Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay chọn lọc | Văn mẫu 12

Phân tích khổ 3 Tây Tiến bao gồm gợi ý cách viết kèm theo 20 bài văn mẫu cực hay. Phân tích Tây Tiến khổ 3 là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết giúp các em trong quá trình học và đặc biệt là kì thi THPT Quốc gia 2024 sắp tới.

Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Dàn ý phân tích khổ 3 Tây Tiến
I. Mở bài
- Đôi nét về nhà thơ Quang Dũng, phong cách sáng tác thơ ca của ông.
- Giới thiệu về bài thơ Tây Tiến - một trong những tác phẩm tiêu biểu của Quang Dũng.
- Dẫn dắt, khái quát nội dung chính của khổ thơ thứ 3.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh ra đời bài thơ
- Tây Tiến một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào
bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền
Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu là vùng rừng núi hiểm
trở. Đó cũng nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái với những nét văn hoá
đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông thanh niên Nội, trong đó nhiều học sinh, sinh
viên. Họ sinh hoạt chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan
và dũng cảm.
- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang
đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị ông viết bài
thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Đông cũ, nay Nội). Bài
thơ được in trong tập “Mây đầu ô” (1986)
2. Phân tích khổ thơ thứ 3
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
- Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn
nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.
- Người lính sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: “Tây Tiến đoàn binh
không mọc tóc”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Mạnh mẽ nhưng cũng đầy mộng mơ: “Đêm Nội dáng kiều thơm”: về, nhớ về
dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch.
- Sự hy sinh của người lính Tây Tiến:
· Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự
nguyện hiến dâng “đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.
· Hình ảnh “áo bào thay chiếu” cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người lính Tây
Tiến.
· Họ coi cái chết tựa lông hồng. sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ:
“anh về đất”.
· “Sông gầm lên khúc độc hành”: Linh hồn người tử đó hoà cùng sông núi. Con sông
đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử:
Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.
· Hàng loạt từ Hán Việt: “biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành…” gợi không khí tôn
nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.
=> Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn bi tráng của người tráng
anh hùng xưa.
III. Kết bài
Cảm nhận chung về khổ thơ thứ 3, cũng như giá trị của bài thơ Tây Tiến.
Dàn ý phân tích Tây Tiến khổ 3
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
- Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích và trích dẫn đoạn thơ trên.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Hoàn cảnh sáng tác: bài thơ sau khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, Phù Lưu
Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến viết nên bài thơ Tây
Tiến.
- Nội dung bài thơ: nỗi nhớ về chiến trường, về con người, về thiên nhiên Tây Bắc bằng
cả tấm chân tình của chính tác giả.
● Vị trí đoạn trích: Là đoạn thơ thứ ba trong mạch cảm xúc của toàn bài thơ.
● Nội dung đoạn trích: Chân dung người lính Tây Tiến với sự hi sinh bi tráng của họ.
2. Những nội dung cần phân tích
- Chân dung: Những chi tiết tả thực đã khắc họa diện mạo rất độc đáo, đồng thời phản ánh
hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Tác giả không hề tránh hiện
thực, và điều đó thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc mãnh liệt của người lính Tây Tiến
- Tâm hồn hào hoa, lãng mạn, kiêu hùng: Qua các ngôn từ thơ “dữ oai hùm”, “mắt trừng
gửi mộng qua biên giới” ta thấy được khí thế và quyết tâm của người lính Tây Tiến.
- tưởng cao đẹp: Không trốn tránh hiện thực “Áo bào thay chiếu anh về đất”, tác giả đã
khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm lặng cao cả, gây xúc động
lòng người, lay động thiên nhiên.
3. Nghệ thuật
- Bút pháp tả thực khắc họa chân dung người lính với hiện thực gian khổ nơi chiến trường;
dùng từ Hán Việt cổ kính để tăng thêm sự thành kính, trân trọng với người đã khuất; nói
giảm để thể hiện tưởng cao đẹp của người chiến trong chiến đấu, khắc họa sự hi sinh,
nhấn mạnh sự mất mát nơi chiến trường
- Nhận xét: Với giọng thơ trang trọng, đôi lúc lắng xuống, cảm xúc dạt dào, hình ảnh người
lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp bi tráng, tạc vào lòng người như bức tượng đài bất tử về
người lính không thể nào quên.
III. Kết bài
● Khẳng định, đánh giá về những câu thơ trên.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Mở rộng vấn đề: Nêu suy nghĩ, cảm nhận của nhân về hình ảnh người lính Tây Tiến
được thể hiện qua đoạn thơ trên.
Dàn ý phân tích đoạn 3 Tây Tiến
I. Mở bài
- Trình bày một số nét tiêu biểu về nhà thơ Quang Dũng và đặc trưng thơ ca của ông (vừa hồn
nhiên vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn).
- Nêu một số nét khái quát về bài thơ Tây Tiến: hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung nghệ
thuật nổi bật của bài thơ.
- Dẫn dắt giới thiệu nội dung của khổ 3: Chân dung người lính Tây Tiến hào hùng vẫn
lãng mạn hào hoa, sự hy sinh mất mát.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sáng tác
với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp
Thượng Lào miền Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu
vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái
với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông thanh niên Nội, trong đó
nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ
nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang
đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị ông viết bài
thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Đông cũ, nay Nội). Bài
thơ được in trong tập “Mây đầu ô”(1986).
2. Phân tích khổ 3 bài thơ
Sau nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, cũng như vẻ đẹp thiên nhiên con người vùng Tây Bắc,
Quang Dũng đã khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:
- Người lính Tây Tiến với những khó khăn, gian khổ:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
· “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho mái tóc
người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ động cắt tóc để thuận tiện
cho sinh hoạt.
· “Quân xanh màu dữ oai hùm”: màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của
cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người lính khi bị sốt rét rừng.
=> Sự khó khăn, gian khổ của người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến tranh. - Mạnh mẽ là
thế, nhưng cũng có đôi lúc người lính cũng đầy thơ mộng
· “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”: đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết
tâm
· “Đêm Nội dáng kiều thơm”. nhớ đến những gái Nội với vẻ đẹp thướt tha
thanh lịch.
- Sự mất mát hy sinh của người lính:
· “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: đó không phải là một cái chết mà rất nhiều cái chết.
· “Áo bào thay chiếu anh về đất”: hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc,
“về đất” cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người lính.
· Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh.
3. Nghệ thuật
- Bút pháp tượng trưng, ước lệ.
- Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: nói giảm nói tránh, ẩn dụ…
III. Kết bài
· Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến.
· Cảm nhận chung về khổ 3 của bài thơ Tây Tiến.
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến học sinh giỏi - Mẫu 1
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Có người từng nói "Thơ chỉ tràn ra khi trong ta cuộc sống đã tràn đầy". Thật đúng là như vậy!
Chiến tranh đã đi qua, hòa bình lặp lại vậy vùng Tây Bắc ấy lại khơi gợi cho Quang
Dũng một nỗi nhớ da diết khôn nguôi, phải chăng nơi đây đã đọng lại trong tác giả nhiều kỷ
niệm? Chính nỗi nhớ ấy đã thổi hồn cho ông viết nên bài thơ Tây Tiến. Người lính Tây
Tiến qua ngòi bút của Quang Dũng hiện lên thật nhiều khó khăn, gian nan, ta thể thấy
được qua khổ thơ cuối:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Quang Dũng một nghệ đa tài vừa viết văn vừa làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc. Thơ ông
phóng khoáng, lãng mạn-tài hoa. Bài thơ Tây Tiến được sáng tác ở Phù Lưu Chanh năm 1948
khi ông chuyển sang hoạt động đơn vị khác nhớ về đơn vị cũ. Tuy đã chuyển hoạt động
sang nơi khác nhưng những hình ảnh về vùng đất, con người nơi vẫn luôn thường trực
trong sâu thẳm tâm trí ông. Tây Tiến lúc mới ra đời đã bị cấm lưu hành, qua thời gian nét độc
đáo, sáng tạo, cái hay trong thơ hiện rõ chính vì vậy mà nó được đưa vào sách giáo khoa ngày
nay.
Điều kiện thời tiết vùng Tây Bắc rất khắc nghiệt, nó ảnh hưởng trực tiếp đến người lính hành
quân nơi đây:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"Không mọc tóc" thể hiểu thời tiết ảnh hưởng, bị sốt rét làm đau đớn thân xác người
lính. Tác giả nói "không mọc tóc" chứ không phải "không mọc được tóc" chứng tỏ được
coi như các người lính cạo trọc đầu để dễ dàng cho việc chiến đấu, chứ không phải do bệnh
tật để giảm đi sự đau thương đối với người đọc. "Quân xanh màu lá", nếu sự thật trần trụi
do bệnh sốt rét gây nên thì Quang Dũng lại cho rằng đó màu xanh của cây hóa thân cho
người lính để giặc khó nhận ra.Tuy khó khăn chồng chất, bệnh tật liên miên, nhưng qua lăng
kính của tác giả, đoàn binh hiện lên với sự yêu đời, không quản gian nan.
Cho dù chịu nhiều khó khăn, gian khổ nhưng nó không làm cho người lính Tây Tiến người đi
tình cảm lãng mạn của mình. Hai câu thơ tiếp theo miêu tả nét đẹp cũng như sự mạnh mẽ của
con người:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Dù ngày đêm đánh giặc nhưng tâm hồn của những người lính luôn trong trạng thái mộng mơ.
Cái mộng họ gửi qua biên giới, nơi vẫn còn đầy bóng giặc thù, đó là cái mộng giết giặc để lập
công danh. "Mắt trừng" gợi sự mạnh mẽ, đầy nội lực, quyết tâm vì dân tộc, ở đâu đó trong họ
vẫn luôn tồn tại một nỗi căm thù giặc sâu sắc. Đoàn binh Tây Tiến chủ yếu học sinh, sinh
viên người Hà Nội- thủ đô văn hiến, cả trái tim của Tổ quốc chính thế họ lấy đó làm
động lực chiến đấu. "Dáng kiều thơm" chính nét đẹp thanh lịch, thướt tha của con gái
Nội, cũng nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nét đẹp của quê hương đã thúc giục người
lính phải chiến đấu, đánh đuổi giặc ngoại xâm để bảo vệ từng nét đẹp nơi họ sống. Đó
động lực lớn để tinh thần chiến đấu thêm mạnh mẽ. Hình ảnh dáng kiều thơm vầng sáng
lung linh trong ức nhưng cũng thứ giúp cho họ tìm được sự cần bằng, tìm được sự thư
thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường hành quân vất vả.
Ra biên cương chấp nhận đối mặt với hi sinh, biết đi s chết, vậy các anh vẫn xung
phong ra trận với hi vọng sẽ đem chiến thắng trở về:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Biết bao nhiêu anh hùng đã ngã xuống nơi biên cương. Chiến tranh luôn tồn tại song
song với chết chóc, tuy vậy tinh thần xung phong ra trận vẫn luôn sôi nổi. Tuổi xuân độ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
tuổi đẹp nhất, thời gian đẹp nhất của cuộc đời mỗi người nhưng các anh cũng đành gác lại
để đặt nhiệm vụ Tổ quốc lên trên hết "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Những tình cảm đôi
lứa, những cái tôi vị kỉ đều gạt sang một bên, những người chiến sĩ vẫn nối tiếp nhau tầng
tầng lớp lớp lên đường, đi để bảo vệ từng đồng lúa, mùa ngô, bảo vệ nhịp đập con tim của
toàn dân tộc.
Tiếp nối âm hưởng bi tráng, hai câu thơ cuối đã tô đậm thêm sự mất mát hi sinh, thể hiện cái
chết cao đẹp, cái chết bất tử của người lính:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Quang Dũng dường như đã khóc khi viết đến dòng thơ này. Đây chính cái chết nhưng tác
giả đã nói giảm nói tránh để giảm bớt sự đau thương mất mát cho người lại. Thời gian
chiến tranh khoảng thời gian thiếu thốn, nghèo khổ của toàn dân tộc ta. "Áo bào" thay
"chiếu" người hi sinh quá nhiều, họ chỉ được quấn chiếc áo bào trên vai để về với đất mẹ.
Anh về với đất, nghĩa là anh đã thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình và giờ đây anh
hóa thân cho dáng hình xứ sở. Câu thơ cuối miêu tả tiếng gầm của sông như loạt đại bác
rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Bằng việc sử dụng những bút pháp nghệ thuật như nói giảm nói tránh, hoán dụ, ẩn dụ. Quang
Dũng đã khắc họa lại một đoàn binh Tây Tiến với nhiều vẻ đẹp khác nhau, họ đẹp về cả hình
dáng, mạnh mẽ từ ánh mắt đến tính cách cả sự hi sinh cao cả. Tất cả lòng yêu Tổ quốc,
mong muốn được sống trong hòa bình hạnh phúc, không tồn tại những đau thương mất
mát. Đoạn thơ này nhạc, họa, vừa bi hùng lại vừa kiêu hãnh. Những hình ảnh khắc họa
đoàn quân Tây Tiến trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng.
Phân tích bài thơ Tây Tiến đoạn 3 - Mẫu 2
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian thể phủ dày lên hình ảnh của
những anh hùng danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của đã khắc tạc
một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của
đất nước đã ngã xuống nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.
trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người
lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
nước ta. Đó bức tượng đài đã làm cho những người chiến yêu nước từng ngã
xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
"Tây Tiến" của Quang Dũng dòng hồi ức cùng thương nhớ về những đồng đội
của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng người đã hy
sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng những
người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính thế Quang Dũng
không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường
hành quân gian khổ hy sinh "đời vẫn cứ tươi" như 14 dòng thơ đầu tiên.
Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời
sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao tình quân dân. Quang
Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong c
phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt
những thủ pháp như tương phản, nhân hoá,ng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để
khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng
của đất nước, củan tộc. Đó bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa
một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
"Tây Tiến đoàn quân... khúc độc hành"
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc họa lên từ những đường nét
nhằm đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như những đoạn thơ trước đó người
lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu: "Sài Khao sương lấp đoàn quân
mỏi", nay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm
tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm
hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ
người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được
(chứ không phải họ c tình cạo trọc để đánh giáp cho dễ như nhiều người từng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
nói). Cũng sốt rét rừng da họ xanh như cây (chứ không phải họ xanh màu
ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh thần của người lính
lại cho thấy họ chính những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một
sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ o, hùm beo. Cái giỏi của Quang
Dũng làtả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng
rất hào hùng của cuộc sống. Bởi câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với
những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những
thanh trắc ấy âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn cả một
đoàn binh. Hai chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm
trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên
gọi của đoàn binh nữa, gợi ra hình ảnh một đoàn binh đầu không mọc tóc vẫn
đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở
câu thơ "Quân xanh màudữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần
của người lính còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. đây, nhà thơ không
chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn
"động vật hoá" người lính Tây Tiến muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng
bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người
anh hùng vệ quốc trong câu thơ:
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân"
thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô-típ mang đậm màu sắc phương Đông để
câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức
mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân xanhu dữ oai hùm" ta như
nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông A.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung
vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô. Người
lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội.
Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ
vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê
phán thói tiểu sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn người lính sức mạnh
vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người
Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người
chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính con người một đời sống tâm
hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng
gọi của non sông còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ
vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Nội -
Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng
tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và
tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh
với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng một thế giới tâm hồn hết
sức lãng mạn thì đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những
đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng
hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn
chỉ quan tâm đến cái hùng không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình
ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách
chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng
những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm
giác nặng nề bởi đó câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến
nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn
của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại những nấm
mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy
càng gợi sự đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người
đồng đội:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên
cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó
chính nấm mồ của những người con anh dũng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh". Đồng thời cũng chính câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia
được nângn những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã
tiếng gọi của chiến trường hiến ng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang
Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ "áo bào thay chiếu anh
về đất". Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một
đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của
mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở
những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận.
Hai câu thơ mang âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là
một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường
nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng
chữ. Hai câu thơ rắn rỏi cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao thể dửng
dưng trước cảnh "anh về đất"? "Anh về đất" hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực
hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông về xuôi như loạt
đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn,
Quang Dũng đã dựng n bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng
vừa chân thực vừa sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong
thời đại mới, thời đại của dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ
chống thực dân Pháp. Đó bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của
cuộc kháng chiến ấy. Đó bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang
Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. thế từ bức tượng
đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người
con anh hùng ấy.
Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 3
Quang Dũng (1921 - 1988) nghệ sĩ đa tài, hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng
mạn tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến xứ Đoài quê
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
mình. Trong các sáng tác của ông thì Tây Tiến bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho
đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn, sự
sáng tạo về hìnhnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của
tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ,
lệ. thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng
được lắng đọng trong tám câu thơ khắc họa bức chân dung người lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng trước
đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này
từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển
sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm
1947 nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao
sinh lực Pháp tại Thượng Lào miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của
đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến Tây Tiến phần đông thanh niên Nội,
nhiều học sinh, sinh viên, trong đó Quang Dũng. Họ sống chiến đấu trong hoàn
cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan chiến đấu
anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hoà Bình thành
lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó
lại đổi lại Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của
Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân
gian khổ của đoàn quân Tây Tiến khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
dội, hoang sơ. Đoạn 2 những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên
hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính
Tây Tiến. Đoạn 4 lời thề gắn với Tây Tiến miền Tây. Toàn bài thơ in đậm
dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm
hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ
đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng
vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng còn nhớ những người đồng
đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã
hồi tưởng vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng
đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức
tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân.
Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó căn bệnh sốt rét hiểm nghèo người
lính thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn
bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”.
Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh
quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy
lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc
đánh giáp cà, những cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao đói khát, sốt rét của
những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt
như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành
nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn thành,
những người em, những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn
nhiều chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính không chỉdáng vẻ bên ngoài mà còn
thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.
Trong chiến tranh, mất mát hi sinh không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu n hiện
thực này không che giấu theo cách riêng của ông:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến
trường” kết hợp với từ láy “rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau
thương mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên vẻ đẹp lãng mạn của tưởng quên
mình, xả thân Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc đời
xanh” vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.
Hai câu thơ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành
quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại
được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng oai
hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm vợi đi
cái bi thương, rồi cái bi y bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã.
Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây
Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ
dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy thấm đẫm
tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ nhịp điệu chậm, giọng thơ
buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng cả đoàn
quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện quyết tâm gắn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến mùa xuân ấy
đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc skhông
bao giờ lặp lại cái thời mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh
khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô
hạn sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ
với, cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã
chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang
Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng
đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 4
Quang Dũng (1921 - 1988) nghệ sĩ đa tài,hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn
tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến xứ Đoài quê mình. Trong các
sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng
tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ,
giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến
anh dũng hào hoa núi rừng miền Tây hùng vĩ, lệ. thể nói, nỗi nhớ da diết những
người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc họa bức
chân dung người lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng trước đó đã
được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948
tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 nhiệm vụ phối hợp
với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào
miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ
Tây Tiến phần đông thanh niên Nội, nhiều học sinh, sinh viên, trong đó Quang
Dũng. H sống chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành
nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến
trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến,
nhưng sau đó lại đổi lại Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm
của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian
khổ của đoàn quân Tây Tiến khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ.
Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước
miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn
với Tây Tiến miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng
của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công
hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh
thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừngcòn nhớ những người đồng đội cùng
trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng vẽ
lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét
tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát
được gương mặt chung của cả đoàn quân.
Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó căn bệnh sốt rét hiểm nghèo người lính
thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong
bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn
lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn
lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp cà, những mái đầu bị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
rụng tóc, vẻ xanh xao đói khát, sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang
Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ
nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn thành, những người em,
những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ
chân dung người lính không chỉ dáng vẻ bên ngoài còn thể hiện được thế giới nội tâm,
tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.
Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này
không che giấu theo cách riêng của ông:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến trường” kết
hợp với từ láy “rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương mất mát
lắng xuống. Điều nổi bật lên vẻ đẹp lãng mạn của tưởng quên mình, xả thân Tổ quốc
của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” vang lên khảng khái khẳng
định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.
Hai câu thơ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân
chiến đấu không đến cả manh chiếu thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc
trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng oai hùng thuở xưa, coi
cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm v đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị
lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của
dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người
lính không hề bi lụy thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ
nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng.
Quang Dũng cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể
hiện quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơiđoàn quân đã đi qua. Tây Tiến
mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ
không bao giờ lặp lại cái thời mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh
khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và
sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ với, cảm hứng
lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung
tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ
sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng
miền tây.
Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 5
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian thể phủ dày lên hình ảnh của những anh
hùng danh. Nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của đã khắc tạc một cách vĩnh
viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống
nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và trong thơ Quang Dũng cũng đã
dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó bức tượng đài đã làm cho những
người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời
gian:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
...........
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến của Quang Dũng dòng hồi ức cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà
thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người
đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
biên cương hay miền viễn xứ. Chính thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh
của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà “đời vẫn cứ
tươi” như 14 dòng thơ đầu tiên. Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của
những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao
tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây
Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng
loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để
khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất
nước, của dân tộc. Đó bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không
gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
Tây Tiến đoàn quân ..... khúc độc hành
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm
đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện
ra trong đoàn quân mỏi trong câu: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”, nay trong khung
cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình nước thì đây hình
ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã
không tránh việc tả cuộc sống gian khổ người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt
rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp
cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng sốt rét rừng da họ xanh như cây (chứ
không phải họ xanh màungụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh
thần của người lính lại cho thấy họ chính những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa
đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của
Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng
rất hào hùng của cuộc sống. Bởi câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” với những
thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như ‘tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh trắc ấy
âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn cả một đoàn binh. Hai chữ
"đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt
hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn tên gọi của đoàn binh nữa, gợi ra
hình ảnh một đoàn binhđầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ
pháp tương phản Quang Dũng sử dụng câu thơ "Quân xanh màu dữ oai hùm" không
chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính còn thấm sâu màu sắc văn hoá của
dân tộc. đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến muốn nói tới sức mạnh bách
chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca
ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ:
Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:
Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân
thể nói Quang Dũng đã sử dụng một típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ
mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền
thống của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng
của một hào khí ngút trời Đông A.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức
tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô. Người lính dẫu
nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi lòng lúc nào cũng hướng về Nội. Ta bỗng nhớ
đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" niềm thương nỗi nhớ vẫn
hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu
tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ,
người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo
nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
thép cũng chính con người một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến
không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao
nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều
thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản
lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn
tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với
những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng một thế giới tâm hồn hết sức lãng
mạn thì đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi
bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc
lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính thơ ca kháng chiến
thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng
không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của
nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm
hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác
nặng nề bởi đó câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến nơi "viễn
xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn
tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự
hoang lạnh, lại "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự đơn côi cút.
Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Trong Chinh phụ ngâm:
Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã
trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính nấm mồ
của những người con anh dũng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đồng thời cũng chính
câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài
tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã tiếng gọi của chiến trường hiến dâng
tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh
như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ "áo bào thay chiếu anh về đất".
Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của
mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong
cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây
Tiến chếtsốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn
nên tiễn đưa người chết không cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng
đã viết về cảnh tiễn đưa như thế:
Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán
Chỉ điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại mức tả thực đẩy lên thành cảm
hứng tráng lệ, coi chiếu áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng
người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ chính tấm áo của người lính. hiểu theo
cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình
ảnh chiếc áo bào sự hy sinh của người lính đã được coi sự trở về với đất nước, với núi
sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi
thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất
tráng ca:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng
đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa
sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc
đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó bức tượng đài
được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó bức tượng đài được khắc
tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của
mình. thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất
nước về những người con anh hùng ấy.
Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 6
Quang Dũng là một trong những nghệrất đa tài. Ông có thể vẽ tranh, làm thơ, ông còn biết
sáng tác nhạc. Thơ ca của Quang Dũng nổi bật với một hồn thơ lãng mạn, hào hoa, thắm
đượm nghĩa tình tinh thần dân tộc. Bài thơ Tây Tiến một trong những bài thơ thể hiện
cái tình đó của Quang Dũng
Lúc đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến”. Sau bỏ “nhớ” giữ lại “Tây Tiến” vì Quang Dũng cho
rằng bài thơ vốn đã tràn đầy nỗi nhớ, người đọc sẽ cảm thấy. Bài thơ được nảy sinh trong
những năm tháng không thể nào quên, từ một môi trường sống chiến đấu không thể nào
quên của cuộc đời người lính
Bài thơ được viết vào năm 1948 Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi ông đã chuyển sang đơn vị
khác nhớ về đơn vị đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ của tác giả về kỉ
niệm với thiên nhiên Tây Bắc đơn vị của mình. Trong tác phẩm, hình tượng những
người lính Tây Tiến được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ thứ 3 của bài thơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Đoàn quân Tây Tiến nơi lưu giữ trong trái tim Quang Dũng những tưởng tốt đẹp nhất của
thời thanh xuân đơn vị được thành lập năm 1947, Quang Dũng đại đội trưởng. Đoàn
quân có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào. Các chiến sĩ trong đội
quân chủ yếu là những học sinh, sinh viên, dân lao động thành thị thuộc mọi ngành nghề khác
nhau hợp thành một đội quân rất đoàn kết. Cuộc sống nơi chiến địa gian khổ, thiếu thốn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
cùng nhưng trong họ vẫn luôn ngời sáng phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ với tinh thần lãng mạn,
lạc quan, không sợ gian khổ. Hình tượng người lính Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đậm
chất bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hình ảnh “không mọc tóc” gợi ra sự thật nghiệt ngã của hoàn cảnh sống và chiến đấu của các
chiến Tây Tiến nhưng mang đậm chất khí chất ngang tàng. Hình ảnh “Quân xanh màu lá”
với nghệ thuật đối lập “Không mọc tóc”, “quân xanh” "dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ xanh
xao tiều tụy căn bệnh sốt rét. Tuy nhiên, hơn hết từ trong sâu thẳm con người họ vẫn toát
lên dáng vẻ oai như những con hổ chốn rừng thiêng, làm nổi bật tính cách dũng cảm của
người lính.
Sự oai phong lẫm liệt còn được thể hiện qua ánh mắt. “Mắt trừng” chính ánh mắt dữ dội,
rực cháy căm hờn, mang mộng ước giết kẻ thù. Họ rất anh dũng, kiên cường, đứng trước mũi
súng quân thù vẫn hiên ngang nhưng nét đẹp lãng mạn vẫn rất rõ nét, sâu sắc trong tâm tưởng
họ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, Quang Dũng đã không tiếc lời, ông đã dành những từ
ngữ vô cùng trang trọng khi nói về vẻ đẹp các cô gái Hà Nội: bên trong cái dáng vẻ oai hùng,
dữ dằn là trái tim, là tâm hồn khao khát với cuộc đời:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
những câu thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Các từ Hán
Việt cổ kính, trang trọng “biên cương, mồ viễn xứ” tạo không khí trang trọng, âm hưởng bi
hùng làm giảm đi hình ảnh của những nấm mồ chiến nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
hoang vu. Vẻ đẹp bi tráng còn được thể hiện qua khí phách người lính, tưởng anh hùng
lãng mạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, quyết tâm hiến dâng sự sống cho đất nước:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Từ ngữ ước lệ “áo bào” gợi lên vẻ đẹp bi tráng của sự hi sinh: nhìn cái chết của đồng đội giữa
chiến trường thành sự hy sinh rất trang trọng của người anh hùng chiến trận. Biện pháp nói
giảm: “anh về đất” làm vơi đi sự bi thương khi nói về cái chết của người lính Tây Tiến. Biện
pháp cường điệu: “Sông gầm lên khúc độc hành” để nói lên rằng thiên nhiên đã tấu lên
khúc nhạc hùng tráng đưa tiễn người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến ra đi trong khúc
nhạc vĩnh hằng.
Bằng những câu thơ mang âm hưởng bi tráng, đoạn thơ khắc họa chân dung người lính từ
ngoại hình đến nội tâm, đặc biệt tính cách hào hoa lãng mạn bi không lụy. Những con
người đã làm nên vẻ đẹp hào khí của một thời. Họ mang phẩm chất chung của người lính cụ
Hồ.
Bài thơ khúc ca bi tráng tinh thần lãng mạn về hình tượng người lính Tây Tiến trong
những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy gian khổ, thiếu thốn vẫn gợi lên
phẩm chất anh hùng hào hoa, lãng mạn.
Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 7
Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều kiểu rung cảm thẩm mỹ nơi người đọc, thậm chí còn
gây nên nhiều tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc... Tây Tiến của Quang
Dũng một trong những bài thơ như thế. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng
vững mà còn có sức sống kì diệu. Trong tâm hồn thi nhân, Tây Tiến là một thời để thương, để
nhớ, nhớ những kỉ niệm của người chiến binh trong những ngày tháng sống chiến đấu
cùng binh đoàn, nhớ cảnh rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vừa không kém phần
thơ mộng, nhớ những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, những thời
khắc nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân…
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nếu như hai đoạn đầu của bài thơ, người đọc được tiếp cận với hình ảnh người lính một
cách gián tiếp thì đoạn thơ thứ ba trực tiếp khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
............
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Lúc bấy giờ, ngoài Quang Dũng còn những gương mặt quen thuộc như bác sĩ Phạm Ngọc
Khuê, đại đội trưởng - nhạc Như Trang, nhà thơ Trần Văn. Họ đều những chàng trai
Thành còn rất trẻ. Binh đoàn Tây Tiến phần đông thanh niên trí thức Nội (các
trường: Sư phạm, Bưởi, Thăng Long, Văn Lang...). Họ mang vào chiến trường không chỉ tinh
thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” còn cả những nét hào hoa, thanh lịch của người
Tràng An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ,
sôi nổi, yêu đời mộng mơ. Tố chất người Tràng An thấm tận máu, tận hồn, một chàng
trai đa tài (làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc...), lại đã từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh
đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lính Tây Tiến,
đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm về những chiến hào hùng rất đỗi hào
hoa. Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng thấp thoáng dáng dấp của những chinh
phu trong văn học cổ, hay người hùng nước Vệ dứt áo lên đường, không hẹn ngày trở lại..
Thời chống Pháp, thơ viết về anh bộ đội thường viết về những người nông dân mặc áo lính
với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc.
Rồi "Đồng chí" của Chính Hữu, "Cá nước của Tố Hữu, đều miêu tả người lính “chân quê”:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.
(Đồng chí, Chính Hữu)
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng vừa những đặc điểm riêng lại vừa được khắc
họa theo một bút pháp riêng. Bằng bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng triển khai trên nền
ký ức (nỗi nhớ), Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bằng thơ về người lính Tây Tiến.
Đó là bức chân dung lẫm liệt, oai hùng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Một số ý kiến cho rằng đây hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng
hình ảnh “đoàn binh không tóc” “dữ oai hùm" không chân thực, thậm chí còn làm cho
hình ảnh anh bộ đội chống Pháp trở nên “quái đản”. Cảm nhận thơ như vậy là vừa chưa đúng
với đặc trưng của bút pháp lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến.
Thực tế kháng chiến chống Pháp không chỉ những anh bộ đội “lá ngụy trang reo với gió đèo”
còn cả những “anh vệ trọc” nổi tiếng một thời. Cho nên, hình ảnh “đoàn binh không
mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm” vừa một thực tế, vừa sản phẩm của cảm
hứng và bút pháp lãng mạn.
“Đoàn binh không mọc tóc” hình ảnh đoàn quân bị rụng hết tóc, hậu quả của những cơn
sốt rét rừng hoặc phải sống miền “rừng thiêng nước độc”; “quân xanh màu lá” nghĩa đoàn
quân có nước da xanh như tàu lá - đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng cả, do gian
khổ và thiếu thốn; thế nhưng đoàn binh vẫn toát lên vẻ “dữ oai hùm”, nghĩa là vẫn dữ tợn như
loài hổ báo của rừng xanh. Đây là cách ví người hùng theo lối cổ chứ không phải “làm xấu đi
hình ảnh anh bộ đội” như có người đã nghĩ.
Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của “đoàn binh”.
Cách miêu tả chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời
Trần cũng miêu tả người tráng sĩ với “hào khí Đông A”:
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông đã mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Vẻ đẹp của câu thơ chính tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến một vẻ đẹp
s cộng hưởng của âm vang truyền thống tinh thần thời đại, giữa những người chiến
binh năm xưa với những người lính cụ Hồ hôm nay.
Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa một cách sinh động đời sống tâm hồn của những chiến
Tây Tiến:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới” (Vũ Quần Phương), “thấy nổi lên lời độc tấu của
chàng trai Nội” (Đặng Anh Đào) vừa rất hào hùng lại rất hào hoa. Hình ảnh “mắt trừng”
thể hiện ý chí quyết tâm ngùn ngụt của ngọn lửa chiến đấu bảo vệ biên cương. Hình ảnh ấy
cũng biểu hiện hoài bão, khát vọng lập công cháy bỏng căm thù của người lính Tây Tiến.
Và ngay trong cuộc sống chiến đấu gian khổ dữ dằn đó, những người lính vẫn để tâm hồn cho
những hình ảnh thật dịu hiền, thân thương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những
chàng trai thành. Không thể ngăn được những phút giây mộng trong tâm hồn
người lính. Có một thời, người ta đã gán cho Tây Tiến những “mộng rớt“, “buồn rớt” chính là
những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây
Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này trong bài thơ Đất nước:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi các nhà thơ khác, Quang
Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như
chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!
Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng
không né tránh và nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Chất “tráng ca” được bộc lộ một cách hào hùng và cũng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý
thơ cổ (Chinh phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ “mồ viễn xứ" gợi cảm giác buồn
thầm lặng - sự hy sinh thầm lặng của những chiến sĩ vô danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn:
“rải rác” đây đó nơi “biên cương”, những nấm mồ “viễn xứ” không một vòng hoa, không một
nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan
như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi
đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao. “Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn thân, tự
nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một tưởng cao đẹp nhất.
Họ ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem
“nhẹ tựa lông hồng”.
Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết
như một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ
Quang Dũng rất đỗi hùng tráng không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định
được phương châm sống của cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian
khổ: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu được ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy
hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.
Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nhà thơ đã nói lên một sự thật bi thảm là: Người lính hy sinh trên đường hành quân đến một
manh chiếu liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong
những tấm áo bào sang trọng. “Áo bào” sự kết hợp hai từ: “áo vải” “chiến bào” khiến
cho “áo bào” vừa bình dị vừa sang trọng. Đây cách nói theo Quang Dũng để “an ủi
linh hồn những người lính”. Xuất phát điểm tình yêu đồng đội. Chính tình yêu thương đã
khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để “sang trọng hóa” cái chết của
người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
các chiến binh xưa. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ mang sức mạnh ngợi ca. Không
thể tìm được từ nào hay hơn để thay thế cho từ “về đất” trong câu thơ này. “Về đất” không
những diễn tả được sự hi sinh của người chiến còn thể hiện được sự trân trọng, yêu
thương của những người đồng đội ở lại. “Về đất” cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử
cùng hồn thiêng sông núi trường tồn cùng đất nước. Dòng sông đã tấu lên “khúc độc
hành” dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc thương, cảm phục.
Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi
rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc cùng
với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.
Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt
là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Nội lực trong cảm hứng thơ Quang
Dũng thường dội xuống ở các động từ”. Động từ “gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm
vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng
với các động từ các từ Hán - Việt (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, sông Mã,
khúc độc hành). Nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả
những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi cái hùng tạo nên chất
bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.
Đây là đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng
đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với
khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng của Tây Tiến vẫn vang cả núi rừngvọng qua
năm tháng.
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 8
"Tây Tiến" bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng một trong những bài thơ tuyệt bút
viết về "anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ - chiến sĩ,
vừa cầm súng đánh giặc, vừa cầm bút làm thơ. Thơ của ông luôn nóng bỏng hào khí chiến
trường.
Sau một thời gian xa đơn vị đồng đội, nhà thơ đã sáng tác bài thơ Tây Tiến này vào năm
1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo của bài
thơ nỗi nhớ niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông núi rừng
miền Tây xa xôi. Đó nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp cảm động một thời trận mạc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đầy gian khổ, hy sinh. Đây đoạn thơ thứ ba trong bài "Tây Tiến", đã khắc hoạ khí phách
anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm, đoàn binh Tây
Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người
chiến binh với quân trang màu xanh của rừng, với nước da xanh phong sương sốt rét
rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc". Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến
tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. "Không mọc tóc" hình ảnh phản ánh cái khốc
liệt của chiến trường:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: "quân xanh màu lá", “không mọc tóc" tương phản với "dữ
oai hùm" một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm
xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. "Dữ oai hùm"
một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa sáng tạo của Quang
Dũng. Các chiến binh ”Sát Thát” đời Trần: “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương
Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay hổ -
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô cáo). Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân
thù thời đại nào cũng có những chiến sĩ "tì hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào,
Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: “Quân xanh màu dữ oai hùm”, lấy cái "thô",
cái "mộc" để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.
Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật... muôn lần khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những
giấc "mơ", giấc "mộng" rất đẹp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Mộng gửi về hai phía chân trời: biên giới Nội, nơi còn đầy bóng giặc. "Mắt
trừng" - hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người
lính trong khói lửa ác liệt. "Mộng qua biên giới” - mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên
cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại
những giấc đẹp. Chiến Tây Tiến vốn những học sinh, sinh viên, những chàng trai
thành "xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: "Từ
thuở mang gươm đi giữ nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long" (Huỳnh Văn Nghệ).
Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các
anh vẫn mơ về Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ, trường xưa,
"Những xao xác hơi may" ?... Quên sao được những áo trắng, những thiếu nữ thương yêu,
những "dáng kiều thơm" từng hẹn. Hình ảnh "dáng kiều thơm” trong câu thơ của Quang
Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn trong thơ lãng mạn thời "tiền
chiến" nhưng dưới ngòi bút nhà thơ - chiến trở nên hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ
trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.
Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ "giếng nước gốc
đa", nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương...; trong thơ Hồng Nguyên nỗi nhớ "người vợ
trẻ" - "Mòn chân bên cối gạo canh khuya”,… thì người chiến trong thơ Quang Dũng, nỗi
nhớ gắn liền với "mộng” “mơ”, mộng lập chiến công, “dáng kiều thơm”. Hữu Loan
trong bài thơ "Màu tím hoa sim” cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:
... Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến tranh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê…
Viết về "mộng”và "mơ" của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc
quan yêu đời của đồng đội. Đó một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung "anh bộ
đội Cụ Hồ" xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bổ trợ, tô đậm bức chân dung người lính:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Trong gian khổ chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ
nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến “rải rác biên cương”. Câu thơ để lại
trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt,
đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: "Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận
một tưởng rất đẹp. "Đời xanh” đời trai trẻ, tuổi thanh xuân của "Những chàng trai
chưa trắng nợ anh hùng…”, những học sinh, sinh viên Nội. H lên đường đầu quân
nghĩa lớn của chí khí làm trai, họ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Câu thơ "Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem
xương máu để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng
lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: "Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm lệ". Quang Dũng ghi lại cảnh tượng bi tráng giữa
chiến trường miền Tây thuở ấy:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thân làm niềm kiêu hãnh. Các
chiến Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm "áo bào" bình dị ấy: "anh về đất". Một cái
chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc quê hương. Anh ngã xuống là: "về đất",
nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ "chết", từ "hi sinh" mà lấy cụm
từ "về đất" để ca ngợi sự hy sinh cao cả bình dị, thầm lặng thanh thản, nhẹ nhàng coi
cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sốngchiến đấu cho quê hương,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất" bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến
sĩ. Tiếng thác sông Mã "gầm lên" giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn
liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt về nơi an giấc ngàn thu. Câu "Sông gầm lên khúc độc
hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên
âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc, bên cạnh
những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, về đất, chiếu, gầm lên... lại có một số
từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành - nhờ đó
cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường đậm cái anh hùng,
đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch
sử.
Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ "Tây Tiến" đoạn thơ độc đáo nhất.
Khuynh hướng s thi cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong
miêu tả biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ “có hồn". Người lính đã sống anh dũng,
chết vẻ vang. Hình tượng người chiến Tây tiến mãi mãi một tượng đài nghệ thuật bi
tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.
Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 9
thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học thời đầu kháng chiến
chống Pháp, thể không Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất định
Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời
lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta thể quên một số câu thơ
trong bài, nhưng không thể quên được hình ảnh đoàn quân ấy:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Nếu như những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp - nói
đến gian khổ, hy sinh địa bàn hoạt động - thì đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những
nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các
chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực - thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi
ấy hoạt động những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít chết
bệnh tật thì nhiều, những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh”
đây thể hiểu xanh màu áo, xanh ngụy trang xanh làn da thiếu máu. Những hình
ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như
mang nghĩa tượng trưng, rất khí phách. Mười bốn chữ thơ chạm khắc vào lịch sử hình
ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ
ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai
Nội kiêu hùng, hào hoa.
vậy, khó khăn, gian khổ thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những
tình cảm lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mộng” “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy bóng
giặc - mộng giết giặc lập công, Nội, quê hương yêu dấu - những bóng dáng thân
yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy vầng sáng lung linh trong ký ức, “tố cáo” nét đa tình của người
lính. Nhưng với các chiến Tây Tiến, nỗi nhớ ấy sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau
mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thất chí nản lòng. Vậy một thời, câu thơ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
“đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả của chính bài thơ phải “trải bao gió
dập, sóng dồn”.
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi - xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến Tây Tiến
cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hy sinh.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc
giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm.
Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hy sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường
hành quân người chiến Tây Tiến gặp biết bao ngôi "mồ viễn xứ" của những người con
"chết xa nhà". Nhưng các chiến ta nhìn thấy với đôi mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận
điều đó. Một trong những động thôi thúc họ lên đường hình ảnh người anh hùng da
ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng
pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hy sinh nhưng đó lại
một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức
gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ
rắn rỏi cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao thể dửng dưng trước cảnh “anh về
đất”? “Anh về đất” hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của
mình. Tiếng gầm của sông về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con
yêu của giống nòi.
Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào
“mộng rớt”, “buồn rơi” ... nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào bản chất,
thời đại ấy mới có văn chương ấy.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Tây Tiến bài thơ, tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ nhạc, họa;
bên cạnh cái bi cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương niềm kiêu hãnh anh hùng. Nửa
thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã
trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kỳ lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp.
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 10
Quang Dũng (1921 - 1988) nghệ sĩ đa tài,hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn
tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến xứ Đoài quê mình. Trong các
sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng
tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ,
giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến
anh dũng hào hoa núi rừng miền Tây hùng vĩ, lệ. thể nói, nỗi nhớ da diết những
người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc họa bức
chân dung người lính Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Bài thơ “Tây Tiến” được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng trước đó
đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm
1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động
tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ
Tây Tiến phần đông thanh niên Nội, nhiều học sinh, sinh viên, trong đó Quang
Dũng. H sống chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành
nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến
trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến,
nhưng sau đó lại đổi lại Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm
của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.
Bài thơ được tác giả chia thành bốn đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian
khổ của đoàn quân Tây Tiến khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ.
Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước
miền Tây thơ mộng. Đoạn thứ ba đã tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời
thề gắn với Tây Tiến miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng
khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ
thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái
nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừngcòn nhớ những người đồng đội cùng
trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng vẽ
lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét
tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát
được gương mặt chung của cả đoàn quân.
Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó căn bệnh sốt rét hiểm nghèo người lính
thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong
bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn
lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn
lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp cà, những cái đầu bị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
rụng tóc, vẻ xanh xao đói khát, sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang
Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ
nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn thành, những người em,
những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ
chân dung người lính không chỉ dáng vẻ bên ngoài còn thể hiện được thế giới nội tâm,
tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.
Trong chiến tranh, mất mát hy sinh không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực
này không che giấu theo cách riêng của ông:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến trường” kết
hợp với từ láy “rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương mất mát
lắng xuống. Điều nổi bật lên vẻ đẹp lãng mạn của tưởng quên mình, xả thân Tổ quốc
của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” vang lên khảng khái khẳng
định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.
Hai câu thơ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân
chiến đấu không đến cả manh chiếu thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc
trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng oai hùng thuở xưa, coi
cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm vơi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy
bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca
đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hy sinh của người
lính không hề bi lụy thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ
nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng.
Quang Dũng cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể
hiện quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơiđoàn quân đã đi qua. Tây Tiến
mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ
không bao giờ lặp lại cái thời mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh
khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và
sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ với, cảm hứng
lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung
tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ
sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng
miền tây.
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 11
Theo dòng ức, ngược về quá khứ, ta đã bắt gặp không biết bao nhiêu hồn thơ khiến mỗi
chúng ta đắm say mê mẩn như lạc vào thế giới đó. Quang dũng cũng là một nhà thơ như vậy.
Ông người tài hoa, vẽ tài hát giỏi, thơ hay. Ông để lại cho đời nhiều bài thơ với những âm
hưởng đặc sắc. Tiêu biểu bài thơ Tây Tiến mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng
mạn mà ta được học ở chương trình phổ thông. Có thể nói, cả bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến,
về những người đồng đội nhưng nỗi nhớ da diết, lắng đọng nhất lại được nhà thơ tập trung
thể hiện nhất việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến sự hi sinh bi tráng của họ
ở khổ 3 của bài thơ:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo dài thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Thật vậy, bài thơ Tây Tiến được ra đời trong những năm không thể nào quên của Quang
Dũng. Tây Tiến là một tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với lực lượng trang Lào bảo vệ biên giới. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển
sang đơn vị khác. Tại làng P Lưu Chanh, với nỗi nhớ Tây Tiến da diết với những năm
tháng mưa bom bão đạn không thể nào quên, ông chắp bút cho ra bài thơ đặc sắc Tây Tiến, in
trong tập Mây đầu ô năm 1986. Bài thơ bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên hùng vĩ, về
quãng thời gian chiến đấu gian khổ ngày đêm bên nhau với ý chí, tinh thần quật cường. Đặc
biệt hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai hùng, kiêu ngạo, vừa thơ mộng trữ tình.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vừa chân thực, vừa hào hùng. Nếu hai đoạn thơ
trước, thiên nhiên nhân vật chính thì khổ ba, con người vượt lên để làm điểm nhấn, chất
xúc tác cảm xúc cho bài thơ lên đến cao trào.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Đoạn thơ trên làm sống dậy một hình ảnh đoàn binh Tây Tiến gan góc, dũng cảm. Ở họ mang
một hào khí đáng ngưỡng mộ. Họ chỉ những cậu sinh viên thành mới từ giã mái
trường, gia đình lên đường chiến đấu còn biết bao bỡ ngỡ, lạ lùng với những thứ xa lạ, ngây
ngô nhưng họ vượt lên trên cảm giác sợ hãi, thay vào đó sự oai hùng của tuổi trẻ, của sự
nhiệt huyết bừng cháy. Nthơ dùng “không mọc tóc” để miêu tả đoàn binh. Đó hình ảnh
chiến rất khác lạ. Bên cạnh việc chọn ngày đêm phải chống chọi với kẻ thù tàn nhẫn, họ
còn phải gồng mình vượt qua thiên nhiên khắc nghiệt. Họ sống chiến đấu nơi rừng thiêng
nước độc, nơi sông sâu núi thẳm thiếu ăn, thiếu thuốc, mắc các dịch bệnh sốt rét dẫn đến trọc
đầu. Chính nhà thơ Chính Hữu cũng đã từng đề cập đến bệnh này:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Nhà thơ đã lột tả một cách trần trụi sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã khiến cho họ trở nên
một cách lạ. Đó cũng một sự thật trần trụi đến khắc khổ của binh đoàn Tây Tiến. Họ
làn da xanh xao đói rét nhưng họ vẫn “oai hum” khiến kẻ địch khiếp sợ. Đó mới chính
nét đẹp đáng khâm phục của đoàn binh Tây Tiến.
