò của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi
bật của ông lái đò lại anh hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với thác nước sông Đà.
Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đò, nhưng
với Nguyễn, tìm đến con người thì con người ấy phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc,
phải trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong cuộc
chiến thứ ba với con sông Đà. Và cũng đến vòng vây thứ ba với nghệ thuật miêu tả
sắc nét vô cùng thì ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ
trong nghề lái đò của mình. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là
luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Khung cảnh giao tranh dù rất quyết liệt, một
mất một còn nhưng Nguyễn đã miêu tả như một cuộc chiến của giới thần tiên. Màn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước sông Đà mà nó như
đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước. Còn người lái đò như một tiên ông với phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con thuyền
vút vút xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó là tuyệt tài của một
tay lái nở hoa. Thế là kết thúc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài
hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không
cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên
quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh
vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình
tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở
đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình
tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở
những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo
kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc, thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào
cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải
nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận
mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của
ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào
cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí
nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm
lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ
những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm
một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.
Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm
không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một
lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày
nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp,
đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, người lái đò chỉ có Nguyễn Tuân. Và, lời ghi
chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm!
Nổi bật trong trang văn của Nguyễn là nhân vật luôn được nhà văn miêu tả ở phương
diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu trước CMT8 -1945, Nguyễn Tuân chỉ tập trung vào lớp nhà
nho quá vãng thì nay sau CM, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong
cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Cuộc đời của người lái đò vô danh,
không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh
hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm
của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua
ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.
Phân tích hình tượng ông lái đò - Mẫu 6
Tùy bút Sông Đà là tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân sau 1945. Sau những
cuộc chuyển mình dữ dội, Nguyễn tuân vẫn trung thành với thể loại tùy bút và liên tục
gặt hái những thành tựu rực rỡ.
Với những chi tiết hình ảnh trong sáng, gợi cảm đầy chất thơ, Nguyễn Tuân không chỉ
đưa lại cho người đọc những hiểu biết phong phú, nhiều mặt về sông Đà, về thiên
nhiên, núi rừng Tây Bắc mà còn gợi lên trong chúng ta một niềm cảm xúc và tin yêu.
Chính trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ vừa hung bạo, vừa trữ tình ấy, Nguyễn Tuân đã
khắc họa rõ nét chân dung con người Tây Bắc, mà cụ thể ở đây là hình tượng ông lái
đò sông Đà qua cái nhìn và miêu tả của Nguyễn Tuân. Ông lái đò không chỉ là một
người lao động trí dũng tuyệt vời mà còn là một nghệ sĩ thực thụ trong công việc lao
động sông nước của mình.
Trước hết, nhân vật ông lái đò được tô đậm qua hình dáng và nghề nghiệp đặc thù
cùng với độ am hiểu vô cùng sâu sắc dòng sông.
Về hình dáng bề ngoài ông lái đò: Mọi chi tiết miêu tả của Nguyễn Tuân đều gắn liền
với nghề nghiệp và công việc sông nước của ông (tay ông lêu nghêu như cái sào, chân
thì lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh,…). Ông lái đò là một người tài trí, hiểu rõ con sông
Đà như là một bàn tay của mình vậy. Ông thuộc lòng từng con thác, từng hút nước,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
xoáy nước. Thậm chí là từng tảng đá trên sông. Nói như Nguyễn Tuân là ông lái đò
hiểu rõ: “binh pháp của thần sông, thần đá,…” Ông lái đò là một con người dũng cảm,
hàng ngày xuôi ngược trên sông Đà, phải đối mặt với hiểm nguy, đối mặt với cái chết
nhưng phong thái của ông vẫn hết sức bình tĩnh, chủ động, tự tin, không mảy may lo
sợ. Một phẩm chất của ông lái đò là sự tài hoa nghệ sĩ: ông tỏ ra khéo léo, điêu luyện,
điều khiển con thuyền vượt qua các ghềnh thác, với tay lái “ra hoa, mà chỉ một phút
sơ ý, lóa mắt hay trở tay đều phải trả giá bằng tính mạng của mình”.
Những phẩm chất của ông lái đò được thể hiện tập trung và đầy đủ nhất qua cuộc
quyết đấu sinh tử giữa ông lái đò và con sông Đà. Con sông càng dữ dằn, nham hiểm,
độc địa bao nhiêu thì chân dung của ông lại càng cao lớn hùng vĩ bấy nhiêu. Ông lái
đò là một người khiêm tốn, bình dị. Sau khi đưa con thuyền vượt qua các ghềnh thác
cập bến bình an, đêm hôm đó, ông lái đò và các bạn chèo của mình ngồi trông đã nồi
lửa nướng cá ở trong hang. Họ bàn tán sôi nổi về cá dầm xanh, cá anh vũ, nhưng tuyệt
nhiên không nói gì đến những hiểm nguy vừa trải qua. Đối với ông lái đò, đó chỉ là
những công việc bình thường hàng ngày, chẳng có gì phải bận tâm.
Có lẽ người lái đò sông Đà đã gắn bó với dòng nước dữ dội này từ thuở nhỏ, cuộc đời
ông được tính bằng sóng gió, bằng những mùi nước trên sông. Nhìn dáng vẻ bề ngoài
của ông lái đò, thực sự là con người được sinh ra vì nghề nghiệp của mình. Mọi chi
tiết miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân đều gợi đến dòng sông và nghề nghiệp “Tay
ông lêu nghêu như cái sào, chân ông nào cũng khuỳnh khuỳnh” gò lại như kẹp lái một
cuốn lái. Tưởng tượng giọng ông lúc nào cung ào ào như nước trước mặt ghềnh sông,
nhỡn giới với ông vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”.
Hầu hết các nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân đều là những con người tài
hoa, nghệ sĩ ( khái niệm nghệ sĩ ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng; không phải chỉ
nói về những con người làm về nghệ thuật mà là tất cả những ai tỏ ra thành thạo, điêu
luyện trong công việc, nghề nghiệp của mình). Ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò
sông Đà” là con người như vậy. Để làm nổi bật sự tài trí, dũng cảm tuyệt vời và nghệ
thuật can cường của người lái đò, Nguyễn Tuân đã tái hiện lại một cuộc vượt thác leo
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
ghềnh của ông ở một đoạn sông dữ dội, hiểm trở nhất. Hai đối thủ truyền kiếp: con
sông Đà và người lái đò bộc lộ đầy đủ tính cách của mình khi được đặt vào một cuộc
giao tranh dữ dội. Đây cũng là cơ hội tốt để Nguyễn Tuân thể hiện hết sự tài hoa uyên
bác cũng như cái vốn chữ nghĩa phong phú của ông.
Từ lần đầu tiên cầm lái trên con thuyền độc mộc rồi trở thành người chỉ huy trên con
thuyền nhỏ bé này. Những luồng nước, những hút nút xoáy, những tảng đá trên sông
qua những năm tháng đã in vào óc ông quen thuộc như lòng bàn tay. Nhưng cái dữ
dội, mạnh mẽ của nghề nghiệp mà ông lái đò gắn bó khác hẳn đời thường càng biết rõ
con sông Đà, người vượt thác càng phải cẩn thận bởi sự lơi lỏng trong gang tấc đều
phải trả giá bằng tính mạng. Kẻ thù gần gũi ấy, người bạn trái nết ấy không chấp nhận
một lỗi lầm nào hết, từng phút từng giây còn cảm thấy bọt sóng tung dưới chân mình.
Người lái đò còn phải căng mình như một sợi dây đàn để đón nhận tất cả những biến
chuyển dù là nhỏ nhất của dòng sông. Hình ảnh người lái đò sông Đà được tạo nên
trong tùy bút của Nguyễn Tuân như được nhào nặn từ nhiều chất liệu. Trong hình ảnh
ấy, có vẻ hoang sơ dữ dội của một thời đội đá vá trời, có vẻ của tài hoa thoát tục của
một vị an cư trên sông nước mênh mông, có chất trí tuệ nhạy bén sắc sảo của một vị
tướng đã quen vượt trùng mây quân thù, cả sự ung dung pha chất lãng tử của những
anh hùng thủy chiến đất Lương Sơn Bạc.
Những khía cạnh, tính cách mạnh mẽ ấy được Nguyễn Tuân dồn nén vào hình ảnh
người lái đò và để cho người này tự khẳng định con người mình một lần nữa trong
thạch trận của sông Đà. Sông Đà – dòng sông nước ngược với bao ngạo nghễ đã đe
dọa con người bằng tất cả vẻ tinh quái của mình. Dữ dội và xảo quyệt, con sông trở
thành kẻ thù bao đời nay của người Tây Bắc và đặc biệt những con người sống trên
sóng nước sông Đà. Chỉ vừa cảm nhận mái chèo chạm vào nước, dòng sông ấy thoắt
rùng mình, ào ào bày trận để chuẩn bị trận đánh đè nát chiếc thuyền. Sông Đà ngạo
nghễ với bốn cửa trùng vây. Mỗi một quãng sông qua con mắt nhìn nhận và miêu tả
của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên giống như con ngựa bất kham, lúc hiện ra
như một loài thủy quái khổng lồ, hung ác, nham hiểm, độc địa: con sông bày ra đủ các
kiểu thạch trận hiểm hóc khác nhau để thử thách con người, còn người lái đò thì hiện
ra như một chỉ huy dày dặn, tài giỏi điều khiển con thuyền vượt qua các ghềnh thác
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
hiểm trở, phá tan cái trận đồ bát quát của dòng sông hung bạo. Không những thế, ông
lái đò còn được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả như một người nghệ sĩ, tài hoa, chủ
động đưa con thuyền vượt qua các ghềnh thác, nắm chắc những binh pháp của thần
sông thần đá, thuộc lòng các luồng “cửa sinh cửa tử”. Đây thực sự là cuộc chiến đấu
một mất một còn, đòi hỏi người lái đò phải dũng cảm khôn khéo, thông minh bởi chỉ
cần một giây phút sơ ý, lóa mắt hay lỡ tay đều phải trả giá bằng tính mạng của mình.
* Hình tượng ông lái đò trên dòng sông Đà được nhìn nhận như một con người tài tử,
dũng cảm không sợ hiểm nguy, một con người tài hoa nhưng rất bình dị, thể hiện sâu
sắc ngòi bút tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân đã một đời say sưa đi tìm chất tài hoa nghệ sĩ trong con người. Nhưng
trước đây, nhà văn chỉ tìm được những mảnh vụn rời rạc, bơ vơ của một thời đã qua
nay chỉ còn vang bóng. Nhưng giờ đây, cuộc hành trình đi tìm cái đẹp của Nguyễn
Tuân đã tìm thấy “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của Cách mạng và kháng chiến của
người như người lái đò trên sông Đà hôm nay những con người ấy sống trong niềm
vui và hạnh phúc bởi họ luôn tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời, họ sống vượt qua khó
khăn và nguy hiểm như một phần tất yếu của cuộc sống để thấm thía hơn bao giờ hết
niềm mong mỏi “một cái bến xe nào đó trong sương mù. Người lái đò sông Đà có lúc
lúc là một vị tướng lĩnh chinh phục con nước dữ nhưng cũng có lúc sống thật êm ả,
bình dị: “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và còn bàn tán về
cá anh vũ, cá dầm xanh và đôi khi “nhỡn giới vòi vọi” bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm ngày xưa. Người lái đò sông Đà có một
cuộc sống lãng mạn của người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình, lúc dữ dội, căng
thẳng, khi yên ả bình lặng, lúc mơ màng thoát tục, họ hài lòng với cuộc sống của
mình: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào
cũng dành lấy sự sống từ tay những cái thác nên nó cũng không có gì hồi hộp đáng
nhớ, họ nghĩ thế lúc ngừng chèo”.
Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác, tài hoa, ông đọc nhiều, đi nhiều, biết rộng, am
hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính vì thế, tác phẩm “Người lái đò sông Đà” người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
đọc đã thu nhận một khối tri thức hết sức phong phú, đa dạng về cả lịch sử, địa lý, địa
chất, thậm chí cả quân sự, võ thuật.
Trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” người đọc cũng hết sức ấn tượng với hình
ảnh con sông Đà – một dòng sông dữ dằn nhưng cũng hết sức thơ mộng, trữ tình.
Nguyễn Tuân có ý thức sử dụng mặt mạnh của ngành nghệ thuật khác để tăng thêm vẻ
đẹp của văn chương. Ông sử dụng nhiều kiến thức về âm nhạc, sân khấu,… đưa lại
cho người đọc những trang viết hấp dẫn và thú vị
Bút pháp miêu tả của Nguyễn Tuân hết sức phong phú, đa dạng. Ông không chỉ miêu
tả bằng thị giác mà cả bằng xúc giác,… Đặc biệt ông sử dụng nhiều hình ảnh so sánh
độc đáo bất ngờ, đưa lại cho người đọc cảm xúc, …. Câu văn của ông biến đổi rất linh
hoạt, có những câu văn ngắn nhịp điệu tiết tấu nhanh, miêu tả cuộc quyết đấu giữa ông
lái đò và sông Đà tạo nên kịch tính hấp dẫn. Đôi khi tác giả sử dụng những câu văn
dài như tải ra mang đậm chất tâm tư, mơ mộng.
Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân hết sức giàu có, ông sử dụng những từ ngữ rất chính xác.
Ông thực sự là một phù thủy ngôn từ, có sức mạnh điều binh khiển tướng đoàn quân
ngôn ngữ thực hiện những trận công phá vào tường thành tri thức, tạo ra những thành
quả lớn lao, có sức mạnh đưa con người vào những cuộc phiêu lưu kỳ thú.
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 7
Nhà văn Nguyễn Tuân được biết đến chính là một trong những cây bút tài hoa, uyên
bác. Ông là người cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống luôn khát khao sáng
tạo nghệ thuật và ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Nói đến thể loại này thì tác
phẩm “Người lái đò sông Đà” chính là một dấu ấn trong sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Tuân trong thể loại tùy bút này. Trong tác phẩm thì hình tượng người lái đò
sông Đà như cũng hiện ra thật giản dị mà cũng thật kỳ vĩ trên dòng sông.
Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" đã được in trong tập tùy bút "Sông Đà" nổi tiếng in
năm 1960, trong đó bao gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Và đây
là một tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Tác phẩm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
“Người lái đò sông Đà” chính là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây
Bắc ở trong kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958 ở trên
vùng núi này. Nhà văn Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, ông cũng đã
có những tháng ngày sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc cho nên đã
hun đúc cho ông có một vốn sống sâu sắc. Chính thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở
vùng cao đầy chất thơ này cũng đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo
cho người thi nhân – Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân cũng đã phát hiện ra được rằng chính ngoài phong cảnh Tây Bắc uy
nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng kia thì sâu trong đó còn phát hiện ra những
điểm vô cùng quý báu trong tâm hồn con người. Tất cả ông còn gọi chính là "thứ vàng
mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc." Viết lên tác phẩm
"Người lái đò sông Đà" nhà văn Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc họa
những nét thơ mộng, phác họa vô cùng hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất
nước qua hình ảnh con sông Đà mang được hai đặc tính rõ rệt đó là con sông Đà hung
bạo và trữ tình. Không chỉ dừng lại ở đó thì nhà văn cũng đã phát hiện cũng như ngợi
ca thêm được chất nghệ sĩ tài hoa, trí dũng của con người lao động mới. Đó chính là
chất vàng mười của đất nước trong xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội thông qua hình ảnh
của người lái đò sông Đà. Thông qua đó để làm đòn bẩy giúp cho nhà văn đi sâu ca
ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, thêm với đó chính là
những người đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa tinh tế.
Đầu tiên nhà văn Nguyễn Tuân xây dựng lên hình ảnh người lái đò hiện lên trước hết
là một người lao động từng trải. Ông lão lái đò cũng lại là một người có nhiều kinh
nghiệm đò giang nên người lái đò đã sớm có được lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí,
nhanh nhẹn thêm với đó là cả sự quyết đoán nữa. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa nhân vật
của mình vào ngay hoàn cảnh thiên nhiên vô cùng khốc liệt. Ở hoàn cảnh khốc liệt,
khó khăn như thế thì tất cả các phẩm chất ấy dường như cũng đã được bộc lộ vô cùng
rõ ràng. Nếu như không cẩn thận thì chắc chắn rằng người lái đò sông Đà cũng phải
đánh đổi bằng chính mạng sống của mình. Thực sự ở đây ta nhận thấy được đây chính
là một cuộc vượt thác biết bao nhiêu gian lao, vất vả. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng đã
gọi ra đây là một cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
ở ngay chính trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Độc giả sẽ cảm nhận thấy
được đây là một cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, tất cả dường như cũng đã
lại diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh . Tất cả để ta nhận thấy được ở đối
phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một của con người thông qua
đoạn văn miêu tả sâu sắc: "Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông,
hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này,
mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ
lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó
hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây
là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông
đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một
cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn..."
Chính ở trong thạch trận ấy, hình ảnh của người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất
lên khỏi sóng - trận địa phóng thẳng vào mình. Nhất là khi con sông Đà tung ra miếng
đòn hiểm độc nhất của nó là “nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật
ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao
núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác”.
