Phân tích nguyên nhân ra đời, bản chất, biểu hiện của CNTB Độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường | Tiểu luận Kinh tế chính trị Mác Lênin

Vladimir Ilyich Lenin đã khẳng định rằng: “Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển  thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một khuynh hướng tất yếu”. Chủ  nghĩa tư bản độc quyền nhà nước được xem là chủ nghĩa tư bản độc quyền có sự  can thiệp và điều tiết của nhà nước trên phương diện kinh tế. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
25 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích nguyên nhân ra đời, bản chất, biểu hiện của CNTB Độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường | Tiểu luận Kinh tế chính trị Mác Lênin

Vladimir Ilyich Lenin đã khẳng định rằng: “Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển  thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một khuynh hướng tất yếu”. Chủ  nghĩa tư bản độc quyền nhà nước được xem là chủ nghĩa tư bản độc quyền có sự  can thiệp và điều tiết của nhà nước trên phương diện kinh tế. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

38 19 lượt tải Tải xuống
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊ NIN
-------------------------
TIỂU LUẬN
KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊ NIN
(KÌ I NĂM HỌC 2021-2022)
Đề tài: Phân tích nguyên nhân ra đời, bản chất, biểu hiện của
CNTB Độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường Tư bản
chủ nghĩa, qua đó làm rõ vai trò của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường hiện nay
Sinh viên:
Mã số sinh viên:
Lớp tín chỉ: KT01001-12
Lớp hành chính: …
Hà Nội, 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. Chủ nghĩa tư bản Độc quyền trong nền kinh tế thị trường Tư bản
chủ nghĩa...........................................................................................................2
1. Nguyên nhân ra đời...........................................................................2
2. Bản chất..............................................................................................7
3. Biểu hiện...........................................................................................10
II.Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay.............14
1. Vai trò của nhà nước trong quốc phòng và trong việc sản xuất,
tiêu dùng các hàng hóa công cộng.........................................................14
2. Vai trò của nhà nước đối với các yếu tố ngoại vi..........................16
3. Vai trò của nhà nước đối với vấn đề thu nhập và phúc lợi.........17
4. Vai trò của nhà nước trong các chính sách tài chính và tiền tệ. .18
KẾT LUẬN.....................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................20
1
MỞ ĐẦU
Vladimir Ilyich Lenin đã khẳng định rằng: “Chủ nghĩa bản độc quyền
chuyển thành chủ nghĩa bản độc quyền nhà nước một khuynh hướng tất
yếu”. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước được xem là chủ nghĩa tư bản độc
quyền có sự can thiệp và điều tiết của nhà nước trên phương diện kinh tế. Đây
phương thức kết hợp giữa sức mạnh của bản độc quyền cùng với sức
mạnh kinh tế của nhà nước nhằm đem lại các nguồn lợi. Chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là một hình thức cực đoan của chủ nghĩabản nhà nước mà
trong đó, nhà nước được xem một doanh nghiệp độc quyền duy nhất chi
phối hầu hết các hoạt động sản xuất và phân phối hàng hóa trong nền kinh tế.
Do đó, nhà nước ngày càng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh
tế thị trường hiện nay. Nhận thức được tính cấp thiết cần phải nghiên cứu
tìm hiểu về vấn đề này, em đã chọn: “Phân tích nguyên nhân ra đời, bản
chất, biểu hiện của CNTB Độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị
trường bản chủ nghĩa, qua đó làm vai t của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường hiện nay” làm đề tài bài tiểu luận kết thúc học phần của
mình.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này làm về những đặc điểm của
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, để từ đó đem lại những kiến thức nhằm
được hiểu biết một cách sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa bản độc
quyền nhà nước với những biểu hiện rất mới của nền sản xuất bản chủ
nghĩa trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời, khắc phục những tưởng giáo
điều, duy ý chí và không còn phù hợp với thực tiễn.
Việc nghiên cứu đề tài này mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc
nâng cao kiến thức của những sinh viên đại học đồng thời giúp mọi người
2
thêm nhiều niềm tin vào thắng lợi của công cuộc đổi mới tương lai của
chủ nghĩa xã hội.
3
NỘI DUNG
I. Chủ nghĩa tư bản Độc quyền trong nền kinh tế thị trường Tư bản
chủ nghĩa
1. Nguyên nhân ra đời
Chủ nghĩa bản độc quyền nhà nước ra đời như một tất yếu khách quan
trong quá trình phát triển của phương thức sản xuất bản chủ nghĩa.
nhiều nguyên nhân dẫn tới sự hình thành chủ nghĩa bản độc quyền nhà
nước, nhưng trước hết và quan trọng nhất là những nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụtập trung sản
xuất càng cao. Do đó, sinh ra những cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự
điều tiết hội đối với sản xuất phân phối, yêu cầu kế hoạch hóa tập
trung từ một trung tâm. Nói cách khác, sự phát triển hơn nữa của trình độ xã
hội hóa lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải
đại diện cho toàn bộ xã hội để quản lý nền sản xuất. Lực lượng sản xuất
hội hóa với hình thức chiếm hữu nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng
mâu thuẫn gay gắt với nhau, do đó, tất yếu đòi hỏi cần phải một hình
thức mới của quan hệ sản xuất để lực lượng sản xuất thể tiếp tục phát
triển trong điều kiện còn sự thống trị của chủ nghĩa bản. Hình thức mới
đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
- Thứ hai , sự phát triển của phân công lao động hội đã làm xuất hiện
một số ngành các tổ chức độc quyền bản nhân không thể hoặc
không muốn kinh doanh những ngành này đòi hỏi nguồn đầu lớn
nhưng lại thu hồi vốn chậm đem lại quá ít lợi nhuận. Đặc biệt nhất
các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, nghiên
cứu khoa học cơ bản…
4
Trong điều kiện cạnh tranh để tồn tại, khi quy luật tỷ suất lợi nhuận
xu hướng giảm xuống ngày càng phát huy sức mạnh trong các ngành truyển
thống thì việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ nhằm tạo ra
những ngành mới những sản phảm mới để thông qua đó thể được
lợi nhuận siêu ngạch một ưu tiến tính sống còn của các tổ chức độc
quyền.
Các ngành mới như: công nghiệp ô tô, hàng không, thiết bị điện… không
thể phát triển nếu không những kết cấu hạ tầng cả về kỹ thuật hội
phù hợp. nếu không hệ thống hạ tầng phù hợp như thế thì không thể
thị trường cả “đầu vào” lẫn “đầu ra” cho các ngành này phát triển.
Nhưng đầu tư vào xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cũng như
hạ tầng hội không thể lợi nhuận hoặc lợi nhuận rất thấp. Bên cạnh
đó, quy vốn đầulại thườngcực kỳ lớn, vượt quá khả năng của các
tổ chức độc quyền giàu nhất. Do vậy, xuất hiện nhu cầu sử dụng ngân
sách nhà nước cho mục tiêu này nhằm đảm bảo lợi ích cho giới chủbản,
trong đó quan trọng nhất của tầng lớp bản độc quyền. lẽ đó, nhà
nước trở nhầ chủ thể đầu sở hữa hệ thống kết cấu hạ tầng từ đường
giao thông, sân bay, vệ tinh cho đến trường công, bệnh viện công, quỹ dự
phòng rủi ro… một thực tế hiển nhiên. Thực tế các ngành này yêu cầu
nhà nước tư sản cần phải đứng ra đảm nhiệm kinh doanh cho những ngành
này, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành
khác đem lại nhiều lợi nhuận hơn.
Bên cạnh đó, nhu cầu đảy mạnh nghiên cứu khoa học bản cũng một
lĩnh vực mà giai cấp tư sản thường sử dụng nhà nước để làm chủ thể đầu tư.
Để phát triển và nâng cao sức cạnh tranh, các tổ chức độc quyền lớn rất cần
các phát minh, sáng chế những thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ. Tuy nhiên, quá trình đầu tư vào nghiên cứu khoa học
5
bản đầy rủi to cần tiêu tốn một lượng vốn khổng lồ. Không bất kỳ
nguồn vốn tư nhân nào đủ sức đáp ứng ngoài ngân sách nhà nước và để làm
việc đó nhất thiết phải sử dụng nhà nước với cách chủ thể đầu tư.
Hàng tỷ dola chính phủ nhiều nước bản liên tục chi ra từ ngân sách
nhà nước cho các viện, các trường đại học nghiên cứu các lĩnh vực khoa
học, nhất khoa học bản một lĩnh vực đầu hoàng toàn thể chỉ
đem lại con số không lợi nhuận, nhưng vẫn cần thiết cho sự phát triển của
kinh tế - xã hội mà không gây ảnh hưởng gì đến sức mạnh của tài chính nhà
nước. Nhưng một khi thu được thành công thì kết quả đó lại được chuyển
giao cho các tập đoàn nhân triển khai ứng dụng. Không hiểu được điều
này thì sẽ không thể nào nhìn thấy được vai trò hoàn toàn mới của nhà nước
so với thời kỳ của Karl Marx và Phriedrich Engels.
- Thứ ba , sự thống trị của độc quyền đã khiến cho sự đối kháng giữa giai
cấp sản với giai cấp sản nhân dân lao động ngày càng trở nên sâu
sắc và gay gắt hơn Cuộc đấu tranh của những người lao động chống lại sự.
bóc lột của giới chủ tư bản ngày càng tạo ra nhiều áp lực lớn.
