Phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ hay nhất - Ngữ Văn 12
Xin gửi tới quý thày cô và bạn đọc bài văn mẫu "Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ" hay nhất. Đây là tài liệu không thể thiếu đối với các bạn học sinh chuẩn bị thi cuối học kì 2 lớp 12 và thi THPT Quốc gia môn NGỮ VĂN. Hy vọng tài liệu trên giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô HoàI - Ngữ văn 12 Dàn ý
1. Mở bài: Giới thiệu nhà văn Tô Hoài và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
2. Thân bài: phân tích nhân vật A Phủ cần có những ý chính sau.
Nửa đầu của truyện Vợ chồng A Phủ kể về quãng đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài,
trong nhà thống lí Pá Tra. Ở phần này, A Phủ là nhân vật phụ, nhưng có tác dụng làm
nổi bật hình tượng nhân vật chính là Mị và khắc họa rõ hơn chủ đề tác phẩm. A Phủ là
nhân vật được miêu tả sóng đôi với Mị, góp thêm một thân phận người lao động nghèo
vào bức tranh hiện thực của tác phẩm.
- A Phủ mồ côi cả cha lẫn mẹ vì nhà bị chết dịch. Có người bắt A Phủ đem xuống bán
đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới mười bốn, nhưng A Phủ gan bướng, trốn thoát
lên núi, rồi lưu lạc đến Hồng Ngài.
- Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ thành một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như
ngựa”, lao động giỏi, lại “săn bò tót rất thạo”. Vì thế, A Phủ trở thành niềm mơ ước
của bao cô gái. Họ bảo nhau: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà”.
- Tuy vậy, A Phủ suốt đời làm thuê làm mướn, nghèo đến nỗi không thể nào lấy được
vợ và cũng không có nổi cả cái vòng bạc để đi chơi ngày Tết như bao chàng trai Hmông khác.
- Chính hoàn cảnh khắc nghiệt này đã góp phần tạo nên ở A Phủ tính cách gan góc, táo
bạo và một sức sống mạnh mẽ. Hình ảnh A Phủ khiến người đọc nhớ tới những nhân
vật càng Mồ Côi, chàng Khó tràn đầy sức lực, lao động giỏi và giàu nghĩa khí trong văn học dân gian.
+ A Phủ dám đối mặt với bọn con quan một cách thật hùng dũng và đầy tự tin. Anh
sẵn sàng trừng trị kẻ đã phá cuộc vui của bạn bè mình.
+ Cũng vì thế, A Phủ bị trói mang đến nhà Phá Tra để xử kiện. Cuộc xử kiện quái lạ
này thực chất chỉ là một cuộc tra tấn dã man để cuối cùng A Phủ vô cớ phải trở thành
người nô lệ gạt nợ cho nhà thống lí. Bằng ngòi bút miêu tả phong tục bậc thầy, Tô
Hoài đã làm hiện rõ trước mắt người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố
cáo, từ đó vạch trần cách áp bức dã man, trắn trợn kiểu trung cổ của bọn thống trị miền
núi. Qua “làn khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn ra các lỗ cửa sổ”, cứ hút trong một đợt
thuốc phiện Pá Tra lại ra lệnh, trai àng lại từng đợt, từng đợt thay nhau lạy tên thống lí
lia lịa rồi xông vào đánh A Phủ. Còn người thanh niên khốn khổ này chỉ biết im lặng
chịu đòn “suốt chiều, suốt đêm”. Như vậy, tuy là một chàng trai tự do của núi rừng, A
Phủ vẫn không thoát khỏi nanh vuốt của bọn chúa đất. Từ đây, anh bỗng vĩnh viễn trở
thành con trâu, con ngựa, như một nô lệ cho nhà Pá Tra. Hơn nữa, cho đến cả đời con,
đời cháu, bao giờ trả hết nợ mới thôi. Và nếu không gặp Mị, chắc chắn A Phủ đã phải
chết một cách thê thảm tại nhà thống lí.
- Tinh thần phản kháng là cơ sở để sau này, khi gặp A Châu – người cán bộ của Đảng,
A Phủ nhanh chóng giác ngộ cách mạng, tham gia du kích, tích cực đấu tranh để giải
phóng mình và giải phóng quê hương. 3. Kết bài
Câu chuyện về A Phủ - người nô lệ gạt nợ đã bổ sung cho câu chuyện của Mị - người
con dâu gạt nợ, để hoàn thiện bản án về tội ác của bọn chúa đất đối với những người
lao động lương thiện ở miền núi trước Cách mạng, đồng thời cũng cho thấy sức sống mãnh liệt của họ. Bài tham khảo 1
Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu khi tác giả Tô Hoài viết về đề tài
Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo
khán giả đón nhận.Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ ,đã
trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang
những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật
Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả :“Ai ở xa về, có dịp vào nhà
thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước
cửa, cạnh tàu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay
đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” .Và từ một
hình ảnh đó,để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng
nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mỵ có duyên gặp nhau.
A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm, A Phủ đã xô xát đánh nhau
với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này,A Phủ bị bắt về bị đánh
đập tàn nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A
Phủ, chàng là người nghèo khổ ,mất hết cả cha lẫn mẹ , sống kiếp mồ côi không ai
chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của
người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận, A Phủ 10 tuổi đã
một mình kiếm sống , học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé,với
số phận chua xót,A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số
phận khiến anh có một số phận trớ trêu. Sức sống tiềm tàng của một người đã sớm
được bộc lộ, không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật,
hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hoài
là một người có sức khỏe hơn người.
A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng, yêu đời và chính nghĩa,
bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không
biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là
một con người liều lĩnh và chí khí.
Hơn vậy, chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều
người để ý. Nhiều cô gái lây làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt ở
xã hội phong kiến miền núi đương thời, A phủ bị người ta khinh thường và một lí do
nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.
Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra,A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với
bản năng của mình, A phủ không than , không van xin lấy một lời, a Phủ không bao
giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng
lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng
tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh
xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra
các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú
pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người
dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ, A Phủ thành
người ở không công quần quật với hàng núi công việc. A Phủ có thể đốt rừng, cày
nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một
mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến
các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh
không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá
trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn
nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là
khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng
cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói
mình. Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải
thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt . Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen
lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.
Tuy vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ,nó
được nuôi dưỡng từ khi còn bé co cực. Anh chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra
tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tôi và anh tin
rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai nhưng đêm đến anh đã cúi xuống
nhay đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được
Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn. Nhưng vì cái
chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà
thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A
Phủ để cho Mị đi theo,anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả MỊ.
Sau khi vượt khỏi nhà thống lí,A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở
đây, anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự
áp bức của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh
chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm, là người tiêu
biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi
A Phủ giác ngộ được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp ,không chỉ a Phủ mà là
hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.
Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật
được hình tượng và khí phách của A Phủ- nhân vật điển hình trong truyện. Cùng với A
Phủ là Mị,dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã
phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình. Bài tham khảo 2 Mở bài
“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn được rút ra từ tập “Truyện Tây Bắc” của
Tô Hoài viết vào năm 1953 ngay sau chuyến thâm nhập thực tế của tác giả. Truyện đã
được tặng giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Đấy là truyện ngắn đặc
sắc nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung, tác phẩm là
một bức tranh chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của những người nông
dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, đồng thời là
bài ca về phẩm chất, sức sống, khát vọng tự do của con người lao động miền núi, là
hình ảnh con đường giải phóng và sự đổi đời của họ. Tiêu biểu cho những con người
ấy là A Phủ, một trong hai nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong truyện ngắn này. Thân bài
Ý1: Lai lịch của A Phủ: Tác giả đã cho A Phủ xuất hiện khá đột ngột trong hoàn
cảnh đánh nhau với A Sử, bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lí rồi mới kể về lai
lịch của nhân vật. Đó là một chàng trai phải chịu đựng một tuổi thơ bơ vơ đau khổ. A
Phủ quê ở Háng-bla, vừa mới lên mười tuổi đầu đã phải gánh chịu một tai họa khủng
khiếp. Trận dịch đậu mùa tràn đến làm cho trẻ con, người lớn chết. Nhà A Phủ, cha
mẹ, anh chị em cũng bị chết hết, chỉ con sót lại một mình A Phủ. Làng chết nhiều quá,
có người làng đói bụng đã bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới
cánh đồng. Là một thiếu niên có tính gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A
Phủ đã trốn lên núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa
này sang mùa khác, dù sống trong cảnh cực khổ, cô đơn, nhưng chẳng bao lâu A Phủ
trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi.
Ý2: A Phủ là một chàng trai người Mèo có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao động.
A Phủ sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ
nghề “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Khi lớn
lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người: “công
việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng…”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”.
Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một cuộc sống phóng khoáng,
hồn nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng
có quần áo mới như trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi
cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng
trong rừng”. Bởi vậy được nhiều người con gái trong làng mê và trở thành niềm ao
ước của biết bao cô gái. Họ kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con
trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Tuy nhiên với tập tục, phép làng, lễ cưới
xin khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ, chàng trai không
cha không mẹ, không ruộng nương, không tiền bạc ấy, làm sao có thể lấy nổi vợ, làm
gì có gia đình, hạnh phúc tươi sáng?
Ý3: Đau khổ hơn nữa, A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do mà vẫn không thoát
khỏi kiếp sống nô lệ. Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính
nghĩa nên A Phủ đã dám đánh lại con nhà quan khi hắn phá đám chơi ngày Tết. “A
Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay
lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đẫu xuống xé vai áo đánh tới tấp”. Hành
động dữ dội đó của A Phủ còn có nguyên cớ sâu xa từ mối thù giai cấp. Sau đó A Phủ
bị cha con thống lí Pá Tra và bọn tay sai bắt và đánh đập vô cùng tàn bạo, dã man hơn
cả thời trung cổ. Bọn thống lí và chức việc kéo đến ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh đập
A Phủ suốt từ trưa đến hết đêm: “càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi… Cứ mỗi
lần bọn chức việc hút xong A Phủ lại quỳ trước nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A
Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Hai đầu gối sưng bạnh ra như hổ mang
phù”. Như vậy dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống
của người dân nghèo miền núi thật thảm thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con
vật. Tuy vậy A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn tỏ ra bất khuất, cứng
rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá”. Cuối cùng, với cách xử
kiện quái gở, người phát đơn kiện cũng là người xử kiện, A Phủ đã bị phạt làm nô lệ
suốt đời không công cho nhà thống lí.
A Phủ đã bị thống lí Pá Tra buộc làm nô lệ để trả nợ “đời mày, đời con mày, đời
cháu máy tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Thế là cũng như Mị, A Phủ
trở thành tên nô lệ chung thân bị khinh rẻ, bị ngược đãi trong vòng kiểm soát của chủ
nô thống lí Pá Tra. Từ đây A Phủ bị thống lí bòn rút sức lao động “đốt rừng, cuốc
nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, ngựa quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.
Ý4: Bi thảm và tuyệt vọng hơn nữa khi tính mạng của A Phủ sống hay chết cũng
được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lí Pá Tra. Chỉ vì để hổ vồ mất bò, A
Phủ đã rơi vào thảm họa mới. Thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm
mất bò tao…” rồi sai A Phủ lấy cái cọc và cuộn dây mây cuốn từ chân lên vai trói
đứng A Phủ lại. Nếu không bắt được hổ đem về thì cho A Phủ “đứng chết ở đấy”. Sau
bao ngày bị A Phủ “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và thần chết đã
in dấu trên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. A Phủ đã nằm
bên bờ vực của cái chết. “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết đau, chết đói, chết
rét, phải chết”. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ
chết, sắp chết, chứng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng.
Ý5: Miêu tả cuộc sống khổ cực đau thương, tủi nhục của A Phủ, Tô Hoài một
mặt đồng cảm xót thương với thân phận khổ đau của người lao động miền núi, một
mặt khác vừa vạch trần bộ mặt tàn bạo, dã man của bọn chúa đất đã vùi dập không tiếc
thương sự sống của họ.
Ý6: Tuy vậy, với khát vọng mãnh liệt, với bản chất gan góc, bất khuất sẵn có, A
Phủ không chịu tìm cái chết mà tìm mọi cách tự giải thoát. “Đến đêm, A Phủ cúi
xuống nhay đứt hai vòng mây, nhích giãn dây trói một bên tay”. Và với sự trợ giúp của
Mị, “A Phủ đã quật sức vùng lên, chạy xuống dốc núi”. A Phủ và Mị trốn khỏi Hồng
Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành
chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn cuộc đời
mình, bản làng quê hương mình. Từ đấu tranh tự phát A Phủ và Mị tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác. Kết luận:
Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật A Phủ hiện lên thật độc đáo, hấp dẫn. Nhân vật ít
nói, thiên về hành động. Cùng với Mị, cuộc đời A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số
phận, phẩm chất và con đường đi của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ bóng tối của
cuộc đời đau khổ tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm, ánh sáng tự
do và cách mạng. Đó cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này. Bài tham khảo 3
Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn của tập Truyện Tây Bắc của nhà
văn Tô Hoài sáng tác năm 1953. Truyện kể về hai chặng đường đời của Mỵ và A Phủ
những ngày ở Hồng Ngài trong nhà thống lý Pá Tra và sau khi sang Phiềng Sa nên vợ
nên chồng, gặp gỡ Cách mạng và trở thành chiến sĩ du kích. Trong đó, A Phủ là một
nhân vật gây ấn tượng khá sâu sắc.
Tác giả cho A Phủ xuất hiện khá đột ngột trong một hoàn cảnh đánh nhau với A
Sử, bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lý Pá Tra, rồi mới kể về lai lịch của nhân
vật. Đó là một người nghèo khổ đã mất hết cả mẹ cha và anh em trong một trận đậu
mùa khủng khiếp, phải sống kiếp bơ vơ khi còn rất nhỏ và "người làng đói bụng đã bắt
A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng". Không cam chịu
cuộc sống khốn khổ, mới 10 tuổi đầu A Phủ đã tự khẳng định tính cách gan góc: một
mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề "biết đúc lưỡi cày lại cày giỏi và đi săn bò tót rất
bạo", Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe
hơn người. "Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng", "A Phủ chạy
nhanh như ngựa". Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một đời sống
tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ. "Đang
tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như nhiều trai làng khác, A
Phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ. A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn
con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng". Vì vậy, A Phủ trở thành
niềm mơ ước của biết bao cô gái Mèo. Họ kháo với nhau "Đứa nào được A Phủ cũng
bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu". Tuy vậy với tập tục khắc
nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời. A Phủ chẳng những bị khinh
thường mà thực tế cũng chẳng bao giờ anh kiếm đủ tiền để làm nhà và cưới vợ.
