





















































Preview text:
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN         
Học viên: Đàm Thanh Long ⎯ Mã số: CH1101020       
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ 
CÔNG NGHỆ TRI THỨC     
Chuyên ngành: KHOA HỌC MÁY TÍNH  Mã số: 60 48 01.01              Giảng viên phụ trách:  GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm                  Tp. Hồ Chí Minh năm 2013    MỤC LỤC     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức                                                       
CHƯƠNG I. GIỚI THIỆU   
Mạng xã hội ra đời đã trở thành một trào lưu mới trong mọi tầng lớp sử dụng máy tính và 
Internet làm công cụ giao lưu, tìm kiếm tri thức. Mạng xã hội giúp thu hẹp khoảng cách 
giữa người với người, góp phần biến thế giới mà chúng ta đang sinh sống trở thành một 
“thế giới phẳng”. Với khả năng kết nối, chia sẻ thông tin một cách dễ dàng, mạng xã hội 
dần trở thành một kho kiến thức khổng lồ. Và từ đây, nhu cầu tìm kiếm, phân tích lượng 
thông tin khổng lồ trong rất nhiều mạng xã hội đang tồn tại và phát triển trở nên cần thiết 
hơn bao giờ hết. Tuy thế, các công nghệ tìm kiếm hiện tại đứng đầu là Google đều chưa    Trang 2     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
thể tận dụng hết khả năng của mạng xã hội. Bởi lẽ mạng xã hội có cấu trúc rất mở, các 
thành phần được gắn kết với nhau theo dạng quan hệ (một chiều, hai chiều) nên việc tìm 
kiếm thông tin trên mạng xã hội phải làm việc ở mức phân tích mối quan hệ, tìm kiếm 
các đặc điểm… Trong khi các cỗ máy tìm kiếm hiện thời vẫn chỉ tập trung vào tìm kiếm 
nội dung mà chưa đánh giá được mức độ tầm quan trọng dựa trên mối quan hệ gắn kết và  mức độ ảnh hưởng. 
Trong những năm gần đây, một sự thay đổi lớn trong mối quan hệ giữa các công ty và 
khách hàng đã được công khai. Việc mở rộng web 2.0 và mạng xã hội như (Facebook, 
Twitter, You tube,…) đã có một tác động to lớn trên con đường tiến hành tiếp thị 
(marketing). [1] Các khách hàng nhận được nhiều và kiểm soát nhiều hơn thông qua 
thông tin liên lạc công ty hay sản phẩm. Giá trị cốt lõi của doanh nghiệp là khách hàng và 
mạng xã hội đại diện cho một cơ hội để xây dựng mối quan hệ gần gũi và lợi ích hơn với 
khách hàng. Vì vậy các công ty phải đáp ứng với sự thay đổi này. Trong thực tế các công 
ty có thể đạt được lợi ích thông qua sử dụng mạng xã hội trong marketing của họ: họ có 
thể đạt được sự hiểu biết tốt hơn về nhu cầu thiết yếu của khách hàng và có thể xây dựng 
mối quan hệ tốt hơn với khách hàng. Để đạt được lợi ích thương mại họ phải lập kế 
hoạch hoạt động của mình trong mạng xã hội để kiểm soát tốt hơn và hệ số đo lường. 
Chính xác hành vi có thể thay đổi cách thức của các công ty xem xét đến khách hàng của 
họ. Bất cứ khi nào mà sự kết hợp giữa mạng xã hội và marketing đạt được, công ty có thể 
dễ dàng theo dõi khách hàng của họ, đạt được yêu cầu kiểm soát và đo lường các hoạt  động của họ. 
Trên cơ sở đó, bài viết này tập trung tìm hiểu và làm rõ hơn khả năng tận dụng công nghệ 
vào việc xử lý các bài toán dựa trên quan hệ trên các mạng xã hội, để từ đó tạo tiền đề 
cho việc ứng dụng vào trong các bài toán lớn hơn, giải quyết vấn đề thu thập, tìm kiếm và 
phân tích thông tin trên diện rộng. Bên cạnh đó, tìm hiểu việc xác định key player trong 
mạng xã hội, cài đặt thuật toán xác định key player trong mạng xã hội (đồ thị) để từ đó 
tận dụng nó vào nhu cầu chiến lượt marketing. Do giới hạn về mặt thời gian nên các bài 
toán phân tích trong mạng xã hội sẽ không thể được trình bày một cách đầy đủ và chi tiết.    Trang 3     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Cấu trúc bài viết như sau: trong phần 1 giới thiệu một trào lưu mới tìm kiếm tri thức 
trong mạng xã hội; trong phần 2 nêu lên cơ sở lý thuyết và các bài toán có liên quan trong 
mạng xã hội; phần 3 phân tích mạng xã hội trong marketing; trong phần 4 làm thế nào để 
xác định key player trong mạng xã hội; trong phần 5 nêu lên cơ hội và cũng như rủi ro 
mà mạng xã hội mạng lại; phần 6 mô phỏng thử nghiệm các thuật toán tìm key player; 
trong phần 7 kết luận và hướng phát triển trong tương lai. 
CHƯƠNG II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT MẠNG XÃ HỘI VÀ CÁC BÀI 
TOÁN CÓ LIÊN QUAN 
Mạng xã hội, hay còn gọi là mạng xã hội ảo (social network) là một cấu trúc mang tính 
xã hội tạo thành từ các nút (node), mỗi nút đó có thể là một cá nhân hay một tổ chức. 
Mạng xã hội làm nhiệm vụ kết nối các thành viên, người dùng trên Internet lại với nhau 
dựa theo những tiêu chí nào đó, với nhiều mục đích khác nhau, không phân biệt thời gian 
và không gian. Với một cấu trúc đơn giản nhất như thế, một mạng xã hội có thể được 
biểu diễn như một “đồ thị” như hình ii.1      Trang 4     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Hình ii.1: Đồ thị biểu diễn cấu trúc mạng xã hội   
2.1 / Lịch sử mạng xã hội   
Mạng máy tính (computer network) ra đời làm nền tảng cho sự xuất hiện của mạng xã 
hội. Có một vài cách tiếp cận khác nhau về mạng xã hội. Cách tiếp cận đầu tiên cho rằng 
mạng xã hội là một nơi để mọi người có thể tương tác với nhau thông qua các phòng trò 
chuyện (chat room), chia sẻ thông tin cá nhân, ý tưởng qua các chủ đề được tạo lập trên 
những trang cá nhân, mà về sau này được gọi là “blogging”. Những mạng xã hội dạng 
này thì đã xuất hiện từ năm 1985 với THE WELL, Theglobe.com (1994), Geocities  (1995) và Tripod (1995). 
Còn một cách tiếp cận khác, đơn giản hơn thì mạng xã hội là nơi mà mọi người có thể kết 
nối với nhau thông qua địa chỉ thư điện tử của họ. Mạng xã hội đầu tiên của dạng này – 
Classmates – ra đời vào năm 1995 với mục đích kết nối bạn học, tiếp đó SixDegrees 
được tạo ra vào năm 1997 là với mục đích giao lưu kết bạn dựa theo sở thích. 
Năm 2002, Friendster ra đời và mau chóng trở thành trào lưu tại Mỹ. Tuy vậy do phát 
triển quá nhanh mà thiếu đi sự tính toán đối với phân tải đã khiến các server của dịch vụ 
này hay bị xảy ra hiện tượng quá tải. Công ty này sau đó có được Google đề nghị mua lại 
với trị giá khoảng 30 triệu đô la Mỹ tuy nhiên thương vụ không thành công. 
Năm 2003, MySpace đi vào hoạt động, nhanh chóng nổi bật với các tính năng mới hấp 
dẫn, trong đó phải kể đến tính năng chia sẻ nhạc. Dịch vụ này đã thu hút được rất nhiều 
các ban nhạc tham gia vào mạng xã hội MySpace, từ đó giúp cho mạng xã hội này có 
thêm được rất nhiều những thành viên quan tâm, để rồi trở thành mạng xã hội lớn nhất 
thế giới cho tới tận thời điểm hiện nay. 
Năm 2006 đánh dấu sự có mặt của Facebook (thực ra là việc mở rộng phạm vi của mạng 
xã hội này ra toàn cầu thay vì cho cộng đồng các trường đại học tại Mỹ vốn đã tồn tại từ 
năm 2004), một mạng xã hội “mở”. Facebook cung cấp một nền tảng lập trình gọi là 
Facebook Platform cho phép những thành viên chuyên sâu có thể tạo ra các ứng dụng    Trang 5     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
(tiếng anh: Applications). Nhờ vậy Facebook có được rất nhiều các ứng dụng vừa được 
cập nhật một cách nhanh chóng, lại vừa phù hợp với nhiều đối tượng với các sở thích cá  nhân khác nhau. 
Ngoài ra hiện nay còn có một trào lưu mới xuất hiện nhưng cũng đã phát triển hết sức 
nhanh chóng, đó là Twitter. Nếu như các mạng xã hội trước kia thường được gọi là 
blogging thì Twitter còn được gọi là micro-blogging. Được gọi như vậy bởi Twitter chỉ 
cung cấp cho người dùng khả năng tạo ra những dòng tin nhắn nhanh và ngắn gọn cỡ 140 
ký tự (gần giống với số ký tự cho phép trong một tin nhắn SMS trên điện thoại di động). 
2.2 / Đặc điểm mạng xã hội ảo   
Có thể nói Mạng xã hội có thể phát triển mạnh mẽ được như hiện nay là do những ưu thế 
đáng kể mà chúng mang lại so với các cách tiếp cận cộng đồng truyền thống. 
Một là vấn đề chi phí. Có thể thấy rằng việc tham gia vào một mạng xã hội, dù là đối với 
một cá nhân hay một tổ chức đều chiếm một chi phí tương đối thấp, bởi trên thực tế, các 
mạng xã hội hiện nay hầu hết cho phép đăng ký và sử dụng miễn phí. Trong khi đó, khi 
đã trở thành một thành viên của một mạng xã hội, các cá nhân hay tổ chức đó có thể có 
được rất nhiều thông tin hữu ích cho mối quan tâm, sự phát triển của mình. Ví dụ như 
một công ty sau khi tham gia một mạng xã hội nào đó, có thể chỉ cần vài cú nhấp chuột là 
đã có thể tìm hiểu về các sở thích của người dùng, xu hướng của những sở thích đó. Qua 
đó, công ty có thể phát hiện ra được những khách hàng tiềm năng, vạch ra một chiến lược 
kinh doanh mới cho thời kỳ khó khăn … Những việc làm này có thể giúp ích rất nhiều 
cho hoạt động kinh doanh hiện tại của công ty đó. 
Hai là khả năng xây dựng các mối quan hệ tin cậy. Nhờ vào việc quan sát được các bài 
viết, đánh giá của các thành viên trong mạng xã hội, một tổ chức có thể nắm bắt được 
nhu cầu và đánh giá của khách hàng về các sản phẩm hay dịch vụ mà họ cung cấp. Hơn 
thế là khi họ có những phản hồi tích cực đối với khách hàng, từ đó xây dựng một mối 
quan hệ “ảo” với khách hàng trong khi có thể mang lại một niềm tin “thực”. Không quá      Trang 6     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
tốn kém như những hệ thống chăm sóc khách hàng lớn mà mang lại hiệu quả cũng không 
hề nhỏ, đó chính là lợi thế của mạng xã hội. 
Hay đối với những cá nhân, nhờ việc đọc được những bài viết phần nào mang tính chất 
riêng tư, tâm sự của bạn bè, hay con cái, họ có thể có được những hiểu biết rõ ràng hơn 
về bạn bè, con cái của mình, thấy được vấn đề mà người kia đang gặp phải, từ đó giúp họ 
giải quyết vấn đề dễ dàng hơn. Bởi nghiên cứu cho thấy, giới trẻ đang có xu hướng kể ra 
những phức tạp cá nhân trên blog, mạng xã hội dễ dàng hơn là nói chuyện trực tiếp với 
các bậc phụ huynh, hay cả với bạn bè. Khi ấy niềm tin trong mối quan hệ cũng được nâng  lên đáng kể. 
