Phân Tích Làng của Kim Lân | Ngữ Văn 12

Nói về quê hương, Raxun Gamzatov đã cho rằng rằng: "Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người". Điều đó muốn đưa ra một chân lý rằng, con người dù đi đến đâu cũng không thể quên được nguồn cội, quê hương. Đặc biệt là quê hương trong tâm khảm của người nông dân đã gắn bó máu thiệt với từng khóm tre, bờ ao, giếng nước, mái đình. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!          

Chủ đề:

Văn mẫu 12 634 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 12 1 K tài liệu

Thông tin:
6 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân Tích Làng của Kim Lân | Ngữ Văn 12

Nói về quê hương, Raxun Gamzatov đã cho rằng rằng: "Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người". Điều đó muốn đưa ra một chân lý rằng, con người dù đi đến đâu cũng không thể quên được nguồn cội, quê hương. Đặc biệt là quê hương trong tâm khảm của người nông dân đã gắn bó máu thiệt với từng khóm tre, bờ ao, giếng nước, mái đình. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!          

19 10 lượt tải Tải xuống
Phân tích Làng của Kim Lân
Nói về quê hương, Raxun Gamzatov đã cho rằng rằng: "Người ta chỉ thể tách con
người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người". Điều đó
muốn đưa ra một chân lý rằng, con người đi đến đâu cũng không thể quên được
nguồn cội, quê hương. Đặc biệt quê hương trong tâm khảm của người nông dân đã
gắn máu thiệt với từng khóm tre, bờ ao, giếng nước, mái đình. Cùng với đề tài viết
về nh yêu của người nông dân đối với quê hương, Kim Lân hướng tới khám phá cái
đẹp khỏe khoắn, đôn hậu, chất phác trong tâm hồn những người nông dân qua tác
phẩm truyện ngắn mang tên "Làng". Nói n cách nhận xét, bình phẩm của Nguyên
Hồng thì Kim Lân nhà văn của làng quê, của những người nông dân một lòng một
dạ đi với đất, với người, với sự thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống vùng thôn quê.
Tác phẩm ra đời năm 1948, được lấy bối cảnh từ cuộc tản cư trong thời kỳ kháng chiến
của nhân dân Bắc Bộ, Kim Lân xây dựng nhân vật ông Hai - người dân làng Chợ Dầu
theo kháng chiến tản đến vùng tạm trú. trong lúc tản cư, biết bao điều suy tư,
trăn trở về ngôi làng thân yêu của ông Hai đã được Kim Lân thể hiện một cách trọn
vẹn, đầy đủ nhất. Cái hay của câu chuyện không chỉ dừng lại ở việc xây dựng nhân vật
thành công mà còn xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, bộc lộ được sự sâu
sắc tình yêu làng, tình yêu nước của một người nông dân.
Ông Hai người rất yêu làng của mình. Tình yêu của ông đã ăn sâu vào nhận thức,
vào máu thịt để đi đến đâu, đi tản đến nơi khác nhưng ông vẫn đau đáu nhớ
hướng về nơi cái tên quen thuộc Chợ Dầu. Yêu làng, ông yêu tất cả những
thức thuộc về nơi ấy, yêu trong một niềm tự hào mãnh liệt mình người dân làng
Chợ Dầu. Ấy vậy mà, một hôn ông Hai chính tai nghe được tin làng theo giặc. Xét về
mạt hiện thực, chi tiết này rất hợp lý. Bởi lẽ, ai cũng biết trong những năm kháng
chiến, để thực hiện chiêu bài tách quân ra khỏi dân, dân với quân như với nước,
thực dân Pháp đã dùng mọi cách bắt bớ, đe dọa lôi kéo nhân dân đứng về phía
chúng. Tuy vậy, người nông dân đã bén rễ nội bộ rồi đốt làng, phá nhà người dân.
Trong nh huống này đã gây ra những mâu thuẫn giằng trong tâm trí ông lão đáng
thương đáng trọng ấy - tạo nên nút thắt cho câu chuyện. Chính bởi vậy tạo ra
những điều kiện để thể hiện, bộc lỗ tâm trạng phẩm chất, tính cách của nhân vật
thêm phần chân thực sâu sắc nhất. Từ đó, góp phần giải quyết chủ đề chủ đề tác
phẩm, đó phản ánh ca ngợi tình yêu làng, yêu nước chân thành, giản dị của
những người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời cũng
góp phần vào diễn biến và mạch phát triển câu chuyện.