Trước hết từ đấu tranh kinh tế, những người lao động đấu tranh yêu cầu
tăng lương, giảm giờ làm cải thiện điều kiện lao động… dưới sự lãnh
đạo của các tổ chức công đoàn. Những cuộc đấu tranh này có tác động trực
tiếp đến lợi nhuận của bản. Sự bất lực của giới chủ bản tại các tập
đoàn, công ty trong đối phó trực tiếp với phong trào đấu tranh của đông đảo
những người lao động đã được giác ngộ ngày càng sâu sắc tổ chức
chặt chẽ hơn trở thành mối đe dọa thường xuyên đến lợi nhuận của công ty
chủ quản.
Cuộc đấu tranh của những người dân lao động chống bản thường vượt
quá khả năng đối phó của cả những tập đoàn tư bản lớn trong mỗi quốc gia.
Chỉ có nhà nước tư sản vớicách là “tư bản tập thể” mới đủ sức mạnh để
6
đứng ra đối phó với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nhân
dân lao động không chỉ trong một nhà nước mà còn ở quy mô quốc tế.
Giai cấp sản sử dụng chính quyền nhà nước của mình trong đối phó với
đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác cũng là che
chắn, thậm chí là giải phóng cho giới tư bản khỏi phải đối mặt trực tiếp với
các cuộc đình công, bãi công của người lao động, người lao động lại
chính là lực lượng luôn ở thế áp đảo về số lượng. Mặt khác, từ nhu cầu thực
tế, đòi hỏi cần phải vai trò điều tiết của nhà nước để phòng, tránh, khắc
phục những khủng hoảng kinh tế - hội, ngăn ngừa các nguy dẫn đến
cách mạng hội, nên nhà nước cần phải đứng ra thực hiện các chức năng
xã hội như: quản lý quỹ hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp rủi ro, tai nạn
trong lao động… Trong số các nguồn lực nhằm đảm bảo thực thi các chức
năng hội thì nguồn vốn ngân sách quốc gia quan trọng nhất. Để huy
động nguồn vốn này, đương nhiên nhà nước cần phải chủ thể sử dụng.
Ngân sách nhà nước được sử dụng để chi trả cho các trợ cấp thất nghiệp, trợ
cấp tai nạn, hỗ trọ hưu trí và các loại bảo hiểm hội khác… Trên thực tế,
việc nhà nước đứng ra thực hiện các chức năng xã hội đã huy động được sự
đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động cho nên cũngmột
nguồn thu cho ngân sách nhà nước nước. Nhưng điều quan trọng nhất ở đây
vừa giải phóng cho giới chủ thoát khỏi mũi dùi đấu tranh của giới lao
động, vừa tạo được sự an tâm của người lao động trong quá trình làm thuê
cho tư bản tư nhân.
- Thứ tư, cùng với xu thế hiện đại hóa, toàn cầu hóa, quốc tế hóa đời sống
kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế đã vấp phải
những rào cản quốc gia dân tộc xung đội lợi ích với các đối thủ trên thị
trường thế giới.
7
Trên thực tế, cuộc đấu tranh giải phóng các thuộc địa dẫn đến thu hẹp thị
trường của các tập đoàn độc quyền. Bóc lột trực tiếp dưới sự trợ giúp của
bạo lực nhà nước để các nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ mạt các thuộc
địa không còn khả thi nữa. Các công cụ bóc lột mới thông qua thị trường
được sử dụng rất tinh vi song cũng không tránh được những phản ứng
của chính quyền và người dân ở các quốc gia đang phát triển. Bảo vệ lợi ích
của các doanh nghiệp đầu nước ngoài bằng mọi công cụ, kể cả sức
mạnh quân sự là nhiệm vụ của nhà nước tư sản.
Toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế đòi hỏi vai trò mới của nhà nước trong
mở cửa thị trường nước ngoài, đồng thời dựng lên các hàng rào thuế quan
phi thuế quan nhằm bảo hộ thị trường trong nước, thông qua đó làm
giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài. Đó những công
việc mà không một chủ thể tư nhân nào có thể làm. Nó chỉ có thể thực hiện
bằng chính quyền nhà nước. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, công cụ thuế
quan bị giới hạn sử dụng nên các công cụ phi thuế quan có xu hướng được
sử dụng ngày một phổ biến hơn ở đa số các nước tư bản phát triển.
Các chính phủ tư sản cũng chủ thể trực tiếp đàm phán, thương lượng, sử
dụng viện trợ ưu đãi cả gây sức ép trong đàm phán, thương lượng, sử
dụng viện trợ ưu đãi cả gây sức ép trong đàm phán để mở cửa các thị
trường nước ngoài cho hàng hóa và vốn đầu tư của các tập đoàn nước mình.
Trong không ích trường hợp, ngay cả các nguyên thủ quốc gia cũng tham
dự vào công việc này. Đặc biệt, là các hợp đồng kinh tế giá trị lớn, bao
gồm cả các hợp đồng mua bán vũ khí.
Tình hình đó đòi hỏi cần phải sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà nước
của các quốc gia sản với nhau nhằm điều tiết các quan hệ chính trị
kinh tế quốc tế.
8
- Thứ năm , do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các tổ chức độc
quyền về nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ các lợi ích khác. Cạnh
tranh lợi nhuận giữa những tổ chức độc quyền đã dẫn đến những cuộc
khủng hoảng kinh tế, thậm chí xung độttrang chiến tranh thế giới.
“Cả hai cuộc chiến tranh thế giới đã xảy ra trong lịch sử đều chiến tranh
đế quốc. Chiến tranh đế quốc chủ nghĩa đã thúc đảy và đã làm gay gắt thêm
đến cực độ quá trình biến chuyển của chủ nghĩa tư bản độc quyền thành chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước”. Những điều đó làm suy yếu địa vị thống
trị của giai cấp sản thể trở thành thời của nội chiến cách mạng
và là nguy cơ đe dọa đến sự tồn tại của chính chủ nghĩa tư bản.
Không một nước bản nào thể loại bỏ được cạnh tranh thuộc
tính của nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng là phương tiện thực hiện lợi
nhuận của các tổ chức bản độc quyền. Song để kiểm soát được cạnh
tranh cũng như không cho phép độc quyền tuyệt đối của bất kỳ tập đoàn
nhân nào, giai cấp tư sản sử dụng nhà nước với tư cách là nhà tư bản tập thể
để thực hiện điều tiết cạnh tranh, bảo vệ lợi ích chung của toàn bộ giai cấp
tư sản.
Trên bình diện quốc tế, một khi xuất hiện sự cạnh tranh dẫn đến nguy cơ
hại cho các tổ chức độc quyền, thì không phải các ông chủ bản ngồi
với nhau để giải quyết mà chính các đầy tớ trung thành của họ, là các chính
phủ sản, đứng ra đảm nhận vai trò chủ thể đàm phán với các đối tác để
đạt đến sự thỏa thuận mà các bên đều chấp nhận. Tranh chấp thương mại và
đầu tư vẫn tồn tại trong mối quan hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa nhưng
nó không trở thành chiến tranh nóng mà trở thành những cuộc “chiến tranh
thương mại”.
2. Bản chất
9
Trong lý luận về chủ nghĩa đế quốc, ngay tđầu, Vladimir Ilyich Lenin đã
khẳng định rằng “Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản độc quyền”. Trong di
sản luận của ông về chủ nghĩa bản độc quyền thì vấn đề “chủ nghĩa
bản độc quyền nhà nước” có một vị trí rất quan trọng.
Khi khẳng định rằng chủ nghĩabản độc quyền nhà nước là chỉ hình thức
phát triển cao nhất của chủ nghĩabản độc quyền chứ hoàn toàn không phải
là một giai đoạn riêng biệt của chủ nghĩa bản, Vladimir Ilyich Lenin đã chỉ
rõ, đucợ đặc trưng bởi trình độ cao của hội hóa sản xuất bản chủ
nghĩa, bởi sự cộng sinh giữa độc quyền nhân, độc quyền nhóm độc
quyền nhà nước, bởi sự chi phối của tầng lớp tư bản độc quyền (đặc biệt là của
tư bản tài chính) đối với bộ máy nhà nước.
Do đó, để thể xác định được bản chất của chủ nghĩa bản độc quyền
nhà nước, Vladimir Ilyich Lenin đã sử dụng phương pháp tiếp cận tổng thể từ
các góc độ khác nhau: từ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất; từ lợi ích của các giai cấp trong xã hội tư sản; đặc biệt là từ mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế chính trị trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản độc
quyền.
Về bản chất, theo Vladimir Ilyich Lenin, chủ nghĩa bản độc quyền nhà
nước là sự thống nhất biện chứng giữa quyền lực kinh tế của tư bản dộc quyền
quyền lực chính trị của nhà nước sản nhằm làm giàu cho bản độc
quyền và làm suy yếu cuộc đấu tranh của những người lao động để bảo vệ chế
dộ bản chủ nghĩa. Bản chất của chủ nghĩa bản độc quyền nhà nước
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức
độc quyền nhân với sức mạnh của nhà nước bản thành một thiết chế
thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền cứu
nguy cho chủ nghĩa tư bản.