Đến ngay cả khi bị thương nặng thì người lái đò vẫn cố nén vết thương lại, rồi hai
chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái vẻ mặt của ông cũng đã méo bệch như cái luồng sóng
đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, hay đưa ra những món võ như đánh đòn âm vào chỗ
hiểm. Khi đã cố gắng phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất một cách an toàn thì
tiếp đến người lái đò lại phá luôn vòng vây thứ hai. Hình ảnh ông lái đò đã nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá của con sông Đà này lắm. Cho đến vòng thứ ba mặc
dù có ít cửa hơn, thêm với đó là ở bên phải bên trái đều là luồng chết cả thế nhưng
người lái đã chủ động tấn công thật mạnh mẽ. Khi con thuyền vút qua cổng đá mở
khép đầy nguy hiểm kia mới thấy được đây là một cuộc chiến không cân sức. Dòng
sông Đà như mang một sức mạnh siêu nhiên đang muốn nhấn chìm con người nhỏ bé
kia. Nhà văn Nguyễn Tuân còn xây dựng lên hình ảnh của những bọn đá xanh lè trông
thật ghê sợ thế nhưng nó vẫn không thể làm gì được con người, phải chấp nhận chịu
thua một con thuyền thật bé nhỏ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Hình ảnh người lái đò trong tùy bút cũng chính là một người lao động vô danh, nhưng
luôn làm lụng âm thầm, giản dị. Người lái đò nhờ lao động mà chinh phục được dòng
sông dữ dằn và trở nên lớn lao, kì vĩ. Nhân vật người lái đò sông Đà trở thành đại diện
của con người lao động vượt qua tất cả khó khăn, thử thách. Có thể thấy được chính
người lao động nhờ ý chí kiên cường, với ý chí vô cùng bền bỉ, sự quyết tâm mà chiến
thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đây cũng chính là yếu tố để làm nên chất
vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Người đọc dễ dàng nhận thấy được sự nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông
Đà trong tác phẩm còn chính là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Với khái niệm tài
hoa, chất nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân luôn có ý nghĩa rộng lớn và không
cứ là những người làm thơ, viết văn mà còn là những người làm nghề chẳng mấy liên
quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ. Công việc của họ có thể là bình thường
nhưng lại đạt đến trình độ tinh vi, sự siêu phàm của người lái đò sông Đà. Nhà văn
Nguyễn Tuân cũng đã xây dựng được một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà ông gọi
với một cái tên khá trìu mến đó là tay lái ra hoa. Nhà văn đã thể hiện sự hiểu biết của
mình để đặc tả hình ảnh người lái đò như nắm được tất cả quy luật tất yếu của sông
Đà và chính vì ông làm chủ được nó cho nên ông đã chiến thắng. Chiến thắng này quả
thật đẹp đẽ, lớn lao.
Con sông Đà là một con sông đầy khắc nghiệt, chỉ cần một chút thiếu bình tĩnh, thiếu
chính xác, hay lỡ tay hoặc quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Nhưng hình ảnh
con người lao động – hình ảnh ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông đồng thời cũng lại
thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông lái đò như lại vừa nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá. Có lẽ chính vì thế khi vào trận mạc, ông thật khôn
khéo ông cũng thật bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Tất cả mọi giác quan của
ông lão đều hoạt động ở chính trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Khi mà đã
xong trận, lúc nào cũng ung dung đã thế lại còn thanh thản như chưa từng vượt thác
mà tác giả đã miêu tả rõ nét “sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại
thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về
cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như
mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng”. Thông qua đây Nguyễn Tuân cũng đã đưa ra
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
một nhận xét đó là cuộc sống này thật quá khó khăn chính vì thế mà phải vượt qua.
Khi đã nhiều lần người lái đò phải trải qua thác, đá dữ như vậy thì không còn gì để hồi
hộp cũng không còn gì là phải đáng nhớ cả. Nhưng bằng con mắt xanh của mình tác
giả đã nhìn nhận ra được người lái đò đó thật tài hoa.
Tóm lại với tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" của tác giả Nguyễn Tuân chính là một
trong những tác phẩm nổi bật được phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của ông.
Người đọc sẽ nhận thấy được tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của
thiên nhiên miền Tây bắc thôi đâu, mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài
hoa của người dân lao động nữa. Thông qua tùy bút nhà văn đã khéo léo bộc lộ được
tình yêu, niềm tự hào, sự ái mộ giữa vẻ đẹp của thiên nhiên, con người đất Việt.
Phân tích nhân vật người lái đò - Mẫu 8
Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện
đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với
tư tưởng, tình cảm gắn bó quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về
phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. "Người lái đò Sông Đà", đó là
một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi thể hiện rõ nhất những nét tiêu biểu về phong cách đó.
"Người lái đò sông Đà" trước hết là một tác phẩm viết về một con người và con sông.
Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông thì mọi cảnh vật thiên nhiên đều
trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện của mình.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng phong
phú và chuẩn xác của Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động,
những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút rất độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến trong tác phẩm là một ông già
70 tuổi đã dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc sông Đà. Đó là một người
lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
tay giữ lái độ sáu chục lần...” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt
đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những
luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm
phục của mình đối với con người này: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường
thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả
những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và
cũng “rất là Nguyễn Tuân”.
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to
gọn quánh như chất sừng, chất mun” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một
“chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ồng đã
đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của những bãi đá ghê gớm,
những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một
chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi
lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc
nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: "... hai tay giữ mái chèo
khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy
quanh mình, ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước
“thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy
thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời
thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông... Các
miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ
đối với con người, chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng chỉ dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ cùa người
cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái
đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà lao xuống
thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim
luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả...” vẫn bằng phương
pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến
vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có
một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn
hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng
lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có những “hút nước" xoáy sâu như
lòng giếng “cái hút nó lút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”...
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế nhưng, “ông
lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo
bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng
chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhắm
đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến
thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến
bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái
thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống
thanh bình: “thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh
(...). Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...”
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho
đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người lao động.
Sau mười năm làm nghề lái đò, kể cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực
người lái đò vẫn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, đó cũng là cái
hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật
đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức về thức về cuộc
sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ... tác phẩm đích thực ấy còn là một
khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc. Cái
đẹp hùng vĩ của thiên nhiên của tạo hóa và đặc biệt là cái đẹp của con người cụ thể,
con người lao động: Người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động gian lao nguy hiểm, nhưng đầy vinh quang.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 9
Nguyễn Tuân được biết đến như một trong những nhà văn thành công của nền văn
xuôi hiện đại Việt Nam. Tác phẩm của ông hầu hết đều có chiều sâu về sự khám phá
và chiêm nghiệm sâu sắc. Người lái đò sông Đà rút ra từ tập tùy bút Sông Đà được
hoàn thành năm 1960. Đây chính là trái ngọt của một chuyến thực tế rong ruổi khắp
miền Tây Bắc để tìm kiếm thứ vàng mười trong thiên nhiên và con người của tác giả.
Có thể nói ngoài hình tượng sông Đà hung dữ, trữ tình thì tác giả còn làm nổi bật hình
ảnh người lái đò dũng cảm tài hoa đạp lên từng lớp sóng cuộn.
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn ưa “xê dịch” chất ngông của ông thấm
nhuần vào trong từng câu chữ từng hơi thở mang đến cho độc giả một cảm nhận vô
cùng mới mẻ. Thứ “vàng mười” đó như được chắt lọc một cách tỉ mỉ qua ngòi bút qua
lăng kính của nhà thơ. Sông Đà mang một vẻ đẹp trìu mến trữ tình nên thơ. Hình
tượng người lái đò sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân vốn không có tên
gọi cụ thể, đó chỉ là một con người với cái tên gắn liền với nghề nghiệp “Ông lái đò
Lai Châu”. Tác giả như cố tình không chỉ mặt đặt tên cho bất cứ ai mà ông muốn chỉ
chung, muốn đại diện cho vẻ đẹp của những người lái đò cần mẫn trên sông nước.
Đó là một người lái đò tầm 70 tuổi một người đã dành gần như hết cuộc đời mình để
lái đò trên sông Đà. Bây giờ ông đã thôi nghề khoảng mười năm. Trên sông đã xuôi
ngược cả trăm lần giữ tàu lái chính khoảng 60 lần. Chỉ với vài câu văn ngắn gọn hàm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
súc độc giả phần nào đã tưởng tượng lên dáng vẻ của ông một người rắn rỏi và rất kinh nghiệm.
Nguyễn Tuân bắt đầu đi vào miêu tả ngoại hình của người lái đò bằng những câu văn
ngắn gọn xúc tích : “ Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh ra
như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào nhỡn giới cao vòi vọi”. Chỉ
bằng ngần ấy câu chữ thôi người ta đã bắt đầu tưởng tượng về một người đàn ông với
vóc dáng vạm vỡ, khỏe mạnh rắn rỏi được tôi luyện bởi chính môi trường lao động mà
thành. Không chỉ có vóc dáng khỏe khoắn mà ngay cả trí tuệ ông cũng thể hiện là một
người vô cùng minh mẫn tài trí. NGười đã chiến thắng được cả Sông Đà, lão luyện
trong nghề nghiệp của mình. Qua đó NGuyễn Tuân bày tỏ lòng khâm phục của mình
với người lái đò bằng cách dùng biện pháp so sánh “ Sông Đà đối với ông lái đò như
một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc cả dấu câu chấm than và cả đoạn xuống dòng”
Để thuyết phục hơn đối với người đọc Nguyễn Tuân đã miêu tả lòng dũng cảm của
ông lái đò khi dũng cảm vượt qua cả ba thạch trận. Vòng một sông Đà như một kẻ thù
nham hiểm xảo quyệt không chỉ có sóng gió mênh mông hút nước mà nó còn bày binh
bố trận “bọt tung trắng xóa cả một chân trời đá”, đá mai phục ngàn năm bày binh bố
trận như binh pháp tôn tử. Vòng vây này gồm có 5 cửa trận bốn cửa tử một cửa sinh
chia thành ba tuyến tiền vệ, trung vệ và hậu vệ. Đá oai phong lẫm liệt tiến lùi thách
thức còn sóng nước như quân liều mạng. Thế nhưng mặc cho sóng cho đá có mạnh thế
nào nó cũng không thể đẩy lùi mái chèo của người đàn ông kiên cường này. Ông cố
nén vết thương kẹp chặt cuống lái kiên cường vượt qua cơn võ chiến.
Đến vòng hai sông Đà lại càng trở nên hiểm ác với nhiều cửa tử và chỉ có duy nhất
một cửa sinh nằm ở phía tả ngạn. dòng thác hùm beo hồng hộc thế mạnh. Bọn thủy
quân cửa ải xô ra níu thuyền vào cửa tử, ông lái đò cùng chiếc thuyền như cưỡi trên
lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng ghì cương lái miết vào cửa sinh. Dòng sông trở nên
như con thú hoang lồng lên đòi ăn hết con thuyền. Nhưng ông già dằn mặt từng đứa
nắm chắc quy luật của thần đá không hề nao núng tỉnh táo và sáng tạo thay đổi chiến
thuật để chiến thắng sông Đà một cách ngoạn mục.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Dường như những màn thua ở 2 trận trước càng khiến sông Đà trở nên điên cuồng và
dữ tợn hơn bao giờ hết. Vòng thứ ba ít cửa ra vào bên phải bên trái đều là cửa tử luồng
sống ở giữa ngay cạnh voi đá vọng về xong ông lái đò vẫn bình tình dũng cảm đưa
con thuyền vượt qua một cách an toàn.
Không chỉ hiện lên là một con người với khí phách kiên cường rắn rỏi mà ông lái đò
cón là một người có tố chất nghệ sĩ. Sau khi đã chinh chiến hết dòng sông Đà ông lại
đốt lửa nướng ống cơm lam bàn chuyện cá anh vũ cá rồng xanh như không có gì xảy
ra. Tất cả khó khăn nguy hiểm dường như không còn là vấn đề với người đàn ông này
nó trở nên vô cùng quen thuộc và bình thường.
Cái giỏi của Nguyễn Tuân không chỉ khắc họa được vẻ đẹp hung bạo mà trữ tình của
sông Đà mà ngược lại nó như một đòn bẩy để thể hiện sức mạnh sự tài trí thao lược
của con người. Thiên nhiên dù có hiểm trở đến đâu cũng không thể nào thắng được
con người. Sông càng nguy hiểm thì con người càng giỏi giang và tài ba. Có thể nói
bằng câu văn sắc bén, nghệ thuật so sánh miêu tả kết hợp cùng xây dựng tình huống
đã làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò trở thành một sức hút mãnh liệt cho tác phẩm.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 10
Một tác phẩm văn học lớn, có giá trị sống mãi trong lòng người đọc thì tác phẩm đó
phải xây dựng được những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình hội tụ đầy đủ
tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái
đò sông Đà” của Nguyễn Tuân là một nhân vật như thế.
Dưới ngòi bút thần kì của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên sông Đà hiện lên vô
cùng hung bạo, trữ tình có vị trí quan trọng làm nên một tấm phông rất phù hợp để
hình tượng người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên với hai phẩm chất, đó là
chất anh hùng và chất nghệ sĩ mà tiêu biểu là ông lái đò rất gan dạ, dũng cảm gần hai
mươi năm chiến đấu với thác đá song nước sông Đà để tồn tại. Tay lái của ông được
miêu tả là “tay lái ra hoa”. Ông lái đò hiện lên trong những trang văn của Nguyễn
Tuân đầy ấn tượng với những nét về ngoại hình đúng là một con người của sông nước:
Ông gần bảy mươi tuổi nhưng rất chắc khỏe “thân hình gọn quánh như chất sừng”,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
“tiếng nói ào ào như sông nước”. “hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò”, “hai chân
khuỳnh khuỳnh như đang kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng”… Chỉ vài nét
phác họa tài hoa mà nhà văn như chạm khắc hình tượng ông lái đò như là một anh
hùng trên sông nước, vĩnh viễn đọng lại vào trái tim bạn đọc để dự báo về nhân vật cả
cuộc đời gắn với nghề lái đò và mức độ tay nghề đã đạt đến mức nghệ sĩ.
Có lẽ bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi gắm vào
nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến
mức máu thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh hơn
một nghìn tên dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dòng chảy trong trái tim
của ông lái đò hay chính là trái tim của Nguyễn Tuân. Ông thuộc dòng sông như thuộc
một “bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn
xuống dòng”. “Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc
quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước”. Chính vì thế mà ông lái đò đã khuất phục,
chế ngự được sự hung bạo của dòng sông Đà. Ông không phải thần thánh mà chỉ là
một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với chí dũng song toàn
nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại lao động sáng tạo trong
công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Tính cách của ông lái đò được cụ thể qua những
cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận. Trước hết là trùng
vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đá được nhân
hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”..;, “đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm
cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ
trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng
ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”, ‘canh cửa”, “hất hàm’. Cộng hưởng với những
động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo
mó. Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh, ghê sợ tạo thành
thế không cân sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào
lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước
thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí
chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà,
đánh quật vô hồi, đá trái, thúc gối. Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của
sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được
huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chính là nghệ thuật vẽ
mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái đò. Ở chặng này,
nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường “ông đò cố nén vết thương,
hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái” chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng “phá
song trùng vi thạch trận thứ nhất”.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm
beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”. Những
động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với
phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm
thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên
tư thế hào hùng của ông lái đò.
Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn
chiến thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết
quy luật phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế
“cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh,
chặt đôi thác để mở đường tiến”. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc
vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên
những nét đẹp của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Nếu ở cuộc giao
tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất
anh hùng của ông lái đò thì ở chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc
thấy tay lái ra hoa của ông lái đò. Nguyễn Tuân miêu tả “bên phải, bên trái đều là
luồng chết” khiến ông lái đò phải vận dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng
thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung để “xuyên
qua mặt nước” những động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc
độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa
cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được độ khéo léo của con thuyền trong
hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ
trong nghề nghiệp của mình.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình
tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 11
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác
phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng,
tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý
về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. Người lái đò Sông Đà, đó
là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi đã thể hiện được những nét tiêu biểu về phong cách đó.
Người lái đò Sông Đà trước hết là một tác phẩm viết về một con người và một con
sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông mọi cảnh vật thiên nhiên
đều trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu
luyện. Bằng sự tiếp cận quan sát và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô
cùng giàu có, chuẩn xác, Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống
động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già bảy mươi tuổi, đã
dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò
lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay
giữ lái độ sáu chục lần..." trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm
và gian khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề
lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng
tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục
bày tỏ sự khâm phục đối với con người này. "Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một
trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
cả những đoạn xuống dòng". Thật là một cách so sánh “rất văn chương" đầy thú vị và cũng "rất Nguyễn Tuân".
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to
và gọn quánh như chất sừng, chất mùn" và những cánh tay vẫn là cánh tay của một
"chàng trai', "trẻ trắng quá", Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “Vàng mười”, ông đã
đứng trước những thách thức của con sông Đà với những thế lực của những bãi đá ghê
gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng
xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình
như mỗi lần có chiếc nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có
chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy
thuyền". Và một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: hai tay giữ mái
chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang
dậy quanh minh, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, vũ khí trên cánh tay mình”, và sóng
nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám
lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò, đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang
trời thanh la não bạt. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông...
Cách miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác
hung dữ, con người chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm
lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả so sánh người lái đò sông
Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có
phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại, "còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì
chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng
nước thì thuyền quay ngang, chứ không có mùi gì cả..”, vẫn bằng phương pháp so
sánh, nhưng với những hình ảnh táo bạo, khơi gợi lạ lùng, tác giả đã tả sông Đả thiên
biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một bầy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có
một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông "reo lên như đun sôi lên một trăm độ
muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm nước đang sôi
khổng lồ". “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay". Lại có những “hút nước" xoáy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi".
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy nguy nan cho con người. Thế nhưng,
“ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cải cuống lái..." Mặc dù mặt
“méo bệch đi" vì những đòn hiểm, nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ
tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhằm
đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến
thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến
bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt mười lăm năm làm
người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người và thiên nhiên thật ghê
gớm, căng thẳng, đầy sáng tạo và con người đã chiến thắng, trở về cuộc sống thanh
bình: "Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hàng lạnh (...).
Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...".
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho
đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con
người lao động. Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm,
trên ngực người lái đò vẫn còn "bầm tụ” một “củ khoai nâu", với Nguyễn Tuân, “đó
cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng".
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật
đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức và tri thức về cuộc
sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ..., tác phẩm còn là một khối kiến trúc
thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc, cái đẹp của con
người cụ thể, con người lao động Người lái đò Sông Đà. Nguyễn Tuân đích thực là
một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao
nguy hiểm nhưng đầy vinh quang.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 12
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Nguyễn Tuân là một cây bút xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. "Người lái
đò Sông Đà" trích trong "Tùy bút Sông Đà" (1960). Đây là kết quả chuyến đi thực tế
đến với Tây Bắc năm 1958 để kiếm tìm "chất vàng" của thiên nhiên và chất vàng
mười trong tâm hồn con người. Đọc tác phẩm, ta bắt gặp hình ảnh Sông Đà với hai nét
tính cách hung bạo và trữ tình. Và nổi bật bên hình tượng ấy là người lái đò dũng cảm tài hoa trên sông nước.
Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân vật này chính là không có tên gọi cụ thể mà tên của
ông gắn liền với nghề nghiệp, địa danh: "ông lái đò Lai Châu". Điều này thể hiện, ông
là đại diện cho vẻ đẹp người lái đò trên sông nước, cần mẫn. Người lái đò là một ông
lão 70 tuổi. Ông đã dành một phần lớn cuộc đời của mình để lái đò dọc trên Sông Đà.
Bây giờ ông đã thôi nghề khoảng mười năm." Trên sông ống xuôi ống ngược trên 100
lần, giữ tay lái chính khoảng 60 lần". Chỉ bằng vài câu ngắn gọn giới thiệu về người
lái đò, độc giả phần nào đã hình dung ra ngoại hình và tố chất của ông. Đọc tiếp tác
phẩm, ta có thể thấy được điều đó.
Ông lái đò hiện lên là người khỏe mạnh, từng trải, ngoại hình và tố chất được tạo nên
bởi nét đặc thù của môi trường lao động là trên sông nước. "Tay ông lêu nghêu như
cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng.
Giọng ông ào ào, nhỡn giới cao vòi vọi". Nguyễn Tuân gọi con người này là "thứ
vàng mười" bởi ông đã đứng trước thử thách và chiến thắng Sông Đà. Trước hết ở ông
lái đò Lai Châu là người tài hoa trí dũng, có phong thái ung dung của người nghệ sĩ.
Ông tài trí, từng trải, lão luyện trong nghề, đạt đến trình độ "lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như
đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của những con thác hiểm trở". Nguyễn
Tuân đã bày tỏ lòng khâm phục của mình đối với người lái đò bằng cách so sánh, liên
tưởng độc đáo "sông Đà đối với ông lái đò như một trường thiên anh hùng ca mà ông
đã thuộc cả dấu câu chấm than và cả đoạn xuống dòng". Ông thuộc rõ quy luật phục
kích của đá, biết rõ cửa tử cửa sinh.
Lòng dũng cảm của ông được thể hiện qua ba thạch trận. Vòng một sông Đà hiện lên
như một kẻ thù nham hiểm sải quyệt, không chỉ sóng gió mênh mang, hút nước, thác
nước mà còn bày binh bố trận "bọt tung trắng xóa cả một chân trời đá". Đá mai phục
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
ngàn năm bày binh bố trận những binh pháp tôn tử. Ở vòng này gồm năm cửa trận,
bốn cửa tử, một cửa sinh chia thành ba tuyến tiền vệ, trung vệ và hậu vệ. Phối hợp với
đá và thác nước hò la vang dậy làm thanh điệp cho đá. Đá oai phong lẫm liệt tiến lùi
thách thức còn sóng nước như quân liều mạng. Nhưng ông lái đò vẫn giữ chặt mái
chèo để khỏi bị hất tung ra trận địa sóng. Ông cố nén vết thương kẹp chặt cuống lái
kiên cường vượt qua cơn võ chiến. Đến vòng hai, sông Đà lúc này mở ra nhiều cửa tử
hơn, chỉ có một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc thế
mạnh. Bọn thủy quân cửa ải xô ra níu thuyền vào cửa tử. Ông lái đò cùng chiếc
thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ. Ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương
lái miết vào cửa sinh. Bốn năm bọn thủy quân cứ ào nước xô ra níu thuyền vào cửa tử.
Dòng sông như con thú hoang lồng lên đòi ăn chết con thuyền. Nhưng ông già dằn
mặt từng đứa nắm chắc quy luật của thần sông thần đá không hề nao núng, tỉnh táo,
sáng tạo thay đổi chiến thuật chiến thắng Sông Đà. Bị thua ông lái đò ở hai vòng
trước, trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng dữ dội hơn. Ít cửa ra vào,
bên phải bên trái đều là cửa tử, luồng sống ở giữa ngay cạnh voi đá vọng về xong ông
lái đò vẫn bình tĩnh dũng cảm phóng thẳng thuyền. Thuyền vút vút qua cánh cổng đá
để rồi chiến thắng đi qua.
Không chỉ dũng cảm tài ba, người lái đò yển sông còn mang phong thái nghệ sĩ. Sau
cuộc vượt thác mọi nguy hiểm như tan biến "sóng nước xèo xèo tan trong trí nhớ". Họ
lại đốt lửa nướng ống cơm lam bàn chuyện cá anh vũ, cá rồng xanh như không có gì
xảy ra". Mặc dù ngày ngày họ phải vật lộn đối mặt với hiểm nguy rình rập. Đó là vẻ
đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.
Trong xây dựng nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân chú ý khắc họa nét tài hoa của
nghệ sĩ "nhân vật phải là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp". Nhà văn chú ý tạo tình
huống thử thách để nhân vật bộc lộ bản chất của mình. Sông Đà càng hung bạo bao
nhiêu, người lái đò càng tài hoa dũng cảm bấy nhiêu. Nhà văn am hiểu nhiều ngành
nghệ thuật quân sự, thể thao kết hợp với nghệ thuật miêu tả so sánh liên tưởng độc đáo
qua ngôn ngữ phong phú để làm nổi bật sông Đà và người lái đò Sông Đà. Tóm lại,
thành công trong xây dựng nhân vật ông lái đò Lai Châu đã trở thành sức hút riêng
của tác phẩm trong nền văn học nước nhà.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 13
Nguyễn Tuân được mệnh danh là nhà văn của cái tuyệt mĩ. Cả cuộc đời ông là hành
trình tìm kiếm vẻ đẹp toàn bích của cuộc đời và thiên nhiên. Đó chính là sợi dây chỉ
đỏ xuyên suốt chi phối toàn bộ sáng tác của ông. Mặc dù vậy trước và sau cách mạng
ta cũng có thể thấy sự chuyển biến lớn trong quan niệm nghệ thuật về con người của
Nguyễn Tuân. Sau cách mạng nhân vật đánh dấu sự đổi mình ấy chính là người lái đò
Lai Châu trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Người lái đò không được nêu rõ tên mà chỉ được Nguyễn Tuân gọi bằng cái tên chung
ông lái đò Lai Châu, tuổi đã ngoài 70 cả cuộc đời gắn liền với con sông Đà vừa hung
bạo, vừa trữ tình. Ngoại hình của người lái đò chỉ được Nguyễn Tuân phác họa bằng
những nét hết sức ngắn gọn “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng
khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào
như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong
một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình
gọn quánh chất sừng chất mun”.. Chỉ với những lời giới thiệu hết sức ngắn gọn, nhưng
ta cũng có thể thấy được chân dung của một con người cả đời gắn bó với thiên nhiên, con người nơi đây.
Sau những nét vẽ phác họa, Nguyễn Tuân đi sâu vào sự từng trải, tay nghề điều luyện
tài ba của ông trong một lần vượt thác sông Đà. Sông Đà là con sông đầy hiểm ác, với
những cái bẫy chết người dụ những người lái đò sập bẫy. Nhưng dù sông Đà có thâm
hiểm, xảo quyệt bao nhiêu thì bằng sự nhanh nhẹn, dũng cảm của mình, ông lái đò vẫn
bình tĩnh đưa mình và những người khác vượt qua sông Đà thành công. Cả cuộc đời
gắn bó với sông Đà, nên số lần ông vượt qua con sông này đã nhiều vô số kể. Ông đi
trên sông Đà, lái lướt chẳng khác nào người ta đi bộ trên đất. Với ngòi bút miêu tả
sinh động, Nguyễn Tuân đã tái hiện hoàn chỉnh một lần ông lái đò vượt thác. Sông Đà
bày binh bố trận với những cửa tử, cửa sinh khác nhau, mà cửa tử nhiều hơn cửa sinh.
Qua mỗi trùng vi thạch trận, ông lái đò đều biến đổi linh hoạt phương thức tác chiến,
khi đè sấn lên thác mà đi, khi lại chặt đôi sóng mà tiến,… Dưới sự điều khiển của ông
lái đò, con thuyền vun vút lao đi, lấn lên phía trước. Nhưng không phải lúc nào ông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
cũng dành thế chủ động, đôi khi những đòn đánh tỉa thâm hiểm cũng làm ông lái đò
bệch mặt. Nhưng điều đó vẫn không làm ông nao núng tinh thần, bình tĩnh, chủ động
linh hoạt , ông biến hóa đường đi, tay lái để tiếp chiêu của chúng, vượt qua cửa tử làm
cho thạch trận tiu nghỉu ở phía sau.
Người lái đò không chỉ thông thạo, tài năng lái đò xuất chúng mà con hết sức hiên
ngang, bình thản đối đầu với sông Đà. Ông coi đó như một niềm vui sống trong cuộc
đời mình. Ông tâm sự, ông không thích chèo đò ở những nơi bằng phẳng, những nơi
đó khiến chân tay ông dại đi, cơ thể ủ rũ và buồn ngủ. Đối với ông ghềnh thác vừa là
bạn, vừa là thử thách ông luôn khao khát muốn vượt qua. Cũng chính bởi vậy nên khi
phải đối mặt với con sông vô cùng hung bạo, một sống một chết những ông không hề
lo lắng, sợ hãi, mà luôn bình tĩnh, chủ động, tinh thần sảng khoái tỉnh táo để chỉ huy
con tàu vượt qua khỏi dòng thác dữ.
Vẻ đẹp nổi bật nhất ở ông lái đó chính là mang phong thái của người nghệ sĩ tài hoa.
Đối với ông lái đò tài hoa không giống như Huấn Cao với những nét chữ đẹp mà bất
cứ ai cũng muốn được để trong nhà mà tài hoa ở đây chính là trong nghệ thuật lái đò
của ông – “tay lái ra hoa”. Sông Đà là con thủy quái vô cùng ghê gớm, ở bất cứ trùng
vi thạch trận nào cũng phô trương sức mạnh nhằm đoạt lấy tính mạng của người lái
đò. Trong trùng vi thứ nhất, chúng phô diễn sức mạnh đá, sóng, nước, nhằm dồn ông
vào thế yếu. Tiếp đến trùng vi thạch trận thứ hai chúng biến hóa khôn lường, cửa tử
nhiều mà chỉ có duy nhất cửa sinh một lần nữa muốn đoạt mạng người lái đò. Trùng
vi thạch trận cuối cùng chúng lại càng tỏ ra hung hãn hơn, sóng, đá, nước lăm le tiến
công, nước cuồn cuộn, kêu ùng ục chỉ chờ ông lái đò lơ đễnh là dồn đến. Nhưng bằng
kinh nghiệm dạn dày, bằng kĩ thuật lái điêu luyện như một người nghệ sĩ ông lái đò đã
bình tĩnh , mọi giác quan được phối hợp linh hoạt, nhịp nhàng đã giúp ông vượt qua
mọi chướng ngại, mọi cửa tử để về bến an toàn.
Cuối tác phẩm hình ảnh ông lái đò hiện lên ở vẻ đẹp của bề sâu nhân cách, thể hiện
một tấm lòng thiết tha sâu nặng với quê hương. Nhưng năm tháng chiến tranh ác liệt,
ông sống ở rừng nhưng cũng không một ngày xa cách con sông đà. Cho đến những
ngày hòa bình lập lại, tình yêu ấy vẫn không hề thay đổi. Ông tự hào kể với mọi người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
về việc trở một đoàn chuyên gia Nga đi khảo sát tình hình. Ông tự hào vì đã góp một
phần sức lực nhỏ bé cho quê hương, đất nước.
Từ Huấn Cao cho đến người lái đò sông Đà ta không chỉ thấy những đặc điểm phong
cách đậm nét vẫn được bảo lưu mà hơn nữa còn thấy được sử chuyển biến tích cực
trong quan niệm về con người của ông. Nguyễn Tuân không còn đi tìm vẻ đẹp của
những con người của một thời vang bóng, mà phát hiện vẻ đẹp đó ngay tại đây, ngày
trong cuộc sống bình dị này. Đây chính là điểm chuyển biến lớn nhất trong quan niệm
nghệ thuật về con người của ông. Họ - những con người lao động bình dị, thậm chí vô
danh chính là những người đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 14
Với mười lăm bài tùy bút và một bài thơ phác thảo sau chuyến thực tế ngược miền
Tây Bắc điệp trùng mà đầy kỳ thú, tập "Tùy bút sông Đà" của nhà văn Nguyễn Tuân
ra đời (1960) đã góp cho văn học nước nhà một tác phẩm giá trị khẳng định cuộc sống
và con người Tây Bắc trong sự nghiệp dựng xây đất nước "Người lái đò sông Đà" là
một thiên tùy bút đặc sắc trong tập tùy bút của Nguyễn Tuân. Đặc biệt hình ảnh ông
lái đò dũng cảm và tài ba đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong tâm trí người đọc.
Cùng với hình tượng này, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân càng rõ thêm, ấn tượng thêm.
Nhân vật ông lái chắc chắn sẽ bị mờ nhạt nếu như tác giả chỉ miêu tả ông trong cuộc
mưu sinh phẳng lặng trên sông nước hiền hòa. Người lái đò trong tác phẩm thực sự trở
thành hình tượng chân thật và sống động là sự ký thác ý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn
Tuân, văn sỹ suốt một đời say mê kiếm tìm và khẳng định cái đẹp. Hình tượng ông lái
đò đẹp một cách kiêu hãnh trong mối tương quan đồng hiện với nhân vật sông Đà dữ
dằn mà kỳ vĩ ! Đấy cũng chính là dụng ý tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân,
khi ông muốn "ghi" ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên
chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà
Vẻ đẹp đầy ấn tượng về ông lái đò là sự tồn tại sống động trước thử thách ghê gớm
của dòng sông Đà. Ta hình dung như cả một "thạch trận trên sông" dàn giăng muốn bổ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
chụp hòng nuốt lấy con thuyền và ông lái. Trong tình thế ấy, sông Đà mới dữ dội và
kỳ quái làm sao: "Nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng
chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc...". Trong trận đồ
bát quái đó "với đá, nước thác reo hò làm thanh viện... những hòn đá bệ vệ oai phong
lẫm liệt", sông nước mà dữ dằn như quỷ dữ. Nhưng cũng chính từ cảnh tượng dữ dội
mà kỳ vĩ ấy, hình tượng ông lái hiện lên rõ ràng trong vẻ đẹp của sức mạnh và bản lĩnh cao cường.
Thiên nhiên muốn lấn át, muốn nuốt sống, ông lái đò bình tĩnh và quả cảm vượt lên
sóng dữ: "Ông lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hắt lên khỏi sóng trận địa phóng
thẳng vào mình". Bao nhiêu thử thách của sông nước ông lái phải vượt qua. Không có
nghị lực phi thường và sự bình tĩnh chủ động làm sao ông qua được con quỷ dữ sóng
nước: "có lúc chúng muốn đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm
thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt...".
Quả là nhà văn Nguyễn Tuân đã huy động một binh chủng ngôn ngữ thật đa dạng, ở
nhiều lĩnh vực để miêu tả đầy kịch tính, đầy ấn tượng về cuộc giao tranh giữa con
người (ông lái đò) và thiên nhiên (sông Đà). Những cảm giác mạnh luôn đến với ta
đấy là cái dữ dội mà kỳ vĩ của dòng nước ấy là cái bình tĩnh chủ động đầy quả cảm,
đầy bản lĩnh của ông lái đò. Con người dũng cảm tài ba và thiên nhiên dữ tợn kỳ quái
cùng lao vào trong cuộc quyết chiến. Và hình tượng ông lái đò càng về sau càng trở
nên kiêu dũng, quyết liệt đến tận cùng trong cuộc giao đấu. Ông lái vượt lên sóng dữ
bằng dũng khí tuyệt vời bởi ông "cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như cưỡi
hổ... Ông lái đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa
sinh, mà miết một đường chèo về phía cửa đá ấy".
Một đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là "thiên nhiên hay con người
đều được chú ý khám phá ở phương diện văn hóa, mĩ thuật của nó". Vì thế, ta còn bắt
gặp ở đây hình ảnh một ông lái đò rất mực tài hoa, nghệ sĩ bên cạnh vẻ đẹp của lòng
dũng cảm và bản lĩnh cao cường trước thử thách của thiên nhiên.