Làng quê đối với người nông dân không chỉ nơi chôn rau cắt rốn của mỗi con người
n là nơi dù mỗi cá nhân có đi đến đâu cũng mong ngóng mỏi màn ngày để trở về
với gia đình, người thân, bạn bè, láng giềng. Ở đó, bao nhiêu thế hệ đã được sinh ra và
lớn lên, trưởng thành. Bao nhiêu cuộc đời đã hóa thành câu chuyện truyền tai nhau để
viết nên những trang sử rất sống động. Người nông dân cũng vậy, họ bắt đầu tình yêu
đất nước bằng tình yêu t những thứ nhỏ bé, đơn sơ, thân thuộc xung quanh h như
từng cây cầu, mái rạ, yêu con đường đến trường, đình làng, bến nước. Thế đấy, tình
yêu làng của ông Hai trước Cách mạng giản dị như tình yêu của một đứa con xa nhớ
về người mẹ của mình, một tình yêu tôn sùng, niềm tự hào xen lẫn chút hồn
nhiên. Mỗi khi kể về làng, ông khoe về cái sinh phần sừng sững cuối làng của viên
tổng đốc làng ông, cho bản thân mình nhiều người khác trong lòng đã phải khốn
khổ vì cái sinh phần ấy.
TRƯNG QUC T VAS
Ưu đãi tuyển sinh học bổng đến 30 triệu, chỉ có tại trường VAS
Miễn phí 100% phí kiểm tra đầu vào, ưu đãi 5% học phí trọn năm
ĐĂNG KÝ NGAY
Tuy vậy, tình yêu làng của ông Hai có sự chuyển biến mạnh mẽ kể từ sau Cách mạng.
Khi ấy, làng Chợ Dầu trở thành làng kháng chiến. Ông Hai khoe làng ông "những
hố, những ụ, những giao thông hào", "có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa,
rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng
đều nghe thấy". Quê hương được giải phóng, thoát khỏi ách cường hào phong kiến
lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Ông Hai no nức khi kể về
những đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm
ran tiếng trẻ em học bài...lại còn có cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong
những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân. Như vậy, chúng ta thể thấy được
ràng tình yêu làng của ông đã gắn với niềm vui của con người hòa vào cuộc sống
kháng chiến dân tộc.
quá yêu làng, nên ông Hai không hề muốn đi tản cư đến nơi khác. Chỉ vì hoàn cảnh
bất đắc dĩ mà ông buộc phải xa làng, xa anh em, đồng chí. Ni khổ tâm này cũng nhiều
lần khiến ông đau đáu về làng. Ấy vậy nên ông Hai cứ muốn nghe tin tức về làng,
không chỉ riêng làng mình ông còn khao khát được nghe những tin thắng trận từ
mọi miền đất ớc. Như thế mới thấy được sự phát triển mạnh mẽ trong nh cảm
nhận thức của ông Hai nói riêng người nông dân nói chung. Giờ đây, không những
ông Hai yêu làng còn yêu cách mạng, yêu kháng chiến nữa. Từ miễn cưỡng thực
hiện tản cư, đến yêu mến rồi nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Câu
chuyện khoe làng cũng thế. Từ chuyện khoe làng, ông chuyển sang chuyện kháng
chiến, chuyện đánh Tây. Tình yêu làng trong ông vẫn lớn, luôn được nhen nhóm nhưng
giờ đây đã hòa quyện trong tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, tình yêu nước.
Tình cảm cá nhân ông Hai đã hòa hợp với tình yêu tổ quốc. Yêu làng cũng là yêu nước.
Tản cư nghĩa là ủng hộ cách mạng, nghĩa là ủng hộ sự nghiệp giải phóng đất nước mà
ủy ban kháng hiến đã đề ra.