10
Chủ nghĩa bản độc quyền nhà nước bắt nguồn từ sự hội hóa của lực
lượng lượng sản xuất phát triển tới mức khiến cho sở hữu độc quyền được
thay thế bằng các hình thức sở hữu hỗn hợp giữa tư nhân và nhà nước. Ở đây,
nhà nước tư sản xuất hiện như một chủ sở hữu tư bản, một nhà nước tư bản xã
hội, đồng thời, người quản hội bằng phát luật với bộ máy bạo lực to
lớn.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước hoàn toàn không làm thay đổi về chất
quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa, nhưng một sự thay đổi về lượng rất
quan trọng để quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa phù hợp hơn với trình dộ
phát triển đã cao hơn hẳn của lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản.
Có thể nói, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức phù hợp nhất
để bảo vệ lợi ích của giai cấp sản, trong điều kiện nền dân chủ sản đã
phát triển đến trình độ cao hơn hẳn. Khi những biểu hiện của sự độc tài,
chuyên chế đều không thể nào được chấp nhận một cách dễ dàng trong một xã
hội mà nền dân trí đã và đang ngày càng được nâng cao mà gắn liền với
sự dân chủ, công khai các quyền bản của mọi công dân đều đã được
thừa nhận mức độ pháp hóa. Trong những điều kiện đó thì nhà nước
sản nắm lấy những bộ phận quan trọng nhất của của cải vật chất trong hội
và sử dụng nó để đáp ứng những nhu cầu về hàng hóa công cộng, thực thi các
chức năng kinh tế - hội là hoàn toàn thể được chấp nhận của mọi giai
cấp trong xã hội.
Quyền lợi ích kỷ của giai cấp tư sản cũng sẽ được che giấu đi một cách tinh
vi hơn khi các đơn đặt hàng của nhà nước được đưa ra đấu thầu cũng như
các ưu tiên đầu tư của ngân sách nhà nước đều phải được Quốc hội thông qua.
Giai cấp sản đã “làm cho chủ nghĩa bản cũ, chủ nghĩa bản trong thời
ky cạnh tranh tự do trể thành chủ nghĩa bản của các tơ-rớt, xanh-đi-ca
các-ten khổng lồ. Nhóm này đã đưa ra nguyên tắc… phối hợp hai lực lượng
11
khổng lồ chủ nghĩa bản nhà nước thành một bộ máy duy nhất, trong
đó hàng chục triệu con người đều thành viên của một tổ chức, tổ chức của
chủ nghĩa bản nhà nước. Đó lịch sử kinh tế, lịch sử ngoại giao trong
hàng chục năm gần đây mà không một ai có thể phủ nhận được.
Xét về góc độ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế chính trị thì chủ
nghĩa bản độc quyền nhà nước hình thức phát triển cao nhất của mối
quan hệ biện chứng giữa độc quyền kinh tế của bản nhân độc quyền
chính trị của giai cấp tư sản trong xã hội tư sản.
Như vậy, chủ nghĩa bản độc quyền nhà nước một quan hệ kinh tế,
chính trị, hội, chứ không chỉ một chính sách trong giai đoạn độc quyền
của chủ nghĩa tư bản. Khi chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thống trị, các
quá trình kinh tế diễn ra trong chủ nghĩa tư bản không những chịu sự tác động
tự phát của quy luật thị trường, còn chịu sự điều tiết của nhà nước
sản. Sự điều tiết này bao gồm tất cả các khâu của quá trình tái sản xuấthội
và được thực hiện bằng cả các biện pháp kinh tế lẫn hành chính, pháp chế…
3. Biểu hiện
Chủ nghĩa bản độc quyền nhà nước không đồng nhất giữa các bản
khác nhau, tồn tại thống nhất trong sự đa dạng. mỗi quốc gia thể
mang thêm những sắc thái đặc thù khác nhau, song về bản, ta thể khái
quát chung qua các hình thức biểu hiện sau:
- Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản:
Dưới chủ nghĩa bản độc quyền nhà nước, quan hệ nhân sự một trong
những biểu hiện đặc trưng nhất. Cụ thể là: Các tập đoàn nhân lựa chọn để
tài trợ kinh phí các ứng viênnhiều tiềm năng khi tranh cử vào các chức vụ
của bộ máy nhà nước. Luật pháp tư sản nói chung đều cho phép sự quyên góp
này. Thật khó thể hình dung ra một ứng viên nào đó ở trong một nước tư bản,
kể cả nước phát triển nhất, tự mình dùng tiền nhân thể trúng cử trở
12
thành người đứng đầu nhà nước hay một địa phương nào đó. Đó chỉ thể
kết quả của sự đồng tài trợ kinh phí từ một bộ phận đáng kể trong giới tư bản.
Vladimir Ilyich Lenin đã từng nhấn mạnh rằng, sự liên minh về nhân sự của
các ngân hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh về nhân sự
của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ theo kiểu: Hôm nay là bộ trưởng,
ngày mai chủ ngân hàng. Hôm nay chủ ngân hàng, ngày mai bộ
trưởng. “Sự liên hợp về người” giữa ngân hàng với công nghiệp được bổ sung
bằng “sự liên hợp về người” giữa những công ty ngân hàng công nghiệp
với chính phủ.
Khi đã thành công thì các quan chức trong quá trình thực thi công vụ sẽ tìm
cách để thể đền đáp những nhà tài trợ dưới nhiều hình thức. Đó thể
những ưu tiên trong chính sách kinh tế, trong chi tiêu ngân sách phân bổ
các nguồn lực khác… Tùy theo công trạng trong quá trình này khi đã hết
nhiệm kỳ rời khỏi bộ máy nhà nước, các chính khách này sẽ được mời tham
gia vào các Hội đồng quản trị các tập đoàn hoặc những cổ đông sở hữu các
cổ phiếu ưu đãi theo điều lệ của công ty và pháp luật tư sản.
Do vậy, không ít trường hợp một số tập đoàn lớn đã tác động chi phối, gây
ảnh hưởng đến các chính sách đối nội đối ngoại của nhà nước theo hướng
có lợi cho họ chứ không phục vụ cho lợi ích chung của xã hội. Kích động qua
báo chí, tài trợ cho các cuộc biểu tình cổ cho chiến tranh... nhưng
hình thức dễ thấy. Thậm chí thể gây nên những cuộc ám sát các chính
khách, đảo chính quân sự, bạo loạn dài ngày nếu thấy sự chấp chính của chính
quyền đương nghiệm không có lợi bằng một thế lực khác lên thay thế.
- Sự hình thành và phát triển của sở hữu tư bản độc quyền nhà nước:
Chủ nghĩa bản độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời
sống, nhưng nét nổi bật nhất sức mạnh của nhà nước độc quyền kết hợp
với nhau trong lĩnh vực kinh tế nhà nước can thiệp trực tiếp vào quá trình
13
tái sản xuất xã hội. Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh
tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu. Nó biểu hiện không những chỗ sở hữu
nhà nước tăng lên cả sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước
sở hữu độc quyền nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá
trình chi chuyển của tổng tư bản xã hội.
Tại đa số các nước phát triển, đã từ lâu, những bộ phận quan trọng nhất của
nền kinh tê thuộc về sở hữu của nhà nước. Đó là hệ thống kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội như giao thông vận tải, giáo dục, y tế, là dự trữ quốc gia, hệ thống
tài chính tiền tệ các tài sản quốc gia khác… Đồng thời cũng một số
lượng nhất định các doanh nghiệp nhà nước cung cấp các hàng hóa công cộng,
cổ phần của nhà nước trong các ngân hàng, tập đoàn lớn một số doanh
nghiệp do nhà nước quốc hữu hóa (mua lại) các doanh nghiệp nhân
những lý do khác nhau.
Về cơ bản, kinh tế nhà nước tư sản đảm nhận vai trò chủ yếu trong các lĩnh
vực không thể lợi nhuận hoặc lợi nhuận rất thấp. Còn những lĩnh vực kinh
doanh lợi nhuận cao thuộc về đặc quyền kinh doanh của các tập đoàn
độc quyền tư nhân. Sự tồn tại lâu dài của một bộ phận doanh nghiệp nhà nước
các nước bản chủ nghĩa phát triển chủ yếu liên quan đến các ngành, lĩnh
vực lợi nhuận quá thấp nhiều rủi ro không hấp dẫn được nhân.
Trong tất cả mọi trào lưu sôi động nhất của nhân hóa, các nước bản
chủ nghĩa phát triển nhất cũng không thể tư nhân hóa nổi hệ thống đường sắt,
đường cao tốc, nhà máy điện hạt nhân… một trong những dụ minh họa
nổi trội cho luận điểm này.
Sở hữu nhà nước hình thành dưới những hình thức sau đây: Xây dựng
doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hóa các nghiệp
nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp
14
nhân; mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh
nghiệp tư nhân.
Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện những chức năng rất quan trọng.
Thứ nhất, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho
sự phát triển của tư bản tư nhân. Điều này liên quan đến những ngành sản xuất
không đứng vững được trong cạnh tranh nên trở nên thua lỗ, cũng như
những ngành công nghệ mới nhất đòi hỏi vốn đầu lớn trình độ nghiên
cứu khoa học, thiết kế và thử nghiệm cao.
Thứ hai, giải phóngbản của các tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi
để đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.
