Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Sơ đồ tư duy + 21 mẫu) | Văn mẫu 12

TOP 21 bài phân tích Tây Tiến khổ 2 dưới đây các bạn lớp 12 có nhiều gợi ý tham khảo, nắm vững cách sử dụng từ ngữ và cấu trúc câu một cách sáng tạo. Từ đó học hỏi, trau dồi củng cố kỹ năng viết văn phân tích đoạn thơ hay. Hy vọng đây là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết giúp các em trong quá trình học và đặc biệt là kì thi THPT Quốc gia 2024 sắp tới.

 !"
Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến
- Khổ 2 Tây Tiến thể hiện một thế giới ng mạn trữ tình vùng Tây Bắc với
những kỉ niệm đẹp.
- Trích thơ:
#!$%&' ()*+$
,,,,,,
%-./ 0"$*$ *0#
II. Thân bài:
* Tổng
- Sơ lược về đoàn quân Tây Tiến
- Đôi nét về tác phẩm Tây Tiến
* Phân tích
- Hai câu thơ đầu:
"Doanh trại": nơi sống và làm việc của bộ đội, khô khan, nghiêm khắc
Động từ "bừng": ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ
"Hội đuốc hoa": mang màu sắc tình yêu (từ chữ Hán có nghĩa là hoa chúc) vừa
duyên dáng, vừa rạng rỡ
"Kìa em": Ngỡ ngàng, kinh ngạc, trìu mến
"Xiêm áo": Trang phục đẹp đẽ, xinh xắn
- Hai câu thơ sau:
 !"
"Khèn": nhạc cụ mang bản sắc riêng của Tây Bắc
"Man điệu": điệu nhạc, điệu múa mang âm hưởng Tây Bắc
"E ấp": sự ngại ngùng, thẹn thùng của các thiếu nữ dân tộc
"Xây hồn thơ": vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của tâm hồn người chiến sĩ
- Bốn câu thơ tiếp theo
Chiều sương": hình ảnh lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ
dội ở đầu bài
"Ấy": đại từ khiến hình ảnh buổi chiều sương trở nên đặc biệt
"Hồn lau": Tả dáng lau qua màn sương, đồng thời đem lại linh hồn cho cây cỏ
"Nẻo bến bờ": Nẻo- hướng đi, lối đi. Đi đâu cũng thấy mênh mông, bao la
Điệp ngữ: "Có thấy-có nhớ" thể hiện nỗi lưu luyến, nhớ nhung da diết
"Dáng người trên độc mộc": Dáng vẻ uyển chuyển, thướt tha với sự làm duyên
của cánh hoa đong đưa theo dòng nước lũ.
"Dòng nước lũ - hoa đong đưa": Hình ảnh tưởng chừng đối lập mà hài hòa nên
thơ
→ Bút pháp gợi mà không tả
* Hợp
Ngòi bút tài hoa, tinh tế nhưng không kém phần lãng mạn, trữ tình của Quang
Dũng
Tình cảm của tác giả dành cho thiên nhiên và con người Tây Bắc cùng với các
kỉ niệm đẹp.
III. Kết bài:
- Suy nghĩ, tình cảm của em Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến .
Dàn ý số 2
1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Quang Dũng cũng như bài thơ Tây Tiến.
 !"
- Đề cập khổ 2 trong bài thơ thể hiện tình cảm quân dân trong cuộc chiến tranh chống
Pháp cũng như vẻ đẹp của núi rừng sông nước miền Tây.
2. Thân bài
- Những nét chính về nhà thơ Quang Dũng và hoàn cảnh ra đời tác phẩm Tây Tiến.
- Cảm nhận đêm liên hoan sự hòa quyện tinh tế giữa người em Tây Tiến vẻ đẹp
của núi rừng.
- Tìm hiểu khung cảnh huyền ảo thơ mộng của vùng sông nước nơi đây.
3. Kết bài
- Khái quát ngắn gọn giá trị của bài thơ, đặc biệt vẻ đẹp của khổ 2 bài thơ.
- Bày tỏ suy nghĩ của bản thân khi cảm nhận và phân tích khổ 2 bài Tây Tiến.
Như vậy, chất thơ mộng, chất nhạc, chất họa đã hòa quyện tinh tế trong vẻ đẹp của
khung cảnh thiên nhiên con người miền Tây. thể thấy đoạn thơ đã bộc lộ nét
sự tài hoa trong ngòi bút của Quang Dũng cũng như tâm hồn nghệ thuật độc đáo của
nhà thơ.
Sơ đồ tư duy Tây Tiến khổ 2
 !"
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 1
Ra đời năm 1948, cùng với “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu,
“Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, bài thơ
“Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng đã tạo nên bộ “ngũ bất tử” trong thơ ca thời
kháng chiến chống Pháp. Nỗi nhớ về cảnh người nơi núi rừng Tây Bắc, nhớ về
những người đồng đội từng vào sinh ra tử đã trở thành mạch nguồn cảm hứng để
Quang Dũng cho ra đời thi phẩm Tây Tiến gây xúc động lòng người. Bài thơ tiếng
lòng thổn thức, chơi vơi mà Quang Dũng gửi lại mảnh đất miền Tây Bắc và đoàn quân
Tây Tiến. Men theo nỗi nhớ thương ấy, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên miền Tây rất
đỗi thơ mộng, con người miền Tây khỏe khoắn, kiên cường đã được khắc họa thật
đậm nét qua những vần thơ giàu sức gợi cảm:
1!$%&' ()*+$2
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6A
 !"
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0F,
Quang Dũng một người nghệ đa tài, ông thể viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn
nhạc, trong đó ông đặc biệt thành công trong lĩnh vực sáng tác thơ văn. Với hồn thơ
lãng mạn, phóng khoáng Quang Dũng đã mang đến cho thơ văn kháng chiến một màu
sắc mới mẻ, độc đáo, đặc biệt trong hình tượng người lính: vừa kiên cường dũng
cảm vừa hào hoa phong nhã. thể thấy những nét mới mẻ này qua bài thơ được
coi kiệt tác thơ văn của Quang Dũng Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác năm 1948
khi Quang Dũng chia tay với đồng đội, binh đoàn Tây Tiến để chuyển đến đơn vị
công tác mới. Qua bài thơ, Quang Dũng không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình cảm gắn
với những người đồng đội vùng đất Tây Bắc còn dựng lên đầy sống động chân
dung những người lính Tây Tiến vừa kiêu dũng, ngoan cường vừa tài hoa lãng mạn.
Tây Tiến một đơn vị bộ đội được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần
đông những chàng trai trẻ của đất thành, hào hoa, thanh lịch: “Những chàng trai
chưa trắng nợ anh hùng Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm” nên m hồn họ lãng
mạn, bay bổng, nhiều mộng cũng lắm mơ. Họ ra đi chiến đấu mang trong mình
tưởng cao cả: quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây
Tiến một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu Hòa Bình cho đến tận Thanh
Hóa, kéo sang cả Sầm Nưa của Lào. Đó vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc hiểm
trở của tổ quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt. Họ có nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của
tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pathết Lào đánh tiêu hao sinh lực địch. Cuộc sống
chiến đấu cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt.
Chính vì thế những người lính Tây Tiến hi sinhmũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm
đau, bệnh tật thì nhiều. Chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn Tây Tiến đã hi sinh gần
hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng Quang Dũng được chuyển sang một đơn vị khác
Tây Tiến sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi bên dòng sông Đáy hiền hòa
thuộc tỉnh Hà Đông cũ, kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn bó cùng đồng đội thân
 !"
yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. Tây Tiến được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da diết
Quang Dũng gửi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu. Bài thơ mới ra đời nó có
tên là “Nhớ Tây Tiến”. Nhưng có lẽ sau này Quang Dũng hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn
ngoại”, không nói nhớ nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng
chữ, từng nhịp thơ, đấy mới cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh
giản chỉ còn “Tây Tiến” nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm nguồn cảm
hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” xuất bản năm 1948.
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sự hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên
và con người. Cảnh trí miền Tây dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống
đậm chất Đường thi: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ
mộng, thi vị, ấm áp giàu sức cuốn hút.
Bốn câu đầu gợi nỗi nhớ cảnh đêm liên hoan rực rỡ, lung linh, chung vui với bản làng
xứ lạ:
1!$%&' ()*+$2
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6AF
Khung cảnh của đêm liên hoan lửa trại được nhà thơ gọi theo cách riêng của mình
hội đuốc hoa thật tưng bừng, náo nhiệt rộn rã. Không còn cái khúc khuỷu, thăm
thẳm của đèo cao, vực sâu, không còn cái oai linh gầm thét của rừng thiêng xứ lạ nữa.
Bừng lên bừng tỉnh, bừng sáng, tưng bừng. “Bừngn” vừa chỉ được ánh sáng phát
ra đột ngột, bất ngờ vừa gợi sự thú vị. Cả cảnh vật lòng người đều bừng sáng lên.
Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu.
Từ “bừng” làm sống dậy cả một đêm liên hoan văn nghệ, làm bừng sáng rộn ràng
cả đoạn thơ. Chính vì thế có thể coi nó là nhãn tự, là chữ có thần.
Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra giữa lòng núi rừng đại ngàn của miền Tây nên cần
phải lửa đuốc để soi sáng. Người đến xem những chàng lính trẻ cầm trên tay
đuốc những thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi đêm liên hoan văn nghệ diễn ra cũng
 !"
lúc ánh sáng của lửa đuốc bừng lên soi tỏ mặt người, ấm áp tình quân dân. Trong
con mắt thơ tài hoa của Quang Dũng đó đêm hội đuốc hoa, ngọt ngào, đắm say,
lãng mạn như đêm động phòng hoa trúc của lứa đôi trong tối tân hôn. Thật là cảm xúc
táo bạo khó phai mờ. Ánh sáng bừng lên cũng lúc những sắc màu lung linh tỏa
rạng của những xiêm áo thổ cẩm:
3456(7$8$ 9
Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu say đến cảm
phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản
sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc tôn vinh thêm vẻ đẹp của họ Quang Dũng
không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân
của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Và còn bừng lên cả âm thanh của tiếng
khèn “man điệu”: Khèn lên man điệu nàng e ấp. Những điệu nhạc truyền thống của
các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc du dương, bí ẩn hoang sơ như chốn núi rừng có sức
mạnh hút hồn các chàng lính trẻ.
Trong khoảnh khắc ngập tràn âm thanh ánh sáng ấy, tâm hồn người lính cũng rộn
rã, tưng bừng. Thán từ “kìa em” như lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ
ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ quen, quen lạ. Trên cái nền
không gian ấy “em” xuất hiện. “Em” xuất hiện lập tức trở thành trung tâm thu hút mọi
điểm nhìn. Nhân vật “em” đã những cách giải khác nhau. thể những gái
dân tộc miền núi rừng Tây Bắc, mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình, múa
những điệu Lâm Tơi, Lâm Vông để phục vụ cán bộ kháng chiến những anh chàng
lính trẻ. “Em” cũng có thể hiểu những trong các đoàn văn công về phục vụ văn
nghệ làm giàu thêm đời sống tinh thần của những người chiến sĩ. Sau bao chặng
đường hành quân chiến đấu vất vả gian lao giờ những phút nghỉ ngơi, thư giãn tinh
thần bỏ lại sau lưng bao mệt mỏi, nhọc nhằn của hiện thực cuộc sống. “em” cũng
thể chính những anh chàng lính trẻ. Trong nhật trung đoàn ghi lại: Trong
đoàn quân, những chàng lính trẻ, dáng người mảnh mai, nhỏ nhắn, giả trang làm
con gái, khi lên sân khấu diễn cũng tình tứ, duyên dáng như ai bởi sự e ấp, thẹn thùng.
 !"
Câu thơ cuối ngời sáng tưởng người bộ đội Cụ Hồ. Người đọc cứ tưởng rằng, trước
sắc màu lung linh của những bộ xiêm áo, trước điệu nhạc miên man, du dương trầm
bổng, trước những điệu múa yêu kiều, duyên dáng, tình tứ, uyển chuyển những chàng
trai Thành sẽ bị hút hồn vào đêm liên hoan văn nghệ. Đó cũng những phút giây
lắng lòng để nghỉ ngơi sau một chặng đường dài hành quân mệt mỏi. Nhưng không,
lẽ chúng ta đã lầm tưởng bởi trong giây phút thăng hoa với nghệ thuật, cảm xúc
cũng là lúc người lính sống đúng với khát khao cháy bỏng của mình:
=&>?(@6A
Tiếng nhạc phiêu bồng đưa tâm hồn người lính thoát khỏi thời gian không gian
hiện tại, chơi vơi sang tận thủ đô Viêng Chăn của Lào. Người đọc chắc hẳn đã đặt câu
hỏi sao? Thủ đô trung tâm đầu o của một quốc gia. Khi thủ đô còn bóng một
kẻ thù nào thì dân tộc đó chưa có độc lập. Và khi bóng giặc bị đẩy ra khỏi thủ đô cũng
là lúc nam bang, bốn cõi đã cất lên khúc ca khải hoàn. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra
tại Viêng Chăn của Lào ắt sẽ đêm liên hoan vui niềm vui trọn vẹn, niềm vui trong
chiến thắng. thể thấy, trong lúc mộng nhất, người lính Tây Tiến vẫn không
quên nhiệm vụ của mình. Vẫn cháy bỏng một khát khao quét sạch bóng quân thù ra
khỏi biên cương, bờ cõi. Đó là khát vọng của lí tưởng chân chính, đúng đắn.
Sau những vần thơ rực rỡ sắc màu, lung linh ánh sáng chan chứa niềm vui về đêm
liên hoan lửa trại thắm tình quân dân, Quang Dũng tiếp tục đưa người đọc về với cảnh
Sông nước miền Tây mênh mang, huyền ảo:
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0,
lẽ người đọc sẽ băn khoăn đặt lên một dấu hỏi: Người đi ai? Phải chăng đó
những chiến trong đoàn quân Tây Tiến trên đường trường hành quân đã đi qua
mảnh đất Châu Mộc của Hòa Bình. giờ đây khi ngồi nhớ về Tây Tiến, Quang
Dũng đã nhớ đến khoảnh khắc đầy p những kỉ niệm cùng đồng đội thân yêu, nhớ
 !"
từng khuôn mặt, từng bóng hình thân quen. Câu thơ xuất hiện một cụm từ chỉ thời
gian chiều sương ấy”. Không định vị cụ thể đó thời gian nào nhưng Quang Dũng
chắc còn nhớ như in đó một buổi hành quân trong chiều sương giăng mắc, bao
phủ mênh mang khắp núi rừng, sông suối. Một không gian bảng lảng khói sương như
trong cõi mộng cứ thế hiện ra.i thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí
bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng một
họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật
tài hoa.
Không gian tràn ngập một màu trắng mờ mờ, bàng bạc của làn khói sương hư ảo chốn
núi rừng Tây Bắc. Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông
nước, bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. Những cây lau không còn tri giác
ẩn chứa linh hồn. Phải một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa lãng mạn mới
cảm nhận được hồn lau đang giăng mắc, neo đậu bến bờ. Những bông lau nở trắng
khắp bờ sông, phất phơ trong làn gió nhẹ và sương khói lam chiều, nó không chỉ mang
hồn cốt của mảnh đất miền Tây còn thác anh linh của những người đã ngã
xuống vì tổ quốc thân yêu. Câu thơ này gợi người đọc nhớ tới câu thơ đầy ám ảnh của
Huyện Thanh Quan xưa khi nhớ về kinh đô Thăng Long cổ kính qua linh hồn cây
cỏ:
G+65 8"AH$
=?"*D I.0
Và nay Quang Dũng nhớ da diết núi rừng Tây Bắc qua hồn lau lay động bến bờ.
Dòng sông miền Tây hiện lên không hiền hòa êm dịu như những con sông nơi đồng
bằng cuộn xoáy càng dữ dội hơn khi mùa nước tràn về. Bên bờ sông
những bông hoa dại nở, khi nước tràn về, dâng cao làm ngập những đóa hoa rừng.
Dòng nước u hoa nên muốn kéo hoa đi cùng nhưng hoa yêu đất nên hoa vấn
vương lại. Kết quả bông hoa cứ đong đưa chao mình trên dòng nước lũ, dùng
dằng nửa ở, nửa đi nhưng vấn vương không nỡ nên clàm mình làm mẩy, làm duyên
 !"
làm dáng trên dòng sông. Tình cây- tình đất, bông hoa dòng nước đang cố giao hòa
giao cảm làm nên cái duyên đẹp của thiên nhiên, đất trời.
lẽ, hình ảnh trung tâm, điểm nhấn của bức tranh hình ảnh con người chèo
thuyền độc mộc trên dòng nước lũ. Con thuyền độc mộc một loại thuyền chỉ xuất
hiện trên những dòng sông thác dữ giữa núi rừng. không giống như thuyền thắt
đuôi én, thuyền nan những con sông vùng đồng bằng. Con thuyền được làm từ thân
một cây gỗ lớn, được đục khoét thân nên thuyền rất chắc chắn. Dáng người chèo
thuyền độc mộc xuất hiện uyển chuyển, tình tứ. Đó ai, người con gái hay con trai?
lẽ người đọc dễ dàng nhận ra dáng uyển chuyển ấy chỉ có thểnhững cô thiếu nữ
chèo thuyền đưa các chiến qua sông. Để rồi khi đã sang sông nhưng bao chàng còn
ngẩn ngơ, còn làm thơ, còn vấn vương mãi trong tim bóng hình uyển chuyển, mềm
mại ấy rồi bỗng nhiên trở thành một hình ảnh trong kỉ niệm ngọt ngào neo đậu
mãi trong tim những chàng trai trẻ.
Người đọc cảm nhận được sự hòa quyện giữa thiên nhiên con người lao động bình
dị. Hình ảnh thiên nhiên với những bông hoa đang làm duyên, m dáng, đong đưa
trên dòng nước thì con người cũng đang duyên dáng, uyển chuyển tựa tay lái nở
hoa trên dòng sông. Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của
gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả
như ngây ngất đắm say. đây cảnh như làm duyên với người. Duyên dáng đến độ
tình tứ cũng hết lời. Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh
người hòa quyện đồng điệu đến say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta
có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là
hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, lệ. Ai nói rằng Tây Bắc xứ rừng
thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc
ngấm vào hồn.
Có thể nói, thành công của đoạn thơ chính là sự hòa quyện giữa chất họa, chất nhạc và
chất thơ làm thành một. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài
hoa qua đoạn thơ này. Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” “hồn lau”,
 !"
“dáng người”, “hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một
“chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.
Tám câu thơ thật đẹp, thật đặc sắc. như một bức tranh thủy mặc với những nét
chấm phá tinh tế, mềm mại, sâu lắng. Từ đó, nhà thơ đưa người đọc vào thế giới của
cái đẹp, một thế giới của cõi đầy ánh sáng, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc cả
đạo. Tám câu thơ, hai khung cảnh nhưng chung một xúc cảm say đắm, mơ mộng. Phải
một tâm hồn thật tinh tế, nhạy cảm, Quang Dũng mới thể chắp bút viết nên
những vần thơ hay đến thế! Với những thành công về phương diện nội dung cũng như
nghệ thuật biểu hiện, “Tây Tiến” xứng đáng vị trí một trong những tác phẩm hay
nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp , đưa tên tuổi nhà thơ Quang Dũng sống mãi
cùng bạn đọc muôn thế hệ.
Phân tích đoạn 2 bài Tây Tiến - Mẫu 2
Với hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn i hoa, Quang Dũng đã cho ra đời tác phẩm
Tây Tiến năm 1948. một nghệ đa tài, bài thơ Tây Tiến được ông phát huy khả
năng hội họa, soạn nhạc, điện ảnh. thế bài thơ sức cuốn hút cùng mạnh
mẽ đối với người đọc. Phải chia tay binh đoàn Tây Tiến do nhiệm vụ công tác, Quang
Dũng nhớ lại những kỷ niệm về binh đoàn tại nơi dừng chân miền Tây đoạn thơ
thứ hai:
!$%&' ()*+$
JJJJ
%-./ 0"$*$ *0
Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào bảo vệ biên giới Việt Lào. Hoạt động cùng binh đoàn gần hai năm, cuối m
1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác; thế cảm xúc chủ đạo toàn bài thơ
nỗi nhớ da diết. Ông nhớ về chốn dừng chân tại miền Tây với những kỷ niệm ngọt
ngào thắm thiết ân tình. Tại “doanh trại” nơi đóng quân của binh đoàn đang diễn ra
hội đuốc hoa.
 !"
!$%&' ()*+$
Với động từ “bừng lên”, c giả nhấn mạnh ánh sáng đột ngột xuất hiện trong không
gian đêm hội. Đó ánh sáng của những ngọn đuốc bập bùng trong không khí rộn
ràng. Đó cũng thể ánh sáng diệu hân hoan trong ánh mắt, trong tâm hồn của
những người lính Tây Tiến; thứ ánh sáng rực rỡ, tình tứ, mang đầyu thương, ấm
áp tình dân quân.
3456(7$8$ 9
Như một tiếng reo vui ngỡ ngàng, trìu mến khi các gái vùng cao xuất hiện trong
trang phục truyền thống của dân tộc mình. Những gái ấy càng đẹp hơn khi tiếng
khèn, điệu múa được bắt đầu. Những điệu nhạc lạ của tiếng khèn man điệu uyển
chuyển hoặc lòng người đến lạ lùng. Họ hòa cùng không khí đêm hội thu hút
bởi vẻ đẹp nữ tính, thẹn thùng e ấp. Để rồi Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ, cùng
không khí âm nhạc, những điệu múa uyển chuyển, thứ ánh sáng diệu, những chàng
trai Nội thả hồn phiêu du hướng về Viên Chăn với niềm thương mến tinh thần
đầy trách nhiệm.
Cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến phút chia tay; buổi chia tay trên sông nước miền Tây
chiều ấy là kỷ niệm đầy luyến lưu. Ta thấy hiện ra không gian bảng lảng đầy khói
sương đặc trưng của miền Tây Bắc mang lại cảm giác buồn da diết.
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
Sử dụng phép điệp với cấu trúc câu hỏi tu từ “có thấy”, “có nhớ”, Quang Dũng như
luyến láy, khắc chạm vào lòng người nỗi nhớ về thiên nhiên (hồn lau) con người
(dáng người). Với biện pháp nhân hóa, cây lau được tạo bởi muôn hạt nhỏ li ti nên chỉ
chút gió nhẹ cũng làm bờ lau mềm mại cùng xao động. Lau che kín mọi lối đi: nẻo
bến bờ. Cái tinh khôi của lau, cái trắng mờ ảo của sương bồng bềnh khiến rừng núi,
sông nước miền Tây vừa hoang dại vừa hư ảo, nên thơ, pha chút yếu tố tâm linh. Hình
ảnh con người cũng không thể thiếu trong khung cảnh đầy thơ mộng này;
 !"
@D.7  09%(*))
Đó thể dáng những gái Thái, Mèo uyển chuyển mềm mại cầm lái đưa thuyền
chở các chiến vượt sông. Đó cũng thể hình ảnh những chiến rắn rỏi, kiêu
dũng vượt thác, vượt mọi hiểm nguy của địa hình. Quang Dũng sử dụng nghệ thuật
đảo ngữ phép đối lập trong câu thơ cuối của khổ hai như lời tạm biệt. Ông vẽ lên
một thiên nhiên dữ dội vùng thác nhưng trên đó lại những bông hoa nhẹ nhàng
“đong đưa” tình tứ quyến luyến như cái vẫy tay từ biệt gái sơn nữ miền Tây với
người lính chiến trường.
Ngòi bút của Quang Dũng không chỉ miêu tả mà còn gợi, cảnh vật như có hồn thiêng
của núi rừng, đậm màu sắc cổ tích giống như nét vẽ hư ảo trên bức tranh sông nước
miền Tây. Bức tranh ấy mang đậm dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tình tứ lãng
mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến gắn bó với mảnh đất nơi đây.
Bằng ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa,
Quang Dũng đã để lại dấu ấn đẹp về thơ ca kháng chiến mà thành công là sự hòa hợp
kì diệu giữa thiên nhiên và con người miền Tây ở khổ thơ thứ hai của bài thơ. Cái đẹp
mĩ lệ, thơ mộng đầy chất nhạc, chất họa, chất mơ mộng của từng nét vẽ. Nét bút của
Quang Dũng đã tạo nên một thế giới của cái đẹp, cái ân tình yêu thương, ấm áp giữa
quân và dân vùng Tây Bắc.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến hay nhất - Mẫu 3
Bài thơ này ông ng tác vào năm 1948 Phù Lưu Chanh. Tác giả lấy cảm hứng sau
sự kiện ông rời đơn vị cũ. nhớ đồng đội, nhớ những kỷ niệm vào sinh ra tử, nhớ
những chặng đường hành quân cùng nhau, Quang Dũng đã bất giác gửi gắm qua “Tây
Tiến”. Cảm xúc riêng của nhà thơ nhưng cũng chínhxúc cảm chung của một thế hệ
trẻ anh hùng:
Đoạn 2 đầy đủ như sau:
1!$%&' ()*+$2
3456(7$8$ 9,
 !"
3:(*; 5<2
=&>?(@6A,
= 09*@B)?C0 <2
@D<AE$9K
@D.7  09%(*))2
%-./ 0"$*$ *0K
Tây Tiến thực chất tên của đoàn quân Quang Dũng tham gia, được thành lập
năm 1947. Quân đoàn này nhiệm vụ chiến đấu vùng Tây Bắc với đa số thanh
niên tri thức ra đi từ Nội. Toàn bộ tác phẩm được thể hiện với bút pháp lãng mạn
kết hợp hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu sáng tạo, sinh động đã bộc lộ sự nhớ nhung da
diết của Quang Dũng về đồng đội, về sự lệ, hùng của núi rừng. Dường như, mọi
kết tinh của hồn thơ Quang Dũng đã được lắng đọng lại trong tám câu thơ phác họa
cảnh liên hoan ban đêm cùng gái bản nét mộng mơ, độc mộc trên những con sông
miền Tây. Quả thực, dấu ấn âm nhạc và hội họa được tác giả khắc họa nổi bật qua các
kỷ niệm đẹp và buổi phân li.
Đoạn 2 Tây Tiến, người đọc như đang được tham gia vào đêm liên hoan thấm đượm
tình quân và dân nơi sông nước miền Tây thơ mộng.
1!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*;2 5<
=&>?(@6AF
Bên cạnh những gian khổ nơi rừng thiêng nước độc, trong ức của nhà thơ Quang
Dũng còn có cả thứ ánh sáng hội hè của những đêm cùng nhân dân vui chơi liên hoan.
Nhà thơ khéo léo dùng “bừng lên” kết hợp với hình ảnh sinh động “đuốc hoa” đã
làm nổi bật lên không khí tưng bừng, sôi nổi của đêm lửa trại. Cả doanh trại khi ấy
bỗng bừng sáng lên, lấp lánh như ánh pháo hoa lúc hòa bình. Đó cũng lúc lời ca
tiếng hát của dân bản cũng như các chiến reo vàng hòa làm một. Câu hỏi cảm
thán “kìa em xiêm áo tự bao giờ” thốt lên bộc lộ sự bất ngỡ, ngạc nhiên đến vui sướng
của những chiến sĩ đoàn quân Tây Tiến.
 !"
Đã thật lâu lắm rồi, từ khi xa Nội chiến đấu, đoàn lính Tây Tiến mới lại thấy các
gái tươi trẻ. hôm nay các còn lộng lẫy xiêm y truyền thống mang hình bóng
của núi rừng nên các anh càng thích thú. Dường như, qua đây tác giả muốn khẳng
định, các gái Tây Bắc ấy chính trung tâm, linh hồn của đêm hội. Sự e thẹn,
mềm mại tình tứ, duyên dáng hiện rõ qua nét mặt, nụ cười và điệu múa của các cô.
Nhưng tất cả cái sự e ấp ấy lại hút hồn hút vía các chàng trai đến từ miền đồng bằng.
Không dừng lại đó, tác giả còn mang vào đêm hội tiếng khèn réo rắt, rạo rực, khiến
cảnh vật lẫn con người như bốc men say. Thiên nhiên, con người hòa quyện vào nhau
như muốn “xây hồn thơ” trong trẻo, lãng mạn. Không khí của đêm liên hoan còn ngây
ngất hơn bởi tiếng khèn rạo rực, réo rắt khiến cho cả con người, cảnh vật như bốc men
say, trở nên phong phú, sinh động như muốn “xây hồn thơ” lãng mạn. thể nói, 4
câu thơ như phần nào thể hiện sự tinh tế, hồn hoa. Đó cũng chính tâm hồn hào hoa,
tinh tế của nhà thơ Quang Dũng.
Nếu 4 câu thơ trước, tác giả vẽ nên bức tranh ban đêm miền núi rừng Tây Bắc sôi
động trong ánh lửa trại bập bùng thì 4 câu thơ sau lại đưa người đọc đến bức tranh về
dòng sông miền sơn cước. Bức tranh ấy gợi lên một xúc cảm thật mờ ảo, mênh mang:
1= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0,F
Khi phân tích đoạn 2 Tây Tiến này, các bạn không khó nhận ra ngòi bút của nhà thơ
không phải tả chi tiết chỉ gợi mở. Tác giả sử dụng một loạt những hình ảnh mờ ảo
như chiều sương ấy”, “hồn lau”, nẻo bến bờ”, hoa đong đưa” kết hợp với cách
hỏi cảm thán không cần lời đáp như thấy”, nhớ”…. Điều đó đã vẽ ra trước
mắt độc giả một khung cảnh miền Tây thật nên thơ ảo mộng. Những màn sương
của thiên nhiên đang giăng mắc khắp nẻo không gian, hai bến bờ mang dáng vẻ hoang
dại, lặng lẽ. Thế rồi, khi người chiến sĩ đang đắm mình trong cảnh đẹp đó thì trên sông
bỗng xuất hiện dáng người uyển chuyển, nhẹ nhàng của cô gái Thái. Cô gái đang chèo
thuyền độc mộc. Cảnh tượng ấy sao giống như những bông hoa của núi rừng đang làm
 !"
duyên làm dáng trên dòng nước. Con người cảnh vật hòa hợp vào nhau, tạo nên sự
thiêng liêng của tạo hóa, khiến núi rừng miền Tây đậm chất huyền thoại và cổ tích.
Qua những nét vẽ ảo của nhà thơ Quang Dũng, người độc cảm tưởng như đang
ngắm nhìn một bức tranh sở thủy hữu tình. Bảo quanh bức tranh cảnh núi rừng
trùng điệp, giữa bức tranh là cảnh sông nước đan xen với cảnh liên hoan tình quân dân
rộn ràng. Nếu không một tâm hồn lãng mạn, một trái tim nhạy cảm biết yêu
thương, một trí tuệ tài hoa, tinh tế, thì tác giả khó lòng tạo nên một tác phẩm đặc sắc
như vật. Ngôn từ của ông thể ghi dấu ấn trong lòng người đọc, bởi đó chính là cảm
xúc, là sự rung động thật sử của tác giả. Đó là tình cảm chân thật, xuất phát từ trái tim
trước vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây cũng như nỗi nhớ đồng đội. Đi chiến trận, cuộc
sống luôn treo đầu ngọn súng, việc tâm hồn được vui tươi, được có giây phút bình yên
thấm đượm tình người như thế thật đáng quý. lẽ mỗi giây phút như vậy đều
hiếm hoi nên nhà thơ mới xúc động đến thế, mới khéoo vẽ nên bức tranh bằng lời
như vậy!
Như vậy, tám câu thơ đoạn hai hoàn toàn không mang tới sự hy sinh chết chóc.
hoàn toàn bức tranh thiên nhiên con người miền Tây đầy kiều diễm xinh đẹp.
Chất họa, chất nhạc, sự mộng của hồn người hòa hợp vào nhau tạo nên một tác
phẩm thật hoàn hảo. Từng nét vẽ tranh bằng con chữ của nhà thơ thật uyển chuyển
độc đáo. Đó cũng chính là sự lãng mạn và tài hoa trong tâm hồn nhà thơ xứ Đoài này.
Phân tích Tây Tiến khổ 2 - Mẫu 4
Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng thể nói một trong những bài thơ
thành công nhất về đề tài người lính. Toàn bài đã in đậm dấu ấn tài hoa, ng mạn,
phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng m hồn ấy, nhà thơ đã khắc
họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang một vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất
bi tráng trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, tráng lệ. Bài thơ này
giống như miền ức của tác giả về binh đoàn Tây Tiến. Không chỉ những ngày
tháng gian khó với đèo cao, thác dữ, mưa rừng, thú dữ, sương mù, trong miền
ức của nhà thơ còn cả ánh sáng của những đêm liên hoan tưng bừng cảnh sắc
 !"
buổi chiều êm ả, mông lung nơi núi rừng Tây Bắc. Tất cả những điều đó đã được
Quang Dũng tái hiện thành công qua khổ thơ thứ hai của bài.
Bốn câu thơ đầu tiên như một ra thế giới khác biệt nơi miền Tây:
!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*;2 5<
=&>?(@6A
Hình ảnh “đuốc hoa” được hiểu cây nến thắp lên trong phòng tối đêm tân hôn,
nhưng trong câu thơ đầu, “đuốc hoa” ấy lại mang nghĩa ánh sáng của đêm liên
hoan. hiểu theo nét nghĩa nào, vẫn tạo ra không khí ấm cúng, gợi lên niềm vui,
niềm hạnh phúc của những chiến sĩ. Từ “bừng” đây vừa ánh sáng của đuốc hoa,
ánh sáng của lửa trại, vừa là màn cất giọng của những tiếng khen, tiếng hát, tiếng cười
nói rộn của mọi người. Từ “bừng” ấy ta đã từng bắt gặp trong thơ của Tố Hữu, khi
người thanh niên trẻ đã giác ngộ lí tưởng Đảng:
'<%$ -' L &
Điểm chung của s“bừng” của Quang Dũng Tố Hữu trước mang một màu u
tối, sau ánh ng ngập tràn. thể hình dung đêm hội Quang Dũng đang
kể lại trong bốn câu thơ này giống như một đám cưới tập thể. Từ “kìa em” câu thơ
thứ hai thể hiện được sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của những chàng lính Tây Tiến trước
vẻ đẹp của những gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy, kiêu sa cùng
dáng vẻ “e ấp” đậm chất thiếu nữ. Nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp tỏa sáng của cô gái
bằng cả niềm u, sự say đắm đến cảm phục từ vóc dáng cho đến trang phục. Chính
trang phục truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa của các thiếu nữ
Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Vẻ đẹp ấy đã khiến nhà thơ phải thán phục
đến ngạc nhiên. Hình ảnh “em” trở thành hạt nhân của cả bức tranh đêm hội với vẻ
đẹp xứ lạ phương xa. thể nói, bốn câu thơ đầu của khổ hai đã xua tan đi cảm giác
mỏi mệt, đẩy lùi những vất vả, gian khó của những người chiến sĩ. Thay vào đó
niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về Viên
 !"
