Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay chọn lọc | Văn mẫu 12

Phân tích khổ cuối Tây Tiến của Quang Dũng mang đến 3 gợi ý cách viết kèm theo 10 mẫu cực hay. Giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức biết cách phân tích đánh giá đoạn thơ và thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc.

Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Dàn ý phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến
Dàn ý 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm: Bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những tháng ngày đã qua
đồng thời cũng thể hiện ý chí quyết tâm, và tinh thần hi sinh cao đẹp của của người
lính, tinh thần ấy được thể hiện rõ nét qua khổ thơ cuối của bài thơ.
2. Thân bài
Hai câu thơ đầu, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện quyết tâm, tưởng chung của
những người lính trong binh đoàn Tây Tiến.
“Người đi không hẹn ước” là tinh thần chiến đấu tự nguyện, quả cảm.
Lí tưởng cứu nước, tinh thần xả thân ấy thật đẹp đẽ, thật thiêng liêng biết
bao, vì dân tộc, tổ quốc họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính
toán cho mình “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
“Đường lên thăm thẳm một chia phôi” bước chân của người lính Tây Tiến bước
qua bao núi, bao đèo cuộc hành quân càng tiến lên phía trước t những bản
làng mờ sương cũng mờ ảo và lùi dần về phía sau.
– Cuộc chiến đấu căng thẳng, khốc liệt lại thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, thiếu
thốn khiến cho hành trình chiến đấu khó khăn, tử thần rình rập làm cho hi vọng trở
về càng mong manh.
Hai câu thơ cuối càng khắc sâu hơn v tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho
nghiệp lớn của binh đoàn Tây Tiến
“Mùa xuân ấy” là mùa xuân năm 1947 khi binh đoàn Tây Tiến được thành
lập, cũng có thể là mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình.
“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” những người lính dẫu hi sinh nhưng vẫn
mang nguyện ước thật đẹp, hòa vào khí thiêng sông núi để mãi bảo vệ cho tổ
quốc, non sông.
3. Kết bài
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Khổ thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về tưởng tinh thần hi sinh cao
đẹp của những người lính Tây Tiến đồng thời hoàn thiện cho bức chân dung đẹp
đẽ, đáng trân trọng của những người lính trong kháng chiến.
Dàn ý 2
I. Mở bài
- Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất của Quang Dũng. Bài thơ được viết
năm 1984, ở làng Phù Lưu Chanh khi ông tạm xa đơn vị một thời gian.
- Đoàn quân Tây Tiến được thành lập mùa xuân năm 1947, chiến của đơn vị
phần đông là người Hà Nội.
- Nội dung chủ yếu của bài thơ khắc họa người lính hào hoa và vẻ đẹp bi tráng.
- Trích đoạn phần cuối bài thơ, thể hiện cảm nghĩ của tác giả về đoàn quân
tình cảm đồng đội trong những ngày tháng chiến đấu đầy kỉ niệm.
II. Thân bài
1. Tinh thần của đoàn quân Tây Tiến
- Người đi không hẹn ước -> ra đi chiến đấu không ước hẹn ngày về, tinh thần hi
sinh vì nước, xả thân vì nước. (Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh)
- Lí do:
Đường lên thăm thẳm một chia phôi: Mỗi bước chân hành quân đi lên, dốc
đèo và những bản làng mờ sương lùi lại phía sau. Hoàn cảnh chiến đấu rất
khắc nghiệt, có bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn nên hành trình chiến đấu là
những hi sinh tiếp nối, càng khó có hi vọng trở về.
Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai
đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để
đổi độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm súng ra chiến trường với tinh
thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
=> Ý thơ lột tả tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ, làm nổi bật phẩm
chất yêu nước anh hùng của họ.
- Do tinh thần bi tráng ấy mùa xuân thành lập đoàn quân trở thành một mốc
lịch sử ghi nhận công lao to lớn của những con người anh hùng bỏ mình nước.
Những trái tim linh hồn ấy còn lại với Sầm Nưa, tan vào với núi sông nên sẽ
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
bất tử với thời gian. Cách nói chẳng về xuôi thể hiện thái độ bất cần, khinh bạc, thể
hiện chất lãng tử kiêu hùng nên tinh thần hi sinh mang vẻ đẹp lãng mạn.
- Nghệ thuật dùng từ: không hẹn ước, chia phôi, hồn về kết hợp với giọng thơ nhẹ
nhàng mềm mại nên đoạn thơ nói về sự hi sinh lại thấm đượm chất lãng mạn. Đoạn
thơ cũng như bài thơ nói về cái chết nhưng không gieo vào lòng người đọc sự bi
quan mà gợi tinh thần lạc quan, tin tưởng.
2. Tâm tư của nhà thơ
- Tây Tiến người đi không hẹn ước -> Người đi đây tác giả. Tác giả đã ra đi
không hẹn ngày về lại đơn vị cũ. Trong khi đoàn binh hành quân càng về phía Tây
càng xa cách, hi vọng ngày gặp lại càng mong manh. Trong khoảng cách không
gian dịu vợi, nỗi nhớ đồng đội của nhà thơ càng tỏa ra mênh mông: Nhớ về rừng
núi nhớ chơi vơi.
- Nỗi nhớ trào lên trong lòng da diết bởi lẽ bao nhiêu k niệm chiến đấu với
đoàn quân kể từ mùa xuân ấy, do đó người đi xa tâm hồn vẫn gần gũi. Nhà thơ
nơi này tâm hồn đã gợi lại nơi Sầm Nưa trên kia, vẫn gắn với đoàn quân.
Sự phân thân ấy cho thấy tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của nhà thơ.
Giọng điệu trữ tình góp phần làm nổi rõ tiếng nói tình cảm của nhà thơ.
Đoạn thơ có hai giọng, giọng của đoàn binh được tác giả nói hộ và giọng
của tác giả nên nội dung đa nghĩa, tạo ra vẻ đẹp ngôn từ.
III. Kết bài
- Đoạn thơ sử dụng bút pháp lãng mạn để nhấn mạnh vẻ đẹp tinh thần hi sinh
tưởng mang màu sắc lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp chân dung của một
tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời lịch s bi tráng được khắc họa bởi bút
pháp tài hoa sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc.
- Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của Quang Dũng.
Dàn ý 3
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Giới thiệu đoạn 4
II. Thân bài
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
1. Khái quát:
“Tây Tiến” được xem là tác phẩm đỉnh cao của đời thơ Quang Dũng.
Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi
nhớ nồng nàn với Tây Tiến – đơn vị chiến đầu cũ – cũng là nỗi nhớ núi rừng rải về
miền Tây Tổ quốc có vẻ tuyệt kì mà Quang Dũng một thời gắn bó.
- Xuất xứ: tập “Mây đầu ô” (1986)
Nội dung: Không khí lãng mạn rất riêng của những ngày đầu kháng chiến, thế
dấn thân đầy kiêu hùng, quả cảm của người con Nội hào hoa, đa tình đã được
thể hiện đậm nét từng câu thơ chưa đầy chất nhạc, chất họa, vừa trang trọng, cổ
kính, vừa tươi tắn, trẻ trung.
- Vị trí đoạn 4: đoạn cuối cùng của bài thơ, là lời hẹn ước của tác giả
2. Phân tích
a) Hai câu đầu: Tinh thần của đoàn quân
Nhắc lại lời hẹn ước của đoàn quân Tây Tiến thuở lên đường: “Người đi không hẹn
ước”
- “Chí lớn chưa về bàn tay không” => Mang theo chí làm trai của những chinh phu
tráng sĩ thời xưa, ra đi không hẹn ngày trở về, ra đi vì nghĩa lớn (Liên hệ với “Tống
biệt hành” – Thâm Tâm).
“Đường lên thăm thẳm một chia phôi”: ý niệm của chung cả một thời kì, một thế
hệ con người về ý niệm của những bậc nam nhi quyết chí vì lí tưởng.
b) Hai câu sau:
“Mùa xuân ấy”:
Thời điểm đoàn quân Tây Tiến được thành lập
Mùa xuân của đời người: một thời gian khổ mà ân nghĩa, khó khăn mà hào
hùng.
Mùa xuân của những chiến thắng, của niềm vui lớn đất nước
- Một từ “ấy” mất đi chút rõ ràng nhưng mở ra mênh mông tình nghĩa
“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
+ Những người chiến sĩ đã bỏ mình trên đường hành quân, không còn cơ hội trở về
+ Tấm lòng, linh hồn vẫn mãi thuộc về mảnh đất ấy, nơi đậm tình đậm nghĩa ấy.
Dù ở nơi nào, những kỉ niệm, ân tình về đồng đội, anh tôi có nhau vẫn luôn ở trong
trái tim người lính.
Vừa là lời t nhắc nhở vừa sự duyệt lại của kí ức để đi đến khẳng định: không
thể quên những chặng đường đã qua, người đi nơi đâu vẫn gửi hồn về Sầm
Nứa. Bởi chặng đường đã qua kỉ niệm, đồng đội, sự hiến dâng, cuộc
đời riêng có dịp phát sáng trong cuộc đời chung của dân tộc, cách mạng.
c) Đánh giá
Nội dung: “Tây Tiến” tràn đầy nỗi nhớ, hay nói đúng hơn chính nỗi nhớ. Đó
cũng thể coi lời nguyện ước của một thế hệ thanh niên sẵn sàng hiến dâng cả
tuổi xanh của mình cho đất nước thân yêu.
- Nghệ thuật:
Thể “Cổ phong trường thiên” (một thể loại hành) để những tình cảm, cảm
xúc không bị bó buộc mà có thể trải dài theo đầu ngọn bút, trong những con
chữ.
Hình ảnh thơ giản dị, quen thuộc nhưng khi được ứng hiện vào nhau trong
sự sắp xếp của Quang Dũng lại đem đến hiệu quả không ngờ.
Nếu nói “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” thì “Tây Tiến” là một dẫn chứng
tiêu biểu. Với sự tài hoa trong cách sử dụng và sáng tạo từ ngữ, Quang Dũng khiến
người đọc như “ngậm nhạc trong miệng”, như thưởng tranh trong chữ.
Đó chính phong vị rất riêng của thơ Quang Dũng: vừa dung dị, vừa bay bổng,
không đẽo gọt cầu kì mà mới lạ đến đáng ngạc nhiên!
III. Kết bài
- Đánh giá lại vấn đề
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 1
Bài thơ “Tây Tiến” một trong số những bài thơ đặc sắc nhất của nhà thơ Quang
Dũng mà người đọc ấn tượng nhất. Bài thơ được viết năm 1948. Cảm xúc bao trùm
toàn bộ bài thơ một nỗi nhớ bất tận. Qua nỗi nhớ ấy, những hình ảnh núi rừng
Tây Bắc hùng hiểm trở dữ dội hiện lên như một bức tranh khổng lồ hoành
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
tráng. trong bài thơ này , ông cũng không quên lột tả tất cả những gian khổ hi
sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ điều thể hiện bằng một ngòi bút cực
lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng nhiên trở thành cái hùng tráng.
Khổ cuối của bài thơ cũng rất thật đặc sắc, gói gọn tình cảm chân thật của nhà thơ
vào những câu chữ sau:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Đúng vậy, đoàn binh Tây Tiến mang trên mình sứ mệnh bảo v quê hương đất
nước. Họ luôn dốc toàn bộ sức lực của mình có được. Hàng ngày họ vẫn phải chiến
đấu ác liệt với kẻ thù nguy hiểm, họ còn phải quật cường trước thiên nhiên hiểm
trở với những căn bệnh thời tiết, đói nhưng họ vẫn luôn oai nghiêm hùng dũng
vượt lên bên trên tất cả. Họ là bức tượng của tinh thần yêu nước vĩ đại, quyết chiến
quyết thắng. Trước khi bước chân lên đường tham gia chiến đấu, họ chỉ những
cậu sinh viên thành với tuổi đời còn rất trẻ với nhiều hoài bão ước mơ. Khi
tổ quốc cần, họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả lên đường cầm súng chiến đấu với
tinh thần chiến đấu quả cảm. Họ biết ranh giới giữa sự sống cái chết mong
manh như sợi chỉ thể đứt bất cứ lúc nào. Họ lên đường chiến đấu, ra đi không
một lời hẹn ngày trở về. Họ trao cả mạng sống của mình cho Tổ quốc – nơi đã sinh
ra họ.
nơi núi rừng thiêng nước độc, mỗi bước chân hành quân của họ đều rất khó
khăn, nhiều gian truân. Họ vẫn đi, họ vượt qua dốc qua đèo hiểm trở, họ bỏ lại
những bản làng khuất dần sau rặng tre: “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”. Do
hoàn cảnh chiến đấu rất khắc nghiệt bao nhiêu gian khổ thiếu thốn cả về vật
chất tinh thần nên hành trình chiến đấu của họ dai dẳng không hồi kết. vậy một
tí hi vọng trở về là rất mong manh, ngày càng xa xôi khó nắm bắt được trong sự vô
vọng. Trong bối cảnh lịch sử của cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, với sự
đơn về khí của ta, sự nghèo nàn về mọi thứ khác nào lấy trứng chọi với đá.