Để thấy rõ tình yêu làng của ông Hai, nhà văn đã đặc biệt miêu tả sự thay đổi trong nội
tâm lẫn hành động trước sau khi nghe được tin làng Chợ Dầu theo Tây. Trước khi
nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông luôn nhớ mòng làng da diết, ước mơ lớn lao nhất
đời ông có lẽ là được trở về làng, được trẻ lại, được tham gia kháng chiến. Như thế để
cho thấy được rằng ông Hai người rất trách nhiệm với cuộc kháng chiến tình
cảm gắn bó máu thịt với quê hương. Công việc thường xuyên, đều đn của ông đến
phòng thông tin để nghe ngóng tin tức. không đọc giỏi nhưng ông vẫn vờ xem để
bắt được ai đó giọng đọc to nghe. "Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung
phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên tháp Rùa" cũng đủ để làm ông tụ hào
quá đỗi - "Đấy, cứ kêu chúng nó trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng nó chưa?" "Một anh
trung đội trường sau khí giết được bảy tên giặc đã tự sắt bằng một quả lựu đạn cuối
cùng, Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan
hai bốt Thao ngay giữa chợ". Những cái tin ấy càng làm đong đầy niềm tin của ông về
ngày tất thắng của Cách mạng. "Chỗ kia phá đổ được một xe tăngmột xe díp". "Cứ
thế, chỗ này giết một tí, tích tiểu thành đại làm rồi thằng Tây không bước sớm".
Ruột gan ông lão cứ múa cả lên,vui quá! Ông lão náo nức bước ra khỏi phòng thông
tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Sự chất phác tình yêu
ghét rạch i của người nông dân chân chất còn thể hiện chi tiết ông mong trời nắn
nóng để "bỏ mẹ chúng nó".
Nhà văn thật tài tình khi đặt nhân vật của mình vào một tình huống éo le để bao nhiêu
tâm sự, tình cảm cứ thể tuôn dào dạt. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ
miệng những người từ dưới ấy lên, ông Hai sững sờ xấu hổ uất ức: "cổ ông lãn nghẹn
ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được". Khó
thể tin được điều ấy khi lòng ông còn mới ngập tràn những niềm vui thắng trận.
Cảm xúc đột ngột tụt dốc, ông Hai cố trấn an bản thân nhưng rồi cũng phải chịu thua
khi lời kể của những người tản khá rành rọt, chi tiết. Cảm giác hụt hẫng của ông
như vừa tự mình đánh mất một điều đó lớn lao lắm. Phải chăng tình yêu làng đã
quay lưng lại với ông để khiến ông nghẹn ngào, tủi hổ. Cm giác của một tình yêu đã bị
phụ rẫy, một niềm tin không hề lay động trước tin dữ ấy nhưng ông không thể đánh lừa
được lòng mình. Cứ thế, ông Hai "cúi gằm mặt đi". Nỗi xấu h bủa vây lấy ông,
xui bước bước chân ông không dam đi con đường nào khác một mạch về nhà. Về
đến nhà, ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con "nước mắt ông lão cứ giàn ra.
Chúng cũng trẻ con lang Việt gian đấy ư? Chúng cũng b người ta rẻ rúng hắt
hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu....ông lão nắm chặt hai tay lại và rít lên". Từ nỗi
hổ thẹn ông thấy nhục. Nhục mình mang bộ mặt của dân làng bán nước. Cả con
mình cũng sẽ mang nỗi nhục ấy suốt đời. Nói một cách công bằng, làng chợ Dầu
theo Tây thì cũng đâu phải lỗi của ông, lại càng không phải lỗi của các con ông. Dù biết
là vậy nhưng ông Hai vẫn cảm thấy đau khổ, cảm giác tội lỗi như bản thân mình đã gây
ra vậy. Điều đó cho thấy ông Gia đã tự nguyện gắn máu thịt với làng, lành sinh
mệnh, tình yêu làng lẽ sống. Người nông dân không trực tiếp tham gia kháng chiến,
chiến đấu nhưng vẫn một mực thủy chung với cách mạng, sự gắn bằng lòng tự
trọng, không cần ai phải xua đuổi hay miệt thị, bản thân họ cũng tự giày vò chính mình
"dẫu vì chính sách cụ Hồ, người ta chẳng đuổi đi nữa thì mình cũng chẳng còn mặt mũi
nào đi đến đâu".