Đau khổ hơn, A Phủ là đứa con của núi rừng tự do mà vẫn không sao thoát khỏi
kiếp sống nô lệ. Sự việc xảy ra vào đêm hội mùa xuân. A Phủ dám đánh lại con nhà
quan phố đám chơi "Chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Nó vừa
kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo,
đánh tới tấp,:. Hành động dữ dội đó của A Phủ có nguyên cớ sâu xa từ mối hận thù
giai cấp. Sau đó, bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập rất dã man, A Phủ đã chứng tỏ mình
là con người bất khuất, cứng rắn gan dạ. A Phủ không hề khóc lóc van xin trái lại "A
Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá". Cuối cùng trong cảnh xử kiện quái gở khi kẻ
phát đơn kiện cùng là người ngồi ghế quan tòa, A Phủ đã bị Pá Tra buộc làm nô lệ
không công suốt đời để trừ nợ. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh
vác những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như "cày ruộng, cuốc nương và săn
bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”.
Tính mạng của A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo
của thống lý Pá Tra. Chỉ vì để hổ bắt mất bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói vào cọc "bằng
dây sậy quấn từ chân lên vai". Và nếu bọn A Sử không bắt được hổ về thì chắc chắn A
Phủ sẽ phải chết "chết đau, chết đói, chết rét" — Như Mỵ từng chứng kiến những cảnh tương tự.
Tuy vậy, với tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bản chất gan góc, bất khuất, sẵn có,
A Phủ không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát: "Đêm đến, A Phủ cúi
xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay". Và với sự trợ giúp của
Mỵ A Phủ đã được tự do. Hai người trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích ở Phiềng
Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mỵ lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham
gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng
quê hương, từ đấu tranh tự phát, A Phủ và Mỵ đã tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác.
Cùng với Mỵ, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận
và phẩm chất của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ trong bóng tối của cuộc đời đầy
đau khố, tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm và tự do, ánh sáng
của Cách mạng. Đấy cũng là giá trị nhân đạo, mới mẻ sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này. Bài tham khảo 4
Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại
Việt Nam. Với vốn hiểu biết sâu sắc phong phú về phong tục tập quán ở nhiều vùng
miền và lối trần thuật hóm hỉnh sinh động, ông đã tạo ra những tác phẩm nổi tiếng đi
vào lòng người đọc. Một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông chính là "Vợ chồng A Phủ".
"Vợ chồng A Phủ" là kết quả của chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng
Tây Bắc năm 1952. Truyện ngắn được in trong tập "Truyện Tây Bắc" xuất bản năm
1953. Truyện kể về cuộc đời của hai nhân vật chính Mị và A Phủ. Hai nhân vật này đã
góp phần làm nổi bật giá trị của truyện cũng như mục đíc của tác giả khi sáng tác
truyện ngắn này. Và nhân vật A Phủ là đại diện cho những chàng trai Tây Bắc gan
bướng, cứng cỏi và không sợ cường quyền.
A Phủ có một lai lịch hết sức đặc biệt. Anh mồ côi cha mẹ, không người thân
thích. Anh là người duy nhất trong gia đình sống sót qua nạn dịch. Năm mười tuổi, anh
bị bắt đem bán để đổi thóc cho người Thái. Sau đó anh trốn lên núi và lưu lạc đến
Hồng Ngài. Từ đây cuộc đời anh mới gặp nhiều sóng gió. Trong tác phẩm anh được
xuất hiện trong đêm tình mùa xuân khi đánh nhau với A Sử con trai thống lí Pá Tra. Sự
việc này đã phần nào hé mở về cá tính của nhân vật này.
Trước hết A Phủ là một chàng trai khỏe manh và có tài. Anh là niềm mơ ước
của nhiều cô gái. Từ đục lưỡi cày, chăn bò tót… anh đều làm rất thạo. Người ở Hồng
Ngài ví nếu có anh ở trong nhà không khác gì có một con trâu tốt. Nhưng anh vẫn
không lấy nổi vợ. Vì anh nghèo "chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn ở cổ". Mặc dù vậy,
trong đêm tình mùa xuân anh vẫn cầm con quay đi tìm bạn tình. Vì vậy mới sinh sự ở Hồng Ngài.
A Phủ có một tính cách, cá tính rất mạnh mẽ. Năm mười tuổi khi bị bán để đổi
thóc cho người Thái, phải ở cánh đồng thấp, anh không chịu được mà trốn lên cánh
đồng cao. Chỉ chi tiết này thôi cũng phần nào hiểu được cá tính của anh. Đặc biệt anh
không hề sợ con quan. Anh đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra. Anh đánh A
Sử mà không phảo sợ sệt hay kiêng nể chịu nép vế vì là con quan. Anh còn gan bướng
cứng cỏi đến mức trong cuộc xử kiện, họ đánh đập chửi rủa anh, anh vẫn "im như một
tượng đá". Khi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí, anh vẫn tự do. Người
nhà thống lí không thể trói buộc được anh. Ngày ngày anh rong ruổi nơi bìa rừng khắp
chốn. Một mình anh chăn dắt đàn bò đến mấy chục con. Chẳng may một hôm vì mải
mê bẫy nhím anh để hổ ăn mất một con bò. Nhưng anh không hề sợ hãi mà điềm
nhiên vác nửa con bò về nhà thống lí. Không chỉ thế anh còn nói với thống lí xin đi bắt
hổ về. Quả thực mặc dù trở thành nô lệ cho nhà thống lí nhưng anh vẫn không hề mất
đi bản lĩnh, vẫn cứng cỏi, không sợ cường quyền. Cá tính mạnh mẽ của anh con được
thể hiện qua tâm lí khi anh bị trói đứng. Anh đứng im cho người nhà thống lí trói
mình, rồi không chịu được anh dùng răng nhai đứt mấy vòng dây mây. Anh mạnh mẽ
đến mức bị trói đứng mấy ngày liền anh vẫn không hề than oán. Chỉ đến ngày thứ ba
cảm nhận mình đã đến bên bờ cái chết anh mới tuyệt vọng để hai hàng nước mắt bò
trên gò má. Cá tính mạnh mẽ của anh rất có lợi cho việc giác ngộ cách mạng sau này.
Bằng khả năng khắc họa nhân vật tài tình, Tô Hoài đã xây dựng được một nhân
vật hết sức tiêu biểu cho những chàng trai miền Tây Bắc – A Phủ. Một chàng trai
khỏe mạnh, có tài năng và cá tính mạnh mẽ. A Phủ là một biểu tượng của chàng trai
núi rừng mộc mạc, chân chất. Đồng thời, xây dựng nhân vật A Phủ cũng góp phần thể
hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn này. Bài tham khảo 5
Nằm trong tập Truyện Tây Bắc (1953), truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một
trong những”đứa con tinh thần” ưu tú của chuyến đi thực tế miền núi Tây Bắc của Tô
Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét cuộc sống và số phận bất hạnh của những
người nông dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Qua đó tác giả
cũng làm nổi bật lên khát vọng và nghị lực sống mãnh liệt của họ. Bên cạnh nhân vật
Mị, A Phủ chính là một nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc về
bản lĩnh vượt lên số phận và chính mình.
