





Preview text:
lOMoAR cPSD| 61631027
3. Phân tích các nguyên tắc của luật hình sự thể hiện trong quy chế Rome
Về mặt lý luận, các nguyên tắc của Luật hình sự có thể được hiểu là “những tư tưởng chỉ đạo
và các định hướng đường lối cho toàn bộ quá trình quy định tội phạm và hình phạt, áp dụng
Luật hình sự trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử”. Các nguyên tắc của Luật hình sự được
ghi nhận trong Quy chế Rome được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo hoạt động xây dựng các
quy định về tội phạm và hình phạt cũng như xây dựng các chế định có liên quan. Trong Quy
chế Rome, những nguyên tắc của Luật hình sự được quy định chủ yếu tại Phần 3, từ Điều 22 đến Điều 33.
Nguyên tắc đầu tiên của Luật hình sự được ghi nhận trong Quy chế Rome là nguyên tắc không
có tội khi không có luật (Nullum crimen sine lege). Nguyên tắc không có tội khi không có
luật nhìn chung đòi hỏi những hành vi bị coi là tội phạm phải có tính luật định. Điều đó cũng
đồng nghĩa với việc khẳng định một người sẽ chỉ bị coi là có tội nếu hành vi của họ bị quy định
là phạm tội trong luật. Như vậy, luật phải được coi là nguồn duy nhất quy định về phạm tội.
Việc xác định hành vi có tội của một người phải và chỉ dựa vào quy định của luật có hiệu lực
vào thời điểm hành vi đó được thực hiện. Điều 22 quy định của nguyên tắc này như sau:
1. Không ai phải chịu trách nhiệm hình sự theo Quy chế này, trừ trường hợp hành vi của
người đó cấu thành một tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án vào thời điểm
hành vi đó được thực hiện.
2. Định nghĩa tội phạm sẽ được giải thích một cách nghiêm ngặt và sẽ không được phép
hiểu rộng ra theo cách diễn giải tương tự. Trong trường hợp có sự thiếu rõ ràng, định
nghĩa sẽ được giải thích theo hướng có lợi cho người đang bị điều tra, truy tố hoặc xét xử.
Theo tinh thần chung của nguyên tắc này, những tội phạm thuộc quyền xét xử của Tòa án hình
sự quốc tế cũng phải có tính luật định. Từ những nội dung quy định tại Điều 22 của Quy chế
Rome, có thể thấy nguyên tắc không có tội khi không có luật trước hết đòi hỏi cơ sở duy nhất
để buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của họ và chịu phán quyết của
Tòa án hình sự quốc tế là hành vi của người đó cấu thành một tội phạm bị quy định trong các
văn bản pháp lý đang có hiệu lực của tòa án này. Đồng thời nguyên tắc này cũng đòi hỏi một
người chỉ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự trước Tòa án hình sự quốc tế nếu hành vi của
người đó cấu thành một tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án này.
Tóm lại, nguyên tắc không có tội khi không có luật đòi hỏi hành vi bị xét xử bởi Tòa án hình
sự quốc tế phải cấu thành một tội phạm được quy định trong Quy chế Rome, tức là phải phù
hợp với các dấu hiệu pháp lý của tội phạm đó theo quy định về “Các yếu tố cấu thành tội
phạm”. Những văn bản pháp lý này đều phải có hiệu lực vào thời điểm hành vi được thực hiện.
Việc ghi nhận nguyên tắc không có tội khi không có luật trong Quy chế Rome đã thể hiện được
tính pháp chế của một văn bản pháp lý quốc tế. Điều này cũng phù hợp với quy định của Tuyên
ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc: “Không ai bị kết án vì một hành vi mà lúc họ
thực hiện luật pháp quốc gia hay quốc tế không coi là tội phạm” (Điều 11 khoản 2).