Thứ ba, làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế bản chủ nghĩa theo những
chương trình nhất định. Cùng với việc nhà nước thực hiện kinh doanh, thị
trường nhà nước cũng hình thành. Sự hình thành thị trường nhà nước với
việc nhà nước chủ động mở rộng thị trường trong nước bằng việc bao mua sản
phẩm của các xí nghiệp độc quyền thông qua những hợp đồng đã được ký kết
– giúp tư bản nhân khắc phục một phần khó khăn trong khủng hoảng thừa,
góp phần bảo đảm cho quá trình tái xuất diễn ra bình thường.
- Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
chế thị trường tự do cạnh tranh chế độc quyền nhân đều
những tác động tích cực tiêu cực. Do đó, khi nào đâu trình độ
hội hóa lực lượng sản xuất đã vượt qua khỏi giới hạn điều tiết của chế thị
trường độc quyền nhân thì tất yếu đòi hỏi phải được bổ sung bằng sự
điều tiết của nhà nước. Bản thân sự điều tiết của nhà nước cũng mặt tích
cực và mặt tiêu cực. Những sai lầm trong sự điều tiết của nhà nước có khi lại
đưa đến hậu quả tai hại hơn tác động tiêu cực của cạnh tranh tự do độc
quyền tư nhân. Vì thế, hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước đã dung hợp cả
ba cơ chế: thị trường, độc quyềnnhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát
15
huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Xét đến cùng và về
bản chất, hệ thống điều tiết đó đều phục vụ cho chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Các chính sách kinh tế của nhà nước trong điều kiện của chủ nghĩa bản
độc quyền nhà nước phần lớn chỉ mang tính chất điều tiết, trừ những trường
hợp đặc biệt nhà nướcsản mới điều hành kinh tế bằng sắc lệnhcác biện
pháp hành chính.
Điều tiết kinh tế của nhà nước cơ bản bao gồm sử dụng các công cụ kinh tế
vĩ mô: thuế, lãi suất, hối đoái, vay nợ trong và ngoài nước… Nhà nướcsản
cũng sử dụng ngân sách để đầu kích cầu nền kinh tế khi cần thiết đối với
các lĩnh vực như: tiêu dùng, tạo việc làm mới, khắc phục thảm họa thiên tai…
Về bản, điều tiết kinh tế của nhà nước vẫn luôn thể hiện bản chất giai
cấp của nó. Lợi ích lớn nhấtmọi hoạt động điều tiết kinh tế của nhà nước
sản đều được định hướng ưu tiên hàng đầu cho các tập đoàn bản độc
quyền lớn, cho tầng lớp giàu có nhất trong xã hội tư sản, bảo vệ lợi ích cho sự
cộng sinh chặt chẽ giữa giới tinh hoa chính trị bọn đầu sỏ tài chính mỗi
nước.
Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nướcsản hình thành như một tổng thể
những thiết chế thể chế kinh tế của nhà nước. Một bộ máy kinh tế của nhà
nước được tổ chức chặt chẽ với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều
tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản
xuất xã hội.
- Thực thi các chức năng xã hội của nhà nước tư sản:
Dưới chủ nghĩa bản độc quyền nhà nước, chính phủ các thiết chế
bản trong bộ máy nhà nước tham gia ngày càng sâu vào các lĩnh vực hội.
Những chức năng hội bản của nhà nước cũng ngày càng được mở rộng
hơn. Chính phủ đứng ra quản chi tiêu các quỹ hội lớn như: quỹ hưu
trí, quỹ bảo hiểm thất nghiệp, quỹ nhà ở, quỹ bảo hiểu y tế… Điều đó giải
16
phóng cho các ông chủnhân và các tập đoàn được tự do vàcan mỗi khi
phải thải bớt nhân công, giảm tiền công… khỏi phải đương đầu trực tiếp với
người lao động và các tổ chức của họ như công đoàn, nghiệp đoàn…
Thông qua việc thực hiện các chức năng đảm bảo an sinh hội, nhà nước
tư sản cũng xiết chặt thêm một bước kỷ cương của pháp quyền tư sản.
II. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay
1. Vai trò của nhà nước trong quốc phòng và trong việc sản xuất,
tiêu dùng các hàng hóa công cộng
Với chức năng kinh tế của mình, nhà nước không chỉ giữ vai trò người
quản lý, người ban hành các quy định, các luật chơi trên thị trường, còn
đảm nhiệm vai trò chủ thể hoạt động sản xuất nhất các hàng hóa
dịch vụ công, là người mua và bán các hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Như
vậy, lúc này mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường được thể hiện một
mối quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường, hay ta có thể hiểu đó là quan hệ
giữa người mua người bán hàng hóa dịch vụ chịu sự tương tác, ràng
buộc của các quy luật kinh tế trên thị trường, cũng như sự quản điều hành
của nhà nước thông qua một hệ thống những quy định phát luật cùng với
những công cụ quản lý.
Quốc phòng một dụ điển hình nhằm chứng minh cho vai trò tối cao,
đặc biệt quan trọng của nhà nước. Điều này được quyết địnhvì quốc phòng
một kiểu hàng hóa hoàn toàn khắc với những loại hàng hóa vật thể khác
chỗ người ra không trả tiền cho mỗi đơn vị sử dụng mua như một
tổng thể nhằm mục đích bảo vệ an ninh của cả quốc gia. đây, việc bảo vệ
cho một nhân nào đó không nghĩa rằng việc này giảm bảo vệ cho
người khác. Bởi tất cả mọi người trong một quốc gia đều sử dụng các dịch
vụ quốc phòng một cách đồng thời.
17
Các loại hàng hóa kiểu như trên được xem là hàng hóa công cộng. Vì không
bất cứ một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán quốc phòng của toàn dân cho
các nhân công nhân một cách riêng lẻ xem đấy một nghề để kinh
doanh nhằm thu lợi nhuận được. Đơn giảnbởi vì không thể có chuyện dịch
vụ quốc phòng lại được đem đi rao bán một cách công khai cho những người
cần hoặc không thực hiện việc bảo vệ an ninh của quốc gia, cho những
nhân từ chối chi trả kinh phí cho quốc phòng toàn dân. Bên cạnh đó, hàng hóa
công cộng hàng hóa không thể được định giá một cách chính xác, nên
nhân không thể nào cung cấp được hàng hóa công cộng. Đây chính là nguyên
nhân chính lý giải nguyên nhân vì sao quốc phòng phải được điều hành do nhà
nước và nguồn kinh phí được sử dụng cho quốc phòng phải được lấy từ nguồn
tài chính công, tức là từ ngân sách nhà nước có được thông qua thuế.
Trong đó, hàng hóa công cộng bao gồm ba thuộc tính: tính không kình địch
trong tiêu dùng, tính không loại trừ tính không thể không tiêu dùngtập
trung lại, tất cả mọi người đềuquyền và nghĩa vụ tiêu dùng hàng hóa công
cộng một cách công bằng như nhau. nhiều dụ để nói về hàng háo công
cộng, thể kể đến như từ các biện pháp phòng chống lụt cho đến việc
phòng chống khí nguyên tử. Thế nhưng, hai ví dụ thể cho ta thấy
được vai trò của nhà nước một cách trực tiếp và thường xuyên nhất là việc xây
dựng cơ sở hạ tầng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Một nền kinh tế không thể nào phát triển và tiến xa được trừ khicó một
sở hạ tầng, một nền tảng vững chắc. Nhưng chính điều này cũng do tính
không thể phân chia của hàng hóa công cộng các nhân thấy rằng việc
đầu vào phát triển sở hạ tầng không đem lại nguồn lợi. Do đó, phần
lớn các quốc gia, Nhà nước đầu vào sở hạ tầng, ổn định kinh tế
cũng được xemmột loại hàng hóa công cộng. Đặc điểm của nền kinh tế thị
trường sự không ổn định do những cuộc khủng hoảng theo chu kỳ. Sự ổn
18
định kinh tế ràng là điều mọi nhà nước đều khao khát được
mang lại nguồn lợi cho tất cả mọi người. thế, nhà nước chính quan
cần phải chịu trách nhiệm để duy trì cho sự ổn định đó trên tầm vĩ mô.
2. Vai trò của nhà nước đối với các yếu tố ngoại vi
Yếu tố ngoại vi được hiểu các hoạt động của một chủ thể nhất định nào
đó có tác động đến các đối tượng này không được đền hoặc không phải bị
đền bủ. Các chủ thể và đối tượng tác động này có thể những cá nhân hoặc đơn
vị sản xuất kinh doanh. Sự tác động của các chủ thể này mang cả những tác
động tiêu cực và tích cực. Các chủ thể này không chịu bất kỳ trách nhiệm kinh
tế nào về sự tác động của họ cũng như không đòi hỏi đền bù. Do vậy, các yếu
tố ngoại vi một sự biểu hện mối quan hệ giữa sản xuất với sản xuất, sản
xuất với tiêu dùng, tiêu dùng với tiêu dùng hoặc tiêu dùng với sản xuất. Hoạt
động của người này sự tác động đến hoạt động của người khác. Kết quả
người này chịu ảnh hưởng bởi kết quả của sự hoạt động của người khác.