Vì vậy sự hi sinh là điều không thể tránh khỏi. Họ phải vì tổ quốc quên thân vì dân
phục vụ, hi sinh tính mạng mình để đổi lấy độc lập tự do cho dân tộc. Bao nhiêu
thế hệ còn rất trẻ cầm súng lên đường chiến đấu chỉ với khẩu hiệu giản dị “Quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Họ cống hiến hết mình, họ hi sinh thầm lặng cho Tổ quốc không một lời kêu ca
hay phàn nàn đó bổn phận, trách nhiệm cao cả nghĩa vụ của người công
dân yêu nước nồng nàn, ý chí chiến đấu tinh thần thép cao cả. Hai câu thơ trên
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đã lột tả ý chí chiến đấu quật cường ấy, làm nổi bật lên tinh thần yêu nước anh
hùng của họ. Đối với nghệ thuật dùng từ “không hẹn ước”, “chia phôi” kết hợp với
giọng điệu chậm rãi nhẹ nhàng, Quang Dũng như lần nữa khắc họa sự hi sinh thầm
lặng cao cả của quân đoàn Tây Tiến. Nỗi nhớ dâng trào trong lòng nhà thơ để
ông tiếp tục chắp bút tô vẽ nên:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Ta thể thấy “mùa xuân” nhiều nghĩa. Đó mùa đẹp nhất trong một năm.
Đây cũng là thời điểm thành lập lên đoàn quân Tây Tiến. Mùa xuân là mùa của đất
nước. Nó cũng ẩn dụ cho tuổi trẻ của những người chiến sĩ đã một đi không trở lại.
Họ mang theo sức trẻ nhiệt huyết cháy bỏng của mình bước lên đường hành quân
chiến đấu. Tuy nhiên, họ đã hi sinh nhưng hồn của họ không về quê hương vội
vẫn còn sang nước bạn hợp lực tác chiến với quân dân Lào chống Pháp. Họ quyết
tâm thực hiện lí tưởng đến cuối cùng nên kể cả khi họ đã ngã xuống nhưng hồn của
họ vẫn chiến đấu tới cùng, vẫn đi cùng đồng đội, sống ở trong lòng họ mãi mãi. Đó
cũng là mang tính sử thi cao. Cả tuổi trẻ của họ chỉ với một mục tiêu chiến đấu bảo
vệ tổ quốc. Họ vẫn rong ruổi chiến đấu hết mình trên suốt cuộc hành trình khó
khăn ấy của mình. Phải chăng tình yêu quê hương đất nước của họ sâu đậm thấm
nhuần vào trong máu thịt đến nhường nào mới có thể bất diệt như vậy?
Tóm lại, với giọng điệu đằm thắm da diết, bốn câu thơ cuối được viết như những
dòng chữ tạc trên bia mộ của những người chiến gan dạ Tây Tiến. Đó hình
ảnh người chiến dũng cảm, nhiệt huyết, đến lúc ngã xuống vẫn giữ trọn lời thề
cho quê hương tổ quốc. Họnhững con người đau thương nhưng không bị bi lụy,
tràn đầy niềm tin tinh thần sôi sục nhiệt huyết căng tràn sức sống tuổi trẻ. Tây
Tiến xứng đáng là bài thơ tuyệt vời của Quang Dũng góp nhặt để lại cho thế hệ sau
này.
Phân tích khổ cuối Tây Tiến - Mẫu 2
Quang Dũng người làng Phượng Trì Tây nhưng ông chủ yếu sống
Nội. Ông là nghệ sĩ đa tài vừa làm thơ, vừa viết nhạ, họa nhưng thành công hơn cả
lĩnh vực thơ ca. Thơ ông thường tinh tế, nhẹ nhàng, sâu lắng. Trong những tác
phẩm ông viết, Tây Tiến một trong những tác phẩm đặc sắc để lại nhiều ấn
tượng trong lòng người đọc. Đặc biệt khổ cuối bài thơ lời hẹn trở về với Tây
tiến của tác giả đầy xúc động.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Đơn vị tây tiến được thành lập vào năm 1947 mục đích phối hợp với Lào để bảo vệ
biên cương Lào Việt, đích tiêu hao địch Thượng Lào để hỗ trợ cuộc kháng
chiến những vùng núi khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động tây tiến khá rộng, tất
cả đều những nơi hoang vu, hẻo lánh, hiểm trở, núi cao, sông rộng, rừng nhiều
thú dữ. Bộ đội đoàn quân Tây Tiến vô cùng vất vả, khó khăn với căn bệnh sốt rét,
thiếu lương thực, gầy xanh lét, họ chết vì bệnh tật còn nhiều hơn vì súng đạn, thậm
chí khi chết cũng không manh chiếu để đắp. Tuy nhiên, đoàn quân tây tiến rất
lạc quan, yêu đời, họ phần lớn thanh niên thành vẫn giữ được cốt cách hào
hoa, lãng mạng hào hùng.
Tác giả vốn đội trưởng của đoàn quân tây tiến, sau khi tạm biệt đoàn quân
đến chiến trường khác theo sự phân công của cấp trên, ông đã rất nhớ đoàn quân
tây tiến sáng tác nên bài thơ này. Trong khổ cuối bài thơ tưởng của đoàn
quân tây tiến và ngày hẹn gặp lại.
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Người đi không hẹn ước chính tinh thần tự nguyện quả cảm của người lính
tây tiến. Đã xác định ra chiến trường không hẹn ngày về. Đã từng một thế hệ
như vậy, một thế hệ với tưởng cứu nước, tinh thần xả thân thật đẹp đẽ , thật
thiêng liêng biết bao. dân tộc, họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn không chút
tính toán cho mình, họ sẵn sàng đi mà chẳng tiếc đời xanh.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng từng viết:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…
Sự ra đi quả quyết của họ khiến chúng ta phải ngưỡng mộ. độ tuổi họ ra chiến
trường lẽ cùng chạc tuổi 18, đôi mươi, tuổi trẻ nhiệt huyết còn bao nhiêu điều
tươi đẹp phía trước. Vậy họ vẫn đi dẫu biết “đường lên thăm thẳm một chia
phôi”, dẫu biết phía trước khó khăn, đến gần hơn cánh cửa t thần, nhưng vẫn
quyết tâm đi.
Hai câu thơ chính hình ảnh bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn
binh tây tiến. Đường lên thăm thẳm chính là những khó khăn chồng chất khó khăn,
đó điều kiện sinh hoạt cùng khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình gian
nan vất vả hơn, đó tử thần luôn rập rình khiến cho hi vọng trở về càng mong
manh.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Hai câu thơ cuois càng khắc sâu hơn tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp
lớn của đoàn binh tây tiến. Mùa xuân 1947, binh đoàn tây tiến được thành lập
cũng thể mùa xuân sáng lạn nhất của đất nước khi hòa bình. Đoàn quân tây
tiến đã đi trong niềm hân hoan và hi vọng về lí tưởng của mình. Và dẫu cho hi sinh
nhưng vẫn mang những nguyện vọng thật đẹp hòa vào núi sông để mãi mãi bảo vệ
tổ quốc non sông.
Tinh thần của họ khiến ta liên tưởng tới những dòng thơ của nhà thơ Trần Bá Căn:
Có một thời để nhớ mãi trong tôi
Đã tiến bước dưới quân kì quyết thắng
Bất chấp đạn bom, kể chi trời mưa nắng
Súng chắc tay- thời đó mãi sao quên.
Đối với họ một thời như thế đó, bất chấp bom đạn, hi sinh sẵn sàng ra chiến
trường tưởng của mình. mục đích cuối cùng đánh đuổi kthù mang lại
hòa bình cho dân tộc, gần hơn đó mang lại sự bình yên hạnh phúc cho chính
những người thân của mình.
một thời như thế những người lính đã như thế. Người lính Tây Tiến của
Quang Dũng cũng mang tưởng n vậy, dẫu hi sinh vẫn dõi theo nhau, quyết
không về xuôi, hòa mình vào núi rừng để luôn ở bên đồng đội.
Quang dũng đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng tinh thần hi sinh
cao đẹp của người lính Tây Tiến. Dưới ngòi bút của nhà thơ tài hoa, đoàn quần tây
tiến được khắc lenen tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời lịch sử bi tráng.
Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí đồng đội thắm thiết của Quãng Dũng.
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 3
Một bản nhạc hay là một bản nhạc không chỉ đoạn điệp khúc hay đoạn mở đầu hay
mà đoạn cuối cũng phải hay, một tác phẩm văn học haymột tác phẩm không chỉ
hay phần mở đầu, phần nội dung phần kết thúc cũng mang tính gợi mở hay
hướng người đọc tưởng tượng đến một viễn cảnh nọ. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ
Quang Dũng những đoạn nói về những cuộc hành quân gian khổ, những đêm
liên hoan văn nghệ hay bức tượng đài người lính Tây Tiến rất ý nghĩa, rất hay. Thế
nhưng lại có rất ít người biết rằng bốn câu thơ cuối bài thơ cũng rất đáng được chú
ý. Bởi đây là một đoạn thơ thể hiện được tấm lòng của nhà thơ dành cho Tây Tiến.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hai câu thơ đầu thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn
sống và những người đã ngã xuống:
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Những người lính cùng những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn
binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều những người xa lạ, họ không hẹn
nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về. Đoàn
quân Tây Tiến chính nơi gắn kết họ lại thành một gia đình, thành những anh em
gắn khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang Dũng một mình đối mặt với nỗi
nhớ thương đồng đối, đối mặt với những sự hi sinh của đồng đội mình nơi biên
cương cửa ải. Nhà thơ càng cảm thấy nhớ, càng cảm thấy yêu q đơn vị của
mình. Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cũng một nỗi
niềm như người lính Tây Tiến, tnhững người xa lạ người lính Việt Nam gắn kết
với nhau như anh em:
Tôi với anh đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Đường đi của Tây Tiến càng đi là càng chia phôi, giữa cái ác liệt của chiến tranh,
giữa sự tàn ác của giặc khốn nạn họ không xác định sự chia phôi vừa lớn, vừa
thăm thẳm như ngàn thước của núi cao kia. Những người đồng đội của Quang
Dũng đã đi và không hẹn ngày trở lại.
Trước thực tế hiện tại, xuất phát t tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo
sơn, từ những k niệm nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của
mình luôn gắn bó với Sầm Nứa:
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
“ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác định. Có
lẽ nhà thơ cố tình nói như thế để thay mặt cho tất cả những người lính trong đoàn
quân Tây Tiến còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa. Họ không sinh ra
mảnh đất biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn tâm hồn
mình với nó. Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm của Tây Tiến, cũng
nơi đó biết bao nhiêu nấm mồ của những người anh hùng Tây Tiến “dãi dầu” cuộc
đời mà nằm lại.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Đúng n nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Khi ta chỉ nơi đất ở/ Khi ta đi đất
bỗng hóa tâm hồn”. Nhà thơ Quang Dũng những người lính Tây Tiến không
sinh ra mảnh đất biên cương Sầm Nứa nhưng những kỉ niệm họ đó, thời
gian hoạt động dẫu gian nan vất vả nhưng khi qua rồi in dấu trong lòng họ
sâu đậm. Đoạn thơ thể hiện được tâm tình của nhà thơ dành cho mảnh đất
con người nơi biên cương cửa ải.
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 4
Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung
lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh),
đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất khứ
bất phục hoàn". Đó lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ "Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau
những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó "Hồn về
Sầm Nứa chẳng về xuôi". Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh,
người chiến trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại âm điệu của
vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
những bài thơ một thời nhưng cũng một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không
tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó "Đèo cả" của Hữu Loan,
"Nhớ" của Hồng Nguyên, "Đồng Chí" của Chính Hữu. "Tây Tiến"của Quang Dũng
"Tây Tiến" một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến cầm súng
bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với
bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ,
Quang Dũng đã khắc chạm vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người
chiến danh Thăng Long Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước
linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết
ơn và kính phục nhà thơ và những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 5
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bài thơ “Tây Tiến” một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Quang Dũng
người đọc ấn tượng nhất. Bài thơ viết năm 1948. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ
là một nỗi nhớ. Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ hiểm trở và dữ
dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. trong bài thơ, ông cũng không
quên lột tả trần trụi những gian khổ hi sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều nó
thể hiện bằng một ngòi bút lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở
thành cái hùng tráng. Khổ cuối bài thơ cũng rất đặc sắc, gói gọn tình cảm của nhà
thơ vào những câu chữ:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Thật vậy, đoàn binh Tây Tiến mang trên mình sứ mệnh bảo vệ quê hương tổ quốc.