Điều 22 của Quy chế Rome khi đề cập nguyên tắc không có tội khi không có luật đã đồng thời
ghi nhận đòi hỏi của một nguyên tắc khác là cấm áp dụng pháp luật tương tự. Tinh thần của
nguyên tắc này được thể hiện rất rõ nét tại Điều 22 khoản 2 Quy chế Rome. Theo quy định đó,
định nghĩa tội phạm phải được giải thích theo đúng tinh thần của điều luật, trong phạm vi khuôn
khổ luật định. Như vậy, Quy chế Rome đã đề ra một yêu cầu hết sức nghiêm ngặt đối với việc
giải thích và áp dụng điều luật để xác định tội phạm của Tòa án hình sự quốc tế, đó là chỉ được lOMoAR cPSD| 61631027
phép xác định tội phạm trong phạm vi luật định, không được xác định có tội dựa trên việc áp
dụng tương tự luật. Nhìn chung "Áp dụng tương tự để truy cứu trách nhiệm hình sự có nghĩa
là áp dụng một điều luật của Luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành
vi chưa được quy định trong Luật hình sự là tội phạm nhưng tương tự với hành vi đã được quy
định trong điều luật đó”. Việc quy định cấm áp dụng luật theo cách trên là một đòi hỏi hợp lý
và tất yếu bởi việc cho phép áp dụng pháp luật tương tự sẽ dẫn đến sự suy diễn, tùy tiện trong
giải thích và áp dụng luật, xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của công dân. Áp dụng pháp luật
tương tự tại Tòa án hình sự quốc tế là cho phép việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những
hành vi chưa bị quy định là tội phạm trong Quy chế Rome. Việc ghi nhận nguyên tắc cấm áp
dụng pháp luật tương tự là để khẳng định rõ hơn và cũng để bảo đảm thực hiện triệt để nguyên
tắc không có tội khi không có luật.
Nguyên tắc không phải chịu hình phạt khi không có luật (Nulla poena sine lege) được quy
định tại Điều 23 của Quy chế Rome có thể được coi là một hệ quả của nguyên tắc không có tội
khi không có luật. Hình phạt là một biện pháp chế tài đặc biệt nghiêm khắc và chỉ có thể áp
dụng đối với người bị phạm tội. Có tội phạm mới có hình phạt và như vậy có thể nói hình phạt
là biện pháp trách nhiệm chỉ đi kèm theo hành vi phạm tội. Tội phạm, như đã được khẳng định
trong nội dung của nguyên tắc "Nullum crimen sine lege”, phải được quy định trong luật. Chính
vì vậy, hình phạt được áp dụng đối với người bị Tòa án hình sự quốc tế kết án cũng phải có
tính luật định. Nguyên tắc này trước hết đòi hỏi những loại hình phạt có thể được áp dụng cho
người phạm tội bị kết án bởi Tòa án hình sự quốc tế phải được quy định trong Quy chế Rome
và phải được xác định cho từng tội phạm cụ thể được quy định trong Quy chế. Đáp ứng yêu
cầu của nguyên tắc này, một hệ thống hình phạt đã được thiết kế trong Quy chế Rome tại Phần
7: Hình phạt, Điều 77 (Các hình phạt được áp dụng) bao gồm: các hình phạt chính là tù có thời
hạn không quá 30 năm hoặc tù chung thân, các hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc tịch thu tiền,
tài sản có được từ việc phạm tội. Tuy nhiên, hình phạt đã không được quy định một cách cụ
thể cho từng tội danh trong Quy chế Rome. Đây thực sự là một biểu hiện chưa triệt để của việc
bảo đảm nguyên tắc không phải chịu hình phạt khi không có luật. Việc quy định hình phạt
chung cho tất cả các tội trong Quy chế này trao cho Tòa án hình sự quốc tế một quyền hạn rất
lớn trong việc quyết định hình phạt cụ thể cho từng trường hợp phạm tội trên thực tế. Nguyên
tắc không phải chịu hình phạt khi không có luật theo đó đòi hỏi Tòa án hình sự quốc tế khi
quyết định hình phạt chỉ được phép áp dụng những hình phạt đã được quy định tại Phần 7, Điều 77 của Quy chế Rome.