Chăn xây hồn thơ. Từ đó, người đọc cảm nhận được rằng trong những phút giây
vui vẻ, những người chiến sĩ vẫn hướng về lí tưởng cách mạng cao cả.
Nếu bốn câu thơ trước khung cảnh đêm đuốc hoa, thì bốn câu thơ sau khung
cảnh thiên nhiên Tây Bắc trong buổi chiều sương:
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D<.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0
Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc được hiện ra theo chiều hướng nhẹ hóa. Cái dữ dội,
khốc liệt của thác dữ bị đẩy lùi đi, thay vào đó những hình ảnh nhẹ nhàng thơ
mộng. Hình ảnh “chiều sương” đã cho người đọc thấy được nét đặc trưng vốn có ở nơi
đây.“Chiều sương ấy” dường như một điều đó hồ, không thực, nhưng lại
gợi lên màu sắc bảng lảng, mờ ảo mang đậm nỗi buồn man mác. Đại từ “ấy” làm
nghĩa cho hình ảnh “chiều sương”, thật đặc biệt đến nỗi trở thành kỉ niệm khiến
lòng người bâng khuâng.
Đoạn thơ này mang đậm màu sắc của hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, kết hợp
với cái mờ ảo của sương khói đã tạo nên một miền cổ tích riêng biệt. Có lẽ, chất họa sĩ
của Quang Dũng đã ăn vào thơ đoạn này.Chỉ với một vài nét chấm phá, nhà thơ đã
làm cho cái hồn của cảnh vật con người được hiện lên một cách sinh động cuốn
hút. Hình ảnh cây lau trong câu thơ thứ ba dường như không còn chỉ cây lau tri
giác nữa, linh hồn của riêng mình “hồn lau”. “Hồn lau” gợi cảm giác
hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng, vừa có chút đó ma mị của bức tranh
thiên nhiên.
Giữa không gian thiên nhiên nên thơ của vùng núi rừng Tây Bắc, hình ảnh con người
hiện ra với vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường:
@D.7  09%(*))
 !"
Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da
diết, cháy bỏng khôn nguôi. Dáng người ấy thể hình ảnh uyển chuyển, mềm mại
của những gái bản địa đưa các chiến vượt sông, cũng thể hình ảnh của
những người lính Tây Tiến chèo chống con thuyền để vượt sông, vượt thác dữ tiến về
phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy để lại cho nhà thơ những n tượng khó phai
nhòa.
Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi cảm ở câu thơ cuối:
%-./ 0"$*$ *0
Cánh hoa rừng như đang quyến luyến con người, nó như bàn tay vẫy chào người lính,
tiễn họ vượt sông đi đánh giặc.Đoạn thơ đã để lại dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến
thành công nhất sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sthi và cảm hứng lãng
mạn, bên cạnh các yếu tố nghệ thuật.
thể nói, với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị đậm chất lãng mạn, hào hoa, Quang
Dũng đãi hiện lại khung cảnh, con người trong đêm liên hoani doanh trại cả
khung cảnh chiều sương nơi rừng núi Tây Bắc. Với từng nét vẽ mềm mại, uyển
chuyển, nhà thơ đã vẽ nên một thế giới của cái đẹp. Đây cũng đoạn thơ bộc lộ
nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong cả bài thơ.
Phân tích Tây Tiến khổ 2 - Mẫu 5
"Thơ làm cho tất cả những tốt đẹp trở thành bất tử". (Shefley) Quang Dũng đã
làm sống lại những đẹp đẽ nhất, những ức khó quên nhất trong cuộc đời người
lính. Đó không chỉ những giây phút hành quân nơi núi cao vực sâu dốc thẳm
còn là những khoảnh khắc bình yên. Đêm hội liên hoan tại một bản làng trên vùng núi
cao Tây Bắc là một hành trang tinh thần không thể thiếu trong cuộc đời người lính.
#!$%&' ()*+$#
Doanh trại không chỉ không gian của hiện thực còn không gian của tâm
tưởng, của hoài niệm nỗi nhớ. Nơi đó đang bừng lên bởi những ngọn lửa bập bùng
 !"
tác giả liên tưởng đến đuốc hoa. Những bông hoa lửa như thắp sáng cả cánh rừng
đại ngàn, đẩy lùi bóng tối, xua tan sự lạnh lẽo, làm bừng sáng cả không gian. Hai từ
"bừng lên" không chỉ bừng lên của ngọn đuốc còn "bừng lên" của kỉ niệm,
của hồi ức như một tiếng reo vui biết bao hồ hởi, say mê. Không còn những chặng
đường hành quân vất vả, cũng không còn những bước chân nhọc nhằn ra trận chỉ
còn lại không khí rộn ràng sôi nổi. Người lính như quên hết những mệt mỏi hiểm nguy
để đắm hồn mình vào đêm hội liên hoan ấy.
Hình ảnh trung tâm của đêm hội liên hoansự hiện diện của những thiếu nữ vùng
sơn cước:
#3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6A,#
Trong ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc lung linh kì ảo, trong tiếng khèn tiếng nhạc du
dương, những thiếu nữ vùng cao xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy, quyến rũ, e ấp,
duyên dáng tình tứ khiến những chàng lính không khỏi ngạc nhiên, ngỡ ngàng.
"Kìa em" là tiếng reo với bao bất ngờ vui sướng và có cả sự thán phục ngợi khen. Với
những bộ trang phục thật đẹp lạ mắt, với những vũ điệu đậm sắc màu dân tộc và cả
nét e ấp e thẹn, những gái sơn cước đã khiến bao chàng trai Tây Tiến như bị hút
hồn, ngây ngất.
Cảnh vật con người đểu như ngả nghiêng, say sưa trong tiếng khèn, tiếng nhạc,
trong những điệu ngọt ngào say đắm, vừa chút đó hoang dại ẩn hoặc
lòng người. Những âm thanh khốc liệt của súng đạn bị đẩy lùi chỉ còn những tâm hồn
lãng mạn, những "hồn thơ" hòa mình trong điệu nhảy điệu múa đến say lòng người.
Sau những hoài niệm về đêm lửa trại ấm áp tình quân dân những bâng khuâng xa
vắng trong nỗi nhớ miên man về cảnh sông nước và con người miền Tây Bắc.
#= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9#
 !"
Sông nước miền Tây hiện ra vào một buổi chiều sương tĩnh lặng. Không gian giăng
mắc một màn sương mênh mang, mờ ảo nhạt nhòa, tạo nên vẻ đẹp lãng mạn huyền
ảo. đây không phải sương lấp, sương che hay sương phủ sương giăng, ta
như cảm nhận được cái thực cái mộng của khí trời Tây Bắc bảng lảng sương khói
hiện ra như một miền cổ tích.
Hai bên bờ sông những dãy lau ngút ngàn gợi lên một không gian hoang tĩnh
lặng. Những bông lau chập chờn lay động như có hồn. Hồn của lau hay chính tâm hồn
của nhà thơ đã hóa thân vào cảnh vật trong những bông lau phất phơ, huyền ảo.
Khung cảnh sông nước hoang vắng man mác buồn chợt khiến ta nhớ đến dòng sông
Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân "dòng sông như chảy từ tiền cổ", "bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa."
Sông nước miền Tây không chỉ hiện lên đậm chất hiện thực còn rất đỗi thơ mộng
trữ tình. Vẻ đẹp của con người hòa quyện trong vẻ đẹp của thiên nhiên.
#@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0,#
Hình ảnh thiếu nữ Tây Bắc xuất hiện trên chiếc thuyền độc mộc với vẻ đẹp vừa mềm
mại uyển chuyển, duyên dáng lại vừa vững chãi đưa con thuyền xuôi dòng. Hình ảnh
người con gái trở thành trung tâm hội tụ linh hồn của bức tranh sông nước miền Tây.
Không phải ngẫu nhiên khi Quang Dũng đặt hình ảnh người thiếu nữ bên cạnh "hoa
đong đưa". "Đong đưa" chứ không phải "đung đưa". Nếu "đung đưa" chỉ sự
chuyển động vật thì "đong đưa" còn đem đến tâm trạng, linh hồn cho cảnh vật.
Những bông hoa rừng trở thành những sinh thểhồn. Hoa cũng như con người đang
soi mình trong gương nước chòng chành, cũng biết làm duyên làm dáng. Hóa ra con
người Tây Bắc, bóng dáng của người thiếu nữ trên chiếc thuyền độc mộc cũng đẹp
như những bông hoa rừng trong chiều sương mờ ảo.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 6
Quang Dũng vốn là lính của đơn vị Tây Tiến, một đơn vị có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào để giải phóng bảo vệ miền biên cương phía Tây Tổ quốc. Sau đó Quang
 !"
Dũng chuyển đơn vị công tác. Năm 1948, một lần ngồi làng Phù Lưu Chanh (một
địa danh thuộc tỉnh Đông), nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến, tác
giả cảm xúc viết lên i thơ tuyệt bút Tây Tiến. Tây Tiến không chỉ bài thơ hay
nổi tiếng của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung mà
còn một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người lính, vẻ đẹp lãng mạn
tinh thần bi tráng được thể hiện qua thiên nhiên Tây Bắc hình tượng người lính
hai nét đặc sắc trong cảm hứng bút pháp nghệ thuật của Tây Tiến. Đoạn thơ sau
viết về những kỉ niệm tình quân dân đầy thi vị và vẻ đẹp thơ mộng của sông nước Tây
Bắc bằng những nét vẽ tinh tế mềm mại:
!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6A
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0
Từ “bừng” trong câu thơ đầu tiên của đoạn thơ đã gợi cho ta cảm giác đột ngột. Đó
sự “bừng” sáng của hội đuốc hoa, của lửa trại hay sự tưng bừng rộn của tiếng khèn,
tiếng hát? “Đuốc hoa” vốn một từ cổ để chỉ cây nến đốt lên trong phòng cưới đêm
tân hôn “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng Mai xưa”. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm
vui liên hoan của người lính đã tạo nên một u sắc vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa
thiêng liêng vừa ấm áp tình keo sơn quân dân gắn bó.
Đây đoạn thơ bộc lộ rất nét tài hoa của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn
của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật
nơi xứ lạ. Vì thế, cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà lời thơ lại cho ta cảm giác đó là
cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. nhà thơ như đang nói với người nữ “Kìa em
xiêm áo tự bao giờ!” một giọng thơ thật trìu mến, thích thú, vui sướng! Vui sướng
đến ngạc nhiên ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e thẹn, vừa tình tứ (nàng e ấp) với bộ
 !"
xiêm y lộng lẫy trong một điệu mang đậm màu sắc xứ lạ (man điệu). Chỉ bằng 4
câu thơ Quang Dũng đã dựng được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc
đường nét, vừa đa dạng về âm thanh.
Nếu khung cảnh đêm liên hoan văn nghệ trong những câu thơ trên đem đến cho người
đọc không khí say ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gọi lên được cảm
giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng mờ ảo thật chứa chan thi vị. đây một lần
nữa càng khẳng định hơn nét tài hoa, lãng mạn, giấc mộng của người lính.
Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có “Núi sương giăng, đèo mây phủ” khi cảnh chiều về vốn
đã mờ ảo lại càng mờ o thêm khi lớp sương mờ bảng lảng choàng thêm một tấm
áo như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như hiện về trong kí ức của
tác giả làm cho giọng thơ của tác giả cất lên như lời tự hỏi “có nhớ? có thấy?” day dứt
càng gợi cảm giác bâng khuâng xa vắng, đầy lưu luyến. Con người tài hoa lãng
mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm:
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
Hình ảnh này chúng ta đã từng gặp trong thơ của Chế Lan Viên:
M*( $/ 5$>
 N%L D)4
O& %L PQR 9S
T+)*9R > D $%
UG( V
Hay những câu thơ viết về hồn lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng tờ
như thời tiền sử huyền thoại của thi sĩ kiêm họa sĩ Hoàng Hữu:
%09 >L 09- .+6
!5$W7CL%($
= 096<A D
%L *A0D
 !"
UX$%09 "V
Trong khung cảnh sông nước, chiều sương mang đậm màu sắc cổ kính huyền thoại ấy
hiện lên hình ảnh con thuyền độc mộc với cái dáng mềm mại của gái bông hoa
trôi theo dòng nước lũ:
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0
Câu nói của người xưa: “Thi trung hữu họa” thật đúng với trường hợp này. Ngòi bút
tinh tế của Quang Dũng chỉ phác hoạ một vài nét không chỉ gợi được cái “hồn”
của ngàn lau còn cả cái dáng rất tạo hình của gái lái đò người Mèo, người Thái,
cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ đong đưa” chứ không phải “đung đưa” của những
bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Hai từ “thấy” “nhớ” được
tác giả dùng trong hai câu thơ trên cũng khá tinh tế. Dường như cái hồn thiêng của
bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả còn cái dáng mềm mại thon thả của cô
lái đò cùng bông hoa rừng đong đưa lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu
cảnh đẹp non sông đất nước này. Không một tâm hồn nhạy cảm tài hoa thì không
thể bắt rất nhạy những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế.
Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá, tinh tế, mềm
mại, tài hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật. Hơn thế, đọc đoạn thơ này n,
người đọc có cảm giác đoạn thơ không chỉ được khắc, được phổo những nốt nhạc
tinh tế nhạc điều đó còn được cất n từ một tâm hồn say đắm với cảnh người
miền Tây Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cho nên rất khi Xuân Diệu nhận xét
“Đọc bài thơ Tây Tiến ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng”.
Đoạn thơ thể hiện bút pháp tài hoa của tác giả. Qua đó, người đọc thấy cảnh đêm liên
hoan văn nghệ, cái sông nước Tây Bắc mang vẻ đẹp hiện thực lãng mạn huyền ảo
với từng vần thơ vừa giàu chất nhạc vừa giàu chất họa. Đó cũng chính sự kết hợp
hài hòa tuyệt diệu giữa ba yếu tố: thơ, nhạc, họa trong thi phẩm của Quang Dũng.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 7
 !"
Tây Tiến bài hát của tình thương mến, khúc ca chiến trận của anh Vệ quốc quân
năm xưa, những anh hùng buổi đầu kháng chiến Áo vải chân không đi lùng giặc
đánh” (Nhớ Hồng Nguyên), những tráng ra trận với lời thề “Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh”.
Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, bên bờ sông
Đáy thương yêu: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc Sáo diều khuya khoắt thổi
đèn trăng’’ (Đôi mắt người Sơn Tây - 1949). Tây Tiến một đơn vị quân đội thành
lập vào năm 1947, hoạt động chiến đấu thượng nguồn sông Mã, miền Tây Hòa
Bình, Thanh Hóa sang sầm Nưa, trên dải biên cương Việt — Lào. Quang Dũng là một
đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, đồng đội anh nhiều người những chàng
trai Hà Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ Tây Tiến nói lên nỗi nhớ của tác giả
sau một thời gian xa rời đơn vị: “Sông xa rồi Tây Tiến ơi! - Nhớ về rừng núi nhớ
chơi vơi...”.
Bài thơ gồm bốn phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sông Mã, nhớ núi rừng miền
Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu vô cùng gian
khổ... Đoạn thơ trên đây gồm 16 câu thơ, là phần hai và phần ba của bài thơ ghi lại
những kỉ niệm đẹp một thời gian khổ, những hình ảnh đầy tự o về đồng đội thân
yêu.
phần đầu, sau hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng bỏ
quên đời”, người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ ấm áp, man mác, tình tứ, tài
hoa:
=-(D
B@R56-,
Bát cơm tỏa khói nặng tình quân dân, tỏa hương của thơm nếp xôi”, hương của núi
rừng, của Mai Châu.. và hương của tình thương mến.
Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở
thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, đã trở thành hành trang trong tâm hồn các
chiến binh Tây Tiến:
 !"
!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6A,
“Đuốc hoa” là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ được dùng trong
văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều). Quang Dũng
đã có một sự nhào nặn lại: hội đuốc hoa - đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại
đoàn binh Tây Tiến. “Bừng” chỉ ánh ng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên;
cũng còn nghĩa tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Sự xuất hiện
của “em", của “nắng” làm cho hội đuốc hoa i mãi ki niệm đẹp một thời chinh
chiến. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những gái Lào xinh đẹp,
duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn "man điệu”
đã "xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chữ “kìa” từ để trỏ, đứng đầu câu
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ” như một tiếng trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian
khổ, mọi thử thách, như đã bị đẩy lùi và tiêu tan.
Xa Tây Tiến mới bao ngày, thế nhà thơ “nhớ chơi vơi”, nhớ “hội đuốc hoa”,
nhớ “Châu Mộc chiều sương ấy". Hỏi “người đi” hay tự hỏi mình “có thấy” “có
nhớ”. Bao kỉ niệm sâu sắc và thơ mộng lại hiện lên và ùa về:
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0,
Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống
như một nốt nhất, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ
kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”,
nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời. “nhớ về rừng núi, nhớ chơi
vơi” thì mới nhớ “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. “Có thấy”... rồi lại “có nhớ”,
một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng “câu thơ trước gọi câu thơ sau” như những
kỉ niệm trở về... Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con thuyền
 !"
độc mộc “trôi dòng nước hoa đong đưa”. Hình ảnh “hoa đong đưa” một nét vẽ
lãng mạn gợi tả cái “dáng người trên độc mộc” trôi theo thời gian dòng hoài niệm.
Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp hồ, thấp thoáng, gần xa, ảo trên cái nền “chiều
sương ấy”. Cảnh người được thấy nhớ mang nhiều man mác, bâng khuâng. Bút
pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.
Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” “hồn lau”, “dáng người”,
“hoa đong đưa” tất cđược phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài
niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.
Hai đoạn thơ trên đây thể hiện cốt cách bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của
Quang Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì Tây
Tiến đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. Tây Tiến đã mang vẻ đẹp độc đáo của một
bài thơ viết về người lính - anh bộ đội Cụ Hồ những năm đầu kháng chiến chống
Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 8
Cả đoạn thơ bức tranh thiên nhiên diễm lệ sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên
con người. Cảnh trí miền Tây khổ thơ dường như được tạo hình theo thi pháp
truyền thống: "Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc". Một miền Tây thơ mộng thi vị
giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này được xem đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp
nghệ thuật của Quang Dũng.
!$%&' ()*+$
"Bừng lên" vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng
lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ
đầu. Hai cụm từ "bừng lên" "hội đuốc hoa" thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ
ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn.
"Bừng lên" vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.
 !"
"Hội đuốc hoa" đây cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những nh
rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung
linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc.
Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng,
tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy "em" xuất hiện. "Em" xuất
hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn.
3456(7$8$ 9
"Kìa em" lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang
tính phát hiện. Em lạ quen, quen lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ
của gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang
phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây
Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến
ngạc nhiên trước vẻ đẹp y. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ
phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.
3:(*; 5<,
Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến
vừa lạ vừa vẻ hoang dại mang tính khai đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính
cái lạ ấy làm đắm say m hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Nội hào hoa. Từ
"man điệu" Quang Dũng sử dụng đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được
chứng kiến những khúc hoang của văn hóa u Lạc. khúc ấy hòa với điệu
Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là "em" tiếp đến là
"nàng" rồi sau lại "em". Từ cách s dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng
tiên kiều diễm ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí say đến ngây ngất.
Chính trong không khí của âm nhạc, điệu ấy đã chắp cánh cho m hồn những
người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.
Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta dừng lại đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới
thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
 !"
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0,
Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của
khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một
miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc
hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật i hoa. Chỉ một vài nét chấm phá
vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước bến bờ
hoang dại như một bờ tiền sử. "Hồn lau" những cây lau không còn tri giác
linh hồn. Phải một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa lãng mạn mới cảm nhận
được hồn lau đang giăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho
người thơ xuất hiện:
@D.7  09%(*))
Câu thơ không tả gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của gái trên chiếc
thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất
đắm say trước cảnh và người, ở đây cảnh như làm duyên với người.
%-./ 0"$*$ *0
Duyên dáng đến độ tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên
với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng
mạn của Quang Dũng. Ta cảm nhận đây thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ
cõi nhạc. Thơ nhạc hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, lệ. Ai
nói rằng Tây Bắc xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình
lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
 !"
Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn
nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây
Bắc và yêu Tây Bắc.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 9
Thơ ca muôn đời nay luôn tiếng lòng của người nghệ sĩ, cây đàn muôn điệu đa
bậc nhiều cung cảm xúc khác nhau. Thơ ca cũng cầu nối giữa trái tim đến với trái
tim, đi tìm chân trời của một người đến chân trời của triệu người. i thơ "Tây Tiến”
của Quang Dũng cũng đã thực sự trở thành tiếng nói tri âm của độc giả. Đọc đoạn 2
của bài thơ ta ấn tượng sâu sắc về những kỉ niệm nỗi nhớ qua đó tác giả thể hiện
sinh động vẻ đẹp lãng mạn hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến.
Bốn câu thơ đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của chiến
Tây Tiến về một đêm lửa trại:
1!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?>(6AF
Câu thơ đầu tựa như một tiếng reo vui. Đây lần thứ hai, "lửa” "đuốc” được liên
tưởng tới hoa trong đêm sương Mường Lát, chiến Tây Tiến nhìn đuốc soi đường
lung linh, huyền ảo mà thấy như "hoa về trong đêm hơi” thì lần này trong đêm lửa trại
giữa bản làng miền Tây . Nghệ thuật ẩn dụ cảm hứng lãng mạn đã khiến ánh lửa
bập bùngi bóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ gợi liên tưởng thi vị, tình tứ, đem
đến niềm vui náo nức, rạo rực cho lòng người, niềm vui khiến đêm liên hoan giữa bộ
đội dân làng trở thành đêm hội tưng bừng. Cụm từ "bừng lên” như một nốt nhấn
tươi sáng cho cả câu thơ, không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng chói lóa, đột
ngột của lửa, của đuốc, xua đi cái tối tăm, lạnh lẽo của núi rừng mà còn thể hiện niềm
vui sướng rạo rực trong lòng người. Người đọc thể hình dung những ánh mắt ngỡ
ngàng, những gương mặt bừng sáng của những anh chiến do phản chiếu của ánh
 !"
lửa, ấm lòng chiến sĩ, ngọn lửa của niềm vui, trẻ trung, lạc quan, tin tưởng vào tương
lai.
Hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa các thiếu nữ miền sơn cước "Kìa em xiêm
áo tự bao giờ”. Từ "kìa” từ nghi vấn "tự bao giờ” bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng
thú vị, với ngưỡng mộ trìu mến của các chiến trước sự xuất hiện của các gái
miền Tây. Đó cảm giác rất chân thực trong một dịp hiếm hoi sau bao ngày hành
quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mưa rừng thú dữ,…
"Man điệu” thể hiểu những điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng thể
hiểu giai điệu say đắm, ngọt ngào vừa hoang sơ, vừa ẩn, vừa mới mẻ lạ lủng làm
hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa, nghệ đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp,
người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng cảm nhận những hình ảnh rực rỡ,
những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu, bay bổng
trong thế giới mộng mơ, để xây "hồn thơ”.
Trong dòng chảy miên viễn của thời gian, những hoài niệm bỗng lắng lại thật sâu
một buổi chiều sương mộc:
1= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0F
Những nét vẽ mềm mại, tinh tế đã tạo nên một bức tranh thuỷ mặc với hồn lau bến
nách, hơi sương giăng mờ mờ ảo ảo cùng con người trên chiếc thuyền độc mộc
cánh hoa trôi trong dòng nước lũ. "Chiều sương” gói trọn không gian phủ một lớp u
buồn phảng phất lên cảnh vật. Chữ "ấy” bắt vần với chữ "thấy”m cho âm điệu câu
thơ trĩu nặng xuống như một nốt nhấn, như một sự nhắc nhở trong hoài niệm những
bâng khuâng. Chịu stác động của nỗi nhớ, những bông hoa lau chập chờn, lay động
trên những bến bờ dường như cũng hồn hơn. Nếu từ láy "đung đưa” gợi hình hơn
biểu cảm chủ yếu gợi tả những cánh hoa rập rờn đôi bờ sông thì hình ảnh "hoa
đong đưa” không dừng lại nét nghĩa cụ thể ấy còn đưa đến những liên tưởng thi
 !"
vị về dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của sơn nữ miền Tây, đó một sáng tạo mới mẻ về
ngôn từ thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ "Quang Dũng.
Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến đã được Quang Dũng thổi hồn vào cái nồng nàn
của cảm xúc, những đường nét ấn tượng về hội hoạ thanh âm trong trẻo của nhạc
tính. Bức tranh ấy chính nền tuyệt đẹp để người lính Tây Tiến xuất hiện một cách
hiên ngang hùng dũng. Cũng trên cái nền ấy tâm hồn tài năng của nhà thơ đã
được chắp cánh bởi sự say mê trong cảm xúc và tài hoa của nghệ thuật.
Gấp trang sách lại những vần thơ của Quang Dũng vẫn văng vẳng để rồi những
cảm xúc chân thật nhất của nhà thơ gửi gắm mãi neo động trong tâm hồn con người
trở thành một nỗi niềm chung
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 10
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân
gian khổ của đoàn quân Tây Tiến khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ
dội, hoang sơ. Đoạn 2 những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên
hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính
Tây Tiến. Đoạn 4 lời thề gắn với Tây Tiến miền Tây. Toàn i thơ in đậm
dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm
hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ
đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng
vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Trong miền ức của Quang Dũng không chỉ có những ngày tháng gian khổ với đèo
cao, mưa rừng, thú dữ, sương phủ còn có cả ánh sáng hội của những đêm liên
hoan tưng bừng và những buổi chiều êm ả, mông lung.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây:
1!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
 !"
3:(*;2 5<
=&>?(@6AF
Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến đồng bào địa
phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực cũng rất thơ mộng.
Từ “bừng lên” kết hợp với hình ảnh đẹp đuốc hoa” miêu tả không khí sôi nổi, cả
doanh trại bừng sáng, lung linh ánh lửa đuốc khi đêm văn nghệ bắt đầu. Tiếng reo “kìa
em xiêm áo tự bao giờ” thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê, vui sướng của các
anh lính Tây Tiến trước vẻ lộng lẫy bất ngờ của các cô gái nơi núi rừng. Các gái
chính trung tâm, linh hồn của đêm hội vẻ đẹp e thẹn, tình tứ, mềm mại, duyên
dáng trong một điệu đậm màu sắc xứ lạ man điệu” đã thu hút hồn vía của các
chàng trai Tây Tiến. Không khí của đêm liên hoan còn ngây ngất hơn bởi tiếng khèn
rạo rực, réo rắt khiến cho cả con người, cảnh vật như bốc men say, trở nên phong phú,
sinh động như muốn xây hồn thơ” lãng mạn. Đây cũng chính tâm hồn hào hoa,
tinh tế của Quang Dũng.
Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí háo hức thì cảnh sông
nước miền Tây lại gợi lên cảm giác mênh mang, mờ ảo:
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0,
Ngòi bút của Quang Dũng không tả chỉ gợi. Những hình nh chiều sương ấy” ,
“hồn lau” , nẻo bến bờ” , hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi thấy” ,
nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong ức. Sương mờ giăng mắc khắp
không gian , bến bờ lặng lẽ hoang dại , trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại ,
uyển chuyển của gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong
đưa làm duyên trong dòng nước. Cảnh như hồn , sự thiêng liêng của núi rừng ,
đậm màu sắc cổ tích huyền thoại. Qua những nét vẽ ảo trên , ta như thấy trước
mắt mình một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm,
tinh tế, lãng mạn, tài hoa, cùng yêu mến, gắn với mảnh đất miền tây-tâm hồn
 !"
Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ
Tây Tiến trước cái đẹp.
Trong hai đoạn thơ sau, nhà thơ không miêu tả cảnh thiên nhiên nữa tập trung vào
khắc hoạ chân dung người lính tây tiến nỗi nhớ miền tây bằng những nét vẽ khoẻ
khoắn, mạnh bạo, gân guốc đạm chất bi tráng.
Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền tây với vẻ
đẹp lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mộng hoà quyện chặt chẽ
với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang
Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây đoạn thơ bộc lộ nhất sựi hoa,
lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 11
13P2N*<P
3*2*<Y DAF
Như Chế Lan Viên đã viết, lòng thương nhớ luôn dạt dào nơi trái tim khi ta đủ yêu, đủ
gắn bó. Nhà thơ Quang Dũng cũng từng gắn với Tây Bắc, từng “súng bên súng,
đầu sát bên đầu” với những người đồng đội và chính những yêu thương đã khơi nguồn
nỗi nhớ, thôi thúc ông viết n bài thơ Tây Tiến với những kỉ niệm đẹp hiện lên lung
linh qua khổ thơ thứ hai.
Đến khổ thơ thứ hai ức một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính
Tây Tiến. Kỉ niệm khó quên nhất có lẽ là những đêm liên hoan lửa trại:
1!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6AF
Đêm hội dường như thêm vui vẻ, ấm áp và quyến rũ, say lòng người khi có “em” đang
yểu điệu, thướt tha , e ấp, dịu dàng. Đoạn thơ vẽ lên bức tranh đêm hội đuốc hoa thật
 !"
vui vẻ ,ấm áp. Nếu Mai Châu hương vị cơm nếp thật hấp dẫn,...thì Châu Mộc
khoác lên vẻ mộc mạc mà đậm chất thơ:
1= 09*@B)?C0 <
@DAE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0F
Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó Châu Mộc với nét đẹp
hoang sơ của nó đã trở thành mảnh tình trong tâm hồn của bao người.
13P2N*<P
3*2*<Y DAF
U@G(V
Nỗi nhớ kéo dài để lòng người nặng những hoài niệm, nặng những chơi vơi. Hoa đong
đưa” hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay gái miền Tây Bắc xinh
đẹp trên dòng suối? Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang nhưng trong cái hoang
lại thật nên thơ lãng mạn của cảnh người . Bức tranh chiều sương Châu Mộc
đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu
sắc vừa cổ điển vừa hiện đại.
Nhà thơ Quang Dũng đã cùng thành công với tác phẩm Tây Tiến đặc biệt khi khắc
họa tượng đài những chiến binh hào hoa, dũng cảm, lãng mạn đã ghi dấu thật sâu
trong trái tim bạn đọc.
1M>;Z+Z
T$([F
U+X\V
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 12
 !"
Voltaire từng nói: Thơ âm nhạc của tâm hồn, nhất những tâm hồn cao cả, đa
cảm”, thơ ca phản ánh chân thực tâm tình cảm người nghệ sĩ. Bởi vậy, ta có dịp bắt
gặp tiếng lòng nhà thơ Quang Dũng gửi nỗi nhớ niềm thương gửi tới Tây Tiến trong
bài thơ cùng tên. Khổ thơ bốn kết tinh nỗi niềm và tài năng của nhà thơ:
1!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6AF
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp cam go, thơ văn trở thành khí tinh thần,
động viên ý chí chiến đấu, lòng yêu nước của nhân dân ta. Giữa những năm tháng ác
liệt đó, năm 1948, khi nhà thơ Quang Dũng được lệnh chuyển đơn vị căn cứ đến đơn
vị khác. Hình ảnh làng Phù Lưu Chanh- nơi đã gắn với cuộc đời người lính trở
thành nỗi ám ảnh trong hồn thơ tác giả. Nỗi nhớ về một thời đã sống với đoàn quân
Tây Tiến chắp cảm hứng bay bổng cho lời thơ tuôn trào.
Nỗi nhớ chảy tràn trong từng câu thơ, nhà thơ bâng khuâng buổi sinh hoạt ở doanh trại
lính giữa rừng núi Tây Bắc. Hình ảnh đêm liên hoan mở ra ngập tràn với ánh sáng hoa
lửa:
1!$%&' ()*+$F
Cụm từ đuốc hoa” không chỉ hình ảnh thực về ánh lửa đuốc còn gợi cái nhìn
lãng mạn của chàng trai trẻ tuổi, trẻ lòng, cảm nhận ánh lửa tươi sáng, rạng ngời, lung
linh. Vầng sáng gọi về không gian ấm áp, ảo huyền xua tan cái lạnh lẽo, âm u của nơi
rừng thiêng nước độc. Hình ảnh độc đáo cũng xa xôi gợi liên tưởng về lễ hợp cẩn lứa
đôi êm đềm. Chi tiết gợi tình quân dân nước nồng nàn, say đắm. Không khí nơi
doanh trại đông vui tựa đêm hội hoa đăng để những chàng trai, thiếu nữ sơn thôn mở
hội lòng. Kết hợp với động từ bừng” đậm ánh đuốc bừng sáng không gian, mang
lại niềm vui tươi mới, gọi dậy một miền kỉ niệm trong sâu thẳm tâm trí nhân vật trữ
tình.
 !"
Giữa đêm hội tưng bừng, náo nhiệt, hình ảnh mộng của bóng dáng những em
làm xao xuyến trái tim những chàng lính trẻ:
13456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6AF
Từ hán việt xiêm áo” khắc họa nét lộng lẫy, rực rỡ của y phục những gái vùng
cao, dưới ánh lửa càng trở nên kín đáo, tình tứ, dễ mến. Câu từ gần gũi như bước từ
trang đời vào trang thơ, làm sống động một trời ức. Người lính Tây Tiến xuất thân
những chàng trai mới dời ghế nhà trường, đến từ thành ngàn năm văn hiến. Nay
các anh đặt chân đếni rừng lạ núi xa, chứa đầy ẩn, làm sao tránh khỏi giây phút
ngỡ ngàng trước sắc đẹp bình dị của những sơn thôn nơi đây. Kìa em”lời thốt lên
tự nhiên, phản ánh cái nhìn mê đắm, hóm hỉnh, trẻ trung, đậm chất lính.