Họ luôn dốc toàn bộ sức lực của mình. Họ hàng ngày vẫn phải chiến đấu ác liệt với
kẻ thù nguy hiểm, họ còn phải quật cường trước thiên nhiên hiểm trở với những
căn bệnh sốt rét, đói nhưng họ vẫn oai nghiêm hùng dũng vượt lên trên tất cả. Họ
bức tượng cho tinh thần yêu nước vĩ đại, quyết chiến quyết thắng. Trước khi lên
đường tham gia chiến đấu, họ chỉ những cậu sinh viên thành với tuổi đời
còn rất trẻ, họ có hoài bão ước mơ. Khi tổ quốc gọi, họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất
cả lên đường cầm súng chiến đấu với tinh thần quả cảm. Họ biết ranh giới giữa sự
sống cái chết mong manh như sợi chỉ thể biến mất bất cứ lúc nào. Họ lên
đường chiến đấu, ra đi không hẹn ngày trở về. Họ trao mạng sống của mình cho Tổ
quốc - nơi đã sinh ra họ.
nơi rừng thiêng nước độc, mỗi bước chân hành quân của họ đều rất khó khăn,
nhiều gian truân. Họ vẫn đi, họ vượt qua dốc đèo hiểm trở, họ bỏ lại những bản
làng khuất dần sau rặng tre: “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”. Do hoàn cảnh
chiến đấu khắc nghiệt có bao nhiêu gian khổ thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần
nên hành trình chiến đấu của họ dai dẳng không có hồi kết. Vì vậy một tia hi vọng
trở về là rất mong manh, ngày càng xa xôi khó nắm bắt được trong vô vọng. Trong
bối cảnh lịch sử cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, với sự đơn về
khí của ta, sự nghèo nàn về vật chất khác nào lấy trứng chọi với đá. vậy sự hi
sinh không thể tránh khỏi. Họ phải nước quên thân vì dân phục vụ, hi sinh
tính mạng mình để đổi lấy độc lập tự do cho dân tộc. Bao nhiêu thế hệ trẻ cầm
súng lên đường chiến đấu chỉ với khẩu hiệu giản dị “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Họ cống hiến, họ hi sinh thầm lặng cho Tổ quốc không một lời kêu ca hay phàn
nàn đó bổn phận, trách nhiệm nghĩa vụ của một người công dân yêu nước
nồng nàn, có ý chí chiến đấu tinh thần thép cao cả. Hai câu thơ đã lột tả ý chí chiến
đấu quật cường ấy, làm nổi bật lên phẩm chất yêu nước anh hùng của họ.Với nghệ
thuật dùng từ “không hẹn ước”, “chia phôi” kết hợp với giọng điệu chậm rãi nhẹ
nhàng, Quang Dũng như lần nữa khắc họa sự hi sinh thầm lặng mà cao cả của đoàn
quân Tây Tiến. Nỗi nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ để ông tiếp tục chắp bút tô vẽ
nên:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
thể thấy “mùa xuân” nhiều nghĩa. Đó mùa đẹp nhất trong năm. Đây cũng
là thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến. Mùa xuân còn là mùa của đất nước.
cũng ẩn dụ cho tuổi trẻ của người chiến đã một đi không trở lại. Họ mang theo
sức trẻ nhiệt huyết cháy bỏng của mình lên đường hành quân chiến đấu. Tuy nhiên,
họ đã hi sinh nhưng hồn của họ không về quê hương vội vẫn còn lượn lsang
nước bạn hợp lực tác chiến với quân dân Lào chống Pháp. Họ quyết tâm thực hiện
tưởng đến cùng nên kể cả khi họ đã nxuống nhưng hồn của họ vẫn chiến đấu
tới cùng, vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng họ mãi mãi. Đó cũng mang tính s
thi cao. Cả tuổi trẻ của họ chỉ với mục tiêu chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Họ vẫn rong
ruổi chiến đấu trên suốt cuộc hành trình khó khăn ấy của mình. Phải chăng tình yêu
quê hương đất nước của họ sâu đậm thấm nhuần vào máu thịt đến nhường nào mới
có thể bất diệt như vậy?
Tóm lại, với giọng điệu trữ tình đằm thắm da diết, bốn câu thơ cuối được viết như
những dòng chữ tạc trên bia mộ của những người chiến gan dạ Tây Tiến. Đó
hình ảnh những người chiến sĩ dũng cảm, nhiệt huyết, đến lúc ngã xuống vẫn giữ
trọn lời thề với quê hương tổ quốc. Họ những con người đau thương nhưng
không bi lụy, tràn đầy niềm tin tinh thần sôi sục nhiệt huyết căng tràn sức sống
của tuổi trẻ. Tây Tiến xứng đáng bài thơ tuyệt vời của Quang Dũng góp nhặt đ
lại cho thế hệ sau.
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 6
Tây Tiến một trong những bài thơ được xem hay nhất của Quang Dũng. Bài
thơ được viết năm 1984, làng Phù Lưu Chanh khi ông tạm xa đơn vị một thời
gian. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập mùa xuân năm 1947, chiến sĩ của đơn vị
phần đông là người Hà Nội. Nội dung chủ yếu của bài thơ khắc họa người lính hào
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
hoa vẻ đẹp bi tráng. Đoạn cuối bài thơ Tây Tiến thể hiện cảm nghĩ của tác giả
về đoàn quân và tình cảm đồng đội trong những ngày tháng chiến đấu đầy kỉ niệm.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Tinh thần của đoàn quân Tây Tiến thể hiện trong khổ thơ này đó "Người đi
không hẹn ước” ra đi chiến đấu không ước hẹn ngày về, tinh thần hi sinh nước,
xả thân nước. Bởi lẽ, đường lên thăm thẳm một chia phôi: Mỗi bước chân hành
quân đi lên, dốc đèo và những bản làng mờ sương lùi lại phía sau. Hoàn cảnh chiến
đấu rất khắc nghiệt, bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn nên hành trình chiến đấu
những hi sinh tiếp nối, càng khó hi vọng trở về. Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt
nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi
đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm
súng ra chiến trường với tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ, làm nổi bật phẩm chất
yêu nước anh hùng của họ. Do tinh thần bi tráng ấy mùa xuân thành lập đoàn
quân trở thành một mốc lịch sử ghi nhận công lao to lớn của những con người anh
hùng b mình nước. Những trái tim linh hồn ấy còn lại với Sầm Nứa, tan
vào với núi sông nên sẽ bất tử với thời gian. Cách nói chẳng về xuôi thể hiện thái
độ bất cần, khinh bạc, thể hiện chất lãng tử kiêu hùng nên tinh thần hi sinh mang
vẻ đẹp lãng mạn. Nghệ thuật dùng từ rất dứt khoát “không hẹn ước, chia phôi, hồn
về” kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng mềm mại nên đoạn thơ nói về s hi sinh lại
thấm đượm chất lãng mạn của các chiến sĩ Tây Tiến.
Đoạn thơ cũng như bài thơ nói về cái chết nhưng không gieo vào lòng người đọc
sự bi ai gợi tinh thần bi tráng. Đoạn thơ còn bộc l tâm của nhà thơ: "Tây
Tiến người đi không hẹn ước". Người đi đây tác giả. Tác giả đã ra đi không
hẹn ngày v lại đơn vị cũ. Trong khi đoàn binh hành quân càng về phía Tây càng
xa cách, hi vọng ngày gặp lại càng mong manh. Trong khoảng cách không gian dịu
vợi, nỗi nhớ đồng đội của nhà thơ càng tỏa ra mênh mông: "Nhớ về rừng núi nhớ
chơi vơi". Nỗi nhớ trào lên trong lòng da diết bởi lẽ có bao nhiêu kỉ niệm chiến đấu
với đoàn quân kể từ mùa xuân ấy, do đó người đi xa tâm hồn vẫn gần gũi. Nhà
thơ nơi này tâm hồn đã gợi lại nơi Sầm Nứa trên kia, vẫn gắn với đoàn
quân. Sự phân thân ấy cho thấy tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của nhà thơ.
Giọng điệu trữ tình góp phần làm nổi tiếng nói tình cảm của nhà thơ. Đoạn thơ
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
có hai giọng, giọng của đoàn binh được tác giả nói hộ và giọng của tác giả nên nội
dung đa nghĩa, tạo ra vẻ đẹp ngôn từ.
Đoạn thơ cuối này sử dụng bút pháp lãng mạn để nhấn mạnh vẻ đẹp tinh thần hi
sinh tưởng mang màu sắc lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp chân
dung của một tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thờilịch sử bi tráng được khắc
họa bởi bút pháp tài hoa sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc. Đoạn thơ cũng bộc
lộ tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của Quang Dũng. Từ sự kết hợp một cách hài
hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức
chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái
quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân
tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.
Đó bức tượng đài được kết tinh tâm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy.
Đó bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với
những người đồng đội, đối với đất nước của mình. thế từ bức tượng đài đã vút
lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con
anh hùng ấy.
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 7
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
Như trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ đến đây, cách tả người
càng lạ hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn
bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” đã trực tiếp miêu tả
căn bệnh ấy:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Còn đây, nhắc đến hình ảnh “Đoàn binh không mọc tóc”, tác giả đã gợi lại hình
ảnh anh “vệ trọc” một thời. Nhưng câu thơ còn ý tả thực về một hiện thực trần
trụi khắc nghiệt: những con suối độc, những trận sốt rét rừng đã làm cho ngời
lính xanh xao, rụng tóc. Hình ảnh lạ thường nhưng không hề quái đản. Người lính
tiều tụy nhưng vẫn ngời lên một phẩm chất đẹp đẽ, kiêu hùng: “không mọc
tóc” chứ không phải “tóc không mọc”. “Không mọc tóc” vẻ như không
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
thèm mọc tóc, không cần mọc tóc… thể hiện thái độ coi thường gian nguy, vượt
lên hoàn cảnh của người lính Tây tiến. Ba tiếng “Dữ oai hùm” đặt cuối câu giống
như tiếng dằn rất mạnh, khẳng định ý chí ngút trời, tinh thần chiến đấu sôi sục của
người lính.Câu thơ giống như cái hất đầu đầy kiêu hãnh, ngạo nghễ người lính Tây
Tiến thách thức gian khổ, chiến thắng gian khổ, trở thành người anh hùng. Trong
bài thơ một cái tên thành thị, hoa lệ: Nội, nhưng đó không phải một cái
mốc thật trên đường Tây Tiến đây trở thành một mốc thật trên đường
Tây Tiến đây trở thành một mốc của độ cao bới giấc kia chính một
đỉnh điểm. Câu thơ diễn tả tinh tế chân thật tâm lý của những người lính ra đi từ
thủ đô. Hình ảnh Nội dáng kiều thơm hiện về trong đêm không làm cho
họ nản lòng, thối chí ngược lại nguồn động viên, cổ đối với các chiến sĩ.
Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức cho họ trong cuộc chiến đấu
gian nan. động lực tinh thần giúp người lính băng qua những tháng ngày
chiến tranh gian lao của đời mình.
Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem đến cho một vẻ
hào hùng lẫm liệt và sang trọng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng “biên cương”, ”viễn xứ” đã làm cho những
nấm mồ chiến được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành
những nấm mồ chí tôn nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành
bi tráng bới nhân cách của người đã chết ”Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Đời xanh tuổi trẻ biết bao nhiêu hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ
quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng.
Nếu người tráng ngày xưa với hình ảnh “da ngựa bọc thây” đầy vinh quang thì
người lính Tây Tiến với hình ảnh “áo bào thay chiếu” đấy sức mạnh ngợi ca. Thực
tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không
có,huống chi “áo bào”. Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng
lãng mạn đã tạo ra Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển
trước cái chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến
không chìm trong cái lạnh lẽo như trong tcủa Đặng Trần Côn: ”Hồn t gió ù
ù thổi” mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng: ”Sông Mã gầm lên khúc
độc hành”.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Câu thơ vang dội như một khúc nhạc vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn
tử dội lên từ chữ “gầm”. Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc ddội, oai hùng của
nó, vừa để đưa tiễn hồn người chiến về nơi vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên
tầm sử thi hoành tráng. Các anh ra đi lại trở về với đất mẹ, vvới những người
anh hùng dân tộc đã ngã xuống, tiếp nối truyền thống cha ông. phải chăng
tiếng gầm của dòng sông Mã cũng chính là tiếng lòng của người còn sống? Bởi cái
chết của đồng đội không làm họ chùn bướcchỉ làm tăng thêm lòng quả cảm
chí căm thù.
Phân tích Tây Tiến khổ cuối - Mẫu 8
Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ phối hợp với quân đội
Lào chống Pháp. Nhà thơ Quang Dũng từng hoạt động trong binh đoàn Tây Tiến
nên ông những trải nghiệm sâu sắc về những tháng ngày chiến đấu gian khổ
nhưng đầy ắp kỉ niệm của người lính. Năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ
chuẩn bị nhận công tác đơn vị mới, ông đã viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ nỗi
nhớ về Tây Tiến, về những tháng ngày đã qua đồng thời cũng thể hiện ý chí quyết
tâm, tinh thần hi sinh cao đẹp của của người lính, tinh thần ấy được thể hiện
nét qua khổ thơ cuối của bài thơ.
Hai câu thơ đầu, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện quyết tâm, tưởng chung của
những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
“Người đi không hẹn ước” tinh thần chiến đấu tự nguyện, quả cảm. Những
người lính ra đi tưởng cứu nước cao đẹp, họ sẵn sàng hi sinh cả tuổi xuân, cả
mạng sống của bản thân cho tưởng ấy nên ra đi không hẹn ước ngày trở về.