Nguyên tắc không hồi tố hay còn có thể gọi là cấm áp dụng nguyên tắc hiệu lực trở về trước'
được quy định tại Điều 24 khoản 1: “Không ai phải chịu trách nhiệm hình sự theo Quy chế này
về hành vi thực hiện trước khi Quy chế này có hiệu lực”. Theo quy định này, Tòa án hình sự
quốc tế không được phép truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi người đó thực
hiện trước khi Quy chế Rome có hiệu lực thi hành. Nội dung của nguyên tắc cấm hồi tố đồng
nghĩa với đòi hỏi khi tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người về hành vi của
người đó cần xác định hành vi này được thực hiện vào thời điểm Quy chế Rome đang có hiệu
lực thi hành. Xét về mặt lôgich thì nguyên tắc không hồi tố chính là một bảo đảm cho việc thực
hiện hai nguyên tắc không có tội khi không có luật và không phải chịu hình phạt khi không có
luật. Quy định tại Điều 24 chính là hệ quả tất yếu của quy định tại Điều 22 và Điều 23. Đòi hỏi
hành vi phạm tội và hình phạt phải được luật quy định đã trở thành điều kiện tiên quyết và do
đó, việc áp dụng nguyên tắc hồi tố sẽ là một biểu hiện của sự vi phạm nghiêm trọng các nguyên
tắc nêu trên. Như vậy, trong Quy chế Rome, cấm hồi tố không chỉ được ngầm hiểu là hệ quả
của những nguyên tắc được quy định tại Điều 22 và Điều 23 mà đã chính thức được ghi nhận
tại một điều luật cụ thể. lOMoAR cPSD| 61631027
Một nguyên tắc khác được quy định chính thức tại Điều 26 của Quy chế Rome là nguyên tắc
Loại trừ quyền tài phán đối với người dưới 18 tuổi. Cụ thể, Điều 26 quy định: “Toà án không
có quyền tài phán xét xử đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội”. Theo đó, Toà án hình sự
quốc tế bị loại trừ quyền đối với những người thực hiện những hành vi thoả mãn các yếu tố cấu
thành của một trong bốn loại tội phạm được quy định trong Quy chế Rome ở thời điểm trước
khi họ đủ 18 tuổi. Ở đây cần xác định Điều 26 quy định nguyên tắc của Luật hình sự được vận
dụng tại Toà án hình sự quốc tế, không phải là quy định về độ tuổi của chủ thể hành vi phạm
tội. Người dưới 18 tuổi thực hiện một trong số các hành vi bị coi là tội phạm theo Quy chế
Rome vẫn được xác định là người phạm tội. Tuy nhiên, họ được loại trừ việc bị xét xử bởi Toà
án hình sự quốc tế. Quy định này có thể được lý giải bởi một nguyên nhân quan trọng là người
dưới 18 tuổi là người chưa thành niên. Trong trường hợp được quy định tại Điều 26 của Quy
chế Rome, họ là người chưa thành niên phạm tội. Họ là người chưa phát triển đầy đủ cả về thể
chất, tâm lý cũng như về trình độ nhận thức. Với những đặc điểm đó, người chưa thành niên
dễ bị dụ dỗ, kích động, lôi kéo vào các hoạt động bất hợp pháp. Dựa vào tính chất cũng như
đặc điểm nguy hiểm của bốn loại tội phạm được ghi nhận trong Quy chế Rome, có thể nói
người chưa thành niên khi tham gia vào các hoạt động phạm tội này khó có thể nhận thức đầy
đủ và đúng đắn tính chất của loại hành vi mình thực hiện. Mức độ lỗi của những người phạm
tội trong các trường hợp này thấp. Vì vậy, trên cơ sở của nguyên tắc nhân đạo, Toà án hình sự
quốc tế loại trừ quyền tài phán của mình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội.
Để bảo đảm cho Tòa án hình sự quốc tế thực hiện quyền tài phán của mình một cách nghiêm
minh, triệt để, bảo đảm cho công lý được thực thi, Quy chế Rome quy định nguyên tắc không
phân biệt địa vị công chức tại Điều 27. Nguyên tắc này được thể hiện ở hai nội dung. Nội
dung thứ nhất được ghi tại khoản 1 Điều 27 với quy định: “Quy chế này được áp dụng bình
đẳng đối với tất cả mọi người, không có sự phân biệt do địa vị công chức”. Nội dung này của
nguyên tắc đòi hỏi các quy định của Luật hình sự phải được áp dụng như nhau đối với các đối
tượng khác nhau tại Tòa án hình sự quốc tế, không có sự phân biệt đối xử, không có đặc quyền
dành riêng cho bất kỳ người phạm tội nào do địa vị công chức của họ. Thực chất đây chính là
biểu hiện của một nguyên tắc chung của pháp luật là nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật.