Kiểm điểm, liệt từng gương mặt, từng tính cách của mỗi người trong làng, ông Hai
khó mà tin được rằng những anh em, đồng chí của mình lại có thể làm những việc xấu
xa như vậy. Tuy nhiên, không có lửa thì làm sao có khói. Như ông nghĩ "ai người ta hơi
đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì?". Với bản tính một người thích đi thường
xuyên đi như ông suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông chỉ quanh quẩn
nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. "Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy
tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta
đang để ý, người ta đang bàn tán đến chuyện ấy. Thoáng nghe những tiếng Tây,
Việt gian, cam - nhông... là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! "
Trong gian nhà nhỏ giờ lại càng ng thêm bầu không khí ngột ngạt vì những ý nghĩ rối
tung trong đầu ông. Tiếng thở của ba đứa trẻ trong ánh đen vàng hiu như chính tương
lại của gia đình ông Hai, bế tắc và tuyệt vọng. Ông không biết đi đâu, về làng thì không
được, vì về làng lúc này đồng nghĩa với theo Tây, phản bội kháng chiến. lại thì cũng
không xong, mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi. Còn đi thì biết đi đâu, bởi ai người
ta chứa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội. Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu
nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn. Quê hương
Tổ quốc bên nào nặng hơn? Đó thể nói rằng đây không phải điều đơn giản
với ông, làng Ch Dầu đã trở thành một phần của cuộc sống, không dễ vứt bỏ; còn
cách mạng cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đồi
lệ. Cuối cùng, ông đã đưa ra quyết định, đó là: "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây
mắt rồi thì phải thù". Như vậy, tình yêu làng dẫn thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng
không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước. Đó biểu hiện v đẹp trong tâm hồn của
con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng để hướng tới tình
cảm chung của cả cộng đông, của cả dân tộc.
Để vơi đi những tâm tư đè nặng và cũng để giải bày được tấc lòng thủy chung với Cách
mạng, ông Hai đã cuộc đối thoại, trò chuyện với đứa con út. Tuy bên ngoài cuộc
trò chuyện nhưng thực chất cuộc độc thoại đầy xúc động. Một đứa trẻ lên ba không
thể nào tự nói lên những điều như thế. Phải có một người cha, người bố như ông Hai -
một người cha không chỉ truyền giọng điệu mình cho con tập nói còn người cha
truyền cho con tình yêu nước, nh yêu làng sâu đậm trong trái tim hồn nhiên, nhỏ bé:
"Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!". Đứa con gái nói cũng chính nói hộ, nói
thay tiếng lòng ông Hai. có thế nào, ông vẫn một mực chung thủy, gắn bó với cách
mạng, với cụ Hồ. ông một niềm tin sắt đá - niềm tin ấy đã phần nào giúp ông
thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này. Do đó, chỉ đứng trước nghịch cảnh, đối
diện nỗi đau mới thấy tấm lòng người nông dân đối với cách mạng, đối với kháng chiến
không bao giơ thay đổi, phải đau khổ tột cung nhưng nhất định vẫn giữ trọn vẹn lời
thề.
May mắn cho ông Hai và cũng nhẹ nhõm cho cả người đọc khi nghe được tin lành chợ
Dầu cải chính. Nối đau khổ của ông như được giải tỏa, bao niềm vui như nước tràn
về. Ông Hai cứ như tre ra "mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy",
ông hai có khác nào được hồi sinh. Ông "bô bô" khoe với mọi ngươi về cái tin làng ông
bị đốt nhẵn, nhà ông bị đốt nhẵn. Nội dung lời khoe của ông có vẻ vô lý, bởi không ai có
thể vui mừng trước cảnh làng, nhà của nh bị giặc tàn phá. Nhưng trong tình huống
này thì điều vô ấy lại rất dễ hiểu: sự mất mát v vật chất ấy chẳng thấm vào đâu so
với niềm vui tính thầnông đang được đón nhận. Nhà văn đã tỏ ra rất sắc sảo trong
việc nắm bắt miêu tả diễn biến tâm của người nông dân. Họ rất yêung. Nhưng
họ cũng hiểu được rằng một khi nước mất nhà tan, i làng cái nhà còn hay mất không