Ba là việc tạo lập các mối quan hệ trong mạng xã hội trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. 
Thử tưởng tượng trong mạng xã hội nào đó, người dùng có một vài người bạn, những 
người ấy lại có nhiều bạn bè khác, cứ như vậy. Nhờ vào mạng xã hội, người dùng ban 
đầu có thể thiết lập một mối quan hệ với bất cứ ai, đơn giản chỉ khởi đầu bằng việc gửi đi 
một lời nhắn đề nghị được kết bạn. Sau khi được chấp nhận bởi phía bên kia, việc cần 
làm để gìn giữ mối quan hệ đó đó là cố gắng cân bằng giữa việc cho đi và nhận lại. Việc 
này ở trên một mạng xã hội tỏ ra đơn giản hơn so với việc duy trì mối quan hệ trong xã 
hội bình thường, bởi cho đi và nhận về trong mạng xã hội nhiều khi chỉ nằm ở mức có 
những bình luận trong những bài viết của bạn bè. 
Những ưu điểm mà mạng xã hội mang lại như đã kể trên là rất to lớn, tuy vậy cũng cần 
phải chỉ ra một số mặt hạn chế của mạng xã hội: 
Vấn đề đầu tiên mà mạng xã hội gặp phải là vấn đề về thông tin cá nhân của người dùng. 
Khi đã kết nối vào mạng xã hội, có bạn bè trên đó đồng nghĩa với việc người dùng cũng 
phải đối mặt với nguy cơ bị lợi dụng các thông tin (cá nhân) đăng tải lên đó. Với những 
thông tin như vậy, những kẻ có ý đồ không tốt có thể tìm hiểu nhiều thứ khác hơn về 
người dùng đó. Điều đó có thể làm ảnh hưởng tới lợi ích cá nhân của người dùng đó ngay 
trong thời điểm hiện tại cũng như tương lai. Biết đâu một bức ảnh xưa cũ có thể được lôi 
ra để làm hại tới thanh danh của người dùng đó về sau này???    Trang 7     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Vấn đề thứ hai nằm ở chính cơ chế vận hành của các mạng xã hội. Mạng xã hội cũng như 
mọi trang web khác, đều phải giải quyết các vấn đề liên quan tới bảo mật thông tin. Thêm 
vào đó, các trang mạng xã hội còn gặp phải một số vấn đề riêng ví dụ như tình trạng nhắn 
tin rác làm phiền những thành viên tham gia, sử dụng những công cụ tự viết. Vấn đề này 
xuất hiện khá nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng gần đây, có thể lấy ví dụ về 
vài sự cố các tài khoản mạng xã hội của những người nổi tiếng bị hacker kiểm soát, 
những thông tin nhạy cảm được tung ra … 
Một vấn đề nữa cần nói tới trong mặt hạn chế của mạng xã hội là việc tiêu tốn thời gian 
sử dụng. Việc tham gia một mạng xã hội, kiểm tra các thay đổi gần đây từ bạn bè, cập 
nhật những thay đổi, thông tin cho chính mình nhiều khi làm mất thời gian của người 
tham gia. Tất nhiên điều này còn tùy thuộc vào cách từng người phân phối thời gian của 
mình cho việc “online” trên các mạng xã hội mà họ tham gia. Tuy vậy theo những phân 
tích gần đây thì có tình trạng khá nhiều người trẻ bị hội chứng “nghiện” khi tham gia 
mạng xã hội. Nếu tình trạng này xảy ra ở diện rộng thì sẽ có rất nhiều hiệu ứng không tốt  kèm theo. 
Như vậy, cũng như những dịch vụ khác triển khai và khai thác trên nền Internet, mạng xã 
hội cũng thể hiện được những ưu và nhược điểm nhất định. Nhược điểm của mạng xã hội 
phần lớn kế thừa từ những nhược điểm vốn có của các dịch vụ nền web, nhưng những ưu 
điểm của dịch vụ này lại mang tính chất đột phá so với các cách thức truyền thông cộng 
tác truyền thống. Như trong một cuốn sách với tựa đề Groundswell của nhà xuất bản 
Forrester Research ra đời năm 2008, mạng xã hội và tác động của nó đã được mô tả với 
thuật ngữ “groundswell”, tạm hiểu là: “một bước tiến tự nhiên của loài người khi sử dụng 
các công cụ trên mạng để kết nối, tích lũy kiến thức, lấy những gì họ cần – thông tin, hỗ 
trợ, các ý tưởng, các sản phẩm hay khả năng thương lượng với cộng đồng” .Và với những 
tiềm năng hiện tại mà mạng xã hội mang lại (xem bảng ii.2), việc tham gia, phân tích và 
tận dụng những điểm mạnh mà mạng xã hội mang lại là cần thiết.   
Thống kê nhỏ về mạng xã hội    Trang 8     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức   
- Theo nhận định của đại diện IBM Việt Nam, với hơn 2 tỷ người kết nối mạng 
Internet, hơn 600 triệu người dùng Facebook mỗi ngày. 
- Hiện tồn tại khoảng hơn 500 mạng xã hội trên thế giới và hàng nghìn trang 
web có chức năng như một mạng xã hội 
- Trung bình, trong 1 phút, có hơn 695 ngàn trạng thái được cập nhật, 79364 
thông tin được đăng tải lên tường và 510.040 bình luận được đăng tải. Cũng 
trong 1 phút, có hơn 6.600 bức ảnh đăng tải lên Flickr, hơn 320 tài khoản mới 
trên và hơn 98000 thông điệp được đẳng tải lên Twitter. 
- Dự kiến đến năm 2013, game thủ trên các mạng xã hội sẽ bỏ ra đến 6 tỉ USD 
để mua các vật dụng ảo trong game.   
Bảng ii.2: Tiềm năng đối với mạng xã hội thông qua vài con số   
2.3 / Một số bài toán đối với mạng xã hội   
Về tìm kiếm dựa trên quan hệ, hiện có khá nhiều bài toán liên quan có khả năng tận dụng 
để lấy ra kết quả phục vụ các mục đích khác nhau, thường là ứng dụng trong lĩnh vực xã 
hội học. Có thể chia các bài toán này ra làm hai dạng chính: tìm các quan hệ; phân tích  các đặc điểm. 
Một bài toán tìm quan hệ có thể có rất nhiều dạng, tựu chung lại, những bài toán dạng 
này làm nhiệm vụ tìm ra trong một tập hợp cá thể có mối quan hệ với nhau, một, hoặc 
một vài, hoặc một tập hợp con thỏa mãn một dạng quan hệ nào đó. Lấy ví dụ, có thể kể ra 
như tìm bạn chung (mutual friend) của hai hay ba người bất kỳ trong mạng xã hội. 
Kết quả của bài toán này có thể phần nào giúp chúng ta tìm hiểu điểm gặp nhau trong 
quan hệ giữa những người được chỉ ra, tức là phân tích tại sao giữa họ lại có mối quan hệ. 
Bài toán phân tích đặc điểm cũng là dạng bài toán được dùng khá nhiều trong nghiên cứu 
xã hội học. Ví dụ như bài toán tìm đường kính, là bài toán giúp giải quyết vấn đề tìm 
khoảng cách ngắn nhất giữa hai người (hai node) trong một mạng xã hội. Nó gần giống 
với thử nghiệm Small World nhằm tìm ra khoảng cách đủ để kết nối giữa hai người bất 
kỳ trên toàn nước Mỹ, và kết quả khá bất ngờ rằng khoảng cách trung bình nằm trong 
khoảng 5.5-6, tức là khá nhỏ so với người ta tưởng tượng.    Trang 9     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Có một bài toán tìm đặc điểm khác trong quan hệ là tìm tâm của một tập hợp các cá thể 
(các node). Kết quả của bài toán này sẽ cho thấy nút trong đồ thị mà khoảng cách từ nút 
đó tới mọi nút khác trong đồ thị của tập hợp các cá thể đó là ngắn nhất. 
Các bài toán trên đơn thuần là những bài toán dựa trên đồ thị, và nếu chỉ như vậy thì có lẽ 
rằng với một ma trận kề dạng như hình ii.3 các bài toán trên cũng có thể được giải quyết 
tương đối dễ dàng với một số thao tác tính toán không phức tạp bởi lẽ một đồ thị có thể 
được biểu diễn dưới dạng ma trận.       
Hình ii.3: Ma trận kề biểu diễn đồ thị gồm 4 đối tượng   
2.3.1 / Bài toán phân tích quan hệ        Trang 10     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Tạo lập mạng tri thức từ cơ sở dữ liệu không đồng nhất: Như Hình ii.3.1 ta có một cơ 
sở dữ liệu không đồng nhất, nhưng có mối quan hệ liên quan. Hệ cơ sở dữ liệu không 
đồng nhất này sẽ cho thấy thông tin về những blogger trong mạng xã hội, họ có thể đến 
từ nhiều quốc gia khác nhau, có những mối quan tâm tới các chủ đề khác nhau và làm 
những công việc khác nhau … Cấu trúc của hệ cơ sở dữ liệu này được biểu diễn dưới 
dạng mạng tri thức, trong đó mỗi đối tượng dữ liệu, hay một bản ghi được coi là một 
node riêng lẻ, và mối quan hệ giữa những đối tượng dữ liệu đó được biểu diễn như những 
liên kết hai chiều hay một chiều, tùy thuộc vào loại quan hệ giữa chúng là hai hay một  chiều.     
Hình ii.3.1 Cấu trúc cơ bản của một cơ sở dữ liệu không đồng nhất   
Hệ cơ sở dữ liệu không đồng nhất này được hình thành từ bốn hệ cơ sở dữ liệu nhỏ có thể 
nằm riêng rẽ tại các máy là WORLD database, TOPICS database, OCCUPATION 
database và BLOGGER database, mỗi cơ sở dữ liệu có một cấu trúc xác định riêng. 
WORLD Database (WDB): Hệ cơ sở dữ liệu này biểu diễn hệ thống quốc gia, vùng 
lãnh thổ, thành phố nhằm xác định nơi cư trú của những thành viên trong mạng xã hội                          Trang 11     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức        Hình ii.3.2 WORLD database   
WDB có bốn lớp, đầu tiên là “WORLD”, là gốc của CSDL. Lớp tiếp theo biểu diễn các 
lục địa (tiếng Anh: continents). Lớp tiếp theo là các quốc gia, và lớp cuối cùng là các 
thành phố, sẽ là những nơi sinh sống của các blogger. Các node ở các lớp liền kề sẽ được 
liên kết với node ở lớp trên bằng một liên kết “isa” (is a) một chiều như trong Hình ii.3.2 
TOPICS Database (TDB): Cơ sở dữ liệu này mô tả các chủ để mà các blogger quan 
tâm, cấu trúc của TOPICS database gần giống như của WORLD database với bốn lớp. 
Trong đó các lớp bên dưới thể hiện các topic như là topic con của các topic ở lớp trên. Và 
cũng như WORLD database, các nút lớp dưới có liên kết một chiều với các nút lớp trên 
với tên liên kết là “isa”. 
BLOGGER Database (BDB): Mô tả các blogger trong mạng xã hội và mối quan hệ bạn 
bè giữa họ. Ở mạng xã hội, quan hệ bạn bè là quan hệ hai chiều, do đó các liên kết sẽ 
không có mũi tên chỉ hướng.              Trang 12     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức       
Hình ii.3.3: Cơ sở dữ liệu tổng hợp   
2.3.2 / Bài toán phân tích đặc điểm   
Trong mạng xã hội, giữa các node, ngoài quan hệ là bạn bình thường, chúng ta có thể 
thiết lập những quan hệ phức tạp hơn và thực hiện tìm kiếm theo các mẫu cho trước. Một 
số ít các node sẽ có thuộc tính nghề nghiệp (job) nhận các giá trị như nhà báo 
(journalist) hay ca sĩ (singer). 
Tìm tất cả các node có đường nối trực tiếp tới hai node cho trước (bạn chung của hai 
node bất kỳ cho trước) – Hình ii.3.4 
Cho trước hai node A và B, tìm tất cả các node có đường nối trực tiếp với node A và nối 
với node B qua một node trung gian (tìm tất cả các node có khoảng cách với A là 1, 
khoảng cách với B là 2) – Hình ii.3.5.    Trang 13     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức      Hình ii.3.4 
Bạn chung của node D và E là hai node C và B      Hình ii.3.5.   