Một tư thế tuyệt đẹp của ông lái lúc "ghì cương" mà "phóng nhanh vào cửa sinh" cho
ta thấy ấn tượng về một chàng kỵ sĩ dũng mãnh và rất đỗi hào hoa. Một phong thái
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
bình thản, tự tin khi ông lái ứng chiến với sóng dữ"... đè sắn lên mà chặt đôi ra để mở
đường tiến". Và hình ảnh con thuyền vượt lên "như một mũi tên tre xuyên nhanh qua
hơi nước..." đem đến cho ta một cảm giác vừa sảng khoái, vừa hả hê trước sự chiến
thắng của ông lái - nghệ sĩ. Và đây - hình ảnh cuối của người lái đò cũng là hình ảnh
tập trung của sự ký thác tâm tình và nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
"...Trên thác hiên ngang một người lái đò sông Đà có tư do, vì người lái đò ấy đã nắm
được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà. Hình tượng ông lái đò một con
người lao động bình dị mà phi thường được Nguyễn Tuân khắc họa như một biểu
tượng đẹp của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Đây là một
cách nhìn, cách khám phá và khẳng định con người Việt Nam trong thời đại mới !
Chính vì thế tùy bút "Người lái đò sông Đà" nói riêng và mười lăm thiên tùy bút về
sông Đà của Nguyễn Tuân nói chung đã góp phần khẳng định vẻ đẹp của cuộc sống
mới và con người mới trên đất nước Việt Nam chúng ta.
Bài tùy bút "Người lái đò sông Đà" mà ấn tượng mạnh mẽ là cuộc vượt thác sông Đà
của ông lái đò giúp chúng ta nhận ra một điều lý thú: vẻ đẹp hào hùng tài hoa của
những người lao động bình thường nơi có dòng sông ngọn thác hoang vu kia là có
thật. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đâu chỉ có ở nơi chiến trường với tiếng súng tiếng bom gầm.
Đọc hết "Người lái đò sông Đà" mà tâm trí ta vẫn như hiển hiện hình ảnh ông lái đò
dũng mãnh và hào hoa với con thuyền nhỏ cưỡi lên sóng dữ mà đi tới mà chiến thắng,
vẻ đẹp ấy huy hoàng và tráng lệ làm sao!
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 15
Mỗi khi nhắc đến những nhà văn viết tùy bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt
Nam chúng ta chẳng thể có thể không nhắc tới nhà văn Nguyễn Tuân. Vùng đất Tây
Bắc với những ngọn núi cao ngút trời, bao con thác ghềnh hiểm trở đã lôi cuốn ngòi
bút của Nguyễn Tuân, để rồi vào năm 1960 ông xuất bản tập tùy bút Sông Đà trong đó
tiêu biểu có tùy bút Người lái đò sông Đà . Hình tượng nghệ thuật đặc sắc xuyên suốt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
tác phẩm là hình ảnh ông lái đò Lai Châu được nhà văn tiếp cận chi tiết và tài hoa – nghệ sĩ.
Ông lái đò năm nay khoảng chừng đã đến bảy mươi tuổi , ông sinh ra và trưởng thành
và lớn lên ngay bên bờ sông Đà “quê ông ở ngay chỗ ngã tư sông sát tỉnh”. Ông có
một ngoại hình khá là đặc biệt, mang đậm dấu ấn nghề nghiệp : thân hình ông cao lớn
“gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tay dài lêu nghêu như cái sào”, “chân lúc nào
cũng khuỳnh khuỳnh như đang gò mình lại | kẹp lấy một cái cuống lái thuyền tưởng
tượng” rồi “ giọng ông ào ào như tiếng nước thác”.
Mọi thứ của ông giờ đây như đã hòa nhịp với con sông lúc hung hãn lúc trở nên lại dịu
êm này, họ hòa vào nhau theo từng năm tháng, hòa vào nhau trong từng những hơi thở
nhịp nhàng, ăn ý một cách đến khá lạ lùng. Đối với ông lái đò thì sông Đà như một
bản trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những chi tiết nhỏ nhất thuộc
đến cả từng cái chấm than, chấm câu và cả những khúc xuống dòng. Ông “nhớ tỉ mỉ
như đóng cọc vào trong lòng tất cả những luồng nước chảy của tất cả những con thác
hiểm trở”, “nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, dường như đã làm chủ được dòng sông.
Đó là tư thế và sự hiểu biết của con người đang làm chủ thiên nhiên , làm chủ được
hoàn cảnh. Ông hiểu về con sông cặn kẽ như là hiểu chính con người bản thân mình
vậy , có hiểu thì ông mới ngự trị , mới có thể làm bạn được với nó . Thật đúng là “thứ
vàng mười đã qua thử lửa” giống như cách mà nhà văn Nguyễn Tuân vẫn thường nói.
Nếu ai đó nghĩ rằng chở đò là một nghề dễ dàng chỉ cần đến sức khỏe thì chắc hẳn
người đó đã suy nghĩ sai nhầm. Chở đò là một nghệ thuật đòi hỏi rất nhiều ở người lái
đò sự thông minh, khôn khéo tấm lòng trí dũng và suy nghĩ tài ba. Cuộc chiến mỗi
ngày giữa ông lái đò và sông Đà là một cuộc chiến không hề cân sức . Bởi sông Đà có
một lực lượng quân hùng hậu nào thì vách đá, nào thì những cái hút nước xoay tít sâu
hun hút và cả những hàng chông đá nằm ngầm như là phục kích dưới lòng sông nữa.
Ấy vậy mà ông lão chỉ có một thân một mình “đơn phương độc mã” chiến đấu, vũ khí
duy nhất mà ông có trong tay là cán chèo . Để chiến đấu với một Sông Đà đầy quỷ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
quyệt trong việc bày binh bố trận thì ông lái đò không chỉ cần giữ cái đầu lạnh mà
càng phải nắm chắc tay chèo, giữ vững tinh thần và đặc biệt phải “nắm chắc binh pháp
của thần sông thần đá” thì mới có cơ hội mã đáo thành công thắng được trong trận đấu sinh tử này.
Trận thủy chiến diễn ra căng thẳng đến nỗi nghẹt thở với ba “hiệp đấu”. ở vòng vây
cửa ải thứ nhất thác Sông Đà mở ra “năm của trận”, có đến bốn “cửa tử”, chỉ có một
“cửa sinh”. Cửa sinh thì nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện lên,
phối hợp với đá, nước thác cùng reo hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá trông
rất bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng thì y như là đang bắt cái thuyền
“phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Hòn đá khác thì lùi lại một chút và “thách
thức” cái thuyền có giỏi có gan thì tiến gần vào.
Không hề có một chút nao núng, ông đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi
sóng trận địa đang phóng thẳng vào mình. Nhìn thấy con thuyền và người lái đò lừng
lững, mặt nước “hò la vang dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”. Sóng nước thì như thể
quân tiên phong liều mạng, vào sát nách mà “đá trái mà thúc gối” vào bụng và hông
của con thuyền, có nhiều lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Nước lao vào bám lấy thuyền
như đô vật “túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”.
Ông đò cũng đã bị thương, nhưng ông vẫn “cố nén vết thương”, đôi chân vẫn “kẹp
chặt lấy cuống lái”. Cuộc chiến nào rồi cũng đến hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi
lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào toàn chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi
chèo đó, vẫn nghe rõ ràng tiếng chỉ huy “ngắn gọn tỉnh táo” của người cầm lái. Và
ông lái đò đã kiên cường phá xong cái “trùng vi thạch trận” vòng thứ nhất của thác Sông Đà.
Không một giây phút nghỉ tay, ông lái đò lại tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai của
thác Sông Đà. Ở vòng thứ hai này còn cam go hơn, thác Sông Đà lại tăng vào đó thêm
nhiều cửa tử” để đánh lừa con thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh Nếu ở vòng chiến đấu
thứ nhất của sinh đang nằm “lập lời phía tả ngạn”, thì đến vòng thứ hai này, cửa sinh
lại được “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Đó hẳn là khó khăn, thách thức thực sự
đối với người lái đò.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Nhưng ông lái đò đã “thuộc quy luật phục kích” của lũ đá bợn trợn nơi ải nước hiểm
trở này. Ông hiểu ra một điều rằng cưỡi lên thác Sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là
cưỡi hổ”. Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng thứ hai đã chính thức bắt đầu. Khi đã nắm
chặt cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng
mà “phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “đang miết một đường chéo” về chính phía cửa đá ấy.
Thấy con thuyền đang tiến vào, bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái liên “xô ra” định
nếu con thuyền “lôi vào tập đoàn của tử” nhằm đó mà tiêu diệt. Nhưng trong đầu ông
lái đò vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa thì ông lại tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông
tiến đến “đè sần lên mà chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại
phía sau thuyền, phải chăng chỉ còn vắng tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh.
Dù vậy bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu khích”, dù cho cái thằng đá tướng đứng ở
cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị cúi đầu thua cái thuyền du kích nhỏ bé.
Vượt qua được vòng thứ hai, ông lái đò còn phải chiến đấu vượt qua vòng thứ ba nữa.
Chắc chắn ở vòng vây thứ ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải cũng như
bên trái đều là “luồng chết” cả. Cái “luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay chính
giữa của bọn đá hậu vệ. Ông lái đò đã hiểu rõ điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền”
lao vào nhằm chọc thủng cửa giữa đó.
Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá khi mà cánh mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa
ngoài, cửa trong, lại có cả cửa trong cùng. Con thuyền của ông đò mạnh mẽ bất chấp
“như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn
được”. Vượt qua vòng vây thứ ba cũng là đã vượt được qua hết thác Sông Đà. Ông lái
đò như một vị tướng chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và tràn trề kinh nghiệm. Ông là
một nghệ sĩ tài hoa với nghề chính là vượt thác leo ghềnh.
Ông lái đò quả thật là một chiến tướng dũng cảm nhưng cũng là một tay lái tài hoa.
Mỗi đường chèo của ông đều là những nét nghệ thuật làm đẹp cho đời và trong lao
động. Sau chiến thắng oai hùng đó ông lái đò lại trở về với cuộc sống đời thường bình
dị. Ông đã cùng với nhà đò “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và hầu như
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh…, cũng chẳng thấy ai bàn thêm lời nào hay tự
mãn về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”.
Bởi lẽ với họ những trận chiến như vừa rồi đã trở thành một gia vị hảo hạng trong
cuộc sống của họ, có gì mà phải đem ra bàn tán, phải suy ngẫm, tất cả in sâu vào
thành máu thịt , là sợi dây kết nối và gắn bó cuộc sống của họ với nơi đây.
Thông qua việc miêu tả trận thủy chiến tác giả Nguyễn Tuân đã cho người đọc thưởng
thức nếm trải cái “thú chơi ngôn từ” độc và lạ lùng của ông. Một loạt các động từ
được sử dụng một cách dày đặc, kèm theo đó là hàng loạt các tính từ diễn tả cơn
cuồng nộ ào ào của dòng Đà giang cũng như tài trí dũng cảm của ông lái đò.
Đó là một cuộc hỗn chiến gây gớm giữa người và sông nước đến nghẹt thở. Nguyễn
Tuân còn vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghề để soi rõ chiếu sáng đối tượng, tạo
cảm giác cho người đọc về một trận thuỷ chiến đầy kịch tính, đầy sôi động và không
hề kém phần hấp dẫn cũng chẳng thể có sự nhàm chán .Để viết về dòng Đà giang và
ông lái đò một cách cặn kẽ và chi tiết sâu sắc đến vậy thì không phải ai cũng có thể
viết được, phải có lòng yêu , phải thấu hiểu và gắn bó lắm mới viết được kĩ đến vậy.
Điều này như một minh chứng rõ ràng chân thực cho sự hi sinh vì nghệ thuật của tác
giả Nguyễn Tuân. Ông đã dành hầu hết cả cuộc đời mình để đi tìm cái đẹp, cái thật
trong tâm thẳm con người và cuộc đời. Ông đã tự tin quan niệm rằng vẻ đẹp tài hoa
của người nghệ sĩ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực của đời sống con người. Khi con
người đạt đến trình tinh xảo độ điêu luyện trong công việc của mình thì khi đó vẻ đẹp
tài hoa nghệ sĩ sẽ tỏa sáng.
Bài tùy bút của tác giả Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi hết từ ngạc nhiên này đến
ngạc nhiên khác một cách tự nhiên và chân thật đến lạ kì. Hình ảnh hiện hữu ra xuyên
suốt bài tùy bút là hình ảnh ông lái đò gạo cội và dòng sông Đà giang hung hãn nguy
hiểm nhưng cũng đồng thời gửi vào tâm trí độc giả một liên tưởng về một ông lái đò
Nguyễn Tuân như một ông lái bậc thầy lâu năm, ông lái con thuyền ngôn từ trên một
dải sống văn chương trong đó chẳng kém những thác ghềnh chông gai. Ông ta tạo nên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
một khúc khải hoàn ca về những con người lao động chân chính dũng cảm là mưu trí trong thời kì mới.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 16
Cái nhan đề Người lái đò sông Đà ùa vào ta một liên tưởng kép: Nguyễn Tuân xưng
tụng ông lái đò tài hoa trí dũng trên dòng sông thiên nhiên bạo liệt, còn ngôn ngữ
Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông lái bậc thầy con
thuyền chữ trên một dải sông văn không kém thác ghềnh.
Thì chính Nguyễn Tuân đã hạ bút ngay từ khúc dạo đầu: "Chúng thuỷ giai đông tẩu,
Đà giang độc bắc lưu" (Mọi con sông đều chảy về đông, chỉ có sông Đà ngược bắc).
Câu đề từ của Nguyễn Tuân vừa thâu tóm lấy cái thần sông Đà, vừa tóm luôn cái thần
chữ của mình. Một mặt bắc lưu là sự cưỡng lại đông tẩu, cái riêng độc đáo là sự cưỡng
lại sức xói mòn của cái chung nhàm cũ. Mặt khác, bắc lưu chỉ tồn tại trước đông tẩu,
cái riêng độc đáo chỉ tồn tại trước cái chung khi nó đồng nghĩa với cái cao hơn sự
khác lạ là cái sáng tạo (tức là cái độc đáo phải trở thành cái riêng mang giá trị). Phi giá
trị, cái riêng hóa trò chơi duy mĩ. Đó là nguyên tắc của phép lạ hóa văn chương, để
vừa chối bỏ sự nhàm lặp của cái chung, vừa hội nhập với cái chung mang giá trị văn
chương bền vững. Còn nguyên tắc riêng của phép lạ hóa ngôn ngữ Nguyễn Tuân?
Trong kho từ vị Việt, ngôn ngữ mang bản tính nguyên thủy của một vật liệu tĩnh, lạnh,
khá ổn định. Tài năng nghệ sĩ là biết vung cây gậy thần biến nó thành chất liệu động
và nóng, phập phồng sự sống. Nổi trội trong các tài năng, văn Nguyễn Tuân là thứ
ngôn từ nóng giãy sự sống. Có thể coi bài kí sông Đà này là cuộc thí nghiệm tâm đắc
của ngôn ngữ nóng Nguyễn Tuân.
Đầu tiên, sức nóng ngôn ngữ Nguyễn Tuân cũng tìm được một đối tượng "nóng":
sông Đà. Con sông độc lạ ấy thật thích hợp với một ngòi bút độc lạ. Ngôn ngữ
Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thức dậy, tưới linh hồn vào nó, và ông khai sinh
dòng sông nghệ thuật của mình bằng một cái tên đủ in luôn tính nết vào đó: "hung bạo
và trữ tình". Nếu chỉ có một vế, con sông sẽ lười nhác trong đơn giản. Tính cách sông
Đà phải là một hệ thống những phẩm chất đối chọi nhau như nước với lửa, và phải từ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
những nghịch lí nghịch âm ấy, con sông mới có điều kiện phô bày hết vẻ phức tạp
phong phú, đầy hấp dẫn của mình.
Đầu tiên là con thác - tâm điểm dữ dội của sông Đà. Nước dữ, đã đành. Đá cũng dữ.
Đúng ra là do đá dữ mà nước dữ. Vậy thì cần phải dựng đá dậy cho lộ bản chất của nó
ra. Và Nguyễn Tuân hạ một so sánh đắc địa: "Một hòn (đá) ấy trông nghiêng thì y như
là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến". Trong công
thức A = B của so sánh, cái độc lạ của Nguyễn Tuân chủ yếu tỏa sắc ở vế B. Trong
câu văn trên, ông chêm động từ hất hàm vào B để mang đến cho nó một năng lượng
sống, đủ khả năng truyền hồn vào đá vô tri, rọi một cái nhìn đậm tính điêu khắc vào
thói du côn của thiên nhiên man dại. Nhưng gây cảm giác "chết người" nhất là cái hút
nước. Nguyễn Tuân tả hình ảnh những cái thuyền bị dòng sông nuốt vào bụng, gợi
cảm giác lạnh người: "Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau
mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Người ta nói văn Nguyễn Tuân là thứ văn ham
cảm giác mạnh, có lẽ vì thế mà cái hút nước hiểm nguy kia trở thành một đam mê
dưới ngòi bút của ông. Ông tiếp tục gây áp lực lên hệ thần kinh người đọc bằng cách
bắt họ phải tự "chiêm nghiệm" cái cảm giác lạ lùng này: "Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một
anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm
ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay
xuống đáy cái hút Sông Đà, - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông
chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít,
những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược coNguyễn Tuânre-plongée
lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy
tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim
cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm
lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy
mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy
đánh phèn". Hình ảnh những cái thuyền bị cái hút nước nuốt chửng, hình ảnh cái hút
nước như một cái giếng xây bằng nước sông đang xoay tít... tạo nên ở người đọc một
cảm giác hình hết sức mạnh mẽ. Họ bị đặt vào trong cuộc, và cảm thấy bối rối vì khó
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
bứt thoát khỏi những ám ảnh đầy ma lực mà ngôn từ Nguyễn Tuân truyền tới họ. Và
đọng lại cuối cùng trong lòng người đọc là một sông Đà được nhìn như một hung
thần, gây cảm giác hãi hùng về cuộc quyết đấu dữ dội giữa con người và thiên nhiên
đã diễn ra nơi đây hàng bao thế kỉ.