quan trọng bằng nước mất hay còn. Chỉ cần còn tấm lòng con người theo cách mạng,
còn kháng chiến thì còn nhà, còn làng. Vì Tổ quốc, vì đất nước họ sẵn sàng hy sinh tất
cả đó tài sản hay cả tính mạng của mình. Từ một người nông dân yêu làng, ông
Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã
hòa làm một trong ý nghĩa tình cảm việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất, hòa
quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây nét đẹp
truyền thống mang tính thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân
trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Tóm tại, tác phẩm Làng của Kim Lân nổi bật với tình huống truyện có tính căng thẳng,
thử thách, cốt truyện chú trọng vào các tình huống bên trong nội tâm nhân vật, kết hợp
với nghệ thuật miêu tả tâmnhân vật tự nhiên sâu sắc, tinh tế. Ngôn ngữ đặc sắc,
sinh động mang đậm chất khẩu ngữ gắn liền với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người
nông dân. Truyện thể hiện chân thực, sinh động tành cảm yêu làng quê thống nhất với
lòng yêu đất nước ở nhân vật ông Hai. Đồng thời giúp chúng ta hiểu, yêu mến và khâm
phục biết nhường nào những người nông dân giản dị, mộc mạc lại một tình yêu
nước vô cùng tha thiết, cao cả
| 1/6

Preview text:

Phân tích Làng của Kim Lân
Nói về quê hương, Raxun Gamzatov đã cho rằng rằng: "Người ta chỉ có thể tách con
người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người". Điều đó
muốn đưa ra một chân lý rằng, con người dù đi đến đâu cũng không thể quên được
nguồn cội, quê hương. Đặc biệt là quê hương trong tâm khảm của người nông dân đã
gắn bó máu thiệt với từng khóm tre, bờ ao, giếng nước, mái đình. Cùng với đề tài viết
về tình yêu của người nông dân đối với quê hương, Kim Lân hướng tới khám phá cái
đẹp khỏe khoắn, đôn hậu, chất phác trong tâm hồn những người nông dân qua tác
phẩm truyện ngắn mang tên "Làng". Nói như cách nhận xét, bình phẩm của Nguyên
Hồng thì Kim Lân là nhà văn của làng quê, của những người nông dân một lòng một
dạ đi với đất, với người, với sự thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống vùng thôn quê.
Tác phẩm ra đời năm 1948, được lấy bối cảnh từ cuộc tản cư trong thời kỳ kháng chiến
của nhân dân Bắc Bộ, Kim Lân xây dựng nhân vật ông Hai - người dân làng Chợ Dầu
theo kháng chiến tản cư đến vùng tạm trú. Và trong lúc tản cư, biết bao điều suy tư,
trăn trở về ngôi làng thân yêu của ông Hai đã được Kim Lân thể hiện một cách trọn
vẹn, đầy đủ nhất. Cái hay của câu chuyện không chỉ dừng lại ở việc xây dựng nhân vật
thành công mà còn xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, bộc lộ được sự sâu
sắc tình yêu làng, tình yêu nước của một người nông dân.
Ông Hai là người rất yêu làng của mình. Tình yêu của ông đã ăn sâu vào nhận thức,
vào máu thịt để dù có đi đến đâu, đi tản cư đến nơi khác nhưng ông vẫn đau đáu nhớ
và hướng về nơi có cái tên quen thuộc là Chợ Dầu. Yêu làng, ông yêu tất cả những
thức thuộc về nơi ấy, yêu trong một niềm tự hào mãnh liệt vì mình là người dân làng
Chợ Dầu. Ấy vậy mà, một hôn ông Hai chính tai nghe được tin làng theo giặc. Xét về
mạt hiện thực, chi tiết này là rất hợp lý. Bởi lẽ, ai cũng biết trong những năm kháng
chiến, để thực hiện chiêu bài tách quân ra khỏi dân, ví dân với quân như cá với nước,
thực dân Pháp đã dùng mọi cách bắt bớ, đe dọa và lôi kéo nhân dân đứng về phía
chúng. Tuy vậy, người nông dân đã bén rễ nội bộ rồi đốt làng, phá nhà người dân.
Trong tình huống này đã gây ra những mâu thuẫn giằng xé trong tâm trí ông lão đáng
thương và đáng trọng ấy - tạo nên nút thắt cho câu chuyện. Chính bởi vậy mà tạo ra
những điều kiện để thể hiện, bộc lỗ rõ tâm trạng và phẩm chất, tính cách của nhân vật
thêm phần chân thực và sâu sắc nhất. Từ đó, góp phần giải quyết chủ đề chủ đề tác
phẩm, đó là phản ánh và ca ngợi tình yêu làng, yêu nước chân thành, giản dị của
những người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời cũng
góp phần vào diễn biến và mạch phát triển câu chuyện.