Giọng điệu nhẹ nhàng, sôi nổi, gợi hình ảnh người lính đắm say trong khung cảnh
đậm chất trữ tình, ngân vang tiếng khèn bay bổng trước điệu nhảy quyến rũ, gọi
mời trong đêm hoa đăng lộng lẫy. Đọc thơ Quang Dũng quả thực như ngậm nhạc, câu
thơ mang nhạc điệu hài hòa, lôi cuốn bạn đọc cùng đắm say. Những nét phong tục,
văn hóa vùng núi mới mẻ, cuốn hút trong cái nhìn của những anh lính. Hữu cảnh sinh
tình, không gian chất xúc tác biến người chiến sĩ thành người thi sĩ. Nàng thơ của
các anh cái đẹp duyên dáng của sơn nữ miền sơn cước, yêu kiều. Dừng chân trên
chặng đường hành quân gập ghềnh, cheo veo, những đêm hội đông vui thể hiện tinh
thần lạc quan, nét hòa hoa, yêu đời của họ.
Khổ thơ bốn giúp ta cái nhìn trọn vẹn hơn về tâm hồn người lính Tây Tiến. Họ
không chỉ mang hào hùng, bất khuất trước gian khó, nhà thơ khám phá những nét tâm
tư rất đời của các anh. Nơi đó, hiện lên trái tim rung động, xao xuyến trước vẻ đẹp của
thiên nhiên, em sơn thôn. Tây Tiến” trở về vẹn nguyên, sinh động bởi hình ảnh
đó luôn thường trực trong tâm trí nhà thơ Quang Dũng. Nét bút đa tài của tác giả cùng
nỗi nhớ chân thành còn lưu lại dư âm trong lòng bạn đọc.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 13
 !"
Quang Dũng nhà thơ chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc làm thơ thời kháng
chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây cũ), ông viết bài thơ “Tây
Tiến” nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời
trận mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao thiết tha bồi hồi:
1T- B]6%A[
=>?%' ^2>F,
Bài thơ 34 câu thơ thất ngôn, chia thành 4 đoạn, mỗi đoạn thơ sự hồi tưởng bao
kỉ niệm sâu sắc. Đây đoạn thơ thứ hai 8 câu mang vẻ đẹp như một bài hành nói
về 2 nỗi nhớ: nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Châu Mộc:
1!$%&' ()*+$
J
%-./ 0"$*$ *0F,
Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Quang Dũng
nhớ đến “hội đuốc hoa” thắm thiết tình quân dân:
1!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6AF,
Đuốc hoa cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. “Truyện Kiều” câu: “Đuốc
hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”(3096). Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc
hoa” để nói về đêm liên hoan lửa trại giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với
đồng bào các bản mường. Chữ “bừng” vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa
tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong
hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc múa sạp, múa xòe của các
gái Mường, gái Thái tham gia? Chữ “kìa” đại từ để trỏ một đối tượng (người,
vật) từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng
lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các “nàng” đến dự hội đuốc hoa trong bộ
xiêm áo xinh đẹp. Hình ảnh “nàng e ấp” một nét vẽ tài hoa hồn đã gợi tả vẻ
 !"
đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng
khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các “em”, các “nàng” như đã “xây
hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ chung, xinh đẹp,o hoa, đa tình; ngòi
bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng thấy đời sống
tinh thần cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian
khổ ác liệt.
Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi tưởng “trôi” về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc
tỉnh Sơn La, nơi nhữngi cỏ bát ngát mênh mông, nơi dãy núi Pha Luông cao
1880m, nơi bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến
với tâm hồn thi đã khám phá ra bao vẻ đẹp thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã
trôi qua, cảnh và người miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:
1= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0F,
“Chiều sương ấy” chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều
thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ ấy” câu trên bắt
vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ
hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. Hồn lau hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lau
kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông bờ suối. Với m hồn thi tài
hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh
sắc “chiều sương” “hồn lau nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ
điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến”
những câu cổ thi tuyệt bút:
1T0 *_^?0.)2
=0/ 5E$C+/CJF
U@` V
Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:
 !"
1= 09%$ L
XAR>?
XARCL*
= 6$67%L F,
UGRa@G(V
Điệp ngữ “có thấy” “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm
phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn “có
nhớ”. “Có nhớ” con thuyền độc mộc “dáng người” chèo thuyền độc mộc? “Có
nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa”trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” có phải là hoa rừng
“đong đưa” làm duyên trên dòng nước như giáo Phan Cự Đệ đã nói? Hay “Hoa
đong đưa” hình ảnh ẩn dụ gợi tả các gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc
duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang “đong đưa” trên sông suối.
Bài hát “Sơn nữ ca” của nhạc Trần Hoàn, “Nụ cười sơn cước” của nhạc Hải
cho ta cảm nhận ấy. Phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy.
Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắccon người nơi suối rừng miền Tây, nơi
cao nguyên Châu Mộc đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa
hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc cùng hoang vu, chốn rừng thiêng
liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan yêu đời của một khách
chinh phu thời đại mới đã cảm nhận phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của
cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm
hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng
đội mới kỉ niệm đẹp sâu sắc như vậy, mới thể viết nên những vần thơ sáng
giá như thế.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một
danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại
và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 14
 !"
Quang Dũng nghệ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành
công nhất vẫn thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến
nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”… Nhưng tên tuổi của Quang Dũng lẽ đã
gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô”
là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ giá trị nội dung nghệ thuật đặc sắc tiêu biểu đoạn thơ sau đây:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa… Trôi dòng nước hoa đong đưa”. Tây Tiến
một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên
trí thức Nội. Nhiệm vụ của họ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía
Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng
chuyển sang đơn vị khác.
Sau khi rời đơn vị chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn
thơ ta bình giảng đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến. Bốn câu đầu, nhà thơ mang
đến cho người đọc không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.
#!$%&' ()*+$,
3456(7$8$ 9,
3:(*; 5<,
=&>?(@6A#
“Doanh trại”nơi đóng quân của Tây Tiến cũng nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà
tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt góp vui tinh thần
với bộ đội Tây Tiến. Từ “bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng
núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” (“Đuốc hoa” hoa
chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn).
đây, “đuốc hoa” ý nghĩa gợi không khí ấm cúng, gợi niềm vui, niềm hạnh
phúc trong lòng các chiến sĩ. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng
bừng lên; cũng còn nghĩa tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã.
Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan:
 !"
1=C$b9
cA *+C7 \  9($F,
thể hình dung đêm hội Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể.
Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây
Tiến trước vẻ đẹp của gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng
vẻ “e ấp” rất thiếu nữ.
Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến
cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà
bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang
Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt
nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa.
Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng
“e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng thể hiểu người lính đang đóng giả
con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn
nghệ. Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”.
Khèn một loại nhạc cụ của người dân tộc miền núi Tây Bắc còn “man điệu” một
điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn
ngất ngây ấy điệu múa Lăm vông quyến của những gái Lào đã “xây hồn thơ
trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai
Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp
cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi,
thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ.
Chính thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thayo đó niềm lạc
quan, yêu đờing bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn y
hồn thơ”. Từ đó, ta thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta trong những
giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về tưởng cách
mạng cao đẹp. Bốn câu sau khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa
thực vừa mộng hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị.
 !"
Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0,
So với bốn câu thơ trên hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh
sáng lung linh tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến Tây Tiến thì bốn dòng
thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người núi rừng
Tây Bắc trong một buổi chiều sương Một không gian bảng lảng khói sương như
trong cõi mộng cứ thế hiện ra.
Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được
đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên
là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốncủa núi rừng nơi đây. Nhưng
sương đây ko phải sương lấp, sương che hay sương phủ "Người đi Châu
Mộc chiều sương ấy”. gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa nỗi buồn man
mác. Đại từ "ấy” làm nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây một
buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình
người cũng man mác, bâng khuâng.
Đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không
khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. lẽ chất họa của Quang
Dũng đã ăn o thơ đoạn này. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật tài hoa.
Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh
động đầy sức cuốn hút. Sông nước hoang dại như một bờ tiền sử, bên bờ lau lách
tác giả đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ cùng tinh tế, đó ”hồn lau”… gợi
cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa chút đó thiêng liêng
phảng phất chút tâm linh rừng núi.
“Nẻo bến bờ” nghĩa là: nẻo lối đi. Nẻo bến bờ nhìn đâu cũng thấy mênh mang
hồn lau. “Hồn lau” những cây lau không còn tri giác linh hồn. Phải
 !"
một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ
ấy.
1= 09%$ L
XAR>?
XAR*
= 6$67%L F
U@G(V
Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên
Tây Bắc hiện lên đầy sức sống lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên
mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: "Có nhớ dáng người trên độc
mộc”.
Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da
diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn,
dài. Dáng người trên độc mộc đây thể hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của
những gái Thái, Mèo đang đưa các chiến vượt sông. Cũng thể hiểu dáng
hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông, vượt
thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của
Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà…
Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong
biết bao dữ dội. Nhưng đây, dòng sông đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ.
Những cánh hoa rừng không bị ”dồi lên dập xuống” Trôi dòng nước hoa
đong đưa”. Từ láy “đong đưa” được s dụng rất gợi cảm: Cánh hoa rừng như cũng
quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người
lính vượt sông đi đánh giặc. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến
mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Bên cạnh đó còn các yếu tố nghệ thuật: Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ
mang đậm chất lãng mạn, hào hoa...
 !"
Những từ ngữ như nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến,
bồi hồi. Tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị. Tóm lại, tám câu thơ của khổ
hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp lệ, thơ
mộng, trữ tình.
Chất nhạc, chất hoạ, chất mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo
nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế,
uyển chuyển. Đây đoạn thơ bộc lộ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng
trong tổng thể bài thơ.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 15
1+$ 9*d K#
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng thốt lên khi ông cảm nhận được vẻ đẹp của đất nước
ta. Vẻ đẹp ở đây không chỉ ở những cánh đồng lúa mênh mông, bát ngát hay những bờ
biển rào cát trắng còn trong chính con người Việt Nam ta. Cùng đề tài ca
ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người, Quang Dũng đã khắc họa tài tình vẻ đẹp vùng núi
Tây Bắc phẩm chất của những người lính qua tác phẩm "Tây Tiến". Ông ng tác
bài thơ vào năm 1948 Phù Lưu Chanh sau khi ông rời đơn vị cũ. Quang Dũng gửi
gắm mọi tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ da diết của mình vào Tây Tiến, nổi bật hơn hết
những kỉ niệm đẹp cùng với hình ảnh đêm hội liên hoan và buổi chiều sương được thể
hiện tinh tế qua đoạn thơ:
#!$%&' ()*+$
J
%-./ 0"$*$ *0#
Tây Tiến là tên đoàn quân được thành lập năm 1947, chiến đấu ở vùng Tây Bắc. Đa số
thanh niên tri thức Nội. Ban đầu bài thơ tên "Nhớ Tây Tiến" nhưng để đảm
bảo tínhm súc cho tác phẩm thì Quang Dũng đã đổi tên thành "Tây Tiến". Dấu ấn
hội họa âm nhạc được tác giả thể hiện nổi bật những kỉ niệm đẹp buổi chia ly
trong miền nhớ của ông
 !"
Mở đầu đoạn thơ là hình ảnh doanh trại lung linh, tưng bừng, vui như đi trẩy hội.
#!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9#
Thông thường khi nhắc đến "doanh trại" thì ta sẽ nghĩ đến không khí nghiêm túc, khô
khan của các anh chiến sĩ, bộ đội. Nhưng không, trong thơ Quang Dũng hình nh
doanh trại hiệnn cùng với hội đuốc hoa cùng với động từ "bừng" tạo nên không khí
vui tươi, sôi động. đây các anh chiến được thoải mái, thư giãn sau những chặng
đường hành quân khó khăn, mệt mỏi. Động từ "bừng" như làm rực sáng cả câu thơ,
như ánh sáng tỏa sáng rực rỡ, mạnh mẽ khắp doanh trại. Cụm từ cảm thán " kìa em"
vang lên với sự ngỡ ngàng, kinh ngạc đồng thời lại đầy cảm xúc dạt dào, trìu mến.
Các gái Tây Bắc với xiêm y lộng lẫy, đẹp đẽ bước ra mang đến hương sắc ngọt
ngào, nhẹ nhàng tạo cho doanh trại một không khí đầy tươi vui, hạnh phúc.Một đêm
hội tràn ngập ánh sáng, chan hòa âm nhạc và vũ điệu, thắm thiết tình quân dân
Tiếp đến hai câu thơ sau mang đến bản sắc dân tộc vùng Tây Bắc:
#3:(*; 5<
=&>?(@6A#
Khèn nhạc c dân tộc núi rừng Tây Bắc, thường người Tây Bắc sẽ sử dụng loại
nhạc cụ này trong các dịp lễ hội các chàng trai, gái thì múa hoặc hát theo tiếng
nhạc ấy. Tác giả đã đem vào thơ ca hình ảnh nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc
Tây Bắc. "Man điệu" đây chỉ điệu nhạc hay điệu múa mang đậm đà bản sắc dân tộc
xứ này. Tính từ "e ấp" thể hiện sự thẹn thùng, ngại ngùng của các thiếu nữ dân tộc
đồng thời làm toát lên vẻ đẹp tinh tế, trong sáng của các gái. Tiếng nhạc hòa cùng
các điệu múa nhẹ nhàng, uyển chuyển của các gái làm lay động, say các chàng
thanh niên tri thức Nội. Không khí đó đã xua tan mọi muộn phiền, mỏi mệt của
đoàn quân Tây Tiến, như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ để tiếp tục chặng
đường đầy khó khăn cùng với ý chí "Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh" của mỗi người
chiến sĩ. Trong không khí ấy, tâm hồn của người chiến hướng "về Viên Chăn xây
 !"
hồn thơ". Hơn đâu hết, đoạn thơ này bộc lộ nét tài hoa hồn thơ lãng mạng của
Quang Dũng.
Hai câu thơ tiếp theo tả cảnh buổi chiều chia ly Tây Bắc, vừa tả thực vừa tả mộng
tạo nên không gian huyền ảo, mộng mơ:
#= 09*@B)?C0 <
@DAE$9#
Hình ảnh buổi chiều sương lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng dữ
dội đầu bài. Một thế giới khác của thiên nhiên Tây Bắc được mở ra, không còn
mạnh mẽ, khúc khuỷu, thăm thẳm lại chuyển sang nên thơ, mộng hơn. Đặc
biệt đại từ "ấy" tạo nên nét độc đáo cho buổi chiều sương, như nhắc lại kỉ niệm những
buổi chiều sương đẹp đẽ, lung linh trong miền ức. Sương đây không phải
sương che lấp, che phủ mà sương thể hiện nỗi buồn man mác, nỗi lưu luyến của người
đi Châu Mộc vào buổi chiều sương. Sau này, cùng hình nh thiên nhiên đẹp đẽ, nên
thơ.đó, Tố Hữu đã có hai câu thơ ngợi tả cảnh đẹp ở Châu Mộc:
#=- %09 @B)0$P
e\^%' OL7#
Còn buổi chiều của thơ Quang Dũng, ông miêu tả hình ảnh "hồn lau" tả dáng lau uyển
chuyển, mỏng manh qua màn sương, đồng thời như mang đến làn gió thổi vào từng
cây cỏ để tạo nên không gian thiên nhiên đầy sức sống, mãnh liệt.
Hai câu thơ cuối thể hiện hình ảnh con người hòa quyện cùng thiên nhiên thơ mộng:
#@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0#
Bóng dáng người trên độc mộc với dáng vẻ lả lướt, thướt tha hòa cùng với s làm
duyên của cánh hoa đong đưa theo dòng nước lũ. Điệp ngữ "có nhớ- có thấy" làm tăng
thêm xúc cảm, nỗi nhớ da diết, nồng nàn của tác giả dành cho nơi đây. Hình ảnh đối
lập giữa dòng nước hoa đong đưa, dòng cuốn trào mạnh mẽ với cành hoa nhẹ
nhàng lung lay, hai hình ảnh như đối lập hoàn toàn nhưng lại hài hòa, nên thơ.Bút
 !"
pháp gợi không tả với những nét vẽ cách điệu đã tạo nên bức tranh đậm đà chất
hội họa hòa với chất thi vị trữ tình lôi cuốn người đọc, đưa ta vào một thế giới hoang
sơ, cổ tích
Với ngòi bút hào hoa, tinh tế không kém phần thơ mộng đầy lãng mạng, Quang
Dũng đã phác họa nên bức tranh những kỉ niệm đẹp đầy lung linh, huyền ảo hình
ảnh buổi chiều sương mang đậm sự lưu luyến, nhớ nhung da diết. Chất họa nhạc
trong thơ ca Quang Dũng được bộc lộ hết ở khổ thơ trên.
Tây Tiến quả tác phẩm để đời của nhà thơ Quang Dũng. Bài thơ vừa mang tính
cách mạng lại còn đậm nét trữ tình nghệ thuật. Mang đến cho người đọc một thế giới
khác của Tây Bắc, lung linh hơn, thơ mộng hơn đồng thời như cuốn nhật ghi lại
những kỉ niệm đẹp nơi đây, chứa mãi trong miền ký ức, trong tim của tác giả.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 16
Trong tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã thể hiện những nỗi niềm, tình cảm của
mình về vùng đất Tây Bắc nơi đoàn binh Tây Tiến của ông đã rất nhiều
những kỉ niệm tươi đẹp với đất, với người. Ngay từ khi đọc những dòng thơ đầu của
tác phẩm lẽ người đọc đã thấy ấn tượng về thiên nhiên Tây Tiến với sự hùng vĩ,
hoang lúc thật dữ dội, nguy hiểm khiến bước chân của người lính cũng trở
nên mỏi mệt, rã rời. Thế nhưng, đến khổ thơ thứ hai, những mỏi mệt, rã rời ấy như lùi
ra xa nhường chỗ cho không khí tươi mới của một đêm liên hoan ấm tình quân dân
nhưng cũng chất chứa những suy tư chính ở nơi doanh trại.
1!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6A
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0F
 !"
Vẻ đẹp của bài thơ thể thấy phần nào khi phân tích khổ 2 i Tây Tiến, trong đó
không thể không tìm hiểu những ý chính về tác giả, tác phẩm.
Quang Dũng (sinh năm 1922 mất năm 1988) người con của thủ đô Nội. Tên
thật của ông Bùi Đình Diệm ngay từ lúc còn một chàng trai thành đầy sức
trẻ, ông đã nguyện cống hiến sức mình vào sự nghiệp cứu nước. Bên cạnh vai trò
một người lính hăng hái và nhiệt thành cách mạng, Quang Dũng còn được biết đến với
nhiều năng khiếu đặc biệt như viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,…
Chính những điều này đã củng cố thêm niềm tin của mọi người về sự tài hoa của nhà
thơ chiến Quang Dũng. Trong suốt quá trình phụng sự sức mình cho đất nước
cũng như đến cuối đời, nhà thơ đã ghi lại những cảm xúc, tâm của mình lại thành
những tác phẩm mang dấu ấn riêng, đó cũng đồng thời những đóng góp rất đáng kể
của ông cho nền văn học nước nhà.
Một số tác phẩm nổi bật của Quang Dũng cần kể đến như: “Rừng biển quê hương”
(năm 1957), Đường lên Châu Thuận” (năm 1964), “Rừng về xuôi” (năm 1968),
“Mây đầu ô” (năm 1986). Về sau, Quang Dũng được nhận Giải thưởng Nhà nước về
Văn học nghệ thuật nhờ sự thành công trong những sáng tác của mình.
Bài thơ “Tây Tiến” ban đầu tên “Nhớ Tây Tiến” được in trong tập “Mây đầu
ô”. Tác phẩm này được ra đời do Quang Dũng muốn ghi lại những kỉ niệmông
được cùng đoàn binh Tây Tiến trong quá trình làm nhiệm vụ Tây Bắc. Binh đoàn
của ông được thành lập vào năm 1947 tên Tây Tiến, trong đó Quang Dũng
người đại đội trưởng.
Lực lượng chủ yếu của binh đoàn này những thanh niên, học sinh của đất thành
đảm nhiệm vai trò những người sbảo vệ biên giới Việt Lào trong thời kỳ miền
Tây Bắc Bộ Việt Nam bị Pháp đánh chiếm cùng với vùng Thượng Lào. Khi đóng
quân chiến địa này, đoàn binh đã phải đương đầu với rất nhiều những thử thách
trở ngại bởi nơi đây có địa hình rất hiểm trở, thiên nhiên hoang sơ và thời tiết cũng rất
khắc nghiệt. Đường dốc, núi cao, vực thẳm, thú dữ, sốt rét,… những thứ đe dọa đến
 !"
sức khỏe sinh mạng của Quang Dũng những người đồng đội của mình tại nơi
công tác…
Thế nhưng đối diện với những hiểm nguy nói trên, trong những dòng viết của Quang
Dũng, người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, bất khuất, luôn giữ được tinh thần lạc
quan, yêu đời đặc biệt họ đã với nhau rất nhiều những kỉ niệm đẹp. Đến khi
chuyển công c, những kỉ niệm đó vẫn không một phút giây nào phai mờ trong tâm
trí nhà thơ. Thế nên ông đã viết ra “Tây Tiến” để chính tác phẩm sẽ thay ông thổ lộ
hết những niềm thương, nỗi nhớ dành cho đoàn binh một thời gắn bó của mình.
Vẻ đẹp của núi rừng trong đêm hội cùng với sự thơ mộng của một vùng sông nước
hòa quyện với s xuất hiện của em… Tất cả đã tạon chất thơ rất riêng chỉ khi
phân tích khổ 2 bài Tây Tiến ta mới có thể thấy rõ.
Mở đầu khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã vẽ ra trước mắt người đọc khung cảnh của đêm
liên hoan với ánh sáng rực rỡ:
1!$%&' ()*+$F
Động từ “bừng lên” vốn động từ mạnh khi kết hợp với hình ảnh “đuốc hoa” dường
như đã thắp sáng cả doanh trại còn lan tỏa ánh sáng ấy ra khắp không gian tịch
mịch, u tối của núi rừng Tây Bắc. Khi phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy hình ảnh
“đuốc hoa” trước nay vẫn thường gợi đến niềm hạnh phúc lứa đôi. trong bài thơ,
khi Quang Dũng s dụng hình ảnh y chắc cũng lẽ cũng để diễn tả niềm hạnh
phúc của người lính khi được sống hòa mình trong đêm liên hoan tại doanh trại công
tác.
Lúc “đuốc hoa” bừng lên là khi hơi ấm đến với người lính và những giá lạnh được xua
đi, cũng chính lúc người lính được gần gũi, gắn không chỉ với đồng đội
còn với cả nhân dân, để xa nhà, xa quê họ vẫn thể sống trong tình yêu thương,
sự quan m của tình thân, bạn. Khi cảm nhận phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta
thấy s thật giữa cuộc hành quân đầy gian lao vất vả, thậm chí tinh thần họ lúc
nào cũng phải trong tâm thế sẵn sàng đối diện với những mất t hiểm nguy. Thế
nên những đêm liên hoan diễn ra như thế này đã góp phần tạo nên chút niềm vui, giúp
 !"
họ giải tỏa những căng thẳng, cho họ sự động viên để họ lại thể tiếp tục vững bước
trên hành trình gian truân ở phía trước.
Không chỉ sự xuất hiện của ánh sáng, những câu thơ tiếp theo, Quang Dũng còn
gợi nên không khí tưng bừng của đêm liên hoan đặc biệt hơn trong không khí
tưng bừng ấy lại có sự xuất hiện rất duyên dáng của “em”:
13456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6AF
Góp vào slung linh, rực rỡ của ánh “đuốc hoa” âm thanh hết sức sôi nổi, vui tươi
của điệu khèn, tiếng nhạc. Không chỉ vậy, hình ảnh những gái với xiêm áo lộng
lẫy đang nhịp nhàng, “e ấp” trong những vũ điệu của miền sơn cước đã khiến cho đêm
liên hoan thêm phần sống động, lôi cuốn. Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến s thấy cụm
“kìa em” đứng ở vị trí đầu câu thơ gợi sự bất ngờ nhưng đầy thiện cảm của người lính
khi nhìn thấy sự hiện diện của các gái bản làng với trang phục lộng lẫy đang hòa
mình vào không khí rộn ràng, vui tươi của đêm liên hoan.
Chính sự xuất hiện của những cô gái trong khúc nhạc điệu vốn là hồn cốt của núi rừng
Tây Bắc cùng với khung cảnh của đêm liên hoan đã tạo nên chất tình tứ, lãng mạn của
cuộc liên hoan. Có ý kiến cho rằng câu thơ “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” như một
lời gợi nhắc về địa điểm diễn ra đêm liên hoan vùng biên giới Việt Lào địa bàn
hoạt động của đoàn binh Tây Tiến không chỉở khu vực Tây Bắc mà cờnđịa phận
ở các tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng ở Lào.
Đó cũng là một ý kiếncăn cứ xét thấy cho dù là cuộc liên hoan ấy diễn ra ở đâu
đi chăng nữa thì điều tác giả muốn gửi gắm lẽ vẫn sự hòa hợp giữa con người
khung cảnh, đặc biệt sự thân tình, trìu mến của quân dân. thể thấy, từ khi
“em” xuất hiện cùng với những khúc nhạc của núi rừng thì giữa khung cảnh con
người, giữa quân và dân như không còn khoảng cách nữa.
Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy cả cảnh vật con người như hòa vào nhau để
cùng ngây ngất, rạo rực trong sự tưng bừng, sôi nổi của đêm liên hoan. Không khí của
 !"
“hội đuốc hoa” ấy càng diễn ra tưng bừng, nhộn nhịp bao nhiêu thì tình cảm, cảm xúc
của nhà thơ lại càng trào dâng mãnh liệt bấy nhiêu để rồi những cảm xúc ấy được
chắp thêm đôi cánh hóa thành những vần thơ diễn tả rất uyển chuyển nhịp
nhàng. Không đơn thuần những con chữ, người đọc như nhìn thấy cả ánh sáng,
nghe được âm thanh cảm nhận được vẻ đẹp cuốn hút đầy sức sống của những
người con gái của núi rừng.
Khi không khí của đêm liên hoan vẫn chưa hết nhộn nhịp thì trong lòng tác giả lại có
cảm giác như được gọi về những kỉ niệm tươi đẹp của buổi chiều sương Châu Mộc:
1= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0F
Hình ảnh con người hiện hữu câu thơ đi kèm cùng những câu hỏi đầy tha thiết.
Nhân vật trữ tình luôn băn khoăn “người đi Châu Mộc chiều sương ấy” liệu rằng “có
thấy” “có nhớ” những vẻ đẹp thật thơ mộng, nên thơ của “hồn lau”, “dáng người
trên độc mộc” và cả “dòng nước lũ” có những cánh hoa đong đưa. Phân tích khổ 2 bài
Tây Tiến để thấy trong làn sương chiều hôm người đi, cảnh vật như nhòe mờ, mông
lung nhưng phải chăng chính vì thế mà nó trở nên có hồn hơn, ấn tượng hơn.
Những bông lau phất phơ trên bờ bến phải chăng đã tạo nên cái hồn cho bến bờ hay
hồn của cảnh là sự hóa thân của chính tâm hồn nhà thơ để mỗi một ngọn lau, một cánh
hoa cũng mang những nỗi niềm, tâm trạng. Chính những điều này đã biến những sự
vật vốn tri như cũng riêng đời sống của nó. Thêm vào đó, sự gợi nhắc về dáng
người mảnh mai, duyên dáng trên chiếc thuyền độc mộc xinh xinh đã khiến cho bức
tranh về cảnh người hiện lên với sự khỏe khoắn, rắn rỏi bên cạnh cái vẻ huyền ảo,
mơ màng của miền cổ tích xa xưa…
Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy lẽ, những nghi vấn về việc người đi “có
thấy”, “có nhớ” giờ đây đồng thời cũng là lời khẳng định rằng những hình ảnh về cảnh
vật con người chốn này mãi mãi sẽ khắc ghi trong lòng tác giả cũng như những
 !"
người lính nói chung. Chính “thấy” “nhớ” mồn một từng chi tiết, đường nét
của cả người cảnh nên ướm hỏi cũng thực chất y tỏ nỗi lòng một khi phải
rời xa chốn thân thương thì chắc hẳn trong lòng sẽ chất chứa nỗi nhớ mênh mang, sâu
lắng và sức ám ảnh khôn nguôi về cảnh ấy và người ấy.
Về nội dung, bài thơ “Tây Tiến” giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của một bức
tranh sự kết hợp hài hòa giữa cảnh người. Trên phông nền hùng vĩ, dữ dội
nhưng cũng rất trữ tình, lãng mạn của thiên nhiên hình ảnh của người lính Tây Tiến
hội tụ biết bao những phẩm chất đáng trân trọng. Người đọc không chỉ thấy được sự
kiên cường, gan góc trên bước đường hành quân, sự bất khuất, dũng cảm trước
ngưỡng cửa sinh tử họ còn cảm nhận được nét trẻ trung, sôi nổi, chất hào hoa,
lãng mạn trong tâm hồn những người lính trẻ Hà thành.
Về nghệ thuật, bài thơ “Tây Tiến” đã thành công trong việc kết hợp hài hòa giữa bút
pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. Không chỉ vậy, đọc thơ Quang Dũng ta còn thấy
được bên cạnh những vần thơ đầy chất trữ tìnhnhững câu đậm sắc thái bi tráng. Đó
những sự kết hợp khéo o đã góp phần diễn tả được cảm xúc, nỗi niềm khi thì
tha thiết bồi hồi, lúc lại trang nghiêm, bi hùng của một nhà thơ luôn đau đáu về tháng
ngày gắn bó cùng đồng đội.
Qua khổ thơ thứ hai, người đọc cảm nhận được sự tài hoa của tác giả bởi nét bút của
ông vừa sinh động, biến ảo trong những câu về đêm hội núi rừng cũng vừa tinh tế,
mềm mại đoạn viết về thiên nhiên. Chính sự tài hoa đó đã giúp cái đẹp thắm thiết,
đậm đà của tình quân dân vẻ đẹp thơ mộng, màng của thiên nhiên hiện hữu
trước mắt người đọc một cách rõ ràng đầy ấn tượng.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 17
Trong vườn hoa của thơ ca kháng chiến chống Pháp, bài thơ Tây Tiến của Quang
Dũng - nở ra từ một tâm hồn phóng khoáng, hồn hậu, hào hoa, một ngòi bút tinh tế
lãng mạn - được coi bông hoa đầu mùa vừa đẹp vừa lạ. Bài thơ không chỉ khắc họa
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở hay những gian khó trập trùng nơi núi cao vực
sâu bên cạnh đó, ta cũng hội được cảm nhận bức tranh thiên nhiên gợi cảm,
 !"
nên thơ cùng những giờ phút liên hoan tưng bừng, lãng mạn giữa những tháng năm
khói lửa hào hùng. 8 câu thơ khổ thơ thứ hai những vần thơ đã khắc họa
nhất vẻ đẹp lãng mạn ấy.
Nếu đoạn thơ đầu tiên của Tây Tiến mở ra trước mắt người đọc không gian hùng vĩ,
hiểm trở của núi rừng Tây Bắc thì với 8 câu thơ tiếp theo của khổ thơ thứ hai, bạn đọc
sẽ được hòa mình vào không gian tưng bừng của buổi liên hoan doanh trại sự lãng
mạn, nên thơ của chiều sương Châu Mộc.
#!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9#
Chữ "bừng" như một nét vẽ thần, làm cho không gian như sáng bừng lên trong
âm thanh, trong ánh lửa bập bùng trong hơi ấm của tỉnh quân dân nước. Trong
không gian ấy, người lính Tây Tiến phải ngạc nhiên đầy tình tứ, thốt lên hai tiếng
"kìa em". Giây phút này đây họ nhưng rũ bỏ tất cả mọi gian truân, mệt mỏi được cùng
hòa mình theo giai điệu của những bản nhạc nơi rừng núi, để sống trọn vẹn, trẻ trung,
tận hưởng niềm vui với một tâm hồn lãng mạn.
#3:(*; 5<
=&>?(@6A#
Ban đầu "em" tiếp đến "nàng" rồi sau lại "em". Từ cách sử dụng ấy ta cảm
nhận được em như một nàng tiên kiều diễm ta như lạc vào cõi thần tiên với không
khí say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, điệu ấy đã chắp
cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người cảnh.
một người nghệ đa tài, không chỉ m thơ Quang Dũng còn viết nhạc, vẽ
tranh,... chính điều đó đã khiến cho ngòi bút của Quang Dũng trở nên tài hoa, sống
động hơn bao giờ hết. Trong thi có nhạc, có hoạ, từng nét vẽ, từng âm thanh, từng ánh
lửa bập bùng cùng tiếng nhạc dân tộc dập dìu vui tươi tưởng như hiện n thật hữu
hình trước mắt, vang lên thật hữu thanh bên tai, để chính lòng ta cũng phải rạo rực mà
hoà theo không khí rộn ràng ấy. Bốn câu thơ không chỉ khắc hoạ chân thực lãng
mạn buổi liên hoan doanh trại nơi vùng cao còn làm hiện lên tâm hồn trẻ trung,
 !"
hào hoa của những người lính Tây Tiến, họ anh dũng, họ phi thường nhưng cũng
những giờ phút, những cảm xúc hết sức đời thường. Không chỉ thế, đoạn thơ còn làm
nổi bật tình quân dân cá nước ấm nồng, dõi theo, tiếp thêm sức mạnh cho những chiến
sĩ trên chiến trường gian lao, khói lửa.