Tóm lại, khi sự tương tác giữa các hoạt động của những chủ thể đối
tượng khác nhau trong nền kinh thế thì sự khác biệt giữa giá trị hội giá
cả thị trường thể được tạo ra, bên cạnh đó lợi ích và chi phí hội khác
biệt với lợi ích và chi phí tư nhân. Vì phía thứ ba không nhạn được đền bù nên
các phí tổn sản xuất không được tính đến trong hệ thống giá. Do đó, vai trò
kinh tế của nhà nước chính là cần phải đứng ra điều chỉnh lại sự bất hợp
này. Nhà nước sẽ buộc tất cả những người hưởng lợi từ sản xuất tiêu thụ
sản phẩm phải trả toàn bộ chi phí sản xuất tiêu thụ sản phẩm đó. Nhưng
nhà nước không thể dễ dàng xác định được chính xác chi phí ấy bao nhiêu
nên nhà nước cần đảm bảo chi phí giảm ô nhiễm không được cao hơn so với
nguồn chi phí ô nhiễm gây ra cho hội để các nguồn lực được phân bố hiệu
quả.
| 1/25

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊ NIN

------------------------- TIỂU LUẬN
KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊ NIN
(KÌ I NĂM HỌC 2021-2022)
Đề tài: Phân tích nguyên nhân ra đời, bản chất, biểu hiện của
CNTB Độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường Tư bản
chủ nghĩa, qua đó làm rõ vai trò của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường hiện nay Sinh viên: Mã số sinh viên:
Lớp tín chỉ: KT01001-12 Lớp hành chính: … Hà Nội, 2021 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. Chủ nghĩa tư bản Độc quyền trong nền kinh tế thị trường Tư bản
chủ nghĩa...........................................................................................................2
1. Nguyên nhân ra đời...........................................................................2
2. Bản chất..............................................................................................7
3. Biểu hiện...........................................................................................10
II.Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay.............14
1. Vai trò của nhà nước trong quốc phòng và trong việc sản xuất,
tiêu dùng các hàng hóa công cộng.........................................................14
2. Vai trò của nhà nước đối với các yếu tố ngoại vi..........................16
3. Vai trò của nhà nước đối với vấn đề thu nhập và phúc lợi.........17
4. Vai trò của nhà nước trong các chính sách tài chính và tiền tệ. .18
KẾT LUẬN.....................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................20 1 MỞ ĐẦU
Vladimir Ilyich Lenin đã khẳng định rằng: “Chủ nghĩa tư bản độc quyền
chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một khuynh hướng tất
yếu”. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước được xem là chủ nghĩa tư bản độc
quyền có sự can thiệp và điều tiết của nhà nước trên phương diện kinh tế. Đây
là phương thức kết hợp giữa sức mạnh của tư bản độc quyền cùng với sức
mạnh kinh tế của nhà nước nhằm đem lại các nguồn lợi. Chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là một hình thức cực đoan của chủ nghĩa tư bản nhà nước mà
trong đó, nhà nước được xem là một doanh nghiệp độc quyền duy nhất chi
phối hầu hết các hoạt động sản xuất và phân phối hàng hóa trong nền kinh tế.
Do đó, nhà nước ngày càng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh
tế thị trường hiện nay. Nhận thức được tính cấp thiết cần phải nghiên cứu và
tìm hiểu về vấn đề này, em đã chọn: “Phân tích nguyên nhân ra đời, bản
chất, biểu hiện của CNTB Độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị
trường Tư bản chủ nghĩa, qua đó làm rõ vai trò của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường hiện nay” làm đề tài bài tiểu luận kết thúc học phần của mình.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là làm rõ về những đặc điểm của
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, để từ đó đem lại những kiến thức nhằm
có được hiểu biết một cách sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước với những biểu hiện rất mới của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời, khắc phục những tư tưởng giáo
điều, duy ý chí và không còn phù hợp với thực tiễn.
Việc nghiên cứu đề tài này mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc
nâng cao kiến thức của những sinh viên đại học và đồng thời giúp mọi người 2
có thêm nhiều niềm tin vào thắng lợi của công cuộc đổi mới và tương lai của chủ nghĩa xã hội. 3 NỘI DUNG
I. Chủ nghĩa tư bản Độc quyền trong nền kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa
1. Nguyên nhân ra đời
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời như một tất yếu khách quan
trong quá trình phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Có
nhiều nguyên nhân dẫn tới sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước, nhưng trước hết và quan trọng nhất là những nguyên nhân sau:
- Thứ nhất là, tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung sản
xuất càng cao. Do đó, sinh ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự
điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, yêu cầu kế hoạch hóa tập
trung từ một trung tâm. Nói cách khác, sự phát triển hơn nữa của trình độ xã
hội hóa lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải
đại diện cho toàn bộ xã hội để quản lý nền sản xuất. Lực lượng sản xuất xã
hội hóa với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng có
mâu thuẫn gay gắt với nhau, do đó, tất yếu đòi hỏi cần phải có một hình
thức mới của quan hệ sản xuất để lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát
triển trong điều kiện còn sự thống trị của chủ nghĩa tư bản. Hình thức mới
đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
- Thứ hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện
một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc
không muốn kinh doanh vì những ngành này đòi hỏi nguồn đầu tư lớn
nhưng lại thu hồi vốn chậm và đem lại quá ít lợi nhuận. Đặc biệt nhất là ở
các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, nghiên cứu khoa học cơ bản… 4
Trong điều kiện cạnh tranh để tồn tại, khi mà quy luật tỷ suất lợi nhuận có
xu hướng giảm xuống ngày càng phát huy sức mạnh trong các ngành truyển
thống thì việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ nhằm tạo ra
những ngành mới và những sản phảm mới để thông qua đó có thể có được
lợi nhuận siêu ngạch là một ưu tiến có tính sống còn của các tổ chức độc quyền.
Các ngành mới như: công nghiệp ô tô, hàng không, thiết bị điện… không
thể phát triển nếu không có những kết cấu hạ tầng cả về kỹ thuật và xã hội
phù hợp. Vì nếu không có hệ thống hạ tầng phù hợp như thế thì không thể
có thị trường cả “đầu vào” lẫn “đầu ra” cho các ngành này phát triển.
Nhưng đầu tư vào xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cũng như
hạ tầng xã hội là không thể có lợi nhuận hoặc lợi nhuận rất thấp. Bên cạnh
đó, quy mô vốn đầu tư lại thường là cực kỳ lớn, vượt quá khả năng của các
tổ chức độc quyền giàu có nhất. Do vậy, xuất hiện nhu cầu sử dụng ngân
sách nhà nước cho mục tiêu này nhằm đảm bảo lợi ích cho giới chủ tư bản,
trong đó quan trọng nhất là của tầng lớp tư bản độc quyền. Vì lẽ đó, nhà
nước trở nhầ chủ thể đầu tư và sở hữa hệ thống kết cấu hạ tầng từ đường
giao thông, sân bay, vệ tinh cho đến trường công, bệnh viện công, quỹ dự
phòng rủi ro… là một thực tế hiển nhiên. Thực tế các ngành này yêu cầu
nhà nước tư sản cần phải đứng ra đảm nhiệm kinh doanh cho những ngành
này, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành
khác đem lại nhiều lợi nhuận hơn.
Bên cạnh đó, nhu cầu đảy mạnh nghiên cứu khoa học cơ bản cũng là một
lĩnh vực mà giai cấp tư sản thường sử dụng nhà nước để làm chủ thể đầu tư.
Để phát triển và nâng cao sức cạnh tranh, các tổ chức độc quyền lớn rất cần
có các phát minh, sáng chế và những thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ. Tuy nhiên, quá trình đầu tư vào nghiên cứu khoa học cơ 5
bản là đầy rủi to và cần tiêu tốn một lượng vốn khổng lồ. Không có bất kỳ
nguồn vốn tư nhân nào đủ sức đáp ứng ngoài ngân sách nhà nước và để làm
việc đó nhất thiết phải sử dụng nhà nước với tư cách là chủ thể đầu tư.
Hàng tỷ dola mà chính phủ nhiều nước tư bản liên tục chi ra từ ngân sách
nhà nước cho các viện, các trường đại học nghiên cứu các lĩnh vực khoa
học, nhất là khoa học cơ bản – một lĩnh vực đầu tư hoàng toàn có thể chỉ
đem lại con số không lợi nhuận, nhưng vẫn cần thiết cho sự phát triển của
kinh tế - xã hội mà không gây ảnh hưởng gì đến sức mạnh của tài chính nhà
nước. Nhưng một khi thu được thành công thì kết quả đó lại được chuyển
giao cho các tập đoàn tư nhân triển khai ứng dụng. Không hiểu được điều
này thì sẽ không thể nào nhìn thấy được vai trò hoàn toàn mới của nhà nước
so với thời kỳ của Karl Marx và Phriedrich Engels.
- Thứ ba là, sự thống trị của độc quyền đã khiến cho sự đối kháng giữa giai
cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động ngày càng trở nên sâu
sắc và gay gắt hơn. Cuộc đấu tranh của những người lao động chống lại sự
bóc lột của giới chủ tư bản ngày càng tạo ra nhiều áp lực lớn.