Làng quê đối với người nông dân không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn của mỗi con người
mà còn là nơi dù mỗi cá nhân có đi đến đâu cũng mong ngóng mỏi màn ngày để trở về
với gia đình, người thân, bạn bè, láng giềng. Ở đó, bao nhiêu thế hệ đã được sinh ra và
lớn lên, trưởng thành. Bao nhiêu cuộc đời đã hóa thành câu chuyện truyền tai nhau để
viết nên những trang sử rất sống động. Người nông dân cũng vậy, họ bắt đầu tình yêu
đất nước bằng tình yêu từ những thứ nhỏ bé, đơn sơ, thân thuộc xung quanh họ như
từng cây cầu, mái rạ, yêu con đường đến trường, đình làng, bến nước. Thế đấy, tình
yêu làng của ông Hai trước Cách mạng giản dị như tình yêu của một đứa con xa nhớ
về người mẹ của mình, một tình yêu tôn sùng, có niềm tự hào xen lẫn có chút hồn
nhiên. Mỗi khi kể về làng, ông khoe về cái sinh phần sừng sững ở cuối làng của viên
tổng đốc làng ông, cho dù bản thân mình và nhiều người khác trong lòng đã phải khốn
khổ vì cái sinh phần ấy.
TRƯỜNG QUỐC TẾ VAS
Ưu đãi tuyển sinh học bổng đến 30 triệu, chỉ có tại trường VAS
Miễn phí 100% phí kiểm tra đầu vào, ưu đãi 5% học phí trọn năm ĐĂNG KÝ NGAY
Tuy vậy, tình yêu làng của ông Hai có sự chuyển biến mạnh mẽ kể từ sau Cách mạng.
Khi ấy, làng Chợ Dầu trở thành làng kháng chiến. Ông Hai khoe làng ông có "những
hố, những ụ, những giao thông hào", "có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa,
rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng
đều nghe thấy". Quê hương được giải phóng, thoát khỏi ách cường hào phong kiến và
bè lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Ông Hai no nức khi kể về
những đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm
ran tiếng trẻ em học bài...lại còn có cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong
những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân. Như vậy, chúng ta có thể thấy được rõ
ràng tình yêu làng của ông đã gắn với niềm vui của con người hòa vào cuộc sống kháng chiến dân tộc.
Vì quá yêu làng, nên ông Hai không hề muốn đi tản cư đến nơi khác. Chỉ vì hoàn cảnh
bất đắc dĩ mà ông buộc phải xa làng, xa anh em, đồng chí. Nỗi khổ tâm này cũng nhiều
lần khiến ông đau đáu về làng. Ấy vậy nên ông Hai cứ muốn nghe tin tức về làng,
không chỉ riêng làng mình mà ông còn khao khát được nghe những tin thắng trận từ
mọi miền đất nước. Như thế mới thấy được sự phát triển mạnh mẽ trong tình cảm và
nhận thức của ông Hai nói riêng và người nông dân nói chung. Giờ đây, không những
ông Hai yêu làng mà còn yêu cách mạng, yêu kháng chiến nữa. Từ miễn cưỡng thực
hiện tản cư, đến yêu mến rồi nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Câu
chuyện khoe làng cũng thế. Từ chuyện khoe làng, ông chuyển sang chuyện kháng
chiến, chuyện đánh Tây. Tình yêu làng trong ông vẫn lớn, luôn được nhen nhóm nhưng
giờ đây nó đã hòa quyện trong tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, tình yêu nước.
Tình cảm cá nhân ông Hai đã hòa hợp với tình yêu tổ quốc. Yêu làng cũng là yêu nước.
Tản cư nghĩa là ủng hộ cách mạng, nghĩa là ủng hộ sự nghiệp giải phóng đất nước mà
ủy ban kháng hiến đã đề ra.
Để thấy rõ tình yêu làng của ông Hai, nhà văn đã đặc biệt miêu tả sự thay đổi trong nội
tâm lẫn hành động trước và sau khi nghe được tin làng Chợ Dầu theo Tây. Trước khi
nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông luôn nhớ mòng làng da diết, ước mơ lớn lao nhất
đời ông có lẽ là được trở về làng, được trẻ lại, được tham gia kháng chiến. Như thế để
cho thấy được rằng ông Hai là người rất có trách nhiệm với cuộc kháng chiến và tình
cảm gắn bó máu thịt với quê hương. Công việc thường xuyên, đều đặn của ông là đến
phòng thông tin để nghe ngóng tin tức. Dù không đọc giỏi nhưng ông vẫn vờ xem để
bắt được ai đó có giọng đọc to mà nghe. "Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung
phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên tháp Rùa" cũng đủ để làm ông tụ hào
quá đỗi - "Đấy, cứ kêu chúng nó trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng nó chưa?" "Một anh
trung đội trường sau khí giết được bảy tên giặc đã tự sắt bằng một quả lựu đạn cuối
cùng, Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan
hai bốt Thao ngay giữa chợ". Những cái tin ấy càng làm đong đầy niềm tin của ông về
ngày tất thắng của Cách mạng. "Chỗ kia phá đổ được một xe tăng và một xe díp". "Cứ
thế, chỗ này giết một tí, tích tiểu thành đại làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm".