Mặc quyết tâm đánh giặc nhưng trong họ vẫn còn tỏa ra chất lãng mạn vốn của người
lính. Họ không cứng nhắc, khô khan, cũng những phút giây họ dành cho người thân gia
đình. Họ nhớ về quê hương nơi người thân họ vẫn ngày đêm trông mong. Họ nhớ về
những bóng dáng thân yêu. Hình ảnh “mắt trừng” mắt quắc lên vẻ dữ tợn nhưng họ gửi
mộng đánh thắng quân thù qua biên giới. họ nghĩ đến một viễn cảnh tươi sáng hơn cho gia
đình họ.
thể thấy Quang Dũng đã khéo léo khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp
hào hùng bi tráng nhưng cũng rất đỗi lãng mạn tình tứ chỉ qua vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng
thấm đượm nỗi lòng thầm kín của nhà thơ.
Sự hi sinh của người lính Tây Tiến cũng rất bi tráng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Hình ảnh người lính hy sinh bản thân nơi chiến trường khắc nghiệt thật khiến ta đau xót. Họ
cống hiến bản thân mình cho Tổ quốc, họ ngã xuống nơi chiến trường. Họ nằm lại nơi đất
khách quê người, không một vòng hoa, không một nén hương tưởng nhớ. Lạnh lẽo, bi thương
nhưng trước khi lên đường cầm súng chiến đấu họ đã xác định ranh giới giữa cái chết với cái
sống là quá mong manh. Họ chấp nhận điều đó.
Họ mang tuổi trẻ, nhiệt huyết của mình cống hiến cho quê hương. Tuổi trẻ tuổi đẹp nhất,
nhiều ước hoài bão lớn lao đầy hứa hẹn nhưng họ chẳng tiếc nhiệt tình dâng hiến cả
sức trẻ cho Tổ quốc. Đó một sự hi sinh đại, thầm lặng đáng ngợi ca trân trọng biết
bao.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cái chết của họ cũng rất bi tráng. Hình ảnh chiếc “áo bào” thay “chiếu” khiến ta thấm thía
biết bao suy ngẫm. Quang Dũng đã khéo léo dùng từ Hán việt để giảm bớt sự bi thương cho
cái chết oanh liệt ấy. Đất Mẹ ôm ấp, vỗ về họ như đang những cách tay dài đón họ vào lòng
như những đứa con xa quê hương về với cái ôm đầy tình cảm của người mẹ. Quang Dũng đã
mượn luôn âm thanh của thiên nhiên như khúc ca kêu thêm sự đau thương mất mác. Sông
gầm lên ai oán. Câu thơ ấy mang âm hưởng dữ dội như cào vào lòng người những vết
xước sâu không thể nào quên đi được nhưng cũng mang âm hưởng bi tráng khiến cho sự
hy sinh của người lính không hề bi lụy chút nào. Tây Tiến mùa xuân ấy như khúc ca còn
vang mãi trong lòng mỗi người.
Tóm lại, đoạn thơ thứ ba đặc sắc nhất của bài thơgiọng điệu trang trọng thể hiện tình cảm
của nhà thơ một cách sâu sắc. Đặc biệt với những hình ảnh thơ thấm đẫm kỉ niệm mà nhà thơ
hồi tưởng lại man mác buồn nhưng thấm đẫm bi tráng hào hùng. Nhà thơ khéo léo sử dụng từ
Hán Việt khiến đoạn thơ trang nghiêm lên nhiều hơn. Qua những thủ pháp nghệ thuật đặc
sắc, Quang Dũng đã vẽ ra bức tranh về đoàn binh Tây Tiến. Họ oai nghiêm, lẫm liệt yêu nước
nồng nàn nhưng cũng rất lãng mạn. Đây đoạn thơ sâu sắc đúc kết cả cái tình, cái thần cho
toàn bài, là điểm nhấn nổi bật mà ta không thể nào quên.
Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 12
Cả bài thơ nỗi nhớ dạt dào về “Tây Tiến”, với những kỉ niệm một thời. Những khó khăn
trong cuộc sống chiến đấu, cũng như những giờ phút thanh bình bên người dân Tây Bắc.
Bài thơ còn miêu tả rất thực về hình ảnh của người lính. Về tinh thần và những phẩm chất tốt
đẹp của họ.
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Một đoạn thơ khắc họa về những chàng trai Tây Tiến hình ảnh tả thực gợi lên trong
lòng người đọc nhiều niềm thương cảm cả ngưỡng mộ. Đoạn được mở đầu bằng lời miêu
tả thẳng không chút tránh né sự thật.
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Cuộc sống chốn rừng núi Tây Bắc thiếu thốn cùng. Quân chiến đấu không đủ ăn, mặc
không đủ ấm. Để chiến đấu họ phải cạo trọc đầu tạo thành đoàn “vệ trọc” “vệ đỏ” để kẻ thù
không thể nắm được họ. Nhưng nguyên nhân khác những cơn sốt rét rừng cực kỳ nguy
hiểm, cứ đe dọa, rình rập, sẵn sàng lấy đi tính mạng của họ bất cứ lúc nào.
Trong bài “Đồng chí” chính hữu cũng đã có đề cập tới những khó khăn và căn bệnh này:
Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá, chân không dày
….
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Căn bệnh này thì bất cứ người lính nào cũng gặp nhưng đến với “Tây Tiến”, ta mới thể
hiểu được một cách chân thực nhất. Đó sự thật không phải nói quá hay nói để tạo ấn
tượng thú vị nhà thơ lấy chính cái hiện thực khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh tự
tốn cho mình. Đó cái khác của người lính Tây Tiến: “Đoàn binh không mọc tóc.” Cũng
như Phạm Tiến Duật gọi “tiểu đội xe không kính” của mình. Đó một cách gọi dỏm thể
hiện slạc quan chất lính. Câu tiếp theo chia làm hai vế “quân xanh màu lá/ dữ oai hùm”.
Màu xanh màu xanh của ngụy trang hay chính màu xanh da thịt của người lính cho
quá vất vả và chịu đựng căn bệnh làm da nhợt nhạt không sức sống.
Như Tố Hữu cũng nói:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cả đoàn quân sao yếu ớt nhưng bên cạnh đó cả một khí thế oai phong. Cái bi đặt bên
cái tráng làm nổi bật cái oai phong của đoàn quân. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo nên âm hưởng
mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ. Người đọc cảm nhận khí thế của đoàn quân ra trận, yếu
nhưng đã đánh cho Pháp phải khiếp sợ.
cuộc sống khó khăn nhưng những người lính Tây Tiến vẫn mang trong mình lắm
mộng mơ, và khát vọng hoài bão.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Hai câu mang hai chữ “mộng” “mơ”. Từ trừng được dùng khá đặc sắc, cho thấy bao
tâm nguyện, khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều gửi cả ánh mắt. “Mắt trừng” không phải
chỉ hành động mạnh nhìn trừng trừng dữ dằn, dọa nạtcái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể
hiện những mong ước đến khắc khoải, mong ước về một ngày chiến thắng kẻ thù. Chữ
“mộng” khiến câu thơ chùng xuống ẩn chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của Quang Dũng
khiến ta nhớ tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Nhớ “người yêu” hay nhớ “dáng kiều thơm” làm hình ảnh người lính trở nên gần gũi hơn rất
nhiều. Vì nỗi nhớ rất đỗi bình thường của những chàng thanh niên, nhưng trong lúc khó khăn
cũng thật cao quý. Nỗi nhớ những mộng giúp tiếp thêm sức mạnh và nghị lực để vượt
lên hoàn cảnh. Để vượt qua thiếu thốn vật chất, những con đau dằn xé. Để không gục bởi
hoàn cảnh trước khi gục trước kẻ thù. Quang Dũng đã viết nên bốn câu thơ đầu với cái nhìn
đa chiều, phong phú. Để ta thấy đằng sau phong thái hùng dũng cũng một tâm hồn trẻ
tài hoa.
Hai câu thơ tiếp theo là sự tiếp nối của sự chiến đấu giành độc lập tự do. Đó là sự hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nếu ta chỉ đọc câu thơ đầu thì không thể không xúc động trước cái hiện thực quá đỗi bi
thương. Cả một đoàn quân đang đi trên con đường dài thì thỉnh thoảng có một người ở lại sau
lưng. Bên đường lại mọc lên một nấm mồ. Giữa rừng núi, không một nén hương, không nước
mắt người thân. Những cái chết độc giữa rừng lạnh lẽo, bi thảm, những câu thơ sau như
một lực kéo hình nâng câu đầu lên để kéo cái bi thảm thành cái bi tráng. Câu thơ thứ hai
chính là câu hát đầu thách thức ngạo nghễ của các chàng trai. Biết đi là hy sinh đó nhưng một
khi đã đi thì không quay đầu trở lại. hy sinh cũng sự hy sinh xứng đáng. Nói không
tiếc thì cũng không thể họ thanh niên còn nhiều cái chưa làm được, nhưng đây hiến
dâng phần còn lại của cuộc đời cho tổ quốc nên không tiếc nữa. N anh lính trong dáng
đứng Việt Nam
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Những sự hy sinh đại. ta không thể biết ai đã hy sinh nhưng Nguyễn Khoa Điềm của
từng khẳng định “không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm nên đất nước.”
Một khi xác định được lý tưởng những người lính xem cái chết mình nhẹ tựa lông hồng.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cuộc sống thiếu thốn đến nỗi không có mảnh chiếu che thân nhưng với Quang Dũng mảnh áo
kia chính “áo bào” như những chiến tướng của ngày xưa. Một cái chết hào hùng sang
trọng chết cho đất nước. Đất đã sinh ra anh lại đón nhận anh trở về khi đã làm xong
nghĩa vụ thiêng liêng của anh. Anh ra đi không mang theo tiếng khóc của đồng đội nhưng
tiếng gầm của sông đã tiễn anh ra đi. Cả quê hương đất nước như đang tiếc thương đưa
anh về đất. Vẫn cái chết nhưng lại hào hùng, không bi lụy bi tráng. Đây điểm nhấn
xuyên suốt bài thơ. cái đặc sắc của Quang Dũng. Nhưng lúc bài thơ ra đời nhiều người
không hiểu được. Họ coi việc nói thực cái chết kể lể, yếu mềm theo kiểu tiểu sản.
nhưng họ chưa hiểu được sâu là đằng sau cái chếtcái hào hùng. Cái chết chỉcái nên cho
sự vinh quang.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đây sông một lần nữa được nhắc lại khi nói đến Tây Tiến. Điều đó khẳng định sự hy
sinh ra đi của các anh đã đi vào bất tử khi thân xác hòa vào cỏ cây vào đất mẹ thiêng
liêng.
Đoạn thơ đã tạo nên được khí thế của đoàn quân. Những người lính với ý chí kiên cường,
nghị lực những ước mơ. Họ đã ra đi, chiến đấu hy sinh. Họ đã bảo vệ tổ quốc không
tiếc đời mình. Quang Dũng thể hiện được điều đó bằng bút pháp tả thực cả lãng mạn.
Nhà thơ bộc lộ được tinh thần của một chiến sĩ Cụ Hồ thời chống Pháp.
Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi
Nào có xá chi đâu ngày trở về.
Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 13
“Tây Tiến” của Quang Dũngmột trong số những bài thơ hay viết về người lính trong cuộc
kháng chiến chống Pháp. Đến với khổ thơ thứ ba của bài thơ, người đọc sẽ cảm nhận được
hình ảnh chân dung người lính vô cùng chân thực:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
bốn câu thơ đầu, hình ảnh người lính được nhà thơ xây dựng với nét đẹp vừa hiên ngang
cũng vừa thơ mộng. Chân dung của họ được nhà thơ Quang Dũng khắc họa qua hình ảnh
“đoàn binh không mọc tóc”. Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ khó khăn, bom
đạn hóa chất của kẻ thù đã làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Nhưng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đây lạ là “không mọc tóc” có nghĩa là người lính Tây Tiến đã chủ động lựa chọn cạo trọc đầu
để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Thế mới thấy tâm thế luôn sẵn sàng chiến đấu của
họ cao đến nhường nào. Kế tiếp hình ảnh “quân xanh màu dữ oai hùm” gợi ra hai cách
hiểu. Đó thể màu xanh của lớp ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường,
người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy
trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai chính khuôn mặt xanh xao của
những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy
được những khó khăn gian khổ họ phải trải qua. Nhưng không những khó khăn ấy
các anh mất đi tinh thần lạc quan. Các anh đã lựa chọn chủ động đối mặt với khó khăn, coi đó
giống như là sức mạnh để tiếp tục cuộc hành quân của mình. Tuy trong gian khổ mà vẫn hiên
ngang, bất khuất.
Nhưng họ không phải chỉ những con người khô khan cũng rất đỗi mộng. Những
người lính ấy tuổi mới chỉ mười tám đôi mươi - vẫn còn những học sinh, sinh viên mang
trong mình nhiều tưởng mộng. nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốctạm
gác bút nghiên, cầm súng để chiến đấu. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo
dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng
về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều
thơm” - đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi
đọc câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp
tiểu sản. Nhưng đây không phải vậy, qua hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ
gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến. Quả là cái nhìn phiến diện một thời.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã miêu tả sự hy sinh anh dũng của những người lính.
Biện pháp tu từ đảo ngữ “Rải rác” “biên cương mồ viễn xứ”. Cùng với từ láy “rải rác” kết
hợp các từ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ” khiến cho giọng thơ trở nên trang trọng
hơn. Phải hiểu rằng đây không chỉ là một cái chết mà nhiều cái chết. Những người lính hết
thế hệ này đến thế hệ khác, họ đã lên đường chiến đấu hy sinh cho nền độc lập của dân
tộc. Cho phải đối mặt với cái chết, các anh vẫn nguyện dâng hiến hết tuổi thanh xuân
cho tổ quốc: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Câu thơ giống như một lời thề nguyện:
“Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” - đêm hết tuổi xuân thậm chí tính mạng cho sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc. Để rồi khi họ ra đi “áo bào thay chiếu anh về đất” - hình ảnh
“áo bào” thể được hiểu tấm áo khoác bên ngoài của những người lính. Những người
lính khi ra đi, đồng đội của các anh không để chôn cất nên các anh phải dùng những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng - đó là tấm
chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những
chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Hình ảnh “áo báo” đã bất tử hóa cái
chết của người lính. Trước sự hy sinh ấy, con sông dường như cũng không thể im lặng:
“Sông gầm lên khúc độc hành”. Sông vốnvật tri giác lại được nhân hóa qua
động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên
khúc tráng ca tiễn biệt.
Quả Quang Dũng đã xây dựng được một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến vừa
chân thực vừa lãng mạn.
Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 14
Tây Tiến một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính phối
hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây
Tiến đều học sinh sinh viên, trong đó nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển
sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn Tây Tiến sáng tác ra bài thơ “Tây Tiến”.
Đến với khổ thơ thứ ba, nhà thơ đã xây dựng được hình ảnh những người lính vừa dũng cảm,
hiên ngang lại vừa mơ mộng.
Hai câu thơ đầu là hình ảnh thật chân thực về binh đoàn Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ khó khăn, bom đạn hóa chất của kẻ thù đã
làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Nhưng đây lại “không mọc tóc”
nghĩa người lính Tây Tiến đã chủ động lựa chọn cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh
hoạt kháng chiến. Kế tiếp hình ảnh “quân xanh màu dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu.
Đó thể màu xanh của lớp ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người
lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù.đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang
lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai chính khuôn mặt xanh xao của những
người lính bởi những cơn sốt rét rừng. hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được
những khó khăn gian khổ người lính phải trải qua. Nhưng không những khó khăn ấy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
họ mất đi tinh thần lạc quan của. Họ luôn sẵn sàng đối mặt với mọi khốc liệt nơi chiến
trường bom đạn.
Mạnh mẽ là thế, nhưng cũng có đôi lúc người lính cũng đầy thơ mộng:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Những người lính tuổi đời chỉ mới mười tám đôi mươi. Họ lên đường chiến đấu khi vẫn còn
mang trong mình nhiều khát khao của tuổi trẻ. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt
đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với
khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội
dáng kiều thơm”. Đó có thể những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Trên con
đường hành quân gian khó ấy, họ nhớ đến hình ảnh Hà Nội - thủ đô của đất nước với một
niềm mong ước chiến thắng được trở về thăm lại quê hương.
Và rồi có trận chiến nào mà không phải trải qua những mất mát, hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hai câu thơ này là hình ảnh tả thực về cái chết của những người lính. Từ láy “rải rác” kết hợp
với cụm từ Hán Việt “biên cương mồ viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang trọng hơn. Đó
không phải một cái chết rất nhiều cái chết. Cho vậy, các anh vẫn ra đi chẳng tiếc
tuổi trẻ, chẳng tiếc đời mình.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Hình ảnh “áo bào” chính chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến tranh khắc
nghiệt, thiếu thốn đến không cả chiếu để bọc thi thể người lính đã hi sinh. Những người
đồng đội của các anh phải lấy chiếc áo các anh đang mặc để chôn cất. Cách nói “về đất”
nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương cũng sự ngợi ca, trân trọng dành cho
người anh hùng của quê hương đất nước. Hình ảnh cuối cùng “sông gầm lên khúc độc
hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Với giọng thơ trang trọng, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính mang vẻ đẹp bi
tráng. Họ dường như được bất tử hóa - trở thành tượng đài trong lòng mỗi người đọc.
Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 15
“Tây Tiến” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Quang Dũng. Đến với khổ thơ
thứ ba, người đọc đã thấy được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên đầy dũng cảm nhưng
cũng thật thơ mộng:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Với bốn câu thơ đầu, người lính Tây Tiến hiện lên qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”.
Một cách nói thể hiện tâm thế đón nhận khó khăn đầy chủ động của người lính. nơi chiến
trường gian khổ, mọi công việc sinh hoạt đều diễn ra một cách đơn giản nhất. Chính vậy,
họ đã chủ động chọn cách cắt đi mái tóc của mình để thuận tiện cho cuộc sống. Nhưng không
chỉ dừng lại đó, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” còn nói về một thực tế khốc liệt nơi
chiến trường. Những cơn sốt rét rừng khiến cho người lính bị rụng hết tóc. Tiếp đến hình
ảnh ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu cho người đọc. Cách thứ nhất đó
màu xanh của lớp ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải
ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với
màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai đó chính khuôn mặt xanh xao của những người
lính bởi những cơn sốt rét rừng. Cả hai cách hiểu đều cho thấy sự khó khăn mà người lính đã
phải trải qua trong chiến đấu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Họ không chỉ dũng cảm, còn rất thơ mộng. Những người lính Tây Tiến đều xuất thân từ
tầng lớp trí thức tiểu sản. Họ xung phong vào nơi chiến trường trận mạc trở thành những
người lính nhưng vẫn mang giữ tâm hồn của những chàng sinh viên. Hình ảnh “mắt trừng”
gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi
mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi
đêm đến họ về “Hà Nội dáng kiều thơm” - đó những gái Nội với vẻ đẹp thướt
tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng
mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu sản. Nhưng đây không phải vậy, qua
hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây
Tiến.
Bốn câu thơ sau khắc họa sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến. Nghệ thuật đảo ngữ:
“Rải rác” “biên cương mồ viễn xứ” kết hợp với từ láy “rải rác” từ Hán Việt “biên
cương”, “viễn xứ” khiến cho giọng thơ bỗng nhiên trở nên trang trọng hơn. Hình ảnh này gợi
ra đây không chỉmột cái chết mà là nhiều cái chết. Khắp nơi trên mảnh đất này đều có mộ
của những chiến đã hy sinh. Nhưng đồng đội của các anh đã ra đi, nhưng các anh vẫn
nguyện đem thân mình dâng hiến cho tổ quốc. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
như một lời khẳng định. Những người lính nguyện đem thân mình cống hiến cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Các anh chẳng tiếc nuối những năm tháng tuổi trẻ. Nhưng làm sao
không tiếc nuối cho được? Họ mới chỉ là những chàng trai tuổi mười tám đôi mươi còn nhiều
thơ mộng. Nhưng tưởng cách mạng người lính vẫn nguyện hy sinh tất cả. Hình ảnh “áo
bào” gợi ra hai cách hiểu sâu sắc. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có
để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo
bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng - đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng.
Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng
thời xưa. Với hình ảnh này, người lính đã được bất tử hóa. Các anh không chết đâu, các anh
vẫn mãi sống trong lòng của người dân Việt Nam. Cuối cùng là hình ảnh con sông Mã: “Sông
gầm lên khúc độc hành”. Trước sự hy sinh ấy, con sông - con sống gắn với cuộc
sống người lính Tây Tiến tại núi rừng Tây Bắc dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã
gầm lên khúc độc hành”. Sông vốn vật tri giác lại được nhân hóa qua động từ
“gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót vang lên khúc
tráng ca tiễn biệt.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Tóm lại, qua khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã khắc họa thật hình ảnh người lính Tây Tiến hiện
lên thật chân thực, sống động.
Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 16
Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính hiện lên với vẻ đẹp hào
hùng mà thơ mộng. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong khổ thơ thứ ba của bài thơ:
Tây Tiến nhìn từ chiều sâu kỉ niệm thật có những hồi ức khó quên. Những có lẽ đậm sâu nhất
lòng Quang Dũng dáng dấp người lính Tây Tiến từ lâu được khắc tạc thành những anh
hùng bất tử trong trí nhớ. Bắt đầu là nhớ về hình ảnh những “đoàn binh không mọc tóc”:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Bài thơ làm sống dậy hình ảnh của một đoàn quân Vệ quốc. Bước chân họ in trên khắp các
nẻo đường đất nước. Họ tình nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến, gian khổ lắm lúc vượt
quá sức chịu đựng của những chàng trai Thủ đô mới từ giã mái trường, góc phố. Một sự thật
trần trụi khắc khổ về người lính thời chiến hiện ra: Họ sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi
thẳm, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt rét liên miên đến rụng tóc, trọc đầu, da xanh tái. Quang Dũng
chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Đâu phải riêng Quang Dũng mới nhắc
về sự thật ấy. Tố Hữu cũng từng đau lòng viết: “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên anh vàng
nghệ”. Nhưng vốn mang trong mình khí chất của người chinh phu tráng sĩ, Quang Dũng nói
về cái bi chỉ cốt để gợi cái tráng. Người chiến chủ động “không mọc tóc” chứ không phải
“tóc không mọc”. Ta nghe trong đó chút dỏm tươi vui, cũng niềm lạc quan không ngại
khổ ngại khó.