2.3.3 / Bài toán tìm đường đi ngắn nhất   
Từ node nguồn tìm một cây đường đi ngắn nhất (shortest-path tree) tới tất cả các node  khác trong đồ thị. 
Sau khi tìm được cây đường đi ngắn nhất, tới node đích, lần vết ngược trở về node bắt 
đầu để tìm ra dãy đường đi ngắn nhất giữa hai node. 
Chúng ta tìm cây đường đi ngắn nhất bằng cách loang theo chiều rộng. Ở mỗi node, có 
một biến cục bộ để đánh dấu tình trạng của node là đã được thăm hay chưa được thăm. 
Thuật toán bắt đầu bằng việc nhảy tới node nguồn, từ nút nguồn di chuyển tới tất cả các 
node có đường nối trực tiếp với node nguồn, kiểm tra nếu biến cục bộ lưu tình trạng của 
node đang ở trạng thái chưa được thăm thì gán giá trị của biến cục bộ đó bằng địa chỉ của    Trang 14     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
node mà chuỗi wave vừa từ đó di chuyển tới node hiện tại. Lặp lại việc di chuyển tới tất 
cả các node có đường nối trực tiếp với node đang đứng. Trong WAVE có lệnh “##” di 
chuyển sang các nút lân cận trừ node mà từ đó đã tới nó. Do vậy chuỗi WAVE sẽ di 
chuyển sang các node có đường nối trực tiếp với các node hàng xóm của node nguồn 
nhưng không di chuyển trở về node nguồn. Loang cho tới khi thăm xong toàn bộ đồ thị. 
Sau khi đã tạo được cây đường đi ngắn nhất. Nhảy tới node đích, di chuyển ngược về 
node khởi đầu dựa vào biến cục bộ lưu tình trạng tại mỗi node và lưu đường đi vào một  biến toàn cục. 
Từ các node B, C, D di chuyển tới các node có đường nối trực tiếp với B, C, D – mũi tên 
màu xanh biển. Do có ba nhánh WAVE nên chuỗi WAVE sẽ di chuyển tới các node B, 
C, D, E, F, G. Ở các node B, C, D, biến Nback đã có giá trị. Nên chuỗi WAVE sẽ bị 
dừng. Còn ở ba node E, F, G biến Nback vẫn có giá trị NONE – node chưa được thăm 
nên chuỗi WAVE sẽ tiếp tục lan tỏa. Từ E, F, G chuỗi WAVE lại tiếp tục lan tỏa tới hai 
node chưa được thăm là H và I. Ở hai node H và I, chuỗi WAVE dừng do không tìm thấy  node nào chưa thăm.      Hình ii.3.6.   
2.3.4 / Bài toán tìm đường kính   
Định nghĩa đường kính của một đồ thị: Đường đi ngắn nhất giữa hai node trong đồ thị 
được gọi là khoảng cách giữa hai node đó. Khoảng cách dài nhất giữa hai node trong đồ 
thị gọi là đường kính của đồ thị. Với đồ thị trong hình 9, khoảng cách giữa node D và 
node H chính là đường kính của đồ thị với độ dài đường kính là 3    Trang 15     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức       
Thuật toán tìm đường kính: Bài toán tìm đường kính của đồ thị có thể coi là một bài toán 
mở rộng của bài toán tìm cây đường đi ngắn nhất. Ta tìm đường đi ngắn nhất giữa tất cả 
các cặp node trong đồ thị, và đường kính tương ứng sẽ là đường dài nhất trong số những 
đường ngắn nhất. Để giải quyết bài toán một cách hiệu quả, ta đặt chuỗi wave vào tất cả 
các node trong đồ thị và tìm kiếm cây đường đi ngắn nhất của tất cả các node một cách 
song song. Độ dài đường đi ngắn nhất từ tất cả các node khác trong đồ thị tới node hiện 
tại được lưu tại một biến cục bộ tại node hiện tại, biến này có dạng vector, với mỗi phần 
tử là một khoảng cách tới một node trong đồ thị. Để xác định chính xác khoảng cách nào 
ứng với node nào từ node hiện tại, ta sử dụng một biến cục bộ khác lưu địa chỉ của node 
đi kèm biến lưu khoảng cách. Biến này cũng có dạng vector với các phần tử là tên của 
các node trong đồ thị, các phần tử trong vector khoảng cách và vector tên node được xếp 
một cách tương ứng nhau. 
Ví dụ với node hiện tại là node A: Biến vector Ndistance lưu khoảng cách:    1  1  1  2  2  2  3  4 
Biến vector Nsource lưu tên các phần tử ứng với khoảng cách lưu tại biến Ndistance:    B  C  D  E  F  G  H  I 
Sau khi thực một cách song song hiện thuật toán tìm cây đường đi ngắn nhất tại tất cả các 
node, chúng ta nhận được ở biến Ndistance ở mỗi node khoảng cách từ node đó tới tất cả 
các node còn lại trong đồ thị. Khoảng cách lớn nhất trong những khoảng cách này (tính ở 
tất cả các node) – gọi là đường kính – được tìm qua hay bước: Đầu tiên tìm khoảng cách  Trang 16     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
lớn nhất cục bộ trong các phần tử của vector Ndistace tại mỗi node, sau đó tìm khoảng 
cách lớn nhất toàn cục là giá trị lớn nhất của các khoảng cách cục bộ. 
2.3.5 / Bài toán tìm tâm và bán kính   
Một khái niệm quan trọng khác trong đồ thị là tâm của đồ thị. Tâm của đồ thị là một node 
mà khoảng cách lớn nhất từ node đó tới một node khác bất kì trong đồ thị là nhỏ nhất. 
Bán kính là độ dài khoảng cách từ tâm tới node xa nhất trong đồ thị      Hình ii.3.7.   
Ví dụ như với đồ thị Hình ii.3.7 tâm của đồ thị là B và bán kính của đồ thị là khoảng cách 
từ B tới node xa nhất là 2. A không thể là tâm vì khoảng cách từ A tới node xa nhất – 
node H - là 3, lớn hơn khoảng cách từ B tới H 
Thuật toán: Để tìm node có khoảng cách tới một node bất kì trong đồ thị là ngắn nhất so 
với các node khác, với tất cả các node trong đồ thị, ta tìm khoảng cách xa nhất từ node đó 
tới các node còn lại trong đồ thị. Trong các khoảng cách tìm được, node nào có khoảng 
cách ngắn nhất chính là tâm của đồ thị. 
Ta có thể sử dụng kết quả tìm cây đường đi ngắn nhất của bài toán tìm đường kính trong 
đồ ở mục 3.5, bán kính cần tìm chính là giá Dmax nhỏ nhất được lưu trong cơ sở dữ liệu. 
CHƯƠNG III. PHÂN TÍCH MẠNG XÃ HỘI TRONG MARKETING   
3.1 / Dưới góc nhìn mạng lưới        Trang 17     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Trọng tâm của việc phân tích mạng là tìm hiểu về các cấu trúc thuộc tính ảnh hưởng đến 
hành vi (Wellman 1983). Nhiều nghiên cứu marketing quan tâm đến mối quan hệ, tuy 
nhiên không đơn giản là thu thập thông tin về đặc điểm của các thành viên trong mạng 
chẳng hạn như kích thước mạng (như số lượng các liên kết chiến lược) tần số tương tác 
(số lần trong một tháng tìm kiếm từ thông tin cá nhân) hay loại quan hệ (số lần khuyến 
nghị nhiều hay ít). Những thông tin này rất hữu ích nhưng giới hạn trong việc xác định 
cấu trúc mạng lưới ảnh hưởng tới các thành viên trong mạng như thế nào. 
Thông tin về mối tương quan giữa các thành viên trong mạng lưới là cần thiết để điều tra 
cấu trúc của vấn đề. Các vấn đề, chẳng hạn như việc phân cấp hoặc tập trung mạng lưới 
nhằm thúc đẩy độ tin cậy giữa các thành viên trong mạng lưới hay có ảnh hưởng như thế 
nào trong việc tham chiếu đến nhóm bên trong mạng lưới dày đặc so với mạng lưới thưa 
thớt hoặc cạnh user nằm vị trí bên trong lõi hay bên ngoài, gọi là dữ liệu liên kết trực tiếp 
hay gián tiếp trong đó cung cấp các cơ hội khác nhau và hạn chế cho các thành viên tham 
gia mạng lưới. Phân tích mạng xã hội do đó việc định lượng điều tra các cấu trúc thuộc 
tính mà không thể thực hiện từ các nghiên cứu hoặc đặc điểm cá nhân hay từ mối quan hệ  đơn giản. 
3.2 / Dữ liệu mạng lưới   
3.2.1 / Các yếu tố mạng lưới   
Mạng lưới bao gồm các thành viên được gọi là các actor và các mối quan hệ của họ. Các 
actor trong một mạng lưới được phân biệt từng các cá nhân (các thành phần trong một 
nhóm) hoặc đơn vị tập thể (các tổ chức trọng một ngành công nghiệp cụ thể). Mối quan 
hệ này link đến các thành viên trong mạng lưới. Các liên kết có thể theo hướng trực tiếp 
khác nhau (đối xứng hay bất đối xứng) khả năng (tích cực, trung tính, tiêu cực), yêu tố 
(mạnh, trung hòa, yếu) và nội dung (tư vấn tìm kiếm, chia sẽ tài nguyên, thông tin liên  lạc…). 
3.2.2 / Ma trận dữ liệu trong mối quan hệ        Trang 18     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Một bộ tập dữ liệu tiêu chuẩn bao gồm một tập các thông tin (các hàng của ma trận) và 
sự đáp lại của họ với một tập các câu hỏi về các thuộc tính của họ trong các vấn đề cụ thể 
(các cột của ma trận). Kết quả là một actor theo thuộc tính ma trận. Một bộ dữ liệu về 
mối quan hệ được sử dụng trong phân tích mạng lưới cũng bao gồm một tập các thông tin 
(các hàng của ma trận) nhưng sự đáp lại của họ là một tập các câu hỏi về các mối quan 
hệ với các actor cụ thể. Kết quả là một actor theo actor ma trận không phải là một actor  theo thuộc tính ma trận. 
Thông thường, thông tin về mối quan hệ thu được cho tập các actor đơn lẻ (tài nguyên 
chia sẽ giữa tất cả các thư viện trong nước úc). Điều này được tham khảo như là một cơ 
chế mạng lưới. Không phải tất cả các mối quan hệ có liên quan đến cùng một tập các 
actor (người mua/nhà cung cấp, thương hiệu người tiêu dùng trung thành). Trong trường 
hợp này thông tin về mối quan hệ thu được trên 2 tập các actor khác nhau, trong đó các 
actor trên các hàng khác nhau từ các actor trên các cột. Loại mạng lưới này được gọi là 
mạng lưới two-mode. 
Sự tồn tại giữa 2 actor được nhập vào trong một số nhị phân ma trận kề về dữ liệu các 
mối quan hệ như là “1” nếu có hoặc “0” ngược lại. Cho các mối quan hệ trong đó có 
thông tin giá trị đã nhận được (các tần số tương tác sức mạnh, thời gian, sự thân mật) 
một số thực được nhập vào. Giá trị dữ liệu có lẽ nhập vào giống như dữ liệu trong đó số 
lượng lớn trong ô của đại diện ma trận nút mạnh mẽ (thời gian mối quan hệ) hoặc khoảng 
cách dữ liệu mà giống như một road map nơi chỉ về mối quan hệ gần gũi hay mối quan 
mạnh mẽ hơn (cấp bật thứ tự “1” là quan trọng nhất là “5” là ít quan trọng nhất). 