Ruột gan ông lão cứ múa cả lên,vui quá! Ông lão náo nức bước ra khỏi phòng thông
tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Sự chất phác và tình yêu
ghét rạch ròi của người nông dân chân chất còn thể hiện ở chi tiết ông mong trời nắn
nóng để "bỏ mẹ chúng nó".
Nhà văn thật tài tình khi đặt nhân vật của mình vào một tình huống éo le để bao nhiêu
tâm sự, tình cảm cứ thể mà tuôn dào dạt. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ
miệng những người từ dưới ấy lên, ông Hai sững sờ xấu hổ uất ức: "cổ ông lãn nghẹn
ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được". Khó mà có
thể tin được điều ấy khi mà lòng ông còn mới ngập tràn những niềm vui thắng trận.
Cảm xúc đột ngột tụt dốc, ông Hai cố trấn an bản thân nhưng rồi cũng phải chịu thua
khi lời kể của những người tản cư khá rành rọt, chi tiết. Cảm giác hụt hẫng của ông
như vừa tự mình đánh mất một điều gì đó lớn lao lắm. Phải chăng tình yêu làng đã
quay lưng lại với ông để khiến ông nghẹn ngào, tủi hổ. Cảm giác của một tình yêu đã bị
phụ rẫy, một niềm tin không hề lay động trước tin dữ ấy nhưng ông không thể đánh lừa
được lòng mình. Cứ thế, ông Hai "cúi gằm mặt mà đi". Nỗi xấu hổ bủa vây lấy ông, nó
xui bước bước chân ông không dam đi con đường nào khác là một mạch về nhà. Về
đến nhà, ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con "nước mắt ông lão cứ giàn ra.
Chúng nó cũng là trẻ con lang Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt
hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu....ông lão nắm chặt hai tay lại và rít lên". Từ nỗi
hổ thẹn ông thấy nhục. Nhục vì mình mang bộ mặt của dân làng bán nước. Cả con
mình cũng sẽ mang nỗi nhục ấy suốt đời. Nói một cách công bằng, dù làng chợ Dầu
theo Tây thì cũng đâu phải lỗi của ông, lại càng không phải lỗi của các con ông. Dù biết
là vậy nhưng ông Hai vẫn cảm thấy đau khổ, cảm giác tội lỗi như bản thân mình đã gây
ra vậy. Điều đó cho thấy ông Gia đã tự nguyện gắn bó máu thịt với làng, lành là sinh
mệnh, tình yêu làng là lẽ sống. Người nông dân không trực tiếp tham gia kháng chiến,
chiến đấu nhưng vẫn một mực thủy chung với cách mạng, sự gắn bó bằng lòng tự
trọng, không cần ai phải xua đuổi hay miệt thị, bản thân họ cũng tự giày vò chính mình
"dẫu vì chính sách cụ Hồ, người ta chẳng đuổi đi nữa thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu".
Kiểm điểm, liệt kê từng gương mặt, từng tính cách của mỗi người trong làng, ông Hai
khó mà tin được rằng những anh em, đồng chí của mình lại có thể làm những việc xấu
xa như vậy. Tuy nhiên, không có lửa thì làm sao có khói. Như ông nghĩ "ai người ta hơi
đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì?". Với bản tính là một người thích đi và thường
xuyên đi như ông mà suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông chỉ quanh quẩn ở
nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. "Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy
tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta
đang để ý, người ta đang bàn tán đến cá chuyện ấy. Thoáng nghe những tiếng Tây,
Việt gian, cam - nhông... là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! "
Trong gian nhà nhỏ giờ lại càng tăng thêm bầu không khí ngột ngạt vì những ý nghĩ rối
tung trong đầu ông. Tiếng thở của ba đứa trẻ trong ánh đen vàng hiu như chính tương
lại của gia đình ông Hai, bế tắc và tuyệt vọng. Ông không biết đi đâu, về làng thì không
được, vì về làng lúc này đồng nghĩa với theo Tây, phản bội kháng chiến. Ở lại thì cũng
không xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi. Còn đi thì biết đi đâu, bởi ai người
ta chứa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội. Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu
nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn. Quê hương
và Tổ quốc bên nào nặng hơn? Đó có thể nói rằng đây không phải là điều đơn giản vì
với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc sống, không dễ gì vứt bỏ; còn
cách mạng là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đồi nô
lệ. Cuối cùng, ông đã đưa ra quyết định, đó là: "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây
mắt rồi thì phải thù". Như vậy, tình yêu làng dẫn có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng
không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước. Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của
con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình
cảm chung của cả cộng đông, của cả dân tộc.