Quyết tâm giết giặc, gian khổ đói rét không làm giảm chất lãng mạn vốn trong từng chiến
sĩ. Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ
về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm
Nội dáng kiều thơm.” Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về cùng những giấc mơ.
chứ không phải nhớ, là cảm xúc nằm trong tiềm thức chứ không phải trong ý thức, đó là động
lực để cho các anh cầm chắc tay súng, như nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng nói về cảm xúc ấy:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Nhớ về đồng đội, Quang Dũng cũng không tránh những mất mát hy sinh, nhưng hẳn rằng
Tây Tiến một trong số ít bài thơ viết về điều đó một cách thấm thía bằng cảm hứng bi
tráng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã
hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy đó bao mất mát hy sinh. Nhưng nhìn xa
hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hy sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đời xanh là tuổi trẻ với bao nhiêu hoa mộng. Đẹp là thế, hứa
hẹn nhiều thế nhưng các chiến ta chẳng tiếc nhiệt thành hiến dâng cho Tổ quốc. Hỏi
sự hy sinh nào cao quý hơn, đáng ca ngợi hơn? Một lần nữa, Quang Dũng khắc tả được
tinh thần của những chinh phu tráng sĩ thời xưa:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao
Ngày xưa, người tráng chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây coi
đó là vinh quang tột đỉnh, còn chiến sĩ Tây Tiến thì “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu
câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng
phong vị cổ này hình ảnh áo bào thay chiếu. Không manh chiếu, các anh “về đất” bằng
chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh
ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên
đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.
Như vậy, qua phân tích trên, khổ thơ thứ ba của bài thơ “Tây Tiến” một khổ thơ hay. Hình
ảnh người lính của binh đoàn Tây Tiến hiện lên đầy chân thực.
Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 17
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nhắc tới thơ văn trong kháng chiến, chúng ta không thể không nhắc tới những nhà văn nhà
thơ như Tố Hữu, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thi, ... và có lẽ chúng ta không thể nào không
nhắc tới nhà thơ Quang Dũng. Ông là một người thi sĩ đa tài, vừa viết thơ, vừa vẽ tranh, lại có
thể sáng tác kịch. Trong sự nghiệp thơ văn của mình, tác phẩm ông để lại không ít nhưng nổi
tiếng nhất lẽ chính tác phẩm Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ tha thiết của Quang Dũng với
miền Tây Bắc thân thương, với đồng đội của mình. Bài thơ đã làm nổi bật lên một hồn thơ
lãng mạn, sâu lắng, thấm đượm nghĩa tình, tinh thần dân tộc của Quang Dũng, đặc biệt đoạn
thơ khắc họa hình tượng người lính vô cùng đặc sắc:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Tây Tiến được Quang Dũng sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh trong nỗi nhớ đơn vị,
đồng đội của mình. Chính trong nỗi nhớ dạt dào ấy, ông đã khắc họa hình ảnh những người
lính Tây Tiến với những nét vẽ thật đẹp vừa hào hùng lại vừa lãng mạn.
Đọc những dòng thơ đầu tiên, hiện lên trước mắt người đọc hình tượng người lính oai
hùng, lẫm liệt, đậm chất bi tráng:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Đoàn binh Tây Tiến là đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào, đánh chặn các đợt tiến công biên giới Việt - Lào và Quang Dũng chính là đội trưởng của
đoàn quân ấy. Hai câu thơ đầu mở ra, giữa cái mỹ lệ, nên thơ của núi rừng, vẻ đẹp của người
lính cụ Hồ hiện lên thật bi tráng. Không phải những đoàn quân với những người lính khỏe
mạnh, trên đầu mang một màu tóc xanh của tuổi trẻ, đoàn quân của Quang Dũng hiện lên thật
dị lạ thường. Cả một đoàn quân tuổi đời còn trẻ măng nhưng ai cũng "không mọc tóc".
đâu mà cả một đoàn binh lớn nhường ấy lại có điều dị thường đến vậy? Phải chăng đây là kết
quả của những cơn đói, cơn khát, của những trận sốt rét khủng khiếp đã biến những người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
lính trẻ tuổi thành cả một "đoàn binh không mọc tóc" như vậy? Ngoại hình tiều tụy, ốm yếu,
đầu trọc, da xanh đã gợi lên trong lòng chúng ta biết bao sự bi thương. Hình ảnh ấy tuy
gân guốc thế nhưng đó lại cái hiện thực - một hiện thực thật trần trụi. Các chiến Tây
Tiến ngày đó phải hoạt động trong rừng núi phía Tây Bắc của Tổ quốc, nơi rừng thiêng nước
độc, nơi ấy những trận sốt rét đến kinh người, cả những ngày hành quân đói rét vất vả
nữa. Chúng ta cũng từng bắt gặp hình ảnh người lính với những trận sốt rét vẫn cố gắng
hoàn thành nhiệm vụ của mình trong thơ của Chính Hữu:
"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi"
Người lính Tây Tiến vẫn mang thêm chút đặc biệt hơn một phần nào đó. Phải chăng
những mái tóc còn xanh chẳng còn nữa, những người lính trở thành cả "đoàn binh không mọc
tóc"? Đoàn quân đang trải qua những gian khổ, khó khăn, cản bước những bước tiến hành
quân của họ?
Nhưng nếu nhưcâu trước hình tượng những người lính hiện lên thật trần trụi, bi thương thì
ngay ở câu thơ sau, người ta lại thấy Quang Dũng thể hiện hình ảnh những người lĩnh thật oai
phong:
"Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
"Quân xanh" đây phải chăng những tán ngụy trang, màu áo xanh người lính hay
chính làn da xanh tái bệnh tật đói rét của những chiến giải phóng quân? Một hình
ảnh hiện thực trần trụi được Quang Dũng đưa trực tiếp vào trong thơ. Chẳng hề một sự
phóng đại hay cách điệu nào hết. Đó là hiện thực,thực tại của những người lính đoàn quân
Tây Tiến. Thế nhưng, tuy xanh xao, mệt mỏi, vất vả thế, nhưng họ vẫn giữ vững tinh
thần "giữ oai hùm". Dù là nơi rừng thiêng nước độc, nhưng những người anh hùng giải phóng
quân vẫn giữ được tư thế hiên ngang, bất khuất, toát lên vẻ oai hùng như chúa sơn lâm.
Hai câu đầu, hình tượng người lính của đoàn quân Tây Tiến hiện lên thật sống động biết bao.
Đoàn quân ấy đang đi giữa rừng xanh, đi giữa những núi rừng âm u hiểm trở gặp biết bao
gian lao, vất vả, bệnh tật đói rét. Thế nhưng, các anh thế nào vẫn giữ được một thế
hiên ngang, "oai hùm" giữa chốn rừng thiêng. thể nói, Quang Dũng đã đưa vào đây chất
liệu hiện thực - một hiện thực trần trụi và gửi vào đó một chút lãng mạn của thi ca.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bước sang những câu thơ tiếp theo, người ta thấy hiện lên là vẻ đẹp tâm hồn của những chiến
sĩ ấy. Một vẻ đẹp tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Tây Tiến đoàn binh với thành phần chủ yếu những người con đất Thành, những
học sinh, sinh viên đang còn tuổi chứa chan xuân xanh tươi đẹp, thế nên ẩn sau ngoại hình
xanh xao ấy cả một bầu trời tâm hồn lãng mạn. Những người lính ấy đến với biên cương
bằng sức trẻ, bằng hoài bão, bằng khát vọng hòa bình. Họ nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc
lên đường tìm lại độc lập cho dân tộc bởi giặc ngoại xâm đã giày xéo quê hương đến tiêu
điều. Vậy nên, "mắt trừng" kia phải chăng chính là đôi mắt đang mở to, dõi theo kẻ thù, quyết
tâm thề sống chết với kẻ ngoại bang xâm lược? Đôi mắt trừng ấy cũng sự căm hận quân
thù, sục sôi ý chí chiến đấu. Không chỉ vậy toát lên ý chí chiến đấu, đôi mắt ấy còn "gửi
mộng qua biên giới" đến với những nơi xa xôi, đến với Nội thân yêu - nơi người thân,
gia đình của những chàng trai Tây Tiến. "Mộng biên giới" -chăng chínhgiấc mộng hòa
bình, giấc mộng được chiến thắng trở về với quê hương, với gia đình, với người thương của
mình. đôi mắt ấy cũng không chỉ ánh lên khát vọng còn ánh lên cả cái tình, cái cảm
xúc yêu thương trong đó nữa.
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đôi mắt ấy thao thức trong canh thâu, nhớ về một Nội cổ kính, với phố phường, với gia
đình với cả "một dáng kiều thơm" trong trí nhớ. những người trí thức buông bỏ bút mực
nghiên, vác lên vai cây súng bảo vệ quê hương, thế nên những người lính Tây Tiến luôn giữ
trong mình cái vẻ hào hoa, lãng mạn của người trí thức ấy. Họ không như những anh lính
mộc mạc trong thơ Chính Hữu:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Chính "dáng kiều thơm" ấy động lực để thôi thúc các anh hoàn thành nhiệm vụ cao cả của
mình. Đồng thời nó cũng là niềm khao khát của những người lính biên cương.
Sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, phải chăng nỗi nhớ quê, nhớ người thương lại
động lực mạnh mẽ, tiếp thêm sức lực cho các anh để các anh bằng tuổi trẻ, bằng khát vọng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
của mình đem hòa bình lại cho những "dáng kiều thơm" kia? Quang Dũng cũng thật tinh tế,
bởi chỉ bằng hai câu thơ ngắn vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây Tiến hiện lên thật hào hoa,
thật lãng mạn biết chừng nào. bốn câu thơ đầu của khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã làm
hiện lên trước mắt người đọc thật ràng hình tượng người lính trong đoàn binh của mình.
Những người lính ấy vừa oai phong, vừa đẹp vẻ đẹp của khát vọng lại vừa tinh tế, lãng mạn
trong vẻ đẹp tâm hồn.
Trong chiến tranh, biết bao người lính đã ra đi với tuổi trẻ, với khát vọng hòa bình, nhưng lại
chẳng trở về. Người ta thường nói, chiến tranh thường, làm sao tránh được hi sinh, mất
mát:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Mất mát, hy sinh có lẽ là những điều hiển nhiên trong mỗi trận chiến. Thế nhưng đọc câu thơ
của Quang Dũng, người đọc chúng ta không khỏi xót xa trước những sự mất mát, hy sinh ấy.
Âm điệu của bốn câu trước thật hào hùng biết bao thì đến đây, không khí ấy chợt chùng
xuống sâu lắng. Trên mỗi chặng đường đi, những người lính lại lần lượt nằm xuống. Những
ngôi mộ của họ danh, nằm rải rác giữa biên cương, chốn rừng thiêng nước độc. đây,
Quang Dũng chọn một từ ngữ Hán Việt "mồ viễn xứ" để diễn tả những cái chết của những
người con xa nhà. Họ phải nằm lại nơi đất khách quê người. Từ Hán Việt "mồ viễn xứ", "biên
cương" tạo nên không khí thật trang trọng, bi hùng như bài hùng ca tiễn biệt những người
lính. Họ ngã xuống nơi đây, trở thành những người lính danh góp một phần vào nền độc
lập của đất nước:
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước"
Thế nhưng dù có phải đối mặt với cái chết thì những người lính Tây Tiến vẫn quyết tâm ra đi
khát vọng hòa bình. khát khao cháy bỏng ấy, họ nguyện hiến dâng cho Tổ quốc cả tuổi
thanh xuân, cả tính mạng của mình:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Một vẻ đẹp bi tráng đến thật lãng mạn! "Đời xanh" tức là tuổi thanh xuân của các anh, là tuổi
trẻ với bao khát vọng. Thế nhưng, vâng lời kêu gọi của Tổ quốc ra chiến trường diệt quân
thù, các anh quyết chí, đồng lòng ra đi, "chẳng tiếc" bất cứ điều cả. "Chẳng tiếc" - từ ấy
vang lên như một câu trả lời dứt khoát cho tiếng gọi của Tổ quốc vừa ngạo nghễ vừa bình
thản. Họ đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trong tim họ, chỉ khát vọng hòa bình đang
cháy bỏng. Đau thương nhưng lại chẳng hề bi lụy trước số phận của cuộc đời.
Vẫn trong âm hưởng hào hùng, trầm lắng đó, Quang Dũng lại kể tiếp về khát vọng được cống
hiến của Tổ quốc của những người lính đoàn quân Tây Tiền:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Họ những người trẻ, hơn ai hết, họ hiểu được giá trị của thanh xuân, của những ước mơ,
khát vọng đời thường "dáng kiều thơm", thế nhưng được chết cho tưởng của đất nước thì
cũng thật thiêng liêng, thật cao đẹp. Người lính hy sinh, trên người đâu còn lại gì. Thế
nhưng, đây, Quang Dũng đã mỹ lệ hóa thành "áo bào". Tấm áo bào trước đây chỉ dành cho
vua chúa quý tộc thì nay được khoác lên người những người lính chiến. Tấm áo ấy như lời
vinh danh dành cho người lính danh đã ngã xuống, trở về với đất mẹ thân yêu. "Áo bào
thay chiếu" lời nói bi tráng hóa, mỹ lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. cụm từ
"anh về đất" nghe sao vẻ nhẹ nhàng, nhưng thực chất, đó chỉ cách nói giảm nói tránh
nỗi đau xót, thương cảm vô hạn của Quang Dũng dành cho những người lính hy sinh mà thôi.
Với Quang Dũng, họ không chết, họ chỉ trở về với đất mẹ mà thôi. Bởi chúng ta sinh ra từ đất
thì sẽ lại trở về với đất mẹ.
Những người lính hy sinh ngã xuống, trở thành những nấm mồ vô danh viễn xứ, nhưng sự hy
sinh ấy không vô ích bởi nó góp phần tạo nên hòa bình cho đất nước, làm nên vinh quang cho
lịch sử nước nhà. Với những người lính Tây Tiến, con sông Mã là con sông lịch sử. Bởi nó
chứng nhân của thời gian, người bạn đồng hành của những người lính. giờ đây, khi họ
ngã xuống, nó "gầm" lên khúc tráng ca tiễn biệt người đồng đội của mình. Tiếng gầm ấy như
khúc nhạc tấu độc hành dành cho người lính để họ đi vào cõi bất tử.
Hai câu cuối của khổ ba, Quang Dũng liên tiếp sử dụng các từ ngữ Hán Việt. Nó vừa tạo nên
không khí trang trọng, hào hùng, tôn nghiêm khi nói về sự hy sinh của những người lính, vừa
tạo nên được vẻ đẹp bi tráng,lãng mạn, lẫm liệt của những người anh hùng xưa. thể nói,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
hai câu thơ cuối đã mỹ lệ hóa cái chết của những chàng trai trẻ, thế nhưng sự mỹ lệ ấy hoàn
toàn vừa đủ để tôn lên sự hy sinh cao cả của các chàng trai tuổi mười tám ấy.
Đoạn thơ trên, Quang Dũng đã thể hiện cùng thành công nỗi nhớ thiên nhiên Tây Bắc hòa
quyện cùng nỗi nhớ đơn vị của mình. Ông cũng sử dụng liên tiếp rất nhiều hình ảnh đặc sắc
vừa nhạc vừa họa, những sự so sánh cường điệu tinh tế đồng thời xen lẫn với cảm hứng lãng
mạn để nói về đoàn quân của mình. thể nói, khổ thơ này một trong những khổ thơ đặc
sắc nhất, kết tinh cho cả bài thơ Tây Tiến.
Tóm lại, khổ thơ thứ ba trong Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bất tử về
người lính Tây Tiến. Người lính ấy không chỉ những chàng trai trẻ tuổi hào hoa còn
những người anh hùng kiêu hãnh của đất nước. Họ mang trong mình tình yêu quê hương, tình
yêu đôi lứa, khát vọng hòa bình lời thề quyết tâm hiến dâng cho Tổ quốc. Đó một
tưởng thật cao đẹp, kiên trung, mỹ lệ. Quang Dũng đã khắc họa thật thành công hình
tượng người lính đó!
Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 18
Quang Dũng nhà thơ rất mực đa tình tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Thơ ông mang cảm
xúc chủ đạo là nỗi nhớ về đoàn binh Tây Tiến, về núi rừng Tây Bắc. Bài thơ Tây Tiến với nỗi
nhớ dạt dào đã quay lại thời gian để chân dung những chiến binh hiện lên đầy hào hoa, dũng
cảm trong cảnh sắc thiên nhiên đậm chất thơ. Đặc biệt phải kể đến khổ thơ thứ ba với tất cả
sự hào hùng, bi tráng, lãng mạn.
Tây Tiến một đơn vị mới được thành lập đầu năm 1947 nhiệm vụ bảo vệ Tây Bắc Bộ
Việt Nam. Quang Dũng từng giữ vị trí chỉ huy đoàn binh Tây Tiến. Sau đó, ông chuyển công
tác và khi nỗi nhớ ùa về trong kí ức, tràn ngập trong trái tim, ông đã viết bài thơ Tây Tiến với
khúc độc hành của nỗi nhớ thương.
Nếu như đoạn thơ thứ hai mở ra khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc đầy màng, thơ mộng
với vẻ đẹp thắm thiết, mặn của tình quân dân, thì đến đoạn thơ thứ ba chân dung người
lính được khắc họa rõ hơn bao giờ:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Người lính hiện lên đầy hào hùng, hào hoa vừa độc đáo vừa phần lạ. Đoàn quân Tây
Tiến hoạt động chủ yếu ở vùng rừng núi hiểm trở, núi cao thì thật cao, vực sâu thì thăm thẳm,
bởi thế những trận sốt rét rừng khiến họ xanh xao, tiều tụy đến mức hình dáng cũng thay đổi
“không mọc tóc”, “xanh màu lá”… Thế nhưng khó khăn không thể đánh gục ý chí chiến đấu,
họ vẫn tràn đầy sinh khí oai hùng, biểu hiện cho tinh thần chiến đấu vững vàng dù hiểm nguy
vây quanh, bệnh tật đau đớn, cuộc sống khó khăn họ vẫn giữ vẻ oai phong của những
mãnh hổ nơi rừng thiêng. Vẻ oai phong được thể hiện qua ánh mắt giận dữ đầy sự căm thù
khao khát lập công. Dường như vẻ oai hùng cũng khiến người lính có phần dữ dằn nhưng sau
vỏ bọc ấy là những tâm hồn luôn khao khát yêu thương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hai câu thơ như nuốt trọn hai thế giới trong mình, thế giới của giấc mộng chinh phục
giấc mộng giai nhân. Ban ngày, người lính đưa ánh mắt sục sôi những căm thù của mình về
phía quân địch để quyết tâm chiến đấu và chiến thắng dệt nên mộng quân tử; ban đêm, những
chàng trai hào hoa gửi hồn mình để mơ dệt mộng giai nhân.
Tây Tiến và đoàn binh rất bi tráng trong những câu thơ tiếp theo:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Hình ảnh “mồ viễn xứ” hình ảnh của cái chết, nói đến sự ra đi của người lính với những
nấm mồ nằm rải rác nơi biên giới xa xôi. Câu thơ gắn liền với sự bi thương, bi lụy thế nhưng
Quang Dũng không để người đọc chìm vào bi lụy nên câu thơ thứ hai ngay lập tức cân bằng
lại đầy khỏe khoắn đặc biệt triết sống mạnh mẽ Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”. Những người lính Tây Tiến dường như lường trước được điều sẽ xảy đến họ
nguyện hiến dâng cả thanh xuân, cả đời xanh của mình cho Tổ quốc coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng. Tác giả dùng cách nói giảm nói tránh để sự hi sinh bớt nặng nề, bớt bi thương
trước hoàn cảnh thực tế cùng bi thảm. Khi người lính Tây Tiến ngã xuống, thậm chí
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
không một manh chiếu che thân, sống sao chết vậy. Con sông đã từng chứng kiến biết
bao vui buồn của cuộc đời người lính đã tấu lên khúc nhạc bi tráng vừa hào hùng, dữ dội lại
vừa thương tiếc, ngậm ngùi để tiễn đưa người lính Tây Tiến về với đất mẹ thương yêu.
Như vậy, với ngòi bút lãng mạn thủ pháp đối lập đoạn thơ đã cho ta thấy hình ảnh
người lính Tây Tiến gian khổ, khó khăn vẫn lẫm liệt oai phong trong gian lao thử thách, mất
mát, hy sinh vẫn hiên ngang, hào hoa, thanh lịch. Hình ảnh người lính được tác giả vẽ bằng
hai nét “bi” “hùng”, từ đó phản ánh chân thực hiện thực khốc liệt đồng thời làm bật lên
tinh thần chiến đấu và chiến thắng của lớp lớp thanh niên Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt
Nam nói chung trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Chúng ta mãi không quên chân dung
những chàng lính dũng cảm như nhà thơ Thanh Thảo từng viết:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 19
thể nói, chiến tranh người lính luôn đề tài muôn thuở trong sáng tác văn chương.
Nhiều bài thơ, tiểu thuyết đã vẽ lên bức tranh gian khổ, hiểm nguy của cuộc kháng chiến
qua đó thể hiện hình ảnh oai phong, kiên cường của người lính bộ đội cụ Hồ. Trong số những
tác phẩm ấy, “Tây Tiến” của Quang Dũng một bài thơ tiêu biểu viết về người lính trong
kháng chiến chống Pháp với những vẻ đẹp bất khuất và đáng tự hào.
Bài thơ được sáng tác năm 1948 sau thắng lợi vẻ vang của chiến dịch thu đông Việt Bắc
thu đông 1947. Tây Tiến tên của một đội quân chiến đấu được thành lập nhằm phối hợp
với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt-Lào. Địa bàn hoạt động của đội quân miền tây
các tỉnh từ Mai Châu, Hòa Bình xuống Thanh Hóa. Quang Dũng đại đội trưởng của đội
quân ấy. Năm 1947, ông chuyển đơn vị công tác khi nhớ về đồng đội đã thôi thúc ông
viết nên bài thơ “Tây Tiến” nghẹn ngào cảm xúc thân thương.