A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường
như lại khiến người cho đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. Nhân vật xuất hiện trước mắt
người đọc trong lần đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra nên bị bắt, bị phạt
vạ và đánh đập rất dã man. Từ đây, tác giả đã ngược dòng để kể về lại lịch của A Phủ,
giúp người đọc hình dung rõ hơn về con đường đời vượt lên số phận của anh.
A Phủ là một đứa trẻ sinh ra trong nghèo khổ, đau đớn hơn lại mồ côi cả cha lẫn
mẹ sau một trận dịch đậu mùa. Chính vì thế mà cả năm tháng tuổi thơ của anh phải
sống kiếp nô lệ đọa đày khi bị người làng bắt trói rồi đem bán cho người Thái ở dưới
cánh đồng. Thế nhưng, không chịu khuất phục số phận, A Phủ đã liều lĩnh bỏ trốn lên
Hồng Ngài, làm thuê làm mướn đủ nghề từ mùa này sang mùa khác để kiếm sống nuôi
thân. Bản lĩnh gan góc, sức sống tiềm tàng đã được trui rèn trong những năm tháng cơ
cực ấy và đó cũng chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau trong cuộc đời A Phủ.
Từ khi trưởng thành, A Phủ càng chứng tỏ con người gan góc, không chịu
khuất phục, luôn có ý chí vượt lên số phận cay đắng để vươn đến những điều tốt đẹp
nhất của mình. Chàng “biết đúc lưỡi cày”, “đi săn bò tót rất bạo”. Chẳng những lao
động giỏi mà A Phủ còn có sức khỏe hơn người: “A Phủ chạy nhanh như ngựa”,
“Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”. Chính nghị lực sống và sức
khỏe của anh đã khiến cho nhiều cô gái và người làng yêu mến.
Nhưng tiếc thay, A Phủ lại là người không cha không mẹ, không nhà cửa,
không ruộng nương và vì tập tục cưới vợ của người Mèo phải có trăm đồng bạc trắng
cho nên việc lấy vợ với anh là chuyện quá xa xôi. Một chàng trai khỏe mạnh và cá tính
như anh đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc vậy mà cuối cùng vẫn phải một mình cô độc như thế.
Tuy nhiên, dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào
tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, A Phủ không có quần áo mới như những
anh con trai khác mà “chỉ có độc một chiếc vòng cổ” nhưng “A Phủ cứ đi chơi cùng
trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong
vùng”. Nhiều cô gái kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt
trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”.
Chẳng những thế, ở A Phủ còn là một con người trọng tình và đầy nghĩa khí.
Gặp chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ
xảy ra nhưng A Phủ vẫn xông vào để bênh vực cho bạn của mình. Điều này đã cho
thấy A Phủ là một chàng trai gan dạ và chí khí.
Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã bị bọn người nhà thống lý đánh đập
hết sức dã man, tàn bạo từ trưa cho đến đêm muộn. “Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi
mắt dập chảy máu”. Thế nhưng bọn người nhà thống lý “Cứ như thế, suốt chiều, suốt
đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Mặc dù bị đánh đập và rất
đau đớn nhưng A Phủ không hề khóc lóc van xin mà trái lại “A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ
im như tượng đá”. Sự im lặng chịu đựng của anh đã cho thấy bản lĩnh gan dạ, không
bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai và sự bất lực, căm phẫn đến tột độ vì
không thể làm gì được.
Cuối cùng kết thúc phiên xử kiện tàn độc, A Phủ đã bị thống lý Pá Tra buộc làm
nô lệ không công suốt đời cho nhà hắn để trừ nợ. Đó là kiếp người sống mà bị khinh
rẻ, bị ngược đãi và phải đảm đương cả những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất
như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”.
Với cảnh xử kiện và kết quả của cuộc xử kiện đã cho thấy giai cấp địa chủ
thống trị dường như luôn luôn tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy
của xã hội, không cho họ có một chút cơ hội nào ngoi lên đòi quyền sống và được làm
người đúng nghĩa. Có thế bọn địa chủ mới hả hê, mới yên lòng.
Chế độ xã hội phong kiến ở miền núi Tây Bắc còn tàn độc đến mức, con người
có thể nắm giữ mạng sống của con người, có quyền sinh – sát đối với người khác. Là
con nợ, là nô lệ cho nên tính mạng của A Phủ sống hay chết là nằm trong bàn tay
thống lý Pá Tra. Do đó, chỉ vì để hổ vồ mất bò, A Phủ lại bị đánh, bị trói vào cọc
“bằng dây sậy quấn từ chân lên vai”. Rất có thể A Phủ sẽ phải chết “chết đau, chết đói,
chết rét” — những cảnh tương tự mà Mị từng chứng kiến trong nhà thống lý Pá Tra –
để thế mạng cho con bò đã bị hổ ăn thịt.
Tuy vậy, với bản lĩnh gan góc, không chịu khuất phục sẵn có, A Phủ nhất định
không chịu chết chôn chân ở cái cộc gỗ ấy mà anh luôn tìm cách tự giải thoát: “Đêm
đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Nhưng
chưa kịp dứt ra thì trời vừa sáng, Pá Tra lại tròng thêm vào cổ A Phủ một vòng dây
trói nữa. “A Phủ không cúi, không còn lắc được nữa” đành chịu “đứng nhắm mắt, cho
tới đêm khuya”. Và dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen của anh chính là
những giọt nước mắt của sự cay đắng, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Cũng chính vì
trông thấy những giọt nước mắt đau đớn và tuyệt vọng ấy mà Mị đã bùng lên ngọn lửa
đấu tranh, quyết định cởi trói cho A Phủ và cho chính mình.
Hai người dìu nhau trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán
bộ A Châu. Từ đây A Phủ và Mỵ lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia
vào cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng quê
hương. Hình ảnh A Phủ cùng Mị trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra, giác ngộ được chân lý
cách mạng là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc.
Cùng với Mị, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận
và phẩm chất của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ trong tăm tối của đau khổ, tủi
nhục, bằng sức mạnh của chính mình họ đã vươn tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do,
ánh sáng của Cách mạng. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc của tác
phẩm giàu chất thơ này. Bài tham khảo 6
“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô
Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh
của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến.
Nhưng nổi bật hơn nữa chính là khát vọng, là nghị lực sống mãnh liệt của họ. A Phủ là
nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm về sự vượt lên chính mình. Tô
Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật này.
A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường
như lại khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách, phẩm
chất vừa khiến người ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ hơn. Tô Hoài đã để
cho A Phủ xuất hiện trong lần cọ xát, đánh nhau với A Sử, sau đó bị bắt và bị đánh đập
dã man. Tiếp theo đó tác giả ngược dòng kể về hoàn cảnh của A Phủ.