Để vơi đi những tâm tư đè nặng và cũng để giải bày được tấc lòng thủy chung với Cách
mạng, ông Hai đã có cuộc đối thoại, trò chuyện với đứa con út. Tuy bên ngoài là cuộc
trò chuyện nhưng thực chất là cuộc độc thoại đầy xúc động. Một đứa trẻ lên ba không
thể nào tự nói lên những điều như thế. Phải có một người cha, người bố như ông Hai -
một người cha không chỉ truyền giọng điệu mình cho con tập nói mà còn là người cha
truyền cho con tình yêu nước, tình yêu làng sâu đậm trong trái tim hồn nhiên, nhỏ bé:
"Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!". Đứa con gái nói cũng chính là nói hộ, nói
thay tiếng lòng ông Hai. Dù có thế nào, ông vẫn một mực chung thủy, gắn bó với cách
mạng, với cụ Hồ. Ở ông là một niềm tin sắt đá - niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có
thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này. Do đó, chỉ có đứng trước nghịch cảnh, đối
diện nỗi đau mới thấy tấm lòng người nông dân đối với cách mạng, đối với kháng chiến
không bao giơ thay đổi, dù phải đau khổ tột cung nhưng nhất định vẫn giữ trọn vẹn lời thề.
May mắn cho ông Hai và cũng nhẹ nhõm cho cả người đọc khi nghe được tin lành chợ
Dầu cải chính. Nối đau khổ của ông như được giải tỏa, bao niềm vui như nước lũ tràn
về. Ông Hai cứ như tre ra "mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy",
ông hai có khác nào được hồi sinh. Ông "bô bô" khoe với mọi ngươi về cái tin làng ông
bị đốt nhẵn, nhà ông bị đốt nhẵn. Nội dung lời khoe của ông có vẻ vô lý, bởi không ai có
thể vui mừng trước cảnh làng, nhà của mình bị giặc tàn phá. Nhưng trong tình huống
này thì điều vô lý ấy lại rất dễ hiểu: sự mất mát về vật chất ấy chẳng thấm vào đâu so
với niềm vui tính thần mà ông đang được đón nhận. Nhà văn đã tỏ ra rất sắc sảo trong
việc nắm bắt và miêu tả diễn biến tâm lí của người nông dân. Họ rất yêu làng. Nhưng
họ cũng hiểu được rằng một khi nước mất nhà tan, cái làng cái nhà còn hay mất không
quan trọng bằng nước mất hay còn. Chỉ cần còn tấm lòng con người theo cách mạng,
còn kháng chiến thì còn nhà, còn làng. Vì Tổ quốc, vì đất nước họ sẵn sàng hy sinh tất
cả dù đó là tài sản hay cả tính mạng của mình. Từ một người nông dân yêu làng, ông
Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã
hòa làm một trong ý nghĩa tình cảm việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất, hòa
quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp
truyền thống mang tính thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân
trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Tóm tại, tác phẩm Làng của Kim Lân nổi bật với tình huống truyện có tính căng thẳng,
thử thách, cốt truyện chú trọng vào các tình huống bên trong nội tâm nhân vật, kết hợp
với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế. Ngôn ngữ đặc sắc,
sinh động mang đậm chất khẩu ngữ gắn liền với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người
nông dân. Truyện thể hiện chân thực, sinh động tành cảm yêu làng quê thống nhất với
lòng yêu đất nước ở nhân vật ông Hai. Đồng thời giúp chúng ta hiểu, yêu mến và khâm
phục biết nhường nào những người nông dân giản dị, mộc mạc mà lại có một tình yêu
nước vô cùng tha thiết, cao cả