Nguyên tắc không phân biệt địa vị công chức theo quy định này được xuất phát từ tính chất
đặc thù của những tội phạm được quy định trong Quy chế Rome. Người phạm những tội này
thường có một địa vị chính thức trong các cơ quan công quyền và thường là người có quyền
lực trong bộ máy nhà nước. Với chức vụ, quyền hạn của mình, người phạm tội sẽ thường được
hưởng những quy định có lợi hơn so với những công dân bình thường khác. Vì vậy, để bảo
đảm cho công lý được thực thi triệt để tại Tòa án hình sự quốc tế, nguyên tắc không phân biệt
địa vị công chức đã được ghi nhận trong Quy chế Rome. Để khẳng định và cũng để giải thích
thêm cho nội dung trên của nguyên tắc không phân biệt địa vị công chức, khoản 1 Điều 27 tiếp
tục quy định: “Những người có địa vị công chức như nguyên thủ quốc gia, thành viên của
Chính phủ hay nghị viện, người đại diện do bầu cử, hoặc công chức chính phủ thì theo Quy
chế này sẽ không được miễn trừ hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong bất cứ trường hợp
nào”. Quy định trên cho thấy tại Tòa án hình sự quốc tế, những quan chức cao cấp của các quốc
gia cũng phải chịu trách nhiệm hình sự một cách công bằng, bình đẳng như những người phạm
tội khác theo quy định của Quy chế Rome. Thân phận công chức đặc biệt của họ không được
xem là tình tiết giảm nhẹ để họ được miễn hoặc được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nội dung
thứ hai của nguyên tắc không phân biệt địa vị công chức được quy định tại khoản 2 Điều 27:
“Các quy định về việc miễn trừ hay áp dụng các thủ tục đặc biệt đối với người có địa vị công
chức theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế đều không cản trở Toà án thực hiện quyền
tài phán của mình”. Nội dung này thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật hình sự với sự
khẳng định bất cứ người nào phạm một trong các tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án hình
sự quốc tế đều phải chịu trách nhiệm hình sự trước Toà án này. Họ không thể trốn tránh khỏi lOMoAR cPSD| 61631027
sự xét xử và những phán quyết nghiêm minh của Tòa án hình sự quốc tế. Đây là điểm khác biệt
của vấn đề trách nhiệm hình sự theo Quy chế Rome so với Luật hình sự quốc gia, bởi pháp luật
hình sự của các quốc gia thường quy định quyền miễn trừ tư pháp dành cho những người phạm
tội có địa vị công chức đặc biệt. Nguyên nhân cơ bản của sự khác biệt này có lẽ là tính chất
cực kỳ nguy hiểm của những tội phạm được quy định trong Quy chế Rome. Như vậy, có thể
nói nguyên tắc không phân biệt địa vị công chức đã được bảo đảm thực thi một cách triệt để,
không bị ảnh hưởng bởi các quyền ưu đãi hoặc quyền miễn trừ về tư pháp của các nhân vật
lãnh đạo cấp cao của các quốc gia theo quy định của pháp luật quốc gia hay quốc tế. Nguyên
tắc này do vậy có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý xét xử các vị lãnh đạo đó và
không để cho họ lợi dụng danh nghĩa là người lãnh đạo hoặc chỉ huy để phạm tội hoặc cũng
mượn những danh nghĩa nói trên để trốn tránh sự truy xét của pháp luật.
Nguyên tắc không áp dụng thời hiệu được quy định tại Điều 29 của Quy chế Rome: “Không
áp dụng thời hiệu đối với các tội phạm thuộc quyền tài phán của Toà án”. Thời hiệu được nói
tới trong quy định này cần được hiểu là thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là thời hạn
(khoảng thời gian) do luật định mà khi hết thời hạn đó người phạm tội không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình. Pháp luật hình sự của các quốc gia thường quy
định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các loại tội phạm. Tuy nhiên, Quy chế
Rome đã đề ra nguyên tắc không áp dụng thời hiệu đối với các tội phạm thuộc quyền xét xử
của Tòa án hình sự quốc tế. Điều đó có nghĩa là người thực hiện các tội phạm này luôn phải
chịu trách nhiệm hình sự dù tội phạm đó bi phát hiện ở bất kỳ thời điểm nào. Nói một cách
khác, tội phạm đó có thể bị điều tra, truy tố, xét xử ở bất kỳ thời điểm nào. Lý do khiến nguyên
tắc này được đề ra trong Quy chế Rome xuất phát từ tính chất nguy hiểm cho xã hội của những
loại tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án hình sự quốc tế. Đây là những tội phạm cực kỳ
nguy hiểm, đe dọa đến sự sống còn, đến hòa bình, an ninh của toàn nhân loại, là những tội ác
chống loài người. Việc quy định không áp dụng thời hiệu đối với những tội phạm này là cần
thiết để ở bất kỳ thời điểm nào những người thực hiện hành vi gây ra những tội ác nguy hiểm
như vậy cũng có thể bị xử lý nghiêm minh.