A Phủ phải chịu đựng sự cơ cực, vất vả những năm tháng ấu thơ. Trận dịch đậu
mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp đi gia đình, bố mẹ, anh chị em. Để lại một mình A
Phủ bơ vơ, cù bất cù bơ. Tình cảnh ấy thật khiến người đọc xúc động. Đáng buồn hơn
nữa có người đã đem A Phủ đi bán đổi lấy thóc. Nhưng tính cách gan góc, ngang
bướng của A Phủ thì nó không thể trói buộc được anh.
A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn từ mùa này sang mùa khác.
Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh
niên gan dạ, dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo
nên sự bứt phá về sau của cuộc đời A Phủ.
Từ khi trưởng thành, A Phủ đã chứng tỏ mình là một người gan góc, liều lĩnh,
không chịu khuất phục, luôn chiến đấu với bản thân để vươn đến những điều tốt đẹp
nhất “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Chính
nghị lực và sức khỏe của A Phủ đã khiến cho nhiều người yêu mến anh.
Dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía
trước. Vào những ngày Tết, “A phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi
cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng
trong vùng”. Chính điều này đã tạo nên ấn tượng cho nhiều cô gái.
Nhưng A Phủ lại là người không cha không mẹ, không tiền không bạc, không
ruộng nương thì lấy vợ là chuyện quá xa xôi. Một người đáng lẽ phải được hưởng
hạnh phúc nhưng cuối cùng vẫn cô độc như thế. Có lẽ hình ảnh A Phủ đánh A Sử
khiến người đọc vừa dồn dập, vừa thương cảm cho con người này “ A Phủ chạy vụt ra,
vung tay ném con quay to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông
tới, nắm cái vòng cổ dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”.
Hành động này vừa chứng tỏ A Phủ rất khỏe mạnh, vừa không hề sợ bọn địa
chủ phong kiến tàn bạo. Nhưng đây cũng chính là nguyên cớ tạo nên mối thù sâu sắc
giữa người nông dân nghèo và tầng lớp địa chủ, quý tộc. A Phủ đã bị thống lý Pá Tra
đánh đập dã man, tàn bạo từ trưa đến đêm.
Có thể nói nhà thống lý chính là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hủ tục,
sự phân biệt giai cấp nặng nề, coi thường những người nông dân thấp cổ bé họng.
Chúng coi A Phủ như một con vật, không hơn không kém. Bộ dạng A Phủ lúc đó thật
thảm hại và đáng thương “A Phủ chỉ im lặng như tượng phật”. Sự im lặng đó chính là
sự căm phẫn, uất ức đến tột độ nhưng cũng không thể làm điều gì hết.
Chỉ vì hành động đó mà A Phủ đã phải làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lý. Xã
hội bấy giờ dường như chỉ tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của
xã hội mới hả hê, mới yên lòng. Đến đây chúng ta lại liên tưởng đến nhân vật Mị, có lẽ
A Phủ cũng như Mị, sống lay lắt héo hon trong ngôi nhà đầy oán hận này.
Cuộc đời của A Phủ cũng giống như Mị, từ đây sống hay chết cũng đều phó
mặc cho nhà thống lý. A Phủ không có quyền lựa chọn cho mình con đường đi, không
được chọn hạnh phúc cho mình. Suốt một đời này phải làm trâu làm ngựa cho nhà
thống lý. Một sự thật nghiệt ngã đến đau lòng. Tô Hoài đã khiến người đọc không khỏi
xúc động. Bằng ngôn ngữ đặc tả, tác giả đã tạo nên sự riêng biệt của A Phủ.
Bi kịch này nối tiếp bi kịch khác, chỉ vì để hổ vồ mất bò mà thống lý đã bắt trói
A Phủ và đánh đập dã man. Sự đau khổ và tuyệt vọng in hằn trong đôi mắt ấy, đôi mắt
ám ảnh người đọc đến tận tâm can. Cái chết hiển hiện trong tâm trí A Phủ và A Phủ ý
thức rất rõ được điều này.
Có lẽ chính vì ý thức này đã làm nên sự vượt phá ở cuối tác phẩm khi Mị quyết
định cởi trói và bỏ trốn cùng A Phủ. Có lẽ đây là đoạn văn khiến cho người đọc vừa
hồi hộp, vừa xót xa vừa khâm phục.Con người ta khi bị bóc lột quá sức sẽ vùng lên
đấu tranh để đi tìm con đường riêng. A Phủ thực sự đã làm được. Thoát khỏi nhà thống
lý, A Phủ sẽ thành một người công dân có ích cho đất nước, đi theo tiếng gọi của cách mạng.
Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng nhân vật A Phủ, hình tượng điển hình
của người nông dân trong xã hội phong kiến bị áp bức nhưng lại có khát khao sống mãnh liệt. Bài tham khảo 7
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, người đọc không khỏi ấn tượng với nhân
vật A Phủ- một chàng trai dân tộc với số phận bất hạnh nhưng có những phẩm chất phi thường.
A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống
đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan
bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy
hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước
tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu.
A Phủ như đứa con, như cánh chim của núi rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị
rơi vào hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện vô lí của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ
vụ xử kiện này, A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn
kiếp cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử.
Trong cảnh A Phủ đánh nhau với A Sử, Tô Hoài đã sử dụng một loạt động từ
mạnh: chạy vụt ra, vung tay, ném, xốc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé áo,
đánh tới tấp. Đọc đoạn văn này, người đọc có cảm tưởng được chứng kiến một cách
đầy hả hê trận đòn của chàng trai nghèo trừng trị đám con quan cậy quyền, cậy thế.
Tuy vậy, tất cả những mơ ước khát vọng đó đã chấm dứt khi chàng trở thành nô
lệ của nhà thống lí. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc tội chết rồi
lại được tha. Với thống lí Pá Tra, A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đồng bạc
trắng). Chàng trai yêu tự do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp.
Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc và hành hạ về thể xác và
tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là
cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa phương đầy đọa người dân trước khi được
Cách mạng giải phóng. A Phủ bị bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm, trở
thành nô lệ không công do món nợ không biết đến ngày nào mới trả hết.
A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc trốn do quyền lực khủng khiếp của nhà
thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A
Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con bò. A Phủ bị
trói vào cọc. Tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật.
Nhà thống lí mất một con bò, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của
mình. Đó là một hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng
sống của người lao động chân chính. Nhưng cũng chính từ sự bất hạnh này đã đem đến
cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và cảm xúc cho A Phủ và Mị.
Từ một cô gái vô cảm, chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, mị vẫn thản nhiên: “A
Phủ là cái xác chết vẫn thế thôi”. Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ: “lấp
lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá khơi
dậy tình yêu, sức sống của Mị. Mị lập tức nhớ lại cảnh mình bị trói trong đêm tình
mùa đông mà không có một ai đến cứu.
Có lẽ, giọt nước mắt của con người đã chạm đến trái tim của các nhà văn và họ
luôn tìm cách để khai thác nó đem đến giá trị trong tác phẩm của mình. Chúng ta thấy
cuộc gặp gỡ của hai cây bút văn xuôi hiện thực nổi tiếng Tô Hoài và Nam Cao. Nam
Cao cũng từng có một truyện ngắn mang tên “Nước mắt” và rất nhiều tác phẩm của
Nam Cao, hình ảnh nước mắt có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Với Nam Cao, “nước mắt là giọt châu của loài người”, “nó có thể thanh lọc tâm
hồn con người”. Phải chăng, khi miêu tả dòng nước mắt trên đôi gò má đã xám đen lại
của A Phủ- một chàng trai người Mông gan góc, khỏe mạnh khác thường sắp trở thành
một xác chết trên cây cọc nhà thống lí Pá Tra, Tô Hoài cũng nghĩ đến điều này?