Bài thơ là một khúc ca vang dội vừa để miêu tả những gian khó mà đoàn quân Tây Tiến phải
đối đầu vừa để ngợi ca tinh thần của những người lính dũng cảm. Trong đó, khổ ba được cho
là khổ thơ miêu tả rõ ràng và sâu sắc nhất hình ảnh người lính cụ Hồ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Mở đầu khổ thơ là dáng vẻ bề ngoài khác lạ của đoàn quân.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mới đọc lên chắc hẳn nhiều người thấy khiếp sợ với hình ảnh những cái đầu trọc lốc,
không có tóc. Nhìn họ đâu giống anh bộ đội truyền thống. Thoạt đầu, đoàn quân “không mọc
tóc” ấy mang đến cho người đọc một sự ghê rợn, xa cách. Tuy nhiên, khi hiểu được ý nghĩa
thật sự thì ai cũng phải xót xa nể phục. Đoàn binh ấy đại đa số thời gian hoạt động
trong rừng với điều kiện thiếu thốn nhiều dịch bệnh. Chính căn bệnh sốt rét nhưng lại
không thuốc chữa đã làm họ bị rụng tóc chẳng kịp mọc lên. Những mái tóc xanh mượt
của những chàng thanh niên đã không còn thay vào đó là cái đầu trọc lóc. Trong kháng chiến,
họ đã phải chịu biết bao khó khăn, gian khổ. Hiểu được điều đó, ai cũng phải xót thương
thêm phần yêu quý những anh lính trẻ. Đoàn binh “không mọc tóc” ấy, trong gian khó vẫn
hừng hực khí thế hiên ngang trước đất trời. Bước chân của họ vang dội, lẫm liệt trên mọi
nẻo đường. trong những tháng ngày ấy, thiếu thốn đến tận miếng ăn nên họ gầy đi,
xanh xao hơn. Bóng dáng họ hòa cùng màu xanh của núi rừng để tạo nên khí thế oai hùm
mạnh mẽ. Nthơ dùng hai hình ảnh đối lập hoàn toàn để nói lên sức mạnh soai phong
của người lính dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 20
Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng duyên dáng thơ mộng, mỹ lệ của Tây
Bắc, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng tập thể những người lính Tây tiến với
một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm
Như trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ đến đây, cách tả người càng lạ
hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm
nghèo. Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Còn ở đây, nhắc đến hình ảnh "Đoàn binh không mọc tóc",tác giả đã gợi lại hình ảnh anh "vệ
trọc" một thời. Nhưng câu thơ còn ý tả thực về một hiện thực trần trụi khắc nghiệt:
những con suối độc,những trận sốt rét rừng đã làm cho người lính xanh xao, rụng tóc. Hình
ảnh lạ thường nhưng không hề quái đản. Người lính tiều tụy nhưng vẫn ngời lên một
phẩm chất đẹp đẽ, kiêu hùng: "không mọc tóc" chứ không phải "tóc không mọc". "Không
mọc tóc" vẻ như không thèm mọc tóc, không cần mọc tóc… thể hiện thái độ coi thường
gian nguy, vượt lên hoàn cảnh của người lính Tây tiến.
Ba tiếng "Dữ oai hùm" đặt cuối câu giống như tiếng dằn rất mạnh, khẳng định ý chí ngút trời,
tinh thần chiến đấu sôi sục của người lính. Câu thơ giống như cái hất đầu đầy kiêu hãnh, ngạo
nghễ người lính Tây Tiến thách thức gian khổ, chiến thắng gian khổ, trở thành người anh
hùng. Trong bài thơ có một cái tên thành thị, hoa lệ:Nội, nhưng đó không phải một cái
mốc thật trên đường Tây Tiến đây trở thành một mốc thật trên đường Tây Tiến
mà ở đây trở thành một mốc của độ cao bởi giấc mơ kia chính là một đỉnh điểm. Câu thơ diễn
tả tinh tế chân thật tâm của những người lính ra đi từ thủ đô. Hình ảnh Nội dáng
kiều thơm hiện về trong đêm không làm cho họ nản lòng, thối chí ngược lại nguồn
động viên, cổ đối với các chiến sĩ. Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức
cho họ trong cuộc chiến đấu gian nan. động lực tinh thần giúp người lính băng qua
những tháng ngày chiến tranh gian lao của đời mình.
Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem đến cho một vẻ hào hùng
lẫm liệt và sang trọng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng "biên cương","viễn xứ" đã làm cho những nấm mồ
chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành những nấm mồ chí tôn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người
đã chết "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đời xanh tuổi trẻ biết bao nhiêu hoa mộng
nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ
nhàng thanh thản cùng. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh "da ngựa bọc thây"
đầy vinh quang thì người lính tây tiến với hình ảnh "áo bào thay chiếu" đấy sức mạnh ngợi
ca. Thực tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có,
huống chi "áo bào". Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo
ra Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính.
Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh lẽo như trong
thơ của Đặng Trần Côn:"Hồn tử gió ù ù thổi" được bao bọc trong một âm hưởng hùng
tráng:"Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Câu thơ vang dội như một khúc nhạc vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn tử dội
lên từ chữ "gầm". Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ dội, oai hùng của nó, vừa để đưa
tiễn hồn người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên tầm sử thi hoành tráng. Các
anh ra đi và lại trở về với đất mẹ, về với những người anh hùng dân tộc đã ngã xuống,tiếp
nối truyền thống cha ông. phải chăng tiếng gầm của dòng sông cũng chính tiếng
lòng của người còn sống? Bởi cái chết của đồng đội không làm họ chùn bước chỉ làm
tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù.
| 1/67

Preview text:

Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Dàn ý phân tích khổ 3 Tây Tiến I. Mở bài
- Đôi nét về nhà thơ Quang Dũng, phong cách sáng tác thơ ca của ông.
- Giới thiệu về bài thơ Tây Tiến - một trong những tác phẩm tiêu biểu của Quang Dũng.
- Dẫn dắt, khái quát nội dung chính của khổ thơ thứ 3. II. Thân bài
1. Hoàn cảnh ra đời bài thơ
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào
bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền
Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu là vùng rừng núi hiểm
trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái với những nét văn hoá
đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh
viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang
đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị cũ ông viết bài
thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội). Bài
thơ được in trong tập “Mây đầu ô” (1986)
2. Phân tích khổ thơ thứ 3
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
- Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn
nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.
- Người lính sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Mạnh mẽ nhưng cũng đầy mộng mơ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”: mơ về, nhớ về
dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch.
- Sự hy sinh của người lính Tây Tiến:
· Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự
nguyện hiến dâng “đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.
· Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến.
· Họ coi cái chết tựa lông hồng. sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ: “anh về đất”.
· “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”: Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông núi. Con sông
Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử:
Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.
· Hàng loạt từ Hán Việt: “biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành…” gợi không khí tôn
nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.
=> Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa. III. Kết bài
Cảm nhận chung về khổ thơ thứ 3, cũng như giá trị của bài thơ Tây Tiến.
Dàn ý phân tích Tây Tiến khổ 3 I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
- Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích và trích dẫn đoạn thơ trên. II. Thân bài 1. Khái quát chung
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Hoàn cảnh sáng tác: Là bài thơ sau khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, ở Phù Lưu
Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết nên bài thơ Tây Tiến.
- Nội dung bài thơ: Là nỗi nhớ về chiến trường, về con người, về thiên nhiên Tây Bắc bằng
cả tấm chân tình của chính tác giả.
● Vị trí đoạn trích: Là đoạn thơ thứ ba trong mạch cảm xúc của toàn bài thơ.
● Nội dung đoạn trích: Chân dung người lính Tây Tiến với sự hi sinh bi tráng của họ.
2. Những nội dung cần phân tích
- Chân dung: Những chi tiết tả thực đã khắc họa diện mạo rất độc đáo, đồng thời phản ánh
hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Tác giả không hề né tránh hiện
thực, và điều đó thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc mãnh liệt của người lính Tây Tiến
- Tâm hồn hào hoa, lãng mạn, và kiêu hùng: Qua các ngôn từ thơ “dữ oai hùm”, “mắt trừng
gửi mộng qua biên giới” ta thấy được khí thế và quyết tâm của người lính Tây Tiến.
- Lí tưởng cao đẹp: Không trốn tránh hiện thực “Áo bào thay chiếu anh về đất”, tác giả đã
khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây xúc động
lòng người, lay động thiên nhiên. 3. Nghệ thuật
- Bút pháp tả thực khắc họa chân dung người lính với hiện thực gian khổ nơi chiến trường;
dùng từ Hán – Việt cổ kính để tăng thêm sự thành kính, trân trọng với người đã khuất; nói
giảm để thể hiện lí tưởng cao đẹp của người chiến sĩ trong chiến đấu, khắc họa sự hi sinh,
nhấn mạnh sự mất mát nơi chiến trường
- Nhận xét: Với giọng thơ trang trọng, đôi lúc lắng xuống, cảm xúc dạt dào, hình ảnh người
lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp bi tráng, tạc vào lòng người như bức tượng đài bất tử về
người lính không thể nào quên. III. Kết bài
● Khẳng định, đánh giá về những câu thơ trên.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
● Mở rộng vấn đề: Nêu suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về hình ảnh người lính Tây Tiến
được thể hiện qua đoạn thơ trên.
Dàn ý phân tích đoạn 3 Tây Tiến I. Mở bài
- Trình bày một số nét tiêu biểu về nhà thơ Quang Dũng và đặc trưng thơ ca của ông (vừa hồn
nhiên vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn).
- Nêu một số nét khái quát về bài thơ Tây Tiến: hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và nghệ
thuật nổi bật của bài thơ.
- Dẫn dắt giới thiệu nội dung của khổ 3: Chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn
lãng mạn hào hoa, sự hy sinh mất mát. II. Thân bài
1. Hoàn cảnh sáng tác
với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở
Thượng Lào và miền Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu
là vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái
với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có
nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ
nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang
đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị cũ ông viết bài
thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội). Bài
thơ được in trong tập “Mây đầu ô”(1986).
2. Phân tích khổ 3 bài thơ
Sau nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, cũng như vẻ đẹp thiên nhiên con người vùng Tây Bắc,
Quang Dũng đã khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:
- Người lính Tây Tiến với những khó khăn, gian khổ:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
· “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho mái tóc
người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ động cắt tóc để thuận tiện cho sinh hoạt.
· “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”: màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của lá
cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người lính khi bị sốt rét rừng.
=> Sự khó khăn, gian khổ của người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến tranh. - Mạnh mẽ là
thế, nhưng cũng có đôi lúc người lính cũng đầy thơ mộng
· “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”: đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm
· “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. nhớ đến những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch.
- Sự mất mát hy sinh của người lính:
· “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: đó không phải là một cái chết mà rất nhiều cái chết.
· “Áo bào thay chiếu anh về đất”: hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc,
“về đất” cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người lính.
· Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh. 3. Nghệ thuật
- Bút pháp tượng trưng, ước lệ.
- Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: nói giảm nói tránh, ẩn dụ… III. Kết bài
· Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến.
· Cảm nhận chung về khổ 3 của bài thơ Tây Tiến.
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến học sinh giỏi - Mẫu 1
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Có người từng nói "Thơ chỉ tràn ra khi trong ta cuộc sống đã tràn đầy". Thật đúng là như vậy!
Chiến tranh đã đi qua, hòa bình lặp lại vậy mà ở vùng Tây Bắc ấy lại khơi gợi cho Quang
Dũng một nỗi nhớ da diết khôn nguôi, phải chăng nơi đây đã đọng lại trong tác giả nhiều kỷ
niệm? Chính vì nỗi nhớ ấy đã thổi hồn cho ông viết nên bài thơ Tây Tiến. Người lính Tây
Tiến qua ngòi bút của Quang Dũng hiện lên thật nhiều khó khăn, gian nan, ta có thể thấy
được qua khổ thơ cuối:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài vừa viết văn vừa làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc. Thơ ông
phóng khoáng, lãng mạn-tài hoa. Bài thơ Tây Tiến được sáng tác ở Phù Lưu Chanh năm 1948
khi ông chuyển sang hoạt động ở đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ. Tuy đã chuyển hoạt động
sang ở nơi khác nhưng những hình ảnh về vùng đất, con người nơi cũ vẫn luôn thường trực
trong sâu thẳm tâm trí ông. Tây Tiến lúc mới ra đời đã bị cấm lưu hành, qua thời gian nét độc
đáo, sáng tạo, cái hay trong thơ hiện rõ chính vì vậy mà nó được đưa vào sách giáo khoa ngày nay.
Điều kiện thời tiết vùng Tây Bắc rất khắc nghiệt, nó ảnh hưởng trực tiếp đến người lính hành quân nơi đây:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"Không mọc tóc" có thể hiểu là thời tiết ảnh hưởng, bị sốt rét làm đau đớn thân xác người
lính. Tác giả nói "không mọc tóc" chứ không phải "không mọc được tóc" chứng tỏ nó được
coi như các người lính cạo trọc đầu để dễ dàng cho việc chiến đấu, chứ không phải do bệnh
tật để giảm đi sự đau thương đối với người đọc. "Quân xanh màu lá", nếu sự thật trần trụi là
do bệnh sốt rét gây nên thì Quang Dũng lại cho rằng đó là màu xanh của lá cây hóa thân cho
người lính để giặc khó nhận ra.Tuy khó khăn chồng chất, bệnh tật liên miên, nhưng qua lăng
kính của tác giả, đoàn binh hiện lên với sự yêu đời, không quản gian nan.
Cho dù chịu nhiều khó khăn, gian khổ nhưng nó không làm cho người lính Tây Tiến người đi
tình cảm lãng mạn của mình. Hai câu thơ tiếp theo miêu tả nét đẹp cũng như sự mạnh mẽ của con người:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Dù ngày đêm đánh giặc nhưng tâm hồn của những người lính luôn trong trạng thái mộng mơ.
Cái mộng họ gửi qua biên giới, nơi vẫn còn đầy bóng giặc thù, đó là cái mộng giết giặc để lập
công danh. "Mắt trừng" gợi sự mạnh mẽ, đầy nội lực, quyết tâm vì dân tộc, ở đâu đó trong họ
vẫn luôn tồn tại một nỗi căm thù giặc sâu sắc. Đoàn binh Tây Tiến chủ yếu là học sinh, sinh
viên người Hà Nội- là thủ đô văn hiến, là cả trái tim của Tổ quốc chính vì thế họ lấy đó làm
động lực chiến đấu. "Dáng kiều thơm" chính là nét đẹp thanh lịch, thướt tha của con gái Hà
Nội, cũng là nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nét đẹp của quê hương đã thúc giục người
lính phải chiến đấu, đánh đuổi giặc ngoại xâm để bảo vệ từng nét đẹp nơi họ sống. Đó là
động lực lớn để tinh thần chiến đấu thêm mạnh mẽ. Hình ảnh dáng kiều thơm là vầng sáng
lung linh trong kí ức nhưng cũng là thứ giúp cho họ tìm được sự cần bằng, tìm được sự thư
thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường hành quân vất vả.
Ra biên cương là chấp nhận đối mặt với hi sinh, biết đi là sẽ chết, vậy mà các anh vẫn xung
phong ra trận với hi vọng sẽ đem chiến thắng trở về:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Biết bao nhiêu anh hùng đã ngã xuống ở nơi biên cương. Chiến tranh nó luôn tồn tại song
song với chết chóc, tuy vậy tinh thần xung phong ra trận vẫn luôn sôi nổi. Tuổi xuân là độ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
tuổi đẹp nhất, là thời gian đẹp nhất của cuộc đời mỗi người nhưng các anh cũng đành gác lại
để đặt nhiệm vụ Tổ quốc lên trên hết "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Những tình cảm đôi
lứa, những cái tôi vị kỉ đều gạt sang một bên, những người chiến sĩ vẫn nối tiếp nhau tầng
tầng lớp lớp lên đường, đi để bảo vệ từng đồng lúa, mùa ngô, bảo vệ nhịp đập con tim của toàn dân tộc.
Tiếp nối âm hưởng bi tráng, hai câu thơ cuối đã tô đậm thêm sự mất mát hi sinh, thể hiện cái
chết cao đẹp, cái chết bất tử của người lính:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Quang Dũng dường như đã khóc khi viết đến dòng thơ này. Đây chính là cái chết nhưng tác
giả đã nói giảm nói tránh để giảm bớt sự đau thương mất mát cho người ở lại. Thời gian
chiến tranh là khoảng thời gian thiếu thốn, nghèo khổ của toàn dân tộc ta. "Áo bào" thay
"chiếu" vì người hi sinh quá nhiều, họ chỉ được quấn chiếc áo bào trên vai để về với đất mẹ.
Anh về với đất, nghĩa là anh đã thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình và giờ đây anh
hóa thân cho dáng hình xứ sở. Câu thơ cuối miêu tả tiếng gầm của sông Mã như loạt đại bác
rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Bằng việc sử dụng những bút pháp nghệ thuật như nói giảm nói tránh, hoán dụ, ẩn dụ. Quang
Dũng đã khắc họa lại một đoàn binh Tây Tiến với nhiều vẻ đẹp khác nhau, họ đẹp về cả hình
dáng, mạnh mẽ từ ánh mắt đến tính cách và cả sự hi sinh cao cả. Tất cả vì lòng yêu Tổ quốc,
mong muốn được sống trong hòa bình và hạnh phúc, không tồn tại những đau thương mất
mát. Đoạn thơ này có nhạc, có họa, vừa bi hùng lại vừa kiêu hãnh. Những hình ảnh khắc họa
đoàn quân Tây Tiến trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng.
Phân tích bài thơ Tây Tiến đoạn 3 - Mẫu 2
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của
những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc
một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của
đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Ở
trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người
lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã
xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc ...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội
của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy
sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những
người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế Quang Dũng
không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường
hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và
Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời
sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang
Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác
phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt
những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để
khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng
của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa
một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
"Tây Tiến đoàn quân... khúc độc hành"
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc họa lên từ những đường nét
nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người
lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu: "Sài Khao sương lấp đoàn quân
mỏi", nay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm
tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm
hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà
người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được
(chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá
ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh thần của người lính
lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một
sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của Quang
Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng
rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với
những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những
thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một
đoàn binh. Hai chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm
trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên
gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn
đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở
câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần
của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. Ở đây, nhà thơ không
chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn
"động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng
bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người
anh hùng vệ quốc trong câu thơ:
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân"
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô-típ mang đậm màu sắc phương Đông để
câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức
mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như
nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông A.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung
vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô. Người
lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội.
Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ
vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê
phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh
vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người
Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người
chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm
hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng
gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ
vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng
tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và
tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh
với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết
sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những
đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng
hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn
chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình
ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách
chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng
những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm
giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở
nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn
của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm
mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy
càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời" Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên
cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó
chính là nấm mồ của những người con anh dũng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh". Đồng thời cũng chính câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia
được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã
vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang
Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ "áo bào thay chiếu anh
về đất". Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một
đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của
mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở
những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận.
Hai câu thơ mang âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là
một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường
nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng
chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng
dưng trước cảnh "anh về đất"? "Anh về đất" là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực
hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt
đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn,
Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng
vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong
thời đại mới, thời đại của dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ
chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của
cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang
Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng
đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 3
Quang Dũng (1921 - 1988) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng
mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
mình. Trong các sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho
đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn, sự
sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của
tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ,
mĩ lệ. Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng
được lắng đọng trong tám câu thơ khắc họa bức chân dung người lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng trước
đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này
từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển
sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm
1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao
sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của
đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có
nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn
cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu
anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hoà Bình thành
lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó
lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của
Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân
gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
dội, hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên
hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính
Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm
dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm
hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ
đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng
đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã
hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng
đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức
tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân.
Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người
lính thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn
bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”.
Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh
quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy
lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc
đánh giáp lá cà, những cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của
những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt
như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành
nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành,
những người em, những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn
nhiều chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài mà còn
thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.
Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện
thực này không che giấu theo cách riêng của ông:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến
trường” kết hợp với từ láy “rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau
thương vì mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên
mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc đời
xanh” vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến. Hai câu thơ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành
quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại
được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai
hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm vợi đi
cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã.
Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây
Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ
dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy mà thấm đẫm
tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp điệu chậm, giọng thơ
buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng và cả đoàn
quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện quyết tâm gắn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến mùa xuân ấy
đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ không
bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh
khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô
hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ
với, cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã
chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang
Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng
đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 4
Quang Dũng (1921 - 1988) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và
tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Trong các
sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng
tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ,
giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến
anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ. Có thể nói, nỗi nhớ da diết những
người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc họa bức
chân dung người lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng trước đó đã
được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948
tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp
với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và
miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ
Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang
Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành
nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến
trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến,
nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm
của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian
khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ.
Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước
miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn
bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng
của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công
hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh
thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng
trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ
lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét
tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát
được gương mặt chung của cả đoàn quân.
Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính
thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong
bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn
lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn
lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, những mái đầu bị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang
Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ
nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những người em,
những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ
chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được thế giới nội tâm,
tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.
Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này
không che giấu theo cách riêng của ông:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến trường” kết
hợp với từ láy “rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát
lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc
của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” vang lên khảng khái khẳng
định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến. Hai câu thơ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân
chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc
trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi
cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm v đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị
lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của
dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người
lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có
nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng.
Quang Dũng và cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể
hiện quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến
mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ
không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh
khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và
sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ với, cảm hứng
lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung
tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ
sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây.
Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 5
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh
hùng vô danh. Nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh
viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống
vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và trong thơ Quang Dũng cũng đã
dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những
người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc ...........
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
“Tây Tiến” của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà
thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người
đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh
của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà “đời vẫn cứ
tươi” như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của
những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là
tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây
Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng
loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để
khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất
nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không
gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
Tây Tiến đoàn quân ..... khúc độc hành
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô
đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện
ra trong đoàn quân mỏi trong câu: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”, nay trong khung
cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình
ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã
không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt
rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá
cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ
không phải họ xanh màu lá ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh
thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa
đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của
Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng
rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” với những
thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như ‘tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh trắc ấy
mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ
"đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt
hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra
hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ
pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không
chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của
dân tộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách
chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca
ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ:
Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:
Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ
mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền
thống của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng
của một hào khí ngút trời Đông A.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức
tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô. Người lính dẫu
ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Ta bỗng nhớ
đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn
hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu
tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ,
người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo
nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến
không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao
nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều
thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản
lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn
tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như ở bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với
những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng
mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi
bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc
lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến
thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà
không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của
nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm
hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác
nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn
xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn
tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự
hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút.
Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời Trong Chinh phụ ngâm:
Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã
trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ
của những người con anh dũng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đồng thời cũng chính
câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài
tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng
tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ "áo bào thay chiếu anh về đất".
Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của
mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong
cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây
Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn
nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng
đã viết về cảnh tiễn đưa như thế:
Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán
Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm
hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có
người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo
cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình
ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi
sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi
thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng
đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có
sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc
đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài
được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc
tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của
mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất
nước về những người con anh hùng ấy.
Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 6
Quang Dũng là một trong những nghệ sĩ rất đa tài. Ông có thể vẽ tranh, làm thơ, ông còn biết
sáng tác nhạc. Thơ ca của Quang Dũng nổi bật với một hồn thơ lãng mạn, hào hoa, thắm
đượm nghĩa tình và tinh thần dân tộc. Bài thơ Tây Tiến là một trong những bài thơ thể hiện
cái tình đó của Quang Dũng
Lúc đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến”. Sau bỏ “nhớ” giữ lại “Tây Tiến” vì Quang Dũng cho
rằng bài thơ vốn đã tràn đầy nỗi nhớ, người đọc sẽ cảm thấy. Bài thơ được nảy sinh trong
những năm tháng không thể nào quên, từ một môi trường sống và chiến đấu không thể nào
quên của cuộc đời người lính
Bài thơ được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi ông đã chuyển sang đơn vị
khác và nhớ về đơn vị cũ là đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ của tác giả về kỉ
niệm với thiên nhiên Tây Bắc và đơn vị cũ của mình. Trong tác phẩm, hình tượng những
người lính Tây Tiến được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ thứ 3 của bài thơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Đoàn quân Tây Tiến nơi lưu giữ trong trái tim Quang Dũng những tư tưởng tốt đẹp nhất của
thời thanh xuân là đơn vị được thành lập năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng. Đoàn
quân có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào. Các chiến sĩ trong đội
quân chủ yếu là những học sinh, sinh viên, dân lao động thành thị thuộc mọi ngành nghề khác
nhau hợp thành một đội quân rất đoàn kết. Cuộc sống nơi chiến địa gian khổ, thiếu thốn vô
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
cùng nhưng trong họ vẫn luôn ngời sáng phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ với tinh thần lãng mạn,
lạc quan, không sợ gian khổ. Hình tượng người lính Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đậm chất bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hình ảnh “không mọc tóc” gợi ra sự thật nghiệt ngã của hoàn cảnh sống và chiến đấu của các
chiến sĩ Tây Tiến nhưng mang đậm chất khí chất ngang tàng. Hình ảnh “Quân xanh màu lá”
với nghệ thuật đối lập “Không mọc tóc”, “quân xanh” – "dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ xanh
xao tiều tụy vì căn bệnh sốt rét. Tuy nhiên, hơn hết từ trong sâu thẳm con người họ vẫn toát
lên dáng vẻ oai như những con hổ chốn rừng thiêng, làm nổi bật tính cách dũng cảm của người lính.
Sự oai phong lẫm liệt còn được thể hiện qua ánh mắt. “Mắt trừng” chính là ánh mắt dữ dội,
rực cháy căm hờn, mang mộng ước giết kẻ thù. Họ rất anh dũng, kiên cường, đứng trước mũi
súng quân thù vẫn hiên ngang nhưng nét đẹp lãng mạn vẫn rất rõ nét, sâu sắc trong tâm tưởng
họ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, Quang Dũng đã không tiếc lời, ông đã dành những từ
ngữ vô cùng trang trọng khi nói về vẻ đẹp các cô gái Hà Nội: bên trong cái dáng vẻ oai hùng,
dữ dằn là trái tim, là tâm hồn khao khát với cuộc đời:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Là những câu thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Các từ Hán
Việt cổ kính, trang trọng “biên cương, mồ viễn xứ” tạo không khí trang trọng, âm hưởng bi
hùng làm giảm đi hình ảnh của những nấm mồ chiến sĩ nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
hoang vu. Vẻ đẹp bi tráng còn được thể hiện qua khí phách người lính, lí tưởng anh hùng
lãng mạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, quyết tâm hiến dâng sự sống cho đất nước:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Từ ngữ ước lệ “áo bào” gợi lên vẻ đẹp bi tráng của sự hi sinh: nhìn cái chết của đồng đội giữa
chiến trường thành sự hy sinh rất trang trọng của người anh hùng chiến trận. Biện pháp nói
giảm: “anh về đất” làm vơi đi sự bi thương khi nói về cái chết của người lính Tây Tiến. Biện
pháp cường điệu: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” để nói lên rằng thiên nhiên đã tấu lên
khúc nhạc hùng tráng đưa tiễn người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến ra đi trong khúc nhạc vĩnh hằng.
Bằng những câu thơ mang âm hưởng bi tráng, đoạn thơ khắc họa chân dung người lính từ
ngoại hình đến nội tâm, đặc biệt là tính cách hào hoa lãng mạn bi mà không lụy. Những con
người đã làm nên vẻ đẹp hào khí của một thời. Họ mang phẩm chất chung của người lính cụ Hồ.
Bài thơ là khúc ca bi tráng và tinh thần lãng mạn về hình tượng người lính Tây Tiến trong
những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy gian khổ, thiếu thốn mà vẫn gợi lên
phẩm chất anh hùng hào hoa, lãng mạn.
Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 7
Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều kiểu rung cảm thẩm mỹ nơi người đọc, thậm chí còn
gây nên nhiều tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc... Tây Tiến của Quang
Dũng là một trong những bài thơ như thế. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng
vững mà còn có sức sống kì diệu. Trong tâm hồn thi nhân, Tây Tiến là một thời để thương, để
nhớ, nhớ những kỉ niệm của người chiến binh trong những ngày tháng sống và chiến đấu
cùng binh đoàn, nhớ cảnh rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vĩ vừa không kém phần
thơ mộng, nhớ những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, những thời
khắc nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân…
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nếu như ở hai đoạn đầu của bài thơ, người đọc được tiếp cận với hình ảnh người lính một
cách gián tiếp thì đoạn thơ thứ ba trực tiếp khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ............
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Lúc bấy giờ, ngoài Quang Dũng còn có những gương mặt quen thuộc như bác sĩ Phạm Ngọc
Khuê, đại đội trưởng - nhạc sĩ Như Trang, nhà thơ Trần Lê Văn. Họ đều là những chàng trai
Hà Thành còn rất trẻ. Binh đoàn Tây Tiến phần đông là thanh niên trí thức Hà Nội (các
trường: Sư phạm, Bưởi, Thăng Long, Văn Lang...). Họ mang vào chiến trường không chỉ tinh
thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà còn cả những nét hào hoa, thanh lịch của người
Tràng An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ,
sôi nổi, yêu đời và mộng mơ. Tố chất người Tràng An thấm tận máu, tận hồn, là một chàng
trai đa tài (làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc...), lại đã từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh
đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lính Tây Tiến,
đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ về những chiến sĩ hào hùng mà rất đỗi hào
hoa. Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng thấp thoáng dáng dấp của những chinh
phu trong văn học cổ, hay người hùng nước Vệ dứt áo lên đường, không hẹn ngày trở lại..
Thời chống Pháp, thơ viết về anh bộ đội thường viết về những người nông dân mặc áo lính
với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc.
Rồi "Đồng chí" của Chính Hữu, "Cá nước của Tố Hữu, đều miêu tả người lính “chân quê”: Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày. (Đồng chí, Chính Hữu)
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng vừa có những đặc điểm riêng lại vừa được khắc
họa theo một bút pháp riêng. Bằng bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng triển khai trên nền
ký ức (nỗi nhớ), Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bằng thơ về người lính Tây Tiến.
Đó là bức chân dung lẫm liệt, oai hùng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Một số ý kiến cho rằng đây là hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng
hình ảnh “đoàn binh không tóc” và “dữ oai hùm" là không chân thực, thậm chí còn làm cho
hình ảnh anh bộ đội chống Pháp trở nên “quái đản”. Cảm nhận thơ như vậy là vừa chưa đúng
với đặc trưng của bút pháp lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến.
Thực tế kháng chiến chống Pháp không chỉ những anh bộ đội “lá ngụy trang reo với gió đèo”
mà còn có cả những “anh vệ trọc” nổi tiếng một thời. Cho nên, hình ảnh “đoàn binh không
mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm” vừa là một thực tế, vừa là sản phẩm của cảm
hứng và bút pháp lãng mạn.
“Đoàn binh không mọc tóc” là hình ảnh đoàn quân bị rụng hết tóc, hậu quả của những cơn
sốt rét rừng hoặc phải sống miền “rừng thiêng nước độc”; “quân xanh màu lá” nghĩa là đoàn
quân có nước da xanh như tàu lá - đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng cả, do gian
khổ và thiếu thốn; thế nhưng đoàn binh vẫn toát lên vẻ “dữ oai hùm”, nghĩa là vẫn dữ tợn như
loài hổ báo của rừng xanh. Đây là cách ví người hùng theo lối cổ chứ không phải “làm xấu đi
hình ảnh anh bộ đội” như có người đã nghĩ.
Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của “đoàn binh”.
Cách miêu tả chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời
Trần cũng miêu tả người tráng sĩ với “hào khí Đông A”:
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông đã mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Vẻ đẹp của câu thơ chính là ở tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến một vẻ đẹp
có sự cộng hưởng của âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa những người chiến
binh năm xưa với những người lính cụ Hồ hôm nay.
Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa một cách sinh động đời sống tâm hồn của những chiến sĩ Tây Tiến:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới” (Vũ Quần Phương), “thấy nổi lên lời độc tấu của
chàng trai Hà Nội” (Đặng Anh Đào) vừa rất hào hùng lại rất hào hoa. Hình ảnh “mắt trừng”
thể hiện ý chí quyết tâm ngùn ngụt của ngọn lửa chiến đấu bảo vệ biên cương. Hình ảnh ấy
cũng biểu hiện hoài bão, khát vọng lập công và cháy bỏng căm thù của người lính Tây Tiến.
Và ngay trong cuộc sống chiến đấu gian khổ dữ dằn đó, những người lính vẫn để tâm hồn cho
những hình ảnh thật dịu hiền, thân thương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những
chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn
người lính. Có một thời, người ta đã gán cho Tây Tiến những “mộng rớt“, “buồn rớt” chính là
vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây
Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này trong bài thơ Đất nước:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác, Quang
Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như
chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!
Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng
không né tránh và nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Chất “tráng sĩ ca” được bộc lộ một cách hào hùng và cũng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý
thơ cổ (Chinh phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ “mồ viễn xứ" gợi cảm giác buồn
thầm lặng - sự hy sinh thầm lặng của những chiến sĩ vô danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn:
“rải rác” đây đó nơi “biên cương”, những nấm mồ “viễn xứ” không một vòng hoa, không một
nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan
như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi
đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao. “Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn thân, tự
nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lý tưởng cao đẹp nhất.
Họ ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem
“nhẹ tựa lông hồng”.
Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết
như là một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ
Quang Dũng rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định
được phương châm sống của cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian
khổ: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu được ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy
hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.
Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nhà thơ đã nói lên một sự thật bi thảm là: Người lính hy sinh trên đường hành quân đến một
manh chiếu liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong
những tấm áo bào sang trọng. “Áo bào” là sự kết hợp hai từ: “áo vải” và “chiến bào” khiến
cho “áo bào” vừa bình dị vừa sang trọng. Đây là cách nói mà theo Quang Dũng là để “an ủi
linh hồn những người lính”. Xuất phát điểm là tình yêu đồng đội. Chính tình yêu thương đã
khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để “sang trọng hóa” cái chết của
người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
các chiến binh xưa. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ mang sức mạnh ngợi ca. Không
thể tìm được từ nào hay hơn để thay thế cho từ “về đất” trong câu thơ này. “Về đất” không
những diễn tả được sự hi sinh của người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu
thương của những người đồng đội ở lại. “Về đất” cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử
cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước. Dòng sông Mã đã tấu lên “khúc độc
hành” dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc thương, cảm phục.
Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi
rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng
với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.
Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt
là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Nội lực trong cảm hứng thơ Quang
Dũng thường dội xuống ở các động từ”. Động từ “gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm
vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng
với các động từ là các từ Hán - Việt (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, sông Mã,
khúc độc hành). Nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả
những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi và cái hùng tạo nên chất
bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.
Đây là đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng
đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với
khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng của Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng.
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 8
"Tây Tiến" là bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ tuyệt bút
viết về "anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ - chiến sĩ,
vừa cầm súng đánh giặc, vừa cầm bút làm thơ. Thơ của ông luôn nóng bỏng hào khí chiến trường.
Sau một thời gian xa đơn vị và đồng đội, nhà thơ đã sáng tác bài thơ Tây Tiến này vào năm
1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo của bài
thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng
miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đầy gian khổ, hy sinh. Đây là đoạn thơ thứ ba trong bài "Tây Tiến", đã khắc hoạ khí phách
anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm, đoàn binh Tây
Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người
chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét
rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc". Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến
tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. "Không mọc tóc" là hình ảnh phản ánh cái khốc
liệt của chiến trường:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: "quân xanh màu lá", “không mọc tóc" tương phản với "dữ
oai hùm" là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm
xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. "Dữ oai hùm"
là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang
Dũng. Các chiến binh ”Sát Thát” đời Trần: “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương
Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì hổ -
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô cáo). Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân
thù thời đại nào cũng có những chiến sĩ "tì hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào,
Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, lấy cái "thô",
cái "mộc" để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.
Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật... muôn lần khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những
giấc "mơ", giấc "mộng" rất đẹp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. "Mắt
trừng" - hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người
lính trong khói lửa ác liệt. "Mộng qua biên giới” - mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên
cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại
có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai
Hà thành "xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: "Từ
thuở mang gươm đi giữ nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long" (Huỳnh Văn Nghệ).
Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các
anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ, trường xưa,
"Những xao xác hơi may" ?... Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu,
những "dáng kiều thơm" từng hò hẹn. Hình ảnh "dáng kiều thơm” trong câu thơ của Quang
Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời "tiền
chiến" nhưng dưới ngòi bút nhà thơ - chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ
trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.
Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ "giếng nước gốc
đa", nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương...; trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ "người vợ
trẻ" - "Mòn chân bên cối gạo canh khuya”,… thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi
nhớ gắn liền với "mộng” và “mơ”, mộng lập chiến công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan
trong bài thơ "Màu tím hoa sim” cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp: ... Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến tranh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê…
Viết về "mộng”và "mơ" của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc
quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung "anh bộ
đội Cụ Hồ" xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bổ trợ, tô đậm bức chân dung người lính:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ
nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ “rải rác biên cương”. Câu thơ để lại
trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt,
đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: "Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận
vì một lý tưởng rất đẹp. "Đời xanh” là đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của "Những chàng trai
chưa trắng nợ anh hùng…”, những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì
nghĩa lớn của chí khí làm trai, họ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Câu thơ "Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem
xương máu để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng
lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: "Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Quang Dũng ghi lại cảnh tượng bi tráng giữa
chiến trường miền Tây thuở ấy:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thân làm niềm kiêu hãnh. Các
chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm "áo bào" bình dị ấy: "anh về đất". Một cái
chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: "về đất",
nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ "chết", từ "hi sinh" mà lấy cụm
từ "về đất" để ca ngợi sự hy sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi
cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất" bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến
sĩ. Tiếng thác sông Mã "gầm lên" giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn
liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu "Sông Mã gầm lên khúc độc
hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên
âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc, bên cạnh
những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, về đất, chiếu, gầm lên... lại có một số
từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành - nhờ đó
mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ
đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.
Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ "Tây Tiến" là đoạn thơ độc đáo nhất.
Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong
miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ “có hồn". Người lính đã sống anh dũng,
chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi
tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.
Anh Vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế!
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 9
Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học thời kì đầu kháng chiến
chống Pháp, có thể không có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất định
Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời
lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ
trong bài, nhưng không thể quên được hình ảnh đoàn quân ấy:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp - nói
đến gian khổ, hy sinh và địa bàn hoạt động - thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những
nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các
chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực - thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi
ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết
vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở
đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình
ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như
mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình
ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ
ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.
Vì vậy, khó khăn, gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những tình cảm lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy bóng
giặc - mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu - mơ những bóng dáng thân
yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy là vầng sáng lung linh trong ký ức, “tố cáo” nét đa tình của người
lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau
mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thất chí nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
“đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi - xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây Tiến
cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hy sinh.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc
giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm.
Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hy sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường
hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi "mồ viễn xứ" của những người con
"chết xa nhà". Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận
điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người anh hùng da
ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hy sinh nhưng đó lại là
một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức
gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ
rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh “anh về
đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của
mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào là
“mộng rớt”, “buồn rơi” ... nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào bản chất, có
thời đại ấy mới có văn chương ấy.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa;
bên cạnh cái bi là cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương là niềm kiêu hãnh anh hùng. Nửa
thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã
trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kỳ lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 10
Quang Dũng (1921 - 1988) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và
tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Trong các
sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng
tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ,
giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến
anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ. Có thể nói, nỗi nhớ da diết những
người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc họa bức
chân dung người lính Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Bài thơ “Tây Tiến” được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng trước đó
đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm
1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động
tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ
Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang
Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành
nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến
trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến,
nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm
của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.
Bài thơ được tác giả chia thành bốn đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian
khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ.
Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước
miền Tây thơ mộng. Đoạn thứ ba đã tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời
thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng
khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ
thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái
nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng
trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ
lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét
tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát
được gương mặt chung của cả đoàn quân.
Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính
thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong
bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn
lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn
lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, những cái đầu bị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang
Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ
nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những người em,
những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ
chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được thế giới nội tâm,
tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.
Trong chiến tranh, mất mát hy sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực
này không che giấu theo cách riêng của ông:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến trường” kết
hợp với từ láy “rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát
lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc
của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” vang lên khảng khái khẳng
định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến. Hai câu thơ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân
chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc
trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi
cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm vơi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy
bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca
đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hy sinh của người
lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có
nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng.
Quang Dũng và cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể
hiện quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến
mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ
không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh
khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và
sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ với, cảm hứng
lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung
tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ
sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây.
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 11
Theo dòng ký ức, ngược về quá khứ, ta đã bắt gặp không biết bao nhiêu hồn thơ khiến mỗi
chúng ta đắm say mê mẩn như lạc vào thế giới đó. Quang dũng cũng là một nhà thơ như vậy.
Ông là người tài hoa, vẽ tài hát giỏi, thơ hay. Ông để lại cho đời nhiều bài thơ với những âm
hưởng đặc sắc. Tiêu biểu là bài thơ Tây Tiến mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng
mạn mà ta được học ở chương trình phổ thông. Có thể nói, cả bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến,
về những người đồng đội nhưng nỗi nhớ da diết, lắng đọng nhất lại được nhà thơ tập trung
thể hiện rõ nhất ở việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ ở khổ 3 của bài thơ:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo dài thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Thật vậy, bài thơ Tây Tiến được ra đời trong những năm không thể nào quên của Quang
Dũng. Tây Tiến là một tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với lực lượng vũ trang Lào bảo vệ biên giới. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển
sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, với nỗi nhớ Tây Tiến da diết với những năm
tháng mưa bom bão đạn không thể nào quên, ông chắp bút cho ra bài thơ đặc sắc Tây Tiến, in
trong tập Mây đầu ô năm 1986. Bài thơ là bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên hùng vĩ, về
quãng thời gian chiến đấu gian khổ ngày đêm bên nhau với ý chí, tinh thần quật cường. Đặc
biệt hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai hùng, kiêu ngạo, vừa thơ mộng trữ tình.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vừa chân thực, vừa hào hùng. Nếu ở hai đoạn thơ
trước, thiên nhiên là nhân vật chính thì ở khổ ba, con người vượt lên để làm điểm nhấn, chất
xúc tác cảm xúc cho bài thơ lên đến cao trào.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Đoạn thơ trên làm sống dậy một hình ảnh đoàn binh Tây Tiến gan góc, dũng cảm. Ở họ mang
một hào khí đáng ngưỡng mộ. Họ chỉ là những cô cậu sinh viên hà thành mới từ giã mái
trường, gia đình lên đường chiến đấu còn biết bao bỡ ngỡ, lạ lùng với những thứ xa lạ, ngây
ngô nhưng họ vượt lên trên cảm giác sợ hãi, thay vào đó là sự oai hùng của tuổi trẻ, của sự
nhiệt huyết bừng cháy. Nhà thơ dùng “không mọc tóc” để miêu tả đoàn binh. Đó là hình ảnh
chiến sĩ rất khác lạ. Bên cạnh việc chọn ngày đêm phải chống chọi với kẻ thù tàn nhẫn, họ
còn phải gồng mình vượt qua thiên nhiên khắc nghiệt. Họ sống và chiến đấu nơi rừng thiêng
nước độc, nơi sông sâu núi thẳm thiếu ăn, thiếu thuốc, mắc các dịch bệnh sốt rét dẫn đến trọc
đầu. Chính nhà thơ Chính Hữu cũng đã từng đề cập đến bệnh này:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Nhà thơ đã lột tả một cách trần trụi sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã khiến cho họ trở nên
một cách kì lạ. Đó cũng là một sự thật trần trụi đến khắc khổ của binh đoàn Tây Tiến. Họ có
làn da xanh xao vì đói rét nhưng họ vẫn “oai hum” khiến kẻ địch khiếp sợ. Đó mới chính là
nét đẹp đáng khâm phục của đoàn binh Tây Tiến.
Mặc dù quyết tâm đánh giặc nhưng trong họ vẫn còn tỏa ra chất lãng mạn vốn có của người
lính. Họ không cứng nhắc, khô khan, cũng có những phút giây họ dành cho người thân gia
đình. Họ nhớ về quê hương nơi mà người thân họ vẫn ngày đêm trông mong. Họ nhớ về
những bóng dáng thân yêu. Hình ảnh “mắt trừng” là mắt quắc lên vẻ dữ tợn nhưng họ gửi
mộng đánh thắng quân thù qua biên giới. họ nghĩ đến một viễn cảnh tươi sáng hơn cho gia đình họ.
Có thể thấy Quang Dũng đã khéo léo khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp
hào hùng bi tráng nhưng cũng rất đỗi lãng mạn tình tứ chỉ qua vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng
thấm đượm nỗi lòng thầm kín của nhà thơ.
Sự hi sinh của người lính Tây Tiến cũng rất bi tráng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Hình ảnh người lính hy sinh bản thân nơi chiến trường khắc nghiệt thật khiến ta đau xót. Họ
cống hiến bản thân mình cho Tổ quốc, họ ngã xuống nơi chiến trường. Họ nằm lại nơi đất
khách quê người, không một vòng hoa, không một nén hương tưởng nhớ. Lạnh lẽo, bi thương
nhưng trước khi lên đường cầm súng chiến đấu họ đã xác định ranh giới giữa cái chết với cái
sống là quá mong manh. Họ chấp nhận điều đó.
Họ mang tuổi trẻ, nhiệt huyết của mình cống hiến cho quê hương. Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất,
nhiều ước mơ hoài bão lớn lao đầy hứa hẹn nhưng họ chẳng tiếc mà nhiệt tình dâng hiến cả
sức trẻ cho Tổ quốc. Đó là một sự hi sinh vĩ đại, thầm lặng đáng ngợi ca và trân trọng biết bao.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cái chết của họ cũng rất bi tráng. Hình ảnh chiếc “áo bào” thay “chiếu” khiến ta thấm thía
biết bao suy ngẫm. Quang Dũng đã khéo léo dùng từ Hán việt để giảm bớt sự bi thương cho
cái chết oanh liệt ấy. Đất Mẹ ôm ấp, vỗ về họ như đang những cách tay dài đón họ vào lòng
như những đứa con xa quê hương về với cái ôm đầy tình cảm của người mẹ. Quang Dũng đã
mượn luôn âm thanh của thiên nhiên như là khúc ca kêu thêm sự đau thương mất mác. Sông
Mã gầm lên ai oán. Câu thơ ấy mang âm hưởng dữ dội như cào vào lòng người những vết
xước sâu không thể nào quên đi được nhưng nó cũng mang âm hưởng bi tráng khiến cho sự
hy sinh của người lính không hề bi lụy chút nào. Tây Tiến mùa xuân ấy như khúc ca còn
vang mãi trong lòng mỗi người.
Tóm lại, đoạn thơ thứ ba đặc sắc nhất của bài thơ có giọng điệu trang trọng thể hiện tình cảm
của nhà thơ một cách sâu sắc. Đặc biệt với những hình ảnh thơ thấm đẫm kỉ niệm mà nhà thơ
hồi tưởng lại man mác buồn nhưng thấm đẫm bi tráng hào hùng. Nhà thơ khéo léo sử dụng từ
Hán Việt khiến đoạn thơ trang nghiêm lên nhiều hơn. Qua những thủ pháp nghệ thuật đặc
sắc, Quang Dũng đã vẽ ra bức tranh về đoàn binh Tây Tiến. Họ oai nghiêm, lẫm liệt yêu nước
nồng nàn nhưng cũng rất lãng mạn. Đây là đoạn thơ sâu sắc đúc kết cả cái tình, cái thần cho
toàn bài, là điểm nhấn nổi bật mà ta không thể nào quên.
Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 12
Cả bài thơ là nỗi nhớ dạt dào về “Tây Tiến”, với những kỉ niệm một thời. Những khó khăn
trong cuộc sống và chiến đấu, cũng như những giờ phút thanh bình bên người dân Tây Bắc.
Bài thơ còn miêu tả rất thực về hình ảnh của người lính. Về tinh thần và những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Một đoạn thơ khắc họa rõ về những chàng trai Tây Tiến và hình ảnh tả thực gợi lên trong
lòng người đọc nhiều niềm thương cảm và cả ngưỡng mộ. Đoạn được mở đầu bằng lời miêu
tả thẳng không chút tránh né sự thật.
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Cuộc sống chốn rừng núi Tây Bắc thiếu thốn vô cùng. Quân chiến đấu không đủ ăn, mặc
không đủ ấm. Để chiến đấu họ phải cạo trọc đầu tạo thành đoàn “vệ trọc” “vệ đỏ” để kẻ thù
không thể nắm được họ. Nhưng nguyên nhân khác là những cơn sốt rét rừng cực kỳ nguy
hiểm, cứ đe dọa, rình rập, sẵn sàng lấy đi tính mạng của họ bất cứ lúc nào.
Trong bài “Đồng chí” chính hữu cũng đã có đề cập tới những khó khăn và căn bệnh này:
Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá, chân không dày ….
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Căn bệnh này thì bất cứ người lính nào cũng gặp nhưng đến với “Tây Tiến”, ta mới có thể
hiểu được một cách chân thực nhất. Đó là sự thật không phải là nói quá hay là nói để tạo ấn
tượng thú vị vì nhà thơ lấy chính cái hiện thực khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh tự
tốn cho mình. Đó là cái khác của người lính Tây Tiến: “Đoàn binh không mọc tóc.” Cũng
như Phạm Tiến Duật gọi “tiểu đội xe không kính” của mình. Đó là một cách gọi dí dỏm thể
hiện sự lạc quan và chất lính. Câu tiếp theo chia làm hai vế “quân xanh màu lá/ dữ oai hùm”.
Màu xanh là màu xanh của lá ngụy trang hay chính là màu xanh da thịt của người lính cho
quá vất vả và chịu đựng căn bệnh làm da nhợt nhạt không sức sống. Như Tố Hữu cũng nói:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Cả đoàn quân sao mà yếu ớt nhưng bên cạnh đó là cả một khí thế oai phong. Cái bi đặt bên
cái tráng làm nổi bật cái oai phong của đoàn quân. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo nên âm hưởng
mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ. Người đọc cảm nhận khí thế của đoàn quân ra trận, dù yếu
nhưng đã đánh cho Pháp phải khiếp sợ.
Dù cuộc sống có khó khăn nhưng những người lính Tây Tiến vẫn mang trong mình lắm
mộng mơ, và khát vọng hoài bão.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Hai câu mang hai chữ “mộng” và “mơ”. Từ trừng được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy bao
tâm nguyện, khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều gửi cả ở ánh mắt. “Mắt trừng” không phải
chỉ hành động mạnh nhìn trừng trừng dữ dằn, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể
hiện những mong ước đến khắc khoải, mong ước về một ngày chiến thắng kẻ thù. Chữ
“mộng” khiến câu thơ chùng xuống ẩn chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của Quang Dũng
khiến ta nhớ tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Nhớ “người yêu” hay nhớ “dáng kiều thơm” làm hình ảnh người lính trở nên gần gũi hơn rất
nhiều. Vì nỗi nhớ rất đỗi bình thường của những chàng thanh niên, nhưng trong lúc khó khăn
cũng thật cao quý. Nỗi nhớ và những mộng mơ giúp tiếp thêm sức mạnh và nghị lực để vượt
lên hoàn cảnh. Để vượt qua thiếu thốn vật chất, những con đau dằn xé. Để không gục bởi
hoàn cảnh trước khi gục trước kẻ thù. Quang Dũng đã viết nên bốn câu thơ đầu với cái nhìn
đa chiều, phong phú. Để ta thấy đằng sau phong thái hùng dũng cũng có một tâm hồn trẻ và tài hoa.
Hai câu thơ tiếp theo là sự tiếp nối của sự chiến đấu giành độc lập tự do. Đó là sự hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nếu ta chỉ đọc câu thơ đầu thì không thể không xúc động trước cái hiện thực quá đỗi bi
thương. Cả một đoàn quân đang đi trên con đường dài thì thỉnh thoảng có một người ở lại sau
lưng. Bên đường lại mọc lên một nấm mồ. Giữa rừng núi, không một nén hương, không nước
mắt người thân. Những cái chết cô độc giữa rừng lạnh lẽo, bi thảm, những câu thơ sau như
một lực kéo vô hình nâng câu đầu lên để kéo cái bi thảm thành cái bi tráng. Câu thơ thứ hai
chính là câu hát đầu thách thức ngạo nghễ của các chàng trai. Biết đi là hy sinh đó nhưng một
khi đã đi thì không quay đầu trở lại. Dù có hy sinh cũng là sự hy sinh xứng đáng. Nói không
tiếc thì cũng không thể vì họ là thanh niên còn nhiều cái chưa làm được, nhưng đây là hiến
dâng phần còn lại của cuộc đời cho tổ quốc nên không tiếc nữa. Như anh lính trong dáng đứng Việt Nam
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Những sự hy sinh vĩ đại. dù ta không thể biết ai đã hy sinh nhưng Nguyễn Khoa Điềm của
từng khẳng định “không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm nên đất nước.”
Một khi xác định được lý tưởng những người lính xem cái chết mình nhẹ tựa lông hồng.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cuộc sống thiếu thốn đến nỗi không có mảnh chiếu che thân nhưng với Quang Dũng mảnh áo
kia chính là “áo bào” như những chiến tướng của ngày xưa. Một cái chết hào hùng và sang
trọng vì là chết cho đất nước. Đất đã sinh ra anh và lại đón nhận anh trở về khi đã làm xong
nghĩa vụ thiêng liêng của anh. Anh ra đi không mang theo tiếng khóc của đồng đội nhưng
tiếng gầm của sông Mã đã tiễn anh ra đi. Cả quê hương đất nước như đang tiếc thương đưa
anh về đất. Vẫn là cái chết nhưng lại hào hùng, không bi lụy mà bi tráng. Đây là điểm nhấn
xuyên suốt bài thơ. Là cái đặc sắc của Quang Dũng. Nhưng lúc bài thơ ra đời nhiều người
không hiểu được. Họ coi việc nói thực là cái chết là kể lể, yếu mềm theo kiểu tiểu tư sản.
nhưng họ chưa hiểu được sâu là đằng sau cái chết là cái hào hùng. Cái chết chỉ là cái nên cho sự vinh quang.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Ở đây sông Mã một lần nữa được nhắc lại khi nói đến Tây Tiến. Điều đó khẳng định sự hy
sinh và ra đi của các anh đã đi vào bất tử khi thân xác hòa vào cỏ cây và vào đất mẹ thiêng liêng.
Đoạn thơ đã tạo nên được khí thế của đoàn quân. Những người lính với ý chí kiên cường,
nghị lực và những ước mơ. Họ đã ra đi, chiến đấu và hy sinh. Họ đã bảo vệ tổ quốc không
tiếc đời mình. Quang Dũng là thể hiện được điều đó bằng bút pháp tả thực và cả lãng mạn.
Nhà thơ bộc lộ được tinh thần của một chiến sĩ Cụ Hồ thời chống Pháp.
Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi
Nào có xá chi đâu ngày trở về.
Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 13
“Tây Tiến” của Quang Dũng là một trong số những bài thơ hay viết về người lính trong cuộc
kháng chiến chống Pháp. Đến với khổ thơ thứ ba của bài thơ, người đọc sẽ cảm nhận được
hình ảnh chân dung người lính vô cùng chân thực:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Ở bốn câu thơ đầu, hình ảnh người lính được nhà thơ xây dựng với nét đẹp vừa hiên ngang
mà cũng vừa thơ mộng. Chân dung của họ được nhà thơ Quang Dũng khắc họa qua hình ảnh
“đoàn binh không mọc tóc”. Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ khó khăn, bom
đạn hóa chất của kẻ thù đã làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Nhưng ở
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đây lạ là “không mọc tóc” có nghĩa là người lính Tây Tiến đã chủ động lựa chọn cạo trọc đầu
để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Thế mới thấy tâm thế luôn sẵn sàng chiến đấu của
họ cao đến nhường nào. Kế tiếp là hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách
hiểu. Đó có thể là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường,
người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy
trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai chính là khuôn mặt xanh xao của
những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy
được những khó khăn gian khổ mà họ phải trải qua. Nhưng không vì những khó khăn ấy mà
các anh mất đi tinh thần lạc quan. Các anh đã lựa chọn chủ động đối mặt với khó khăn, coi đó
giống như là sức mạnh để tiếp tục cuộc hành quân của mình. Tuy trong gian khổ mà vẫn hiên ngang, bất khuất.
Nhưng họ không phải chỉ là những con người khô khan mà cũng rất đỗi mơ mộng. Những
người lính ấy tuổi mới chỉ mười tám đôi mươi - vẫn còn là những học sinh, sinh viên mang
trong mình nhiều lý tưởng mơ mộng. Vì nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc mà tạm
gác bút nghiên, cầm súng để chiến đấu. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo
dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng
về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều
thơm” - đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi
đọc câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp
tiểu tư sản. Nhưng ở đây không phải vậy, qua hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ
gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến. Quả là cái nhìn phiến diện một thời.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã miêu tả sự hy sinh anh dũng của những người lính.
Biện pháp tu từ đảo ngữ “Rải rác” – “biên cương mồ viễn xứ”. Cùng với từ láy “rải rác” kết
hợp các từ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ” khiến cho giọng thơ trở nên trang trọng
hơn. Phải hiểu rằng đây không chỉ là một cái chết mà là nhiều cái chết. Những người lính hết
thế hệ này đến thế hệ khác, họ đã lên đường chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập của dân
tộc. Cho dù có phải đối mặt với cái chết, các anh vẫn nguyện dâng hiến hết tuổi thanh xuân
cho tổ quốc: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Câu thơ giống như một lời thề nguyện:
“Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” - đêm hết tuổi xuân thậm chí là tính mạng cho sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc. Để rồi khi họ ra đi “áo bào thay chiếu anh về đất” - hình ảnh
“áo bào” có thể được hiểu là tấm áo khoác bên ngoài của những người lính. Những người
lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng - đó là tấm
chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những
chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Hình ảnh “áo báo” đã bất tử hóa cái
chết của người lính. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã dường như cũng không thể im lặng:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua
động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt.
Quả là Quang Dũng đã xây dựng được một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến vừa
chân thực vừa lãng mạn.
Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 14
Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối
hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây
Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển
sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn Tây Tiến và sáng tác ra bài thơ “Tây Tiến”.
Đến với khổ thơ thứ ba, nhà thơ đã xây dựng được hình ảnh những người lính vừa dũng cảm,
hiên ngang lại vừa mơ mộng.
Hai câu thơ đầu là hình ảnh thật chân thực về binh đoàn Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ khó khăn, bom đạn hóa chất của kẻ thù đã
làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Nhưng ở đây lại là “không mọc tóc”
có nghĩa là người lính Tây Tiến đã chủ động lựa chọn cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh
hoạt kháng chiến. Kế tiếp là hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu.
Đó có thể là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người
lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang
lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai chính là khuôn mặt xanh xao của những
người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được
những khó khăn gian khổ mà người lính phải trải qua. Nhưng không vì những khó khăn ấy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
mà họ mất đi tinh thần lạc quan của. Họ luôn sẵn sàng đối mặt với mọi khốc liệt nơi chiến trường bom đạn.
Mạnh mẽ là thế, nhưng cũng có đôi lúc người lính cũng đầy thơ mộng:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Những người lính tuổi đời chỉ mới mười tám đôi mươi. Họ lên đường chiến đấu khi vẫn còn
mang trong mình nhiều khát khao của tuổi trẻ. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt
đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với
khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội
dáng kiều thơm”. Đó có thể là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Trên con
đường hành quân gian khó ấy, họ nhớ đến hình ảnh Hà Nội - thủ đô của đất nước với một
niềm mong ước chiến thắng được trở về thăm lại quê hương.
Và rồi có trận chiến nào mà không phải trải qua những mất mát, hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hai câu thơ này là hình ảnh tả thực về cái chết của những người lính. Từ láy “rải rác” kết hợp
với cụm từ Hán Việt “biên cương mồ viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang trọng hơn. Đó
không phải là một cái chết mà rất nhiều cái chết. Cho dù có vậy, các anh vẫn ra đi chẳng tiếc
tuổi trẻ, chẳng tiếc đời mình.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến tranh khắc
nghiệt, thiếu thốn đến không có cả chiếu để bọc thi thể người lính đã hi sinh. Những người
đồng đội của các anh phải lấy chiếc áo mà các anh đang mặc để chôn cất. Cách nói “về đất”
là nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương và cũng là sự ngợi ca, trân trọng dành cho
người anh hùng của quê hương đất nước. Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc
hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Với giọng thơ trang trọng, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính mang vẻ đẹp bi
tráng. Họ dường như được bất tử hóa - trở thành tượng đài trong lòng mỗi người đọc.
Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 15
“Tây Tiến” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Quang Dũng. Đến với khổ thơ
thứ ba, người đọc đã thấy được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên đầy dũng cảm nhưng cũng thật thơ mộng:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Với bốn câu thơ đầu, người lính Tây Tiến hiện lên qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”.
Một cách nói thể hiện tâm thế đón nhận khó khăn đầy chủ động của người lính. Ở nơi chiến
trường gian khổ, mọi công việc sinh hoạt đều diễn ra một cách đơn giản nhất. Chính vì vậy,
họ đã chủ động chọn cách cắt đi mái tóc của mình để thuận tiện cho cuộc sống. Nhưng không
chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” còn nói về một thực tế khốc liệt nơi
chiến trường. Những cơn sốt rét rừng khiến cho người lính bị rụng hết tóc. Tiếp đến là hình
ảnh ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu cho người đọc. Cách thứ nhất đó
là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải
ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với
màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai đó chính là khuôn mặt xanh xao của những người
lính bởi những cơn sốt rét rừng. Cả hai cách hiểu đều cho thấy sự khó khăn mà người lính đã
phải trải qua trong chiến đấu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Họ không chỉ dũng cảm, mà còn rất thơ mộng. Những người lính Tây Tiến đều xuất thân từ
tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Họ xung phong vào nơi chiến trường trận mạc trở thành những
người lính nhưng vẫn mang giữ tâm hồn của những chàng sinh viên. Hình ảnh “mắt trừng”
gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi
mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi
đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” - đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt
tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng nó
mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản. Nhưng ở đây không phải vậy, qua
hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến.
Bốn câu thơ sau khắc họa sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến. Nghệ thuật đảo ngữ:
“Rải rác” – “biên cương mồ viễn xứ” kết hợp với từ láy “rải rác” và từ Hán Việt “biên
cương”, “viễn xứ” khiến cho giọng thơ bỗng nhiên trở nên trang trọng hơn. Hình ảnh này gợi
ra đây không chỉ là một cái chết mà là nhiều cái chết. Khắp nơi trên mảnh đất này đều có mộ
của những chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng dù đồng đội của các anh đã ra đi, nhưng các anh vẫn
nguyện đem thân mình dâng hiến cho tổ quốc. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
như một lời khẳng định. Những người lính nguyện đem thân mình cống hiến cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Các anh chẳng tiếc nuối những năm tháng tuổi trẻ. Nhưng làm sao mà
không tiếc nuối cho được? Họ mới chỉ là những chàng trai tuổi mười tám đôi mươi còn nhiều
thơ mộng. Nhưng vì lý tưởng cách mạng người lính vẫn nguyện hy sinh tất cả. Hình ảnh “áo
bào” gợi ra hai cách hiểu sâu sắc. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có
gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo
bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng - đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng.
Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng
thời xưa. Với hình ảnh này, người lính đã được bất tử hóa. Các anh không chết đâu, các anh
vẫn mãi sống trong lòng của người dân Việt Nam. Cuối cùng là hình ảnh con sông Mã: “Sông
Mã gầm lên khúc độc hành”. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã - con sống gắn bó với cuộc
sống người lính Tây Tiến tại núi rừng Tây Bắc dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã
gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ
“gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Tóm lại, qua khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã khắc họa thật hình ảnh người lính Tây Tiến hiện
lên thật chân thực, sống động.
Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 16
Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính hiện lên với vẻ đẹp hào
hùng mà thơ mộng. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong khổ thơ thứ ba của bài thơ:
Tây Tiến nhìn từ chiều sâu kỉ niệm thật có những hồi ức khó quên. Những có lẽ đậm sâu nhất
lòng Quang Dũng là dáng dấp người lính Tây Tiến từ lâu được khắc tạc thành những anh
hùng bất tử trong trí nhớ. Bắt đầu là nhớ về hình ảnh những “đoàn binh không mọc tóc”:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Bài thơ làm sống dậy hình ảnh của một đoàn quân Vệ quốc. Bước chân họ in trên khắp các
nẻo đường đất nước. Họ tình nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến, gian khổ lắm lúc vượt
quá sức chịu đựng của những chàng trai Thủ đô mới từ giã mái trường, góc phố. Một sự thật
trần trụi và khắc khổ về người lính thời chiến hiện ra: Họ sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi
thẳm, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt rét liên miên đến rụng tóc, trọc đầu, da xanh tái. Quang Dũng
chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Đâu phải riêng Quang Dũng mới nhắc
về sự thật ấy. Tố Hữu cũng từng đau lòng mà viết: “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng
nghệ”. Nhưng vốn mang trong mình khí chất của người chinh phu tráng sĩ, Quang Dũng nói
về cái bi chỉ cốt để gợi cái tráng. Người chiến sĩ chủ động “không mọc tóc” chứ không phải
“tóc không mọc”. Ta nghe trong đó chút dí dỏm tươi vui, cũng là niềm lạc quan không ngại khổ ngại khó.
Quyết tâm giết giặc, gian khổ đói rét không làm giảm chất lãng mạn vốn có trong từng chiến
sĩ. Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ
về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm
mơ Hà Nội dáng kiều thơm.” Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về cùng những giấc mơ. Là mơ
chứ không phải nhớ, là cảm xúc nằm trong tiềm thức chứ không phải trong ý thức, đó là động
lực để cho các anh cầm chắc tay súng, như nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng nói về cảm xúc ấy:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Nhớ về đồng đội, Quang Dũng cũng không né tránh những mất mát hy sinh, nhưng hẳn rằng
Tây Tiến là một trong số ít bài thơ viết về điều đó một cách thấm thía bằng cảm hứng bi tráng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã
hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hy sinh. Nhưng nhìn xa
hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hy sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đời xanh là tuổi trẻ với bao nhiêu hoa mộng. Đẹp là thế, hứa
hẹn nhiều là thế nhưng các chiến sĩ ta chẳng tiếc mà nhiệt thành hiến dâng cho Tổ quốc. Hỏi
có sự hy sinh nào cao quý hơn, đáng ca ngợi hơn? Một lần nữa, Quang Dũng khắc tả được
tinh thần của những chinh phu tráng sĩ thời xưa:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao
Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi
đó là vinh quang tột đỉnh, còn chiến sĩ Tây Tiến thì “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu
câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng
phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng
chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh
ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên
đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.
Như vậy, qua phân tích trên, khổ thơ thứ ba của bài thơ “Tây Tiến” là một khổ thơ hay. Hình
ảnh người lính của binh đoàn Tây Tiến hiện lên đầy chân thực.
Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 17
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Nhắc tới thơ văn trong kháng chiến, chúng ta không thể không nhắc tới những nhà văn nhà
thơ như Tố Hữu, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thi, ... và có lẽ chúng ta không thể nào không
nhắc tới nhà thơ Quang Dũng. Ông là một người thi sĩ đa tài, vừa viết thơ, vừa vẽ tranh, lại có
thể sáng tác kịch. Trong sự nghiệp thơ văn của mình, tác phẩm ông để lại không ít nhưng nổi
tiếng nhất có lẽ chính là tác phẩm Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ tha thiết của Quang Dũng với
miền Tây Bắc thân thương, với đồng đội của mình. Bài thơ đã làm nổi bật lên một hồn thơ
lãng mạn, sâu lắng, thấm đượm nghĩa tình, tinh thần dân tộc của Quang Dũng, đặc biệt đoạn
thơ khắc họa hình tượng người lính vô cùng đặc sắc:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Tây Tiến được Quang Dũng sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh trong nỗi nhớ đơn vị,
đồng đội của mình. Chính trong nỗi nhớ dạt dào ấy, ông đã khắc họa hình ảnh những người
lính Tây Tiến với những nét vẽ thật đẹp vừa hào hùng lại vừa lãng mạn.
Đọc những dòng thơ đầu tiên, hiện lên trước mắt người đọc là hình tượng người lính oai
hùng, lẫm liệt, đậm chất bi tráng:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Đoàn binh Tây Tiến là đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào, đánh chặn các đợt tiến công biên giới Việt - Lào và Quang Dũng chính là đội trưởng của
đoàn quân ấy. Hai câu thơ đầu mở ra, giữa cái mỹ lệ, nên thơ của núi rừng, vẻ đẹp của người
lính cụ Hồ hiện lên thật bi tráng. Không phải những đoàn quân với những người lính khỏe
mạnh, trên đầu mang một màu tóc xanh của tuổi trẻ, đoàn quân của Quang Dũng hiện lên thật
kì dị lạ thường. Cả một đoàn quân tuổi đời còn trẻ măng nhưng ai cũng "không mọc tóc". Vì
đâu mà cả một đoàn binh lớn nhường ấy lại có điều dị thường đến vậy? Phải chăng đây là kết
quả của những cơn đói, cơn khát, của những trận sốt rét khủng khiếp đã biến những người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
lính trẻ tuổi thành cả một "đoàn binh không mọc tóc" như vậy? Ngoại hình tiều tụy, ốm yếu,
đầu trọc, da xanh đã gợi lên trong lòng chúng ta biết bao sự bi thương. Hình ảnh ấy tuy có
gân guốc thế nhưng đó lại là cái hiện thực - một hiện thực thật trần trụi. Các chiến sĩ Tây
Tiến ngày đó phải hoạt động trong rừng núi phía Tây Bắc của Tổ quốc, nơi rừng thiêng nước
độc, nơi ấy có những trận sốt rét đến kinh người, và cả những ngày hành quân đói rét vất vả
nữa. Chúng ta cũng từng bắt gặp hình ảnh người lính với những trận sốt rét mà vẫn cố gắng
hoàn thành nhiệm vụ của mình trong thơ của Chính Hữu:
"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi"
Người lính Tây Tiến vẫn mang thêm chút đặc biệt hơn ở một phần nào đó. Phải chăng là
những mái tóc còn xanh chẳng còn nữa, những người lính trở thành cả "đoàn binh không mọc
tóc"? Đoàn quân đang trải qua những gian khổ, khó khăn, cản bước những bước tiến hành quân của họ?