Bảng iii.1 là một mẫu về dữ liệu ma trận kề cho các thông tin liên lạc giữa 27 phòng thí 
nghiệm ở úc mà sớm được chấp nhận của một công nghệ cụ thể. Đọc qua thấy rằng các 
hàng cho thấy actor 4 báo cáo một liên lạc với actor 25, nhưng lưu ý rằng actor 25 không 
báo cáo một liên lạc nào với actor 4. Kể từ về mặt lý thuyết thông tin liên lạc là một mối 
quan hệ lẫn nhau, ví dụ điều này sự quan tâm và độ tin cậy như với các dữ liệu thuộc 
tính, các vấn đề chất lương dữ liệu với dữ liệu quan hệ phải được xem xét (Marsden 
1990). Nghiên cứu đã chỉ ra rằng tổng thể mọi người được tốt hơn tại báo cáo về sự    Trang 19     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
tương tác của họ và loại các mối quan hệ hơn tại các báo cáo về các nối kết cụ thể được 
xãy ra trong khoảng thời gian hạn chế (Bernard, Killworth, Kronenfeld và Sailer 1984; 
Freeman, Romney và Freeman 1987).     
Bảng iii.2.1: Mạng lưới liên lạc cho 27 phòng lab   
3.2.3 / Bộ sưu tập dữ liệu   
Tất cả dữ liệu tiêu chuẩn các kỹ thuật thu thập gồm khảo sát, phỏng vấn, quan sát, thử 
nghiệm, tài liệu phân tích và nhật ký có thể được sử dụng để có được dữ liệu mạng lưới. 
Sự khác biệt chính là cấp bậc cụ thể. Các nghiên cứu về mối quan hệ trong marketing chủ 
yếu đã yêu cầu cung cấp thông tin để chỉ ra các loại actor mà có một vài mối quan hệ (khi 
tìm kiếm cho các thông tin về địa điểm kỳ nghỉ, trong đó các nguồn sau đây mà bạn sử 
dụng : bạn bè, gia đình, đồng nghiệp và đại lý du lịch?). Những nghiên cứu sau đó phân 
tích các dữ liệu trong một cách tiêu chuẩn và phân loại báo cáo phát hiện ( nhiều người sử    Trang 20     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
dụng các nguồn tin cạnh gia định và bạn bè, thông tin liên quan đến địa điểm kỳ nghỉ 
hơn là các mối quan hệ ít tin cậy). Chìa khóa chính để xây dựng một mạng lưới nghiên 
cứu là để gợi lên những thông tin liên quan đến các mối quan hệ cụ thể giữa các actor rõ 
ràng (liêt kê tên hoặc chữ cái đầu tiên tất cả những người mà bạn muốn đi đến địa điểm 
thông tin về kỳ nghỉ). Khi các actor cụ thể được xác định sau đó bổ sung thông tin về mối 
quan hệ (danh sách các actor như là bạn hay bạn của bạn? có mối liên hệ với nhau ngoài 
xã hội?) cũng như thông tin về các thuộc tính có liên quan để tiếp cận (actor là nam hay  nữ?). 
Thu thập dữ liệu cũng phụ thuộc vào trọng tâm của nghiên cứu. Là mục tiêu để khám phá 
một actor đơn lẽ trong tất cả các actor có ý nghĩa các mối quan hệ có thể được xác định 
(sự khuyếch tán của một sự đổi mới trong nghiên cứu tại Úc) hoặc là các nghiên cứu có 
liên quan với việc so sánh mạng lưới giữa các actor tham gia trong một mạng riêng biệt 
(khách hàng về phẩu thuật khảo sát không nhất thiết phải kết nối đến người khác mặc dù 
một nghiên cứu có thể điều tra để mở rộng mạng lưới cá nhân ảnh hưởng đến quyết định 
của họ trong đó chọn lựa bác sỹ phẫu thuật?). Khi mục tiêu được map mạng lưới hoàn 
chỉnh bao gồm các mối quan hệ giữa các thành viên gồm một cộng động, nó được tham 
chiếu như là một trung tâm nghiên cứu xã hội. Dữ liệu các mối quan hệ có liên quan thu 
được cho mỗi actor trong mạng lưới. Điều này cho phép một phân tích hoàn chỉnh gồm 
tổng quan về cấu trúc mạng lưới cũng như phân tích một vị trí cho mỗi actor trong mạng. 
Ego-centric hoặc mạng lưới cá nhân được tập trung trên một dấu vết actor ( ego) và mối 
quan hệ của (ego) đến một tập các ego khác cộng với mối quan hệ giữa các alters. Nếu 
không có thông tin trên các mối quan hệ tương quan giữa ego's alters, phân tích một ít 
cấu trúc có thể thực hiện như là các thông tin thu được là ego’s dyadic để giới hạn số 
lượng của alters (McCarty 2002). Báo cáo thông tin bằng lời là cách phổ biến chung để 
thu thập thông tin có liên quan. Cho một nghiên cứu khảo sát nhỏ (50 actor hoặc ít hơn) 
socio-centric được sử dụng. Mối quan hệ dữ liệu được lấy ra từ nhiều actor, thông tin 
được cung cấp một số loại công việc và yêu cầu để xác định nhưng người anh/chị có mối 
quan hệ đặc biệt (xem Weller and Romney 1988 mô tả các kỹ thuật khác nhau). Các kỹ 
thuật nhận dạng phổ biết là để cung cấp thông tin tới danh sách tên của tất cả các actor    Trang 21     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
trong hệ thống mạng lưới. Thông tin cung cấp sau đó cho thấy các mối quan hệ cặp đôi 
anh/chị được kết nối. Kết quả này thông tin về mối quan hệ trong vector duy nhất cho 
từng thông tin cung cấp. Những vector này sau đó kết hợp để tạo thành một hình vuông 
actor bởi ma trận quan hệ actor. Dữ liệu có thể thu được bằng các thông tin được cung 
cấp sử dụng một số loại đánh giá xếp hạng (như cấp bậc đầy đủ, so sánh các cặp, ba 
hoặc quy mô kết nối). Với phương pháp phân công, cung cấp thông tin báo cáo không 
xem xét làm thế nào các thành viên trong mạng lưới được kết nối với nhau để có được 
từng thông tin toàn cầu mạng lưới, các kỹ thuật sắp xếp (Webster 1994) và phương pháp 
cấu trúc dựa trên kinh nghiệm có thể được sử dụng (Krackhardt 1987). 
Đối với các mạng tương đối lớn (Burt và Ronchi 1994) và các mạng lưới ego-centric, các 
nhiệm vụ nhận dạng là không thể, thay vào đó thông tin cung cấp được yêu cầu nhớ lại 
cho các mối quan hệ cụ thể của họ. Hai phương pháp thu thập dữ liệu trong mạng lưới: 
tạo tên và vị trí tạo (thủ tục và một danh sách các câu hỏi được thấy Burt 1984; 
Killworth, McCarty, Bernard, Johnsen, Domini và Shelley 2003; McCallister và Fischer 
1978; van der Poel 1993). Với việc tạo tên, thông tin cung cấp được yêu cầu gọi lại các 
actor (ví dụ như: con người, tổ chức, phòng ban hoặc bất cứ đơn vị được phân tích) với 
người mà họ có một mối quan hệ đặc biệt chẳng hạn như “thảo luận các vấn đề quan 
trọng”. Tên cũng có thể được sử dụng để thử nghiệm. Một tên được quy định (ví dụ: Sue 
hoặc Red Cross hoặc kế toán) và thông tin cung cấp được yêu cầu cho họ biết hoặc có 
một mối quan hệ đặc biệt với một tên của actor đó. Với vị trí tạo, vai trò hay vị trí ( ví dụ 
như: bác sỹ, chính trị gia, thiếu niên hoặc một tổ chức từ thiện, một tổ chức tài chính… ) 
được sử dụng như là tác nhân và thông tin cung cấp được yêu cầu cho dù có một nối kết 
đến vài cá nhân hay vài tổ chức trong vai trò đó. 
3.3 / Phân tích mạng lưới   
3.3.1 / Biểu diễn bằng ảnh đồ thị   
Một trong những lợi thế của phân tích mạng lưới là sử dụng lý thuyết đồ thị. Đồ thị cho 
phép một hình ảnh đại diện gồm cấu trúc và vị trí mối quan hệ của các thành viên trong    Trang 22     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
mạng lưới (Freeman 1984; Hage và Harary 1983; Moreno 1953). Trong một đồ thị 
mạng lưới các actor được hiển thị như là các điểm (gọi là node) và các mối quan hệ giữa 
các actor được thể hiện như một đường nối kết với các node. Khi một mối quan hệ lẫn 
nhau giữa các actor được thể hiện bằng các mũi tên với điểm đầu và kết thúc. Một mối 
quan hệ đó là đầu một mũi tên duy nhất chỉ trực tiếp từ actor này đến actor khác. Hình 
iii.3.1 là một đồ thị gồm các thông tin liên lạc trong cùng mạng lưới cho 27 phòng thí 
nghiệm tại Úc trong bảng iii.2.1 một hình ảnh khám phá cấu trúc mạng lưới một cách 
nhanh chóng mà phần lớn các mối quan hệ liên lạc trực tiếp tại 6 phòng lab: 4, 8, 10, 76, 
78 và 106. Hầu hết các phòng lab còn lại nhận được ít hơn 3 mối liên hệ với 5 phòng lab 
20, 22, 173, 175, 177 không nhận được liên hệ mật thiết nào. Điều này cho thấy một cấu 
trúc cốt lõi bên ngoài mạng lưới với phòng lab nào đó sẽ được ưu tiên liên lạc đối tác 
hoặc quan trọng hơn để thông tin liên lạc hơn là những người khác.     
Hình iii.3.1: mạng lưới liên lạc cho 27 phòng lab tại Úc   
Thông tin thuộc tính kết hợp gồm các actor có thể dẫn đến những hiểu biết thêm, ví dụ 
phòng lab 10 và 202 thông quan một công nghệ đặt biệt nhiều so với các thành viên trong 
mạng lưới khác. Hai phòng lab tuy nhiên không phải kết nối trực tiếp đến một phòng lab 
khác và các vị trí rất khác nhau trong mạng lưới. Nhiều phòng lab báo cáo một truyền  Trang 23     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
thông liên lạc với phòng lab 10 hai trong số đó là phòng lab 8 và phòng lab 4. Phòng lab 
202 báo cáo 7 mối quan hệ nhưng không qua lại và chỉ khi 3 phòng lab báo cáo có một 
mối quan hệ đến phòng lab 202. Bốn phòng lab 8, 76, 18 và 152 áp dụng công nghệ này 
trong 3 năm. Lưu ý rằng phòng lab 8 là phòng lab chỉ các báo cáo có mối quan hệ liên lạc 
đến 2 phòng lab 10 và 202. Tất cả các phòng lab khác có các quan hệ 10 hoặc 202, nhưng 
không phải là cả hai. Trong các năm sau phòng lab 4, 110, 25, 177 và 48 áp dụng cộng 
nghệ này. Một lần nữa các phòng lab có mối quan hệ trực tiếp đến chỉ một trong cái đầu 
tiên chấp thuận không được cả 2. Nhưng điểm được phát hiện để chỉ ra một số bộ phận 
bên trong mạng lưới mà có thể xuất phát từ 2 phòng thí nghiệm sáng tạo. 
3.3.2 / Các biện pháp của mạng lưới   
Một mạng lưới liên quan nhiều hơn 20 actor, nó trở nên khó khăn để phân tích đầy đủ về 
hình ảnh trực quan. Định lượng được yêu cầu. Hai dòng cơ bản của yêu cầu trong phân 
tích mạng lưới là gồm liên kết phân nhóm vai trò và vị trí actor. Từ 50 biện pháp mạng 
lưới tồn tại, chúng tôi xem xét mà đã được sử dụng trong marketing và thảo luận các lý 
thuyết có liên quan. Tất cả các biện pháp mạng lưới có liên quan và hiển thị hình ảnh trực 
quan được tạo ra bằng chương trình phần mềm mạng Ucinet 6 (Borgatti, Everett và  Freeman 2002). 
3.2.1 / Sự gắn kết và gom cụm   
Mật độ là một biện pháp phổ biến nhất của mạng lưới kết dính. Nó đo lường mức độ mà 
tất cả các mối quan hệ tích cực được thể hiện cho bất kỳ một mạng lưới nào. Nó là số 
lượng của mối quan hệ thực tế bằng cách chia cho tổng số lượng mối quan hệ tích cực. 