Cảm giác hình gắn với cảm giác âm nên ám ảnh của văn Nguyễn Tuân càng mạnh. Ở
đây, người đọc lại hứng khởi nhận ra một đặc điểm khác của văn Nguyễn Tuân:
những câu văn của ông thường liên kết trong một tính liên hoàn giàu giá trị thẩm mĩ,
có khả năng thôi miên người đọc trong một chuỗi dây chuyền liên tưởng ngỡ như vô
tận. Tả cái thác nước, Nguyễn Tuân viết: "Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Đúng là một cảnh tượng
man rợ như thời tiền sử. Để dò hết năng lượng thẩm mĩ của câu văn, liên tưởng của
người đọc phải nối nhau trong cơ chế ba chặng: tiếng thác (rống) - tiếng trâu mộng
(lồng lộn) - tiếng rừng lửa (gầm thét). Liên tưởng của Nguyễn Tuân rất lạ: âm thanh
thác được động vật hóa thành tiếng gầm "trâu mộng", nhưng cao tay nhất là lấy thác
lửa (hỏa) gây một bất ngờ thẩm mĩ. Sức mạnh hoang dã của thiên nhiên qua miêu tả
của Nguyễn Tuân, cứ như một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử.
Nguyễn Tuân còn chạm bút tới cái hút nước một lần nữa: "nước ặc ặc lên như vừa rót
dầu sôi vào". Hai chữ "ặc ặc" mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái vật, khiến sông Đà
như loài thủy quái bị bóp cổ đang quằn quại.
Mặt thứ hai của sông Đà là trữ tình. Để lột tả đặc tính này của sông Đà, Nguyễn Tuân
rất tâm đắc với những so sánh. Mỗi so sánh chứa đựng một góc nhìn độc đáo, đầy tính
phát hiện của nhà văn trước đối tượng thẩm mĩ của mình. Sông Đà như loài thủy quái
với những nanh vuốt nơi mặt ghềnh, hút nước và thạch trận dữ hiểm, được nhà văn ví
như "kẻ thù số một" của con người. Song những so sánh đam mê nhất của Nguyễn
Tuân là dành cho một Đà giang trữ tình: "Cái dây thừng ngoằn ngoèo" dưới chân
người ngồi trên tàu bay nhìn xuống, cái "áng tóc trữ tình (...) ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân"; rồi lại "như một cố nhân" trong nỗi niềm du khách, như "cái miếng sáng lóe
lên" trong trò chiếu gương con trẻ, như "một bờ tiền sử", như "một nỗi niềm cổ tích
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
ngày xưa"... Những so sánh biến hóa không trùng lặp, luôn gây men bằng những đột
ngột, người đọc sửng sốt vì những so sánh lạ lẫm, gây đứt quãng liên tưởng, để rồi
thán phục nhận ra không thể so sánh hay hơn, đúng hơn, và cứ thế bị thôi miên vào
mê hồn trận của những so sánh ăm ắp tràn bờ...
Vẻ đẹp ngôn ngữ Nguyễn Tuân không đơn thuần là thứ trời cho. Nhà văn phải lao
động cật lực, trong đó có khổ công quan sát. Liệu đã mấy ai đủ công phu quan sát
những biến đổi tinh vi đến thế của sông Đà, với mùa xuân thì "dòng xanh ngọc bích"
mùa thu thì "lừ lừ chín đỏ", giữa hai mùa ấy là cái "màu nắng tháng ba Đường thi"...
Sông Đà giàu ám ảnh trở thành nỗi nhớ thật da diết của con người.
Một sông Đà góc cạnh như thế ắt cần một đối tượng giao tiếp tương xứng cỡ ông lái
đò. Hình như Nguyễn Tuân tô đậm sức hấp dẫn của sông Đà là để ngầm đề cao chính
ông lái đò tài ba, nghệ sĩ này chăng. Để tiếp ông khách không vừa này, sông Đà "bày
thạch trận trên sông" với một thế trận bài bản theo kiểu binh pháp Tôn Tử: nào là cửa
tử, cửa sinh, đánh vu hồi, đánh du kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà... Sông Đà còn
lắm mưu nhiều kế bày bao nhiêu mẹo lược và sự nham hiểm để sẵn sàng bóp chết con
người. Ông lái đò thì nhỏ bé nhưng lại sừng sững hiện lên như một viên tướng trí dũng
song toàn trước con thủy quái khổng lồ kia, với tư thế của kẻ đã nắm chắc "binh pháp
của thần sông thần đá". Để miêu ta cuộc giao tranh giữa người và thác dữ, Nguyễn
Tuân có ngón chơi động từ độc đáo. Trong dăm trang kí, ông tốc tới ngót 300 động từ
để đủ sức ganh tài cùng con nước cuồng nộ Đà giang và trí lực ông lái phi thường.
Tần số động từ đậm đặc nhất là ở trường đoạn hỗn chiến giữa người và sông nước,
khiến người đọc nghẹt thở. Cơn cuồng phong động từ xô lên cùng cơn thịnh nộ sông
Đà: "rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy, đánh khuýp, reo hò, thúc, đội, túm, lật ngửa, bóp
chặt... Phía ông lái, động từ cũng hợp sức tạo nên thế cưỡi hổ tung hoành: nắm chặt,
ghì cương, bám chắc, phóng nhanh, lái miết, đè sấn, chặt đôi, phóng thẳng, chọc
thủng... Hai hệ thống động từ đối chọi, tương phản gay gắt, nhưng đọc kĩ, vẫn thấy nổi
lên thế chủ động, thế lấn lướt của ông lái đò. Hãy xem tiếp động từ phát huy sức mạnh
như thế nào trong đoạn văn sau đây của Nguyễn Tuân: "Dòng thác hùm beo đang
hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông
đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ
liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn mày, đứa
thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường
tiến...". Quả là một bức tranh chiến trận hào hùng, ngôn ngữ Nguyễn Tuân hả hê tụng
ca con người trong cuộc quyết đấu với thiên nhiên để giành sự sống.
Văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp của sự tổng hòa văn hóa. Nàng văn của ông thật
quảng giao đón du khách từ bốn phương trời kiến thức: lịch sử, địa lí, quân sự, võ
thuật, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, âm nhạc... Những kiến thức liên ngành đa dạng ấy
tạo bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay
bổng. Có thể coi Nguyễn Tuân là người đã nắm vững "binh pháp của ngôn ngữ". Với
một ý thức ngôn từ mới mẻ, hiện đại, Nguyễn Tuân đã truyền hồn cho chữ, chữ truyền
hồn cho dòng sông, và dòng sông truyền xúc cảm vào người đọc.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 17
Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây
dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh
cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm
ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong
những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng
hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.
Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô
đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao
nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ
nét hơn sức mạnh của mình.
Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần
trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về
ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần
đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu
luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của
nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò
lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước
mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó
trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng
chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã
cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang
đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”. Diện mạo, ngoại hình
của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái
tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực
lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề
nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để
chiến đấu lại với những con thác dữ.
Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái trong nghề
vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào nhưng lại
có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông
Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với
ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm
than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái
đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưu sinh thành một niềm đam mê mãnh
liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề
sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì
sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn
bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.
Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân
đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa
một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là
ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự
phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để
dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác
phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề
hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những
đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo
dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo
ngắn gọn, dứt khoát. Và bằng lòng dũng cảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái
đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự
thay đổi bất ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng
bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi
vào đúng cửa sinh. Với đoạn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh
hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối
cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò
của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm,
chủ động, quyết đoạn, ông đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra.
Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão
đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.
Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông
Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho
thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy
mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm dược, thậm chí đây là
một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây
là là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa
những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây
càng trở nên trân trọng, đáng quý.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu
người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở
hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi
những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi
thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn
Tuân ngợi ca, tôn vinh những người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 18
Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa, cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những
khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn
Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ,
thơ mộng được ví như bản trường ca bất tận rừng già của sông Đà. Song song với hình
tượng con sông Đà vừa dữ dội, vừa dịu dàng ấy, là hình ảnh người lái đò sông Đà can
trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà vừa
hung hiểm vừa xinh đẹp.
Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này “Cuộc sống của người lái đò sông
Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc
có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”. Để thấy
rằng cuộc sống mưu sinh trên dòng sông hùng vĩ kiêu ngạo ấy phải vất vả, gian lao
biết mấy, có lẽ là nơi chỉ dành cho những chàng trai lực lưỡng trẻ khỏe, đủ can đảm
mà chiến đấu với con sông mang tâm tình bất định “lúc van xin, rồi lại như là khiêu
khích, giọng gằn mà chế nhạo”, như một con thú với tiếng rống “như một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…”. Ấy thế mà chẳng như
chúng ta hằng tưởng tượng, người lái đò ấy lại là một ông lão, phải, là một ông lão đã
tầm bảy mươi, ở độ tuổi thất thập cổ lai, với bao người là độ tuổi được an hưởng tuổi
già, chứ chẳng phải lênh đênh kiếm kế mưu sinh trên sóng nước hiểm trở.
Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò đầy xuất sắc với hai vai trò
nổi bật, vừa là một chiến sĩ can trường trên mặt trận sông nước với vũ khí duy nhất là
mái chèo, vừa là một người nghệ sĩ tài hoa hằng ngày vẫn viết nên bản những bản
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
hùng ca tuyệt đẹp về sức mạnh của những con người lao động. Theo Nguyễn Tuân,
ông lái đò đã xuôi ngược trên sông Đà không dưới trăm lần, trong đó đã có tới 60 lần
ông cầm lái chính. Hình ảnh ông lái đò Lai Châu hiện lên với một vẻ ngoài đầy phong
sương, cơ thể in hằn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông “tay lêu nghêu
như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào
như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xe nào đó,…” đặc biệt
trên ngực ông có nhiều “củ nâu” đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn
với sông Đà, mà Nguyễn Tuân đã dí dỏm ví nó như là “những huân chương lao động siêu hạng”.
Ông lái đò không phải là người an phận ngược lại ông thích đương đầu với hiểm
nguy, khó khăn, với những pha hành động gay cấn, thế nên ông thích đi qua những
ghềnh thác khó nhằn của con sông Đà, ông bảo rằng: “Chạy thuyền trên khúc sông
không có thác nó dễ dạy, chân tay dễ buồn ngủ”. Dù tuổi đã cao, nhưng ông luôn
mang một tâm hồn trẻ khỏe, hiếu chiến, bản tính mạnh mẽ, can trường, niềm tin yêu
cuộc sống, cùng sự gắn bó với nghề nghiệp và con sông Đà hùng vĩ, công việc của
ông nghiễm nhiên trở thành niềm đam mê bất diệt, là niềm vui trong cuộc sống lao
động vốn vất vả của ông. Chỉ bằng những nét khái quát như vậy, hình ảnh ông lái đò
của Nguyễn Tuân đã để lại một dấu ấn sâu sắc, ấn tượng trong lòng độc giả. Sông Đà
trong lòng ông lái đò như một bản thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng, thuộc đến
“từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, sự tài hoa, tỉ mẩn
ấy được tác giả ví như “đóng đanh vào lòng”. Ông lái đò cũng nắm vững “binh pháp
của thần sông thần núi”, như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử
“biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, lại cũng như một người nghệ sĩ chuyên
nghiệp nắm rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go của mà ông đã theo đuổi gần hết
đời người. Trong cuộc chiến không cân sức, giữa người lái đò lẻ loi, cùng con sông
Đà hung bạo, nguy hiểm, ông lái đò như một người hùng cưỡi chiến mã, tay vung
gươm vượt qua kẻ địch, như chiến thần Triệu Vân của Tam Quốc, đơn thương độc mã
phá vòng vây quân thù, chỉ khác mỗi điều mặt trận của ông là mênh mông sóng nước.
Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt ghềnh ấy, đòi hỏi người chiến sĩ phải cực
kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường, giảo hoạt của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
con sông, bởi chỉ sơ sẩy một chút thôi thì đến mạng cũng chẳng còn, nói gì đến
chuyện làm một người nghệ sĩ tài hoa trên con sông Đà nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã
đặt cho những khó khăn, cửa ải mà ông lái đò phải vượt qua một cái tên rất “nhà binh”
và cũng đầy tính nghệ thuật là “trùng vi thạch trận”. Ông lái đò đã xuất sắc lần lượt
vượt qua những cửa ải hung hiểm ấy một cách điêu luyện, mặc dù có những lúc đã bị
thương, nhưng nỗi đau đớn ấy chẳng thấm vào đâu so với việc bị mất mạng. Bằng
kinh nghiệm dày dạn và lòng dũng cảm, một tinh thần vững chãi cùng lòng tự tin đã
“nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, cũng hiểu rõ phải chống trả, tránh né
làm sao để qua được ải đầu tiên, ông lái đò bước vào “trùng vi thạch trận thứ nhất”
đầy căng thẳng. Có những lúc trúng đòn hiểm, đau đớn đến “mặt méo bệch đi”, nhưng
ông làm sao dám buông lỏng, chỉ cố nhịn đau mà “kẹp chặt lấy cuống lái”, bình tĩnh
vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất, thế là qua được một ải. Không một phút nghỉ tay
nghỉ mắt, ở trùng vi thạch trận thứ hai ông lập tức thay đổi chiến thuật “đánh nhanh
thắng nhanh”, không cho con sông Đà có một cơ hội phải kích nào.
Vòng thứ hai này có phần hung hiểm hơn trước khi “tăng thêm nhiều cửa tử để lừa
con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn”. Thế nhưng cái bẫy đó
cũng chẳng qua nổi con mắt tinh tường của ông lái đò, bởi ông đã nắm chắc “quy luật
phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Ông ví lái đò qua khúc này như “cưỡi
hổ phải cưỡi tới cùng”, phải nắm đúng cái “bờm sóng” , rồi cứ thế “phóng nhanh vào
cửa sinh, lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ngặt thay lại có một bọn đá
định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, thì ông đò “vẫn nhớ mặt bọn này”, bọn thác
đá vẫn không ngừng khiêu khích, nhưng chúng chỉ như đang làm trò hề trước mặt ông
đò, bởi ông đã tự tin “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mà
mở đường tiến”. Thế là xong nốt ải thứ hai, nhanh và chuẩn xác. Nói nghe thì dễ đấy,
nhưng có mấy ai đủ bình tĩnh và tay chèo điêu luyện để nhằm trúng vào cửa sinh như
ông lái đò Lai Châu? Còn một ải cuối nữa, ải này “ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là
luồng chết, luồng sóng ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”,
mới nghe đã thấy khó khăn đủ bề, nhưng ông đò rất mạnh dạn “phóng thẳng thuyền,
chọc thủng giữa cửa đó” ,“thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Vậy là qua hết cả ba ải, mà ải nào cũng nguy hiểm vô cùng, con sông lại trở về với vẻ thanh bình, lặng lẽ.
Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go, gay cấn của ông lái đò Lai Châu, ta cứ cảm tưởng
mình vừa coi một bộ phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây, mà ông
lái đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người lao động anh hùng, hằng ngày chiến
đấu vật lộn với thiên nhiên trong nguy hiểm trùng trùng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp và
sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo. Đây là một cuộc
chiến không cân sức, nhưng bằng sự thông minh, gan dạ, kiên cường bất khuất, con
người lao động đã chế ngự, vượt lên trên cái sự khiêu khích, hằn học của thiên nhiên.
Hình tượng ông lái đò được tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sĩ anh
hùng, quả cảm, vừa là người nghệ sĩ tài ba đã viết nên một bản hùng ca tuyệt đẹp về
cuộc sống lao động, về nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà rộng lớn. Nguyễn Tuân
có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, có phần tương đồng với một số tác giả như
Nam Cao hay Nguyễn Huy Tưởng, ông cho rằng nghệ thuật không phải chỉ là những
người nghệ sĩ với những hình tượng thơ mộng, mơ hồ cao xa như mây-trăng, gió-núi,
mà người làm nghệ thuật còn là những người lao động, vốn đã nhuần nhuyễn, đạt đỉnh
cao điêu luyện trong chính nghề nghiệp của mình thì cũng là người làm nghệ thuật
chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là nghệ thuật trong lao động. Bởi trong những con
người ấy chất chứa cả một niềm đam mê sâu sắc, niềm tin yêu, luôn tìm cách sáng tạo,
đột phá, tạo ra những cung đường mới mẻ cho nghề nghiệp của mình.
Hình tượng người lái đò sông Đà được xây dựng rất thành công qua ngòi bút độc đáo
và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Trong hơi thở văn chương ấy, nhà văn đã khẳng định
được tài năng và sức mạnh cường đại của con người, cuộc chiến không cân sức giữa
con người lao động và thiên nhiên kỳ bí vốn có nhiều cam go, vất vả. Nhưng bằng sự
thông minh, sáng tạo, đức tính kiên cường, tỉ mỉ vốn ăn sâu vào máu của những người
lao động, họ đã chiến thắng một cách huy hoàng, vẻ vang nhất, trở thành người nghệ
sĩ tài ba trên chính mặt trận tìm kế sinh nhai của mình.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 19
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Mỗi khi nhắc đến những nhà văn viết tùy bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt
Nam chúng ta không thể không nhắc tới nhà văn Nguyễn Tuân. Vùng đất Tây Bắc với
những núi cao, thác ghềnh hiểm trở đã lôi cuốn ngòi bút của Nguyễn Tuân, để rồi năm
1960 ông xuất bản tập tùy bút Sông Đà trong đó có tùy bút Người lái đò sông Đà .
Hình tượng nghệ thuật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ông lái đò Lai Châu được nhà
văn tiếp cận tài hoa – nghệ sĩ.