Chính nhờ giọt nước mắt này mà Mị đã quyết tâm cắt dây cởi trói cho A Phủ,
giải thoát cho một con người sắp phải đứng trước bờ vực của cái chết. Nhưng khi cắt
dây xong, Mị lại hốt hoảng, lo sợ vì chính mình sẽ phải chết thay A Phủ, chính mình
sẽ bị trói vào cây cọc đó đến chết do sự tàn ác của nhà thống lí. Mị nhanh chóng quyết
định sáng suốt: “ A Phủ cho tôi đi”, “ở đây thì chết mất”. Lòng ham sống, khát vọng
sống và tình yêu thương của Mị đã cứu thoát cả Mị và A Phủ khỏi “địa ngục trần gian”.
Qua tác phẩm, tác giả Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật A Phủ với hình
tượng người lao động khao khát tự do và tình yêu cuộc sống. Từ đó càng cho thấy tài
năng và niềm đồng cảm sâu sắc mà tác giả dành cho những con người lao động nghèo khổ, bất hạnh. Bài tham khảo 8
Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu.
Những câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhắc cho bạn đọc về một vùng đất Tây Bắc với
nhiều hoang sơ, bí ẩn. Khám phá Tây Bắc đâu chỉ có những hồn thơ của Chế Lan
Viên. Ta còn từng bắt gặp Tô Hoài với riêng một tập truyện viết về phong tục về thiên
nhiên và con người Tây Bắc. Trong đó truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là một trong ba
truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập truyện Tây Bắc. Truyện ngắn thành công trong việc
xây dựng hình tượng nhân vật và A Phủ là nhân vật tiêu biểu trong toàn bộ câu chuyện.
Tô Hoài là một nhà văn lớn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác
phẩm đạt đến kỷ lục. Hầu hết sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả sự thật của đời
thường với trần thuật hóm hỉnh, sinh động hấp dẫn. Sáng tác của ông thể hiện sự am
hiểu sâu sắc về cuộc sống con người phong tục cũng như sinh hoạt của người dân Tây Bắc.
Vợ chồng A Phủ được trích từ tập truyện Tây Bắc sau chuyến đi thực tế của Tô Hoài
năm 1952 trong một lần lên Tây Bắc. Truyện hướng tới phản ánh số phận của những
người lao động miền núi Tây Bắc, đi từ số phận khổ đau đến cuộc đời mới tự do.
A Phủ là chàng trai người H’mông nghèo khổ bất hạnh. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ,
bị người làng đem bắt bán cho người Thái ở dưới thấp, sau đó A Phủ trốn ngược về
vùng cao và sống lưu lạc khắp vùng Hồng Ngài, đi ở cho hết nhà này đến nhà kia. Đến
tuổi trưởng thành, A Phủ vẫn nghèo, chỉ có hai bàn tay trắng nên không lấy nổi vợ.
Nhưng A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, cần cù, dũng cảm và tài ba:
đốt rừng, làm lương, cuốc lương, chăn bò, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một
thân một mình tăng và biết đục cuốc. Đặc biệt, A Phủ luôn khao khát cuộc sống tự do
phóng khoáng. Ngay từ khi mới lên mười, cậu bé A Phủ đã không chịu sống cùng
người Thái dưới chân núi mà muốn trở lại vùng cao, chấp nhận cuộc sống nơi nay đây
mai đó nhưng được là con chim của núi rừng tự do.
Từ một chàng trai tràn đầy sinh lực, bản tính mạnh mẽ, kiên cường luôn khao khát
cuộc sống tự do, phóng khoáng. A Phủ bị giai cấp thống trị tàn bạo cột chặt vào kiếp
đời nô lệ đau đớn tủi nhục. Nhưng nếu như nỗi khổ của Mị triền miên, dai dẳng, thầm
lặng thì nỗi khổ của A Phủ được miêu tả tập trung qua hai cảnh đó là cảnh sự kiện phạt
và và cảnh A Phủ bị trói đứng vì làm mất bò.
Cảnh sự kiện phạt vạ diễn ra chỉ vì A Phủ đã dám đánh lại con quan chính là A Sử rồi
khiến cho A Phủ bị bắt về nhà thống lý chịu kiện. Một phiên tòa đặc biệt lạ lùng và tàn
bạo đến mức chưa từng có. Công đường là nhà thống lí, quan tòa lại chính là thống lí
Pá Tra. Thành phần tham gia xét xử đông đảo với đầy đủ chức sắc trong vùng, trịnh
trọng trang nghiêm, chỉ có nằm hút thuốc phiện và ăn cỗ.
Nhân trứng lại là đám trai làng- những công cụ của thống lý. Còn bị cáo A Phủ thì
không được trình bày, không được nghe luận tội mà chỉ luôn quỳ im mà chịu đòn.
không khí phiên tòa diễn ra đầy nhốn nháo, náo loạn của tiếng kể, chửi bới, đấm đá và
tiếng rít thuốc phiện, khói thuốc phiện ngào ngạt tuồn qua các ô cửa. Kết thúc xử kiện,
A Phủ phải chịu một số tiền phạt và khổng lồ và phi lý.
Ngoài tiền cho người bị đánh, cũng phải trả toàn bộ tiền cho các quan, cho người đi
gọi các quan về, toàn bộ số tiền hút thuốc phiện từ hôm qua đến hôm sau và cả một
con lợn cho làng ăn cỗ. Tất cả lên tới một trăm đồng bạc trắng và Pá Tra thừa biết A
Phủ không thể nào có tiền trả cho nên hắn đã cho A Phủ vay nợ, suốt đời làm trâu làm
ngựa trả nợ cho hắn: đời mày, đời con, đời cháu mày bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
Để sợi dây trói buộc thêm chắc chắn khi thì Pá Tra gọi con ma về nhận mặt người vay
nợ rồi toàn bộ số bạc cho A Phủ vay lại hoàn nguyên vào túi của thống lý. Cuộc sống
nô lệ tủi nhục của A Phủ bắt đầu từ giây phút ấy. Đau đớn, chân bước đi tập tễnh, A
Phủ phải cầm dao đi giết lợn làm cỗ cho những kẻ vừa đánh đập chửi bới phạt vạ mình.
Và từ một chàng trai khỏe mạnh, dũng cảm, khao khát cuộc sống tự do, A Phủ đã phải
sống một kiếp đời như trâu ngựa cùng với đàn trâu đàn ngựa nhà thống lý. Qua cách
sự kiện phạt vạ, nhà văn Tô Hoài đã tố cáo bản chất tham lam, độc ác của giai cấp
thống trị miền núi. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn thâm độc để áp mức cột chặt những
con người lao động tự do vào kiếp đời nô lệ để bóc lột họ đến kiệt cùng.