Mật độ có thể tính toán cho toàn bộ mạng lưới nói chung như là cho mỗi mạng lưới cá 
nhân. Mật độ tổng thể cho liên lạc mạng lưới ví dụ là 22.79%, một chỉ số tương đối lỏng 
lẻo trong mạng. Mật độ cho mạng lưới phòng lab 210 là 66.67%. Phòng lab 210 có mối 
quan hệ trực tiếp đến phòng lab 4, 152, 202 nhưng mối quan hệ tích cực giữa phòng lab 4 
và 202 không hiển thị. Vì vậy mạng lưới phòng lab 210 có 2 mối quan hệ hiện tại (4, 152 
và 152, 202) có thể xãy ra mật độ gồm 66.67%. Mật độ mạng lưới là khuyến khích cộng    Trang 24     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
tác và hợp tác giữa các actor có liên quan bởi vì tất cả mọi người trực tiếp đầu tư với 
nhau. Cùng hợp tác phù hợp với thiết lập hệ thống và định mức. Lợi ích của các mạng 
lưới loose-knit các actor lựa chọn các hoạt động khác nhau. Cadeaux 1997 bài viết về suy 
nghĩ về các sản phẩm đủ điều kiện. Ông ta quan sát thấy rằng mật độ, mạng lưới dẫn đến 
tiêu chuẩn hoá các sản phẩm, nhưng điều này lần lượt tăng cường cung cấp sự đa dạng. 
Ông ta cũng cảnh báo rằng các mạng lưới với mật độ thấp có thể là khá cứng nhắc và chỉ 
những actor với các trạng thái đầy đủ có thể tham gia đàm phán mối quan hệ trao đổi của 
họ. Sự phát hiện phân chia nhóm trực tiếp đã tiếp tục quan trọng trong marketing. Trong 
một nghiên cứu Wilkinson (1976) so sánh hai phương pháp xác định phân chia nhóm để 
khám phá ra nguồn lực các mối quan hệ và các mối quan hệ ảnh hưởng trong các kênh 
phân tán. Reingen, Foster, Brown and Seidman (1984) tìm thấy rằng có sự tác động đáng 
kể trong lựa chọn hành vi thương hiệu. Clique (Luce and Perry 1949) là một mật độ phân 
chia nhóm mạnh mẽ trong mạng lưới. Chúng là một tập hợp các actor người mà có thể 
trực tiếp kết nối với nhau và không bổ sung thành viên mạng lưới mà có thể được bổ 
xung trực tiếp các kết nối để tất cả mọi người trong một tập con. Do xác định nghiêm 
ngặt của clique các loại mạng lưới bao gồm số lượng tương đối lớn mà có kích thước nhỏ 
với mốt số lượng chồng chéo giữa các thành viên.   
Hình iii.3.2.1: thứ bậc gom cụm của cộng đồng thành viên Clique   
Trong tổng số 38 cliques được xác định tại mạng lưới liên lạc phòng lab ở Úc. Phòng lab 
10 là thành viên 19 trong số 38 cliques trong khi đó phòng lab 202 tham gia vào 5 
cliques. Lưu ý rằng sự chồng chéo trong 5 cliques: {C1 = 202, 78, 26, 6; C2 = 202, 78,    Trang 25     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
25; C3 = 202, 78, 152; C4 = 202, 152, 210; C5 = 202, 106, 170}. Một phân cấp cluster 
của cộng đồng thành viên tại hình iii.3.2.1, cho thấy cấu trúc phân nhóm chung toàn bộ 
mạng lưới (Freeman 1996). Rõ ràng có 2 nhóm chính với 2 phòng lab sáng tạo ở mỗi vị  trí riêng biệt. 
Có lẽ lý thuyết mạng lưới tốt nhất trong marketing là điểm mạnh-yếu về mối quan hệ 
(Granovetter 1973, 1983), kết hợp với những khái niệm gồm sự gắn kết và phân nhóm. 
Đề xuất về mối quan hệ mạnh yếu mà các actor trong một xu hướng mạng lưới để có 
được thông tin mới từ những mối quan hệ thân mật chứ không phải từ quan hệ gần gũi 
của họ. Với lý do đằng sau lập luận này là các actor người mà có xu hướng kết nối mạnh 
mẽ để chia sẽ thông tin của họ với nhau và vì thế có cùng tri thức tương tự nhau. Từ khi 
có cùng tri thức trong một nhóm gần gũi gồm các actor đồng nhất, xu hương thông tin 
mới đến từ các nguồn kết nối bên ngoài mà có thể là yếu. Điều này cho thấy rằng các mối 
quan hệ yếu đóng vai trò như “cầu nối” phổ biến các thông tin mới nhất từ vị trí dày đặc 
của một mạng lưới khác. Reingen và cộng sự là những người đầu tiên sử dụng hình thức 
mạng lưới này để kiểm tra lý thuyết có liên quan đến điểm mạnh của lý thuyết về mối 
quan hệ yếu trong một môi trường dịch vụ marketing (Brown và Reingen 1987; Reingen 
và Kernan 1986). Ngoài ra để hỗ trợ chung cho lý thuyết về mối quan hệ mạnh yếu à mối 
quan hệ yếu thúc đẩy luồng thông tin thông qua mạng bằng các hành động như cầu nối 
giữa các nhóm con dày đặc, họ nhận thấy rằng mối quan hệ mạnh với số lượng nhiều hơn 
và ảnh hưởng nhiều hơn như nguồn thông tin nhưng ít có chủ động được tìm thấy. Rõ 
ràng nhiều thông tin từ mối quan hệ mạnh là đạt được thông qua mỗi ngày, tương tác 
thường không từ mục đích tìm kiếm. 
Mối quan hệ mạnh yếu đã được mở rộng hơn nữa để bao gồm các loại thông tin trao đổi. 
Kết quả thử nghiệm của Frenzen và Nakamoto’s (1993) cho thấy rằng xu hướng các cá 
nhân cho phép thông tin giá trị mà có khả năng cung cấp những lợi ích tích cực được giới 
hạn chỉ theo mối quan hệ mạnh mẽ. Như các thông tin trở nên có ích và rẻ tiền được phép 
trở nên phổ biến, mối quan hệ yếu được phát triển. Phát hiện của họ chỉ ra rằng động lực 
có thể là cách mà các actor sử dụng cho mạng lưới cá nhân của họ.    Trang 26     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
3.2.2 / Vai trò và vị trí   
Nơi mà các actor được đặt trong một mạng lưới có thể có hiệu suất ảnh hưởng rộng lớn. 
Khái niệm của centrality thu hút sự nghiên cứu trong marketing cho cùng thời điểm. 
Centrality đã được đánh giá với tập phổ biến, độc lập, ảnh hưởng, nổi bật, nội tại 
(Bonnacich 1987; Freeman 1979; Katz 1953; Taylor 1969). Điều đó cho rằng các actor 
trong vị trí trung tâm được truy cập đến nhiều tài nguyên hơn và thường có thể kiểm soát 
luồng tài nguyên đến mức độ lớn trên toàn mạng lưới. Actor bên ngoài dễ bị tổn thương 
bởi vì họ phụ thuộc chỉ trên một vài mối quan hệ. 
Degree Centrality là một centrality cơ bản nhất và cho biết mức độ hoạt động hay phổ 
biến. Nó có thể tính toán trên cả hai mối quan hệ là tổng số lượng mối quan hệ incoming 
và tổng số lượng mối quan hệ outgoing. Czepiel (1974, 1975) sử dụng khái niệm 
centrality đo được bằng số lượng các mối quan hệ nhận được để nghiên cứu đổi mới phổ 
biến và được tìm thấy centrality đó đã được kết hợp rất sớm mặc dù mối quan hệ không 
có nghĩa. Ông cũng lưu ý rằng quy mô một doanh nghiệp có liên quan với cả 2 mối quan 
hệ nhận được và thời điểm chấp nhận, các công ty lớn có xu hướng nhận nhiều mối quan 
hệ hơn nhưng sau đó mới chấp nhận và các đề nghị bao gồm cả hai actor và đặc điểm 
mức độ ngữ cảnh trong bất kỳ sự nghiên cứu của mạng lưới. 
Một ví dụ mạng lưới thông tin liên lạc ở hình iii.3.1 cho thấy phòng lab 10 centrality nhất 
có mối quan hệ nhận được phòng lab 16 với lab 4, 76 và 78 tiếp theo nhận được phòng 
lab 9. Bảng xếp hạng centrality khác nhau cho các mối quan hệ với phòng lab 4 hầu hết 
điều gửi đến tổng số 10 mối quan hệ, phòng lab 202 tiếp theo được gửi với 7 mối quan hệ 
và phòng lab 46 và 110 gửi đến 6 mối quan hệ. Phòng lab 10 chỉ báo cáo có 2 mối quan 
hệ liên lạc đến các thành viên trong cùng mạng lưới. Rõ ràng phòng lab 10 là phổ biến 
nhất trong khi phòng lab 4 là thành viên hoạt động nhiều nhất. Kích thước tương quan 
Pearson, centrality và thời điểm áp dụng chỉ ra các kết hợp cho thời gian áp dụng và 
centrality trong đó nhiều trung tâm mạng lưới truyền thông liên lạc áp dụng trước đó 
(thời điểm mối quan hệ mạng lưới áp dụng incoming pearson's r = -.278, p<.05; mối 
quan hệ outgoing pearson's r = -.280, p<.05). Ví dụ này không có nghĩa là mối quan hệ    Trang 27     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
giữa kích thước với số lượng toàn thời gian nhân viên, ngân sách các ủy quyền và 
centrality (mối quan hệ nhân viên incoming=.097; outgoing=.044; ngân sách 
incoming=-.081; ngân sách outgoing=-.121).   
Hình iii.3.2.2: cấu trúc CONCOR kết quả đánh giá cho mối quan hệ Incoming   
Cấu trúc tương đương (Lorrain và White 1971) là một phương pháp xác định vị trí các 
actor có mối quan hệ cấu trúc giống nhau. Cấu trúc tương đương các actor là để thay thế, 
giữ vai trò trong mạng lưới, không phải vì họ trực tiếp kết nối đến các actor khác nhưng 
vì họ nối kết chính xác đến cùng những người khác cần kết nối. Trao đổi tài nguyên 
không xãy ra trực tiếp, nhưng thông qua việc truy cập vào bên thứ 3. Một ví dụ mà chúng 
ta có thể mong đợi cấu trúc tương đương để giữ được các tình huống cạnh tranh nơi mà 
các doanh nghiệp cạnh tranh có được thông tin từ nhà cung cấp thứ 3 chứ không phải là 
từ đối thủ cạnh tranh trực tiếp (Burt 1987). Ward và Reingen (1990) sử dụng CONCOR 
(Breiger, Boorman và Arabie 1975) để cấu trúc tương đương các actor trong nghiên cứu 
của họ về quyết định marketing. CONCOR (dựa trên CONvergence gồm tương tác 
CORrelations) nơi mà các actor trong một tập cấu trúc tương đương hoặc các vai trò cấu 
trúc dựa trên sự hội tụ của các mối tương quan lặp. Về cơ bản dữ liệu về mối quan hệ 
mạng lưới được nhập vào như một actor bằng ma trận kề. CONCOR lặp tương quan giữa 
hàng hoặc cột hoặc cả hai dữ liệu ma trận có được kết quả hội tụ trong mỗi mục 1 hoặc    Trang 28     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
-1. Ma trận này được sử dụng để phân chia các actor mạng lưới thành 2 tập tương đương 
để nói rõ các thành viên cùng tương quan tích cực và tập các thành viên khác tương quan 
tiêu cực. Tiếp theo tập này được chia để áp dụng cho các bộ riêng biệt. 
Hình iii.3.2.2 cho thấy kết quả nhận được các mối quan hệ liên lạc sử dụng CONCOR. Số 
lượng trong cột bên trái đại diện cho cùng các actor như thấy hình iii.3.1. Bốn bộ tương 
đương được xác định. Một trong những vai trò các tập bao gồm phòng lab 4, 76, 106 và 
26. Trong khi các phòng lab không trực tiếp kết nối với nhau, họ đã nhận được các mối 
quan hệ từ cùng một số phòng lab khác đặc biệt phòng lab 6, 46 và 110. Lưu ý các phòng 
lab 10 và 202 không giữ vai trò cùng mạng lưới. Mặt dù họ có 2 điểm sáng tạo trong 
mạng lưới cấu trúc họ không thể thay thế bởi vì họ được kết nối khác nhau. Kết quả này 
đặt ra câu hỏi về tính hữu dụng của cấu trúc tương đương như là phương pháp để xác 
định vai trò trong mạng lưới. Trong phần phân tích lại của Coleman, Katz và Menzel’s 
(1966) phân loại tập dữ liệu y học, van den Bulte và Lilien (2001) kết hợp các biến 
marketing với cấu trúc tương đương và kết luận rằng hiệu quả mạng lưới biến mất khi 
chiến lượt marketing được đưa vào trong tài khoản. Kết quả của họ gọi là sự chú ý đến 
tầm quan trọng bao gồm các biến tình huống trong tất cả nghiên cứu. 