#= 09*@B)?C0 <
@DAE$9
@D<.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0#
Thì ra không chỉ những "dốcn khúc khuỷu dốc thăm thẳm", hay "ngàn thước lên
cao, ngàn thước xuống" thiên nhiên miền cao Tây Bắc cũng có những nét đẹp
hoang sơ, thơ mộng như vậy. 4 câu thơ với những nét chấm phá, tả ít gợi nhiều
như vẽ nên một bức tranh thiên nhiên quá đỗi nên thơ, quyến rũ. Chiều sương gợi mở
một không gian huyền bí, cái thực cái mộng của một cõi trời nước Tây Bắc bảng lảng
sương nhuốm một màu cổ tích Đại từ phiếm chỉ "ấy" càng làm cho khoảng thời gian
trở nên mơ hồ không xác thực, thế nhưng nó lại rất rõ ràng, rất gợi, rất đáng nhớ trong
ức của nhà thơ. Hình ảnh "lau" hiện lên không phải một bông, một nhành, một
bờ, "hồn lau", dường như chẳng một hình dung cụ thể nào, ta chỉ thể
cảm nhận đâu đây một chuyển động nhẹ nhàng, gợi cảm. Giữa không gian ấy, hình
ảnh con thuyền độc mộc hiện lên m cho bức tranh thiên nhiên cũng mang một vẻ
trầm tĩnh như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tế vi, mờ ảo như
vô, hư thựclại thơ mộng đến lạ lùng. Một lần nữa hình ảnh hoa lại xuất hiện trong
bài thơ. Tính từ "đong đưa" gợi lên một chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế của bông hoa,
như đang làm dáng làm duyên giữa dòng nước đang dữ dội cuộn trào. Thật một
vẻ đẹp nguyên sơ, thanh khiết và gợi cảm đến nao lòng.
Bằng ngòi bút tài hoa hữu nhạc, hữu hoạ, kết hợp với những bút pháp miêu tả độc đáo,
Quang Dũng đã khắc hoạ thành công bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp thơ mộng của
Tây Bắc những dấu ấn vui tươi của một thời chiến đấu bên đồng đội. Cũng chính
đoạn thơ đã thể hiện nét nhất cảm hứng lãng mạn, tâm hồn hào hoa chất lãng tử
của nhà thơ "xứ Đoài mây trắng". 8 câu thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành
 !"
công của tác phẩm nói riêng văn thơ cách mạng nói chung, để Tây Tiến trở thành
một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 18
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã góp thêm vào những trang
vàng của lịch sử dân tộc. Đã có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật hình thành từ đề tài này.
Nền thơ ca giai đoạn này mang đậm tinh thần yêu nước. Phải chăng thế đây
giai đoạn văn học có nhiều thành công. Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những
tác phẩm như vậy.
Hình ảnh của những người lính quả cảm, kiên cường, ngày đêm chiến đấu bảo vệ đất
nước vừa hào hùng vừa hào hoa đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.
Đặc biệt là đoạn 2 của bài thơ:
!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6A
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0
Quang Dũng (1921-1988) người làng Phượng Trì, Đan Phượng, Tây nhưng ông
chủ yếu sống Nội. Ông một nghệ đa tài với nhiều thể loại thơ ca, nhạc, họa
nhưng thơ ca đỉnh cao nhất của ông. Ông một trong số những nhà thơ tiêu biểu
của nền thơ ca hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám. Thơ ông thể hiện
được tâm hồn nhạy cảm đậm chất lãng mạn. Trong thơ còn cho thấy khả năng cảm
nhận tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người.
Tây Tiến được sáng tác khi nhà thơ rời xa đơn vị Tây Tiến của mình một thời gian
“Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động Lào trở về thành lập trung đoàn
52. Đại đội trưởng Quang Dũng đó đến cuối 1948 rồi được chuyển sang đơn vị
 !"
khác. Red đơn. vị chưa bao lâu, ngồi Phù Lưu Chanh, anh viết bài thơ Tây
Tiến”, (Lời kể của ông Trần Văn bạn thân của Quang Dũng). Chính vậy
bài thơ được viết dưới lăng kính của những hoài niệm với tâm trạng nhớ da diết, chơi
vơi.
Đơn vị Tây Tiến được thành lập vào năm 1947 với mục đích phối hợp với bộ đội nước
Lào nhằm bảo vệ biên giới Lào – Việt, nhằm đánh tiêu hao địch tại Thượng Lào để hỗ
trợ cho cuộc kháng chiến tại những vùng núi rừng khác trên đất Lào.
Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng lớn. Bao gồm khu vực vùng rừng
núi Tây Bắc Việt Nam khu vực Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang đến
Sầm Nứa rồi vòng về miền tây Thanh Hóa. Những nơi này rất hoang vu hiểm trở
với núi cao, sông sâu, rừng núi có nhiều thú dữ. Người lính Tây Tiến hầu hết là những
thanh niên, trai tráng Thủ đô, gồm nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó cả học sinh,
sinh viên.
Qua phân tích đoạn 2 i thơ Tây tiến từ những câu thơ đầu, Tây Tiến mở ra trước
mắt người đọc một không gian hùng vĩ, hiểm trở đầy nguy hiểm của núi rừng Tây
Bắc. Trong tám câu thơ tiếp của đoạn thơ thứ hai, người đọc sẽ được hòa mình vào
trong không gian tưng bừng của đêm liên hoan văn nghệ tại doanh trại với s ng
mạn, nên thơ của chiều sương chốn Châu Mộc:
Bức tranh lãng mạn của đêm văn nghệ thấm đậm tình quân dân, “quân với dân như
với nước” được thể hiện thông qua bốn câu đầu tiên của đoạn thơ:
#!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6A#,
Nỗi nhớ từ "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi", tác giả
bỗng nhớ đến "hội đuốc hoa" khi doanh trại bừng lên vào đêm văn nghệ thắm thiết
tình quân dân. Đuốc hoa vốn cây nến thắp lên trong phòng vào đêm tân hôn. Bỗng
nhớ đến Truyện Kiều có câu: "Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa" (dòng 3096).
 !"
Từ hình ảnh trên, Quang Dũng đã sáng tạo thành "hội đuốc hoa" để nhớ về đêm liên
hoan văn nghệ, đêm đốt lửa trại giữa các cán bộ chiến của đoàn binh Tây Tiến với
những người dân đồng bào của các bản mường. “Bừng" động từ mạnh hiện lên
nhầm vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng rực, vừa để tả âm thanh của tiếng cười nói,
tiếng hát, tiếng khèn vang lên trong đêm hội.
Chữ "kìa" đại từ dùng để chỉ một đối tượng nào đó từ phía xa; trong hoàn cảnh này
ta có thể thấy sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của những người lính trẻ Tây Tiến
khi nhìn thấy các "em", các "nàng" đến dự trong bộ xiêm áo lộng lẫy, xinh đẹp. Hình
ảnh "nàng e ấp" một trong những nét vẽ tài hoa cùng hồn đã gợi tả nên vẻ
đẹp duyên dáng và kín đáo, tình tứ và tinh tế của những nàng thiếu nữ miền Tây.
Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các "em",
các "nàng" như đã "xây hồn thơ" trong những chàng lính trẻ. Những con người trẻ
chung, xinh đẹp, hào hoa đa tình; còn ngòi bút của thi nhân thì lại rất tài hoa
lãng mạn.
Thông qua hội đuốc hoa khi phân tích đoạn 2 bài thơ Tây Tiến, ta thấy ngày càng thấy
đời sống tinh thần phong phú của đoàn binh Tây Tiến tại chiến trường miền Tây gian
khổ.
Viết tiếp đoạn thơ là bốn câu thơ tiếp theo trong dòng hồi tưởng "trôi" về miền đất lạ -
Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La - nơi nhiều bãi cỏ rộng bát ngát, mênh mông, nơi này
dãy Pha Luông cao 1880m, nơi đó bản Pha Luông sầm uất của người Thái.
Quang Dũng người lính với tâm hồn thi đã khai phá ra biết bao nhiêu vẻ đẹp
thú của nơi Châu Mộc. Năm tháng cứ thế trôi qua, chỉ còn lại bao nhiều kỉ niệm, cảnh
vật và con người của miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:
#= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0#,
 !"
"Chiều sương ấy" buổi chiều đầy sương trắng đang phủ mờ khắp núi rừng tại chiến
khu vào buổi chiều thu hôm ấy in sâu đậm vào trong hồn người; tất cả bây giờ chỉ còn
là: “khi ta chỉ nơi đất ở/ khi ta đi đất lạ hóa tâm hồn” (Chế Lan Viên).Hồn lau”
đây hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng như những cờ, những bông lau đung đưa
theo gió tạo nên tiếng kêu xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối.
Với tâm hồn tài hoa, Quang Dũng cảm nhận về vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu
Mộc thông qua cảnh sắc "chiều sương" "hồn lau nẻo bến bờ". Những thi liệu ấy đã
tạo nên những vẻ đẹp cổ điển trong bức tranh suối rừng nơi đây. Thấp thoáng đằng
sau những vần thơ "Tây Tiến" là những câu cổ thi trong các bài thơ thời xưa:
#T0 *_^?0.)2
=0/ 5E$C+/CJ#
Ucf %_Ggc$IchV
hay:
#= 09%$ L
XAR>?
XARCL*
= 6$67%L #,
U@G(V
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến trên, ta thấy điệp ngữ "có thấy" "có nhớ" tác giả
đang hoài niệm về những kỉ niệm về chiều sương Châu Mộc cố thêm phần man mác,
bâng khuâng. Họ nhớ cảnh rồi đến nhớ đến người. Những dòng hồi tưởng của thi
qua cảnh sắc con người nơi suối rừng miền Tây, tại nơi cao nguyên Châu Mộc
được thể hiện lên một cách tuyệt đẹp với bút pháp cùng tài hoa những hồn thơ
lãng mạn.
Núi rừng Tây Bắc là chốn “rừng thiêng nước độc” vô cùng hoang vu, hẻo lánh và chất
chứa nhiều hiểm nguy. Thế nhưng, với tâm hồn cùng lạc quan và yêu đời, niềm tin
 !"
vào một tương lai tươi sáng của một thời đại mới đã được khai phá với biết bao nhiêu
vẻ đẹp thơ mộng và xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người nơi Tây Bắc.
Những hoài niệm về chiến trường núi rừng nơi đây như được chắt lọc từng chi tiết
nhỏ trong tâm hồn thi sĩ.
Đoạn thơ với bút pháp chấm phá mềm mại uyển chuyển, ngôn ngữ đậm chất thơ,
chất nhạc. Ta có thể thấy được cuối mỗi câu thơ đều kết thúc bằng vần trắc đã tạo nên
nhạc điệu của bài thơ. Bên cạnh đó với thể thơ thất ngôn nhịp thơ 4/3, giọng điệu
phù hợp với cảm xúc qua từng câu chữ. Cùng với việc sử dụng khéo léo những câu
hỏi tu từ đã làm cho bức tranh đêm văn nghệ và cảnh sông nước miền Tây hiện lên vô
cùng chi tiết là thơ mộng.
Tóm lại, thể nói phân tích đoạn 2 Tây Tiến đã cho ta để lại những ấn tượng khó
quên trong lòng người đọc bởi những nét lãng mạn hiện lên giữa hoàn cảnh khắc
nghiệt của chiến tranh. Há chăng bài thơ đã cùng góp lên tiếng nói độc đáo vào những
bài thơ kháng chiến viết về người lính thời kỳ chống Pháp. Những bài thơ ấy đã cùng
làm nên một bức tượng đài to lớn về những người chiến vừa hào hùng vừa hào hoa.
đã gieo vào lòng người đọc những tình cảm yêu thương, tình quân dân thắm thiết,
tinh thần đoàn kết của nhân dân ta….
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 19
Quang Dũng một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, nhà thơ của xứ Đoài mây trắng,
nghệ của những vần thơ giàu chất nhạc, chất họa. “Tây Tiến” thi phẩm nổi tiếng
nhất của ông, được bao nhiêu thế hệ bạn đọc yêu mến. Cảm xúc bao trùm bài thơ
nỗi nhớ trải theo những cung đường dãi dầu mỹ lệ nơi đoàn binh Tây Tiến đã đi
qua để lại bao kỉ niệm đẹp. những kỉ niệm thật dữ dội nhưng cũng những kỉ
niệm thật êm đềm. Kỉ niệm êm đềmy giúp ta cảm nhận hơn vẻ đẹp lãng mạn của
những người lính Tây Tiến thuở nào:
1!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
 !"
=&>?(@6A
= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0F
Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào cuối năm 1948- một năm sau khi Quang
Dũng rời đoàn binh Tây Tiến. Nỗi nhớ thương những người đồng chí đồng đội cùng
những tháng năm gắn với đoàn quân đã thôi thúc nhà thơ cầm bút ghi lại những
cảm xúc chân thật, tự nhiên, mãnh liệt, dâng trào.
Tây Tiến một cuộc trường chinh cùng gian khổ. Nhưng vượt lên mọi khó khăn,
tâm hồn người lính Tây Tiến vẫn đầy chất lãng mạn không phôi pha đi cái dáng vẻ
của người nghệ hào hoa. Sau chặng đường dài hành quân gian khổ, những người
lính mang trong mình tâm hồn nghệ ấy đã hòa nhập vào sinh hoạt bình dị đầy
chất thơ cùng nhân dân trên những nẻo đường hành quân. Không chất nghệ bẩm
sinh của chàng trai đất Thăng Long nghìn năm văn hiến sẽ không những giờ phút
thăng hoa theo tiếng khèn, theo những vũ điệu của đêm hội đuốc hoa.
Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến trước hết thể hiện tâm hồn mộng mơ, đa
tình khi đắm mình trong không khí của đêm liên hoan văn nghệ:“Doanh trại bừng lên
hội đuốc hoa”
Chỉ một từ “bừng” trong câu thơ nói lên được cả một cảm xúc dào dạt, phấn chấn.
Đâu chỉ ánh sáng của ngọn lửa hồng lên, đó sự bừng sáng trong tâm hồn, đó
niềm vui rạng rỡ. Cảnh được miêu tả lại cảnh hồi tưởng từ quá khứ nên “bừng”
còn bừng thức cả một vùng kỷ niệm. Trong cái nhìn lãng mạn của người lính, đêm
liên hoan văn nghệ trở thành “đêm hội đuốc hoa”. “Đuốc” trước hết những lửa
đuốc được thắp lên trong đêm liên hoan. “Đuốc hoa” hình ảnh đẹp vừa tươi sáng,
rực rỡ, ấm áp, vừa lung linh ảo huyền thơ mộng, đó cái tình, cái ý của những chàng
trai trẻ tuổi trẻ lòng. “Đuốc hoa” từn còn hoa chúc, xa xôi gợi về lễ hợp cẩn lứa
đôi. Vậy là tình quân dân cá nước cũng say đắm, rạo rực như tình lứa đôi buổi đầu gặp
 !"
mặt. Quả một sự liên tưởng táo bạo, thú vị đầy bất ngờ. Đêm hội vừa đông đúc,
vừa đông vui, vừa có vẻ tưng bừng náo nhiệt của những đêm hội trai gái mở hội lòng.
Đang say sưa trong đêm hội liên hoan, người lính phải thốt lên:“ Kìa em xiêm áo tự
bao giờ”
“Xiêm áo” là từ Hán Việt đủ để Quang Dũng diễn tả sự rực rỡ, lộng lẫy của người con
gái vùng sơn cước vừa như từ trang truyện cổ bước ra, vừa như từ trang đời bước lại.
Từ “kìa” bật lên bộc lộ cả một niềm thích thú , một sự say mê ngỡ ngàng, một cái nhìn
đam ngưỡng vọng trước vẻ đẹp đầy quyến rũ. Sự hóm hỉnh trẻ trung của người
lính đã được thể hiện một cách đầy tinh tế như thế. Cảnh quá khứ sống động như
thực tại chứng tỏ những ức về Tây Tiến trong lòng tác giả nguyên vẹn không một
chút phai nhạt.
13:(*; 5<
=&>?(@6AF
Viết về nhạc nên câu thơ của Quang Dũng cũng đầy chất nhạc. Một thứ nhạc êm ái
dìu dặt khiến hồn ta lâng lâng bay bổng. Thứ nhạc ấy được tạo nên nhờ sự hòa phối
thanh điệu tài tình với thanh bằng chủ yếu. Nhưng đó còn một thứ nhạc đặc biệt
khác ở ngoài lời, là nhạc tâm hồn của những anh lính trẻ mộng mơ. “Hồn thơ” đã biến
người lính thành thi sĩ, còn “nàng thơ”- cảm hứng của những thi hào hoa đó
những sơn nữ vùng sơn cước duyên dáng yêu kiều trong tiếng khèn “man điệu” quyến
rũ gọi mời.
Người chiến binh ra đi chiến đấu với một tâm hồn nghệ sĩ. Họ cầm súng chiến đầu
hoàn cảnh không thể khác được, còn về bản chất, họ thật sự nghệ sĩ. Anh hùng
nghệ , gian khổ vẫn hào hoa, đó những nét bản trong tính cách con
người Việt Nam những chàng trai Nội mang trong mình rất đậm. Phút chốc
bao nhiêu gian khổ nhọc nhằn dọc đường hành quân được gột sạch để chỉ còn tràn
ngập trong hồn người chiến binh Tây Tiến niềm bâng khuâng xao xuyến những
rung động đầy chất thơ.
 !"
Từ đêm lửa trại, Quang Dũng đột ngột chuyển cảnh về một miền sông nước Tây Bắc
đầy chất thơ:
1= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0F
Chất nhạc, chất họa như được nhân n trong những vần thơ sâu lắng gợi khung cảnh
Châu Mộc chiều sương. Nơi đoàn quân Tây Tiến đi qua, những khung cảnh cực kỳ
dữ dội, vất vả, những cảnh thật thơ mộng trữ tình. những buổi chiều oai linh
thác gầm thét, những lúc sương lấp đoàn quân mỏi nhưng cũng những Châu
Mộc chiều sương đẹp bảng lảng, hồ. Nỗi nhớ Châu Mộc được gắn với không gian
thời gian cụ thể. Thời gian “chiều”- khoảng thời gian gợi nỗi nhớ, gợi khát khao
sum họp. Độc đáo trong câu thơ đại từ “ấy”, một từ danh về ngữ pháp nhưng
hữu tình về ngữ nghĩa. Tố Hữu đã dùng từ “ấy” để ghi lại thời khắc đáng nhớ:
1'<%$ -' L &F
Hay trong thơ Thế Lữ:
1O</  5 &
= 0.i*]Z(F
Hai tiếng “chiều sương” kết hợp với đại từ phiếm định “ấy” vừa làm tăng thêm vẻ xa
vắng bâng khuâng, vừa khiến buổi chiều sương Châu Mộc hiện ra ràng, không lẫn
vào muôn buổi chiều vô danh khác của loài người.
Trong nỗi nhớ về Châu Mộc, hình ảnh ngàn lau bỗng trở nên có hồn:
1@D<AE$9F
Câu thơ Quang Dũng gợi nhớ đến những vần thơ nổi tiếng trong bài “Lau biên giới”
của nhà thơ Chế Lan Viên:
 !"
1M(( $/ 5$>
 N%L D)4
O& %L PQR 9S
T+)*9R > D $%F
Nếu “lau” trong thơ Chế Lan Viên chủ yếu thiên về ấn tượng thị giác thì trong thơ
Quang Dũng lại nghiêng về những cảm nhận từ tâm hồn. Miêu tả hoa lau, Quang
Dũng viết “hồn lau” chứ không phải bờ lau hay triền lau. Bởi nếu như vậy thì chỉ tả
hình sắc, còn hồn lau” hiện lên cả tâm hồn, linh hồn của Tây Bắc đại ngàn. Lau
không còn vô tri vô cảm nữa, nó làm thành hồn riêng của chiều sương Châu Mộc.
Tâm tình của con người không chỉ gửi vào hồn lau nẻo bến bờ còn trong những
hình ảnh duyên dáng đáng yêu của con người:“Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Trên cái nền huyền ảo của sương lau trắng, nổi bật lên dáng người lom khom trên
con thuyền độc mộc. Đó cái dáng của những lái đò người Mèo, người Thái, i
dáng mềm mại duyên dáng thật hợp với con thuyền độc mộc, hợp với bức tranh sự
hài hòa từ màu sắc đến đường nét. Một lần nữa, Quang Dũng lại bật lên câu hỏi “có
nhớ” làm câu thơ càng thêm da diết, bâng khuâng.
Khép lại nỗi nhớ về buổi chiều sương Châu Mộc là một hình ảnh vô cùng ấn tượng:
1%-./ 0"$*$ *0F
“Hoa” đây trước hết hiện thực, hoa rừng Tây Bắc xứ sở của các loài hoa:
hoa đào, hoa mơ, “bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù núi khói Mèo
đốt nương xuân”. Miêu tả hoa, tác giả chọn “đong đưa” chứ không phải “đung đưa”
“đung đưa” chỉ gợi lên chuyển động cơ học, tính chất vật lý, còn “đong đưa” gợi
bao nhiêu tình tứ, gọi mời. Đến c bông hoa rừng trên dòng nước cũng không
tình bởi được nhìn bằng cặp mắt đa tình mộng của anh lính Tây Tiến.
Nhưng bước vào thơ ca nói chung, thơ Quang Dũng nói riêng thì hoa muôn đời ẩn
dụ cho cái đẹp, cho người con i. Bóng hoa bóng người con gái trên thuyền soi
xuống dòng nước, đong đưa tình tứ nhưng vẫn kín đáo, duyên dáng. Như vậy, cái tình
tứ của cảnh suy cho cùng là do người ngắm cảnh.
 !"
Như vậy, qua những kỉ niệm êm đềm, ngọt ngào về đêm liên hoan văn nghệ cảnh
Châu Mộc chiều sương, ta càng cảm nhận hơn vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây
Tiến: mộng mơ, đa tình, giàu rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con
người, trong hiện thực nhiều gian khó, khốc liệt, họ luôn mơ về những điều tốt đẹp, về
ngày mai chiến thắng. Chất nhạc, chất họa, chất thơ đã hòa vào nhau, làm nên những
vần thơ tuyệt đẹp. Đoạn thơ đã góp phần làm nên thành công của cả bài thơ, đưa “Tây
Tiến” xứng đáng với vị trí một trong những tác phẩm mở đầu xuất sắc của nền thơ
cách mạng Việt Nam.
Gấp lại đoạn thơ đầy chất lãng mạn trữ tình, độc giả cảm nhận được những kỉ niệm
thời chiến cũng có lúc không vương khói bụi chiến trường, không thấy bóng dáng của
sự khốc liệt, của hiện thực nghiệt ngã. Nhà thơ đã giúp chúng ta hiểu rằng: chiến
trường đâu chỉ có thiếu thốn, gian khổ với bao mất mát, hy sinh?
Phân tích đoạn 2 bài Tây Tiến - Mẫu 20
Quang Dũng tên khai sinh là Bùi Đình Diệm (1921-1988). Là nhà thơ với một hồn thơ
phóng khoáng, hồn hậu tài hoa. Trong thơ Quang Dũng thường kết hợp hiện thực
chất men say ng mạn tại nên nét độc đáo trong thơ ông. Chính vậy ông được
mệnh danh nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”. Trong sự nghiệp sáng tác của mình
Quang Dũng để lại nhiều bài thơ giá trị trong đó phải kể đến “Tây Tiến”. Bài thơ
không chỉ khắc họa thành công bức chân dung người lính Tây Tiến còn vẻ đẹp
thiên nhiên và con người nơi vùng núi Tây Bắc được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ:
1!$%&' ()*+$
J,,
%-./ 0"$*$ *0F
Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến một đơn vị quân đội
được thành lập đầu năm 1947, nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới
Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến Tây Tiến phần đông
thanh niên, học sinh, trí thức Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ
nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở
 !"
đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh,
Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ “Tây
Tiến”.
Nếu như khổ thơ thứ nhất Quang Dũng đưa người đọc đến với những nét vẽ gân guốc
của con đường hành quân đầy gian khổ thì đoạn thơ thứ hai này nhà thơ đưa người
đọc đến với một cảm đặc biệt. Đó những vẻ đẹp mềm mại, tinh tế, tài hoa tạo
nên vẻ đẹp nên thơ giữa núi rừng Tây Bắc. Một bức tranh thơ đầy lãng mạn nhưng
không kém phần bí ẩn của con người nơi vùng núi Tây Bắc này:
1!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6AF
Bốn câu thơ mang đến cho người đọc không khí hội rộn ràng vui vẻ, một cái nhìn
chiêm ngưỡng, say sưa đa tình của người lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của người
phương xa nơi xứ lạ. lễ hội nên thật nhiều ánh sáng bừng lên, lan tỏa “hội đuốc
hoa”. Ánh sáng của xiêm áo lộng lẫy sáng bừng lên trong sự bất ngờ, sự ngỡ ngàng
của những người lính Tây Tiến:
13456(7$8$ 9F
“Kìa em” tiếng reo ẩn chứa cả niềm hạnh phúc của những người lính Tây Tiến khi
dáng hình người con gái mềm mại, duyên dáng của miền sơn cước Tây Bắc hiện ra e
ấp trong điệu khèn đặc trưng của vùng núi nơi đây. Câu thơ mang theo cả cái nhìn
lãng mạn của người lính Tây Tiến trong một hiện thực khắc nghiệt người lính vừa
trải qua. Ánh sáng nơi doanh trại đã trở thành “hội đuốc hoa”- biểu tượng của hạnh
phúc tạo thành niềm vui của đêm giao duyên, của niềm hạnh phúc như dành cho
những cặp tình nhân trong đêmn hôn. Để rồi người con gái “xiêm áo” như bước ra
từ huyền thoại ấy trở thành động lực để những người lính Tây Tiến:
1=&>?(@6AF
 !"
Những người lính Tây Tiến hòa mình say sưa cùng, điệu nhảy, âm điệu của những bản
nhạc Tây Bắc như dìu dặt tâm hồn những chàng trai Tây Tiến để rồi họ-những chàng
trai mới chỉ mười tám đôi mươi của mảnh đất Thành ra đi tiếng gọi của non
sông đất nước đã mang theo cả giấc với những chân trời chưa tới về một giấc
mộng ngọt ngào “xây hồn thơ”. Phải chăng đó chính là giấc mộng của lập chiến công,
cái nhìn vượt qua biên giới, ước khát vọng cho sự bình yên. Tâm hồn những
người lính Tây Tiến như một phút giây thăng hoa để mọi cảm giác mệt mỏi như
đang lùi xa, những vất vả, mất mát cả sự hi sinh như được đẩy lùi nhường chỗ cho
lòng người, cho khát vọng tưởng. Theo như lời Quang Dũng kể lại:Đêm chuẩn
bị vượt sông để sang đánh địch đồn Mai Hạ, đội trang tuyên truyền Lào-Việt
tổ chức liên hoan, uống rượu cần múa lăm vông”. Những đêm liên hoan như vậy
phải chăng đã thăng hoa cho hồn thơ Quang Dũng để tạo nên một nét vẽ mềm mại.
Cũng chính nhờ những phút giây như thế những người lính Tây Tiến được tiếp
thêm sức mạnh để bước tiếp con đường hành quân ở phía trước.
Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp
giàu bản sắc văn hoá, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân
thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến.
Không chỉ thể hiện vẻ đẹp tình quân dân nhà thơ còn thể hiện vẻ đẹp của con
người và cảnh vật miền Tây Bắc trong chiều sương trên sông nước Châu Mộc:
1= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0F
Thời gian không gian trên dòng sông, cảnh vật Châu Mộc hiện lên thật mờ ảo, thơ
mộng nhuốm màu sắc cổ tích, huyền thoại. Thời gian chia tay một buổi “chiều
sương ấy”. Đó cái chiều sương trong cái nhìn hoài niệm của người trong cuộc, tất
cả trở nên thật mờ ảo, như một miền ức thẳm sâu vừa nhạt nhòa vừa xa thẳm.
Không chỉ vậy chữ “ấy” không xác định, không biết chiều sương nào chỉ
 !"
người trong cuộc, chỉ những chàng trai Tây Tiến mới hiểu đó chiều sương ào
và ý nghĩa ra sao trong lòng những chàng trai Hà Thành.
Đoạn thơ chỉ phác họa đôi nét vẽ nhưng cũng đủ để đánh thức, gợi cảm nhận trong
lòng người đọc:
1@D<AE$9
@D.7  09%(*))F
Nhà thơ gợi nhắc bằng những điệp từ “có nhớ”, “có thấy” như để chạm khắc, để hỏi
chính mình đầy bâng khuâng, lưu luyến. Cảnh trong thơ tĩnh lặng, buồn nhưng
cùng thi vị. nỗi lòng của con người như được gửi trong nỗi niềm xốn xao “hồn lau nẻo
bến bờ”, những bông lau hai bên ven đường mà đoàn quân Tây Tiến đi qua dường như
cũng hồn, với việc sử dụng biện pháp nhân hóa đã gợi cảm giác mênh mông, xa
vắng. Câu thơ gợi lên nhiều cách hiểu, thể trong buổi chia tay ấy tâm hồn của
những người lính Tây Tiến như nhuốm lên cảnh vật, gieo hồn mình vào những bông
lau. Cũng thể hiểu theo cách khác, cả cuộc đời người lính Tây Tiến luôn gắn liền
với hoa lau Tây Bắc nay rời xa nỗi nhớ trở nên bâng khuâng và lưu luyến.
Không gian nên thơ ấy như làm nền cho hình ảnh con người xuất hiện. Đây vẻ đẹp
đặc trưng trong thơ ca hiện đại, con người luôn điểm hội tụ của bức tranh thơ
nhớ dáng người trên độc mộc”. Đây hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những
gái Thái trên con thuyền độc mộc đang chèo thuyền vượt qua sông. Nhưng người đọc
cũng thể cảm nhận một hình ảnh khác, đó chính sự kiêu dũng của những chàng
trai Tây Tiến đang chèo đò vượt thác tiến về phía trước chiến đấu với kẻ thù.
Đến với câu thơ cuối người đọc ấn tượng với sự đối lập:
1%-./ 0"$*$ *0F
Đó là sự đối lập giữa một bên là “dòng nước lũ” như muốn cuộn xoáy, cuốn trôi trong
cái dữ dội, cuộn trào của thiên nhiên còn một bên cành hoa mềm mại đang đong
đưa “hoa đong đưa”. Tạo cảm giác thiên nhiên như đang hòa hợp với con người, hòa
trong cảm xúc của con người. Không phải cánh hoa trôi nổi trước dòng nước
 !"
đó cảm giác như cánh hoa đang làm duyên, đong đưa theo chiều gió. Dáng hoa ấy
như hòa cùng trong dáng người trên con thuyền độc mộc làm nên một bức hoa thật
lãng mạn nhưng không kém phần hào hùng.
Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nội dung còn thành
công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Sử dụng ngôn từ
đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.
Đoạn thơ trên trongi thơ Tây Tiến mang đến cho người đọc xúc cảm bâng khuâng,
những dòng thơ mềm mại trong không gian lãng mạn hòa cùng nỗi nhớ của những con
người lạc quan, lãng mạn hào hoa. Hình ảnhy sđọng lại trong tâm trí người đọc
mọi thế hệ như một điểm sáng về những người lính trong kháng chiến chống Pháp
được Quang Dũng thể hiện chân thực đầy xúc cảm.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 21
Nếu khổ một, nhà thơ đã khắc họa những hình ảnh dữ dội của núi rừng Tây Bắc thì
đoạn thơ thứ hai này, Quang Dũng đã đưa ta vào một khung cảnh khác: cảnh mỹ lệ,
duyên ng, tươi mát của Tây Bắc. Cảm hứng lãng mạn được chia thành hai phần
rệt, hướng đến hình ảnh người lính trong đêm liên hoan doanh trại vẻ đẹp Tây Bắc
một chiều sương. Những nét vẽ bạo khỏe, gân guốc đã được thay bằng những nét
mềm mại, tinh tế, tài hoa.
Trải qua những giây phút hành quân gian khổ, những người lính còn những giờ
khắc giao lưu văn nghệ với đồng bào Tây Bắc. Gọi 1.$%&F•bởi Quang Dũng
nhìn theo cảm hứngng mạn, lẽ hiện thực một đêm văn nghệ giản dị ấm áp
trên chặng hành quân dặm dài gian khổ. Không khí liên hoan tràn ngập cả âm thanh,
ánh sáng, dáng điệu con người:
1!$%&' ()*+$
3456(7$8$ 9
3:(*; 5<
=&>?(@6A,F
 !"
Đảo ngữ1' ()*+$F•kết hợp với động từ•1' F•tạo ấn- tượng về một
thứ ánh sáng bất ngờ, tựa như có hàng ngàn ngọn đuốc đột ngột thắp lên cháy, sáng cả
núi rùng trong đêm. Đôi mắt lãng mạn, tình tứ của Quang Dũng đã những ngọn
đuốc đó như1*+$Fg•ngọn đuốc cháy trong đêm tâm hồn - ngầm chỉ một s kết
duyên gặp gỡ giữa những người lính Tây Tiến trẻ trung hào hoa với nhân dân Tây
Bắc. Trên cái nền ánh lửa lung linh ấy, nổi bật dáng hình của những bóng hồng
miền sơn cước:•13456(7$8$ 9j3:(*; 5<F. Chỉ
từ•14F•như mở ra trước mắt người đọc dáng hình uyển chuyển, dịu dàng theo điệu
khèn của những thiếu nữ Tây Bắc, cũng không giấu nổi sự ngạc nhiên, ánh nhìn
tình tứ của những người lính trẻ trước vẻ đẹp xứ người. Cái dáng điệu15<Fkđược soi
chiếu qua đôi mắt hào hoa của những con người lần đầu đặt chân đến Tây Bắc gợi một
vẻ đẹp kín đáo, một sự phát hiện trước những nét đẹp văn hóa Tây Bắc. Thêm vào đó
những1*;F•- những điệu múa, điệu nhạc lạ như chất xúc tác gợi cái tình tứ,
say thưởng thức. Cái chất hào hoa, lãng mạn, đa tình này dường như 1*f
CHF•của những người lính trong thời kháng chiến chống Pháp, khi họ đa phần
thanh niên học sinh trí thức, xếp bút nghiên cầm súng lên đường theo tiếng gọi của
quê hương. Câu thơ thứ chủ yếu thanh bằng, tạo cảm giác nhẹ nhàng, bay bổng
trong tâm hồn của người lính:•1=&>?(@6AF,•Âm nhạc cất lên hòa
điệu với tâm hồn thơ mộng, gọi về cái mộng mơ, đưa tâm hồn phiêu du vượt qua giới
hạn của không gian, của biên giới, để xây đắp hồn thơ - đến Viên Chăn - đến
ngày chiến thắng. Hình ảnh thơ mỹ lệ nhưng không hề thoát ly cuộc sống, trái lại
tác dụng nâng đỡ tầm hồn con người, khích lệ tinh thần những người lính mở ra
khát vọng hòa bình cho đất nước.