Những người lính hiểu được s khốc liệt của chiến trường, sự cam go đầy khó
khăn, mất mát của cuộc kháng chiến trường kì. tưởng cứu nước, tinh thần xả
thân ấy thật đẹp đẽ, thật thiêng liêng biết bao, dân tộc, tổ quốc họ chấp nhận
dâng hiến trọn vẹn không chút tính toán cho mình “Chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh”.
“Đường lên thăm thẳm một chia phôi” bước chân của người lính Tây Tiến bước
qua bao núi, bao đèo cuộc hành quân càng tiến lên phía trước t những bản
làng mờ sương cũng mờ ảo lùi dần về phía sau. Cuộc chiến đấu căng thẳng,
khốc liệt lại thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình
chiến đấu khó khăn, tử thần rình rập làm cho hi vọng trở về càng mong manh.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hai câu thơ cuối càng khắc sâu hơn về tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho
nghiệp lớn của binh đoàn Tây Tiến:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Mang theo mình tình yêu nước, tưởng xả thân cao đẹp, những người lính Tây
Tiến muốn sống hết mình cho cuộc chiến đấu, cả khi hi sinh h cũng mong muốn
tan vào với hồn thiêng sông núi để tưởng, tình yêu ấy sẽ bất tử với thời gian.
“Mùa xuân ấy” mùa xuân năm 1947 khi binh đoàn Tây Tiến được thành lập,
cũng thể mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình. “Hồn về Sầm Nứa
chẳng về xuôi” những người lính dẫu hi sinh nhưng vẫn mang nguyện ước thật
đẹp, hòa vào khí thiêng sông núi để mãi bảo vệ cho tổ quốc, non sông.
Nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng hàng loạt từ mang sắc thái trang trọng “không
hẹn ước, chia phôi, hồn cùng giọng thơ nhẹ nhàng, mềm mại nên nói đến shi
sinh, mất mát nhưng khổ thơ không gieo vào lòng người đọc những mất mát, bi lụy
mà thấm đẫm chất lãng mạn, gợi ra niềm tin và tinh thần lạc quan.
Khổ thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về tưởng tinh thần hi sinh cao
đẹp của những người lính Tây Tiến đồng thời hoàn thiện cho bức chân dung đẹp
đẽ, đáng trân trọng của những người lính trong kháng chiến.
Phân tích khổ cuối Tây Tiến - Mẫu 9
Mọi thứ thể bị lãng quên nhưng những người con đã hi sinh đất nước, dân
tộc thì mãi mãi được khắc ghi, sống mãi với thời gian. Những người lính vĩ đại của
dân tộc được khắc họa trong những áng văn thơ cũng sẽ là những bức tượng đài uy
nghiêm trường tồn mãi mãi với thời gian. Những người lính Tây Tiến trong bài t
Tây Tiến cũng là những người như vậy. Khổ cuối bài thơ một lần nữa khắc họa lên
những đặc điểm đáng quý của những người lính đó.
Quang Dũng viết Tây Tiến khi ông hồi tưởng lại những kỉ niệm về đồng đội,
những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những
người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi
mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Quang Dũng đã cho người đọc hình
dung ra những khó khăn gian khổ những người lính đã trải qua, tình cảm quân
dân gắn bó tha thiết.
Quang Dũng đã tạc dựng lên bức tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm
của mình. Với hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách
sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước,
của dân tộc. Bức tượng đài sừng sững theo thời gian, hiên ngang giữa núi rừng,
giữa bom đạn của kẻ thù.
Qua từng lời thơ, tác giả đã đậm cuộc sống gian khổ của những người lính Tây
Tiến. Giữa rừng thiêng nước độc, bom đạn của kẻ thù bắn phá, đoàn quân cũng
lúc đã thấy mệt mỏi:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi ”
Nhưng với tinh thần lạc quan, không sợ gian khổ, quyết chiến đấu cho tổ quốc,
những người lính ấy lại cảm thấy yêu đời, lại hòa mình vào trong khung cảnh hết
sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình
ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như rừng. Khắc họa lên người lính anh
hùng nhưng Quang Dũng không tránh miêu tả những khó khăn người lính
Tây Tiến vượt qua. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ
không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp cho d như nhiều người từng
nói). Cũng sốt rét rừng da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu
lá ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Khó khăn gian khổ là thế nhưng họ
vẫn vui, vẫn hi vọng niềm tin chiến thắng của dân tộc.
Bên trong những thân hình mệt mỏi, bệnh tật ấy họ còn chứa đựng cả một sức
mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Bằng lời thơ hết sức
chân thực của mình, Quang Dũng đã tả người lính với những nét khắc khổ tiều
tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng bên trong những con người ấy. Quang
Dũng đã sử dụng thủ pháp tương phản câu thơ “Quân xanh màu dữ oai hùm”
không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu
sắc văn hoá của dân tộc. Mỗi câu thơ của tác giả đã khiến người đọc nhận thấy
những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm. Không phải nhà thơ muốn “động vật
hoá” người lính Tây Tiến muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng
một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa, khiến chúng ta nhớ tới câu thơ của
Phạm Ngũ Lão.
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:
“Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân”
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Tác giả đã vận dụng những ý thơ của những người đi trước để xây dựng hình ảnh
những người lính đại tiếp nối truyền thống quý báu của dân tộc. Đọc câu thơ:
“Quân xanh màu dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng oai hùng của cả một
dân tộc vang khắp núi rừng.
Tuy họ phải trải qua những khó khăn gian khổ, cái chết thể đến bất cứ lúc nào
nhưng những người lính vẫn luôn yêu đời, vẫn lãng mạn.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Họ vẫn về Nội, với những người con gái đẹp, nơi cuộc sống yên bình,
độc lập. Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” niềm
thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Chính nhờ vẻ đẹp ấy của tâm
hồn người lính sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một
biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã cái nhìn hết
sức chân thực khi phát hiện ra bên trong những con người chiến đấu kiên cường
với ý chí sắt thép cũng chính con người một đời sống tâm hồn phong phú.
Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non
sông còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung
động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Nội
Thăng Long xưa.
Quang Dũng đã tạc lên những bức tượng đài người lính Tây Tiến bằng những
nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn.
Với câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu tách riêng ra người đọc sẽ cảm
nhận thấy cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến nơi “viễn xứ”, sẽ tạo
cảm giác như một nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ.
Nhưng câu thơ thứ hai đã làm cho âm hưởng bài thơ thêm hào hùng:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ này đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao
của đài tưởng niệm, nấm mộ của những người lính đã hiến dâng tuổi xanh của
mình cho đất nước. Trong thơ Quang Dũng luônmột sự nâng đỡ nhau của nhiều
hình ảnh như vậy.
Sự hi sinh ấy còn đáng trân trọng hơn khi Quang Dũng miêu tả:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Những người lính ấy khi sống chiến đấu đã phải chịu những khó khăn gian khổ khi
hi sinh họ cũng vẫn phải chịu thiếu thốn, cảnh tiễn đưa họ ra đi với bao thiếu thốn,
khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết sốt rét nhiều hơn chết
chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết
không có cả một chiếc quan tài, chỉ với chiếc áo bào thay chiếu mà thôi. Câu thơ tả
thực của Quang Dũng đã đẩy thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếuáo bào để cuộc
tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng người hiểu đến chiếc chiếu cũng
không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Có nhiều cách hiểu về hình ảnh này,
nhưng thế nào t người đọc cũng nhận ra cái bi tráng trong câu thơ, tạo nên
một hình tượng đẹp về người lính Tây Tiến.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Các anh về với đất, đồng đội đưa tiễn, núi sông đồng hành, chắc chắn sự hi
sinh cao cả của các anh sẽ được đời đời ghi nhớ, sẽ tấm gương cho thế hệ sau.
Đó là những lời nhắn nhủ mà Quang Dũng muốn gửi gắm tới đồng đội của mình.
Qua mỗi lời thơ Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người
lính cách mạng vừa chân thực vừa lãng mạn. Đó tình yêu của Quang Dũng đối
với những người đồng đội, đối với đất nước của mình, sự ca ngợi vẻ đẹp của
những con người đã chiến đấu hi sinh cho chúng ta có cuộc sống hôm nay.
Phân tích khổ cuối Tây Tiến - Mẫu 10
Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân dân ta chống thực dân Pháp bước sang
năm thứ 3. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng
đường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thách thức gian nan. Cuộc kháng
chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến hậu phương tràn ngập tinh
thần phấn chấn và quyết thắng.
Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số
bài thơ hay viết về "anh bộ đội Cụ Hồ" nối tiếp nhau xuất hiện: "Lên Tây Bắc" (Tố
Hữu), "Đồng chí" (Chính Hữu) , "Nhớ" (Nguyên Hồng)… "Tây Tiến" của
Quang Dũng.
Quang Dũng viết "Tây Tiến" vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con
sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân
yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ những kỉ
niệm đẹp một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của "bao chiến anh hùng" trong buổi đầu kháng
chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.
"Tây Tiến" phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt Lào,
miền Tây tỉnh Thanh Hóa Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của
"đoàn binh không mọc tóc" ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.
Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông
thương yêu:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi với".
Đã "xa rồi" nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó
nỗi nhớ "chơi vơi". Tiếng gọi "Tây Tiến ơi!" vang lên tha thiết như tiếng gọi
người thân yêu. Từ cảm "ơi!" bắt vần với từ láy "chơi với" tạo nên âm hưởng câu
thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan
rộng lan xa trong không gian. Hai chữ "xa rồi" như một tiếng thở dài đầy thương
nhớ, ứng với điệp từ "nhớ" trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của
người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông núi rừng miền Tây. Sau tiếng
gọi ấy, biết bao hoài niệm một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan
đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát,
Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến, không chỉ gợi lên bao
thương nhớ vơi đầy còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã,
thâm sơn cùng cốc,… gợi trí háo hức của những chàng trai "Từ thuở
mang gươm đi giữ nước Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long". Đoàn binh
hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước các chiến Tây Tiến
phải vượt qua. Dốc lên thì "khúc khuỷu" gập ghềnh, dốc xuống thì "thăm thẳm",
"heo hút" đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: "Dốc lên
khúc khuỷu, dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời". Đỉnh núi
sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình
ảnh: "súng ngửi trời" giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều
thi vị. khẳng định chí khí quyết tâm của người chiến chiếm lĩnh mọi tầm
cao đi tới: "Khó khăn nào cũng vượt qua Kẻ thù nào cũng đánh thắng!".
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: "Ngàn thước lên cao,
ngàn thước xuống". Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp
dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành 2 vế tiểu đối: "Ngàn thước lên cao // ngàn
thước xuống", hình tượng tcân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng n
mái nhà chọc trời được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ –
chiến sĩ.
cảnh đoàn quân đi trong mưa: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Câu thơ dệt
bằng những thanh liên tiếp, gợi sự êm dịu tươi mát của tâm hồn những người lính
trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người
chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền
lành và yêu thương, nơi các anh sẽ đến, đem xương máu lòng dũng cảm để
bảo vệ và giữ gìn.
Trước đây Đặng Trần Côn, trong "Chinh phụ ngâm" cũng đã viết về cảnh tượng
chiến trường:
"Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua,
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như dội
Nước lòng khe nẻo tuổi còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây…"
(Đoàn Thị Điểm dịch)
Thật hãi hùng khủng khiếp! Nhưng đó chỉ những ước lệ tượng trưng, những
tưởng tượng của nàng chinh phụ. Chàng chinh phu mới ngày nào đó còn "Thét roi
Cầu Vị ào ào gió thu", thì nay đã mệt mỏi, nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ vợ con héo
hon cả ruột. đặt 2 đoạn thơ cạnh nhau, ta mới cảm nhận được vẻ đẹp tráng chí
của "anh bộ đội Cụ Hồ", cảm nhận được cảm hứng lãng mạn trong thơ Quang
Dũng.
Ta trở lại đoạn thơ trong, gian khổ không chỉ núi cao dốc thẳm, không chỉ
mưa thác ngàn còn tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi
đại ngàn hoang vu:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"Chiều chiều…" rồi "đêm đêm" những âm thanh ấy, "thác gầm thét", "cọp trêu
người", luôn luôn chỉ rõ cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng
thiêng. Chất hào sảng trong tQuang Dũng lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây
hiểm nguy để đậm khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi
vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc cũng
can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, bang lên phía trước.
Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và chí khí con người được nâng cao hẳn lên
một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng không hề tránh khi nói đến sự hi sinh của
đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…".
Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hi sinh của người chiến tất
yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hi sinh
nhưng không chút bi lụy, thảm thương. "Bỏ quên đời" các anh coi cái chết nhẹ
tựa lông hồng.
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc
tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm. Vừa bâng khuâng vừa tự hào:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".
"Nhớ ôi!" tình cảm dạt dào, đó tiếng lòng của các chiến Tây Tiến "đoàn binh
không mọc tóc". Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với "cơm lên
khói", với "mùa em thơm nếp xôi" bao giờ quên? Hai tiếng "mùa em" một
sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu
thơ trở về uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp,
hương xôi, v"mùa em" tình quân dân ấy, sau này Chế Lan Viên viết trong bài
"Tiếng hát con tàu":
"Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương".