Nguyên tắc nhân đạo: Bên cạnh các nguyên tắc thể hiện tính nghiêm minh của Luật hình sự,
Quy chế Rome còn ghi nhận một vài nội dung của nguyên tắc nhân đạo. Tuy không có điều
luật cụ thể quy định nguyên tắc này với tên gọi chính thức, song tinh thần của nguyên tắc này
được thể hiện khá rõ nét qua một số quy định tại Phần 3 (Những nguyên tắc chung của Luật
hình sự) trong Quy chế Rome. Đây là những quy định theo hướng có lợi cho người đang bị
điều tra, truy tố hoặc bị kết án. Trước hết, tinh thần của nguyên tắc nhân đạo đã được thể hiện
qua quy định tại khoản 2 Điều 22 của Quy chế Rome: “... Trong trường hợp không rõ ràng, thì
phải giải thích định nghĩa đó theo hướng có lợi cho người đang bị điều tra, truy tố hoặc kết án”.
Quy định này phản ánh một thực tế không tránh khỏi là một vài quy định do tính phức tạp của
vấn đề được điều chỉnh nên có nội dung không rõ ràng, có thể dẫn đến những cách hiểu khác
nhau. Trong những trường hợp này theo tinh thần của nguyên tắc nhân đạo, Tòa án hình sự
quốc tế sẽ giải thích những quy định đó theo hướng có lợi cho người được áp dụng. Bên cạnh
quy định trên, khoản 2 Điều 24 Quy chế Rome khi quy định nguyên tắc không hồi tố đã cho
phép: “Trong trường hợp có thay đổi trong luật áp dụng đối với vụ án trước khi ra bản án có
hiệu lực pháp luật, thì luật nào có lợi hơn cho người đang bị điều tra, truy tố hoặc bị kết án sẽ
được áp dụng”. Quy định này cũng là một biểu hiện của nguyên tắc nhân đạo bởi nó cho phép
Tòa án hình sự quốc tế áp dụng hiệu lực hồi tố trong trường hợp có lợi cho người được áp dụng.
Nguyên tắc hành vi: Nguyên tắc được thể hiện khá rõ nét qua các định nghĩa về bốn loại tội
phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án hình sự quốc tế là nguyên tắc hành vi. Hành vi phạm lOMoAR cPSD| 61631027
tội, theo quy định của Quy chế Rome, phải là hành vi của con người. Đòi hỏi trên của nguyên
tắc hành vi xuất phát từ chỗ chỉ thông qua hành vi tư tưởng, ý thức của con người mới được
bộc lộ và cũng qua đó con người mới có thể gây thiệt hại. Chính từ đòi hỏi đó, rất nhiều quy
định trong Quy chế Rome đã thể hiện tinh thần của nguyên tắc hành vi. Khoản 1 Điều 22 đã
nêu rõ cơ sở để một người phải chịu trách nhiệm hình sự tại Tòa án hình sự quốc tế chính là
“hành vi của người đó cấu thành một tội phạm thuộc quyền tài phán của Toà án vào thời điểm
thực hiện hành vi đó”. Cụ thể hơn, trong định nghĩa từng loại tội phạm bị xét xử bởi Toà án
này, các quy định tại Điều 6 (tội phạm diệt chủng), Điều 7 (tội phạm chống loài người), Điều
8 (tội phạm chiến tranh) và Điều 9 của Quy chế Rome đều đề cập tới dấu hiệu hành vi.