Nhưng nếu như ở câu trước hình tượng những người lính hiện lên thật trần trụi, bi thương thì
ngay ở câu thơ sau, người ta lại thấy Quang Dũng thể hiện hình ảnh những người lĩnh thật oai phong:
"Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
"Quân xanh" ở đây phải chăng là những tán lá ngụy trang, là màu áo xanh người lính hay
chính là làn da xanh tái vì bệnh tật và đói rét của những chiến sĩ giải phóng quân? Một hình
ảnh hiện thực trần trụi được Quang Dũng đưa trực tiếp vào trong thơ. Chẳng hề có một sự
phóng đại hay cách điệu nào hết. Đó là hiện thực, là thực tại của những người lính đoàn quân
Tây Tiến. Thế nhưng, tuy có xanh xao, mệt mỏi, vất vả là thế, nhưng họ vẫn giữ vững tinh
thần "giữ oai hùm". Dù là nơi rừng thiêng nước độc, nhưng những người anh hùng giải phóng
quân vẫn giữ được tư thế hiên ngang, bất khuất, toát lên vẻ oai hùng như chúa sơn lâm.
Hai câu đầu, hình tượng người lính của đoàn quân Tây Tiến hiện lên thật sống động biết bao.
Đoàn quân ấy đang đi giữa rừng xanh, đi giữa những núi rừng âm u hiểm trở và gặp biết bao
gian lao, vất vả, bệnh tật đói rét. Thế nhưng, các anh dù có thế nào vẫn giữ được một tư thế
hiên ngang, "oai hùm" giữa chốn rừng thiêng. Có thể nói, Quang Dũng đã đưa vào đây chất
liệu hiện thực - một hiện thực trần trụi và gửi vào đó một chút lãng mạn của thi ca.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bước sang những câu thơ tiếp theo, người ta thấy hiện lên là vẻ đẹp tâm hồn của những chiến
sĩ ấy. Một vẻ đẹp tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Tây Tiến là đoàn binh với thành phần chủ yếu là những người con đất Hà Thành, là những
học sinh, sinh viên đang còn tuổi chứa chan xuân xanh tươi đẹp, thế nên ẩn sau ngoại hình
xanh xao ấy là cả một bầu trời tâm hồn lãng mạn. Những người lính ấy đến với biên cương
bằng sức trẻ, bằng hoài bão, bằng khát vọng hòa bình. Họ nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc
mà lên đường tìm lại độc lập cho dân tộc bởi giặc ngoại xâm đã giày xéo quê hương đến tiêu
điều. Vậy nên, "mắt trừng" kia phải chăng chính là đôi mắt đang mở to, dõi theo kẻ thù, quyết
tâm thề sống chết với kẻ ngoại bang xâm lược? Đôi mắt trừng ấy cũng là sự căm hận quân
thù, sục sôi ý chí chiến đấu. Không chỉ vậy toát lên ý chí chiến đấu, đôi mắt ấy còn "gửi
mộng qua biên giới" đến với những nơi xa xôi, đến với Hà Nội thân yêu - nơi có người thân,
gia đình của những chàng trai Tây Tiến. "Mộng biên giới" - có chăng chính là giấc mộng hòa
bình, giấc mộng được chiến thắng trở về với quê hương, với gia đình, với người thương của
mình. Và đôi mắt ấy cũng không chỉ ánh lên khát vọng mà còn ánh lên cả cái tình, cái cảm
xúc yêu thương trong đó nữa.
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đôi mắt ấy thao thức trong canh thâu, nhớ về một Hà Nội cổ kính, với phố phường, với gia
đình với cả "một dáng kiều thơm" trong trí nhớ. Là những người trí thức buông bỏ bút mực
nghiên, vác lên vai cây súng bảo vệ quê hương, thế nên những người lính Tây Tiến luôn giữ
trong mình cái vẻ hào hoa, lãng mạn của người trí thức ấy. Họ không như những anh lính
mộc mạc trong thơ Chính Hữu:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Chính "dáng kiều thơm" ấy là động lực để thôi thúc các anh hoàn thành nhiệm vụ cao cả của
mình. Đồng thời nó cũng là niềm khao khát của những người lính biên cương.
Sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, phải chăng nỗi nhớ quê, nhớ người thương lại là
động lực mạnh mẽ, tiếp thêm sức lực cho các anh để các anh bằng tuổi trẻ, bằng khát vọng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
của mình đem hòa bình lại cho những "dáng kiều thơm" kia? Quang Dũng cũng thật tinh tế,
bởi chỉ bằng hai câu thơ ngắn mà vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây Tiến hiện lên thật hào hoa,
thật lãng mạn biết chừng nào. Và bốn câu thơ đầu của khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã làm
hiện lên trước mắt người đọc thật rõ ràng hình tượng người lính trong đoàn binh của mình.
Những người lính ấy vừa oai phong, vừa đẹp vẻ đẹp của khát vọng lại vừa tinh tế, lãng mạn trong vẻ đẹp tâm hồn.
Trong chiến tranh, biết bao người lính đã ra đi với tuổi trẻ, với khát vọng hòa bình, nhưng lại
chẳng trở về. Người ta thường nói, chiến tranh vô thường, làm sao tránh được hi sinh, mất mát:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Mất mát, hy sinh có lẽ là những điều hiển nhiên trong mỗi trận chiến. Thế nhưng đọc câu thơ
của Quang Dũng, người đọc chúng ta không khỏi xót xa trước những sự mất mát, hy sinh ấy.
Âm điệu của bốn câu trước thật hào hùng biết bao thì đến đây, không khí ấy chợt chùng
xuống sâu lắng. Trên mỗi chặng đường đi, những người lính lại lần lượt nằm xuống. Những
ngôi mộ của họ vô danh, nằm rải rác giữa biên cương, chốn rừng thiêng nước độc. Ở đây,
Quang Dũng chọn một từ ngữ Hán Việt "mồ viễn xứ" để diễn tả những cái chết của những
người con xa nhà. Họ phải nằm lại nơi đất khách quê người. Từ Hán Việt "mồ viễn xứ", "biên
cương" tạo nên không khí thật trang trọng, bi hùng như bài hùng ca tiễn biệt những người
lính. Họ ngã xuống nơi đây, trở thành những người lính vô danh góp một phần vào nền độc lập của đất nước:
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước"
Thế nhưng dù có phải đối mặt với cái chết thì những người lính Tây Tiến vẫn quyết tâm ra đi
vì khát vọng hòa bình. Vì khát khao cháy bỏng ấy, họ nguyện hiến dâng cho Tổ quốc cả tuổi
thanh xuân, cả tính mạng của mình:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Một vẻ đẹp bi tráng đến thật lãng mạn! "Đời xanh" tức là tuổi thanh xuân của các anh, là tuổi
trẻ với bao khát vọng. Thế nhưng, vâng lời kêu gọi của Tổ quốc ra chiến trường diệt quân
thù, các anh quyết chí, đồng lòng ra đi, "chẳng tiếc" bất cứ điều gì cả. "Chẳng tiếc" - từ ấy
vang lên như một câu trả lời dứt khoát cho tiếng gọi của Tổ quốc vừa ngạo nghễ vừa bình
thản. Họ đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trong tim họ, chỉ có khát vọng hòa bình là đang
cháy bỏng. Đau thương nhưng lại chẳng hề bi lụy trước số phận của cuộc đời.
Vẫn trong âm hưởng hào hùng, trầm lắng đó, Quang Dũng lại kể tiếp về khát vọng được cống
hiến của Tổ quốc của những người lính đoàn quân Tây Tiền:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Họ là những người trẻ, hơn ai hết, họ hiểu được giá trị của thanh xuân, của những ước mơ,
khát vọng đời thường "dáng kiều thơm", thế nhưng được chết cho lý tưởng của đất nước thì
cũng thật là thiêng liêng, thật là cao đẹp. Người lính hy sinh, trên người đâu còn lại gì. Thế
nhưng, ở đây, Quang Dũng đã mỹ lệ hóa thành "áo bào". Tấm áo bào trước đây chỉ dành cho
vua chúa quý tộc thì nay được khoác lên người những người lính chiến. Tấm áo ấy như lời
vinh danh dành cho người lính vô danh đã ngã xuống, trở về với đất mẹ thân yêu. "Áo bào
thay chiếu" là lời nói bi tráng hóa, mỹ lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Và cụm từ
"anh về đất" nghe sao có vẻ nhẹ nhàng, nhưng thực chất, đó chỉ là cách nói giảm nói tránh
nỗi đau xót, thương cảm vô hạn của Quang Dũng dành cho những người lính hy sinh mà thôi.
Với Quang Dũng, họ không chết, họ chỉ trở về với đất mẹ mà thôi. Bởi chúng ta sinh ra từ đất
thì sẽ lại trở về với đất mẹ.
Những người lính hy sinh ngã xuống, trở thành những nấm mồ vô danh viễn xứ, nhưng sự hy
sinh ấy không vô ích bởi nó góp phần tạo nên hòa bình cho đất nước, làm nên vinh quang cho
lịch sử nước nhà. Với những người lính Tây Tiến, con sông Mã là con sông lịch sử. Bởi nó là
chứng nhân của thời gian, là người bạn đồng hành của những người lính. Và giờ đây, khi họ
ngã xuống, nó "gầm" lên khúc tráng ca tiễn biệt người đồng đội của mình. Tiếng gầm ấy như
khúc nhạc tấu độc hành dành cho người lính để họ đi vào cõi bất tử.
Hai câu cuối của khổ ba, Quang Dũng liên tiếp sử dụng các từ ngữ Hán Việt. Nó vừa tạo nên
không khí trang trọng, hào hùng, tôn nghiêm khi nói về sự hy sinh của những người lính, vừa
tạo nên được vẻ đẹp bi tráng,lãng mạn, lẫm liệt của những người anh hùng xưa. Có thể nói,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
hai câu thơ cuối đã mỹ lệ hóa cái chết của những chàng trai trẻ, thế nhưng sự mỹ lệ ấy hoàn
toàn vừa đủ để tôn lên sự hy sinh cao cả của các chàng trai tuổi mười tám ấy.
Đoạn thơ trên, Quang Dũng đã thể hiện vô cùng thành công nỗi nhớ thiên nhiên Tây Bắc hòa
quyện cùng nỗi nhớ đơn vị của mình. Ông cũng sử dụng liên tiếp rất nhiều hình ảnh đặc sắc
vừa nhạc vừa họa, những sự so sánh cường điệu tinh tế đồng thời xen lẫn với cảm hứng lãng
mạn để nói về đoàn quân của mình. Có thể nói, khổ thơ này là một trong những khổ thơ đặc
sắc nhất, kết tinh cho cả bài thơ Tây Tiến.
Tóm lại, khổ thơ thứ ba trong Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bất tử về
người lính Tây Tiến. Người lính ấy không chỉ là những chàng trai trẻ tuổi hào hoa mà còn là
những người anh hùng kiêu hãnh của đất nước. Họ mang trong mình tình yêu quê hương, tình
yêu đôi lứa, khát vọng hòa bình và lời thề quyết tâm hiến dâng cho Tổ quốc. Đó là một lý
tưởng thật cao đẹp, kiên trung, mỹ lệ. Và Quang Dũng đã khắc họa thật thành công hình tượng người lính đó!
Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 18
Quang Dũng – nhà thơ rất mực đa tình và tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Thơ ông mang cảm
xúc chủ đạo là nỗi nhớ về đoàn binh Tây Tiến, về núi rừng Tây Bắc. Bài thơ Tây Tiến với nỗi
nhớ dạt dào đã quay lại thời gian để chân dung những chiến binh hiện lên đầy hào hoa, dũng
cảm trong cảnh sắc thiên nhiên đậm chất thơ. Đặc biệt phải kể đến khổ thơ thứ ba với tất cả
sự hào hùng, bi tráng, lãng mạn.
Tây Tiến là một đơn vị mới được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ bảo vệ Tây Bắc Bộ
Việt Nam. Quang Dũng từng giữ vị trí chỉ huy đoàn binh Tây Tiến. Sau đó, ông chuyển công
tác và khi nỗi nhớ ùa về trong kí ức, tràn ngập trong trái tim, ông đã viết bài thơ Tây Tiến với
khúc độc hành của nỗi nhớ thương.
Nếu như đoạn thơ thứ hai mở ra khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc đầy mơ màng, thơ mộng
với vẻ đẹp thắm thiết, mặn mà của tình quân dân, thì đến đoạn thơ thứ ba chân dung người
lính được khắc họa rõ hơn bao giờ:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Người lính hiện lên đầy hào hùng, hào hoa vừa độc đáo vừa có phần kì lạ. Đoàn quân Tây
Tiến hoạt động chủ yếu ở vùng rừng núi hiểm trở, núi cao thì thật cao, vực sâu thì thăm thẳm,
bởi thế những trận sốt rét rừng khiến họ xanh xao, tiều tụy đến mức hình dáng cũng thay đổi
“không mọc tóc”, “xanh màu lá”… Thế nhưng khó khăn không thể đánh gục ý chí chiến đấu,
họ vẫn tràn đầy sinh khí oai hùng, biểu hiện cho tinh thần chiến đấu vững vàng dù hiểm nguy
vây quanh, dù bệnh tật đau đớn, dù cuộc sống khó khăn họ vẫn giữ vẻ oai phong của những
mãnh hổ nơi rừng thiêng. Vẻ oai phong được thể hiện qua ánh mắt giận dữ đầy sự căm thù và
khao khát lập công. Dường như vẻ oai hùng cũng khiến người lính có phần dữ dằn nhưng sau
vỏ bọc ấy là những tâm hồn luôn khao khát yêu thương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hai câu thơ như nuốt trọn hai thế giới ở trong mình, thế giới của giấc mộng chinh phục và
giấc mộng giai nhân. Ban ngày, người lính đưa ánh mắt sục sôi những căm thù của mình về
phía quân địch để quyết tâm chiến đấu và chiến thắng dệt nên mộng quân tử; ban đêm, những
chàng trai hào hoa gửi hồn mình để mơ dệt mộng giai nhân.
Tây Tiến và đoàn binh rất bi tráng trong những câu thơ tiếp theo:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Hình ảnh “mồ viễn xứ” là hình ảnh của cái chết, nói đến sự ra đi của người lính với những
nấm mồ nằm rải rác nơi biên giới xa xôi. Câu thơ gắn liền với sự bi thương, bi lụy thế nhưng
Quang Dũng không để người đọc chìm vào bi lụy nên câu thơ thứ hai ngay lập tức cân bằng
lại đầy khỏe khoắn và đặc biệt là triết lí sống mạnh mẽ “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”. Những người lính Tây Tiến dường như lường trước được điều gì sẽ xảy đến và họ
nguyện hiến dâng cả thanh xuân, cả đời xanh của mình cho Tổ quốc và coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng. Tác giả dùng cách nói giảm nói tránh để sự hi sinh bớt nặng nề, bớt bi thương
trước hoàn cảnh thực tế vô cùng bi thảm. Khi người lính Tây Tiến ngã xuống, thậm chí
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
không có một manh chiếu che thân, sống sao chết vậy. Con sông Mã đã từng chứng kiến biết
bao vui buồn của cuộc đời người lính đã tấu lên khúc nhạc bi tráng vừa hào hùng, dữ dội lại
vừa thương tiếc, ngậm ngùi để tiễn đưa người lính Tây Tiến về với đất mẹ thương yêu.
Như vậy, với ngòi bút lãng mạn và thủ pháp đối lập đoạn thơ đã cho ta thấy rõ hình ảnh
người lính Tây Tiến gian khổ, khó khăn vẫn lẫm liệt oai phong trong gian lao thử thách, mất
mát, hy sinh vẫn hiên ngang, hào hoa, thanh lịch. Hình ảnh người lính được tác giả vẽ bằng
hai nét “bi” và “hùng”, từ đó phản ánh chân thực hiện thực khốc liệt đồng thời làm bật lên
tinh thần chiến đấu và chiến thắng của lớp lớp thanh niên Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt
Nam nói chung trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Chúng ta mãi không quên chân dung
những chàng lính dũng cảm như nhà thơ Thanh Thảo từng viết:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 19
Có thể nói, chiến tranh và người lính luôn là đề tài muôn thuở trong sáng tác văn chương.
Nhiều bài thơ, tiểu thuyết đã vẽ lên bức tranh gian khổ, hiểm nguy của cuộc kháng chiến và
qua đó thể hiện hình ảnh oai phong, kiên cường của người lính bộ đội cụ Hồ. Trong số những
tác phẩm ấy, “Tây Tiến” của Quang Dũng là một bài thơ tiêu biểu viết về người lính trong
kháng chiến chống Pháp với những vẻ đẹp bất khuất và đáng tự hào.
Bài thơ được sáng tác năm 1948 sau thắng lợi vẻ vang của chiến dịch thu đông Việt Bắc
thu đông 1947. Tây Tiến là tên của một đội quân chiến đấu được thành lập nhằm phối hợp
với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt-Lào. Địa bàn hoạt động của đội quân là ở miền tây
các tỉnh từ Mai Châu, Hòa Bình xuống Thanh Hóa. Quang Dũng là đại đội trưởng của đội
quân ấy. Năm 1947, ông chuyển đơn vị công tác và khi nhớ về đồng đội cũ đã thôi thúc ông
viết nên bài thơ “Tây Tiến” nghẹn ngào cảm xúc thân thương.
Bài thơ là một khúc ca vang dội vừa để miêu tả những gian khó mà đoàn quân Tây Tiến phải
đối đầu vừa để ngợi ca tinh thần của những người lính dũng cảm. Trong đó, khổ ba được cho
là khổ thơ miêu tả rõ ràng và sâu sắc nhất hình ảnh người lính cụ Hồ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Mở đầu khổ thơ là dáng vẻ bề ngoài khác lạ của đoàn quân.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mới đọc lên chắc hẳn nhiều người thấy khiếp sợ với hình ảnh những cái đầu trọc lốc,
không có tóc. Nhìn họ đâu giống anh bộ đội truyền thống. Thoạt đầu, đoàn quân “không mọc
tóc” ấy mang đến cho người đọc một sự ghê rợn, xa cách. Tuy nhiên, khi hiểu được ý nghĩa
thật sự thì ai cũng phải xót xa và nể phục. Đoàn binh ấy đại đa số thời gian là hoạt động ở
trong rừng với điều kiện thiếu thốn và nhiều dịch bệnh. Chính căn bệnh sốt rét nhưng lại
không có thuốc chữa đã làm họ bị rụng tóc và chẳng kịp mọc lên. Những mái tóc xanh mượt
của những chàng thanh niên đã không còn thay vào đó là cái đầu trọc lóc. Trong kháng chiến,
họ đã phải chịu biết bao khó khăn, gian khổ. Hiểu được điều đó, ai cũng phải xót thương và
thêm phần yêu quý những anh lính trẻ. Đoàn binh “không mọc tóc” ấy, trong gian khó vẫn
hừng hực khí thế và hiên ngang trước đất trời. Bước chân của họ vang dội, lẫm liệt trên mọi
nẻo đường. Và trong những tháng ngày ấy, vì thiếu thốn đến tận miếng ăn nên họ gầy đi,
xanh xao hơn. Bóng dáng họ hòa cùng màu xanh của núi rừng để tạo nên khí thế oai hùm
mạnh mẽ. Nhà thơ dùng hai hình ảnh đối lập hoàn toàn để nói lên sức mạnh và sự oai phong
của người lính dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 20
Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng thơ mộng, mỹ lệ của Tây
Bắc, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng tập thể những người lính Tây tiến với
một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm
Như ở trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ mà đến đây, cách tả người càng lạ
hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm
nghèo. Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Còn ở đây, nhắc đến hình ảnh "Đoàn binh không mọc tóc",tác giả đã gợi lại hình ảnh anh "vệ
trọc" một thời. Nhưng câu thơ còn có ý tả thực về một hiện thực trần trụi và khắc nghiệt:
những con suối độc,những trận sốt rét rừng đã làm cho người lính xanh xao, rụng tóc. Hình
ảnh lạ thường nhưng không hề quái đản. Người lính dù có tiều tụy nhưng vẫn ngời lên một
phẩm chất đẹp đẽ, kiêu hùng: "không mọc tóc" chứ không phải là "tóc không mọc". "Không
mọc tóc" có vẻ như là không thèm mọc tóc, không cần mọc tóc… thể hiện thái độ coi thường
gian nguy, vượt lên hoàn cảnh của người lính Tây tiến.
Ba tiếng "Dữ oai hùm" đặt cuối câu giống như tiếng dằn rất mạnh, khẳng định ý chí ngút trời,
tinh thần chiến đấu sôi sục của người lính. Câu thơ giống như cái hất đầu đầy kiêu hãnh, ngạo
nghễ người lính Tây Tiến thách thức gian khổ, chiến thắng gian khổ, trở thành người anh
hùng. Trong bài thơ có một cái tên thành thị, hoa lệ: Hà Nội, nhưng đó không phải là một cái
mốc có thật trên đường Tây Tiến mà ở đây trở thành một mốc có thật trên đường Tây Tiến
mà ở đây trở thành một mốc của độ cao bởi giấc mơ kia chính là một đỉnh điểm. Câu thơ diễn
tả tinh tế chân thật tâm lý của những người lính ra đi từ thủ đô. Hình ảnh Hà Nội và dáng
kiều thơm hiện về trong đêm mơ không làm cho họ nản lòng, thối chí mà ngược lại là nguồn
động viên, cổ vũ đối với các chiến sĩ. Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức
cho họ trong cuộc chiến đấu gian nan. Nó là động lực tinh thần giúp người lính băng qua
những tháng ngày chiến tranh gian lao của đời mình.
Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem đến cho nó một vẻ hào hùng lẫm liệt và sang trọng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng "biên cương","viễn xứ" đã làm cho những nấm mồ
chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành những nấm mồ chí tôn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người
đã chết "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đời xanh tuổi trẻ biết bao nhiêu là hoa mộng
nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ
nhàng và thanh thản vô cùng. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh "da ngựa bọc thây"
đầy vinh quang thì người lính tây tiến với hình ảnh "áo bào thay chiếu" đấy sức mạnh ngợi
ca. Thực tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có,
huống chi là "áo bào". Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo
ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính.
Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh lẽo như trong
thơ của Đặng Trần Côn:"Hồn tử sĩ gió ù ù thổi" mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng
tráng:"Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn tử sĩ dội
lên từ chữ "gầm". Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ dội, oai hùng của nó, vừa là để đưa
tiễn hồn người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên tầm sử thi hoành tráng. Các
anh ra đi và lại trở về với đất mẹ, về với những người anh hùng dân tộc đã ngã xuống, là tiếp
nối truyền thống cha ông. Và phải chăng tiếng gầm của dòng sông Mã cũng chính là tiếng
lòng của người còn sống? Bởi cái chết của đồng đội không làm họ chùn bước mà chỉ làm
tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù.
Document Outline

  • Dàn ý phân tích khổ 3 Tây Tiến
  • Dàn ý phân tích Tây Tiến khổ 3
  • Dàn ý phân tích đoạn 3 Tây Tiến
  • Phân tích bài thơ Tây Tiến đoạn 3 - Mẫu 2
  • Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 3
  • Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 4
  • Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 5
  • Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 6
  • Phân tích khổ 3 Tây Tiến - Mẫu 7
  • Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 8
  • Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 9
  • Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 10
  • Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 11
  • Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 12
  • Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 13
  • Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 14
  • Phân tích Tây Tiến khổ 3 - Mẫu 15
  • Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 16
  • Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 17
  • Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến - Mẫu 18
  • Phân tích đoạn 3 Tây Tiến - Mẫu 20