3.4 / Social Media marketing một hình thức mới của truyền thông   
Các phương tiện truyền thống như tivi, báo chí, phát thanh và tạp chí là một cách tiếp cận 
tĩnh. Ví dụ các tạp chí xuất bản là một tổ chức phân phối lớn nội dung đắt tiền cho người 
tiêu dùng, trong khi các nhà quảng cáo trả tiền cho việc chèn thêm nội dung quảng cáo  của họ vào. 
Các mạng xã hội có thể sử dụng như là công cụ tuyệt với cho những người thường chia sẻ 
lợi ích chung hay các hoạt động. Họ thường cung cấp nhiều cách khác nhau để cho người 
dùng tương tác với nhau, và mỗi cá nhân ai muốn tham gia vào một trang mạng xã hội, 
họ phải tạo hồ sơ cá nhân của mình, hồ sơ này mô tả về cá nhân của mình, nhu cầu và 
những mong muốn. Thông qua hồ sơ cá nhân chúng ta có thể biết bàn bè của mình 
(người khác), người mà có những điểm chung giống nhau bằng cách tìm kiếm trên mạng    Trang 29     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
hoặc mời người khác tham gia. Các mạng lưới cung cấp một cơ hội duy nhất nhắm cho 
mục tiêu marketing. Việc sử dụng mạng xã hội có thể đóng góp cho sự thành công của 
doanh nghiệp. Internet dựa trên các ứng dụng là một lợi thể mà họ làm việc chủ động với 
các khách hàng và có thể nhận được các phản hồi (feedback) trực tiếp từ đó. 
Trong những năm gần đây, nhiều công ty sử dụng các giải pháp quản lý quan hệ khách 
hàng CRM để quản lý các khách hàng của họ, địa chỉ liên lạc, tương tác và quá trình liên 
lạc. Các hệ thống sử dụng từ phần mềm truyền thống CRM đến web 2.0 CRM còn được 
gọi như CRM xã hội. Vì vậy nó rất hữu dụng cho CRM sử dụng các công cụ như các 
kênh hoạt động và mạng xã hội. 
Từ yêu cầu mục tiêu của CRM, các ứng dụng bắt nguồn từ các yêu cầu của phần mềm xã 
hội. Những yêu cầu này phải cung cấp các giá trị thêm vào cho người tiêu dùng và người 
sử dụng và cũng cung cấp những ứng dụng mới. Sự kết hợp giữa mạng xã hội và CRM 
cung cấp một cơ hội lớn để làm giàu sự tương tác khách hàng và cung cấp cơ chế quản lý 
cho doanh nghiệp đo lường như cách họ sử dụng mạng xã hội trong khi khách hàng thành 
công trong việc dùng mạng xã hội. Một báo cáo nghiên cứu của Gartner gọi mạng xã hội 
là “ảnh hưởng đột phá” trên CRM, thách thức đòi hỏi các công ty điều chỉnh và đổi mới. 
Tuy nhiên một số chiến lược cơ bản có thể giúp các tổ chức tận dụng tốt hơn các mạng xã 
hội như một phần tổng thể của họ trong chiến lược quản lý khách hàng[7]. 
− Điều chỉnh mạng xã hội như một kênh mới trong CRM: Nhiều công ty sử dụng 
các giải pháp CRM để quản lý khách hàng, địa chỉ liên lạc, tương tác và thông tin 
liên lạc vì vậy nó có ý nghĩa để tiếp tục sử dụng các công cụ quản lý khách hàng 
khi các hoạt động di chuyển vào các kênh mạng xã hội. 
− Tăng cường mở rộng CRM thông qua mạng xã hội: trong khi hoạt động mạng 
xã hội có thể được coi như là một kênh bổ sung trong CRM, họ cũng tăng cường 
mở rộng khả năng của CRM với các cách thức mới thu hút khách hàng và quản lý  cuộc hội thoại.        Trang 30     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
− Thế mạnh của CRM và mạng xã hội: sử dụng CRM và các trang mạng xã hội 
với nhau để tìm hiểu nhu cầu khách hàng tốt hơn, phân tích thông tin và đáp ứng 
cho khách hàng một cách tốt nhất. 
3.4.1 / Marketing làm gì trong mạng xã hội?   
Trong những năm gần đây một thay đổi trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp và khách 
hàng được hiện rõ. Khách hàng nhận được nhiều kiểm soát hơn và hơn thế nữa thông qua 
truyền thông liên quan đến công ty và các sản phẩm của mình. Cốt lõi của doanh nghiệp 
là khách hàng và mạng xã hội là một cơ hội để xây dựng mối quan hệ gần gũi và thân 
thiết với khách hàng. Vì vậy công ty phải đáp ứng với sự thay đổi này. Trong thực tế các 
công ty có thể đạt được thông qua sử dụng mạng xã hội trong marketing: họ có thể đạt 
được một sự hiểu biết tốt hơn về nhu cầu cần thiết của khách hàng và có thể xây dựng 
mối quan hệ tốt hơn với khách hàng. Cho các công ty đạt được các lợi ích thương mại, họ 
phải lên kế hoạch hoạt động trong mạng xã hội cho việc kiểm soát và đo lường tốt hơn. 
Hành vi đúng cũng có thể thay đổi cách thức công ty xem xét như thế nào với khách hàng 
của họ. Đây là lĩnh vực dành cho việc sử dụng quản lý mối quan hệ khách hàng giao tiếp 
với nhau trong mạng xã hội và các khách hàng, mạng xã hội tìm cách để thỏa thuận với 
các công ty trong việc kết nối. Bất cứ sự phối hợp nào giữa mạng xã hội và marketing 
được thực hiện, các công ty có thể dễ dàng theo luồng khách hàng của họ, đạt được yêu 
cầu của họ, giám sát và đo lường các hoạt động của họ. 
3.4.2 / Doanh nghiệp phải thực hiện điều gì trước khi sử dụng mạng xã hội trong  marketing của mình? 
Trước khi công ty giới thiệu trên mạng xã hội, đầu tiên cần phải phân tích các tình hình 
thực tế. Sau đó theo dõi tình hình của công ty sau khi giới thiệu trên mạng xã hội đã thay 
đổi những gì. Nếu các công ty trong quá trình này đã kết luận rằng mạng xã hôi không 
phải là các giải pháp cho các công ty, nó nhất thiết cần phải hủy bỏ việc sử dụng mạng xã 
hội. Nhiều công ty đơn giản muốn tham gia vào xu hướng của phần mềm xã hội, trước 
đây nên đánh giá nếu nó phù hợp cho các công ty. Một hạn chế khác là sự loang truyền    Trang 31     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
của mạng xã hội trong doanh nghiệp trong đó có độ tuổi trung bình của nhân viên. Một 
nghiên cứu cho thấy đặc biệt là châu âu thích giao tiếp qua điện thoại và e-mail thông qua 
ứng dụng mạng xã hội. Mặc dù phần mềm xã hội nhằm cải thiện thông tin kinh doanh và 
cơ cấu làm cho dễ dàng tìm kiếm chính xác thông tin tổng thể của nhân viên. Tất nhiên 
đó cũng là một mối nguy hại cho nhân viên có thể sử dụng phần mềm xã hội với mục 
đích riêng tư. Miễn là sự riêng tư xãy ra trong một khuôn khổ phù hợp là thông tin liên 
lạc giữa nhân viên với các đối tác, khách hàng sẽ được khuyến khích, điều này có thể dẫn 
đến mối quan hệ kinh doanh tốt hơn. Kiểm soát việc sử dụng là rất khó khăn vì sự tin cậy 
hiện tại không nên thực hiện. 
CHƯƠNG IV. XÁC ĐỊNH KEY PLAYER TRONG MẠNG XÃ HỘI   
4.1 / Đặt vấn đề   
Mạng xã hội với khả năng kết nối, chia sẻ thông tin một cách dễ dàng, mạng xã hội dần 
trở thành một kho kiến thức khổng lồ. Và từ đây, nhu cầu tìm kiếm, phân tích lượng 
thông tin khổng lồ trong rất nhiều mạng xã hội đang tồn tại và phát triển trở nên cần thiết 
hơn bao giờ hết. Việc tìm kiếm trở nên dễ dàng hơn; song nếu một nhà đầu tư, doanh 
nghiệp muốn quảng bá sản phẩm của mình thì xu hướng của họ sẽ như thế nào, chiến 
lược nào mà họ ứng dụng. 
4.2 / Giải quyết vấn đề   
Xuất phát từ yêu cầu đó việc tìm ra phần tử chốt trong một mạng xã hội cụ thể sớm được 
các nhà nghiên cứu tham gia để tạo ra các công cụ hỗ trợ như: NodeXL. Phân tích thông 
tin để từ đó chọn ra được đối tượng, địa điểm nồng cốt cho nhu cầu truyền tải thông tin, 
cũng như quảng bá sản phẩm của một số lượng doanh nghiệp, nhà đầu tư, cá nhân,… là 
một cách tối ưu cho vấn đề này. 
Xác định key player: Trong mô hình mạng trên, nút 10 là trung tâm nhất theo mức độ 
trung tâm. Tuy nhiên, các nút 3 và 5 sẽ cùng nhau kết hợp và kết nối nhiều nút hơn.      Trang 32     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Ngoài ra, mối quan hệ ràng buộc giữa chúng là rất quan trọng. Nút 3 và 5 cùng là 'chìa 
khóa' để mạng lưới này gần hơn nút 10.       
Làm thế nào để xác định key player (các nút trung tâm trong mạng)??   
Degree centrality: Bậc của node là tổng số đường vào và ra của node (đồ thị có hướng); 
trong một đồ thị vô hướng thì đường vào và ra là giống nhau, thường được sử dụng làm 
thước đo mức độ của một nút trong sự kết nối và do đó cũng ảnh hưởng mức độ phổ biến. 
Việc tìm ra các nút trung tâm đối với việc truyền bá thông tin và ảnh hưởng đến những 
người khác trong cùng nhóm là rất hữu ích.   
Nút 3 và 5 có bậc cao nhất      Trang 33     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Đường đi và đường đi ngắn nhất: Đường đi ngắn nhất giữa hai node là con đường kết 
nối hai nút với khoảng cách ngắn nhất của các cạnh.   
Trong ví dụ trên, giữa các node 1 và 4 có hai con đường ngắn nhất có độ dài 2: {1,2,4} và 
{1,3,4} Đường đi dài giữa hai nút 1 và 4 là {1,2,3,4}, {1,3,2,4}, {1,2,5,3,4} và {1,3,5,2, 
4} (dài nhất đường dẫn). 
Con đường ngắn hơn là cần thiết khi tốc độ của thông tin liên lạc, trao đổi thông tin diễn 
ra nhanh chóng. Cho biết các nút có nhiều khả năng nằm trên con đường thông tin liên 
lạc giữa các node khác. Ngoài ra hữu ích trong việc xác định các điểm mà mạng sẽ tan rã 
(nút 3 hoặc 5 sẽ biến mất thì mạng sẽ tan rã) 
Closeness centrality: Chiều dài trung bình của tất cả các đường đi ngắn nhất từ một 
node đến tất cả các node khác trong mạng (tức là có bao nhiêu bước nhảy trung bình phải 
mất để đạt được tất cả các nút khác). Đây là một biện pháp tiếp cận, tức là nó sẽ mất bao 
lâu để đạt được các nút khác từ một nút khởi đầu, hữu ích trong trường hợp tốc độ phổ 
biến thông tin là mối quan tâm chính. Giá trị thấp hơn là tốt hơn khi có cao hơn tốc độ  mong muốn. 