Ông lái đò năm nay khoảng chừng bảy mươi tuổi , ông sinh ra và lớn lên ngay bên bờ
sông Đà “quê ông ở ngay chỗ ngã tư sông sát tỉnh”. Ông có một ngoại hình đặc biệt,
mang đậm dấu ấn nghề nghiệp : thân hình ông cao lớn “gọn quánh như chất sừng, chất
mun”, “tay dài lêu nghêu như cái sào”, “chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như gò lại
kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng” rồi “ giọng ông ào ào như tiếng nước thác”.
Mọi thứ của ông giờ đây như đã hòa nhịp với con sông lúc hung hãn lúc lại dịu êm
này , họ hòa vào nhau theo năm tháng , hòa vào nhau trong từng hơi thở nhịp nhàng,
ăn ý một cách đến lạ lùng.
Đối với ông lái đò thì sông Đà như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc
đến cả những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Ông “nhớ tỉ mỉ
như đóng đanh vào trong lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm
trở”, “nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, làm chủ được dòng sông. Đó là tư
thế và sự hiểu biết của con người làm chủ thiên nhiên , làm chủ hoàn cảnh. Ông hiểu
về con sông cặn kẽ như hiểu chính bản thân mình vậy , có hiểu ông mới ngự trị , mới
làm bạn được với nó . Thật đúng là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” giống như cách
mà nhà văn Nguyễn Tuân vẫn nói.
Nếu ai đó nghĩ rằng chở đò là một nghề dễ dàng chỉ cần đến sức khỏe thì chắc hẳn
người đó đã nhầm. Chở đò là một nghệ thuật đòi hỏi ở người lái đò sự thông minh,
khôn khéo, trí dũng, tài ba. Cuộc chiến giữa ông lái đò và sông Đà là một cuộc chiến
không cân sức . Bởi sông Đà có một lực lượng hùng hậu nào thì vách đá, nào thì
những cái hút nước xoay tít sâu hun hút và cả những hàng chông đá nằm ngầm dưới
lòng sông nữa. Ấy vậy mà ông lão chỉ có một mình “đơn phương độc mã” chiến đấu,
vũ khí duy nhất có trong tay là cán chèo . Để chiến đấu với một Sông Đà quỷ quyệt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
trong việc bày binh bố trận thì ông lái đò càng phải nắm chắc tay chèo, giữ vững tinh
thần và đặc biệt phải “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá” thì mới có thể thắng
được trong trận đấu sinh tử này.
Trận thủy chiến diễn ra căng thẳng đến nghẹt thở với ba “hiệp đấu”. Ở vòng vây thứ
nhất thác Sông Đà mở ra “năm của trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh”. Cửa sinh
nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện, phối hợp với đá, nước thác reo
hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hòn đá trông
nghiêng thì y như là đang hỏi cái thuyền “phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”.
Hòn đá khác thì lùi lại một chút và “thách thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào.
Không một chút nao núng, ông đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng
trận địa phóng thẳng vào mình. Nhìn thấy con thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la
vang dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”. Sóng nước thì như thể quân liều mạng, vào
sát nách mà “đá trái mà thúc gối” vào bụng và hông thuyền, có lúc chúng “đội cả
thuyền lên”. Nước bám lấy thuyền như đô vật “túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa
mình ra”. Ông đò đã bị thương, nhưng ông “cố nén vết thương”, hai chân vẫn “kẹp
chặt lấy cuống lái”. Cuộc chiến đã đến hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng, đánh
đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ
tiếng chỉ huy “ngắn gọn tỉnh táo” của người cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong cái
“trùng vi thạch trận” vòng thứ nhất của thác Sông Đà.
Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai của thác Sông
Đà. Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để đánh lừa con
thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm “lập lờ phía tả
ngạn”, thì ở vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Đó
chính là khó khăn, thách thức đối với người lái đò. Nhưng ông lái đò đã “thuộc quy
luật phục kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu rằng cưỡi lên thác Sông
Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng thứ hai đã
bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng
nước đúng mà “phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “lái miết một đường chéo” về phía cửa
đá ấy. Thấy con thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái liền “xô ra” định
níu con thuyền “lôi vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt. Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
mặt” bọn này, đứa thì ông tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “đè sấn lên mà
chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng
tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy, bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu
khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị thua
cái thuyền du kích nhỏ bé.
Vượt qua vòng thứ hai, ông lái đò còn phải vượt qua vòng thứ ba nữa. Ở vòng vây thứ
ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là “luồng chết” cả. Cái
“luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Ông lái đò đã hiểu
điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền của ông đò
“vút qua” cổng đá cánh mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng. Con thuyền của ông đò “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,
vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Vượt qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết
thác Sông Đà. Ông lái đò như một người chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh
nghiệm. Ông là một nghệ sĩ tài hoa với nghề vượt thác leo ghềnh.
Ông lái đò quả thật là một chiến tướng nhưng cũng là một tay lái tài hoa. Mỗi đường
chèo của ông đều là nghệ thuật làm đẹp cho đời và trong lao động. Sau chiến thắng
ông lái đò lại trở về với cuộc sống đời thường bình dị. Ông cùng với nhà đò “đốt lửa
trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh…, cũng
chả thấy ai bàn thêm lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ
quân tợn vừa rồi”. Bởi lẽ với họ những trận chiến như vừa rồi đã trở thành một phần
trong cuộc sống của họ, có gì mà phải bàn tán, phải suy ngẫm, tất cả đã trở thành máu
thịt , là sợi dây kết nối và gắn bó họ với nơi này.
Thông qua việc miêu tả trận thủy chiến tác giả Nguyễn Tuân đã cho người đọc thưởng
thức cái “thú chơi ngôn từ” độc và lạ của ông. Một loạt các động từ được sử dụng dày
đặc, kèm theo đó là hàng loạt các tính từ diễn tả cơn cuồng nộ của dòng Đà giang
cũng như tài trí của ông lái đò. Đó là một cuộc hỗn chiến giữa người và sông nước đến
nghẹt thở. Nguyễn tuân còn vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghề để soi chiếu đối
tượng, tạo cảm giác về một trận thuỷ chiến đầy kịch tính, đầy sôi động vfa không hề kém phần hấp dẫn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Để viết về dòng Đà giang và ông lái đò một cách cặn kẽ và chi tiết đến vậy thì không
phải ai cũng có thể viết được, phải yêu, phải hiểu và gắn bó lắm mới viết được kĩ đến
vậy. Điều này như một minh chứng chân thực cho sự hy sinh vì nghệ thuật của tác giả
Nguyễn Tuân. Ông đã dành cả cuộc đời mình để đi tìm cái đẹp, cái thật trong con
người và cuộc đời. Ông quan niệm rằng vẻ đẹp tài hoa của người nghệ sĩ không chỉ
thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà nó còn được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực
của đời sống con người. Khi con người đạt đến trình độ điêu luyện trong công việc
của mình thì khi đó vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ sẽ tỏa sáng.
Bài tùy bút của tác giả Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc
nhiên khác một cách tự nhiên đến lạ kỳ. Hình ảnh gợi ra xuyên suốt bài tùy bút là hình
ảnh ông lái đò gạo cội và dòng sông Đà giang hung hãn nhưng cũng đồng thời gửi vào
tâm trí độc giả một liên tưởng về một ông lái đò Nguyễn Tuân như một ông lái bậc
thầy, ông lái con thuyền ngôn từ trên một dải sông văn chương không kém những thác
ghềnh chông gai. Ông đã tạo nên một khúc khải hoàn ca về những con người lao động
chân chính trong thời kỳ mới.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 20
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc
sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của
ông là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa
hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15
bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây
dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây
Bắc trong kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn
Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các
dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân
còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng
mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”
Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc họa
những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình
ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi
chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất
nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó nhà văn ca
ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù,
dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.
Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm
đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa.
Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những
phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.
nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà,
trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy
hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã
hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một :
“Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc
thuyền nào xuất hiện ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường
ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông.
Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái
thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn...”
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận
địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám
lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị
chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn
cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng
sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi
thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm
chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái
đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng
thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy,
người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông
dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối
cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè
vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản
dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành
đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm
mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất
vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài
hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không
cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên
quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh
vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình
tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm
chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh,
thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những
khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải
nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận
mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của
ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào
cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí
nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm
lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ
những tiếng to như mìn bộc phá rồi tra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một
lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như
những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm
không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một
lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày
nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp,
đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ
thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài
hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ
mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của
người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước,
niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 21
Thiên nhiên và con người Việt Nam vốn tươi đẹp, thân thương và đáng yêu. Có rất
nhiều tác giả lấy thiên nhiên và con người làm chủ đề chính cho tác phẩm của mình.
Một trong số các tác giả thành công ở đề tài này không thể không nhắc đến Nguyễn
Tuân cùng tùy bút Người lái đò sông Đà. Với thể loại tùy bút đặc trưng, tác giả đã
khắc họa thành công hình tượng con sông Đà hung bạo, dữ tợn nhưng cũng rất thơ
mộng, trữ tình, bên cạnh đó là hình ảnh ông lái đò đại diện cho con người lao động nơi
đây đầy đáng kính, đáng yêu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch có rất nhiều tác phẩm thành công dù ở
bất cứ giai đoạn nào và gây ấn tượng sâu sắc với người đọc. Trước cách mạng tháng
Tám Năm 1945, phong cách sáng tác của ông được gói gọn trong một chữ "Ngông". Ở
giai đoạn này, do xã hội lúc bấy giờ chìm trong kiếp lầm than, nô lệ thối nát nên
Nguyễn Tuân đắm chìm trong những vẻ đẹp của quá khứ. Ông luôn sống với những
hoài niệm, những cái đẹp “vang bóng” của một thời đã xa để quên đi thực tại. Sau
cách mạng tháng Tám năm 1945, khi miền Bắc giành lại được độc lập và di lên xây
dựng CNXH thì phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân đã có nhiều chuyển biến quan
trọng. Các tác phẩm của ông giai đoạn này mang giá trị nghệ thuật cao, ông viết nhiều
về đề tài quê hương đất nước, nhân dân lao động trong chiến đấu, sản xuất. Ông tìm
tòi, khám phá vẻ đẹp của con người ngay trong chính cuộc sống đời thường, trong
những công việc bình dị nhất. Tâm hồn của tác giả hòa cùng thiên nhiên và sự phát
triển của đất nước tạo nên những tác phẩm tươi mới khác hẳn giai đoạn trước. Tùy bút
“Người lái đò sông Đà” ra đời ở giai đoạn này, là kết quả của chuyến đi thực tế của
nhà văn đến vùng núi Tây Bắc để tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa”. Vẻ đẹp
của Người lái đò không chỉ ở hình tượng con sông Đà hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng, trữ
tình mà còn ở hình ảnh người lái đò giản dị, tài hoa ở nơi đây.
Ông lái đò hiện ra là một người khoảng bảy mươi tuổi làm nghề lái đò đã nhiều năm
nay. Ông là đại diện cho những con người lao động bình dị, từng trải, có nhiều kinh
nghiệm lái đò, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán ở
nơi đây. Mỗi ngày làm việc như một trận chiến với đám thủy quái trên sông, ông phải
dùng hết công lực của mình để đối phó với bọn chúng mà không hề nao núng. Khi bọn
đá bày ra trùng vi thạch trận thứ nhất đầy hiểm nguy, người lái đò hai tay giữ mái
chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình; ông không hề nao núng
mà bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác.
Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy
cuống lái để vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất.
Sau khi phá xong vòng một, người lái đò không được nghỉ ngơi mà phá luôn trùng vi
thạch trận thứ hai, thứ ba. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá;
ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Trong cuộc chiến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường
lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy
nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu
nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Nguyễn Tuân vô cùng khéo léo và tài tình khi đã lột tả trọn vẹn một con sông Đà hùng
vĩ, dữ dội. Có thể nói chính sự hung dữ của con sông Đà càng làm tôn lên sự huy
hoàng và lòng dũng cảm của người lái đò. Từ đó, ta thấy rõ hơn vẻ đẹp của con người
nơi đây: họ có thể là những con người vô danh, những người lao động nhiều tuổi
nhưng vẫn đủ dẻo dai và mưu trí để chiến thắng thiên nhiên hung bạo. Và không chỉ
cuộc chiến này, những cuộc chiến khác họ cũng sẽ sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng.
Bên cạnh vẻ đẹp của sự dũng cảm, mưu trí, Nguyễn Tuân còn khắc họa người lái đò
trong cuộc sống đời thường vô cùng giản dị và mộc mạc. Sau khi vượt khúc sông
hung bạo bằng hết sức lực của mình, người lái đò trở về với cuộc sống thường nhật
của mình: “đốt lửa, nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những
cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy
ruộng” mà quên đi rằng mình vừa là những người anh hùng trong cuộc chiến đấu với
con sông Đà hung hăng. Họ cho rằng đây là cuộc sống của họ, chẳng có gì lớn lao,
đáng nhớ. Ở họ là sự khiêm tốn, mộc mạc, giản dị của những người nông dân cần cù,
chăm chỉ lao động kiến thiết nước nhà.
Dưới ngòi bút tài tình của Nguyễn Tuân, hình ảnh người lái đò hiện ra mang đầy đủ
phẩm chất tốt đẹp đại diện cho con người lao động Việt Nam: dù trải qua những cuộc
chiến khó khăn để giành sự sống nhưng khi vượt qua chúng họ lại coi đó là những
điều bình thường chẳng có gì đáng nhớ, đáng tự hào. Họ lại quay về với cuộc sống đời
thường giản dị và bình tâm, lại lo làm ăn sản xuất để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp
hơn. Chính sự đơn giản, không phô trương này lại càng ta thêm yêu quý và mến mộ họ hơn.
Qua những miêu tả, liên tưởng thú vị ta thêm ấn tượng với vẻ đẹp anh hùng của người
lái đò và hiểu hơn về cuộc sống cũng như vẻ đẹp của họ từ đó thêm trân quý cuộc
sống và những con người âm thầm cống hiến cho đất nước. Nhiều năm tháng qua đi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
nhưng bài tùy bút và hình ảnh ông lái đò vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp và
để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bao thế hệ độc giả.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 22
Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật những năm 58-60 khi miền
Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đến nơi đây để tìm cho
mình những nguồn cảm hứng mới. Như ta từng biết đến Tô Hoài với tập “truyện Tây
Bắc” mà nổi bật là truyện ngắn “Vợ Chồng A Phủ” còn Nguyễn Tuân lại thăng hoa
trên mảnh đất này với tập “Tùy bút Sông Đà” với linh hồn là bài kí “Người lái đò
Sông Đà”. Tùy bút cho người đọc thấy được sự hùng vĩ của thiên nhiên, khung cảnh
tuyệt vời của tổ quốc vùng Tây Bắc. Và giữa thiên nhiên bao la rộng lớn của núi rừng
ấy, nối bật lên là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa
con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà.
Nguyễn Tuân là nhà trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước
của nhà văn thường không được thể hiện một cách trực tiếp mà ẩn sau những bức
tranh thiên nhiên, những giá trị văn hóa cổ truyền. Nguyễn Tuân còn là người có cá
tính mạnh mẽ và phóng khoáng. Ông không thích những gì bằng phẳng, nhợt nhạt
cũng như không ưa mọi khuôn phép gò bó. Trái lại, nhà văn luôn có hứng thú với
những biểu hiện mạnh mẽ, phi thường của tạo vật và con người. Trước Cách mạng
tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân thâu tóm được trong một chữ
"ngông". Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ hiện tại và tương lai. Văn
Nguễn Tuân vừa đỉnh đạc cổ kính vừa trẻ trung hiện đại. Người lái đò sông Đà được
trích trong tùy bút Sông Đà, sáng tác trong một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc cũng là
cảm hứng chủ đạo của cả tập tùy bút là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và
nhất là chất vàng mười -chất vàng đã qua thử lửa ở tâm hồn những con người lao
động, chiến đấu trên vùng núi sông hùng vĩ và thơ mộng ấy.
Người lái đò có ngoại hình khá đặc biệt "thân hình cao to, gọn quánh như chất sừng
chất mun, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một
cuống lái trong tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi
như nhìn về một bến xa nào đó,…”. Ông lái đò hiện lên là một người giàu trải nghiệm,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
ông hiểu sông Đà như hiểu chính mình, nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả những
luồng nước của những con thác hiểm trở. Hai vẻ đẹp nổi bật của người lái đò chính là
vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài hoa hăng say trong lao động, là bậc thầy trong nghệ
thuật chèo đò ngày ngày viết nên những bản trường ca bất tận về công cuộc lao động
không ngừng nghỉ. Song còn được coi là một chiến binh dũng cảm trên chiến trường
sông nước, ngày ngày chiến đấu giành giật miếng cơm manh áo. Dù công việc vất vả
và nguy hiểm như thế nhưng ông vẫn luôn hăng say, vẫn đam mê công việc lao động,
đam mê mạo hiểm, thích được thử cảm giác mạnh. Bên cạnh đó, ông còn là người rất
dũng cảm, có tâm hồn tươi trẻ, sôi động, bản tính hiếu chiến, đam mê khám phá, chinh
phục gian nan thử thách, chẳng bao giờ lùi bước.