Trước hết là từ đấu tranh kinh tế, những người lao động đấu tranh yêu cầu
tăng lương, giảm giờ làm và cải thiện điều kiện lao động… dưới sự lãnh
đạo của các tổ chức công đoàn. Những cuộc đấu tranh này có tác động trực
tiếp đến lợi nhuận của tư bản. Sự bất lực của giới chủ tư bản tại các tập
đoàn, công ty trong đối phó trực tiếp với phong trào đấu tranh của đông đảo
những người lao động đã được giác ngộ ngày càng sâu sắc và có tổ chức
chặt chẽ hơn trở thành mối đe dọa thường xuyên đến lợi nhuận của công ty chủ quản.
Cuộc đấu tranh của những người dân lao động chống tư bản thường vượt
quá khả năng đối phó của cả những tập đoàn tư bản lớn trong mỗi quốc gia.
Chỉ có nhà nước tư sản với tư cách là “tư bản tập thể” mới đủ sức mạnh để 6
đứng ra đối phó với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động không chỉ trong một nhà nước mà còn ở quy mô quốc tế.
Giai cấp tư sản sử dụng chính quyền nhà nước của mình trong đối phó với
đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác cũng là che
chắn, thậm chí là giải phóng cho giới tư bản khỏi phải đối mặt trực tiếp với
các cuộc đình công, bãi công của người lao động, mà người lao động lại
chính là lực lượng luôn ở thế áp đảo về số lượng. Mặt khác, từ nhu cầu thực
tế, đòi hỏi cần phải có vai trò điều tiết của nhà nước để phòng, tránh, khắc
phục những khủng hoảng kinh tế - xã hội, ngăn ngừa các nguy cơ dẫn đến
cách mạng xã hội, nên nhà nước cần phải đứng ra thực hiện các chức năng
xã hội như: quản lý quỹ hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp rủi ro, tai nạn
trong lao động… Trong số các nguồn lực nhằm đảm bảo thực thi các chức
năng xã hội thì nguồn vốn ngân sách quốc gia là quan trọng nhất. Để huy
động nguồn vốn này, đương nhiên nhà nước cần phải là chủ thể sử dụng.
Ngân sách nhà nước được sử dụng để chi trả cho các trợ cấp thất nghiệp, trợ
cấp tai nạn, hỗ trọ hưu trí và các loại bảo hiểm xã hội khác… Trên thực tế,
việc nhà nước đứng ra thực hiện các chức năng xã hội đã huy động được sự
đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động cho nên cũng là một
nguồn thu cho ngân sách nhà nước nước. Nhưng điều quan trọng nhất ở đây
là vừa giải phóng cho giới chủ thoát khỏi mũi dùi đấu tranh của giới lao
động, vừa tạo được sự an tâm của người lao động trong quá trình làm thuê cho tư bản tư nhân.
- Thứ tư là, cùng với xu thế hiện đại hóa, toàn cầu hóa, quốc tế hóa đời sống
kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế đã vấp phải
những rào cản quốc gia dân tộc và xung đội lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. 7
Trên thực tế, cuộc đấu tranh giải phóng các thuộc địa dẫn đến thu hẹp thị
trường của các tập đoàn độc quyền. Bóc lột trực tiếp dưới sự trợ giúp của
bạo lực nhà nước để các nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ mạt ở các thuộc
địa không còn khả thi nữa. Các công cụ bóc lột mới thông qua thị trường
được sử dụng dù rất tinh vi song cũng không tránh được những phản ứng
của chính quyền và người dân ở các quốc gia đang phát triển. Bảo vệ lợi ích
của các doanh nghiệp đầu tư ở nước ngoài bằng mọi công cụ, kể cả sức
mạnh quân sự là nhiệm vụ của nhà nước tư sản.
Toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế đòi hỏi vai trò mới của nhà nước trong
mở cửa thị trường nước ngoài, đồng thời dựng lên các hàng rào thuế quan
và phi thuế quan nhằm bảo hộ thị trường trong nước, thông qua đó làm
giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài. Đó là những công
việc mà không một chủ thể tư nhân nào có thể làm. Nó chỉ có thể thực hiện
bằng chính quyền nhà nước. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, công cụ thuế
quan bị giới hạn sử dụng nên các công cụ phi thuế quan có xu hướng được
sử dụng ngày một phổ biến hơn ở đa số các nước tư bản phát triển.
Các chính phủ tư sản cũng là chủ thể trực tiếp đàm phán, thương lượng, sử
dụng viện trợ ưu đãi và cả gây sức ép trong đàm phán, thương lượng, sử
dụng viện trợ ưu đãi và cả gây sức ép trong đàm phán để mở cửa các thị
trường nước ngoài cho hàng hóa và vốn đầu tư của các tập đoàn nước mình.
Trong không ích trường hợp, ngay cả các nguyên thủ quốc gia cũng tham
dự vào công việc này. Đặc biệt, là các hợp đồng kinh tế có giá trị lớn, bao
gồm cả các hợp đồng mua bán vũ khí.
Tình hình đó đòi hỏi cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà nước
của các quốc gia tư sản với nhau nhằm điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế. 8
- Thứ năm là, do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các tổ chức độc
quyền về nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ và các lợi ích khác. Cạnh
tranh vì lợi nhuận giữa những tổ chức độc quyền đã dẫn đến những cuộc
khủng hoảng kinh tế, thậm chí là xung đột vũ trang và chiến tranh thế giới.
“Cả hai cuộc chiến tranh thế giới đã xảy ra trong lịch sử đều là chiến tranh
đế quốc. Chiến tranh đế quốc chủ nghĩa đã thúc đảy và đã làm gay gắt thêm
đến cực độ quá trình biến chuyển của chủ nghĩa tư bản độc quyền thành chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước”. Những điều đó làm suy yếu địa vị thống
trị của giai cấp tư sản và có thể trở thành thời cơ của nội chiến cách mạng
và là nguy cơ đe dọa đến sự tồn tại của chính chủ nghĩa tư bản.
Không một nước tư bản nào có thể loại bỏ được cạnh tranh vì nó là thuộc
tính của nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng là phương tiện thực hiện lợi
nhuận của các tổ chức tư bản độc quyền. Song để kiểm soát được cạnh
tranh cũng như không cho phép độc quyền tuyệt đối của bất kỳ tập đoàn tư
nhân nào, giai cấp tư sản sử dụng nhà nước với tư cách là nhà tư bản tập thể
để thực hiện điều tiết cạnh tranh, bảo vệ lợi ích chung của toàn bộ giai cấp tư sản.
Trên bình diện quốc tế, một khi xuất hiện sự cạnh tranh dẫn đến nguy cơ có
hại cho các tổ chức độc quyền, thì không phải là các ông chủ tư bản ngồi
với nhau để giải quyết mà chính các đầy tớ trung thành của họ, là các chính
phủ tư sản, đứng ra đảm nhận vai trò chủ thể đàm phán với các đối tác để
đạt đến sự thỏa thuận mà các bên đều chấp nhận. Tranh chấp thương mại và
đầu tư vẫn tồn tại trong mối quan hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa nhưng
nó không trở thành chiến tranh nóng mà trở thành những cuộc “chiến tranh thương mại”. 2. Bản chất 9
Trong lý luận về chủ nghĩa đế quốc, ngay từ đầu, Vladimir Ilyich Lenin đã
khẳng định rằng “Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản độc quyền”. Trong di
sản lý luận của ông về chủ nghĩa tư bản độc quyền thì vấn đề “chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước” có một vị trí rất quan trọng.
Khi khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là chỉ hình thức
phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản độc quyền chứ hoàn toàn không phải
là một giai đoạn riêng biệt của chủ nghĩa tư bản, Vladimir Ilyich Lenin đã chỉ
rõ, nó đucợ đặc trưng bởi trình độ cao của xã hội hóa sản xuất tư bản chủ
nghĩa, bởi sự cộng sinh giữa độc quyền tư nhân, độc quyền nhóm và độc
quyền nhà nước, bởi sự chi phối của tầng lớp tư bản độc quyền (đặc biệt là của
tư bản tài chính) đối với bộ máy nhà nước.
Do đó, để có thể xác định được bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước, Vladimir Ilyich Lenin đã sử dụng phương pháp tiếp cận tổng thể từ
các góc độ khác nhau: từ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất; từ lợi ích của các giai cấp trong xã hội tư sản; đặc biệt là từ mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Về bản chất, theo Vladimir Ilyich Lenin, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước là sự thống nhất biện chứng giữa quyền lực kinh tế của tư bản dộc quyền
và quyền lực chính trị của nhà nước tư sản nhằm làm giàu cho tư bản độc
quyền và làm suy yếu cuộc đấu tranh của những người lao động để bảo vệ chế
dộ tư bản chủ nghĩa. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức
độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và
thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu
nguy cho chủ nghĩa tư bản. 10
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước bắt nguồn từ sự xã hội hóa của lực
lượng lượng sản xuất phát triển tới mức khiến cho sở hữu độc quyền được
thay thế bằng các hình thức sở hữu hỗn hợp giữa tư nhân và nhà nước. Ở đây,
nhà nước tư sản xuất hiện như một chủ sở hữu tư bản, một nhà nước tư bản xã
hội, đồng thời, là người quản lý xã hội bằng phát luật với bộ máy bạo lực to lớn.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước hoàn toàn không làm thay đổi về chất
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng nó là một sự thay đổi về lượng rất
quan trọng để quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phù hợp hơn với trình dộ
phát triển đã cao hơn hẳn của lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản.