Bốn câu thơ đầu giúp ta cảm nhận được cái tưng bừng, nhộn nhịp trong đêm liên hoan
ấm tình quân dân. Bốn câu thơ sau lại tiếp tục mạch cảm xúc của toàn bài thơ, ấy
nỗi nhớ về những khoảng không gian sông nước đầy chất thơ của Tây Bắc:
1= 09*@B)?C0 <
@D<AE$9
@D.7  09%(*))
%-./ 0"$*$ *0F
 !"
Tây Bắc đẹp - thơ mộng - trữ tình với mênh mang sông nước, lãng đãng sương giăng,
với hai bên bờ bạt ngàn lau, đâu đó thấp thoáng bóng người, bóng hoa. Không
gian thời gian được mở ra qua cụm từ1@?C0 F•trong khoảnh khắc cuối
ngày, khắp đất trời chìm trong màn sương bồng bềnh, lãng đãng rất đặc trưng cho núi
rừng Tây Bắc. Ý niệm thời gian cũng bị xóa nhòa qua từ1<F2•nó gợi nhiều kỉ niệm,
thể trên con đường hành quân tác giả đã khắc in vào tâm trí mình một khung cảnh
vừa thực, vừa ảo giờ đây nhớ lại, kỉ niệm hồ lại sức ám ảnh lòng người. Đi
trong chiều sương, những tâm hồn trẻ trung ấy đã thấy1AE$9”. Đó
bạt ngàn lau xám phất phơ hai bên bờ sông hoang vắng, như lay động một nỗi niềm.
Cái màu trắng tinh khiết trải dài ấy gợi lên nét đẹp nguyên như chưa từng dấu
chân người. Nhớ về Tây Bắc người ta hay nhớ về những cánh đồng lau bạt ngàn
trắng như thế, cái hồn của lau kéo theo cái hồn người là như vậy!
Nhớ về Tây Bắc còn nhớ cái1.7  09%(*))Fg•gợi vẻ đẹp khỏe khoắn
của những chàng trai, những gái, những người dân Tây Bắc trên con thuyền độc
mộc lao trên sóng nước. Cảm hứng ngợi ca những con người ấy ta cũng gặp trong
hình ảnh ông lái đò Mai Châu trong tác phẩm1= 097*/T- cF•của Nguyễn
Tuân. Đặc biệt hình ảnh những bông hoa rừng1*$ *0F•trôi theo dòng nước lũ.
Trong cái khắc nghiệt dữ dội vẫn luôn vẻ đẹp của sự mềm mại, mong manh. Điểm
nhìn lãng mạn giúp Quang Dũng có được những phát hiện rất nên thơ như thế.
Trong đoạn thơ này, ta thấy vang lên điệp khúc của những câu hỏi tu từ: “có thấy...
nhớ…”. Đó sự gợi thức trong tâm hồn mình, sự nhắc nhở mỗi chàng trai ra đi từ
36 phố phường hãy nhớ về Tây Bắc, về Tây Tiến như những hồi ức hào hùng một đi
không trở lại.
Tóm lại, tám câu thơ như 1 bức tranh thanh với chỉ vài nét chấm phá tinh tế, mềm
mại thu được cái hồn của cảnh người Tây Bắc. Cũng qua những hình ảnh thơ
đặc sắc ấy, chúng ta còn cảm nhận được vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến -
những chàng trai lãng mạn, đa tình, hào hoa.
| 1/71

Preview text:

Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến Dàn ý số 1 I. Mở bài:
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến
- Khổ 2 Tây Tiến thể hiện một thế giới lãng mạn và trữ tình ở vùng Tây Bắc với những kỉ niệm đẹp. - Trích thơ:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ......
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa" II. Thân bài: * Tổng
- Sơ lược về đoàn quân Tây Tiến
- Đôi nét về tác phẩm Tây Tiến * Phân tích - Hai câu thơ đầu:
● "Doanh trại": nơi sống và làm việc của bộ đội, khô khan, nghiêm khắc
● Động từ "bừng": ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ
● "Hội đuốc hoa": mang màu sắc tình yêu (từ chữ Hán có nghĩa là hoa chúc) vừa
duyên dáng, vừa rạng rỡ
● "Kìa em": Ngỡ ngàng, kinh ngạc, trìu mến
● "Xiêm áo": Trang phục đẹp đẽ, xinh xắn - Hai câu thơ sau:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
● "Khèn": nhạc cụ mang bản sắc riêng của Tây Bắc
● "Man điệu": điệu nhạc, điệu múa mang âm hưởng Tây Bắc
● "E ấp": sự ngại ngùng, thẹn thùng của các thiếu nữ dân tộc
● "Xây hồn thơ": vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của tâm hồn người chiến sĩ - Bốn câu thơ tiếp theo
● Chiều sương": hình ảnh lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ dội ở đầu bài
● "Ấy": đại từ khiến hình ảnh buổi chiều sương trở nên đặc biệt
● "Hồn lau": Tả dáng lau qua màn sương, đồng thời đem lại linh hồn cho cây cỏ
● "Nẻo bến bờ": Nẻo- hướng đi, lối đi. Đi đâu cũng thấy mênh mông, bao la
● Điệp ngữ: "Có thấy-có nhớ" thể hiện nỗi lưu luyến, nhớ nhung da diết
● "Dáng người trên độc mộc": Dáng vẻ uyển chuyển, thướt tha với sự làm duyên
của cánh hoa đong đưa theo dòng nước lũ.
● "Dòng nước lũ - hoa đong đưa": Hình ảnh tưởng chừng đối lập mà hài hòa nên thơ
→ Bút pháp gợi mà không tả * Hợp
● Ngòi bút tài hoa, tinh tế nhưng không kém phần lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng
● Tình cảm của tác giả dành cho thiên nhiên và con người Tây Bắc cùng với các kỉ niệm đẹp. III. Kết bài:
- Suy nghĩ, tình cảm của em Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến . Dàn ý số 2 1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Quang Dũng cũng như bài thơ Tây Tiến.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Đề cập khổ 2 trong bài thơ thể hiện tình cảm quân dân trong cuộc chiến tranh chống
Pháp cũng như vẻ đẹp của núi rừng sông nước miền Tây. 2. Thân bài
- Những nét chính về nhà thơ Quang Dũng và hoàn cảnh ra đời tác phẩm Tây Tiến.
- Cảm nhận đêm liên hoan và sự hòa quyện tinh tế giữa người em Tây Tiến và vẻ đẹp của núi rừng.
- Tìm hiểu khung cảnh huyền ảo thơ mộng của vùng sông nước nơi đây. 3. Kết bài
- Khái quát ngắn gọn giá trị của bài thơ, đặc biệt vẻ đẹp của khổ 2 bài thơ.
- Bày tỏ suy nghĩ của bản thân khi cảm nhận và phân tích khổ 2 bài Tây Tiến.
Như vậy, chất thơ mộng, chất nhạc, chất họa đã hòa quyện tinh tế trong vẻ đẹp của
khung cảnh thiên nhiên và con người miền Tây. Có thể thấy đoạn thơ đã bộc lộ rõ nét
sự tài hoa trong ngòi bút của Quang Dũng cũng như tâm hồn nghệ thuật độc đáo của nhà thơ.
Sơ đồ tư duy Tây Tiến khổ 2
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 1
Ra đời năm 1948, cùng với “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu,
“Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, bài thơ
“Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng đã tạo nên bộ “ngũ tư bất tử” trong thơ ca thời
kháng chiến chống Pháp. Nỗi nhớ về cảnh và người nơi núi rừng Tây Bắc, nhớ về
những người đồng đội từng vào sinh ra tử đã trở thành mạch nguồn cảm hứng để
Quang Dũng cho ra đời thi phẩm Tây Tiến gây xúc động lòng người. Bài thơ là tiếng
lòng thổn thức, chơi vơi mà Quang Dũng gửi lại mảnh đất miền Tây Bắc và đoàn quân
Tây Tiến. Men theo nỗi nhớ thương ấy, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên miền Tây rất
đỗi thơ mộng, con người miền Tây khỏe khoắn, kiên cường đã được khắc họa thật
đậm nét qua những vần thơ giàu sức gợi cảm:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ông có thể viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn
nhạc, trong đó ông đặc biệt thành công trong lĩnh vực sáng tác thơ văn. Với hồn thơ
lãng mạn, phóng khoáng Quang Dũng đã mang đến cho thơ văn kháng chiến một màu
sắc mới mẻ, độc đáo, đặc biệt là trong hình tượng người lính: vừa kiên cường dũng
cảm vừa hào hoa phong nhã. Có thể thấy rõ những nét mới mẻ này qua bài thơ được
coi là kiệt tác thơ văn của Quang Dũng – Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác năm 1948
khi Quang Dũng chia tay với đồng đội, binh đoàn Tây Tiến để chuyển đến đơn vị
công tác mới. Qua bài thơ, Quang Dũng không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình cảm gắn bó
với những người đồng đội và vùng đất Tây Bắc mà còn dựng lên đầy sống động chân
dung những người lính Tây Tiến vừa kiêu dũng, ngoan cường vừa tài hoa lãng mạn.
Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần
đông là những chàng trai trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch: “Những chàng trai
chưa trắng nợ anh hùng – Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm” nên tâm hồn họ lãng
mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí
tưởng cao cả: quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây
Tiến là một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu – Hòa Bình cho đến tận Thanh
Hóa, kéo sang cả Sầm Nưa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc hiểm
trở của tổ quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt. Họ có nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của
tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pathết Lào đánh tiêu hao sinh lực địch. Cuộc sống
chiến đấu vô cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt.
Chính vì thế mà những người lính Tây Tiến hi sinh vì mũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm
đau, bệnh tật thì nhiều. Chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn Tây Tiến đã hi sinh gần
hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng Quang Dũng được chuyển sang một đơn vị khác và
Tây Tiến sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi bên dòng sông Đáy hiền hòa
thuộc tỉnh Hà Đông cũ, kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn bó cùng đồng đội thân
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. Tây Tiến được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da diết
Quang Dũng gửi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu. Bài thơ mới ra đời nó có
tên là “Nhớ Tây Tiến”. Nhưng có lẽ sau này Quang Dũng hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn
ngoại”, không nói nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng
chữ, từng nhịp thơ, đấy mới là cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh
giản chỉ còn “Tây Tiến” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là nguồn cảm
hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” xuất bản năm 1948.
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sự hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên
và con người. Cảnh trí miền Tây dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống
đậm chất Đường thi: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ
mộng, thi vị, ấm áp giàu sức cuốn hút.
Bốn câu đầu gợi nỗi nhớ cảnh đêm liên hoan rực rỡ, lung linh, chung vui với bản làng xứ lạ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Khung cảnh của đêm liên hoan lửa trại được nhà thơ gọi theo cách riêng của mình là
hội đuốc hoa thật tưng bừng, náo nhiệt và rộn rã. Không còn cái khúc khuỷu, thăm
thẳm của đèo cao, vực sâu, không còn cái oai linh gầm thét của rừng thiêng xứ lạ nữa.
Bừng lên là bừng tỉnh, bừng sáng, tưng bừng. “Bừng lên” vừa chỉ được ánh sáng phát
ra đột ngột, bất ngờ vừa gợi sự thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên.
Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu.
Từ “bừng” làm sống dậy cả một đêm liên hoan văn nghệ, làm bừng sáng và rộn ràng
cả đoạn thơ. Chính vì thế có thể coi nó là nhãn tự, là chữ có thần.
Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra giữa lòng núi rừng đại ngàn của miền Tây nên cần
phải có lửa đuốc để soi sáng. Người đến xem và những chàng lính trẻ cầm trên tay bó
đuốc là những thanh nứa, thanh tre đập dập. Khi đêm liên hoan văn nghệ diễn ra cũng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
là lúc ánh sáng của lửa đuốc bừng lên soi tỏ mặt người, ấm áp tình quân dân. Trong
con mắt thơ tài hoa của Quang Dũng đó là đêm hội đuốc hoa, ngọt ngào, đắm say,
lãng mạn như đêm động phòng hoa trúc của lứa đôi trong tối tân hôn. Thật là cảm xúc
táo bạo và khó phai mờ. Ánh sáng bừng lên cũng là lúc những sắc màu lung linh tỏa
rạng của những xiêm áo thổ cẩm:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu say đến cảm
phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản
sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc tôn vinh thêm vẻ đẹp của họ Quang Dũng
không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân
của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Và còn bừng lên cả âm thanh của tiếng
khèn “man điệu”: Khèn lên man điệu nàng e ấp. Những điệu nhạc truyền thống của
các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc du dương, bí ẩn hoang sơ như chốn núi rừng có sức
mạnh hút hồn các chàng lính trẻ.
Trong khoảnh khắc ngập tràn âm thanh và ánh sáng ấy, tâm hồn người lính cũng rộn
rã, tưng bừng. Thán từ “kìa em” như lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ
ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Trên cái nền
không gian ấy “em” xuất hiện. “Em” xuất hiện lập tức trở thành trung tâm thu hút mọi
điểm nhìn. Nhân vật “em” đã có những cách lí giải khác nhau. Có thể là những cô gái
dân tộc miền núi rừng Tây Bắc, mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình, múa
những điệu Lâm Tơi, Lâm Vông để phục vụ cán bộ kháng chiến và những anh chàng
lính trẻ. “Em” cũng có thể hiểu là những cô trong các đoàn văn công về phục vụ văn
nghệ làm giàu có thêm đời sống tinh thần của những người chiến sĩ. Sau bao chặng
đường hành quân chiến đấu vất vả gian lao giờ là những phút nghỉ ngơi, thư giãn tinh
thần bỏ lại sau lưng bao mệt mỏi, nhọc nhằn của hiện thực cuộc sống. Và “em” cũng
có thể chính là những anh chàng lính trẻ. Trong nhật kí trung đoàn có ghi lại: Trong
đoàn quân, có những chàng lính trẻ, dáng người mảnh mai, nhỏ nhắn, giả trang làm
con gái, khi lên sân khấu diễn cũng tình tứ, duyên dáng như ai bởi sự e ấp, thẹn thùng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Câu thơ cuối ngời sáng lí tưởng người bộ đội Cụ Hồ. Người đọc cứ tưởng rằng, trước
sắc màu lung linh của những bộ xiêm áo, trước điệu nhạc miên man, du dương trầm
bổng, trước những điệu múa yêu kiều, duyên dáng, tình tứ, uyển chuyển những chàng
trai Hà Thành sẽ bị hút hồn vào đêm liên hoan văn nghệ. Đó cũng là những phút giây
lắng lòng để nghỉ ngơi sau một chặng đường dài hành quân mệt mỏi. Nhưng không,
có lẽ chúng ta đã lầm tưởng bởi trong giây phút thăng hoa với nghệ thuật, cảm xúc
cũng là lúc người lính sống đúng với khát khao cháy bỏng của mình:
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Tiếng nhạc phiêu bồng đưa tâm hồn người lính thoát khỏi thời gian và không gian
hiện tại, chơi vơi sang tận thủ đô Viêng Chăn của Lào. Người đọc chắc hẳn đã đặt câu
hỏi vì sao? Thủ đô là trung tâm đầu não của một quốc gia. Khi thủ đô còn bóng một
kẻ thù nào thì dân tộc đó chưa có độc lập. Và khi bóng giặc bị đẩy ra khỏi thủ đô cũng
là lúc nam bang, bốn cõi đã cất lên khúc ca khải hoàn. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra
tại Viêng Chăn của Lào ắt sẽ là đêm liên hoan vui niềm vui trọn vẹn, niềm vui trong
chiến thắng. Có thể thấy, trong lúc mộng mơ nhất, người lính Tây Tiến vẫn không
quên nhiệm vụ của mình. Vẫn cháy bỏng một khát khao quét sạch bóng quân thù ra
khỏi biên cương, bờ cõi. Đó là khát vọng của lí tưởng chân chính, đúng đắn.
Sau những vần thơ rực rỡ sắc màu, lung linh ánh sáng và chan chứa niềm vui về đêm
liên hoan lửa trại thắm tình quân dân, Quang Dũng tiếp tục đưa người đọc về với cảnh
Sông nước miền Tây mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Có lẽ người đọc sẽ băn khoăn đặt lên một dấu hỏi: Người đi là ai? Phải chăng đó là
những chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến trên đường trường hành quân đã đi qua
mảnh đất Châu Mộc của Hòa Bình. Và giờ đây khi ngồi nhớ về Tây Tiến, Quang
Dũng đã nhớ đến khoảnh khắc đầy ắp những kỉ niệm cùng đồng đội thân yêu, nhớ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
từng khuôn mặt, từng bóng hình thân quen. Câu thơ xuất hiện một cụm từ chỉ thời
gian “chiều sương ấy”. Không định vị cụ thể đó là thời gian nào nhưng Quang Dũng
chắc còn nhớ như in đó là một buổi hành quân trong chiều sương mù giăng mắc, bao
phủ mênh mang khắp núi rừng, sông suối. Một không gian bảng lảng khói sương như
trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí
bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một
họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật tài hoa.
Không gian tràn ngập một màu trắng mờ mờ, bàng bạc của làn khói sương hư ảo chốn
núi rừng Tây Bắc. Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông
nước, bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. Những cây lau không còn vô tri vô giác
mà ẩn chứa linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới
cảm nhận được hồn lau đang giăng mắc, neo đậu bến bờ. Những bông lau nở trắng
khắp bờ sông, phất phơ trong làn gió nhẹ và sương khói lam chiều, nó không chỉ mang
hồn cốt của mảnh đất miền Tây mà còn kí thác anh linh của những người đã ngã
xuống vì tổ quốc thân yêu. Câu thơ này gợi người đọc nhớ tới câu thơ đầy ám ảnh của
bà Huyện Thanh Quan xưa khi nhớ về kinh đô Thăng Long cổ kính qua linh hồn cây cỏ:
Lối xe ngựa cũ hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Và nay Quang Dũng nhớ da diết núi rừng Tây Bắc qua hồn lau lay động bến bờ.
Dòng sông miền Tây hiện lên không hiền hòa êm dịu như những con sông nơi đồng
bằng mà nó cuộn xoáy và càng dữ dội hơn khi mùa nước lũ tràn về. Bên bờ sông có
những bông hoa dại nở, khi nước lũ tràn về, dâng cao làm ngập những đóa hoa rừng.
Dòng nước vì yêu hoa nên muốn kéo hoa đi cùng nhưng vì hoa yêu đất nên hoa vấn
vương ở lại. Kết quả là bông hoa cứ đong đưa chao mình trên dòng nước lũ, dùng
dằng nửa ở, nửa đi nhưng vấn vương không nỡ nên cứ làm mình làm mẩy, làm duyên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
làm dáng trên dòng sông. Tình cây- tình đất, bông hoa – dòng nước đang cố giao hòa
giao cảm làm nên cái duyên đẹp của thiên nhiên, đất trời.
Và có lẽ, hình ảnh trung tâm, điểm nhấn của bức tranh là hình ảnh con người chèo
thuyền độc mộc trên dòng nước lũ. Con thuyền độc mộc là một loại thuyền chỉ xuất
hiện trên những dòng sông thác dữ giữa núi rừng. Nó không giống như thuyền thắt
đuôi én, thuyền nan ở những con sông vùng đồng bằng. Con thuyền được làm từ thân
một cây gỗ lớn, được đục và khoét thân nên thuyền rất chắc chắn. Dáng người chèo
thuyền độc mộc xuất hiện uyển chuyển, tình tứ. Đó là ai, người con gái hay con trai?
Có lẽ người đọc dễ dàng nhận ra dáng uyển chuyển ấy chỉ có thể là những cô thiếu nữ
chèo thuyền đưa các chiến sĩ qua sông. Để rồi khi đã sang sông nhưng bao chàng còn
ngẩn ngơ, còn làm thơ, còn vấn vương mãi trong tim bóng hình uyển chuyển, mềm
mại ấy và rồi bỗng nhiên nó trở thành một hình ảnh trong kỉ niệm ngọt ngào neo đậu
mãi trong tim những chàng trai trẻ.
Người đọc cảm nhận được sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người lao động bình
dị. Hình ảnh thiên nhiên với những bông hoa đang làm duyên, làm dáng, đong đưa
trên dòng nước lũ thì con người cũng đang duyên dáng, uyển chuyển tựa tay lái nở
hoa trên dòng sông. Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của
cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả
như ngây ngất đắm say. Ở đây cảnh như làm duyên với người. Duyên dáng đến độ và
tình tứ cũng hết lời. Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và
người hòa quyện đồng điệu đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta
có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là
hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng
thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Có thể nói, thành công của đoạn thơ chính là sự hòa quyện giữa chất họa, chất nhạc và
chất thơ làm thành một. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài
hoa qua đoạn thơ này. Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
là “dáng người”, là “hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một
“chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.
Tám câu thơ thật đẹp, thật đặc sắc. Nó như một bức tranh thủy mặc với những nét
chấm phá tinh tế, mềm mại, sâu lắng. Từ đó, nhà thơ đưa người đọc vào thế giới của
cái đẹp, một thế giới của cõi mơ đầy ánh sáng, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc và cả vũ
đạo. Tám câu thơ, hai khung cảnh nhưng chung một xúc cảm say đắm, mơ mộng. Phải
là một tâm hồn thật tinh tế, nhạy cảm, Quang Dũng mới có thể chắp bút viết nên
những vần thơ hay đến thế! Với những thành công về phương diện nội dung cũng như
nghệ thuật biểu hiện, “Tây Tiến” xứng đáng ở vị trí là một trong những tác phẩm hay
nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp , đưa tên tuổi nhà thơ Quang Dũng sống mãi
cùng bạn đọc muôn thế hệ.
Phân tích đoạn 2 bài Tây Tiến - Mẫu 2
Với hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa, Quang Dũng đã cho ra đời tác phẩm
Tây Tiến năm 1948. Là một nghệ sĩ đa tài, bài thơ Tây Tiến được ông phát huy khả
năng hội họa, soạn nhạc, điện ảnh. Vì thế mà bài thơ có sức cuốn hút vô cùng mạnh
mẽ đối với người đọc. Phải chia tay binh đoàn Tây Tiến do nhiệm vụ công tác, Quang
Dũng nhớ lại những kỷ niệm về binh đoàn tại nơi dừng chân là miền Tây ở đoạn thơ thứ hai:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa …………
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào. Hoạt động cùng binh đoàn gần hai năm, cuối năm
1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác; vì thế cảm xúc chủ đạo toàn bài thơ là
nỗi nhớ da diết. Ông nhớ về chốn dừng chân tại miền Tây với những kỷ niệm ngọt
ngào thắm thiết ân tình. Tại “doanh trại” nơi đóng quân của binh đoàn đang diễn ra hội đuốc hoa.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Với động từ “bừng lên”, tác giả nhấn mạnh ánh sáng đột ngột xuất hiện trong không
gian đêm hội. Đó là ánh sáng của những ngọn đuốc bập bùng trong không khí rộn
ràng. Đó cũng có thể là ánh sáng kì diệu hân hoan trong ánh mắt, trong tâm hồn của
những người lính Tây Tiến; là thứ ánh sáng rực rỡ, tình tứ, mang đầy yêu thương, ấm áp tình dân quân.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Như một tiếng reo vui ngỡ ngàng, trìu mến khi các cô gái vùng cao xuất hiện trong
trang phục truyền thống của dân tộc mình. Những cô gái ấy càng đẹp hơn khi tiếng
khèn, điệu múa được bắt đầu. Những điệu nhạc lạ của tiếng khèn man điệu uyển
chuyển mê hoặc lòng người đến lạ lùng. Họ hòa cùng không khí đêm hội và thu hút
bởi vẻ đẹp nữ tính, thẹn thùng e ấp. Để rồi Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ, cùng
không khí âm nhạc, những điệu múa uyển chuyển, thứ ánh sáng kì diệu, những chàng
trai Hà Nội thả hồn phiêu du hướng về Viên Chăn với niềm thương mến và tinh thần đầy trách nhiệm.
Cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến phút chia tay; buổi chia tay trên sông nước miền Tây
chiều ấy là kỷ niệm đầy luyến lưu. Ta thấy hiện ra không gian bảng lảng đầy khói
sương đặc trưng của miền Tây Bắc mang lại cảm giác buồn da diết.
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Sử dụng phép điệp với cấu trúc câu hỏi tu từ “có thấy”, “có nhớ”, Quang Dũng như
luyến láy, khắc chạm vào lòng người nỗi nhớ về thiên nhiên (hồn lau) và con người
(dáng người). Với biện pháp nhân hóa, cây lau được tạo bởi muôn hạt nhỏ li ti nên chỉ
chút gió nhẹ cũng làm bờ lau mềm mại cùng xao động. Lau che kín mọi lối đi: nẻo
bến bờ. Cái tinh khôi của lau, cái trắng mờ ảo của sương bồng bềnh khiến rừng núi,
sông nước miền Tây vừa hoang dại vừa hư ảo, nên thơ, pha chút yếu tố tâm linh. Hình
ảnh con người cũng không thể thiếu trong khung cảnh đầy thơ mộng này;
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Đó có thể là dáng những cô gái Thái, Mèo uyển chuyển mềm mại cầm lái đưa thuyền
chở các chiến sĩ vượt sông. Đó cũng có thể là hình ảnh những chiến sĩ rắn rỏi, kiêu
dũng vượt thác, vượt mọi hiểm nguy của địa hình. Quang Dũng sử dụng nghệ thuật
đảo ngữ và phép đối lập trong câu thơ cuối của khổ hai như lời tạm biệt. Ông vẽ lên
một thiên nhiên dữ dội vùng thác nhưng trên đó lại có những bông hoa nhẹ nhàng
“đong đưa” tình tứ quyến luyến như cái vẫy tay từ biệt cô gái sơn nữ miền Tây với
người lính chiến trường.
Ngòi bút của Quang Dũng không chỉ miêu tả mà còn gợi, cảnh vật như có hồn thiêng
của núi rừng, đậm màu sắc cổ tích giống như nét vẽ hư ảo trên bức tranh sông nước
miền Tây. Bức tranh ấy mang đậm dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tình tứ lãng
mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến gắn bó với mảnh đất nơi đây.
Bằng ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa,
Quang Dũng đã để lại dấu ấn đẹp về thơ ca kháng chiến mà thành công là sự hòa hợp
kì diệu giữa thiên nhiên và con người miền Tây ở khổ thơ thứ hai của bài thơ. Cái đẹp
mĩ lệ, thơ mộng đầy chất nhạc, chất họa, chất mơ mộng của từng nét vẽ. Nét bút của
Quang Dũng đã tạo nên một thế giới của cái đẹp, cái ân tình yêu thương, ấm áp giữa
quân và dân vùng Tây Bắc.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến hay nhất - Mẫu 3
Bài thơ này ông sáng tác vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh. Tác giả lấy cảm hứng sau
sự kiện ông rời đơn vị cũ. Vì nhớ đồng đội, nhớ những kỷ niệm vào sinh ra tử, nhớ
những chặng đường hành quân cùng nhau, Quang Dũng đã bất giác gửi gắm qua “Tây
Tiến”. Cảm xúc riêng của nhà thơ nhưng cũng chính là xúc cảm chung của một thế hệ trẻ anh hùng:
Đoạn 2 đầy đủ như sau:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
Tây Tiến thực chất là tên của đoàn quân mà Quang Dũng tham gia, được thành lập
năm 1947. Quân đoàn này có nhiệm vụ chiến đấu ở vùng Tây Bắc với đa số là thanh
niên tri thức ra đi từ Hà Nội. Toàn bộ tác phẩm được thể hiện với bút pháp lãng mạn
kết hợp hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu sáng tạo, sinh động đã bộc lộ sự nhớ nhung da
diết của Quang Dũng về đồng đội, về sự mĩ lệ, hùng vĩ của núi rừng. Dường như, mọi
kết tinh của hồn thơ Quang Dũng đã được lắng đọng lại trong tám câu thơ phác họa
cảnh liên hoan ban đêm cùng gái bản và nét mộng mơ, độc mộc trên những con sông
miền Tây. Quả thực, dấu ấn âm nhạc và hội họa được tác giả khắc họa nổi bật qua các
kỷ niệm đẹp và buổi phân li.
Đoạn 2 Tây Tiến, người đọc như đang được tham gia vào đêm liên hoan thấm đượm
tình quân và dân nơi sông nước miền Tây thơ mộng.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu, nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Bên cạnh những gian khổ nơi rừng thiêng nước độc, trong ký ức của nhà thơ Quang
Dũng còn có cả thứ ánh sáng hội hè của những đêm cùng nhân dân vui chơi liên hoan.
Nhà thơ khéo léo dùng tư “bừng lên” kết hợp với hình ảnh sinh động “đuốc hoa” đã
làm nổi bật lên không khí tưng bừng, sôi nổi của đêm lửa trại. Cả doanh trại khi ấy
bỗng bừng sáng lên, lấp lánh như ánh pháo hoa lúc hòa bình. Đó cũng là lúc lời ca
tiếng hát của dân bản cũng như các chiến sĩ reo vàng và hòa làm một. Câu hỏi cảm
thán “kìa em xiêm áo tự bao giờ” thốt lên bộc lộ sự bất ngỡ, ngạc nhiên đến vui sướng
của những chiến sĩ đoàn quân Tây Tiến.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Đã thật lâu lắm rồi, từ khi xa Hà Nội chiến đấu, đoàn lính Tây Tiến mới lại thấy các
cô gái tươi trẻ. Mà hôm nay các cô còn lộng lẫy xiêm y truyền thống mang hình bóng
của núi rừng nên các anh càng thích thú. Dường như, qua đây tác giả muốn khẳng
định, các cô gái Tây Bắc ấy chính là trung tâm, là linh hồn của đêm hội. Sự e thẹn,
mềm mại tình tứ, duyên dáng hiện rõ qua nét mặt, nụ cười và điệu múa của các cô.
Nhưng tất cả cái sự e ấp ấy lại hút hồn hút vía các chàng trai đến từ miền đồng bằng.
Không dừng lại ở đó, tác giả còn mang vào đêm hội tiếng khèn réo rắt, rạo rực, khiến
cảnh vật lẫn con người như bốc men say. Thiên nhiên, con người hòa quyện vào nhau
như muốn “xây hồn thơ” trong trẻo, lãng mạn. Không khí của đêm liên hoan còn ngây
ngất hơn bởi tiếng khèn rạo rực, réo rắt khiến cho cả con người, cảnh vật như bốc men
say, trở nên phong phú, sinh động như muốn “xây hồn thơ” lãng mạn. Có thể nói, 4
câu thơ như phần nào thể hiện sự tinh tế, hồn hoa. Đó cũng chính là tâm hồn hào hoa,
tinh tế của nhà thơ Quang Dũng.
Nếu 4 câu thơ trước, tác giả vẽ nên bức tranh ban đêm ở miền núi rừng Tây Bắc sôi
động trong ánh lửa trại bập bùng thì 4 câu thơ sau lại đưa người đọc đến bức tranh về
dòng sông miền sơn cước. Bức tranh ấy gợi lên một xúc cảm thật mờ ảo, mênh mang:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”
Khi phân tích đoạn 2 Tây Tiến này, các bạn không khó nhận ra ngòi bút của nhà thơ
không phải tả chi tiết mà chỉ gợi mở. Tác giả sử dụng một loạt những hình ảnh mờ ảo
như “ chiều sương ấy”, “hồn lau”, “ nẻo bến bờ”, “ hoa đong đưa” kết hợp với cách
hỏi cảm thán không cần lời đáp như “ có thấy”, “ có nhớ”…. Điều đó đã vẽ ra trước
mắt độc giả một khung cảnh miền Tây thật nên thơ và ảo mộng. Những màn sương
của thiên nhiên đang giăng mắc khắp nẻo không gian, hai bến bờ mang dáng vẻ hoang
dại, lặng lẽ. Thế rồi, khi người chiến sĩ đang đắm mình trong cảnh đẹp đó thì trên sông
bỗng xuất hiện dáng người uyển chuyển, nhẹ nhàng của cô gái Thái. Cô gái đang chèo
thuyền độc mộc. Cảnh tượng ấy sao giống như những bông hoa của núi rừng đang làm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
duyên làm dáng trên dòng nước. Con người và cảnh vật hòa hợp vào nhau, tạo nên sự
thiêng liêng của tạo hóa, khiến núi rừng miền Tây đậm chất huyền thoại và cổ tích.
Qua những nét vẽ hư ảo của nhà thơ Quang Dũng, người độc có cảm tưởng như đang
ngắm nhìn một bức tranh sở thủy hữu tình. Bảo quanh bức tranh là cảnh núi rừng
trùng điệp, giữa bức tranh là cảnh sông nước đan xen với cảnh liên hoan tình quân dân
rộn ràng. Nếu không có một tâm hồn lãng mạn, một trái tim nhạy cảm biết yêu
thương, một trí tuệ tài hoa, tinh tế, thì tác giả khó lòng tạo nên một tác phẩm đặc sắc
như vật. Ngôn từ của ông có thể ghi dấu ấn trong lòng người đọc, bởi đó chính là cảm
xúc, là sự rung động thật sử của tác giả. Đó là tình cảm chân thật, xuất phát từ trái tim
trước vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây cũng như nỗi nhớ đồng đội. Đi chiến trận, cuộc
sống luôn treo đầu ngọn súng, việc tâm hồn được vui tươi, được có giây phút bình yên
thấm đượm tình người như thế thật đáng quý. Có lẽ vì mỗi giây phút như vậy đều
hiếm hoi nên nhà thơ mới xúc động đến thế, mới khéo léo vẽ nên bức tranh bằng lời như vậy!
Như vậy, tám câu thơ ở đoạn hai hoàn toàn không mang tới sự hy sinh chết chóc. Nó
hoàn toàn là bức tranh thiên nhiên và con người miền Tây đầy kiều diễm và xinh đẹp.