"Nhớ mùi hương", nhớ "cơm lên khói", nhớ "thơm nếp xôi" nhớ hương vị núi
rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân
yêu.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Mười bốn câu thơ trên đây phần đầu bài "Tây Tiến", một trong những bài thơ
hay nhất viết về người lính trong 9 tháng kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên
nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh người chiến can trường lạc
quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh "Chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh…". Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành
công kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi cảm hứng lãng mạn. Nửa thế
kỉ đã trôi qua, bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng, ngày một thêm sáng giá.
| 1/25

Preview text:

Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Dàn ý phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến Dàn ý 1 1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm: Bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những tháng ngày đã qua
đồng thời cũng thể hiện ý chí quyết tâm, và tinh thần hi sinh cao đẹp của của người
lính, tinh thần ấy được thể hiện rõ nét qua khổ thơ cuối của bài thơ. 2. Thân bài
– Hai câu thơ đầu, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện quyết tâm, lí tưởng chung của
những người lính trong binh đoàn Tây Tiến.
● “Người đi không hẹn ước” là tinh thần chiến đấu tự nguyện, quả cảm.
● Lí tưởng cứu nước, tinh thần xả thân ấy thật đẹp đẽ, thật thiêng liêng biết
bao, vì dân tộc, tổ quốc họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính
toán cho mình “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
– “Đường lên thăm thẳm một chia phôi” bước chân của người lính Tây Tiến bước
qua bao núi, bao đèo và cuộc hành quân càng tiến lên phía trước thì những bản
làng mờ sương cũng mờ ảo và lùi dần về phía sau.
– Cuộc chiến đấu căng thẳng, khốc liệt lại thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, thiếu
thốn khiến cho hành trình chiến đấu khó khăn, tử thần rình rập làm cho hi vọng trở về càng mong manh.
– Hai câu thơ cuối càng khắc sâu hơn về tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho
nghiệp lớn của binh đoàn Tây Tiến
● “Mùa xuân ấy” là mùa xuân năm 1947 khi binh đoàn Tây Tiến được thành
lập, cũng có thể là mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình.
● “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” những người lính dẫu hi sinh nhưng vẫn
mang nguyện ước thật đẹp, hòa vào khí thiêng sông núi để mãi bảo vệ cho tổ quốc, non sông. 3. Kết bài
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Khổ thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh cao
đẹp của những người lính Tây Tiến đồng thời hoàn thiện cho bức chân dung đẹp
đẽ, đáng trân trọng của những người lính trong kháng chiến. Dàn ý 2 I. Mở bài
- Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất của Quang Dũng. Bài thơ được viết
năm 1984, ở làng Phù Lưu Chanh khi ông tạm xa đơn vị một thời gian.
- Đoàn quân Tây Tiến được thành lập mùa xuân năm 1947, chiến sĩ của đơn vị
phần đông là người Hà Nội.
- Nội dung chủ yếu của bài thơ khắc họa người lính hào hoa và vẻ đẹp bi tráng.
- Trích đoạn ở phần cuối bài thơ, thể hiện cảm nghĩ của tác giả về đoàn quân và
tình cảm đồng đội trong những ngày tháng chiến đấu đầy kỉ niệm. II. Thân bài
1. Tinh thần của đoàn quân Tây Tiến
- Người đi không hẹn ước -> ra đi chiến đấu không ước hẹn ngày về, tinh thần hi
sinh vì nước, xả thân vì nước. (Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh) - Lí do:
● Đường lên thăm thẳm một chia phôi: Mỗi bước chân hành quân đi lên, dốc
đèo và những bản làng mờ sương lùi lại phía sau. Hoàn cảnh chiến đấu rất
khắc nghiệt, có bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn nên hành trình chiến đấu là
những hi sinh tiếp nối, càng khó có hi vọng trở về.
● Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai
đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để
đổi độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm súng ra chiến trường với tinh
thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
=> Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ, làm nổi bật phẩm
chất yêu nước anh hùng của họ.
- Do tinh thần bi tráng ấy mà mùa xuân thành lập đoàn quân trở thành một mốc
lịch sử ghi nhận công lao to lớn của những con người anh hùng bỏ mình vì nước.
Những trái tim và linh hồn ấy còn ở lại với Sầm Nưa, tan vào với núi sông nên sẽ
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
bất tử với thời gian. Cách nói chẳng về xuôi thể hiện thái độ bất cần, khinh bạc, thể
hiện chất lãng tử kiêu hùng nên tinh thần hi sinh mang vẻ đẹp lãng mạn.
- Nghệ thuật dùng từ: không hẹn ước, chia phôi, hồn về kết hợp với giọng thơ nhẹ
nhàng mềm mại nên đoạn thơ nói về sự hi sinh lại thấm đượm chất lãng mạn. Đoạn
thơ cũng như bài thơ nói về cái chết nhưng không gieo vào lòng người đọc sự bi
quan mà gợi tinh thần lạc quan, tin tưởng.
2. Tâm tư của nhà thơ
- Tây Tiến người đi không hẹn ước -> Người đi ở đây là tác giả. Tác giả đã ra đi
không hẹn ngày về lại đơn vị cũ. Trong khi đoàn binh hành quân càng về phía Tây
càng xa cách, hi vọng ngày gặp lại càng mong manh. Trong khoảng cách không
gian dịu vợi, nỗi nhớ đồng đội của nhà thơ càng tỏa ra mênh mông: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
- Nỗi nhớ trào lên trong lòng da diết bởi lẽ có bao nhiêu kỉ niệm chiến đấu với
đoàn quân kể từ mùa xuân ấy, do đó người đi xa mà tâm hồn vẫn gần gũi. Nhà thơ
ở nơi này mà tâm hồn đã gợi lại nơi Sầm Nưa trên kia, vẫn gắn bó với đoàn quân.
Sự phân thân ấy cho thấy tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của nhà thơ.
● Giọng điệu trữ tình góp phần làm nổi rõ tiếng nói tình cảm của nhà thơ.
● Đoạn thơ có hai giọng, giọng của đoàn binh được tác giả nói hộ và giọng
của tác giả nên nội dung đa nghĩa, tạo ra vẻ đẹp ngôn từ. III. Kết bài
- Đoạn thơ sử dụng bút pháp lãng mạn để nhấn mạnh vẻ đẹp tinh thần hi sinh vì lí
tưởng mang màu sắc lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp chân dung của một
tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng được khắc họa bởi bút
pháp tài hoa sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc.
- Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của Quang Dũng. Dàn ý 3 I. Mở bài
● Giới thiệu tác giả, tác phẩm ● Giới thiệu đoạn 4 II. Thân bài
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng 1. Khái quát:
“Tây Tiến” được xem là tác phẩm đỉnh cao của đời thơ Quang Dũng.
Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi
nhớ nồng nàn với Tây Tiến – đơn vị chiến đầu cũ – cũng là nỗi nhớ núi rừng rải về
miền Tây Tổ quốc có vẻ tuyệt kì mà Quang Dũng một thời gắn bó.
- Xuất xứ: tập “Mây đầu ô” (1986)
Nội dung: Không khí lãng mạn rất riêng của những ngày đầu kháng chiến, tư thế
dấn thân đầy kiêu hùng, quả cảm của người con Hà Nội hào hoa, đa tình đã được
thể hiện đậm nét ở từng câu thơ chưa đầy chất nhạc, chất họa, vừa trang trọng, cổ
kính, vừa tươi tắn, trẻ trung.
- Vị trí đoạn 4: đoạn cuối cùng của bài thơ, là lời hẹn ước của tác giả 2. Phân tích
a) Hai câu đầu: Tinh thần của đoàn quân
Nhắc lại lời hẹn ước của đoàn quân Tây Tiến thuở lên đường: “Người đi không hẹn ước”
- “Chí lớn chưa về bàn tay không” => Mang theo chí làm trai của những chinh phu
tráng sĩ thời xưa, ra đi không hẹn ngày trở về, ra đi vì nghĩa lớn (Liên hệ với “Tống
biệt hành” – Thâm Tâm).
“Đường lên thăm thẳm một chia phôi”: ý niệm của chung cả một thời kì, một thế
hệ con người về ý niệm của những bậc nam nhi quyết chí vì lí tưởng. b) Hai câu sau: “Mùa xuân ấy”:
● Thời điểm đoàn quân Tây Tiến được thành lập
● Mùa xuân của đời người: một thời gian khổ mà ân nghĩa, khó khăn mà hào hùng.
● Mùa xuân của những chiến thắng, của niềm vui lớn đất nước
- Một từ “ấy” mất đi chút rõ ràng nhưng mở ra mênh mông tình nghĩa
“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
+ Những người chiến sĩ đã bỏ mình trên đường hành quân, không còn cơ hội trở về
+ Tấm lòng, linh hồn vẫn mãi thuộc về mảnh đất ấy, nơi đậm tình đậm nghĩa ấy.
Dù ở nơi nào, những kỉ niệm, ân tình về đồng đội, anh tôi có nhau vẫn luôn ở trong trái tim người lính.
Vừa là lời tự nhắc nhở vừa là sự duyệt lại của kí ức để đi đến khẳng định: không
thể quên những chặng đường đã qua, người dù có đi nơi đâu vẫn gửi hồn về Sầm
Nứa. Bởi vì chặng đường đã qua là kỉ niệm, là đồng đội, là sự hiến dâng, là cuộc
đời riêng có dịp phát sáng trong cuộc đời chung của dân tộc, cách mạng. c) Đánh giá
Nội dung: “Tây Tiến” tràn đầy nỗi nhớ, hay nói đúng hơn chính là nỗi nhớ. Đó
cũng có thể coi là lời nguyện ước của một thế hệ thanh niên sẵn sàng hiến dâng cả
tuổi xanh của mình cho đất nước thân yêu. - Nghệ thuật:
● Thể “Cổ phong trường thiên” (một thể loại hành) để những tình cảm, cảm
xúc không bị bó buộc mà có thể trải dài theo đầu ngọn bút, trong những con chữ.
● Hình ảnh thơ giản dị, quen thuộc nhưng khi được ứng hiện vào nhau trong
sự sắp xếp của Quang Dũng lại đem đến hiệu quả không ngờ.
Nếu nói “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” thì “Tây Tiến” là một dẫn chứng
tiêu biểu. Với sự tài hoa trong cách sử dụng và sáng tạo từ ngữ, Quang Dũng khiến
người đọc như “ngậm nhạc trong miệng”, như thưởng tranh trong chữ.
Đó chính là phong vị rất riêng của thơ Quang Dũng: vừa dung dị, vừa bay bổng,
không đẽo gọt cầu kì mà mới lạ đến đáng ngạc nhiên! III. Kết bài
- Đánh giá lại vấn đề
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 1
Bài thơ “Tây Tiến” là một trong số những bài thơ đặc sắc nhất của nhà thơ Quang
Dũng mà người đọc ấn tượng nhất. Bài thơ được viết năm 1948. Cảm xúc bao trùm
toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ bất tận. Qua nỗi nhớ ấy, những hình ảnh núi rừng
Tây Bắc hùng vĩ hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh khổng lồ hoành
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
tráng. Và trong bài thơ này , ông cũng không quên lột tả tất cả những gian khổ hi
sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều nó thể hiện bằng một ngòi bút cực kì
lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng nhiên trở thành cái hùng tráng.
Khổ cuối của bài thơ cũng rất thật đặc sắc, gói gọn tình cảm chân thật của nhà thơ vào những câu chữ sau:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Đúng vậy, đoàn binh Tây Tiến mang trên mình sứ mệnh bảo vệ quê hương đất
nước. Họ luôn dốc toàn bộ sức lực của mình có được. Hàng ngày họ vẫn phải chiến
đấu ác liệt với kẻ thù nguy hiểm, họ còn phải quật cường trước thiên nhiên hiểm
trở với những căn bệnh thời tiết, đói nhưng họ vẫn luôn oai nghiêm hùng dũng
vượt lên bên trên tất cả. Họ là bức tượng của tinh thần yêu nước vĩ đại, quyết chiến
quyết thắng. Trước khi bước chân lên đường tham gia chiến đấu, họ chỉ là những
cô cậu sinh viên Hà thành với tuổi đời còn rất trẻ với nhiều hoài bão ước mơ. Khi
tổ quốc cần, họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả lên đường cầm súng chiến đấu với
tinh thần chiến đấu quả cảm. Họ biết ranh giới giữa sự sống và cái chết mong
manh như sợi chỉ có thể đứt bất cứ lúc nào. Họ lên đường chiến đấu, ra đi không
một lời hẹn ngày trở về. Họ trao cả mạng sống của mình cho Tổ quốc – nơi đã sinh ra họ.