Có thể nói, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức phù hợp nhất
để bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, trong điều kiện nền dân chủ tư sản đã
phát triển đến trình độ cao hơn hẳn. Khi mà những biểu hiện của sự độc tài,
chuyên chế đều không thể nào được chấp nhận một cách dễ dàng trong một xã
hội mà nền dân trí đã và đang ngày càng được nâng cao mà gắn liền với nó là
sự dân chủ, công khai và các quyền cơ bản của mọi công dân đều đã được
thừa nhận ở mức độ pháp lý hóa. Trong những điều kiện đó thì nhà nước tư
sản nắm lấy những bộ phận quan trọng nhất của của cải vật chất trong xã hội
và sử dụng nó để đáp ứng những nhu cầu về hàng hóa công cộng, thực thi các
chức năng kinh tế - xã hội là hoàn toàn có thể được chấp nhận của mọi giai cấp trong xã hội.
Quyền lợi ích kỷ của giai cấp tư sản cũng sẽ được che giấu đi một cách tinh
vi hơn khi mà các đơn đặt hàng của nhà nước được đưa ra đấu thầu cũng như
các ưu tiên đầu tư của ngân sách nhà nước đều phải được Quốc hội thông qua.
Giai cấp tư sản đã “làm cho chủ nghĩa tư bản cũ, chủ nghĩa tư bản trong thời
ky cạnh tranh tự do trể thành chủ nghĩa tư bản của các tơ-rớt, xanh-đi-ca và
các-ten khổng lồ. Nhóm này đã đưa ra nguyên tắc… phối hợp hai lực lượng 11
khổng lồ là chủ nghĩa tư bản và nhà nước thành một bộ máy duy nhất, trong
đó hàng chục triệu con người đều là thành viên của một tổ chức, tổ chức của
chủ nghĩa tư bản nhà nước. Đó là lịch sử kinh tế, là lịch sử ngoại giao trong
hàng chục năm gần đây mà không một ai có thể phủ nhận được.
Xét về góc độ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị thì chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức phát triển cao nhất của mối
quan hệ biện chứng giữa độc quyền kinh tế của tư bản tư nhân và độc quyền
chính trị của giai cấp tư sản trong xã hội tư sản.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội, chứ không chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc quyền
của chủ nghĩa tư bản. Khi chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thống trị, các
quá trình kinh tế diễn ra trong chủ nghĩa tư bản không những chịu sự tác động
tự phát của quy luật thị trường, mà nó còn chịu sự điều tiết của nhà nước tư
sản. Sự điều tiết này bao gồm tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội
và được thực hiện bằng cả các biện pháp kinh tế lẫn hành chính, pháp chế… 3. Biểu hiện
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không đồng nhất giữa các tư bản
khác nhau, nó tồn tại thống nhất trong sự đa dạng. Ở mỗi quốc gia có thể
mang thêm những sắc thái đặc thù khác nhau, song về cơ bản, ta có thể khái
quát chung qua các hình thức biểu hiện sau:
- Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản:
Dưới chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, quan hệ nhân sự là một trong
những biểu hiện đặc trưng nhất. Cụ thể là: Các tập đoàn tư nhân lựa chọn để
tài trợ kinh phí các ứng viên có nhiều tiềm năng khi tranh cử vào các chức vụ
của bộ máy nhà nước. Luật pháp tư sản nói chung đều cho phép sự quyên góp
này. Thật khó thể hình dung ra một ứng viên nào đó ở trong một nước tư bản,
kể cả nước phát triển nhất, tự mình dùng tiền cá nhân mà có thể trúng cử trở 12
thành người đứng đầu nhà nước hay một địa phương nào đó. Đó chỉ có thể là
kết quả của sự đồng tài trợ kinh phí từ một bộ phận đáng kể trong giới tư bản.
Vladimir Ilyich Lenin đã từng nhấn mạnh rằng, sự liên minh về nhân sự của
các ngân hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh về nhân sự
của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ theo kiểu: Hôm nay là bộ trưởng,
ngày mai là chủ ngân hàng. Hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ
trưởng. “Sự liên hợp về người” giữa ngân hàng với công nghiệp được bổ sung
bằng “sự liên hợp về người” giữa những công ty ngân hàng và công nghiệp với chính phủ.
Khi đã thành công thì các quan chức trong quá trình thực thi công vụ sẽ tìm
cách để có thể đền đáp những nhà tài trợ dưới nhiều hình thức. Đó có thể là
những ưu tiên trong chính sách kinh tế, trong chi tiêu ngân sách và phân bổ
các nguồn lực khác… Tùy theo công trạng trong quá trình này mà khi đã hết
nhiệm kỳ rời khỏi bộ máy nhà nước, các chính khách này sẽ được mời tham
gia vào các Hội đồng quản trị các tập đoàn hoặc là những cổ đông sở hữu các
cổ phiếu ưu đãi theo điều lệ của công ty và pháp luật tư sản.
Do vậy, không ít trường hợp một số tập đoàn lớn đã tác động chi phối, gây
ảnh hưởng đến các chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước theo hướng
có lợi cho họ chứ không phục vụ cho lợi ích chung của xã hội. Kích động qua
báo chí, tài trợ cho các cuộc biểu tình và cổ vũ cho chiến tranh... là nhưng
hình thức dễ thấy. Thậm chí có thể gây nên những cuộc ám sát các chính
khách, đảo chính quân sự, bạo loạn dài ngày nếu thấy sự chấp chính của chính
quyền đương nghiệm không có lợi bằng một thế lực khác lên thay thế.
- Sự hình thành và phát triển của sở hữu tư bản độc quyền nhà nước:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời
sống, nhưng nét nổi bật nhất là sức mạnh của nhà nước và độc quyền kết hợp
với nhau trong lĩnh vực kinh tế và nhà nước can thiệp trực tiếp vào quá trình 13
tái sản xuất xã hội. Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh
tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu
nhà nước tăng lên mà cả ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước
và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá
trình chi chuyển của tổng tư bản xã hội.
Tại đa số các nước phát triển, đã từ lâu, những bộ phận quan trọng nhất của
nền kinh tê thuộc về sở hữu của nhà nước. Đó là hệ thống kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội như giao thông vận tải, giáo dục, y tế, là dự trữ quốc gia, hệ thống
tài chính – tiền tệ và các tài sản quốc gia khác… Đồng thời cũng có một số
lượng nhất định các doanh nghiệp nhà nước cung cấp các hàng hóa công cộng,
cổ phần của nhà nước trong các ngân hàng, tập đoàn lớn và một số doanh
nghiệp do nhà nước quốc hữu hóa (mua lại) các doanh nghiệp tư nhân vì những lý do khác nhau.
Về cơ bản, kinh tế nhà nước tư sản đảm nhận vai trò chủ yếu trong các lĩnh
vực không thể có lợi nhuận hoặc lợi nhuận rất thấp. Còn những lĩnh vực kinh
doanh có lợi nhuận cao là thuộc về đặc quyền kinh doanh của các tập đoàn
độc quyền tư nhân. Sự tồn tại lâu dài của một bộ phận doanh nghiệp nhà nước
ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển chủ yếu liên quan đến các ngành, lĩnh
vực có lợi nhuận quá thấp và có nhiều rủi ro không hấp dẫn được tư nhân.
Trong tất cả mọi trào lưu sôi động nhất của tư nhân hóa, ở các nước tư bản
chủ nghĩa phát triển nhất cũng không thể tư nhân hóa nổi hệ thống đường sắt,
đường cao tốc, nhà máy điện hạt nhân… là một trong những ví dụ minh họa
nổi trội cho luận điểm này.
Sở hữu nhà nước hình thành dưới những hình thức sau đây: Xây dựng
doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hóa các xí nghiệp
tư nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư 14
nhân; mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân.
Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện những chức năng rất quan trọng.
Thứ nhất, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho
sự phát triển của tư bản tư nhân. Điều này liên quan đến những ngành sản xuất
cũ không đứng vững được trong cạnh tranh nên trở nên thua lỗ, cũng như
những ngành công nghệ mới nhất đòi hỏi vốn đầu tư lớn và trình độ nghiên
cứu khoa học, thiết kế và thử nghiệm cao.
Thứ hai, giải phóng tư bản của các tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi
để đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.
Thứ ba, làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế tư bản chủ nghĩa theo những
chương trình nhất định. Cùng với việc nhà nước thực hiện kinh doanh, thị
trường nhà nước cũng hình thành. Sự hình thành thị trường nhà nước – với
việc nhà nước chủ động mở rộng thị trường trong nước bằng việc bao mua sản
phẩm của các xí nghiệp độc quyền thông qua những hợp đồng đã được ký kết
– giúp tư bản tư nhân khắc phục một phần khó khăn trong khủng hoảng thừa,
góp phần bảo đảm cho quá trình tái xuất diễn ra bình thường.
- Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
Cơ chế thị trường tự do cạnh tranh và cơ chế độc quyền tư nhân đều có
những tác động tích cực và tiêu cực. Do đó, khi nào và ở đâu mà trình độ xã
hội hóa lực lượng sản xuất đã vượt qua khỏi giới hạn điều tiết của cơ chế thị
trường và độc quyền tư nhân thì tất yếu đòi hỏi phải được bổ sung bằng sự
điều tiết của nhà nước. Bản thân sự điều tiết của nhà nước cũng có mặt tích
cực và mặt tiêu cực. Những sai lầm trong sự điều tiết của nhà nước có khi lại
đưa đến hậu quả tai hại hơn là tác động tiêu cực của cạnh tranh tự do và độc
quyền tư nhân. Vì thế, hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước đã dung hợp cả
ba cơ chế: thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát 15
huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Xét đến cùng và về
bản chất, hệ thống điều tiết đó đều phục vụ cho chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Các chính sách kinh tế của nhà nước trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước phần lớn chỉ mang tính chất điều tiết, trừ những trường
hợp đặc biệt nhà nước tư sản mới điều hành kinh tế bằng sắc lệnh và các biện pháp hành chính.
Điều tiết kinh tế của nhà nước cơ bản bao gồm sử dụng các công cụ kinh tế
vĩ mô: thuế, lãi suất, hối đoái, vay nợ trong và ngoài nước… Nhà nước tư sản
cũng sử dụng ngân sách để đầu tư kích cầu nền kinh tế khi cần thiết đối với
các lĩnh vực như: tiêu dùng, tạo việc làm mới, khắc phục thảm họa thiên tai…
Về cơ bản, điều tiết kinh tế của nhà nước vẫn luôn thể hiện bản chất giai
cấp của nó. Lợi ích lớn nhất mà mọi hoạt động điều tiết kinh tế của nhà nước
tư sản là đều được định hướng ưu tiên hàng đầu cho các tập đoàn tư bản độc
quyền lớn, cho tầng lớp giàu có nhất trong xã hội tư sản, bảo vệ lợi ích cho sự
cộng sinh chặt chẽ giữa giới tinh hoa chính trị và bọn đầu sỏ tài chính ở mỗi nước.
Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hình thành như một tổng thể
những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Một bộ máy kinh tế của nhà
nước được tổ chức chặt chẽ với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều
tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội.
- Thực thi các chức năng xã hội của nhà nước tư sản:
Dưới chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, chính phủ và các thiết chế cơ
bản trong bộ máy nhà nước tham gia ngày càng sâu vào các lĩnh vực xã hội.
Những chức năng xã hội cơ bản của nhà nước cũng ngày càng được mở rộng
hơn. Chính phủ đứng ra quản lý và chi tiêu các quỹ xã hội lớn như: quỹ hưu
trí, quỹ bảo hiểm thất nghiệp, quỹ nhà ở, quỹ bảo hiểu y tế… Điều đó giải 16
phóng cho các ông chủ tư nhân và các tập đoàn được tự do và vô can mỗi khi
phải thải bớt nhân công, giảm tiền công… khỏi phải đương đầu trực tiếp với
người lao động và các tổ chức của họ như công đoàn, nghiệp đoàn…
Thông qua việc thực hiện các chức năng đảm bảo an sinh xã hội, nhà nước
tư sản cũng xiết chặt thêm một bước kỷ cương của pháp quyền tư sản.
II. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay
1. Vai trò của nhà nước trong quốc phòng và trong việc sản xuất,
tiêu dùng các hàng hóa công cộng
Với chức năng kinh tế của mình, nhà nước không chỉ giữ vai trò là người
quản lý, người ban hành các quy định, các luật chơi trên thị trường, mà còn
đảm nhiệm vai trò là chủ thể hoạt động sản xuất mà nhất là các hàng hóa và
dịch vụ công, là người mua và bán các hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Như
vậy, lúc này mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường được thể hiện là một
mối quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường, hay ta có thể hiểu đó là quan hệ
giữa người mua và người bán hàng hóa và dịch vụ chịu sự tương tác, ràng
buộc của các quy luật kinh tế trên thị trường, cũng như sự quản lý điều hành
của nhà nước thông qua một hệ thống những quy định phát luật cùng với những công cụ quản lý.
Quốc phòng là một ví dụ điển hình nhằm chứng minh cho vai trò tối cao,
đặc biệt quan trọng của nhà nước. Điều này được quyết định là vì quốc phòng
là một kiểu hàng hóa hoàn toàn khắc với những loại hàng hóa vật thể khác ở
chỗ là người ra không trả tiền cho mỗi đơn vị sử dụng mà mua nó như một
tổng thể nhằm mục đích bảo vệ an ninh của cả quốc gia. Ở đây, việc bảo vệ
cho một cá nhân nào đó không có nghĩa rằng việc này là giảm bảo vệ cho
người khác. Bởi vì tất cả mọi người trong một quốc gia đều sử dụng các dịch
vụ quốc phòng một cách đồng thời. 17
Các loại hàng hóa kiểu như trên được xem là hàng hóa công cộng. Vì không
bất cứ một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán quốc phòng của toàn dân cho
các cá nhân công nhân một cách riêng lẻ và xem đấy là một nghề để kinh
doanh nhằm thu lợi nhuận được. Đơn giản là bởi vì không thể có chuyện dịch
vụ quốc phòng lại được đem đi rao bán một cách công khai cho những người
cần hoặc không thực hiện việc bảo vệ an ninh của quốc gia, cho những cá
nhân từ chối chi trả kinh phí cho quốc phòng toàn dân. Bên cạnh đó, hàng hóa
công cộng là hàng hóa không thể được định giá một cách chính xác, nên tư
nhân không thể nào cung cấp được hàng hóa công cộng. Đây chính là nguyên
nhân chính lý giải nguyên nhân vì sao quốc phòng phải được điều hành do nhà
nước và nguồn kinh phí được sử dụng cho quốc phòng phải được lấy từ nguồn
tài chính công, tức là từ ngân sách nhà nước có được thông qua thuế.
Trong đó, hàng hóa công cộng bao gồm ba thuộc tính: tính không kình địch
trong tiêu dùng, tính không loại trừ và tính không thể không tiêu dùng mà tập
trung lại, tất cả mọi người đều có quyền và nghĩa vụ tiêu dùng hàng hóa công
cộng một cách công bằng như nhau. Có nhiều ví dụ để nói về hàng háo công
cộng, có thể kể đến như từ các biện pháp phòng chống lũ lụt cho đến việc
phòng chống vũ khí nguyên tử. Thế nhưng, hai ví dụ có thể cho ta thấy rõ
được vai trò của nhà nước một cách trực tiếp và thường xuyên nhất là việc xây
dựng cơ sở hạ tầng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Một nền kinh tế không thể nào phát triển và tiến xa được trừ khi nó có một
cơ sở hạ tầng, một nền tảng vững chắc. Nhưng chính điều này cũng do tính
không thể phân chia của hàng hóa công cộng mà các tư nhân thấy rằng việc
đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng không đem lại nguồn lợi. Do đó, ở phần
lớn các quốc gia, Nhà nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô
cũng được xem là một loại hàng hóa công cộng. Đặc điểm của nền kinh tế thị
trường là sự không ổn định do những cuộc khủng hoảng theo chu kỳ. Sự ổn 18
định kinh tế rõ ràng là điều mà mọi nhà nước đều khao khát có được và nó
mang lại nguồn lợi cho tất cả mọi người. Vì thế, nhà nước chính là cơ quan
cần phải chịu trách nhiệm để duy trì cho sự ổn định đó trên tầm vĩ mô.
2. Vai trò của nhà nước đối với các yếu tố ngoại vi
Yếu tố ngoại vi được hiểu là các hoạt động của một chủ thể nhất định nào
đó có tác động đến các đối tượng này không được đền bù hoặc không phải bị
đền bủ. Các chủ thể và đối tượng tác động này có thể những cá nhân hoặc đơn
vị sản xuất kinh doanh. Sự tác động của các chủ thể này mang cả những tác
động tiêu cực và tích cực. Các chủ thể này không chịu bất kỳ trách nhiệm kinh
tế nào về sự tác động của họ cũng như không đòi hỏi đền bù. Do vậy, các yếu
tố ngoại vi là một sự biểu hện mối quan hệ giữa sản xuất với sản xuất, sản
xuất với tiêu dùng, tiêu dùng với tiêu dùng hoặc tiêu dùng với sản xuất. Hoạt
động của người này có sự tác động đến hoạt động của người khác. Kết quả là
người này chịu ảnh hưởng bởi kết quả của sự hoạt động của người khác.
Tóm lại, khi có sự tương tác giữa các hoạt động của những chủ thể và đối
tượng khác nhau trong nền kinh thế thì sự khác biệt giữa giá trị xã hội và giá
cả thị trường có thể được tạo ra, bên cạnh đó là lợi ích và chi phí xã hội khác
biệt với lợi ích và chi phí tư nhân. Vì phía thứ ba không nhạn được đền bù nên
các phí tổn sản xuất không được tính đến trong hệ thống giá. Do đó, vai trò
kinh tế của nhà nước chính là cần phải đứng ra điều chỉnh lại sự bất hợp lý
này. Nhà nước sẽ buộc tất cả những người hưởng lợi từ sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm phải trả toàn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó. Nhưng
nhà nước không thể dễ dàng xác định được chính xác chi phí ấy là bao nhiêu
nên nhà nước cần đảm bảo chi phí giảm ô nhiễm không được cao hơn so với
nguồn chi phí ô nhiễm gây ra cho xã hội để các nguồn lực được phân bố hiệu quả.