Bằng tài hoa uyên bác vốn có của mình, Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào
hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó lòng dũng cảm, mưu trí, gan dạ, nhanh nhẹn và cả sự
quyết đoán được bộc lộ. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò
trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là
cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận
đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một. Ở trùng vi
thạch trận thứ nhất, sông Đà bày ra "năm cửa trận" , có "bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa
sinh cửa tử lập lờ phía tả ngạn sông". Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đã trông
như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào
trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp "mặt nước hò vang dậy quanh mình, ùa
vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình...", "Nước bám lấy thuyền như đô
vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não
bạt". Nén chịu nỗi đau thể xác, người lái đò vẫn bình tĩnh, tỉnh táo chỉ huy cái thuyền
sáu bơi chèo lần lượt vượt qua trùng vi thạch trận, chiến thắng thác dữ bằng những
động tác điêu luyện, táo bạo và hết sức chuẩn xác "Dòng thác hùm beo đang hồng hộc
tế mạnh trên sông đá". Để làm nổi bật hình tượng và vẻ đẹp của người lái đò, nhà văn
đã sáng tạo một đoạn văn đầy không khí trận mạc, đã tưởng tượng ra cuộc chiến đấu
ác liệt giữa người lái đò với "bầy thủy quái sông Đà" nham hiểm và xảo quyệt.
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ hai "Tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi
chiếc thuyền". Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông
lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử "vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè
thất vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc! Như vậy người lái đò đã vượt qua
thác dữ đã có một chiến thắng thật ngoạn mục. Có được chiến thắng đó là nhờ sự dũng
cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống và thứ hai là
chiến thắng của tài trí con người, của sự hiểu biết và kinh nghiệm của những người đã
nhiều năm gắn bó với nghề sông nước.
Đến trùng vi thứ ba ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống
ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke
chìm vào pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng
đến một trận bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải "phóng thẳng, chọc
thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên
tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được", tiến
về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái
đò tài ba với "tay lái ra hoa". Từ cuộc chiến đấu ác liệt với thác dữ sông Đà, từ sự bình
dị của những người lái đò sau chiến thắng, có thể thấy Nguyễn Tuân đã khẳng định
ngợi ca về vẽ đẹp của những người lao động bình thường, âm thầm giản dị nhưng đã
và đang làm nên những kì tích lớn lao trong cuộc chiến với thiên nhiên hung dữ.
Hình ảnh người lao động anh hùng, hằng ngày chiến đấu vật lộn với thiên nhiên trong
nguy hiểm trùng trùng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước
thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo. Đây là một cuộc chiến không cân sức, nhưng bằng
sự thông minh, gan dạ, kiên cường bất khuất, con người lao động đã chế ngự, vượt lên
trên cái sự khiêu khích, hằn học của thiên nhiên. Hình tượng ông lái đò được tác giả
xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sĩ anh hùng, quả cảm, vừa là người nghệ
sĩ tài ba đã viết nên một bản hùng ca tuyệt đẹp về cuộc sống lao động, về nghệ thuật
chèo lái trên con sông Đà rộng lớn. Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy
mới mẻ, ông cho rằng nghệ thuật không phải chỉ là những người nghệ sĩ với những
hình tượng thơ mộng, mơ hồ cao xa như mây-trăng, gió-núi, mà người làm nghệ thuật
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
còn là những người lao động, vốn đã nhuần nhuyễn, đạt đỉnh cao điêu luyện trong
chính nghề nghiệp của mình thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ
thuật ấy chính là nghệ thuật trong lao động.
Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa uyên bác luôn sát cánh, khám
phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ, miêu tả con người ở phương
diện tài hoa nghệ sĩ. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên
nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao
động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào
hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 23
Nguyễn Tuân, một tâm hồn yêu cái đẹp, một ngòi bút nhạy cảm, yêu thiên nhiên, đất
nước, con người. Sự nghiệp văn chương của ông vô cùng đồ sộ, để lại cho thế hệ sau
những tuyệt bút quý giá. Nhắc về thiên nhiên trong văn Nguyễn Tuân, người ta không
thể bỏ qua “Người lái đò Sông Đà” rút trong tập “tùy bút Sông Đà”. Tùy bút cho
người đọc thấy được sự hùng vĩ của thiên nhiên, khung cảnh tuyệt vời của tổ quốc
vùng Tây Bắc, và hơn cả là hình tượng con người chế ngự thiên nhiên qua hình tượng
người lái đò sông Đà, một vẻ đẹp lao động giản dị, một chiến binh trên sóng nước
Sông Đà và người nghệ sĩ lành nghề trong nghệ thuật vượt thác.
Hình ảnh người lái đò được nhà văn xây dựng qua công việc lao động thường nhật.
Đọc đoạn trích, người ta cảm phục cái tài vượt thác của nhân vật. Dường như, sự tài
hoa điêu luyện ấy đã lên đến bậc nghệ sĩ. Người lái đò gan dạ, thông minh, hiểu rõ
từng ngóc ngách, từng tảng đá trên thác sông Đà dữ dội. Dụng ý nghệ thuật của
Nguyễn Tuân khi miêu tả sự ác nghiệt của thác nước cũng là lời khẳng định sức mạnh
chế ngự, điều khiển thiên nhiên của con người và vẻ đẹp của người dân lao động
Ngay từ nhan đề, tác giả đã dành cho người lái đò một vị trí trung tâm, vị trí trọng
yếu. “Người lái đò Sông Đà” miêu tả con sông Đà kỳ vĩ, hung bạo một mặt ca ngợi vẻ
đẹp thiên nhiên Tây Bắc, mặt khác nhằm khẳng định hình ảnh con người làm chủ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
thiên nhiên. Tuy xuất hiện không nhiều, nhưng vị thế của nhân vật được thể hiện rất
rõ. Hình ảnh con người làm chủ sông nước, chinh phục thiên nhiên, một con người
nhỏ bé về hình thể nhưng vĩ đại trước thiên nhiên rộng lớn.
Nói về quan điểm của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng để hiểu được vì sao con
người trong “Người lái đò Sông Đà” lại đẹp đến thế. Trước Cách mạng, ông đi tìm cái
đẹp trong quá khứ, cái đẹp nổi loạn, phi thường. Ông tìm đến những bậc nho sĩ tài
hoa, những vị anh hùng hào kiệt vang bóng một thời. Sau cách mạng, cái đẹp Nguyễn
Tuân hướng tới là sự bình dị, được tìm thấy ở những con người rất đời, rất thường. Từ
bác lái đò, đến anh bộ đội, cô dân quân, những nhân vật không tên, bình dị mà cao
quý. Ở góc nhìn này, người lái đò Sông Đà là một con người đẹp, một nhân vật đẹp
với cuộc sống lao động bình dị, đời thường. Miêu tả hình ảnh người lái đò, tác giả tập
trung vào con người đấu tranh với thạch trận Sông Đà để làm nổi bật rõ những khía
cạnh của hình tượng này: Một vẻ đẹp của người lao động bình thường, một người anh
hùng trên sóng nước Sông Đà và một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh.
Người lái đò là một anh hùng sông nước. Cuộc chiến đấu giữa người lái đò với thạch
trận Sông Đà là một cuộc chiến gay go, quyết liệt và dữ dội. Đây không đơn thuần chỉ
là một cuộc vượt thác, đây giống như một trận chiến sinh tử. Ở đó có sự giằng co giữa
sự sống và cái chết. Chính Nguyễn Tuân từng nói, “Cưỡi lên thác Sông Đà là phải
cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Câu nói thể hiện sự quyết liệt, gay cấn và hiểm nguy,
giữa một bên là thạch trận Sông Đà, một bên là người lái đò. Thạch trận với đá hòn,
đá tảng, với luồng nước con sóng. Thạch trận Sông Đà “lúc nào cũng đòi ăn chết cái
thuyền” với người lái đò “tỏ rõ khí phách, bản lĩnh, dũng khí của người anh hùng”.
Trận chiến sinh tử, giằng co dữ dội. Không phải lúc nào người lái đò cũng thắng, đã
có những lúc tưởng như bị nuốt chửng trên thạch trận. Chiến thắng có được không hề
giản đơn. Trong cuộc chiến này, người lái đò trở thành người chỉ huy tài tình, bản
lĩnh, dũng khí gan dạ. Ông nắm chắc từng luồng nước, từng con sóng, binh pháp của
thần sông thần đá. Ông thuộc lòng từng cửa sinh, cửa tử, từng đá hòn đá tảng, từng cái
hút nước trên thạch trận. Thậm chí, ông còn hình dung ra bộ mặt dữ tợn của nước, đá,
sóng, gió, cảm nhận được thái độ giận dữ, tâm trạng cáu kỉnh của nó để rồi có những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
sách lược chiến thắng từng con thác, từng tảng đá. Ông chủ động tiến, lùi, sang trái,
sang phải để vượt thạch trận. Người ta gọi ông là người chỉ huy tài năng cũng bởi vậy.
Tinh thần dũng cảm, ý chí dũng mãnh của ông lái đò được thể hiện qua từng hành
động: “khi thì kẹp chặt lấy cuống lái, khi thì chủ động sải bơi chèo lên, khi cưỡi thác
vượt ghềnh, khi chặt đôi con sóng”. Trên thạch trận, có bao nhiêu trùng vi là bấy
nhiêu nguy hiểm mà người lái đò phải đối mặt. Nếu không có tinh thần dũng cảm, ý
chí dũng mãnh thì không thể nào làm được việc đó. Giữa thiên nhiên kì vĩ và hung
bạo , người lái đò thể hiện một tư thế làm chủ, hiên ngang chế ngự những con sóng
dữ. Hình ảnh người lái đò chính là hình ảnh một người anh hùng trên sông nước, một
người lao động chế ngự được thiên nhiên.
Viết về người lái đò, Nguyễn Tuân không ca ngợi trực tiếp nhân vật mà chỉ thông qua
những lời miêu tả và chiến thắng thạch trận cũng đủ giúp người đọc hình dung ra vẻ
đẹp, tài nghệ của ông. Trên trang viết của Nguyễn Tuân, người lái đò không chỉ được
chú trọng về phẩm chất anh hùng mà còn nhấn mạnh vẻ đẹp một người nghệ sĩ, một:
tay lái ra hoa”. Tài nghệ thuần thục, điêu luyện đã tăng tới mức kỹ xảo. Với tác giả,
vốn quan niệm “mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”, nghệ sĩ là một hình tượng
điển hình trong tư duy sáng tạo văn học của ông. Trong tác phẩm này, nhà văn miêu tả
công việc lái đò giống như một nghệ thuật:” Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh
khép, vút, vút… Cửa ngoài rồi cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Câu văn miêu tả rất
tinh tế. Phải có sự khéo léo, thuần thục trong nghề nghiệp thì người lái đò mới điều
khiển phương tiện của mình được như vậy. Người ta coi ông là nghệ sĩ trong nghệ
thuật vượt thác, con thuyền vượt sóng dữ, đá lớn để tô đậm thêm tài nghệ sĩ càng đọc
càng ca ngợi, tôn vinh của người lái đò.
Người lái đò không chỉ là anh hùng sông nước, một nghệ sĩ vượt thác mà còn là một
người lao động bình dị giữa đời thường, những con người đã cống hiến thầm lặng mà
cao cả. Những con người say mê với công việc, tình yêu với nghề nghiệp mà bất chấp
hiểm nguy, vất vả. Nguyễn Tuân không gọi nhân vật với cái tên cụ thể, chỉ đơn giản là
“ông lái đò”, tên gọi gắn liền với nghề nghiệp để khắc họa hình ảnh người lao động
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
bình dị giống bao người khác. Sau bao gian khổ, khốc liệt dữ dội, ông cũng chỉ muốn
trở về nhà, trở về với cuộc sống bình thường, thư thái và lạc quan. Tâm thế này không
phải ai cũng có được, nhất là những người trở về từ cõi chết. Một tâm hồn đẹp đẽ,
bình dị mà cao quý, linh thiêng.
Hình tượng nhân vật người lái đò hiện lên với ba khía cạnh nổi bật: người anh hùng
sống nước, người nghệ sĩ tài hoa và người lao động chân chất. Bằng cái tài miêu tả,
quan sát, cách lựa chọn góc nhìn trần thuật và đặc biệt là cách vận dụng ngôn từ đúng,
đắt và đẹp. Tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân là không thể chối cãi, nhưng để xây
dựng một hình tượng nhân vật kiệt xuất đến vậy phải cần cả cái tâm, cái tâm yêu quý, kính trọng con người.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 24
Cách mạng tháng Tám thành công không chỉ ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình đất
nước mà còn ảnh hưởng đến cả văn học. Con người bước vào thời đại mới bằng một
tâm thế mới. Con người trong thời đại mới bên cạnh kháng chiến chống ngoại xâm
còn mang trong mình thêm một trọng trách khác – xây dựng đất nước giàu mạnh. Từ
điều đó, hình tượng con người lao động xuất hiện ngày càng nhiều trong văn học.
Trong đó, không thể không nhắc đến hình tượng người lái đò trong tác phẩm “Người
lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân. Cùng phân tích hình tượng người lái đò sông Đà để
thấy vẻ đẹp của người lao động trong thời đại mới.
Nguyễn Tuân là một nhà văn có cá tính riêng, độc đáo trong văn đàn Việt Nam.
Nguyễn Tuân đem là vừa một tri thức giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc sâu sắc
vừa là một con người rất mực tài hoa uyên bác, quý nghề nghiệp của mình. Trong mỗi
sáng tác của Nguyễn Tuân, người đọc bắt gặp một giọng văn tài hoa pha chút “ngông”
rất riêng của Nguyễn Tuân.
Nếu trước đó, Nguyễn Tuân bất mãn trước cuộc sống hiện tại tìm quên về cái của quá
khứ – cái đẹp của “vang bóng một thời” nhưng khi cách mạng thành công đã xóa đi sự
bi quan đem đến một sự lạc quan tươi sáng cho ông. Nguyễn Tuân hăng hái, tích cực
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Hơi thở của thời đại mới cũng đã đi vào
tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Trong quá trình phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta thấy tác phẩm tiêu biểu
cho giai đoạn sáng tác sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập tùy bút sông Đà. Đây là
kết quả của chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958 đến 1960. Hình tượng người lái
đò sông Đà được tác giả kỳ công khắc họa bằng một giọng văn say mê, ngợi ca.
Đó là hình tượng con người gắn với cuộc sống lao động, nhưng con người ấy đã được
ông nhìn nhận dưới góc độ của một người nghệ sĩ. Ở nhân vật người lái đó, ta bắt gặp
sự hòa quyện giữa hai con người – một người nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật lái đò
vượt thác cùng một một con người bình dị trong cuộc sống hằng ngày. Khi phân tích
hình tượng người lái đò sông Đà, người đọc sẽ cảm nhận rất rõ điều này.
Khi phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta thấy nhà ông ở ngã tư sông sát tỉnh.
Ông làm công việc chở chè, chở cánh kiến đỏ, cánh kiến trắng, chở những sản vật từ
miền núi về miền xuôi. Ông làm nghề này đã được hơn mười năm dày dặn kinh
nghiệm. Ngoại hình của nhân vật người lái đò được tác giả khắc họa với những tố chất
đặc biệt phù hợp với người chèo đò. Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta
thấy rất rõ điều này.
Người lái đò được miêu tả với tay lêu nghêu như cây sào, giọng nói ào ào như tiếng
nước, “nhỡn giới vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương
mù”. Nhìn người lái đò không ai nghĩ ông đã ngoài ngũ tuần. Ông lái còn là một
người ưa thích mạo hiểm, phiêu lưu. Ông không thích chèo thuyền trên những khúc
sông êm vì “dễ dại tay dại chân buồn ngủ” mà thích chèo lái trên những khúc sông có
những thác nước đầy mạo hiểm, thử thách tài trí của bất kỳ người lái đò nào.
Đi nhiều lần thành thói quen khiến ông ghi nhớ một cách tỉ mỉ chính xác vị trí của
từng hòn đá, đặc điểm của từng khúc sông. Những luồng thác sông Đà như một bản
hùng ca vĩ đại của thiên nhiên còn ông lái đò đã thuộc đến từng dấu chấm câu, chấm
than trong khúc ca ấy. Có thể thấy, phân tích hình tượng người lái đò sông Đà giúp ta
cảm nhận rõ nét về con người lao động đầy nghệ thuật này.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Phân tích hình tượng người lái đò sông đà trong cái nhìn của Nguyễn Tuân trước hết
là một người nghệ sĩ tài hoa, dũng cảm trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh. Tài nghệ
ấy được đặc tả rõ nét trong cuộc thủy chiến căng thẳng giữa người lái đò và binh lính
thủy quái. Trước khi viết về cuộc chiến đấu căng thẳng giữa con người và dòng sông,
Nguyễn Tuân đã vẽ ra cho người đọc một bức tranh cụ thể sinh động về khung cảnh
thiên nhiên về sự dữ dội của dòng sông Đà.
Sự dữ dội ấy đến từ cảnh vật, tiếng nước réo và đến từ cả sự thay đổi vị trí của những
tảng đá trên dòng sông Đà. Đó là những quãng thác ghềnh dữ dội như quãng mặt
ghềnh Hát Loóng, quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Ầm ầm tiếng nước réo liên
thanh, tưởng chừng đó là âm thanh của “một ngàn con trâu mộng”.
Sông Đà đến với cuộc chiến bày một sự chuẩn bị kỹ lưỡng chu đáo với sự áp đảo về
lực lượng cũng như về thanh thế. Còn người lái đò vẫn tỏ ra điềm tĩnh. Phân tích hình
tượng người lái đò sông Đà ta thấy ông đến với cuộc chiến bằng tấm lòng dũng cảm,
bằng tài năng và cả trí nhớ tuyệt vời của mình “đã nắm chắc binh pháp của thần sông,
thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”.
Khi phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta thấy Nguyễn Tuân đã tạo ra nhiều
thử thách để nhân vật bộc lộ phẩm chất tài hoa của mình trong hành trình chèo đò
vượt thác. Sự tưởng tượng của Nguyễn Tuân đã vẽ ra cuộc vượt thác như một trận
thủy chiến giữa người lái đò – vị thuyền trưởng lão luyện với đội quân hùng hậu hung
hăng – đá, thác, nước sông Đà. Trận thủy chiến trải dài qua ba vòng vây thạch trận đầy căng thẳng, cam go.