Chỉ vì sơ ý làm mất một con bò nhà thống lý mà A Phủ phải chịu một hình phạt thật
thảm khốc. Nỗi khổ nhục của A Phủ trước hết là tự tay đào lỗ chôn cột, lấy dây mây để
cho người khác trói mình. A Sử đã trói A Phủ một cách tàn nhẫn: trói đứng A Phủ
bằng một cuộn dây mây đến khi thống lý vào lại thòng thêm hai thòng lòng vào cổ làm
cho A Phủ không cựa quậy được rồi bỏ mặc A Phủ trong đau đớn, đói rét cho tới chết
để đền mạng cho con bò của gia đình thống lý.
Qua đó, ta thêm hiểu về tội ác dã man tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi Chúng
coi sinh mạng của con người không bằng con vật và càng hiểu thêm nỗi thống khổ con
người lao động khi bị đẩy vào kiếp đời nô lệ. Họ đã bị tước đoạt hoàn toàn quyền
sống, quyền làm người.
Khi còn là một cậu bé lên mười, A Phủ chấp nhận sống nghèo khổ đi ở cho hết nhà
này đến nhà khác để sống tự do và khi chứng kiến A Sử quấy rối phá đám cuộc chơi,
A Phủ đã đánh hắn dù biết rằng đó là con quan. Trong cảnh xử kiện tàn bạo của thống
lí Pá Tra, A Phủ không khóc, không kêu rên mà chỉ quỳ yên như cái tượng đá để chịu đòn.
Trước thế lực cường quyền ghê gớm, A Phủ đã bất lực phải chịu đựng nhưng ẩn trong
thái độ đó là sự thách thức sự phản kháng ngầm. Trong đêm A Phủ bị trói đứng, chàng
trai ấy đã nhay đứt mấy vòng dây mây để tự giải thoát cho mình. Chỉ khi bị cho thêm
hai thòng lọng vào cổ, A Phủ mới bất lực.
Sức mạnh của tinh thần phản kháng và lòng khao khát rõ nhất khi A Phủ được Mị cởi
trói. A Phủ đã ngã quỵ xuống vì kiệt sức nhưng sau đó A Phủ đã quật tức vùng lên
chạy khỏi nhà thống lí. Có lẽ lòng khao khát được sống, được tự do và tinh thần phản
kháng ở chàng trai nô lệ ấy đã tạo nên nguồn sức mạnh vô biên khiến cho A Phủ
không chỉ được cứu mình mà còn cứu được Mị chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, để
được sống tự do chấm dứt kiếp đời nô lệ.
Tô Hoài đã xây dựng nhân vật A Phủ bằng bút pháp điển hình hóa, vừa cụ thể vừa
khái quát. Cả A Phủ và Mị đều có những phẩm chất số phận tương đồng nhưng cách
khắc họa nhân vật của nhà văn đã có những thay đổi và sáng tạo để phù hợp với con
người hiện thực. A Phủ là được khắc họa qua ngôn ngữ và hành động. Những biểu
hiện, lời nói và hành động của A Phủ thường ngắn gọn, dứt khoát quyết liệt rất phù
hợp với tính cách và góp phần thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
Khép lại trang viết về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với hình ảnh của A Phủ và Mị đã
để lại trong người đọc nhiều suy nghĩ. Nhà văn đã rất thành công khi tái hiện được
hình ảnh của A Phủ và Mị với những sức sống với sức mạnh phản kháng vươn lên
mạnh mẽ bất chấp hoàn cảnh. Tác phẩm sẽ sống mãi cùng với thời gian và đồng hành
cùng bạn đọc các thế hệ. Bài tham khảo 9
Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu của tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc.
Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả
đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm đã trở thành những nhân vật
điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người
Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở
trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: "Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí
Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh
tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng
nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Và từ một hình ảnh
đó, để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng nhân
vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A Phủ và Mị có duyên gặp nhau.
A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh thật oái oăm. A Phủ đã xô xát đánh nhau với A
Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này, A Phủ bị bắt về bị đánh đập tàn
nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ,
chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ, sống kiếp mồ côi không ai chăm
sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người
Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số phận, A Phủ 10 tuổi đã một
mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé, với số
phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với nó chứ không để nó khiến
anh có một số phận trớ trêu. Sức sống tiềm tàng của một người đã sớm được bộc lộ,
không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật, hiền lành và
chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hoài là một
người có sức khỏe hơn người.
A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng, yêu đời và chính nghĩa, bởi
vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết
chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một
con người liều lĩnh và chí khí.
Hơn vậy, chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều
người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt ở
xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ bị người ta khinh thường và một lí do
nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.
Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản
năng của mình, A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ
chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng lên,
môi và đuôi mắt dập chảy máu. "Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh,
càng đánh, càng chửi, càng hút". Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử
kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra
các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú
pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người
dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ, A Phủ thành
người ở không công quần quật với hàng núi công việc. A Phủ có thể đốt rừng, cày
nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một
mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các
đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không
hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn.
A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh
đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ
vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối
cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình. Ở
trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải thế mạng
cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh
là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.
Tuy vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ, nó được
nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội
nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng
mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai nhưng đêm đến anh đã cúi xuống
nhay đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được
Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn. Nhưng vì cái
chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà
thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A
Phủ để cho Mị đi theo, anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.
Sau khi vượt khỏi nhà thống lí, A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây,
anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức
của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng
trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm, là người tiêu biểu
cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ
giác ngộ được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp, không chỉ A Phủ mà là hiện
thân cho những con người ở Tây Bắc.
Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật được
hình tượng và khí phách của A Phủ - nhân vật điển hình trong truyện. Cùng với A Phủ
là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải
trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình. Bài tham khảo 10
Cùng với Nam Cao, Kim Lân, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,... Tô Hoài cùng là
một trong những ngòi bút xuất sắc và nổi bật khi viết về đời sống của nhân dân Việt
Nam trong những năm trước và sau cách mạng tháng tám thành công. Trong đó nổi bật
nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài ở mảng văn học hiện thực ấy là các tác
phẩm viết về số phận con người ở miền núi phía Bắc, mà đại diện là tác phẩm Vợ
chồng A Phủ với nhân vật chính là Mị và A Phủ, những con người bị cường quyền và
thần quyền phong kiến nửa thực dân chèn ép, tước đoạt quyền được hạnh phúc, tự do
thậm chí là đe dọa cả sinh mạng. Trong truyện ngắn ngoài nhân vật Mị, thì A Phủ cũng
là một nhân vật đáng chú ý, với cuộc đời và những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, đáng trân trọng.
A Phủ là một chàng trai có số phận đáng thương, vốn anh không phải là người ở Hồng
Ngài mà là người làng Hắng Bia, cũng có một gia đình đàng hoàng. Nhưng thật không
may một năm cả làng dính phải trận dịch đậu mùa, cả nhà còn sót lại mỗi mình A Phủ.