Nguyên tắc có lỗi: Trong Quy chế Rome, nguyên tắc có lỗi được thể hiện rất rõ ràng, đầy đủ
và cụ thể tại một loạt điều luật trong Phần 3 - Những nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự.
Khoản 1 Điều 30 quy định về yếu tố chủ quan của tội phạm đã nêu rõ: "Trừ trường hợp có quy
định khác, một người phải chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt về tội phạm thuộc quyền tài
phán của Toà án chỉ khi hành vi được thực hiện một cách có chủ ý và có hiểu biết”. Hiểu biết
và chủ ý của người thực hiện hành vi chính là sự phản ánh dấu hiệu lý trí và dấu hiệu ý chí của
lỗi về mặt chủ quan của tội phạm. Tiếp theo, Điều 30 đã giải thích rõ lỗi của người thực hiện
một trong các hành vi phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án hình sự quốc tế phải là lỗi
cố ý trực tiếp. Khoản 2 Điều 30 quy định rõ người thực hiện hành vi sẽ bị coi là có chủ ý khi:
(a) Liên quan đến hành vi, thì người này muốn được thực hiện hành vi đó; (b) Liên quan đến
hậu quả, thì người này là nguyên nhân gây ra hậu quả đó hoặc nhận thức rằng hậu quả nói trên
sẽ xảy ra trong điều kiện bình thường.
Nguyên tắc không truy cứu trách nhiệm hình sự do có tình tiết loại trừ trách nhiệm hình
sự: Điều 31 quy định nguyên tắc không truy cứu trách nhiệm hình sự do có tình tiết loại trừ
trách nhiệm hình sự. Nội dung của quy định này nêu lên các căn cứ loại trừ trách nhiệm hình
sự liên quan đến việc xác định lỗi của người có hành vi gây thiệt hại. Các căn cứ này có một
đặc điểm chung: đó đều là những trường hợp gây thiệt hại khách quan, không có lỗi của người
gây thiệt hại. Cụ thể khoản 1 Điều 31 quy định trường hợp hành vi gây thiệt hại được thực hiện
bởi người mắc bệnh tâm thần dẫn đến mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển
hành vi của mình phù hợp với các yêu cầu của pháp luật (điểm a); trường hợp gây thiệt hại
trong tình trạng bị say do các chất kích thích và người gây thiệt hại không có lỗi đối với tình
trạng say đó (điểm b); trường hợp gây thiệt hại trong phòng vệ chính đáng (điểm c); trường
hợp gây thiệt hại do bị cưỡng bức về tinh thần một cách mãnh liệt hoặc do sự kiện bất ngờ hoặc
trong tình thế cấp thiết. Tương tự như vậy, những trường hợp tiếp theo được quy định là tình
tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Quy chế Rome bao gồm tình tiết sai lầm về sự việc hoặc
sai lầm về pháp luật không có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi (Điều 32); tình tiết tuân theo
mệnh lệnh của cấp trên trong trường hợp thỏa mãn các điều kiện được liệt kê (Điều 33).
Nguyên tắc trách nhiệm hình sự cá nhân: Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện đầy
đủ và cụ thể tại Điều 25- Trách nhiệm hình sự cá nhân và Điều 28 - Trách nhiệm của người chỉ
huy và các nhân vật lãnh đạo khác. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 25,
người thực hiện tội phạm chỉ có thể là thế nhân - là con người cụ thể, và họ phải chịu trách
nhiệm hình sự cá nhân. Điều 25 khoản 3 đã quy định các trường hợp phải chịu trách nhiệm
hình sự như trách nhiệm hình sự của cá nhân người phạm tội trong trường hợp phạm tội riêng
lẻ hay trong trường hợp đồng phạm; hoặc trách nhiệm hình sự của người tự mình thực hiện
hành vi khách quan của tội phạm hoặc thông qua hành vi của người khác; hoặc trách nhiệm
hình sự trong trường hợp tội phạm đã hoàn thành hoặc phạm tội chưa đạt. Bên cạnh đó, Điều
28 đã quy định thêm vấn đề trách nhiệm hình sự cá nhân của các quan chức quân sự và các lOMoAR cPSD| 61631027
nhân vật lãnh đạo khác đối với những tội ác do cấp dưới của họ thực hiện trong những điều kiện nhất định.