Ở vòng vây đầu tiên, vòng vây này được tác giả miêu tả dài nhất. Ở vòng này, sông
Đà chủ động tấn công, hò reo để uy hiếp ông lái đò. Thác nước cùng đá dùng hết tất
cả những món đòn hiểm độc nhất để hạ gục ông lái ngay từ vòng đầu tiên. Chiến thuật
của con sông ở vòng này là bày ra ba tuyến trung, tiền, hậu phối hợp với thác nước.
Người lái đò phải đối mặt cùng “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá” với những
hòn đá hung hãn, ngỗ ngược đang mai phục từ ngàn năm nay chực chờ “nhổm cả dậy
để vồ lấy thuyền”. Đá bày thạch trận “ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
thuyền” với hàng tiền vệ “giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa” cho
tuyến hai “đánh khuýp quật vu hồi lại”, nếu thuyền thoát qua thì đã có tuyến ba gồm
bao nhiêu “boongke chìm và pháo đài nổi” quyết tâm “phải tiêu diệt tất cả thuyền
trưởng thủy thủ ở chân thác”.
Có những hòn đá được nhà văn miêu tả hệt như những tên tướng giặc kiêu căng hợm
hĩnh phối hợp cùng “nước thác reo hò” như một đội quân liều mạng đầy sát khí sẵn
sàng ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo” của người lái đò, mà “thúc gối vào bụng và hông
thuyền”, “đội cả thuyền lên”, nhằm vào chỗ hiểm tấn công liên tiếp với lối “đánh hồi
lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm”.
Cảnh tượng lúc bấy giờ cũng thật tráng lệ khi trong khoảnh khắc mặt sông “lòa sáng
lên như một của bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”. Nguyễn
Tuân đã vận dụng kiến thức liên ngành về điêu khắc, quân sự. Quá trình phân tích
hình tượng người lái đò sông Đà khiến ta nhận thấy tác giả đã dựng dậy tất cả những
tảng đá tướng ngủ yên hàng ngàn năm của sông Đà. Những hòn đá vô tri bỗng hóa
thành những tên tướng hung hãn. Thế trận lúc này nghiêng về phía thần sông.
Đối diện với hiểm nguy, người lái đò vẫn hết sức bình tĩnh, hiên ngang như một tướng
soái trước kẻ thù. Trước những đòn thù tàn độc của đối phương ông đã “cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, “giữ mái chèo khỏi bị hất lên” và trên
chiếc thuyền sáu bơi chèo, người ta vẫn nghe thấy “tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo
của người cầm lái” đang sẵn sàng đối mặt, chiến đấu và chiến thắng lũ giặc đá đông
đảo, đầy chủ động, hiểm ác ranh ma.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta thấy ông lái đò chiến thắng bằng bản
lĩnh, sự điềm đạm, nắm chặt chiến thuật, vượt qua nỗi đau về thể xác để chiến đấu hết
mình. Ông lái đò cũng chính là hình ảnh con người trong quá trình chinh phục tự
nhiên dù gặp nhiều khó khăn thách thức nhưng vẫn không ngừng nỗ lực trong bước
đường khám phá, chinh phục thiên nhiên.
Ở vòng vây thứ nhất, chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh của con sông bị phá vỡ.
Đến vòng vây thứ hai nó lập tức thay đổi chiến thuật, bố trí lại các cửa. Tại vòng vây
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
thứ hai, con sông đã mở ra bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh lại nằm “lặp lờ phía tả
ngạn sông” thì ở vòng vây thứ hai này, sông đà đã mở thêm nhiều cửa tử để đánh lừa
con thuyền và cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn” dữ dội hơn, đang chờ
đóng ông chính là “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” với “bốn
năm bọn thủy quân cửa ải lướt bên bờ trái liên xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn
cửa tử.” Sông Đà không còn phô trương thanh thế như ở vòng đầu và bắt đầu cẩn
trọng hơn với đối thủ của mình – một đối thủ cân tài cân sức. Nó không còn xem
thường ông lái đò nữa. Quãng sông khúc này cũng ngắn hơn.
Vòng vây này, tác giả mô tả thế trận của thần sông ngắn gọn hơn mà tập trung vào
khắc họa hình ảnh ông lái đò. Khi phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, người
đọc nhận ra khi vượt qua vòng một, ông không ngơi tay phút nào mà trực tiếp chiến
đấu tiếp vòng hai. Trước sự thay đổi cách đánh của sông Đà, ông lái đò cũng thay đổi chiến thuật.
Lúc này, ông lại là người nắm thế chủ động, chuyển từ phòng thủ sang tấn công. Chỉ
với đôi bàn tay linh hoạt, tài hoa của mình ông đã khéo léo điều khiển con thuyền
“bám chắc lấy nguồn nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một
đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ông lái đò lúc “cưỡi lên thác”, lúc “nắm chặt được cái
bờm sóng”, lúc thì “ghì cương lái”, lúc thì ông tránh mà “rào bơi chèo lên”, lúc thì “đè
sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng, ông đã chiến thắng cái lũ đá lúc
này đang “tiu nghiu cái mặt xanh lè” vì thất vọng.
Vòng vây thứ ba càng nguy hiểm hơn cả bởi vì “bên phải bên trái đều là luồng chết
cả”, cái luồng sống ở vòng vây này lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Đây
dường như là thế trận cuối cùng của con sông, con sông dồn hết tất cả mọi sức lực
bình sinh để chiến đấu. Nước, đá sông Đà dường như cũng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi
trước khí thế của ông lái đò dày dặn kinh nghiệm này.
Nhưng không vì thế nó chịu thua ngừng chiến đấu. Thác đá bày trận ít hơn nhưng
nguy hiểm hơn bởi sự xuất hiện của “bọn đá hậu vệ”. Bố trí lại các cửa sinh tử, các
tảng đá, con sông cũng tiếp tục lao mình vào cuộc chiến đấu với người lái đò. Con
sông như một vị tướng thực thụ chiến đấu hết mình trong cuộc chiến này. Có thể nói,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
phân tích hình tượng người lái đò sông Đà khiến ta cảm nhận rất rõ những hiểm nguy
và khó khăn mà ông lái đò phải đối mặt.
Ông lái đò dường như lúc này đã thấm mệt nhưng ông vẫn còn minh mẫn để chiến đấu
với con sông. Trước thế đòn hiểm độc cuối cùng của con sông, ông lái đò vẫn anh
dũng phóng thẳng thuyền, chọc thủng vào cửa giữa đó. Người lái đò rất linh hoạt điều
khiển “thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”, qua bao nhiêu cửa “thuyền như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”.
Ở vòng vây cuối cùng này, ông lái đò cũng đã mạnh mẽ, vững vàng và nhanh chóng
vượt qua. Nhịp điệu ở vòng này nhanh hơn, khẩn trương hơn dường như cả người lái
đò và con sông đều dốc toàn lực quyết một trận chiến phân thắng bại cuối cùng.
Nguyễn Tuân đã dùng nhiều từ tả tốc độ nhanh, uy lực mạnh của con thuyền. Từ đó,
gián tiếp ngợi ca sự tài hoa của người lái đò.
Khi phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, người đọc cũng thấy ngoài vẻ đẹp anh
hùng trong nghệ thuật chèo đò, ông lái đò ấy còn mang những nét đẹp bình dị trong
cuộc sống đời thường. Trước thác nước hung bạo, ông lái đò dũng cảm, táo bạo, liều
lĩnh, thế nhưng khi vượt qua thì tất cả đều trở thành bình thường “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”.
Tác giả miêu tả phong thái ung dung của người lái đò khi họ “đốt lửa trong hang đá,
nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh… cũng chả thấy ai bàn
thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua”. Cuộc sống của họ thường nhật phải
đối diện với thiên nhiên khốc liệt, “ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày
nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác” cho nên với họ tất cả đều “không
có gì là hồi hộp đáng nhớ”.
Công cuộc vượt thác khó khăn gian nan đầy thách thức và hồi hộp ấy khiến khiến
người đọc cũng phải thót tim và không khỏi ngưỡng mộ tài nghệ của người lái đò.
Nhưng ta thấy, trong những phút nghỉ ngơi khi trận đấu vừa kết thúc trong chiến thắng
huy hoàng đầy tự hào, ông lái đò không nhắc gì đến chiến công vẻ vang ấy. Họ chỉ
ngồi nói chuyện với nhau về cuộc sống. Một cuộc nói chuyện bình dị mà nếu chỉ nghe
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
cuộc nói chuyện ấy, người đọc không thể nào biết người lái đò này vừa trải qua một
cuộc chiến cam go đến dường nào.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà giúp ta hiểu được đó là con người bình dị
trong cuộc sống lao động thường ngày. Trước cách mạng tháng Tám, trong “vang
bóng một thời” Nguyễn Tuân hướng cái đẹp sự ngợi ca của những tài hoa đặc biệt phi
thường như Huấn Cao trong Chữ người tử tù, ông Bát Lê trong Chém treo ngành, cụ
Ấm trong Chén trà trong sương sớm. Đây đều là những con người tài hoa nhưng
người đọc chỉ có thể đứng từ xa mà cung kính ngưỡng mộ cái tài hoa, cái khí phách hiên ngang ấy.
Mỗi trang văn đều thấp thoáng một sự bất lực trước hiện tại. Sự thành công của cách
mạng tháng Tám đã đem đến một cảm hứng mới nhiệt thành hơn nồng hậu hơn trong
trang văn của Nguyễn Tuân. Tuy vẫn hướng ngòi bút của mình đến cái đẹp sự tài hoa
nhưng ông đã đi tìm kiếm vẻ đẹp trong cuộc sống lao động đời thường.
Người lái đò bên cạnh là một người nghệ sĩ tài hoa ông còn là một con người của đời
thường. Ông lái đò ấy có thể là bất kỳ người lái đò nào trên sông Đà, không tồn tại
độc nhất như Huấn Cao, Bát Lê, cụ Ấm. Người lái đò của Nguyễn Tuân mang đến cho
người đọc một cảm giác gần gũi chân thật. Đó là vẻ đẹp của con người hòa cùng vẻ
đẹp của cuộc sống lao động.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà qua trận thủy chiến, ta thấy Nguyễn Tuân
như một người thợ kim hoàn vừa khéo léo vừa tỉ mỉ lựa chọn từng ngôn từ. Nguyễn
Tuân đã nhìn nhận con người lao động đời thường trong cái nhìn đầy tính nghệ thuật.
Hình ảnh người lái đò được ông khắc họa chủ yếu qua hành động, ông không tập
trung vào miêu tả tâm trạng cũng như lời nói.
Điều đó phù hợp với sự căng thẳng cam go của trận thủy chiến. Ngôn từ mạnh được
sử dụng liên tiếp tạo ra nhịp điệu nhanh, mạnh cho câu văn nhưng khi miêu tả sự bình
dị của ông lái đò trong cuộc sống đời thường, ngôn ngữ như dãn ra, mềm mại và uyển chuyển.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Đoạn văn mang đậm dấu ấn phong cách của Nguyễn Tuân – mọi việc mọi vật và con
người đều nhìn nhận trong cảm hứng của người nghệ sĩ. Với ông nghệ sĩ mang một ý
nghĩa rộng lớn khái quát hơn. Không chỉ là những người hoạt động trong nghệ thuật
mà còn là người đạt đến tầm cao của một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống. Mà ông lái
đò là ví dụ điển hình. Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta thấy trước con
sông hung bạo, ông vẫn điềm tĩnh, thông minh, tài trí như một vị tướng giữa trận đồ
bát quái của con sông Đà hung bạo.
Bằng sự trải nghiệm tuyệt vời, chân thật cùng cảm xúc tinh tế, tác giả đã biến sông Đà
thành một tuyệt tác của thiên nhiên, còn ông lái đò là một người lao động tài hoa
nhưng không kém phần lãng mạn. Tác phẩm đã thể hiện rõ sự chuyển biến về cảm
hứng của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám. Tác phẩm này đã góp phần khẳng
định vị thế tài năng của Nguyễn Tuân trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Mẫu 25
Với "Sông Đà" Nguyễn Tuân đã đề thơ vào sông núi Tây Bắc. Và "Người lái đò Sông
Đà", một trong 15 bài tùy bút của kiệt tác "Sông Đà" ngào ngạt hương sắc như một
cành hoa lan giữa mùa xuân tươi đẹp. Hai hình tượng đầy chất thơ đồng hiện trong bài
tùy bút là hình tượng con sông Đà và hình ảnh người lái đò, đúng là "mười phân vẹn mười".
Từ "Vang bóng một thời" đến "Sông Đà", một hành trình 20 năm có lẻ, cụ Nguyễn đã
"xê dịch" để đi tìm thứ "vàng mười" còn tiềm ẩn trong lòng người đó đây. Và một
trong hàng triệu độc giả, ta càng cảm thấy sâu sắc hơn bao giờ hết "một trong những
nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là con người ở phương diện tài hoa nghệ
sĩ". Ấn tượng ấy càng rõ nét khi ta tiếp cận tùy bút "Người lái đò Sông Đà".
Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ
Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan "nguyện đem cái
quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý" (Hương Cuội).
Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái "một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Trong ấm trà pha ngon, cụ đã "nhận thấy có mùi và một vị triết lí" (Chén trà sương).
Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch
những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện "những cái hoài bão tung hoành của
một đời con người" (Chữ người tử tù)... Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bắc)
có "tay lái ra hoa". Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ông lái đò sông Đà hiện lên trong tầm vóc một người
lao động bình dị mà phi thường, tâm hồn và phong thái mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ.
Cũng như trăm nghìn người lái đò khác, ông lái đò sông Đà này có "tay lái ra hoa"đã
từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước".
Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi
sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững
từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá. Bước vào cái tuổi
70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá
cẩm thạch. Nước da ánh lẽn chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng. Cặp mắt
tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số thương tích trên
"chiến trường Sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ Huân chương lao động siêu hạng".
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng
dày dặn thủy chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh
thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt
cách ấy. Ớ trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết
thắng: "Thạch trận dàn bày vừa xong thì thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra.
Những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò làm thanh viện" liều
mạng xông vào "đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền". Ông đã bình tĩnh "hai
tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng". Lúc bị sóng thác đánh miếng đòn hiểm
độc "bóp chặt lấy hạ bộ" đau điếng, nhưng vị thuyền trưởng "hai chân vẫn kẹp chặt
lấy cuống lái", tiếng chỉ huy của ông vẫn "gọn ngắn tỉnh táo" đưa con thuyền thoát
hiểm. Thật là cao cường biết bao!
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Trùng vây thứ hai vô cùng hiểm trở, có nhiều cửa tử: "Dòng thác hùm beo đang hồng
hộc tế mạnh trên sông đá". Ông lái đò tấn công ngay "nắm chặt được bờm sóng" cho
con thuyền "phóng nhanh vào cửa sinh". Bọn tướng đá, đứa thì "ông tránh mà rảo bơi
chèo lên", đứa thì bị "ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến". Thằng đá
tướng thất bại thảm hại "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng".
Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là "luồng chết". Thần sông còn bố trí "bọn đá
hậu vệ" của con thác hòng "bắt chết" cái thuyền. Ông lái đò mưu trí "phóng thẳng con
thuyền", "chọc thủng" trùng vây rồi "vút qua cổng đá cánh mở cánh khép". Chiếc
thuyền như một mũi tên tre "vút, vút" xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác.
Sông nước lại thanh bình.
Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song
toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được
Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử
dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng.
Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Với niềm hào hứng bốc cao, cụ Nguyễn
đã tung vào cuộc đọ trí đua tài của ông lái đò với thần sông, thần đá nơi thác ghềnh Đà
Giang cả cái kho ngôn từ giàu có của mình, và vận dụng con mắt và kĩ thuật của nhiều
ngành nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là hội hoạ, điện ảnh, âm nhạc, và cả khoa học
quân sự, kiến thức võ thuật v.v... Câu văn co duỗi, dài ngắn, biến hóa... hấp dẫn lạ thường.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò còn được thể hiện trong những lúc ngừng chèo
nghỉ ngơi. Sau một ngày giao tranh dữ dội với thần sông, thần đá, ông lái đò cùng các
bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chèo, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc
chiến thắng vừa qua nơi "cửa ải nước tướng dữ quân tợn" vừa rồi. Rất ung dung và
thanh thản, ông lái đò vừa nướng ống cơm lam, vừa kể chuyện về cá anh vũ, về cá
dầm xanh, về những hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra
đầy tràn ruộng. Những câu chuyện rất đời thường nhưng phản ánh một đời sống tâm
hồn gắn liền với sông nước rất dung dị mà tài hoa, cần lao mà nghệ sĩ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò
Tùy bút "Người lái đò Sông Đà" đích thực là trang hoa, tờ hoa. Nguyên Tuân đã khám
phá ra bao vẻ đẹp kì thú trong thiên nhiên và con người, đã nhìn sự vật ở phương diện
văn hóa nghệ thuật, nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Mạch văn tự do
theo dòng cảm xúc lai láng. Ông lái đò trong bài tùy bút là một sáng tạo nghệ thuật
sáng bừng lên vẻ đẹp nhân vãn.
Trên cái mênh mang của "Dải sông Đà bọt nước lênh đênh", và giữa lớp lớp trùng vây
thạch trận "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuộn luồng gió gùn ghè", ta thấy ông
lái đò người Thái quắc thước và con thuyền 6 tay chèo đang dũng mãnh băng băng
lướt qua. Ông lái đò là một bài ca về lao động và sự sống. Hình ảnh ông đẹp quá; một
vẻ đẹp Tây Bắc như đang "đề thơ vào sông nước" Đà Giang