Ở nơi núi rừng thiêng nước độc, mỗi bước chân hành quân của họ đều rất khó
khăn, nhiều gian truân. Họ vẫn đi, họ vượt qua dốc qua đèo hiểm trở, họ bỏ lại
những bản làng khuất dần sau rặng tre: “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”. Do
hoàn cảnh chiến đấu rất khắc nghiệt có bao nhiêu gian khổ thiếu thốn cả về vật
chất tinh thần nên hành trình chiến đấu của họ dai dẳng không hồi kết. Vì vậy một
tí hi vọng trở về là rất mong manh, ngày càng xa xôi khó nắm bắt được trong sự vô
vọng. Trong bối cảnh lịch sử của cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, với sự
đơn sơ về vũ khí của ta, sự nghèo nàn về mọi thứ khác nào lấy trứng chọi với đá.
Vì vậy sự hi sinh là điều không thể tránh khỏi. Họ phải vì tổ quốc quên thân vì dân
phục vụ, hi sinh tính mạng mình để đổi lấy độc lập tự do cho dân tộc. Bao nhiêu
thế hệ còn rất trẻ cầm súng lên đường chiến đấu chỉ với khẩu hiệu giản dị “Quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Họ cống hiến hết mình, họ hi sinh thầm lặng cho Tổ quốc không một lời kêu ca
hay phàn nàn mà đó là bổn phận, là trách nhiệm cao cả nghĩa vụ của người công
dân yêu nước nồng nàn, có ý chí chiến đấu tinh thần thép cao cả. Hai câu thơ trên
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
đã lột tả ý chí chiến đấu quật cường ấy, làm nổi bật lên tinh thần yêu nước anh
hùng của họ. Đối với nghệ thuật dùng từ “không hẹn ước”, “chia phôi” kết hợp với
giọng điệu chậm rãi nhẹ nhàng, Quang Dũng như lần nữa khắc họa sự hi sinh thầm
lặng mà cao cả của quân đoàn Tây Tiến. Nỗi nhớ dâng trào trong lòng nhà thơ để
ông tiếp tục chắp bút tô vẽ nên:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Ta có thể thấy “mùa xuân” có nhiều nghĩa. Đó là mùa đẹp nhất trong một năm.
Đây cũng là thời điểm thành lập lên đoàn quân Tây Tiến. Mùa xuân là mùa của đất
nước. Nó cũng ẩn dụ cho tuổi trẻ của những người chiến sĩ đã một đi không trở lại.
Họ mang theo sức trẻ nhiệt huyết cháy bỏng của mình bước lên đường hành quân
chiến đấu. Tuy nhiên, họ đã hi sinh nhưng hồn của họ không về quê hương vội mà
vẫn còn sang nước bạn hợp lực tác chiến với quân dân Lào chống Pháp. Họ quyết
tâm thực hiện lí tưởng đến cuối cùng nên kể cả khi họ đã ngã xuống nhưng hồn của
họ vẫn chiến đấu tới cùng, vẫn đi cùng đồng đội, sống ở trong lòng họ mãi mãi. Đó
cũng là mang tính sử thi cao. Cả tuổi trẻ của họ chỉ với một mục tiêu chiến đấu bảo
vệ tổ quốc. Họ vẫn rong ruổi chiến đấu hết mình trên suốt cuộc hành trình khó
khăn ấy của mình. Phải chăng tình yêu quê hương đất nước của họ sâu đậm thấm
nhuần vào trong máu thịt đến nhường nào mới có thể bất diệt như vậy?
Tóm lại, với giọng điệu đằm thắm da diết, bốn câu thơ cuối được viết như những
dòng chữ tạc trên bia mộ của những người chiến sĩ gan dạ Tây Tiến. Đó là hình
ảnh người chiến sĩ dũng cảm, nhiệt huyết, đến lúc ngã xuống vẫn giữ trọn lời thề
cho quê hương tổ quốc. Họ là những con người đau thương nhưng không bị bi lụy,
tràn đầy niềm tin và tinh thần sôi sục nhiệt huyết căng tràn sức sống tuổi trẻ. Tây
Tiến xứng đáng là bài thơ tuyệt vời của Quang Dũng góp nhặt để lại cho thế hệ sau này.
Phân tích khổ cuối Tây Tiến - Mẫu 2
Quang Dũng là người làng Phượng Trì ở Hà Tây nhưng ông chủ yếu sống ở Hà
Nội. Ông là nghệ sĩ đa tài vừa làm thơ, vừa viết nhạ, họa nhưng thành công hơn cả
là lĩnh vực thơ ca. Thơ ông thường tinh tế, nhẹ nhàng, sâu lắng. Trong những tác
phẩm mà ông viết, Tây Tiến là một trong những tác phẩm đặc sắc để lại nhiều ấn
tượng trong lòng người đọc. Đặc biệt khổ cuối bài thơ là lời hẹn và trở về với Tây
tiến của tác giả đầy xúc động.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Đơn vị tây tiến được thành lập vào năm 1947 mục đích phối hợp với Lào để bảo vệ
biên cương Lào – Việt, đích tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cuộc kháng
chiến những vùng núi khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động tây tiến khá rộng, tất
cả đều là những nơi hoang vu, hẻo lánh, hiểm trở, núi cao, sông rộng, rừng nhiều
thú dữ. Bộ đội đoàn quân Tây Tiến vô cùng vất vả, khó khăn với căn bệnh sốt rét,
thiếu lương thực, gầy xanh lét, họ chết vì bệnh tật còn nhiều hơn vì súng đạn, thậm
chí khi chết cũng không có manh chiếu để đắp. Tuy nhiên, đoàn quân tây tiến rất
lạc quan, yêu đời, họ phần lớn là thanh niên hà thành vẫn giữ được cốt cách hào hoa, lãng mạng hào hùng.
Tác giả vốn là đội trưởng của đoàn quân tây tiến, sau khi tạm biệt đoàn quân và
đến chiến trường khác theo sự phân công của cấp trên, ông đã rất nhớ đoàn quân
tây tiến và sáng tác nên bài thơ này. Trong khổ cuối bài thơ là lý tưởng của đoàn
quân tây tiến và ngày hẹn gặp lại.
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Người đi không hẹn ước chính là tinh thần tự nguyện và quả cảm của người lính
tây tiến. Đã xác định ra chiến trường là không hẹn ngày về. Đã từng có một thế hệ
như vậy, một thế hệ với lý tưởng cứu nước, tinh thần xả thân thật đẹp đẽ , thật
thiêng liêng biết bao. Vì dân tộc, họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút
tính toán cho mình, họ sẵn sàng đi mà chẳng tiếc đời xanh.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng từng viết:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…
Sự ra đi quả quyết của họ khiến chúng ta phải ngưỡng mộ. Ở độ tuổi họ ra chiến
trường có lẽ cùng chạc tuổi 18, đôi mươi, tuổi trẻ nhiệt huyết còn bao nhiêu điều
tươi đẹp phía trước. Vậy mà họ vẫn đi dẫu biết “đường lên thăm thẳm một chia
phôi”, dẫu biết phía trước là khó khăn, đến gần hơn cánh cửa tử thần, nhưng vẫn quyết tâm đi.
Hai câu thơ chính là hình ảnh bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn
binh tây tiến. Đường lên thăm thẳm chính là những khó khăn chồng chất khó khăn,
đó là điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình gian
nan vất vả hơn, đó là tử thần luôn rập rình khiến cho hi vọng trở về càng mong manh.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Hai câu thơ cuois càng khắc sâu hơn tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp
lớn của đoàn binh tây tiến. Mùa xuân 1947, binh đoàn tây tiến được thành lập và
cũng có thể là mùa xuân sáng lạn nhất của đất nước khi hòa bình. Đoàn quân tây
tiến đã đi trong niềm hân hoan và hi vọng về lí tưởng của mình. Và dẫu cho hi sinh
nhưng vẫn mang những nguyện vọng thật đẹp hòa vào núi sông để mãi mãi bảo vệ tổ quốc non sông.
Tinh thần của họ khiến ta liên tưởng tới những dòng thơ của nhà thơ Trần Bá Căn:
Có một thời để nhớ mãi trong tôi
Đã tiến bước dưới quân kì quyết thắng
Bất chấp đạn bom, kể chi trời mưa nắng
Súng chắc tay- thời đó mãi sao quên.
Đối với họ có một thời như thế đó, bất chấp bom đạn, hi sinh sẵn sàng ra chiến
trường vì lý tưởng của mình. Và mục đích cuối cùng là đánh đuổi kẻ thù mang lại
hòa bình cho dân tộc, gần hơn đó là mang lại sự bình yên hạnh phúc cho chính
những người thân của mình.
Có một thời như thế và có những người lính đã như thế. Người lính Tây Tiến của
Quang Dũng cũng mang lí tưởng như vậy, dẫu hi sinh vẫn dõi theo nhau, quyết
không về xuôi, hòa mình vào núi rừng để luôn ở bên đồng đội.
Quang dũng đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh
cao đẹp của người lính Tây Tiến. Dưới ngòi bút của nhà thơ tài hoa, đoàn quần tây
tiến được khắc lenen là tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng.
Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí đồng đội thắm thiết của Quãng Dũng.
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 3
Một bản nhạc hay là một bản nhạc không chỉ đoạn điệp khúc hay đoạn mở đầu hay
mà đoạn cuối cũng phải hay, một tác phẩm văn học hay là một tác phẩm không chỉ
hay phần mở đầu, phần nội dung và phần kết thúc cũng mang tính gợi mở hay
hướng người đọc tưởng tượng đến một viễn cảnh nọ. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ
Quang Dũng có những đoạn nói về những cuộc hành quân gian khổ, những đêm
liên hoan văn nghệ hay bức tượng đài người lính Tây Tiến rất ý nghĩa, rất hay. Thế
nhưng lại có rất ít người biết rằng bốn câu thơ cuối bài thơ cũng rất đáng được chú
ý. Bởi đây là một đoạn thơ thể hiện được tấm lòng của nhà thơ dành cho Tây Tiến.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hai câu thơ đầu thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn
sống và những người đã ngã xuống:
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn
binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ không hẹn
nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về. Đoàn
quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia đình, thành những anh em
gắn bó khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang Dũng một mình đối mặt với nỗi
nhớ thương đồng đối, đối mặt với những sự hi sinh của đồng đội mình nơi biên
cương cửa ải. Nhà thơ càng cảm thấy nhớ, càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của
mình. Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cũng có một nỗi
niềm như người lính Tây Tiến, từ những người xa lạ người lính Việt Nam gắn kết với nhau như anh em:
Tôi với anh đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Đường đi của Tây Tiến càng đi là càng chia phôi, giữa cái ác liệt của chiến tranh,
giữa sự tàn ác của lũ giặc khốn nạn họ không xác định sự chia phôi vừa lớn, vừa
thăm thẳm như ngàn thước của núi cao kia. Những người đồng đội của Quang
Dũng đã đi và không hẹn ngày trở lại.
Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo
sơn, từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của
mình luôn gắn bó với Sầm Nứa:
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
“ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác định. Có
lẽ nhà thơ cố tình nói như thế để thay mặt cho tất cả những người lính trong đoàn
quân Tây Tiến dù còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa. Họ không sinh ra ở
mảnh đất biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn bó tâm hồn
mình với nó. Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm của Tây Tiến, cũng ở
nơi đó biết bao nhiêu nấm mồ của những người anh hùng Tây Tiến “dãi dầu” cuộc đời mà nằm lại.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất
bỗng hóa tâm hồn”. Nhà thơ Quang Dũng và những người lính Tây Tiến không
sinh ra ở mảnh đất biên cương Sầm Nứa nhưng những kỉ niệm họ có ở đó, thời
gian hoạt động ở dẫu là gian nan vất vả nhưng khi qua rồi nó in dấu trong lòng họ
sâu đậm. Đoạn thơ thể hiện rõ được tâm tình của nhà thơ dành cho mảnh đất và
con người nơi biên cương cửa ải.
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 4
Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung
lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh),
đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất khứ
bất phục hoàn". Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ "Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau
những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó "Hồn về
Sầm Nứa chẳng về xuôi". Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh,
người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó
vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không
có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là "Đèo cả" của Hữu Loan, là
"Nhớ" của Hồng Nguyên, "Đồng Chí" của Chính Hữu. "Tây Tiến"của Quang Dũng
"Tây Tiến" là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng
bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với
bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ,
Quang Dũng đã khắc chạm vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người
chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước
linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết
ơn và kính phục nhà thơ và những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 5
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bài thơ “Tây Tiến” là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Quang Dũng mà
người đọc ấn tượng nhất. Bài thơ viết năm 1948. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ
là một nỗi nhớ. Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ hiểm trở và dữ
dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Và trong bài thơ, ông cũng không
quên lột tả trần trụi những gian khổ hi sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều nó
thể hiện bằng một ngòi bút lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở
thành cái hùng tráng. Khổ cuối bài thơ cũng rất đặc sắc, gói gọn tình cảm của nhà thơ vào những câu chữ:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Thật vậy, đoàn binh Tây Tiến mang trên mình sứ mệnh bảo vệ quê hương tổ quốc.