Chất họa, chất nhạc, sự mộng mơ của hồn người hòa hợp vào nhau tạo nên một tác
phẩm thật hoàn hảo. Từng nét vẽ tranh bằng con chữ của nhà thơ thật uyển chuyển và
độc đáo. Đó cũng chính là sự lãng mạn và tài hoa trong tâm hồn nhà thơ xứ Đoài này.
Phân tích Tây Tiến khổ 2 - Mẫu 4
Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có thể nói là một trong những bài thơ
thành công nhất về đề tài người lính. Toàn bài đã in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn,
phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, nhà thơ đã khắc
họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang một vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất
bi tráng trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, tráng lệ. Bài thơ này
giống như miền kí ức của tác giả về binh đoàn Tây Tiến. Không chỉ có những ngày
tháng gian khó với đèo cao, thác dữ, mưa rừng, thú dữ, sương mù, mà trong miền ký
ức của nhà thơ còn có cả ánh sáng của những đêm liên hoan tưng bừng và cảnh sắc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
buổi chiều êm ả, mông lung nơi núi rừng Tây Bắc. Tất cả những điều đó đã được
Quang Dũng tái hiện thành công qua khổ thơ thứ hai của bài.
Bốn câu thơ đầu tiên như một ra thế giới khác biệt nơi miền Tây:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu, nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Hình ảnh “đuốc hoa” được hiểu là cây nến thắp lên trong phòng tối đêm tân hôn,
nhưng ở trong câu thơ đầu, “đuốc hoa” ấy lại mang nghĩa là ánh sáng của đêm liên
hoan. Dù hiểu theo nét nghĩa nào, nó vẫn tạo ra không khí ấm cúng, gợi lên niềm vui,
niềm hạnh phúc của những chiến sĩ. Từ “bừng” ở đây vừa là ánh sáng của đuốc hoa,
ánh sáng của lửa trại, vừa là màn cất giọng của những tiếng khen, tiếng hát, tiếng cười
nói rộn rã của mọi người. Từ “bừng” ấy ta đã từng bắt gặp trong thơ của Tố Hữu, khi
người thanh niên trẻ đã giác ngộ lí tưởng Đảng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Điểm chung của sự “bừng” của Quang Dũng và Tố Hữu là trước nó mang một màu u
tối, và sau nó là ánh sáng ngập tràn. Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng đang
kể lại trong bốn câu thơ này giống như một đám cưới tập thể. Từ “kìa em” ở câu thơ
thứ hai thể hiện được sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của những chàng lính Tây Tiến trước
vẻ đẹp của những cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy, kiêu sa cùng
dáng vẻ “e ấp” đậm chất thiếu nữ. Nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp tỏa sáng của cô gái
bằng cả niềm yêu, sự say đắm đến cảm phục từ vóc dáng cho đến trang phục. Chính
trang phục truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa của các thiếu nữ
Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Vẻ đẹp ấy đã khiến nhà thơ phải thán phục
đến ngạc nhiên. Hình ảnh “em” trở thành hạt nhân của cả bức tranh đêm hội với vẻ
đẹp xứ lạ phương xa. Có thể nói, bốn câu thơ đầu của khổ hai đã xua tan đi cảm giác
mỏi mệt, đẩy lùi những vất vả, gian khó của những người chiến sĩ. Thay vào đó là
niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về Viên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Chăn xây hồn thơ. Từ đó, người đọc cảm nhận được rằng dù trong những phút giây
vui vẻ, những người chiến sĩ vẫn hướng về lí tưởng cách mạng cao cả.
Nếu ở bốn câu thơ trước là khung cảnh đêm đuốc hoa, thì ở bốn câu thơ sau là khung
cảnh thiên nhiên Tây Bắc trong buổi chiều sương:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc được hiện ra theo chiều hướng nhẹ hóa. Cái dữ dội,
khốc liệt của thác dữ bị đẩy lùi đi, thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ
mộng. Hình ảnh “chiều sương” đã cho người đọc thấy được nét đặc trưng vốn có ở nơi
đây.“Chiều sương ấy” dường như là một điều gì đó mơ hồ, không thực, nhưng nó lại
gợi lên màu sắc bảng lảng, mờ ảo mà mang đậm nỗi buồn man mác. Đại từ “ấy” làm
rõ nghĩa cho hình ảnh “chiều sương”, nó thật đặc biệt đến nỗi trở thành kỉ niệm khiến lòng người bâng khuâng.
Đoạn thơ này mang đậm màu sắc của hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, kết hợp
với cái mờ ảo của sương khói đã tạo nên một miền cổ tích riêng biệt. Có lẽ, chất họa sĩ
của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này.Chỉ với một vài nét chấm phá, nhà thơ đã
làm cho cái hồn của cảnh vật và con người được hiện lên một cách sinh động và cuốn
hút. Hình ảnh cây lau trong câu thơ thứ ba dường như không còn chỉ là cây lau vô tri
vô giác nữa, mà nó có linh hồn của riêng mình – “hồn lau”. “Hồn lau” gợi cảm giác
hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng, vừa có chút gì đó ma mị của bức tranh thiên nhiên.
Giữa không gian thiên nhiên nên thơ của vùng núi rừng Tây Bắc, hình ảnh con người
hiện ra với vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da
diết, cháy bỏng khôn nguôi. Dáng người ấy có thể là hình ảnh uyển chuyển, mềm mại
của những cô gái bản địa đưa các chiến sĩ vượt sông, cũng có thể là hình ảnh của
những người lính Tây Tiến chèo chống con thuyền để vượt sông, vượt thác dữ tiến về
phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy để lại cho nhà thơ những ấn tượng khó phai nhòa.
Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi cảm ở câu thơ cuối:
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Cánh hoa rừng như đang quyến luyến con người, nó như bàn tay vẫy chào người lính,
tiễn họ vượt sông đi đánh giặc.Đoạn thơ đã để lại dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến
mà thành công nhất là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn, bên cạnh các yếu tố nghệ thuật.
Có thể nói, với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mà đậm chất lãng mạn, hào hoa, Quang
Dũng đã tái hiện lại khung cảnh, con người trong đêm liên hoan nơi doanh trại và cả
khung cảnh chiều sương nơi rừng núi Tây Bắc. Với từng nét vẽ mềm mại, uyển
chuyển, nhà thơ đã vẽ nên một thế giới của cái đẹp. Đây cũng là đoạn thơ bộc lộ rõ
nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong cả bài thơ.
Phân tích Tây Tiến khổ 2 - Mẫu 5
"Thơ làm cho tất cả những gì tốt đẹp trở thành bất tử". (Shefley) Và Quang Dũng đã
làm sống lại những gì đẹp đẽ nhất, những kí ức khó quên nhất trong cuộc đời người
lính. Đó không chỉ là những giây phút hành quân nơi núi cao vực sâu dốc thẳm mà
còn là những khoảnh khắc bình yên. Đêm hội liên hoan tại một bản làng trên vùng núi
cao Tây Bắc là một hành trang tinh thần không thể thiếu trong cuộc đời người lính.
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa"
Doanh trại không chỉ là không gian của hiện thực mà còn là không gian của tâm
tưởng, của hoài niệm và nỗi nhớ. Nơi đó đang bừng lên bởi những ngọn lửa bập bùng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
mà tác giả liên tưởng đến đuốc hoa. Những bông hoa lửa như thắp sáng cả cánh rừng
đại ngàn, đẩy lùi bóng tối, xua tan sự lạnh lẽo, làm bừng sáng cả không gian. Hai từ
"bừng lên" không chỉ là bừng lên của ngọn đuốc mà còn là "bừng lên" của kỉ niệm,
của hồi ức như một tiếng reo vui biết bao hồ hởi, say mê. Không còn những chặng
đường hành quân vất vả, cũng không còn những bước chân nhọc nhằn ra trận mà chỉ
còn lại không khí rộn ràng sôi nổi. Người lính như quên hết những mệt mỏi hiểm nguy
để đắm hồn mình vào đêm hội liên hoan ấy.
Hình ảnh trung tâm của đêm hội liên hoan là sự hiện diện của những cô thiếu nữ vùng sơn cước:
"Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."
Trong ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc lung linh kì ảo, trong tiếng khèn tiếng nhạc du
dương, những cô thiếu nữ vùng cao xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy, quyến rũ, e ấp,
duyên dáng và tình tứ khiến những chàng lính không khỏi ngạc nhiên, ngỡ ngàng.
"Kìa em" là tiếng reo với bao bất ngờ vui sướng và có cả sự thán phục ngợi khen. Với
những bộ trang phục thật đẹp và lạ mắt, với những vũ điệu đậm sắc màu dân tộc và cả
nét e ấp e thẹn, những cô gái sơn cước đã khiến bao chàng trai Tây Tiến như bị hút hồn, ngây ngất.
Cảnh vật và con người đểu như ngả nghiêng, say sưa trong tiếng khèn, tiếng nhạc,
trong những vũ điệu ngọt ngào say đắm, vừa có chút gì đó hoang dại bí ẩn mê hoặc
lòng người. Những âm thanh khốc liệt của súng đạn bị đẩy lùi chỉ còn những tâm hồn
lãng mạn, những "hồn thơ" hòa mình trong điệu nhảy điệu múa đến say lòng người.
Sau những hoài niệm về đêm lửa trại ấm áp tình quân dân là những bâng khuâng xa
vắng trong nỗi nhớ miên man về cảnh sông nước và con người miền Tây Bắc.
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Sông nước miền Tây hiện ra vào một buổi chiều sương tĩnh lặng. Không gian giăng
mắc một màn sương mênh mang, mờ ảo và nhạt nhòa, tạo nên vẻ đẹp lãng mạn huyền
ảo. Ở đây không phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là sương giăng, ta
như cảm nhận được cái thực và cái mộng của khí trời Tây Bắc bảng lảng sương khói
hiện ra như một miền cổ tích.
Hai bên bờ sông là những dãy lau ngút ngàn gợi lên một không gian hoang sơ tĩnh
lặng. Những bông lau chập chờn lay động như có hồn. Hồn của lau hay chính tâm hồn
của nhà thơ đã hóa thân vào cảnh vật trong những bông lau phất phơ, huyền ảo.
Khung cảnh sông nước hoang vắng man mác buồn chợt khiến ta nhớ đến dòng sông
Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân "dòng sông như chảy từ tiền cổ", "bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa."
Sông nước miền Tây không chỉ hiện lên đậm chất hiện thực mà còn rất đỗi thơ mộng
trữ tình. Vẻ đẹp của con người hòa quyện trong vẻ đẹp của thiên nhiên.
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."
Hình ảnh thiếu nữ Tây Bắc xuất hiện trên chiếc thuyền độc mộc với vẻ đẹp vừa mềm
mại uyển chuyển, duyên dáng lại vừa vững chãi đưa con thuyền xuôi dòng. Hình ảnh
người con gái trở thành trung tâm hội tụ linh hồn của bức tranh sông nước miền Tây.
Không phải ngẫu nhiên khi Quang Dũng đặt hình ảnh người thiếu nữ bên cạnh "hoa
đong đưa". "Đong đưa" chứ không phải là "đung đưa". Nếu "đung đưa" chỉ là sự
chuyển động vật lý thì "đong đưa" còn đem đến tâm trạng, linh hồn cho cảnh vật.
Những bông hoa rừng trở thành những sinh thể có hồn. Hoa cũng như con người đang
soi mình trong gương nước chòng chành, cũng biết làm duyên làm dáng. Hóa ra con
người Tây Bắc, bóng dáng của người thiếu nữ trên chiếc thuyền độc mộc cũng đẹp
như những bông hoa rừng trong chiều sương mờ ảo.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 6
Quang Dũng vốn là lính của đơn vị Tây Tiến, một đơn vị có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào để giải phóng và bảo vệ miền biên cương phía Tây Tổ quốc. Sau đó Quang
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Dũng chuyển đơn vị công tác. Năm 1948, một lần ngồi ở làng Phù Lưu Chanh (một
địa danh cũ thuộc tỉnh Hà Đông), nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến, tác
giả cảm xúc viết lên bài thơ tuyệt bút – Tây Tiến. Tây Tiến không chỉ là bài thơ hay
nổi tiếng của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung mà
còn là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người lính, vẻ đẹp lãng mạn
và tinh thần bi tráng được thể hiện qua thiên nhiên Tây Bắc và hình tượng người lính
là hai nét đặc sắc trong cảm hứng và bút pháp nghệ thuật của Tây Tiến. Đoạn thơ sau
viết về những kỉ niệm tình quân dân đầy thi vị và vẻ đẹp thơ mộng của sông nước Tây
Bắc bằng những nét vẽ tinh tế mềm mại:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Từ “bừng” trong câu thơ đầu tiên của đoạn thơ đã gợi cho ta cảm giác đột ngột. Đó là
sự “bừng” sáng của hội đuốc hoa, của lửa trại hay sự tưng bừng rộn rã của tiếng khèn,
tiếng hát? “Đuốc hoa” vốn là một từ cổ để chỉ cây nến đốt lên trong phòng cưới đêm
tân hôn “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng Mai xưa”. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm
vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa
thiêng liêng vừa ấm áp tình keo sơn quân dân gắn bó.
Đây là đoạn thơ bộc lộ rất rõ nét tài hoa của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn
của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật
nơi xứ lạ. Vì thế, cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà lời thơ lại cho ta cảm giác đó là
cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ “Kìa em
xiêm áo tự bao giờ!” – một giọng thơ thật trìu mến, thích thú, vui sướng! Vui sướng
đến ngạc nhiên ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e thẹn, vừa tình tứ (nàng e ấp) với bộ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
xiêm y lộng lẫy trong một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ (man điệu). Chỉ bằng 4
câu thơ mà Quang Dũng đã dựng được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc
đường nét, vừa đa dạng về âm thanh.
Nếu khung cảnh đêm liên hoan văn nghệ trong những câu thơ trên đem đến cho người
đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gọi lên được cảm
giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng và mờ ảo thật chứa chan thi vị. Ở đây một lần
nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài hoa, lãng mạn, giấc mộng mơ của người lính.
Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có “Núi sương giăng, đèo mây phủ” khi cảnh chiều về vốn
đã mờ ảo lại càng mờ ảo thêm khi có lớp sương mờ bảng lảng choàng thêm một tấm
áo như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như hiện về trong kí ức của
tác giả làm cho giọng thơ của tác giả cất lên như lời tự hỏi “có nhớ? có thấy?” day dứt
càng gợi cảm giác bâng khuâng xa vắng, đầy lưu luyến. Con người tài hoa và lãng
mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Hình ảnh này chúng ta đã từng gặp trong thơ của Chế Lan Viên:
Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh (Lau biên giới)
Hay những câu thơ viết về hồn lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng tờ
như thời tiền sử huyền thoại của thi sĩ kiêm họa sĩ Hoàng Hữu:
Trường vắng mưa mờ buông dốc xa
Dày leo nửa mái sắc rêu nhoà
Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Hoa lau trường cũ)
Trong khung cảnh sông nước, chiều sương mang đậm màu sắc cổ kính huyền thoại ấy
hiện lên hình ảnh con thuyền độc mộc với cái dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo dòng nước lũ:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Câu nói của người xưa: “Thi trung hữu họa” thật đúng với trường hợp này. Ngòi bút
tinh tế của Quang Dũng chỉ phác hoạ một vài nét mà không chỉ gợi được cái “hồn”
của ngàn lau mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô gái lái đò người Mèo, người Thái,
cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” của những
bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Hai từ “thấy” và “nhớ” được
tác giả dùng trong hai câu thơ trên cũng khá tinh tế. Dường như cái hồn thiêng của
bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả còn cái dáng mềm mại thon thả của cô
lái đò cùng bông hoa rừng đong đưa lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu
cảnh đẹp non sông đất nước này. Không có một tâm hồn nhạy cảm tài hoa thì không
thể bắt rất nhạy những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế.
Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá, tinh tế, mềm
mại, tài hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật. Hơn thế, đọc đoạn thơ này lên,
người đọc có cảm giác đoạn thơ không chỉ được khắc, được phổ vào những nốt nhạc
tinh tế mà nhạc điều đó còn được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và người
miền Tây Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cho nên rất có lí khi Xuân Diệu nhận xét
“Đọc bài thơ Tây Tiến ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng”.
Đoạn thơ thể hiện bút pháp tài hoa của tác giả. Qua đó, người đọc thấy cảnh đêm liên
hoan văn nghệ, cái sông nước Tây Bắc mang vẻ đẹp hiện thực lãng mạn mà huyền ảo
với từng vần thơ vừa giàu chất nhạc vừa giàu chất họa. Đó cũng chính là sự kết hợp
hài hòa tuyệt diệu giữa ba yếu tố: thơ, nhạc, họa trong thi phẩm của Quang Dũng.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 7
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Tây Tiến là bài hát của tình thương mến, là khúc ca chiến trận của anh Vệ quốc quân
năm xưa, những anh hùng buổi đầu kháng chiến “Áo vải chân không đi lùng giặc
đánh” (Nhớ — Hồng Nguyên), những tráng sĩ ra trận với lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, bên bờ sông
Đáy thương yêu: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc — Sáo diều khuya khoắt thổi
đèn trăng’’ (Đôi mắt người Sơn Tây - 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành
lập vào năm 1947, hoạt động và chiến đấu ở thượng nguồn sông Mã, miền Tây Hòa
Bình, Thanh Hóa sang sầm Nưa, trên dải biên cương Việt — Lào. Quang Dũng là một
đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, đồng đội anh nhiều người là những chàng
trai Hà Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ Tây Tiến nói lên nỗi nhớ của tác giả
sau một thời gian xa rời đơn vị: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! - Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi...”.
Bài thơ gồm có bốn phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sông Mã, nhớ núi rừng miền
Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu vô cùng gian
khổ... Đoạn thơ trên đây gồm có 16 câu thơ, là phần hai và phần ba của bài thơ ghi lại
những kỉ niệm đẹp một thời gian khổ, những hình ảnh đầy tự hào về đồng đội thân yêu.
Ở phần đầu, sau hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ
quên đời”, người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ ấm áp, man mác, tình tứ, tài hoa:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Bát cơm tỏa khói nặng tình quân dân, tỏa hương của “thơm nếp xôi”, hương của núi
rừng, của Mai Châu.. và hương của tình thương mến.
Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở
thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
“Đuốc hoa” là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ được dùng trong
văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều). Quang Dũng
đã có một sự nhào nặn lại: hội đuốc hoa - đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại
đoàn binh Tây Tiến. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên;
cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Sự xuất hiện
của “em", của “nắng” làm cho hội đuốc hoa mãi mãi là ki niệm đẹp một thời chinh
chiến. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp,
duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn "man điệu”
đã "xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chữ “kìa” là từ để trỏ, đứng đầu câu
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ” như một tiếng trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian
khổ, mọi thử thách, như đã bị đẩy lùi và tiêu tan.
Xa Tây Tiến mới có bao ngày, thế mà nhà thơ “nhớ chơi vơi”, nhớ “hội đuốc hoa”,
nhớ “Châu Mộc chiều sương ấy". Hỏi “người đi” hay tự hỏi mình “có thấy” và “có
nhớ”. Bao kỉ niệm sâu sắc và thơ mộng lại hiện lên và ùa về:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống
như một nốt nhất, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ
kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”,
nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi
vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. “Có thấy”... rồi lại “có nhớ”,
một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi câu thơ sau” như những
kỉ niệm trở về... Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con thuyền
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
độc mộc “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Hình ảnh “hoa đong đưa” là một nét vẽ
lãng mạn gợi tả cái “dáng người trên độc mộc” trôi theo thời gian và dòng hoài niệm.
Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền “chiều
sương ấy”. Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác, bâng khuâng. Bút
pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.
Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là
“hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài
niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.
Hai đoạn thơ trên đây thể hiện cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của
Quang Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì Tây
Tiến đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. Tây Tiến đã mang vẻ đẹp độc đáo của một
bài thơ viết về người lính - anh bộ đội Cụ Hồ những năm đầu kháng chiến chống
Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 8
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên
và con người. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ dường như được tạo hình theo thi pháp
truyền thống: "Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc". Một miền Tây thơ mộng thi vị
giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này được xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp
nghệ thuật của Quang Dũng.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
"Bừng lên" vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng
lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ
đầu. Hai cụm từ "bừng lên" "hội đuốc hoa" thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ
ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn.
"Bừng lên" vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"Hội đuốc hoa" đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh
rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung
linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc.
Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng,
tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy "em" xuất hiện. "Em" xuất
hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
"Kìa em" lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang
tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ
của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang
phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây
Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến
ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ
phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến
vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính
cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ
"man điệu" mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được
chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa u Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu
Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là "em" tiếp đến là
"nàng" rồi sau lại là "em". Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng
tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất.
Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những
người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.
Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới
thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của
khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một
miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc
hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá
vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước bến bờ
hoang dại như một bờ tiền sử. "Hồn lau" những cây lau không còn vô tri vô giác mà
có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận
được hồn lau đang giăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc
thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất
đắm say trước cảnh và người, ở đây cảnh như làm duyên với người.
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên
với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng
mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ
và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai
nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình
lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn
nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 9
Thơ ca muôn đời nay luôn là tiếng lòng của người nghệ sĩ, là cây đàn muôn điệu đa
bậc nhiều cung cảm xúc khác nhau. Thơ ca cũng là cầu nối giữa trái tim đến với trái
tim, đi tìm chân trời của một người đến chân trời của triệu người. Bài thơ "Tây Tiến”
của Quang Dũng cũng đã thực sự trở thành tiếng nói tri âm của độc giả. Đọc đoạn 2
của bài thơ ta ấn tượng sâu sắc về những kỉ niệm và nỗi nhớ qua đó tác giả thể hiện
sinh động vẻ đẹp lãng mạn hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến.
Bốn câu thơ đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của chiến sĩ
Tây Tiến về một đêm lửa trại:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về viên chăn xây hồn thơ”
Câu thơ đầu tựa như một tiếng reo vui. Đây là lần thứ hai, "lửa” và "đuốc” được liên
tưởng tới hoa trong đêm sương ở Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường
lung linh, huyền ảo mà thấy như "hoa về trong đêm hơi” thì lần này trong đêm lửa trại
giữa bản làng miền Tây . Nghệ thuật ẩn dụ và cảm hứng lãng mạn đã khiến ánh lửa
bập bùng nơi bóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ gợi liên tưởng thi vị, tình tứ, đem
đến niềm vui náo nức, rạo rực cho lòng người, niềm vui khiến đêm liên hoan giữa bộ
đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng. Cụm từ "bừng lên” như một nốt nhấn
tươi sáng cho cả câu thơ, nó không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng chói lóa, đột
ngột của lửa, của đuốc, xua đi cái tối tăm, lạnh lẽo của núi rừng mà còn thể hiện niềm
vui sướng rạo rực trong lòng người. Người đọc có thể hình dung những ánh mắt ngỡ
ngàng, những gương mặt bừng sáng của những anh chiến sĩ là do phản chiếu của ánh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
lửa, ấm lòng chiến sĩ, ngọn lửa của niềm vui, trẻ trung, lạc quan, tin tưởng vào tương lai.
Hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa là các cô thiếu nữ miền sơn cước "Kìa em xiêm
áo tự bao giờ”. Từ "kìa” và từ nghi vấn "tự bao giờ” bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng
thú vị, với ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái
miền Tây. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp hiếm hoi sau bao ngày hành
quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mưa rừng và thú dữ,…
"Man điệu” có thể hiểu là những vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể
hiểu là giai điệu say đắm, ngọt ngào vừa hoang sơ, vừa bí ẩn, vừa mới mẻ lạ lủng làm
mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa, nghệ sĩ đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp,
người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ,
những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu, bay bổng
trong thế giới mộng mơ, để xây "hồn thơ”.
Trong dòng chảy miên viễn của thời gian, những hoài niệm bỗng lắng lại thật sâu ở
một buổi chiều sương mộc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những nét vẽ mềm mại, tinh tế đã tạo nên một bức tranh thuỷ mặc với hồn lau bến
nách, hơi sương giăng mờ mờ ảo ảo cùng con người trên chiếc thuyền độc mộc và
cánh hoa trôi trong dòng nước lũ. "Chiều sương” gói trọn không gian phủ một lớp u
buồn phảng phất lên cảnh vật. Chữ "ấy” bắt vần với chữ "thấy” làm cho âm điệu câu
thơ trĩu nặng xuống như một nốt nhấn, như một sự nhắc nhở trong hoài niệm những
bâng khuâng. Chịu sự tác động của nỗi nhớ, những bông hoa lau chập chờn, lay động
trên những bến bờ dường như cũng có hồn hơn. Nếu từ láy "đung đưa” gợi hình hơn
biểu cảm và chủ yếu gợi tả những cánh hoa rập rờn đôi bờ sông thì hình ảnh "hoa
đong đưa” không dừng lại ở nét nghĩa cụ thể ấy mà còn đưa đến những liên tưởng thi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
vị về dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của sơn nữ miền Tây, đó là một sáng tạo mới mẻ về
ngôn từ thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ "Quang Dũng.
Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến đã được Quang Dũng thổi hồn vào cái nồng nàn
của cảm xúc, những đường nét ấn tượng về hội hoạ và thanh âm trong trẻo của nhạc
tính. Bức tranh ấy chính là nền tuyệt đẹp để người lính Tây Tiến xuất hiện một cách
hiên ngang và hùng dũng. Cũng trên cái nền ấy tâm hồn và tài năng của nhà thơ đã
được chắp cánh bởi sự say mê trong cảm xúc và tài hoa của nghệ thuật.
Gấp trang sách lại mà những vần thơ của Quang Dũng vẫn văng vẳng để rồi những
cảm xúc chân thật nhất của nhà thơ gửi gắm mãi neo động trong tâm hồn con người
trở thành một nỗi niềm chung
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 10
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân
gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ
dội, hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên
hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính
Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm
dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm
hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ
đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Trong miền kí ức của Quang Dũng không chỉ có những ngày tháng gian khổ với đèo
cao, mưa rừng, thú dữ, sương phủ mà còn có cả ánh sáng hội hè của những đêm liên
hoan tưng bừng và những buổi chiều êm ả, mông lung.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Khèn lên man điệu , nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa
phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất thơ mộng.
Từ “bừng lên” kết hợp với hình ảnh đẹp “ đuốc hoa” miêu tả không khí sôi nổi, cả
doanh trại bừng sáng, lung linh ánh lửa đuốc khi đêm văn nghệ bắt đầu. Tiếng reo “kìa
em xiêm áo tự bao giờ” thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê, vui sướng của các
anh lính Tây Tiến trước vẻ lộng lẫy bất ngờ của các cô gái nơi núi rừng. Các cô gái
chính là trung tâm, là linh hồn của đêm hội có vẻ đẹp e thẹn, tình tứ, mềm mại, duyên
dáng trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ “ man điệu” đã thu hút hồn vía của các
chàng trai Tây Tiến. Không khí của đêm liên hoan còn ngây ngất hơn bởi tiếng khèn
rạo rực, réo rắt khiến cho cả con người, cảnh vật như bốc men say, trở nên phong phú,
sinh động như muốn “ xây hồn thơ” lãng mạn. Đây cũng chính là tâm hồn hào hoa, tinh tế của Quang Dũng.
Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí háo hức thì cảnh sông
nước miền Tây lại gợi lên cảm giác mênh mang, mờ ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Những hình ảnh “ chiều sương ấy” ,
“hồn lau” , “ nẻo bến bờ” , “ hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “ có thấy” , “ có
nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong kí ức. Sương mờ giăng mắc khắp
không gian , bến bờ lặng lẽ hoang dại , trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại ,
uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong
đưa làm duyên trong dòng nước. Cảnh như có hồn , có sự thiêng liêng của núi rừng ,
đậm màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên , ta như thấy trước
mắt mình một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm,
tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến, gắn bó với mảnh đất miền tây-tâm hồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ
Tây Tiến trước cái đẹp.
Trong hai đoạn thơ sau, nhà thơ không miêu tả cảnh thiên nhiên nữa mà tập trung vào
khắc hoạ chân dung người lính tây tiến và nỗi nhớ miền tây bằng những nét vẽ khoẻ
khoắn, mạnh bạo, gân guốc đạm chất bi tráng.
Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền tây với vẻ
đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ
với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang
Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa,
lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 11
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”
Như Chế Lan Viên đã viết, lòng thương nhớ luôn dạt dào nơi trái tim khi ta đủ yêu, đủ
gắn bó. Nhà thơ Quang Dũng cũng từng gắn bó với Tây Bắc, từng “súng bên súng,
đầu sát bên đầu” với những người đồng đội và chính những yêu thương đã khơi nguồn
nỗi nhớ, thôi thúc ông viết lên bài thơ Tây Tiến với những kỉ niệm đẹp hiện lên lung linh qua khổ thơ thứ hai.
Đến khổ thơ thứ hai ký ức một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính
Tây Tiến. Kỉ niệm khó quên nhất có lẽ là những đêm liên hoan lửa trại:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đêm hội dường như thêm vui vẻ, ấm áp và quyến rũ, say lòng người khi có “em” đang
yểu điệu, thướt tha , e ấp, dịu dàng. Đoạn thơ vẽ lên bức tranh đêm hội đuốc hoa thật
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
vui vẻ ,ấm áp. Nếu Mai Châu có hương vị cơm nếp thật hấp dẫn,...thì Châu Mộc
khoác lên vẻ mộc mạc mà đậm chất thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc với nét đẹp
hoang sơ của nó đã trở thành mảnh tình trong tâm hồn của bao người.
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn” (Chế Lan Viên)
Nỗi nhớ kéo dài để lòng người nặng những hoài niệm, nặng những chơi vơi. Hoa đong
đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay cô gái miền Tây Bắc xinh
đẹp trên dòng suối? Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang sơ nhưng trong cái hoang
sơ lại thật nên thơ và lãng mạn của cảnh và người . Bức tranh chiều sương Châu Mộc
và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu
sắc vừa cổ điển vừa hiện đại.
Nhà thơ Quang Dũng đã vô cùng thành công với tác phẩm Tây Tiến đặc biệt khi khắc
họa tượng đài những chiến binh hào hoa, dũng cảm, lãng mạn đã ghi dấu thật sâu trong trái tim bạn đọc.
“Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế !” (Tố Hữu)
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 12
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Voltaire từng nói: “ Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa
cảm”, thơ ca phản ánh chân thực tâm tư tình cảm người nghệ sĩ. Bởi vậy, ta có dịp bắt
gặp tiếng lòng nhà thơ Quang Dũng gửi nỗi nhớ niềm thương gửi tới Tây Tiến trong
bài thơ cùng tên. Khổ thơ bốn kết tinh nỗi niềm và tài năng của nhà thơ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp cam go, thơ văn trở thành vũ khí tinh thần,
động viên ý chí chiến đấu, lòng yêu nước của nhân dân ta. Giữa những năm tháng ác
liệt đó, năm 1948, khi nhà thơ Quang Dũng được lệnh chuyển đơn vị căn cứ đến đơn
vị khác. Hình ảnh làng Phù Lưu Chanh- nơi đã gắn bó với cuộc đời người lính trở
thành nỗi ám ảnh trong hồn thơ tác giả. Nỗi nhớ về một thời đã sống với đoàn quân
Tây Tiến chắp cảm hứng bay bổng cho lời thơ tuôn trào.
Nỗi nhớ chảy tràn trong từng câu thơ, nhà thơ bâng khuâng buổi sinh hoạt ở doanh trại
lính giữa rừng núi Tây Bắc. Hình ảnh đêm liên hoan mở ra ngập tràn với ánh sáng hoa lửa:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
Cụm từ “ đuốc hoa” không chỉ là hình ảnh thực về ánh lửa đuốc mà còn gợi cái nhìn
lãng mạn của chàng trai trẻ tuổi, trẻ lòng, cảm nhận ánh lửa tươi sáng, rạng ngời, lung
linh. Vầng sáng gọi về không gian ấm áp, ảo huyền xua tan cái lạnh lẽo, âm u của nơi
rừng thiêng nước độc. Hình ảnh độc đáo cũng xa xôi gợi liên tưởng về lễ hợp cẩn lứa
đôi êm đềm. Chi tiết gợi tình quân dân cá nước nồng nàn, say đắm. Không khí nơi
doanh trại đông vui tựa đêm hội hoa đăng để những chàng trai, thiếu nữ sơn thôn mở
hội lòng. Kết hợp với động từ “ bừng” đậm tô ánh đuốc bừng sáng không gian, mang
lại niềm vui tươi mới, gọi dậy một miền kỉ niệm trong sâu thẳm tâm trí nhân vật trữ tình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Giữa đêm hội tưng bừng, náo nhiệt, hình ảnh mộng mơ của bóng dáng những cô em
làm xao xuyến trái tim những chàng lính trẻ:
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Từ hán việt “ xiêm áo” khắc họa nét lộng lẫy, rực rỡ của y phục những cô gái vùng
cao, dưới ánh lửa càng trở nên kín đáo, tình tứ, dễ mến. Câu từ gần gũi như bước từ
trang đời vào trang thơ, làm sống động một trời kí ức. Người lính Tây Tiến xuất thân
là những chàng trai mới dời ghế nhà trường, đến từ Hà thành ngàn năm văn hiến. Nay
các anh đặt chân đến nơi rừng lạ núi xa, chứa đầy bí ẩn, làm sao tránh khỏi giây phút
ngỡ ngàng trước sắc đẹp bình dị của những sơn thôn nơi đây. “ Kìa em” là lời thốt lên
tự nhiên, phản ánh cái nhìn mê đắm, hóm hỉnh, trẻ trung, đậm chất lính.
Giọng điệu nhẹ nhàng, sôi nổi, gợi hình ảnh người lính đắm say trong khung cảnh
đậm chất trữ tình, ngân vang tiếng khèn bay bổng và trước điệu nhảy quyến rũ, gọi
mời trong đêm hoa đăng lộng lẫy. Đọc thơ Quang Dũng quả thực như ngậm nhạc, câu
thơ mang nhạc điệu hài hòa, lôi cuốn bạn đọc cùng đắm say. Những nét phong tục,
văn hóa vùng núi mới mẻ, cuốn hút trong cái nhìn của những anh lính. Hữu cảnh sinh
tình, không gian là chất xúc tác biến người chiến sĩ thành người thi sĩ. Nàng thơ của
các anh là cái đẹp duyên dáng của sơn nữ miền sơn cước, yêu kiều. Dừng chân trên
chặng đường hành quân gập ghềnh, cheo veo, những đêm hội đông vui thể hiện tinh
thần lạc quan, nét hòa hoa, yêu đời của họ.