Eigenvector centrality: Xu hướng vectơ trung tâm của một node là tỷ lệ thuận với tất cả 
các node trực tiếp kết nối với nó. Điều này cũng tương tự như cách Google xếp hạng các 
trang web liên kết từ cao được liên kết đến các trang tính. Hữu ích trong việc xác định 
những người được kết nối với các nút được kết nối nhất.    Trang 34     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Xác định key player: Trong mô hình mạng trên, node 10 là trung tâm nhất theo mức độ 
trung tâm. Tuy nhiên, các nút 3 và 5 sẽ cùng nhau kết hợp và kết nối nhiều node hơn. 
Ngoài ra, mối quan hệ ràng buộc giữa chúng là rất quan trọng. Node 3 và 5 cùng là 'chìa 
khóa' để mạng lưới này hơn node 10.       
Reciprocity (degree of): Tỷ lệ số lượng các mối quan hệ đó đáp lại (tức là có một lợi thế 
trong cả hai chiều) trong tổng số các mối quan hệ trong mạng. Nơi hai đỉnh được cho là 
liên quan nếu có ít nhất một cạnh giữa chúng. Một chỉ số hữu ích của mức độ phụ thuộc 
lẫn nhau và trao đổi trong một mạng có liên quan đến sự gắn kết xã hội và có ý nghĩa 
trong đồ thị chỉ đạo. 
Density: Density là của mạng tỷ lệ số lượng của các cạnh trong mạng trên tổng số của 
các cạnh có thể có giữa tất cả các cặp của các nút (n (n-1) / 2), n là số đỉnh một đồ thị 
(mạng vô hướng), trong mạng ví dụ mật độ quyền = 6/5 = 0,83. Đây là một biện pháp phổ 
biến làm thế nào cũng kết nối mạng (nói cách khác, làm thế nào chặt chẽ đan nó là) một 
mạng lưới kết nối hoàn hảo được gọi là một cliqueand có mật độ = 1. Một đồ thị có 
hướng sẽ có một nửa mật độ tương đương với vô hướng của nó, bởi vì có hai lần như 
nhiều cạnh có thể, tức là Mật độ rất hữu ích trong so sánh các mạng với nhau, hoặc làm 
tương tự cho các vùng khác nhau trong một mạng duy nhất.      Trang 35     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức       
Clustering: Hệ số phân nhóm của một node là mật độ của vùng lân cận của nó (tức là 
mạng chỉ có duy nhất nút và tất cả các node khác với nó). Ví dụ, node 1 bên phải có một 
giá trị là 1, vì các node láng giềng là 2 và 3 và các nút 1, 2 và 3 là hoàn toàn được kết nối 
(tức là nó là một "bè lũ”). Hệ số phân nhóm cho toàn bộ một mạng lưới là mức trung 
bình của tất cả các hệ số cho các node của nó. 
Average and longest distance: Con đường ngắn nhất dài nhất (khoảng cách) giữa bất kỳ 
hai nút trong mạng được gọi là đường kính của mạng lưới. Đường kính của các mạng 
lưới bên phải là 3, mà là một biện pháp hữu ích của mạng (như trái ngược với chỉ nhìn 
vào tổng số các đỉnh hoặc cạnh). Nó cũng cho thấy bao lâu để tiếp cận bất kỳ node nào  trong mạng.   
Small Worlds: Một worldis nhỏ một mạng trông gần như ngẫu nhiên, nhưng cuộc triển 
lãm một hệ số phân nhóm cao đáng kể (các node có xu hướng cụm địa phương) và chiều    Trang 36     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
dài đường dẫn trung bình (các node có thể đạt được trong một vài bước tương đối ngắn) 
Nó là một cấu trúc rất phổ biến trong các mạng xã hội bởi vì bắc cầu trong quan hệ xã hội 
mạnh mẽ và khả năng của mối quan hệ yếu để đạt được trên các cụm. Mạng sẽ có nhiều 
cụm nhưng cũng có nhiều cầu giữa các cụm giúp rút ngắn khoảng cách trung bình giữa  các node.   
Analyzing your own ego-network: Sử dụng các bước được nêu trong các trang sau để 
hình dung và phân tích mạng riêng của bạn: 
− Hãy suy nghĩ về các điểm chủ chốt trong mạng của bạn, các loại quan hệ mà bạn 
duy trì với họ, xác định bất kỳ cụm hoặc cộng đồng trong mạng của bạn. 
− Mục tiêu: thực hành SNA với dữ liệu thực tế!   
4.3 / Giải bài toán tìm key player trên mạng xã hội    Cho đồ thị sau:               
Ma trận kề (adjacency matrix):    Trang 37     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức      V1  V2  V3  V4  V5  V6  V7  V1  1  1  0  0  0  0  V2  1    1  0  1  0  0  V3  1  1    1  1  0  0  V4  0  0  1    0  0  0  V5  0  1  1  0    1  1  V6  0  0  0  0  1    0  V7  0  0  0  0  1  0       
Tính degree centrality, betweenness centrality, closeness centrality của từng node  trong đồ thị trên 
4.3.1 / Tính Degree centrality  Công thức:   
Trong đó: n là số đỉnh của đồ thị; deg(v) các link trực tiếp của đỉnh v   
− Áp dụng trong đồ thị G trên ta có    Đỉnh 
Degree centrality    V1    V2    V3    V4    V5    V6    V7 
4.3.2 / Tính Betweenness centrality    Trang 38     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức  Công thức:       
Trong đó: σst là tổng số đường đi ngắn nhất từ đỉnh s tới đỉnh t; σst(v) là số đường đi ngắn 
nhất từ đỉnh s tới đỉnh t qua đỉnh v.  Áp dụng:    Đỉnh  Betweenness centrality  V1    V2    V3    V4    V5    V6    V7   
4.3.4 / Tính Closeness centrality (A* search algorithm)  Công thức:       
Trong đó: là số bước đi từ đỉnh v tới đỉnh t  Áp dụng:  Đỉnh closeness centrality  V1        Trang 39     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức    V2    V3    V4    V5  (tính tương tự như v1)  V6  (tính tương tự như v1)  V7  (tính tương tự như v1) 
4.3.5 / Tính Clustering Coefficient (hệ số cụm) 
Tính hệ số cụm cho từng node  Công thức:        Áp dụng:   
Đỉnh Clustering Coefficient  V1    V2    V3    V4    V5    V6    V7   
Công thức tính hệ số cụm cho toàn mạng:     
Tìm key player: dựa theo kết quả tính degree centrality ta thấy V3 và V5 chính là key  player.      Trang 40     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
CHƯƠNG V. NHỮNG THÁCH THỨC TRONG MẠNG XÃ HỘI   
5.1 / Cơ hội marketing trong mạng xã hội   
Marketing trên mạng xã hội có thể rất thuận lợi cho các doanh nghiệp. Gotta và O’Kelly 
cho rằng thiết lập một cộng đồng xung quanh các dịch vụ sản phẩm đó là một chiến lược 
tiềm năng để xây dựng chiến lược thương hiệu, thiết lập các rào cản và tạo sự lan truyền 
như lời đề cử của khách hàng. Cộng đồng như vậy cũng có thể là nguồn gốc cho sự đổi 
mới bằng đầu vào người tiêu dùng và đề nghị của khách hàng. Mạng xã hội có thể tìm 
thấy các khách hàng mới và kiểm soát thương hiệu thông minh trong việc nghiên cứu thị 
trường[8]. Thông qua danh sách các tính năng và ứng dụng trò chuyện với bạn bè công ty 
có thể làm cho quảng cáo của công ty mình trong một mạng xã hội. Truyền thông trong 
mạng xã hội người mua có thể lắng nghe và xem xét tỷ lệ xếp hạng với nhau cho các dịch 
vụ sản phẩm và cung cấp kiến thức sản phẩm và thông tin cá nhân. Mạng xã hội bảo vệ 
người dùng từ việc tương tác với thế giới bên ngoài và lưu trữ thông tin tương tác[9]. 
Marketing trong mạng xã hội có thể là chi phí rẽ thúc đẩy một công ty chứ không phải là 
một đội ngũ marketing khổng lồ hoặc một ngân sách lớn[7] “ví dụ như MySpace 2009 
chi phí tối thiểu 25$ bắt đầu quảng cáo trên Myspace, cộng thêm 0.25$ cho mỗi lần 
quảng cáo. Facebook 2009 chi phí tối thiểu là 5$, cộng thêm 0.01$ hoặc 0.15$ cents tùy 
thuộc vào chiến lược quảng cáo. Linkedln 2009 chi phí quảng cáo 25$ cho mỗi lần nhấp  chuột”. 
Chiến lược nội bộ phải kiểm tra quá trình kinh doanh và liên tục xây dựng cộng đồng 
hoạt động để xác định bất kỳ kịch bản ứng dụng có thể được sử dụng để xây dựng trong 
một trường hợp kinh doanh. Vài một số ví dụ theo Gotta và O’Kelly bao gồm [9]: 
Bán hàng: Công cụ mạng xã hội có thể cung cấp một cơ chế giới thiệu tốt hơn cho người 
dùng với cuộc hội thoại cao hơn so với các cuộc gọi thông thường.            Trang 41     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Marketing: Tag clouds bắt nguồn từ một phần mềm mạng xã hội mở rộng có thể cung 
cấp một cái nhìn giống như mô hình liên tục và thời gian tính dựa trên các thành viên tag  và đánh dấu. 
Dịch vụ khách hàng: điện thoại tag hay thư điện tử email bằng tổng đài đại diện có thể 
cung cấp lời thảo luận ở một mức độ tập thể (ví dụ “có thể gọi lại”,”hướng dẫn sự khó  hiểu”). 
Thu thập thông tin: dịch vụ mạng xã hội có thể là mục tiêu cụ thể cho không gian tìm 
kiếm (ví dụ: hoạt dộng đối thủ cạnh tranh hoặc cách thức sử dụng một sản phẩm cụ thể). 
Quản lý thông tin: Folksonomy nỗ lực có thể dẫn đến kết quả phân loại mà có nhiều 
chính xác (như tích hợp công cụ tìm kiếm) cũng như đáp ứng nhiều thay đổi bằng cách 
chọn lựa và cung cấp người dùng với việc ý thức tham gia quyền sở hữu. 
Phát triển tổ chức: theo dõi thời gian tag và bookmark có thể có những biểu hiện về xu 
hướng (như sử dụng hệ thống đánh giá Nielsen-like) của một số người đọc và một số 
người tìm các thông tin quan trọng, do đó cung cấp các chiến lược học tập và ra quyết 
định về nhân sự HR với cái nhìn sâu về loại hình đào tạo, hội thảo hoặc các chủ đề có thể 
tham gia hoặc các kỹ năng/năng lực để tập trung vào. 
5.2 / Rủi ro marketing trong mạng xã hội   
Mặc dù mạng xã hội có thể giúp các doanh nghiệp lan tỏa thông tin tốt nhưng nó cũng có 
thể lây lan những thông tin xấu. Hơn nữa nếu khách hàng muốn trút giận về dịch vụ sản 
phẩm họ có thể dùng tài khoản mạng xã hội. Các nhà quản lý cần phải làm thế nào xử lý 
những tình huống một cách nhanh chóng. Ngoài ra phương tiện truyền thông mạng xã hội 
không được kiểm duyệt như các cá nhân có thể nói bất cứ điều gì họ muốn hoặc về 
thương hiệu tích cực hay tiêu cực. Ngày càng nhiều công ty đang tìm cách để tiếp cận với 
những cuộc hội thoại và một phần tham gia trong các cuộc đối thoại. Tuy nhiên một vấn 
đề tiềm năng mà các công ty sử dụng phương tiện mạng xã hội phải đối mặt là tính riêng 
tư và bảo mật. Vẫn tồn tại một số bộ phận quá quan tâm về bảo mật cá nhân không muốn    Trang 42     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
thảo luận về kế hoạch trên mạng xã hội. Tuy nhiên Gotta và O’Kelly cho rằng mạng xã 
hội phát triển mạnh khi họ không theo một nghi thức hoặc vô hình có nguy cơ thay đổi 
hành vi hoặc sụp đổ hoàn toàn nếu như quản lý cố gắng gây ảnh hưởng hoặc khai thác 
chúng trong một số cách.[8] Hơn nữa họ cũng bao hàm rằng có những hệ quả không 
được mong muốn của marketing trong mạng xã hội và mối quan hệ công cộng của họ. 