Họ luôn dốc toàn bộ sức lực của mình. Họ hàng ngày vẫn phải chiến đấu ác liệt với
kẻ thù nguy hiểm, họ còn phải quật cường trước thiên nhiên hiểm trở với những
căn bệnh sốt rét, đói nhưng họ vẫn oai nghiêm hùng dũng vượt lên trên tất cả. Họ
là bức tượng cho tinh thần yêu nước vĩ đại, quyết chiến quyết thắng. Trước khi lên
đường tham gia chiến đấu, họ chỉ là những cô cậu sinh viên Hà thành với tuổi đời
còn rất trẻ, họ có hoài bão ước mơ. Khi tổ quốc gọi, họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất
cả lên đường cầm súng chiến đấu với tinh thần quả cảm. Họ biết ranh giới giữa sự
sống và cái chết mong manh như sợi chỉ có thể biến mất bất cứ lúc nào. Họ lên
đường chiến đấu, ra đi không hẹn ngày trở về. Họ trao mạng sống của mình cho Tổ
quốc - nơi đã sinh ra họ.
Ở nơi rừng thiêng nước độc, mỗi bước chân hành quân của họ đều rất khó khăn,
nhiều gian truân. Họ vẫn đi, họ vượt qua dốc đèo hiểm trở, họ bỏ lại những bản
làng khuất dần sau rặng tre: “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”. Do hoàn cảnh
chiến đấu khắc nghiệt có bao nhiêu gian khổ thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần
nên hành trình chiến đấu của họ dai dẳng không có hồi kết. Vì vậy một tia hi vọng
trở về là rất mong manh, ngày càng xa xôi khó nắm bắt được trong vô vọng. Trong
bối cảnh lịch sử là cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, với sự đơn sơ về vũ
khí của ta, sự nghèo nàn về vật chất khác nào lấy trứng chọi với đá. Vì vậy sự hi
sinh là không thể tránh khỏi. Họ phải vì nước quên thân vì dân phục vụ, hi sinh
tính mạng mình để đổi lấy độc lập tự do cho dân tộc. Bao nhiêu thế hệ trẻ cầm
súng lên đường chiến đấu chỉ với khẩu hiệu giản dị “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Họ cống hiến, họ hi sinh thầm lặng cho Tổ quốc không một lời kêu ca hay phàn
nàn mà đó là bổn phận, là trách nhiệm nghĩa vụ của một người công dân yêu nước
nồng nàn, có ý chí chiến đấu tinh thần thép cao cả. Hai câu thơ đã lột tả ý chí chiến
đấu quật cường ấy, làm nổi bật lên phẩm chất yêu nước anh hùng của họ.Với nghệ
thuật dùng từ “không hẹn ước”, “chia phôi” kết hợp với giọng điệu chậm rãi nhẹ
nhàng, Quang Dũng như lần nữa khắc họa sự hi sinh thầm lặng mà cao cả của đoàn
quân Tây Tiến. Nỗi nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ để ông tiếp tục chắp bút tô vẽ nên:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Có thể thấy “mùa xuân” có nhiều nghĩa. Đó là mùa đẹp nhất trong năm. Đây cũng
là thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến. Mùa xuân còn là mùa của đất nước. Nó
cũng ẩn dụ cho tuổi trẻ của người chiến sĩ đã một đi không trở lại. Họ mang theo
sức trẻ nhiệt huyết cháy bỏng của mình lên đường hành quân chiến đấu. Tuy nhiên,
họ đã hi sinh nhưng hồn của họ không về quê hương vội mà vẫn còn lượn lờ sang
nước bạn hợp lực tác chiến với quân dân Lào chống Pháp. Họ quyết tâm thực hiện
lí tưởng đến cùng nên kể cả khi họ đã ngã xuống nhưng hồn của họ vẫn chiến đấu
tới cùng, vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng họ mãi mãi. Đó cũng mang tính sử
thi cao. Cả tuổi trẻ của họ chỉ với mục tiêu chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Họ vẫn rong
ruổi chiến đấu trên suốt cuộc hành trình khó khăn ấy của mình. Phải chăng tình yêu
quê hương đất nước của họ sâu đậm thấm nhuần vào máu thịt đến nhường nào mới
có thể bất diệt như vậy?
Tóm lại, với giọng điệu trữ tình đằm thắm da diết, bốn câu thơ cuối được viết như
những dòng chữ tạc trên bia mộ của những người chiến sĩ gan dạ Tây Tiến. Đó là
hình ảnh những người chiến sĩ dũng cảm, nhiệt huyết, đến lúc ngã xuống vẫn giữ
trọn lời thề với quê hương tổ quốc. Họ là những con người đau thương nhưng
không bi lụy, tràn đầy niềm tin và tinh thần sôi sục nhiệt huyết căng tràn sức sống
của tuổi trẻ. Tây Tiến xứng đáng là bài thơ tuyệt vời của Quang Dũng góp nhặt để lại cho thế hệ sau.
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 6
Tây Tiến là một trong những bài thơ được xem là hay nhất của Quang Dũng. Bài
thơ được viết năm 1984, ở làng Phù Lưu Chanh khi ông tạm xa đơn vị một thời
gian. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập mùa xuân năm 1947, chiến sĩ của đơn vị
phần đông là người Hà Nội. Nội dung chủ yếu của bài thơ khắc họa người lính hào
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
hoa và vẻ đẹp bi tráng. Đoạn cuối bài thơ Tây Tiến thể hiện cảm nghĩ của tác giả
về đoàn quân và tình cảm đồng đội trong những ngày tháng chiến đấu đầy kỉ niệm.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Tinh thần của đoàn quân Tây Tiến thể hiện trong khổ thơ này đó là "Người đi
không hẹn ước” ra đi chiến đấu không ước hẹn ngày về, tinh thần hi sinh vì nước,
xả thân vì nước. Bởi lẽ, đường lên thăm thẳm một chia phôi: Mỗi bước chân hành
quân đi lên, dốc đèo và những bản làng mờ sương lùi lại phía sau. Hoàn cảnh chiến
đấu rất khắc nghiệt, có bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn nên hành trình chiến đấu là
những hi sinh tiếp nối, càng khó có hi vọng trở về. Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt
nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi
đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm
súng ra chiến trường với tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ, làm nổi bật phẩm chất
yêu nước anh hùng của họ. Do tinh thần bi tráng ấy mà mùa xuân thành lập đoàn
quân trở thành một mốc lịch sử ghi nhận công lao to lớn của những con người anh
hùng bỏ mình vì nước. Những trái tim và linh hồn ấy còn ở lại với Sầm Nứa, tan
vào với núi sông nên sẽ bất tử với thời gian. Cách nói chẳng về xuôi thể hiện thái
độ bất cần, khinh bạc, thể hiện chất lãng tử kiêu hùng nên tinh thần hi sinh mang
vẻ đẹp lãng mạn. Nghệ thuật dùng từ rất dứt khoát “không hẹn ước, chia phôi, hồn
về” kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng mềm mại nên đoạn thơ nói về sự hi sinh lại
thấm đượm chất lãng mạn của các chiến sĩ Tây Tiến.
Đoạn thơ cũng như bài thơ nói về cái chết nhưng không gieo vào lòng người đọc
sự bi ai mà gợi tinh thần bi tráng. Đoạn thơ còn bộc lộ tâm tư của nhà thơ: "Tây
Tiến người đi không hẹn ước". Người đi ở đây là tác giả. Tác giả đã ra đi không
hẹn ngày về lại đơn vị cũ. Trong khi đoàn binh hành quân càng về phía Tây càng
xa cách, hi vọng ngày gặp lại càng mong manh. Trong khoảng cách không gian dịu
vợi, nỗi nhớ đồng đội của nhà thơ càng tỏa ra mênh mông: "Nhớ về rừng núi nhớ
chơi vơi". Nỗi nhớ trào lên trong lòng da diết bởi lẽ có bao nhiêu kỉ niệm chiến đấu
với đoàn quân kể từ mùa xuân ấy, do đó người đi xa mà tâm hồn vẫn gần gũi. Nhà
thơ ở nơi này mà tâm hồn đã gợi lại nơi Sầm Nứa trên kia, vẫn gắn bó với đoàn
quân. Sự phân thân ấy cho thấy tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của nhà thơ.
Giọng điệu trữ tình góp phần làm nổi rõ tiếng nói tình cảm của nhà thơ. Đoạn thơ
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
có hai giọng, giọng của đoàn binh được tác giả nói hộ và giọng của tác giả nên nội
dung đa nghĩa, tạo ra vẻ đẹp ngôn từ.
Đoạn thơ cuối này sử dụng bút pháp lãng mạn để nhấn mạnh vẻ đẹp tinh thần hi
sinh vì lí tưởng mang màu sắc lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp chân
dung của một tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng được khắc
họa bởi bút pháp tài hoa sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc. Đoạn thơ cũng bộc
lộ tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của Quang Dũng. Từ sự kết hợp một cách hài
hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức
chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái
quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân
tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.
Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy.
Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với
những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút
lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 7
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
Như ở trên đã thấy, cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ mà đến đây, cách tả người
càng lạ hơn. Thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn
bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Còn ở đây, nhắc đến hình ảnh “Đoàn binh không mọc tóc”, tác giả đã gợi lại hình
ảnh anh “vệ trọc” một thời. Nhưng câu thơ còn có ý tả thực về một hiện thực trần
trụi và khắc nghiệt: những con suối độc, những trận sốt rét rừng đã làm cho ngời
lính xanh xao, rụng tóc. Hình ảnh lạ thường nhưng không hề quái đản. Người lính
dù có tiều tụy nhưng vẫn ngời lên một phẩm chất đẹp đẽ, kiêu hùng: “không mọc
tóc” chứ không phải là “tóc không mọc”. “Không mọc tóc” có vẻ như là không
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
thèm mọc tóc, không cần mọc tóc… thể hiện thái độ coi thường gian nguy, vượt
lên hoàn cảnh của người lính Tây tiến. Ba tiếng “Dữ oai hùm” đặt cuối câu giống
như tiếng dằn rất mạnh, khẳng định ý chí ngút trời, tinh thần chiến đấu sôi sục của
người lính.Câu thơ giống như cái hất đầu đầy kiêu hãnh, ngạo nghễ người lính Tây
Tiến thách thức gian khổ, chiến thắng gian khổ, trở thành người anh hùng. Trong
bài thơ có một cái tên thành thị, hoa lệ: Hà Nội, nhưng đó không phải là một cái
mốc có thật trên đường Tây Tiến mà ở đây trở thành một mốc có thật trên đường
Tây Tiến mà ở đây trở thành một mốc của độ cao bới giấc mơ kia chính là một
đỉnh điểm. Câu thơ diễn tả tinh tế chân thật tâm lý của những người lính ra đi từ
thủ đô. Hình ảnh Hà Nội và dáng kiều thơm hiện về trong đêm mơ không làm cho
họ nản lòng, thối chí mà ngược lại là nguồn động viên, cổ vũ đối với các chiến sĩ.
Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức cho họ trong cuộc chiến đấu
gian nan. Nó là động lực tinh thần giúp người lính băng qua những tháng ngày
chiến tranh gian lao của đời mình.
Bốn câu thơ tiếp theo, tác giả nhìn thẳng vào cái bi nhưng đem đến cho nó một vẻ
hào hùng lẫm liệt và sang trọng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những từ Hán Việt cổ kính trang trọng “biên cương”, ”viễn xứ” đã làm cho những
nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành
những nấm mồ chí tôn nghiêm. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành
bi tráng bới nhân cách của người đã chết ”Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Đời xanh tuổi trẻ biết bao nhiêu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ
quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng.
Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh “da ngựa bọc thây” đầy vinh quang thì
người lính Tây Tiến với hình ảnh “áo bào thay chiếu” đấy sức mạnh ngợi ca. Thực
tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không
có,huống chi là “áo bào”. Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng
lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển
trước cái chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến
không chìm trong cái lạnh lẽo như trong thơ của Đặng Trần Côn: ”Hồn tử sĩ gió ù
ù thổi” mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng: ”Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ. Âm hưởng bi hùng của khúc chiêu hồn
tử sĩ dội lên từ chữ “gầm”. Thiên nhiên đã tấu lên khúc nhạc dữ dội, oai hùng của
nó, vừa là để đưa tiễn hồn người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên
tầm sử thi hoành tráng. Các anh ra đi và lại trở về với đất mẹ, về với những người
anh hùng dân tộc đã ngã xuống, là tiếp nối truyền thống cha ông. Và phải chăng
tiếng gầm của dòng sông Mã cũng chính là tiếng lòng của người còn sống? Bởi cái
chết của đồng đội không làm họ chùn bước mà chỉ làm tăng thêm lòng quả cảm và chí căm thù.
Phân tích Tây Tiến khổ cuối - Mẫu 8
Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ phối hợp với quân đội
Lào chống Pháp. Nhà thơ Quang Dũng từng hoạt động trong binh đoàn Tây Tiến
nên ông có những trải nghiệm sâu sắc về những tháng ngày chiến đấu gian khổ
nhưng đầy ắp kỉ niệm của người lính. Năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ
chuẩn bị nhận công tác ở đơn vị mới, ông đã viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ là nỗi
nhớ về Tây Tiến, về những tháng ngày đã qua đồng thời cũng thể hiện ý chí quyết
tâm, và tinh thần hi sinh cao đẹp của của người lính, tinh thần ấy được thể hiện rõ
nét qua khổ thơ cuối của bài thơ.