Khổ thơ bốn giúp ta có cái nhìn trọn vẹn hơn về tâm hồn người lính Tây Tiến. Họ
không chỉ mang hào hùng, bất khuất trước gian khó, nhà thơ khám phá những nét tâm
tư rất đời của các anh. Nơi đó, hiện lên trái tim rung động, xao xuyến trước vẻ đẹp của
thiên nhiên, cô em sơn thôn. “ Tây Tiến” trở về vẹn nguyên, sinh động bởi hình ảnh
đó luôn thường trực trong tâm trí nhà thơ Quang Dũng. Nét bút đa tài của tác giả cùng
nỗi nhớ chân thành còn lưu lại dư âm trong lòng bạn đọc.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 13
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ thời kháng
chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây cũ), ông viết bài thơ “Tây
Tiến” nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời
trận mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao thiết tha bồi hồi:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi với”.
Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, chia thành 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi tưởng bao
kỉ niệm sâu sắc. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bài hành nói
về 2 nỗi nhớ: nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Châu Mộc:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Quang Dũng
nhớ đến “hội đuốc hoa” thắm thiết tình quân dân:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
Đuốc hoa là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. “Truyện Kiều” có câu: “Đuốc
hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”(3096). Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc
hoa” để nói về đêm liên hoan lửa trại giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với
đồng bào các bản mường. Chữ “bừng” vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa
tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong
hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xòe của các cô
gái Mường, cô gái Thái tham gia? Chữ “kìa” là đại từ để trỏ một đối tượng (người,
vật) từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng
lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các “nàng” đến dự hội đuốc hoa trong bộ
xiêm áo xinh đẹp. Hình ảnh “nàng e ấp” là một nét vẽ tài hoa và có hồn đã gợi tả vẻ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng
khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các “em”, các “nàng” như đã “xây
hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ chung, xinh đẹp, hào hoa, đa tình; ngòi
bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng thấy đời sống
tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt.
Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi tưởng “trôi” về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc
tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, nơi có dãy núi Pha Luông cao
1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến
với tâm hồn thi sĩ đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã
trôi qua, cảnh và người miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
“Chiều sương ấy” là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều
thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ “ấy” câu trên bắt
vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ
hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau
kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài
hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh
sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ
điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là
những câu cổ thi tuyệt bút:
“Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…” (Chinh phụ ngâm)
Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng”.
(Lau mùa thu – Chế Lan Viên)
Điệp ngữ “có thấy” và “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm
phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn “có
nhớ”. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và “dáng người” chèo thuyền độc mộc? “Có
nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa”trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” có phải là hoa rừng
“đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay “Hoa
đong đưa” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc
duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang “đong đưa” trên sông suối.
Bài hát “Sơn nữ ca” của nhạc sĩ Trần Hoàn, “Nụ cười sơn cước” của nhạc sĩ Tô Hải
cho ta cảm nhận ấy. Phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy.
Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi
cao nguyên Châu Mộc đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và
hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng
liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan và yêu đời của một khách
chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của
cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm
hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng
đội mới có kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một
danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại
và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 14
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành
công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến
nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”… Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã
gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô”
là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa… Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Tây Tiến là
một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên
trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía
Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng
chuyển sang đơn vị khác.
Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn
thơ ta bình giảng là đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến. Bốn câu đầu, nhà thơ mang
đến cho người đọc không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà
tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần
với bộ đội Tây Tiến. Từ “bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng
núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” (“Đuốc hoa” là hoa
chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn).
Ở đây, “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng, gợi niềm vui, niềm hạnh
phúc trong lòng các chiến sĩ. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng
bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã.
Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”.
Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể.
Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây
Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng
vẻ “e ấp” rất thiếu nữ.
Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến
cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà
bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang
Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt
nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa.
Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng
“e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả
con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn
nghệ. Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”.
Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc miền núi Tây Bắc còn “man điệu” là một
điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn
ngất ngây ấy là điệu múa Lăm vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ”
trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai
Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp
cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi,
thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ.
Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc
quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây
hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong những
giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về lí tưởng cách
mạng cao đẹp. Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa
thực vừa mộng hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh
sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng
thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng
Tây Bắc trong một buổi chiều sương … Một không gian bảng lảng khói sương như
trong cõi mộng cứ thế hiện ra.
Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được
đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên
là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng
sương ở đây ko phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là "Người đi Châu
Mộc chiều sương ấy”. Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man
mác. Đại từ "ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một
buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình
người cũng man mác, bâng khuâng.
Đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không
khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Có lẽ chất họa sĩ của Quang
Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa.
Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh
động đầy sức cuốn hút. Sông nước hoang dại như một bờ tiền sử, bên bờ lau lách và
tác giả đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô cùng tinh tế, đó là ”hồn lau”… gợi
cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có chút gì đó thiêng liêng
phảng phất chút tâm linh rừng núi.
“Nẻo bến bờ” có nghĩa là: nẻo – lối đi. Nẻo bến bờ là nhìn đâu cũng thấy mênh mang
hồn lau. “Hồn lau” – những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy.
“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn của mùa thu đi
Ngàn lau xao xác trắng” (Chế Lan Viên)
Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên
Tây Bắc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên
mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: "Có nhớ dáng người trên độc mộc”.
Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da
diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn,
dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của
những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng
hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông, vượt
thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của
Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà…
Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó
biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ.
Những cánh hoa rừng không bị ”dồi lên dập xuống” mà là “Trôi dòng nước lũ hoa
đong đưa”. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi cảm: Cánh hoa rừng như cũng
quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người
lính vượt sông đi đánh giặc. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến
mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ
mang đậm chất lãng mạn, hào hoa...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến,
bồi hồi. Tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị. Tóm lại, tám câu thơ của khổ
hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình.
Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo
nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế,
uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 15
“Tổ Quốc ta bao giờ đẹp thế này chăng?"
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng thốt lên khi ông cảm nhận được vẻ đẹp của đất nước
ta. Vẻ đẹp ở đây không chỉ ở những cánh đồng lúa mênh mông, bát ngát hay những bờ
biển rì rào cát trắng mà nó còn ở trong chính con người Việt Nam ta. Cùng đề tài ca
ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người, Quang Dũng đã khắc họa tài tình vẻ đẹp vùng núi
Tây Bắc và phẩm chất của những người lính qua tác phẩm "Tây Tiến". Ông sáng tác
bài thơ vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh sau khi ông rời đơn vị cũ. Quang Dũng gửi
gắm mọi tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ da diết của mình vào Tây Tiến, nổi bật hơn hết là
những kỉ niệm đẹp cùng với hình ảnh đêm hội liên hoan và buổi chiều sương được thể
hiện tinh tế qua đoạn thơ:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Tây Tiến là tên đoàn quân được thành lập năm 1947, chiến đấu ở vùng Tây Bắc. Đa số
là thanh niên tri thức Hà Nội. Ban đầu bài thơ có tên "Nhớ Tây Tiến" nhưng để đảm
bảo tính hàm súc cho tác phẩm thì Quang Dũng đã đổi tên thành "Tây Tiến". Dấu ấn
hội họa và âm nhạc được tác giả thể hiện nổi bật ở những kỉ niệm đẹp và buổi chia ly trong miền nhớ của ông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Mở đầu đoạn thơ là hình ảnh doanh trại lung linh, tưng bừng, vui như đi trẩy hội.
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ"
Thông thường khi nhắc đến "doanh trại" thì ta sẽ nghĩ đến không khí nghiêm túc, khô
khan của các anh chiến sĩ, bộ đội. Nhưng không, trong thơ Quang Dũng hình ảnh
doanh trại hiện lên cùng với hội đuốc hoa cùng với động từ "bừng" tạo nên không khí
vui tươi, sôi động. Ở đây các anh chiến sĩ được thoải mái, thư giãn sau những chặng
đường hành quân khó khăn, mệt mỏi. Động từ "bừng" như làm rực sáng cả câu thơ,
như ánh sáng tỏa sáng rực rỡ, mạnh mẽ khắp doanh trại. Cụm từ cảm thán " kìa em"
vang lên với sự ngỡ ngàng, kinh ngạc đồng thời lại đầy cảm xúc dạt dào, trìu mến.
Các cô gái Tây Bắc với xiêm y lộng lẫy, đẹp đẽ bước ra mang đến hương sắc ngọt
ngào, nhẹ nhàng tạo cho doanh trại một không khí đầy tươi vui, hạnh phúc.Một đêm
hội tràn ngập ánh sáng, chan hòa âm nhạc và vũ điệu, thắm thiết tình quân dân
Tiếp đến hai câu thơ sau mang đến bản sắc dân tộc vùng Tây Bắc:
"Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Khèn là nhạc cụ dân tộc ở núi rừng Tây Bắc, thường người Tây Bắc sẽ sử dụng loại
nhạc cụ này trong các dịp lễ hội và các chàng trai, cô gái thì múa hoặc hát theo tiếng
nhạc ấy. Tác giả đã đem vào thơ ca hình ảnh nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc ở
Tây Bắc. "Man điệu" ở đây chỉ điệu nhạc hay điệu múa mang đậm đà bản sắc dân tộc
xứ này. Tính từ "e ấp" thể hiện sự thẹn thùng, ngại ngùng của các cô thiếu nữ dân tộc
đồng thời làm toát lên vẻ đẹp tinh tế, trong sáng của các cô gái. Tiếng nhạc hòa cùng
các điệu múa nhẹ nhàng, uyển chuyển của các cô gái làm lay động, say mê các chàng
thanh niên tri thức Hà Nội. Không khí đó đã xua tan mọi muộn phiền, mỏi mệt của
đoàn quân Tây Tiến, như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ để tiếp tục chặng
đường đầy khó khăn cùng với ý chí "Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh" của mỗi người
chiến sĩ. Trong không khí ấy, tâm hồn của người chiến sĩ hướng "về Viên Chăn xây
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
hồn thơ". Hơn ở đâu hết, đoạn thơ này bộc lộ nét tài hoa và hồn thơ lãng mạng của Quang Dũng.
Hai câu thơ tiếp theo tả cảnh buổi chiều chia ly ở Tây Bắc, vừa tả thực vừa tả mộng
tạo nên không gian huyền ảo, mộng mơ:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ"
Hình ảnh buổi chiều sương lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ
dội ở đầu bài. Một thế giới khác của thiên nhiên Tây Bắc được mở ra, không còn
mạnh mẽ, khúc khuỷu, thăm thẳm mà lại chuyển sang nên thơ, mơ mộng hơn. Đặc
biệt đại từ "ấy" tạo nên nét độc đáo cho buổi chiều sương, như nhắc lại kỉ niệm những
buổi chiều sương đẹp đẽ, lung linh trong miền ký ức. Sương ở đây không phải là
sương che lấp, che phủ mà sương thể hiện nỗi buồn man mác, nỗi lưu luyến của người
đi Châu Mộc vào buổi chiều sương. Sau này, cùng hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, nên
thơ.đó, Tố Hữu đã có hai câu thơ ngợi tả cảnh đẹp ở Châu Mộc:
"Nông trường Châu Mộc như hoa nở
Giữa núi rừng Tây Bắc hát ca"
Còn buổi chiều của thơ Quang Dũng, ông miêu tả hình ảnh "hồn lau" tả dáng lau uyển
chuyển, mỏng manh qua màn sương, đồng thời như mang đến làn gió thổi vào từng
cây cỏ để tạo nên không gian thiên nhiên đầy sức sống, mãnh liệt.
Hai câu thơ cuối thể hiện hình ảnh con người hòa quyện cùng thiên nhiên thơ mộng:
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Bóng dáng người trên độc mộc với dáng vẻ lả lướt, thướt tha hòa cùng với sự làm
duyên của cánh hoa đong đưa theo dòng nước lũ. Điệp ngữ "có nhớ- có thấy" làm tăng
thêm xúc cảm, nỗi nhớ da diết, nồng nàn của tác giả dành cho nơi đây. Hình ảnh đối
lập giữa dòng nước lũ và hoa đong đưa, dòng lũ cuốn trào mạnh mẽ với cành hoa nhẹ
nhàng lung lay, hai hình ảnh như đối lập hoàn toàn nhưng lại hài hòa, nên thơ.Bút
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
pháp gợi mà không tả với những nét vẽ cách điệu đã tạo nên bức tranh đậm đà chất
hội họa hòa với chất thi vị trữ tình lôi cuốn người đọc, đưa ta vào một thế giới hoang sơ, cổ tích
Với ngòi bút hào hoa, tinh tế không kém phần thơ mộng và đầy lãng mạng, Quang
Dũng đã phác họa nên bức tranh những kỉ niệm đẹp đầy lung linh, huyền ảo và hình
ảnh buổi chiều sương mang đậm sự lưu luyến, nhớ nhung da diết. Chất họa và nhạc
trong thơ ca Quang Dũng được bộc lộ hết ở khổ thơ trên.
Tây Tiến quả là tác phẩm để đời của nhà thơ Quang Dũng. Bài thơ vừa mang tính
cách mạng lại còn đậm nét trữ tình nghệ thuật. Mang đến cho người đọc một thế giới
khác của Tây Bắc, lung linh hơn, thơ mộng hơn đồng thời như cuốn nhật ký ghi lại
những kỉ niệm đẹp nơi đây, chứa mãi trong miền ký ức, trong tim của tác giả.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 16
Trong tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã thể hiện những nỗi niềm, tình cảm của
mình về vùng đất Tây Bắc – nơi mà đoàn binh Tây Tiến của ông đã có rất nhiều
những kỉ niệm tươi đẹp với đất, với người. Ngay từ khi đọc những dòng thơ đầu của
tác phẩm có lẽ người đọc đã thấy ấn tượng về thiên nhiên Tây Tiến với sự hùng vĩ,
hoang sơ và có lúc thật dữ dội, nguy hiểm khiến bước chân của người lính cũng trở
nên mỏi mệt, rã rời. Thế nhưng, đến khổ thơ thứ hai, những mỏi mệt, rã rời ấy như lùi
ra xa nhường chỗ cho không khí tươi mới của một đêm liên hoan ấm tình quân dân
nhưng cũng chất chứa những suy tư chính ở nơi doanh trại.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Vẻ đẹp của bài thơ có thể thấy phần nào khi phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, trong đó
không thể không tìm hiểu những ý chính về tác giả, tác phẩm.
Quang Dũng (sinh năm 1922 – mất năm 1988) là người con của thủ đô Hà Nội. Tên
thật của ông là Bùi Đình Diệm và ngay từ lúc còn là một chàng trai Hà thành đầy sức
trẻ, ông đã nguyện cống hiến sức mình vào sự nghiệp cứu nước. Bên cạnh vai trò là
một người lính hăng hái và nhiệt thành cách mạng, Quang Dũng còn được biết đến với
nhiều năng khiếu đặc biệt như viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,…
Chính những điều này đã củng cố thêm niềm tin của mọi người về sự tài hoa của nhà
thơ – chiến sĩ Quang Dũng. Trong suốt quá trình phụng sự sức mình cho đất nước
cũng như đến cuối đời, nhà thơ đã ghi lại những cảm xúc, tâm tư của mình lại thành
những tác phẩm mang dấu ấn riêng, đó cũng đồng thời là những đóng góp rất đáng kể
của ông cho nền văn học nước nhà.
Một số tác phẩm nổi bật của Quang Dũng cần kể đến như: “Rừng biển quê hương”
(năm 1957), “Đường lên Châu Thuận” (năm 1964), “Rừng về xuôi” (năm 1968),
“Mây đầu ô” (năm 1986). Về sau, Quang Dũng được nhận Giải thưởng Nhà nước về
Văn học nghệ thuật nhờ sự thành công trong những sáng tác của mình.
Bài thơ “Tây Tiến” ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến” và được in trong tập “Mây đầu
ô”. Tác phẩm này được ra đời do Quang Dũng muốn ghi lại những kỉ niệm mà ông có
được cùng đoàn binh Tây Tiến trong quá trình làm nhiệm vụ ở Tây Bắc. Binh đoàn
của ông được thành lập vào năm 1947 và có tên là Tây Tiến, trong đó Quang Dũng là
người đại đội trưởng.
Lực lượng chủ yếu của binh đoàn này là những thanh niên, học sinh của đất Hà thành
và đảm nhiệm vai trò là những người sẽ bảo vệ biên giới Việt Lào trong thời kỳ miền
Tây Bắc Bộ Việt Nam bị Pháp đánh chiếm cùng với vùng Thượng Lào. Khi đóng
quân ở chiến địa này, đoàn binh đã phải đương đầu với rất nhiều những thử thách và
trở ngại bởi nơi đây có địa hình rất hiểm trở, thiên nhiên hoang sơ và thời tiết cũng rất
khắc nghiệt. Đường dốc, núi cao, vực thẳm, thú dữ, sốt rét,… là những thứ đe dọa đến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
sức khỏe và sinh mạng của Quang Dũng và những người đồng đội của mình tại nơi công tác…
Thế nhưng đối diện với những hiểm nguy nói trên, trong những dòng viết của Quang
Dũng, người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, bất khuất, luôn giữ được tinh thần lạc
quan, yêu đời và đặc biệt là họ đã có với nhau rất nhiều những kỉ niệm đẹp. Đến khi
chuyển công tác, những kỉ niệm đó vẫn không một phút giây nào phai mờ trong tâm
trí nhà thơ. Thế nên ông đã viết ra “Tây Tiến” để chính tác phẩm sẽ thay ông thổ lộ
hết những niềm thương, nỗi nhớ dành cho đoàn binh một thời gắn bó của mình.
Vẻ đẹp của núi rừng trong đêm hội cùng với sự thơ mộng của một vùng sông nước
hòa quyện với sự xuất hiện của em… Tất cả đã tạo nên chất thơ rất riêng mà chỉ khi
phân tích khổ 2 bài Tây Tiến ta mới có thể thấy rõ.
Mở đầu khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã vẽ ra trước mắt người đọc khung cảnh của đêm
liên hoan với ánh sáng rực rỡ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
Động từ “bừng lên” vốn là động từ mạnh khi kết hợp với hình ảnh “đuốc hoa” dường
như đã thắp sáng cả doanh trại và còn lan tỏa ánh sáng ấy ra khắp không gian tịch
mịch, u tối của núi rừng Tây Bắc. Khi phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy hình ảnh
“đuốc hoa” trước nay vẫn thường gợi đến niềm hạnh phúc lứa đôi. Và trong bài thơ,
khi Quang Dũng sử dụng hình ảnh này chắc cũng có lẽ cũng là để diễn tả niềm hạnh
phúc của người lính khi được sống hòa mình trong đêm liên hoan tại doanh trại công tác.
Lúc “đuốc hoa” bừng lên là khi hơi ấm đến với người lính và những giá lạnh được xua
đi, cũng là chính là lúc người lính được gần gũi, gắn bó không chỉ với đồng đội mà
còn với cả nhân dân, để dù xa nhà, xa quê họ vẫn có thể sống trong tình yêu thương,
sự quan tâm của tình thân, bè bạn. Khi cảm nhận và phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta
thấy sự thật là giữa cuộc hành quân đầy gian lao và vất vả, thậm chí tinh thần họ lúc
nào cũng phải trong tâm thế sẵn sàng đối diện với những mất mát và hiểm nguy. Thế
nên những đêm liên hoan diễn ra như thế này đã góp phần tạo nên chút niềm vui, giúp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
họ giải tỏa những căng thẳng, cho họ sự động viên để họ lại có thể tiếp tục vững bước
trên hành trình gian truân ở phía trước.
Không chỉ có sự xuất hiện của ánh sáng, ở những câu thơ tiếp theo, Quang Dũng còn
gợi nên không khí tưng bừng của đêm liên hoan và đặc biệt hơn là trong không khí
tưng bừng ấy lại có sự xuất hiện rất duyên dáng của “em”:
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Góp vào sự lung linh, rực rỡ của ánh “đuốc hoa” là âm thanh hết sức sôi nổi, vui tươi
của điệu khèn, tiếng nhạc. Không chỉ có vậy, hình ảnh những cô gái với xiêm áo lộng
lẫy đang nhịp nhàng, “e ấp” trong những vũ điệu của miền sơn cước đã khiến cho đêm
liên hoan thêm phần sống động, lôi cuốn. Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến sẽ thấy cụm
“kìa em” đứng ở vị trí đầu câu thơ gợi sự bất ngờ nhưng đầy thiện cảm của người lính
khi nhìn thấy sự hiện diện của các cô gái bản làng với trang phục lộng lẫy đang hòa
mình vào không khí rộn ràng, vui tươi của đêm liên hoan.
Chính sự xuất hiện của những cô gái trong khúc nhạc điệu vốn là hồn cốt của núi rừng
Tây Bắc cùng với khung cảnh của đêm liên hoan đã tạo nên chất tình tứ, lãng mạn của
cuộc liên hoan. Có ý kiến cho rằng câu thơ “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” như một
lời gợi nhắc về địa điểm diễn ra đêm liên hoan ở vùng biên giới Việt – Lào vì địa bàn
hoạt động của đoàn binh Tây Tiến không chỉ là ở khu vực Tây Bắc mà cờn ở địa phận
ở các tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng ở Lào.
Đó cũng là một ý kiến có căn cứ và xét thấy cho dù là cuộc liên hoan ấy diễn ra ở đâu
đi chăng nữa thì điều tác giả muốn gửi gắm có lẽ vẫn là sự hòa hợp giữa con người và
khung cảnh, đặc biệt là sự thân tình, trìu mến của quân và dân. Có thể thấy, từ khi
“em” xuất hiện cùng với những khúc nhạc của núi rừng thì giữa khung cảnh và con
người, giữa quân và dân như không còn khoảng cách nữa.
Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy cả cảnh vật và con người như hòa vào nhau để
cùng ngây ngất, rạo rực trong sự tưng bừng, sôi nổi của đêm liên hoan. Không khí của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
“hội đuốc hoa” ấy càng diễn ra tưng bừng, nhộn nhịp bao nhiêu thì tình cảm, cảm xúc
của nhà thơ lại càng trào dâng mãnh liệt bấy nhiêu để rồi những cảm xúc ấy được
chắp thêm đôi cánh và hóa thành những vần thơ diễn tả rất uyển chuyển và nhịp
nhàng. Không đơn thuần là những con chữ, người đọc như nhìn thấy cả ánh sáng,
nghe được âm thanh và cảm nhận được vẻ đẹp cuốn hút đầy sức sống của những
người con gái của núi rừng.
Khi không khí của đêm liên hoan vẫn chưa hết nhộn nhịp thì trong lòng tác giả lại có
cảm giác như được gọi về những kỉ niệm tươi đẹp của buổi chiều sương Châu Mộc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Hình ảnh con người hiện hữu ở câu thơ đi kèm cùng những câu hỏi đầy tha thiết.
Nhân vật trữ tình luôn băn khoăn “người đi Châu Mộc chiều sương ấy” liệu rằng “có
thấy” và “có nhớ” những vẻ đẹp thật thơ mộng, nên thơ của “hồn lau”, “dáng người
trên độc mộc” và cả “dòng nước lũ” có những cánh hoa đong đưa. Phân tích khổ 2 bài
Tây Tiến để thấy trong làn sương chiều hôm người đi, cảnh vật như nhòe mờ, mông
lung nhưng phải chăng chính vì thế mà nó trở nên có hồn hơn, ấn tượng hơn.
Những bông lau phất phơ trên bờ bến phải chăng đã tạo nên cái hồn cho bến bờ hay
hồn của cảnh là sự hóa thân của chính tâm hồn nhà thơ để mỗi một ngọn lau, một cánh
hoa cũng mang những nỗi niềm, tâm trạng. Chính những điều này đã biến những sự
vật vốn vô tri như cũng có riêng đời sống của nó. Thêm vào đó, sự gợi nhắc về dáng
người mảnh mai, duyên dáng trên chiếc thuyền độc mộc xinh xinh đã khiến cho bức
tranh về cảnh và người hiện lên với sự khỏe khoắn, rắn rỏi bên cạnh cái vẻ huyền ảo,
mơ màng của miền cổ tích xa xưa…
Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy có lẽ, những nghi vấn về việc người đi “có
thấy”, “có nhớ” giờ đây đồng thời cũng là lời khẳng định rằng những hình ảnh về cảnh
vật và con người chốn này mãi mãi sẽ khắc ghi trong lòng tác giả cũng như những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
người lính nói chung. Chính vì “thấy” và “nhớ” rõ mồn một từng chi tiết, đường nét
của cả người và cảnh nên ướm hỏi cũng thực chất là bày tỏ nỗi lòng và một khi phải
rời xa chốn thân thương thì chắc hẳn trong lòng sẽ chất chứa nỗi nhớ mênh mang, sâu
lắng và sức ám ảnh khôn nguôi về cảnh ấy và người ấy.
Về nội dung, bài thơ “Tây Tiến” giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của một bức
tranh có sự kết hợp hài hòa giữa cảnh và người. Trên phông nền hùng vĩ, dữ dội
nhưng cũng rất trữ tình, lãng mạn của thiên nhiên là hình ảnh của người lính Tây Tiến
hội tụ biết bao những phẩm chất đáng trân trọng. Người đọc không chỉ thấy được sự
kiên cường, gan góc trên bước đường hành quân, sự bất khuất, dũng cảm trước
ngưỡng cửa sinh – tử ở họ mà còn cảm nhận được nét trẻ trung, sôi nổi, chất hào hoa,
lãng mạn trong tâm hồn những người lính trẻ Hà thành.
Về nghệ thuật, bài thơ “Tây Tiến” đã thành công trong việc kết hợp hài hòa giữa bút
pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. Không chỉ vậy, đọc thơ Quang Dũng ta còn thấy
được bên cạnh những vần thơ đầy chất trữ tình là những câu đậm sắc thái bi tráng. Đó
là những sự kết hợp khéo léo và đã góp phần diễn tả được cảm xúc, nỗi niềm khi thì
tha thiết bồi hồi, lúc lại trang nghiêm, bi hùng của một nhà thơ luôn đau đáu về tháng
ngày gắn bó cùng đồng đội.
Qua khổ thơ thứ hai, người đọc cảm nhận được sự tài hoa của tác giả bởi nét bút của
ông vừa sinh động, biến ảo trong những câu về đêm hội núi rừng và cũng vừa tinh tế,
mềm mại ở đoạn viết về thiên nhiên. Chính sự tài hoa đó đã giúp cái đẹp thắm thiết,
đậm đà của tình quân dân và vẻ đẹp thơ mộng, mơ màng của thiên nhiên hiện hữu
trước mắt người đọc một cách rõ ràng đầy ấn tượng.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 17
Trong vườn hoa của thơ ca kháng chiến chống Pháp, bài thơ Tây Tiến của Quang
Dũng - nở ra từ một tâm hồn phóng khoáng, hồn hậu, hào hoa, một ngòi bút tinh tế và
lãng mạn - được coi là bông hoa đầu mùa vừa đẹp vừa lạ. Bài thơ không chỉ khắc họa
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở hay những gian khó trập trùng nơi núi cao vực
sâu mà bên cạnh đó, ta cũng có cơ hội được cảm nhận bức tranh thiên nhiên gợi cảm,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
nên thơ cùng những giờ phút liên hoan tưng bừng, lãng mạn giữa những tháng năm
khói lửa hào hùng. Và 8 câu thơ ở khổ thơ thứ hai là những vần thơ đã khắc họa rõ
nhất vẻ đẹp lãng mạn ấy.
Nếu đoạn thơ đầu tiên của Tây Tiến mở ra trước mắt người đọc không gian hùng vĩ,
hiểm trở của núi rừng Tây Bắc thì với 8 câu thơ tiếp theo của khổ thơ thứ hai, bạn đọc
sẽ được hòa mình vào không gian tưng bừng của buổi liên hoan doanh trại và sự lãng
mạn, nên thơ của chiều sương Châu Mộc.
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ"
Chữ "bừng" như một nét vẽ có thần, nó làm cho không gian như sáng bừng lên trong
âm thanh, trong ánh lửa bập bùng và trong hơi ấm của tỉnh quân dân cá nước. Trong
không gian ấy, người lính Tây Tiến phải ngạc nhiên đầy tình tứ, mà thốt lên hai tiếng
"kìa em". Giây phút này đây họ nhưng rũ bỏ tất cả mọi gian truân, mệt mỏi được cùng
hòa mình theo giai điệu của những bản nhạc nơi rừng núi, để sống trọn vẹn, trẻ trung,
tận hưởng niềm vui với một tâm hồn lãng mạn.
"Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Ban đầu là "em" tiếp đến là "nàng" rồi sau lại là "em". Từ cách sử dụng ấy ta cảm
nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không
khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp
cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.
Là một người nghệ sĩ đa tài, không chỉ làm thơ mà Quang Dũng còn viết nhạc, vẽ
tranh,... chính điều đó đã khiến cho ngòi bút của Quang Dũng trở nên tài hoa, sống
động hơn bao giờ hết. Trong thi có nhạc, có hoạ, từng nét vẽ, từng âm thanh, từng ánh
lửa bập bùng cùng tiếng nhạc dân tộc dập dìu vui tươi tưởng như hiện lên thật hữu
hình trước mắt, vang lên thật hữu thanh bên tai, để chính lòng ta cũng phải rạo rực mà
hoà theo không khí rộn ràng ấy. Bốn câu thơ không chỉ khắc hoạ chân thực và lãng
mạn buổi liên hoan doanh trại nơi vùng cao mà còn làm hiện lên tâm hồn trẻ trung,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
hào hoa của những người lính Tây Tiến, họ anh dũng, họ phi thường nhưng cũng có
những giờ phút, những cảm xúc hết sức đời thường. Không chỉ thế, đoạn thơ còn làm
nổi bật tình quân dân cá nước ấm nồng, dõi theo, tiếp thêm sức mạnh cho những chiến
sĩ trên chiến trường gian lao, khói lửa.
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Thì ra không chỉ có những "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm", hay "ngàn thước lên
cao, ngàn thước xuống" mà thiên nhiên miền cao Tây Bắc cũng có những nét đẹp
hoang sơ, thơ mộng như vậy. 4 câu thơ với những nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều
như vẽ nên một bức tranh thiên nhiên quá đỗi nên thơ, quyến rũ. Chiều sương gợi mở
một không gian huyền bí, cái thực cái mộng của một cõi trời nước Tây Bắc bảng lảng
sương nhuốm một màu cổ tích Đại từ phiếm chỉ "ấy" càng làm cho khoảng thời gian
trở nên mơ hồ không xác thực, thế nhưng nó lại rất rõ ràng, rất gợi, rất đáng nhớ trong
ký ức của nhà thơ. Hình ảnh "lau" hiện lên không phải là một bông, một nhành, một
bờ, mà là "hồn lau", dường như chẳng có một hình dung cụ thể nào, mà ta chỉ có thể
cảm nhận ở đâu đây một chuyển động nhẹ nhàng, gợi cảm. Giữa không gian ấy, hình
ảnh con thuyền độc mộc hiện lên làm cho bức tranh thiên nhiên cũng mang một vẻ
trầm tĩnh như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tế vi, mờ ảo như hư
vô, hư thực mà lại thơ mộng đến lạ lùng. Một lần nữa hình ảnh hoa lại xuất hiện trong
bài thơ. Tính từ "đong đưa" gợi lên một chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế của bông hoa,
như đang làm dáng làm duyên giữa dòng nước lũ đang dữ dội cuộn trào. Thật là một
vẻ đẹp nguyên sơ, thanh khiết và gợi cảm đến nao lòng.
Bằng ngòi bút tài hoa hữu nhạc, hữu hoạ, kết hợp với những bút pháp miêu tả độc đáo,
Quang Dũng đã khắc hoạ thành công bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp thơ mộng của
Tây Bắc và những dấu ấn vui tươi của một thời chiến đấu bên đồng đội. Cũng chính
đoạn thơ đã thể hiện rõ nét nhất cảm hứng lãng mạn, tâm hồn hào hoa và chất lãng tử
của nhà thơ "xứ Đoài mây trắng". 8 câu thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng nói chung, để Tây Tiến trở thành
một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 18
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã góp thêm vào những trang
vàng của lịch sử dân tộc. Đã có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật hình thành từ đề tài này.
Nền thơ ca giai đoạn này mang đậm tinh thần yêu nước. Phải chăng vì thế mà đây là
giai đoạn văn học có nhiều thành công. Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những tác phẩm như vậy.
Hình ảnh của những người lính quả cảm, kiên cường, ngày đêm chiến đấu bảo vệ đất
nước vừa hào hùng vừa hào hoa đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.
Đặc biệt là đoạn 2 của bài thơ:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Quang Dũng (1921-1988) là người làng Phượng Trì, Đan Phượng, Hà Tây nhưng ông
chủ yếu sống ở Hà Nội. Ông là một nghệ sĩ đa tài với nhiều thể loại thơ ca, nhạc, họa
nhưng thơ ca là đỉnh cao nhất của ông. Ông là một trong số những nhà thơ tiêu biểu
của nền thơ ca hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám. Thơ ông thể hiện
được tâm hồn nhạy cảm và đậm chất lãng mạn. Trong thơ còn cho thấy khả năng cảm
nhận tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người.
Tây Tiến được sáng tác khi nhà thơ rời xa đơn vị Tây Tiến của mình một thời gian
“Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn
52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối 1948 rồi được chuyển sang đơn vị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
khác. Red xà đơn. vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh, anh viết bài thơ Tây
Tiến”, (Lời kể của ông Trần Lê Văn – bạn thân của Quang Dũng). Chính vì vậy mà
bài thơ được viết dưới lăng kính của những hoài niệm với tâm trạng nhớ da diết, chơi vơi.
Đơn vị Tây Tiến được thành lập vào năm 1947 với mục đích phối hợp với bộ đội nước
Lào nhằm bảo vệ biên giới Lào – Việt, nhằm đánh tiêu hao địch tại Thượng Lào để hỗ
trợ cho cuộc kháng chiến tại những vùng núi rừng khác trên đất Lào.
Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng lớn. Bao gồm khu vực vùng rừng
núi Tây Bắc Việt Nam và khu vực Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang đến
Sầm Nứa rồi vòng về miền tây Thanh Hóa. Những nơi này rất hoang vu và hiểm trở
với núi cao, sông sâu, rừng núi có nhiều thú dữ. Người lính Tây Tiến hầu hết là những
thanh niên, trai tráng Thủ đô, gồm nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.
Qua phân tích đoạn 2 bài thơ Tây tiến từ những câu thơ đầu, Tây Tiến mở ra trước
mắt người đọc một không gian hùng vĩ, hiểm trở đầy nguy hiểm của núi rừng Tây
Bắc. Trong tám câu thơ tiếp của đoạn thơ thứ hai, người đọc sẽ được hòa mình vào
trong không gian tưng bừng của đêm liên hoan văn nghệ tại doanh trại với sự lãng
mạn, nên thơ của chiều sương chốn Châu Mộc:
Bức tranh lãng mạn của đêm văn nghệ thấm đậm tình quân dân, “quân với dân như cá
với nước” được thể hiện thông qua bốn câu đầu tiên của đoạn thơ:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".
Nỗi nhớ từ "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi", tác giả
bỗng nhớ đến "hội đuốc hoa" khi doanh trại bừng lên vào đêm văn nghệ thắm thiết
tình quân dân. Đuốc hoa vốn là cây nến thắp lên trong phòng vào đêm tân hôn. Bỗng
nhớ đến Truyện Kiều có câu: "Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa" (dòng 3096).
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Từ hình ảnh trên, Quang Dũng đã sáng tạo thành "hội đuốc hoa" để nhớ về đêm liên
hoan văn nghệ, đêm đốt lửa trại giữa các cán bộ chiến sĩ của đoàn binh Tây Tiến với
những người dân đồng bào của các bản mường. “Bừng" là động từ mạnh hiện lên
nhầm vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng rực, vừa là để tả âm thanh của tiếng cười nói,
tiếng hát, tiếng khèn vang lên trong đêm hội.
Chữ "kìa" là đại từ dùng để chỉ một đối tượng nào đó từ phía xa; trong hoàn cảnh này
ta có thể thấy sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của những người lính trẻ Tây Tiến
khi nhìn thấy các "em", các "nàng" đến dự trong bộ xiêm áo lộng lẫy, xinh đẹp. Hình
ảnh "nàng e ấp" là một trong những nét vẽ tài hoa và vô cùng có hồn đã gợi tả nên vẻ
đẹp duyên dáng và kín đáo, tình tứ và tinh tế của những nàng thiếu nữ miền Tây.
Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các "em",
các "nàng" như đã "xây hồn thơ" trong những chàng lính trẻ. Những con người trẻ
chung, xinh đẹp, hào hoa và đa tình; còn ngòi bút của thi nhân thì lại rất tài hoa và lãng mạn.
Thông qua hội đuốc hoa khi phân tích đoạn 2 bài thơ Tây Tiến, ta thấy ngày càng thấy
đời sống tinh thần phong phú của đoàn binh Tây Tiến tại chiến trường miền Tây gian khổ.
Viết tiếp đoạn thơ là bốn câu thơ tiếp theo trong dòng hồi tưởng "trôi" về miền đất lạ -
Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La - nơi có nhiều bãi cỏ rộng bát ngát, mênh mông, nơi này
có dãy Pha Luông cao 1880m, nơi đó có bản Pha Luông sầm uất của người Thái.
Quang Dũng là người lính với tâm hồn thi sĩ đã khai phá ra biết bao nhiêu vẻ đẹp kì
thú của nơi Châu Mộc. Năm tháng cứ thế trôi qua, chỉ còn lại bao nhiều kỉ niệm, cảnh
vật và con người của miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"Chiều sương ấy" là buổi chiều đầy sương trắng đang phủ mờ khắp núi rừng tại chiến
khu vào buổi chiều thu hôm ấy in sâu đậm vào trong hồn người; tất cả bây giờ chỉ còn
là: “khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ khi ta đi đất lạ hóa tâm hồn” (Chế Lan Viên). “Hồn lau”
ở đây là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng như những lá cờ, những bông lau đung đưa
theo gió tạo nên tiếng kêu xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối.
Với tâm hồn tài hoa, Quang Dũng cảm nhận về vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu
Mộc thông qua cảnh sắc "chiều sương" và "hồn lau nẻo bến bờ". Những thi liệu ấy đã
tạo nên những vẻ đẹp cổ điển trong bức tranh suối rừng nơi đây. Thấp thoáng đằng
sau những vần thơ "Tây Tiến" là những câu cổ thi trong các bài thơ thời xưa:
"Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…"
(Đặng Trần Lâm - Đoàn Thị Điểm) hay:
"Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng". (Chế Lan Viên)
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến ở trên, ta thấy điệp ngữ "có thấy" và "có nhớ" là tác giả
đang hoài niệm về những kỉ niệm về chiều sương Châu Mộc cố thêm phần man mác,
bâng khuâng. Họ nhớ cảnh rồi đến nhớ đến người. Những dòng hồi tưởng của thi sĩ
qua cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, tại nơi cao nguyên Châu Mộc
được thể hiện lên một cách tuyệt đẹp với bút pháp vô cùng tài hoa và những hồn thơ lãng mạn.
Núi rừng Tây Bắc là chốn “rừng thiêng nước độc” vô cùng hoang vu, hẻo lánh và chất
chứa nhiều hiểm nguy. Thế nhưng, với tâm hồn vô cùng lạc quan và yêu đời, niềm tin
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
vào một tương lai tươi sáng của một thời đại mới đã được khai phá với biết bao nhiêu
vẻ đẹp thơ mộng và xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người nơi Tây Bắc.
Những hoài niệm về chiến trường và núi rừng nơi đây như được chắt lọc từng chi tiết
nhỏ trong tâm hồn thi sĩ.
Đoạn thơ với bút pháp chấm phá mềm mại và uyển chuyển, ngôn ngữ đậm chất thơ,
chất nhạc. Ta có thể thấy được cuối mỗi câu thơ đều kết thúc bằng vần trắc đã tạo nên
nhạc điệu của bài thơ. Bên cạnh đó với thể thơ thất ngôn và nhịp thơ 4/3, giọng điệu
phù hợp với cảm xúc qua từng câu chữ. Cùng với việc sử dụng khéo léo những câu
hỏi tu từ đã làm cho bức tranh đêm văn nghệ và cảnh sông nước miền Tây hiện lên vô
cùng chi tiết là thơ mộng.
Tóm lại, có thể nói phân tích đoạn 2 Tây Tiến đã cho ta để lại những ấn tượng khó
quên trong lòng người đọc bởi những nét lãng mạn hiện lên giữa hoàn cảnh khắc
nghiệt của chiến tranh. Há chăng bài thơ đã cùng góp lên tiếng nói độc đáo vào những
bài thơ kháng chiến viết về người lính thời kỳ chống Pháp. Những bài thơ ấy đã cùng
làm nên một bức tượng đài to lớn về những người chiến sĩ vừa hào hùng vừa hào hoa.
Nó đã gieo vào lòng người đọc những tình cảm yêu thương, tình quân dân thắm thiết,
tinh thần đoàn kết của nhân dân ta….
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 19
Quang Dũng là một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, là nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, là
nghệ sĩ của những vần thơ giàu chất nhạc, chất họa. “Tây Tiến” là thi phẩm nổi tiếng
nhất của ông, được bao nhiêu thế hệ bạn đọc yêu mến. Cảm xúc bao trùm bài thơ là
nỗi nhớ trải theo những cung đường dãi dầu mà mỹ lệ nơi đoàn binh Tây Tiến đã đi
qua và để lại bao kỉ niệm đẹp. Có những kỉ niệm thật dữ dội nhưng cũng có những kỉ
niệm thật êm đềm. Kỉ niệm êm đềm ấy giúp ta cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng mạn của
những người lính Tây Tiến thuở nào:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào cuối năm 1948- một năm sau khi Quang
Dũng rời đoàn binh Tây Tiến. Nỗi nhớ thương những người đồng chí đồng đội cùng
những tháng năm gắn bó với đoàn quân đã thôi thúc nhà thơ cầm bút ghi lại những
cảm xúc chân thật, tự nhiên, mãnh liệt, dâng trào.
Tây Tiến là một cuộc trường chinh vô cùng gian khổ. Nhưng vượt lên mọi khó khăn,
tâm hồn người lính Tây Tiến vẫn đầy chất lãng mạn và không phôi pha đi cái dáng vẻ
của người nghệ sĩ hào hoa. Sau chặng đường dài hành quân gian khổ, những người
lính mang trong mình tâm hồn nghệ sĩ ấy đã hòa nhập vào sinh hoạt bình dị mà đầy
chất thơ cùng nhân dân trên những nẻo đường hành quân. Không có chất nghệ sĩ bẩm
sinh của chàng trai đất Thăng Long nghìn năm văn hiến sẽ không có những giờ phút
thăng hoa theo tiếng khèn, theo những vũ điệu của đêm hội đuốc hoa.
Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến trước hết thể hiện ở tâm hồn mộng mơ, đa
tình khi đắm mình trong không khí của đêm liên hoan văn nghệ:“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
Chỉ một từ “bừng” trong câu thơ mà nói lên được cả một cảm xúc dào dạt, phấn chấn.
Đâu chỉ là ánh sáng của ngọn lửa hồng lên, mà đó là sự bừng sáng trong tâm hồn, đó
là niềm vui rạng rỡ. Cảnh được miêu tả lại là cảnh hồi tưởng từ quá khứ nên “bừng”
còn là bừng thức cả một vùng kỷ niệm. Trong cái nhìn lãng mạn của người lính, đêm
liên hoan văn nghệ trở thành “đêm hội đuốc hoa”. “Đuốc” trước hết là những bó lửa
đuốc được thắp lên trong đêm liên hoan. “Đuốc hoa” là hình ảnh đẹp vừa tươi sáng,
rực rỡ, ấm áp, vừa lung linh ảo huyền thơ mộng, đó là cái tình, cái ý của những chàng
trai trẻ tuổi trẻ lòng. “Đuốc hoa” từ hán còn là hoa chúc, xa xôi gợi về lễ hợp cẩn lứa
đôi. Vậy là tình quân dân cá nước cũng say đắm, rạo rực như tình lứa đôi buổi đầu gặp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
mặt. Quả là một sự liên tưởng táo bạo, thú vị và đầy bất ngờ. Đêm hội vừa đông đúc,
vừa đông vui, vừa có vẻ tưng bừng náo nhiệt của những đêm hội trai gái mở hội lòng.
Đang say sưa trong đêm hội liên hoan, người lính phải thốt lên:“ Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
“Xiêm áo” là từ Hán Việt đủ để Quang Dũng diễn tả sự rực rỡ, lộng lẫy của người con
gái vùng sơn cước vừa như từ trang truyện cổ bước ra, vừa như từ trang đời bước lại.
Từ “kìa” bật lên bộc lộ cả một niềm thích thú , một sự say mê ngỡ ngàng, một cái nhìn
đam mê ngưỡng vọng trước vẻ đẹp đầy quyến rũ. Sự hóm hỉnh trẻ trung của người
lính đã được thể hiện một cách đầy tinh tế như thế. Cảnh quá khứ mà sống động như
thực tại chứng tỏ những kí ức về Tây Tiến trong lòng tác giả nguyên vẹn không một chút phai nhạt.
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Viết về nhạc nên câu thơ của Quang Dũng cũng đầy chất nhạc. Một thứ nhạc êm ái
dìu dặt khiến hồn ta lâng lâng bay bổng. Thứ nhạc ấy được tạo nên nhờ sự hòa phối
thanh điệu tài tình với thanh bằng là chủ yếu. Nhưng đó còn là một thứ nhạc đặc biệt
khác ở ngoài lời, là nhạc tâm hồn của những anh lính trẻ mộng mơ. “Hồn thơ” đã biến
người lính thành thi sĩ, còn “nàng thơ”- cảm hứng của những thi sĩ hào hoa đó là
những sơn nữ vùng sơn cước duyên dáng yêu kiều trong tiếng khèn “man điệu” quyến rũ gọi mời.
Người chiến binh ra đi chiến đấu với một tâm hồn nghệ sĩ. Họ cầm súng chiến đầu là
vì hoàn cảnh không thể khác được, còn về bản chất, họ thật sự là nghệ sĩ. Anh hùng
mà nghệ sĩ , gian khổ mà vẫn hào hoa, đó là những nét cơ bản trong tính cách con
người Việt Nam mà những chàng trai Hà Nội mang trong mình rất đậm. Phút chốc
bao nhiêu gian khổ nhọc nhằn dọc đường hành quân được gột sạch để chỉ còn tràn
ngập trong hồn người chiến binh Tây Tiến niềm bâng khuâng xao xuyến và những
rung động đầy chất thơ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Từ đêm lửa trại, Quang Dũng đột ngột chuyển cảnh về một miền sông nước Tây Bắc đầy chất thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Chất nhạc, chất họa như được nhân lên trong những vần thơ sâu lắng gợi khung cảnh
Châu Mộc chiều sương. Nơi đoàn quân Tây Tiến đi qua, có những khung cảnh cực kỳ
dữ dội, vất vả, có những cảnh thật thơ mộng trữ tình. Có những buổi chiều oai linh
thác gầm thét, có những lúc sương lấp đoàn quân mỏi nhưng cũng có những Châu
Mộc chiều sương đẹp bảng lảng, mơ hồ. Nỗi nhớ Châu Mộc được gắn với không gian
thời gian cụ thể. Thời gian là “chiều”- khoảng thời gian gợi nỗi nhớ, gợi khát khao
sum họp. Độc đáo trong câu thơ là đại từ “ấy”, một từ vô danh về ngữ pháp nhưng
hữu tình về ngữ nghĩa. Tố Hữu đã dùng từ “ấy” để ghi lại thời khắc đáng nhớ:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ” Hay trong thơ Thế Lữ:
“Buổi ấy lòng ta nghe tiếng bạn
Ngàn năm chưa dễ đã ai quên”
Hai tiếng “chiều sương” kết hợp với đại từ phiếm định “ấy” vừa làm tăng thêm vẻ xa
vắng bâng khuâng, vừa khiến buổi chiều sương Châu Mộc hiện ra rõ ràng, không lẫn
vào muôn buổi chiều vô danh khác của loài người.
Trong nỗi nhớ về Châu Mộc, hình ảnh ngàn lau bỗng trở nên có hồn:
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
Câu thơ Quang Dũng gợi nhớ đến những vần thơ nổi tiếng trong bài “Lau biên giới”
của nhà thơ Chế Lan Viên:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
“Ai lên biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh”
Nếu “lau” trong thơ Chế Lan Viên chủ yếu thiên về ấn tượng thị giác thì trong thơ
Quang Dũng lại nghiêng về những cảm nhận từ tâm hồn. Miêu tả hoa lau, Quang
Dũng viết “hồn lau” chứ không phải bờ lau hay triền lau. Bởi nếu như vậy thì chỉ tả
hình sắc, còn “hồn lau” hiện lên cả tâm hồn, linh hồn của Tây Bắc đại ngàn. Lau
không còn vô tri vô cảm nữa, nó làm thành hồn riêng của chiều sương Châu Mộc.
Tâm tình của con người không chỉ gửi vào hồn lau nẻo bến bờ mà còn trong những
hình ảnh duyên dáng đáng yêu của con người:“Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Trên cái nền huyền ảo của sương và lau trắng, nổi bật lên dáng người lom khom trên
con thuyền độc mộc. Đó là cái dáng của những cô lái đò người Mèo, người Thái, cái
dáng mềm mại duyên dáng thật hợp với con thuyền độc mộc, hợp với bức tranh có sự
hài hòa từ màu sắc đến đường nét. Một lần nữa, Quang Dũng lại bật lên câu hỏi “có
nhớ” làm câu thơ càng thêm da diết, bâng khuâng.
Khép lại nỗi nhớ về buổi chiều sương Châu Mộc là một hình ảnh vô cùng ấn tượng:
“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
“Hoa” ở đây trước hết là hiện thực, là hoa rừng vì Tây Bắc là xứ sở của các loài hoa:
hoa đào, hoa mơ, “bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù núi khói Mèo
đốt nương xuân”. Miêu tả hoa, tác giả chọn “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” vì
“đung đưa” chỉ gợi lên chuyển động cơ học, có tính chất vật lý, còn “đong đưa” gợi
bao nhiêu tình tứ, gọi mời. Đến cả bông hoa rừng trên dòng nước lũ cũng không vô
tình bởi nó được nhìn bằng cặp mắt đa tình và mơ mộng của anh lính Tây Tiến.
Nhưng bước vào thơ ca nói chung, thơ Quang Dũng nói riêng thì hoa muôn đời là ẩn
dụ cho cái đẹp, cho người con gái. Bóng hoa là bóng người con gái trên thuyền soi
xuống dòng nước, đong đưa tình tứ nhưng vẫn kín đáo, duyên dáng. Như vậy, cái tình
tứ của cảnh suy cho cùng là do người ngắm cảnh.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Như vậy, qua những kỉ niệm êm đềm, ngọt ngào về đêm liên hoan văn nghệ và cảnh
Châu Mộc chiều sương, ta càng cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây
Tiến: mộng mơ, đa tình, giàu rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con
người, trong hiện thực nhiều gian khó, khốc liệt, họ luôn mơ về những điều tốt đẹp, về
ngày mai chiến thắng. Chất nhạc, chất họa, chất thơ đã hòa vào nhau, làm nên những
vần thơ tuyệt đẹp. Đoạn thơ đã góp phần làm nên thành công của cả bài thơ, đưa “Tây
Tiến” xứng đáng với vị trí là một trong những tác phẩm mở đầu xuất sắc của nền thơ cách mạng Việt Nam.
Gấp lại đoạn thơ đầy chất lãng mạn trữ tình, độc giả cảm nhận được những kỉ niệm
thời chiến cũng có lúc không vương khói bụi chiến trường, không thấy bóng dáng của
sự khốc liệt, của hiện thực nghiệt ngã. Nhà thơ đã giúp chúng ta hiểu rằng: chiến
trường đâu chỉ có thiếu thốn, gian khổ với bao mất mát, hy sinh?
Phân tích đoạn 2 bài Tây Tiến - Mẫu 20
Quang Dũng tên khai sinh là Bùi Đình Diệm (1921-1988). Là nhà thơ với một hồn thơ
phóng khoáng, hồn hậu và tài hoa. Trong thơ Quang Dũng thường kết hợp hiện thực
và chất men say lãng mạn tại nên nét độc đáo trong thơ ông. Chính vì vậy ông được
mệnh danh là nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”. Trong sự nghiệp sáng tác của mình
Quang Dũng để lại nhiều bài thơ có giá trị trong đó phải kể đến “Tây Tiến”. Bài thơ
không chỉ khắc họa thành công bức chân dung người lính Tây Tiến mà còn là vẻ đẹp
thiên nhiên và con người nơi vùng núi Tây Bắc được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa …..
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội
được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới
Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là
thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ
nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh,
Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là “Tây Tiến”.
Nếu như khổ thơ thứ nhất Quang Dũng đưa người đọc đến với những nét vẽ gân guốc
của con đường hành quân đầy gian khổ thì đoạn thơ thứ hai này nhà thơ đưa người
đọc đến với một mĩ cảm đặc biệt. Đó là những vẻ đẹp mềm mại, tinh tế, tài hoa tạo
nên vẻ đẹp nên thơ giữa núi rừng Tây Bắc. Một bức tranh thơ đầy lãng mạn nhưng
không kém phần bí ẩn của con người nơi vùng núi Tây Bắc này:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Bốn câu thơ mang đến cho người đọc không khí hội hè rộn ràng vui vẻ, một cái nhìn
chiêm ngưỡng, say sưa mà đa tình của người lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của người
phương xa nơi xứ lạ. Là lễ hội nên thật nhiều ánh sáng bừng lên, lan tỏa “hội đuốc
hoa”. Ánh sáng của xiêm áo lộng lẫy sáng bừng lên trong sự bất ngờ, sự ngỡ ngàng
của những người lính Tây Tiến:
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
“Kìa em” là tiếng reo ẩn chứa cả niềm hạnh phúc của những người lính Tây Tiến khi
dáng hình người con gái mềm mại, duyên dáng của miền sơn cước Tây Bắc hiện ra e
ấp trong điệu khèn đặc trưng của vùng núi nơi đây. Câu thơ mang theo cả cái nhìn
lãng mạn của người lính Tây Tiến trong một hiện thực khắc nghiệt mà người lính vừa
trải qua. Ánh sáng nơi doanh trại đã trở thành “hội đuốc hoa”- biểu tượng của hạnh
phúc tạo thành niềm vui của đêm giao duyên, của niềm hạnh phúc như dành cho
những cặp tình nhân trong đêm tân hôn. Để rồi người con gái “xiêm áo” như bước ra
từ huyền thoại ấy trở thành động lực để những người lính Tây Tiến:
“Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Những người lính Tây Tiến hòa mình say sưa cùng, điệu nhảy, âm điệu của những bản
nhạc Tây Bắc như dìu dặt tâm hồn những chàng trai Tây Tiến để rồi họ-những chàng
trai mới chỉ mười tám đôi mươi của mảnh đất Hà Thành ra đi vì tiếng gọi của non
sông đất nước đã mang theo cả giấc mơ với những chân trời chưa tới về một giấc
mộng ngọt ngào “xây hồn thơ”. Phải chăng đó chính là giấc mộng của lập chiến công,
là cái nhìn vượt qua biên giới, là ước mơ khát vọng cho sự bình yên. Tâm hồn những
người lính Tây Tiến như có một phút giây thăng hoa để mọi cảm giác mệt mỏi như
đang lùi xa, những vất vả, mất mát và cả sự hi sinh như được đẩy lùi nhường chỗ cho
lòng người, cho khát vọng và lí tưởng. Theo như lời Quang Dũng kể lại: “Đêm chuẩn
bị vượt sông Mã để sang đánh địch ở đồn Mai Hạ, đội vũ trang tuyên truyền Lào-Việt
tổ chức liên hoan, uống rượu cần và múa lăm vông”. Những đêm liên hoan như vậy
phải chăng đã thăng hoa cho hồn thơ Quang Dũng để tạo nên một nét vẽ mềm mại.
Cũng chính nhờ những phút giây như thế mà những người lính Tây Tiến được tiếp
thêm sức mạnh để bước tiếp con đường hành quân ở phía trước.
Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp
giàu bản sắc văn hoá, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân
thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến.
Không chỉ thể hiện vẻ đẹp tình quân dân mà nhà thơ còn thể hiện vẻ đẹp của con
người và cảnh vật miền Tây Bắc trong chiều sương trên sông nước Châu Mộc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Thời gian và không gian trên dòng sông, cảnh vật Châu Mộc hiện lên thật mờ ảo, thơ
mộng nhuốm màu sắc cổ tích, huyền thoại. Thời gian chia tay là một buổi “chiều
sương ấy”. Đó là cái chiều sương trong cái nhìn hoài niệm của người trong cuộc, tất
cả trở nên thật mờ ảo, như một miền ký ức thẳm sâu vừa nhạt nhòa vừa xa thẳm.
Không chỉ vậy chữ “ấy” không xác định, không biết là chiều sương nào và chỉ có
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
người trong cuộc, chỉ có những chàng trai Tây Tiến mới hiểu rõ đó là chiều sương ào
và ý nghĩa ra sao trong lòng những chàng trai Hà Thành.
Đoạn thơ chỉ phác họa đôi nét vẽ nhưng cũng đủ để đánh thức, gợi cảm nhận trong lòng người đọc:
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Nhà thơ gợi nhắc bằng những điệp từ “có nhớ”, “có thấy” như để chạm khắc, để hỏi
chính mình đầy bâng khuâng, lưu luyến. Cảnh trong thơ tĩnh lặng, buồn nhưng vô
cùng thi vị. nỗi lòng của con người như được gửi trong nỗi niềm xốn xao “hồn lau nẻo
bến bờ”, những bông lau hai bên ven đường mà đoàn quân Tây Tiến đi qua dường như
cũng có hồn, với việc sử dụng biện pháp nhân hóa đã gợi cảm giác mênh mông, xa
vắng. Câu thơ gợi lên nhiều cách hiểu, có thể trong buổi chia tay ấy tâm hồn của
những người lính Tây Tiến như nhuốm lên cảnh vật, gieo hồn mình vào những bông
lau. Cũng có thể hiểu theo cách khác, cả cuộc đời người lính Tây Tiến luôn gắn liền
với hoa lau Tây Bắc nay rời xa nỗi nhớ trở nên bâng khuâng và lưu luyến.
Không gian nên thơ ấy như làm nền cho hình ảnh con người xuất hiện. Đây là vẻ đẹp
đặc trưng trong thơ ca hiện đại, con người luôn là điểm hội tụ của bức tranh thơ “Có
nhớ dáng người trên độc mộc”. Đây là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô
gái Thái trên con thuyền độc mộc đang chèo thuyền vượt qua sông. Nhưng người đọc
cũng có thể cảm nhận một hình ảnh khác, đó chính là sự kiêu dũng của những chàng
trai Tây Tiến đang chèo đò vượt thác tiến về phía trước chiến đấu với kẻ thù.
Đến với câu thơ cuối người đọc ấn tượng với sự đối lập:
“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đó là sự đối lập giữa một bên là “dòng nước lũ” như muốn cuộn xoáy, cuốn trôi trong
cái dữ dội, cuộn trào của thiên nhiên còn một bên là cành hoa mềm mại đang đong
đưa “hoa đong đưa”. Tạo cảm giác thiên nhiên như đang hòa hợp với con người, hòa
trong cảm xúc của con người. Không phải là cánh hoa trôi nổi trước dòng nước lũ mà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đó là cảm giác như cánh hoa đang làm duyên, đong đưa theo chiều gió. Dáng hoa ấy
như hòa cùng trong dáng người trên con thuyền độc mộc làm nên một bức hoa thật
lãng mạn nhưng không kém phần hào hùng.
Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nội dung mà còn thành
công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Sử dụng ngôn từ
đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.
Đoạn thơ trên trong bài thơ Tây Tiến mang đến cho người đọc xúc cảm bâng khuâng,
những dòng thơ mềm mại trong không gian lãng mạn hòa cùng nỗi nhớ của những con
người lạc quan, lãng mạn và hào hoa. Hình ảnh ấy sẽ đọng lại trong tâm trí người đọc
mọi thế hệ như một điểm sáng về những người lính trong kháng chiến chống Pháp
được Quang Dũng thể hiện chân thực đầy xúc cảm.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 21
Nếu ở khổ một, nhà thơ đã khắc họa những hình ảnh dữ dội của núi rừng Tây Bắc thì
ở đoạn thơ thứ hai này, Quang Dũng đã đưa ta vào một khung cảnh khác: cảnh mỹ lệ,
duyên dáng, tươi mát của Tây Bắc. Cảm hứng lãng mạn được chia thành hai phần rõ
rệt, hướng đến hình ảnh người lính trong đêm liên hoan doanh trại và vẻ đẹp Tây Bắc
một chiều sương. Những nét vẽ bạo khỏe, gân guốc đã được thay bằng những nét
mềm mại, tinh tế, tài hoa.
Trải qua những giây phút hành quân gian khổ, những người lính còn có những giờ
khắc giao lưu văn nghệ với đồng bào Tây Bắc. Gọi là “doanh trại” bởi Quang Dũng
nhìn theo cảm hứng lãng mạn, có lẽ hiện thực là một đêm văn nghệ giản dị mà ấm áp
trên chặng hành quân dặm dài gian khổ. Không khí liên hoan tràn ngập cả âm thanh,
ánh sáng, dáng điệu con người:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Đảo ngữ “bừng lên hội đuốc hoa” kết hợp với động từ “bừng” tạo ấn- tượng về một
thứ ánh sáng bất ngờ, tựa như có hàng ngàn ngọn đuốc đột ngột thắp lên cháy, sáng cả
núi rùng trong đêm. Đôi mắt lãng mạn, tình tứ của Quang Dũng đã ví những ngọn
đuốc đó như “đuốc hoa”- ngọn đuốc cháy trong đêm tâm hồn - ngầm chỉ một sự kết
duyên gặp gỡ giữa những người lính Tây Tiến trẻ trung hào hoa với nhân dân Tây
Bắc. Trên cái nền ánh lửa lung linh ấy, nổi bật là dáng hình của những bóng hồng
miền sơn cước: “Kìa em xiêm áo tự bao giờ/ Khèn lên man điệu nàng e ấp”. Chỉ
từ “kìa” như mở ra trước mắt người đọc dáng hình uyển chuyển, dịu dàng theo điệu
khèn của những thiếu nữ Tây Bắc, và cũng không giấu nổi sự ngạc nhiên, ánh nhìn
tình tứ của những người lính trẻ trước vẻ đẹp xứ người. Cái dáng điệu “e ấp” được soi
chiếu qua đôi mắt hào hoa của những con người lần đầu đặt chân đến Tây Bắc gợi một
vẻ đẹp kín đáo, một sự phát hiện trước những nét đẹp văn hóa Tây Bắc. Thêm vào đó
là những “man điệu” - những điệu múa, điệu nhạc lạ như chất xúc tác gợi cái tình tứ,
say mê thưởng thức. Cái chất hào hoa, lãng mạn, đa tình này dường như là “đặc
sản” của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp, khi họ đa phần là
thanh niên học sinh trí thức, xếp bút nghiên cầm súng lên đường theo tiếng gọi của
quê hương. Câu thơ thứ tư chủ yếu là thanh bằng, tạo cảm giác nhẹ nhàng, bay bổng
trong tâm hồn của người lính: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Âm nhạc cất lên hòa
điệu với tâm hồn thơ mộng, gọi về cái mộng mơ, đưa tâm hồn phiêu du vượt qua giới
hạn của không gian, của biên giới, để xây đắp hồn thơ - mơ đến Viên Chăn - mơ đến
ngày chiến thắng. Hình ảnh thơ mỹ lệ nhưng không hề thoát ly cuộc sống, trái lại có
tác dụng nâng đỡ tầm hồn con người, khích lệ tinh thần những người lính và mở ra
khát vọng hòa bình cho đất nước.
Bốn câu thơ đầu giúp ta cảm nhận được cái tưng bừng, nhộn nhịp trong đêm liên hoan
ấm tình quân dân. Bốn câu thơ sau lại tiếp tục mạch cảm xúc của toàn bài thơ, ấy là
nỗi nhớ về những khoảng không gian sông nước đầy chất thơ của Tây Bắc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Tây Bắc đẹp - thơ mộng - trữ tình với mênh mang sông nước, lãng đãng sương giăng,
với hai bên bờ là bạt ngàn lau, và đâu đó thấp thoáng bóng người, bóng hoa. Không
gian và thời gian được mở ra qua cụm từ “Chiều sương”: trong khoảnh khắc cuối
ngày, khắp đất trời chìm trong màn sương bồng bềnh, lãng đãng rất đặc trưng cho núi
rừng Tây Bắc. Ý niệm thời gian cũng bị xóa nhòa qua từ “ấy”, nó gợi nhiều kỉ niệm,
có thể trên con đường hành quân tác giả đã khắc in vào tâm trí mình một khung cảnh
vừa thực, vừa ảo và giờ đây nhớ lại, kỉ niệm mơ hồ lại có sức ám ảnh lòng người. Đi
trong chiều sương, những tâm hồn trẻ trung ấy đã thấy “hồn lau nẻo bến bờ”. Đó là
bạt ngàn lau xám phất phơ hai bên bờ sông hoang vắng, như lay động một nỗi niềm.
Cái màu trắng tinh khiết trải dài ấy gợi lên nét đẹp nguyên sơ như chưa từng có dấu
chân người. Nhớ về Tây Bắc là người ta hay nhớ về những cánh đồng lau bạt ngàn
trắng như thế, cái hồn của lau kéo theo cái hồn người là như vậy!
Nhớ về Tây Bắc còn là nhớ cái “dáng người trên độc mộc”- gợi vẻ đẹp khỏe khoắn
của những chàng trai, những cô gái, những người dân Tây Bắc trên con thuyền độc
mộc lao trên sóng nước. Cảm hứng ngợi ca những con người ấy ta cũng gặp trong
hình ảnh ông lái đò Mai Châu trong tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn
Tuân. Đặc biệt là hình ảnh những bông hoa rừng “đong đưa” trôi theo dòng nước lũ.
Trong cái khắc nghiệt dữ dội vẫn luôn có vẻ đẹp của sự mềm mại, mong manh. Điểm
nhìn lãng mạn giúp Quang Dũng có được những phát hiện rất nên thơ như thế.
Trong đoạn thơ này, ta thấy vang lên điệp khúc của những câu hỏi tu từ: “có thấy... có
nhớ…”. Đó là sự gợi thức trong tâm hồn mình, là sự nhắc nhở mỗi chàng trai ra đi từ
36 phố phường hãy nhớ về Tây Bắc, về Tây Tiến như những hồi ức hào hùng một đi không trở lại.
Tóm lại, tám câu thơ như 1 bức tranh thanh sơ với chỉ vài nét chấm phá tinh tế, mềm
mại mà thu được cái hồn của cảnh và người Tây Bắc. Cũng qua những hình ảnh thơ
đặc sắc ấy, chúng ta còn cảm nhận được vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến -
những chàng trai lãng mạn, đa tình, hào hoa.
Document Outline

  • Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến
  • Sơ đồ tư duy Tây Tiến khổ 2
  • Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 1
  • Phân tích đoạn 2 bài Tây Tiến - Mẫu 2
  • Phân tích khổ 2 Tây Tiến hay nhất - Mẫu 3
  • Phân tích Tây Tiến khổ 2 - Mẫu 4
  • Phân tích Tây Tiến khổ 2 - Mẫu 5
  • Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 6
  • Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 7
  • Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 8
  • Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 9
  • Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 10
  • Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 11
  • Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 12
  • Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 13
  • Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 14
  • Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 15
  • Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 16
  • Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 17
  • Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 18
  • Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 19
  • Phân tích đoạn 2 bài Tây Tiến - Mẫu 20