Nhìn chung sự thành công và thất bại của công nghệ mạng xã hội xoay quanh người sử 
dụng, độ tin cậy, bảo mật và sự riêng tư. Vì vậy người dùng đôi khi có xu hướng do dự 
trong việc chia sẽ một số thông tin nhạy cảm của họ với các công ty. Điều này có nghĩa 
các tổ chức có liên quan, tham gia quản lý thay đổi hành vi và xây dựng cộng đồng hiệu 
quả có tác động lớn hơn. 
Lý do cho người sử dụng tương tác chung khác nhau rất nhiều. Tại các trạng thái tương 
tác cực đỉnh có thể self-serving. Người dùng có thể tham gia trong mạng xã hội theo 
hướng ứng dụng chỉ có liên kết trên các cạnh, thu thập thông tin từ cộng đồng mà có liên 
quan đến việc nghiên cứu hoặc các công việc có liên quan. Cường độ tham gia của họ có 
thể được biểu diễn bằng những đóng góp đề nghị của họ (những đóng góp ý kiến) hiểu 
biết và các loại thông tin hoặc bằng cách tích cực tag và chia sẽ bookmark, khả năng 
thuyết phục người khác tham gia vào hoặc mức độ ảnh hưởng trong mối liên hệ giữa các 
thành viên trong cộng đồng mạng. 
Ngoài ra có một số luật trong truyền thông, bởi vì marketing trong mạng xã hội bao gồm 
việc công bố hoặc truyền các nội dung trực tuyến cũng được thiết lập về pháp lý, luật 
quảng cáo trên mạng xã hội. [10] Có một thiếu kiểm soát thương hiệu, như vậy kinh 
doanh đặt biệt phải cẩn thận trong việc nghiên cứu thị trường và luật quảng cáo không 
được vượt qua ngưỡng pháp luật. Quảng cáo trong mạng xã hội mang lại nhiều nguy 
hiểm cho thương hiệu. Mạng xã hội là nội dung được tạo từ người dùng nơi mà người 
dùng trải nghiệm các dịch vụ sản phẩm, dịch vụ khách hàng… Nội dung kiểm soát rất ít 
trong việc chia sẽ trong mạng xã hội [11]. Sự giám sát nhận thức về thương hiệu của 
cộng đồng trực tuyến và các vấn đề trực tiếp thảo luận trực tuyến điều này không được 
xem xét trước, và vô cùng quan trọng. Chúng ta không quên điều quan trọng nhất thông    Trang 43     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
qua marketing trong mạng xã hội là có cơ hội để thu thập dữ liệu khách hàng; tuy nhiên 
những thu thập dữ liệu có thể chỉ được khai thác trong nó[12]. 
5.3 / Một số khảo sát marketing trong mạng xã hội   
Mạng xã hội là xu hướng không thể cưỡng lại vượt qua cả Đài loan, Indonesia, 
Philippine, tính tới tháng 9/2012 Việt Nam có tới 13.1 triệu người dùng Youtube, trung 
bình mỗi người xem 137 video/ ngày (Comscore). Số người dùng Facebook tại Việt Nam 
tính tới 24/10/2012 lên tới 9.117.480 người, tăng 5.479.000 người dùng trong vòng 6 
tháng vừa qua. Trung bình 1 ngày, Facebook có thêm hơn 30 nghìn người Việt Nam tham  gia mạng xã hội này. 
Việt Nam là quốc gia có số người sử dụng Facebook tăng nhanh nhất thế giới với hơn 3,7 
triệu. Người dùng Việt trung bình sử dụng 30.3 phút để blog vào tháng 6.2011, xem 
khoảng 532 triệu đoạn video Youtube vào tháng 1.2012. 24% người dùng có trang 
profile Youtube. Mạng xã hội lớn nhất Việt Nam là Zing với 6,8 triệu người dùng. Nhắn 
tin trực tuyến đạt 72%.     
Độ tuổi tham gia nhiều nhất và có tốc độ tăng nhanh nhất thuộc hai nhóm từ 18-24 và 25- 
34 tuổi. Là hai nhóm người tiêu dùng có nhu cầu cao và khả năng chi trả tốt.      Trang 44     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức       
Trên các mạng xã hội có 11,3 triệu công dân mạng xã hội tại Việt Nam. Họ thường dùng 
trung bình 137 phút/tháng để truy cập vào các trang mạng xã hội;     
Những người dùng mạng xã hội ở Việt Nam thường ở độ tuổi 15-24. Chỉ 8% trong số đó 
kết nối hoặc tương tác với các thương hiệu, sản phẩm hay các công ty có mạng xã hội. 
Trong khi 18% thảo luận và chia sẻ đánh giá của họ về thương hiệu, sản phẩm và dịch vụ 
thì 47% đọc bình luận của những người khác.        Trang 45     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
CHƯƠNG VI. MÔ PHỎNG THỬ NGHIỆM CÁC THUẬT TOÁN TÌM  KEY PLAYER 
Chương trình dựa trên các node để tính chỉ số trong mạng xã hội. Thông tin sau đây biểu 
diễn sơ lược về một số định nghĩa và một số độ đo thường được sử dụng trong phân tích  mạng xã hội; 
Chiến lượt tìm key player để các nhà đầu tư, doanh nghiệp muốn quảng bá sản phẩm của 
mình thì xu hướng của họ sẽ như thế nào, chiến lược nào mà họ ứng dụng để lan tỏa từ 
key player đến các thành viên khác trong mạng lưới. Bài toán mô phỏng này là sự kế thừa 
và phát triển của bài báo[2]. 
Về kỹ thuật chương trình được viết trên ngôn ngữ C Sharp(C#) của Microsoft Visual 
Studio 2010; chạy trên hệ điều hành Windows;     
Biểu diễn mạng xã hội bằng đồ thị ma trận có trọng số;          Trang 46     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức       
Kiểm tra tính liên thông của đồ thị, đây là quá trình trao đổi lien lạc giữa các thành viên  trong mạng lưới;     
Thành phần liên thông giữa các node trong mạng;            Trang 47     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức       
Tại đây chúng ta có thể thêm node (biểu diễn thành viên trong mạng lưới) hoặc các kết 
nối đến thành viên khác trong cùng mạng lưới;        Trang 48     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
Mô tả thêm các thành viên trong mạng (node) biểu diễn cho các đối tượng trong mạng  lưới;     
Tính số Degree centrality trên từng node cho đồ thị ưu tiên chỉ số cao suy ra đó là thành 
phần then chốt trong mạng lưới;     
Tìm key player cho đồ thị như vậy dễ dàng thấy được {4} là node có thể ảnh hưởng 
nhiều nhất đến các node khác;    Trang 49     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức       
Tính Betweeness Centrality cho từng node trong đó n là số đỉnh của đồ thị, deg(v) các 
liên kết trực tiếp của đỉnh v của đồ thị;     
Bài toán này thực chất là tìm đường đi đến các node của đồ thị đến các thành viên trong  mạng lưới;    Trang 50     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức       
Mô phỏng này là tổng hợp cách tiếp cận và giải quyết bài toán liên quan đến mạng xã hội 
ngày nay, mô hình này không phải là kết quả đề xuất mới của người viết mà là tổng hợp 
và phát triển một số phương pháp đang sử dụng để đưa ra hướng nghiên cứu trong tương  lai; 
CHƯƠNG VII. KẾT LUẬN VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN   
Các trang mạng xã hội là nguồn khách hàng gần như vô tận và cũng là thách thức để 
kiểm soát thông tin này một cách thích hợp, ý nghĩa cho các công ty và mang lại lợi ích 
thực sự cho họ. Mạng xã hội cũng phù hợp trong khuôn khổ cho các hoạt động marketing 
trên internet. Chiến lược thiết lập cộng đồng xung quanh các sản phẩm và dịch vụ đã 
được biết một phương pháp nổi tiếng về xây dựng thương hiệu về lòng trung thành, thiết 
lập các rào cản và tạo điều kiện marketing thông qua chứng thực của khách hàng. Một 
trong những yếu tố thành công của mạng xã hội là liên quan đến khách hàng và xác định 
nhu cầu của họ trên một mức độ người tiêu dùng thông qua khuyến khích tham gia và 
lắng nghe mong muốn của họ. 
Lý thuyết mạng lưới đã được sử dụng rộng rãi trong marketing. Mặt dù các biện pháp 
mạng lưới chưa được chuẩn và thu thập dữ liệu mạng được yêu cầu, các nhà nghiên cứu    Trang 51     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
đã tìm thấy phân tích các thành phần mạng lưới và mở rộng phương pháp truyền thống. 
Chúng tôi xem xét chỉ có một vài các kỹ thuật phân tích tình huống có sẵn. Nhiều tồn tại 
hơn để áp dụng cho các tình huống marketing. Các nghiên cứu marketing đã được tiếp 
xúc với các hạn chế để tham gia một tiếp cận hoàn toàn cấu trúc. Các đặc điểm của actor 
gồm các mối quan hệ và các tình huống cần được xem xét để đảm bảo cho một điều khả 
toàn diện được thực hiện. Với bài viết này nhằm giúp đánh giá được tầm quan trọng của 
mạng xã hội trong các chiến lược nói chung và chiến lược marketing nói riêng, vì thế để 
đánh giá ai là người quan trọng trong một mạng lưới thật là khó. Đặc biệt là với các mạng 
xã hội lớn vẫn có trường hợp một người chơi chính lại không thể liên hệ được với một 
clique nào đó trong mạng. Vì thế thông thường chúng ta sẽ xác định tập các người chơi 
chính được lấy bằng hội của tập hợp những tác tử có những độ đo centrality là lớn nhất. 
Cuối cùng marketing trên mạng xã hội đã được phát triển mạnh trong kỹ nguyên người 
sử dụng web 2.0 tương tác. Vì vậy nó được khuyến khích mà các doanh nghiệp không bỏ 
qua cơ hội để nhảy vào trong việc tạo lập cơ sở khách hàng của mình từ đó đưa ra những 
chiến lược tiếp cận phù hợp.                                                          Trang 52     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức                               
TÀI LIỆU THAM KHẢO   
Tài liệu tiếng việt   
[1]. GS. TSKH Hoàng Kiếm, Bài giảng chuyên đề công nghệ tri thức, ĐH CNTT, 2013.   
Tài liệu tiếng anh   
[2]. Waad Assaad, Jorge Marx Gómez, Carl von Ossietzky, Ammerländerheerstr, Social 
Network in marketing (Social Media Marketing) Opportunities and Risks, International 
Journal of Managing Public Sector Information and Communication Technologies Vol.  2, No. 1, September 2011. 
[3]. Stephen P. Borgatti, Indentifying sets of key players in a social network, Springer 
Science Business Media, LLC (2006). 
[4]. Cynthia M. Webster & Pamela D. Morrison, Network Analysis in Marketing, 
Australasian Marketing Journal 12, (2004). 
[5]. Paul, Greenberg, CRM Social CRM Strategies, Tools, and Techniques for Engaging 
your Customer, United States Copyright Act of 1976, ISBN: 978-0-07-159045-7, (2009).    Trang 53     
Báo cáo chuyên đề công nghệ tri thức 
[6]. Gotta, Mike and O’Kelly Peter, Collaboration and Content Strategies: Trends in 
Social Software, (2006). 
[7]. Pedro Domingos, Mining Social Networks for Viral Marketing, Department of 
Computer Science and Engineering University of Washington. 
[8]. Wolfgang Hünnekens, Die Ich-Sender: Das Social Media-Prinzip - Twitter, 
Facebook & Communitieserfolgreich einsetzen (2nd), Business village, (2010).  [9]. Các website tham khảo   
− http://moore.vn/Tin-tuc/Tin-thi-truong/tin-cong-nghe/572/Thong-ke-moi-nhat-ve- 
thi-truong-truc-tuyen-Viet-Nam.html 
− http://m.tuoitre.vn/tin-tuc/Nhip-song-so/67984,Internet-da-phat-trien-the-nao-  phan-cuoi.ttm 
− http://www.thongtincongnghe.com/article/33750                                                            Trang 54