Hai câu thơ đầu, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện quyết tâm, lí tưởng chung của
những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
“Người đi không hẹn ước” là tinh thần chiến đấu tự nguyện, quả cảm. Những
người lính ra đi vì lí tưởng cứu nước cao đẹp, họ sẵn sàng hi sinh cả tuổi xuân, cả
mạng sống của bản thân cho lí tưởng ấy nên ra đi không hẹn ước ngày trở về.
Những người lính hiểu được sự khốc liệt của chiến trường, sự cam go đầy khó
khăn, mất mát của cuộc kháng chiến trường kì. Lí tưởng cứu nước, tinh thần xả
thân ấy thật đẹp đẽ, thật thiêng liêng biết bao, vì dân tộc, tổ quốc họ chấp nhận
dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính toán cho mình “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
“Đường lên thăm thẳm một chia phôi” bước chân của người lính Tây Tiến bước
qua bao núi, bao đèo và cuộc hành quân càng tiến lên phía trước thì những bản
làng mờ sương cũng mờ ảo và lùi dần về phía sau. Cuộc chiến đấu căng thẳng,
khốc liệt lại thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình
chiến đấu khó khăn, tử thần rình rập làm cho hi vọng trở về càng mong manh.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hai câu thơ cuối càng khắc sâu hơn về tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho
nghiệp lớn của binh đoàn Tây Tiến:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Mang theo mình tình yêu nước, lí tưởng xả thân cao đẹp, những người lính Tây
Tiến muốn sống hết mình cho cuộc chiến đấu, cả khi hi sinh họ cũng mong muốn
tan vào với hồn thiêng sông núi để lí tưởng, tình yêu ấy sẽ bất tử với thời gian.
“Mùa xuân ấy” là mùa xuân năm 1947 khi binh đoàn Tây Tiến được thành lập,
cũng có thể là mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình. “Hồn về Sầm Nứa
chẳng về xuôi” những người lính dẫu hi sinh nhưng vẫn mang nguyện ước thật
đẹp, hòa vào khí thiêng sông núi để mãi bảo vệ cho tổ quốc, non sông.
Nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng hàng loạt từ mang sắc thái trang trọng “không
hẹn ước, chia phôi, hồn cùng giọng thơ nhẹ nhàng, mềm mại nên dù nói đến sự hi
sinh, mất mát nhưng khổ thơ không gieo vào lòng người đọc những mất mát, bi lụy
mà thấm đẫm chất lãng mạn, gợi ra niềm tin và tinh thần lạc quan.
Khổ thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh cao
đẹp của những người lính Tây Tiến đồng thời hoàn thiện cho bức chân dung đẹp
đẽ, đáng trân trọng của những người lính trong kháng chiến.
Phân tích khổ cuối Tây Tiến - Mẫu 9
Mọi thứ có thể bị lãng quên nhưng những người con đã hi sinh vì đất nước, vì dân
tộc thì mãi mãi được khắc ghi, sống mãi với thời gian. Những người lính vĩ đại của
dân tộc được khắc họa trong những áng văn thơ cũng sẽ là những bức tượng đài uy
nghiêm trường tồn mãi mãi với thời gian. Những người lính Tây Tiến trong bài thơ
Tây Tiến cũng là những người như vậy. Khổ cuối bài thơ một lần nữa khắc họa lên
những đặc điểm đáng quý của những người lính đó.
Quang Dũng viết Tây Tiến khi ông hồi tưởng lại những kỉ niệm về đồng đội,
những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những
người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi
mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Quang Dũng đã cho người đọc hình
dung ra những khó khăn gian khổ mà những người lính đã trải qua, tình cảm quân dân gắn bó tha thiết.
Quang Dũng đã tạc dựng lên bức tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm
của mình. Với hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách
sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước,
của dân tộc. Bức tượng đài sừng sững theo thời gian, hiên ngang giữa núi rừng,
giữa bom đạn của kẻ thù.
Qua từng lời thơ, tác giả đã tô đậm cuộc sống gian khổ của những người lính Tây
Tiến. Giữa rừng thiêng nước độc, bom đạn của kẻ thù bắn phá, đoàn quân cũng có lúc đã thấy mệt mỏi:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi ”
Nhưng với tinh thần lạc quan, không sợ gian khổ, quyết chiến đấu cho tổ quốc,
những người lính ấy lại cảm thấy yêu đời, lại hòa mình vào trong khung cảnh hết
sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình
ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Khắc họa lên người lính anh
hùng nhưng Quang Dũng không né tránh miêu tả những khó khăn mà người lính
Tây Tiến vượt qua. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ
không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng
nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu
lá ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Khó khăn gian khổ là thế nhưng họ
vẫn vui, vẫn hi vọng niềm tin chiến thắng của dân tộc.
Bên trong những thân hình mệt mỏi, bệnh tật ấy họ còn chứa đựng cả một sức
mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Bằng lời thơ hết sức
chân thực của mình, Quang Dũng đã mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều
tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng bên trong những con người ấy. Quang
Dũng đã sử dụng thủ pháp tương phản ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu
sắc văn hoá của dân tộc. Mỗi câu thơ của tác giả đã khiến người đọc nhận thấy
những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm. Không phải nhà thơ muốn “động vật
hoá” người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng
một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa, khiến chúng ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão.
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:
“Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân”
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Tác giả đã vận dụng những ý thơ của những người đi trước để xây dựng hình ảnh
những người lính vĩ đại tiếp nối truyền thống quý báu của dân tộc. Đọc câu thơ:
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng oai hùng của cả một
dân tộc vang khắp núi rừng.
Tuy họ phải trải qua những khó khăn gian khổ, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào
nhưng những người lính vẫn luôn yêu đời, vẫn lãng mạn.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Họ vẫn mơ về Hà Nội, với những người con gái đẹp, nơi có cuộc sống yên bình,
độc lập. Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm
thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Chính nhờ vẻ đẹp ấy của tâm
hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một
biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã có cái nhìn hết
sức chân thực khi phát hiện ra bên trong những con người chiến đấu kiên cường
với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú.
Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non
sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung
động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.
Quang Dũng đã tạc lên những bức tượng đài người lính Tây Tiến bằng những
nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn.
Với câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu tách riêng ra người đọc sẽ cảm
nhận thấy cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi “viễn xứ”, nó sẽ tạo
cảm giác như một nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ.
Nhưng câu thơ thứ hai đã làm cho âm hưởng bài thơ thêm hào hùng:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ này đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao
của đài tưởng niệm, nấm mộ của những người lính đã hiến dâng tuổi xanh của
mình cho đất nước. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hi sinh ấy còn đáng trân trọng hơn khi Quang Dũng miêu tả:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Những người lính ấy khi sống chiến đấu đã phải chịu những khó khăn gian khổ khi
hi sinh họ cũng vẫn phải chịu thiếu thốn, cảnh tiễn đưa họ ra đi với bao thiếu thốn,
khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì
chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết
không có cả một chiếc quan tài, chỉ với chiếc áo bào thay chiếu mà thôi. Câu thơ tả
thực của Quang Dũng đã đẩy thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc
tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng
không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Có nhiều cách hiểu về hình ảnh này,
nhưng dù thế nào thì người đọc cũng nhận ra cái bi tráng trong câu thơ, tạo nên
một hình tượng đẹp về người lính Tây Tiến.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Các anh về với đất, có đồng đội đưa tiễn, có núi sông đồng hành, chắc chắn sự hi
sinh cao cả của các anh sẽ được đời đời ghi nhớ, sẽ là tấm gương cho thế hệ sau.
Đó là những lời nhắn nhủ mà Quang Dũng muốn gửi gắm tới đồng đội của mình.
Qua mỗi lời thơ Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người
lính cách mạng vừa chân thực vừa lãng mạn. Đó là tình yêu của Quang Dũng đối
với những người đồng đội, đối với đất nước của mình, là sự ca ngợi vẻ đẹp của
những con người đã chiến đấu hi sinh cho chúng ta có cuộc sống hôm nay.
Phân tích khổ cuối Tây Tiến - Mẫu 10
Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta chống thực dân Pháp bước sang
năm thứ 3. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng
đường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thách thức gian nan. Cuộc kháng
chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh
thần phấn chấn và quyết thắng.
Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số
bài thơ hay viết về "anh bộ đội Cụ Hồ" nối tiếp nhau xuất hiện: "Lên Tây Bắc" (Tố
Hữu), "Đồng chí" (Chính Hữu) , "Nhớ" (Nguyên Hồng)… và "Tây Tiến" của Quang Dũng.
Quang Dũng viết "Tây Tiến" vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con
sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân
yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ những kỉ
niệm đẹp một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của "bao chiến sĩ anh hùng" trong buổi đầu kháng
chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.
"Tây Tiến" là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào,
miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của
"đoàn binh không mọc tóc" ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.
Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi với".
Đã "xa rồi" nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó
là nỗi nhớ "chơi vơi". Tiếng gọi "Tây Tiến ơi!" vang lên tha thiết như tiếng gọi
người thân yêu. Từ cảm "ơi!" bắt vần với từ láy "chơi với" tạo nên âm hưởng câu
thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan
rộng lan xa trong không gian. Hai chữ "xa rồi" như một tiếng thở dài đầy thương
nhớ, hô ứng với điệp từ "nhớ" trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của
người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng
gọi ấy, biết bao hoài niệm một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà
đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát,
Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến, không chỉ gợi lên bao
thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã,
thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai "Từ thuở
mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long". Đoàn binh
hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến
phải vượt qua. Dốc lên thì "khúc khuỷu" gập ghềnh, dốc xuống thì "thăm thẳm",
"heo hút" đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: "Dốc lên
khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời". Đỉnh núi mù
sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình
ảnh: "súng ngửi trời" giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều
thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm
cao mà đi tới: "Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!".
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: "Ngàn thước lên cao,
ngàn thước xuống". Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp
dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành 2 vế tiểu đối: "Ngàn thước lên cao // ngàn
thước xuống", hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ như
mái nhà chọc trời được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Câu thơ dệt
bằng những thanh liên tiếp, gợi sự êm dịu tươi mát của tâm hồn những người lính
trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người
chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền
lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.
Trước đây Đặng Trần Côn, trong "Chinh phụ ngâm" cũng đã viết về cảnh tượng chiến trường:
"Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua,
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như dội
Nước lòng khe nẻo tuổi còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây…"
(Đoàn Thị Điểm dịch)
Thật là hãi hùng khủng khiếp! Nhưng đó chỉ là những ước lệ tượng trưng, những
tưởng tượng của nàng chinh phụ. Chàng chinh phu mới ngày nào đó còn "Thét roi
Cầu Vị ào ào gió thu", thì nay đã mệt mỏi, nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ vợ con héo
hon cả ruột. Có đặt 2 đoạn thơ cạnh nhau, ta mới cảm nhận được vẻ đẹp tráng chí
của "anh bộ đội Cụ Hồ", cảm nhận được cảm hứng lãng mạn trong thơ Quang Dũng.
Ta trở lại đoạn thơ trong, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là
mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
"Chiều chiều…" rồi "đêm đêm" những âm thanh ấy, "thác gầm thét", "cọp trêu
người", luôn luôn chỉ rõ cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng
thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây
hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi
vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng
can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, bang lên phía trước.
Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và chí khí con người được nâng cao hẳn lên
một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng không hề né tránh khi nói đến sự hi sinh của
đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…".
Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hi sinh của người chiến sĩ là tất
yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hi sinh
nhưng không chút bi lụy, thảm thương. "Bỏ quên đời" vì các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc
tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm. Vừa bâng khuâng vừa tự hào:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".
"Nhớ ôi!" tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến "đoàn binh
không mọc tóc". Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với "cơm lên
khói", với "mùa em thơm nếp xôi" có bao giờ quên? Hai tiếng "mùa em" là một
sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu
thơ trở về uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp,
hương xôi, về "mùa em" và tình quân dân ấy, sau này Chế Lan Viên viết trong bài "Tiếng hát con tàu":
"Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương".
"Nhớ mùi hương", nhớ "cơm lên khói", nhớ "thơm nếp xôi" là nhớ hương vị núi
rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài "Tây Tiến", một trong những bài thơ
hay nhất viết về người lính trong 9 tháng kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên
nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ can trường và lạc
quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh "Chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh…". Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành
công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế
kỉ đã trôi qua, bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng, ngày một thêm sáng giá.
Document Outline

  • Dàn ý phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến
    • Dàn ý 1
    • Dàn ý 2
    • Dàn ý 3
  • Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 1
  • Phân tích khổ cuối Tây Tiến - Mẫu 2
  • Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 3
  • Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 4
  • Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 5
  • Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 6
  • Phân tích đoạn 4 Tây Tiến - Mẫu 7
  • Phân tích Tây Tiến khổ cuối - Mẫu 8
  • Phân tích khổ cuối Tây Tiến - Mẫu 9
  • Phân tích khổ cuối Tây Tiến - Mẫu 10