Rồi người làng vì đói quá đã bán A Phủ cho người Thái, năm đó A Phủ mới 11 tuổi,
thế nhưng với bản lĩnh và tính gan bướng anh không chịu sống như vậy, thế là anh bỏ
trốn lên Hồng Ngài, đi làm thuê cho người ta tự nuôi sống bản thân. Vốn là một chàng
trai chịu khó, lại lăn lộn từ sớm thành thử A Phủ trở nên rất giỏi và thạo nhiều việc
"biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo". Không chỉ vậy
anh còn là một chàng trai khỏe mạnh, nhanh nhẹn, lại chăm chỉ, mà người ta không
tiếc lời tấm tắc "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà. Chẳng
mấy lúc mà giàu". Chính vì vậy A Phủ là người tình trong mộng của nhiều cô gái ở
Hồng Ngài, thế nhưng tội thay cho chàng trai, vì nghèo, vì mồ côi, vì những tục lệ
cưới xin rườm rà mà A Phủ vẫn không thể có lấy một tấm vợ tử tế. Đang ở tuổi trẻ
sung sức, trái tim vẫn khao khát những cuộc vui, dù bản thân chẳng có gì ngoài "chiếc
vòng bằng sợi dây đồng vía lằn trên cổ", nhưng A Phủ vẫn tự tin đem khèn, sáo, quả
pao, con quay, quả yến đi tìm người yêu khắp Hồng Ngài, rồi cuối cùng đụng phải
đám A Sử, đâm sự đánh nhau. A Phủ đánh thắng, nhưng dưới sức ép của cường quyền,
thần quyền, anh phải chịu đền tội, đền tiền cho nhà A Sử, rồi vì không có tiền, nên
đành chịu làm kiếp nô lệ, người ở để trừ nợ, một cái nợ mà "Bao giờ có tiền trả thì tao
cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày làm con trâu cho nhà tao. Đời mày, đời
con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi". Vì một trận đánh tuổi
trẻ phải đền bằng tự do cả cuộc đời, thậm chí là đời con đời cháu, từ một kiếp người
thành kiếp con trâu, con bò cho nhà thống lý Pá Tra. Nhưng cái khổ của A Phủ chưa
dừng lại ở đó, anh làm nhiệm vụ mang cả đàn ngựa, bò của nhà thống lý đi chăn ở
rừng, hàng mấy chục con một, vào mùa rừng đói, phải đem chăn xa A Phủ còn phải ở
lại rừng để chăn dắt. Ấy thế rồi trong một lần sơ sẩy, mải bẫy nhím, bò ngựa lại nhiều
quá A Phủ không kịp đếm, hổ đã vồ mất một con bò. Không hề sợ hãi, A Phủ xông
xáo lần theo vết chân hổ, mò được đến chỗ con bò bị hổ ăn thịt, thì chỉ còn lại một
mảnh. A Phủ nhặt mấy miếng thịt rơi quanh đấy rồi vác nốt nửa con bò về. Nghĩ bụng:
"Con hổ này to lắm. Hãy còn ngửi thấy mùi hôi quanh đây. Ta về lấy súng đi tìm, thế
nào cũng bắn được". Chàng trai gan dạ và dũng cảm đã sẵn sàng cho một cuộc đi săn
đầy hung hiểm, thế nhưng bao đời nay kẻ cầm quyền độc ác thường chẳng suy nghĩ
đơn giản giống như A Phủ vẫn nghĩ. Bọn chúng vì A Phủ làm mất một con bò mà trói
đứng anh ở cái cột giữa sân với mệnh lệnh tàn nhẫn "Mày ra ngoài kia, lấy vào đây
một cái cọc, một cuộn dây mây. Tao trói mày đứng chỗ kia. Bao giờ chúng nó bắn
được con hổ về thì mày khỏi phải chết. Nếu không được con hổ thì tao cho mày đứng
chết ở đấy". Mấy ngày trôi qua, thế nhưng đám tôi tớ nhà thống lý Pá Tra vẫn chưa bắt
được hổ về, phe này có lẽ A Phủ phải chịu chết đứng ở cái cột ấy mất thôi. Có thể chết
đói, chết rét, chết vì bị đánh, dù gì cũng phải chết, cuộc đời khổ cực, truân chuyên đã
khiến A Phủ cảm thấy tuyệt vọng và bất lực. Ngay lúc gần như đã kiệt quệ thì có một
"dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen" của A Phủ. Đàn ông hiếm
khi rơi nước mắt, mà một khi đã rơi tức là phải thấy cay đắng, đớn đau đến tột cùng.
Có lẽ A Phủ đang tự xót thương cho số phận quá đỗi hẩm hiu và đắng cay của cuộc
đời mình, bất hạnh từ khi nhỏ cho đến khi trưởng thành, rồi cuối cùng phải đền mạng
vì làm mất một con bò. Cuộc đời anh thế mà lại không đáng giá bằng một con bò bị hổ
ăn thịt. Cũng chính giọt nước mắt ấy đã cứu cuộc đời A Phủ, nó đã đánh động trái tim
và bản năng của Mị, cô đã liều lĩnh cắt dây trói để thả người đàn ông khốn khổ sắp
chết, mặc kệ những nguy hiểm của bản thân. Ngay lúc nghe được hai tiếng thì thào "Đi
đi..." của Mị, thì bản năng, khao khát được sống được tự do mãnh liệt của A Phủ lập
tức bùng cháy, hâm nóng thân thể đang chực sụp xuống vì đói vì rét, trở thành động
lực khiến anh dùng hết sức bình sinh chạy xuống sườn đồi, thoát khỏi gông cùm của
cường quyền độc ác. Khi nhìn thấy Mị đuổi theo, xin đi cùng, A Phủ đã không ngần
ngại, giúp đỡ người đàn bà đã cứu mình cùng nhau chạy trốn mà không hề hỏi cớ sự.
Rồi từ ấy hai người trở thành vợ chồng, điều đó chứng tỏ rằng A Phủ đã có sự thấu
hiểu cảm thông và chia sẻ với cuộc đời của Mị. Chi tiết hai vợ chồng cùng nhau làm
cách mạng, đã chứng tỏ ý chí và bản lĩnh của A Phủ, con người có nghị lực phi
thường, khao khát tự do mãnh liệt, tự giải thoát cho bản thân bằng những con đường
riêng biệt. Mà tính cho đến kết truyện A Phủ đã có đến ba lần tự giải phóng bản thân,
một lần lúc bị bán đi, một lần trốn khỏi nhà thống lý và lần nữa là khi tham gia vào
cách mạng, trở thành cán bộ, trở thành con người mới.
Ngoài nhân vật chính của tác phẩm là Mị, đại diện tiêu biểu cho số phận những người
phụ nữ ở Hồng Ngài, vùng núi phía Bắc nước ta những năm tháng đất nước còn nhiều
đau thương. Thì A Phủ cũng là một nhân vật góp phần quan trọng trong việc xây dựng
cuộc đời Mị, cũng như nhấn mạnh thêm những bất công, tàn ác của chế độ phong kiến
thần quyền và cường quyền, đồng thời khắc sâu và làm sáng thêm những vẻ đẹp của
con người lao động, vượt lên những bất hạnh, đớn đau bằng niềm khao khát sự sống,
sự tự do mãnh liệt, cũng như niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn. Bài tham khảo 11
Tây Bắc là mảnh hồn thiêng của núi sông, là miền đất hứa có khả năng sản sinh ra
năng lượng dồi dào cũng như truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn, nhà thơ để họ
viết nên những trang thơ, trang văn lấp lánh. “Người mẹ của hồn thơ” ấy đã thả hồn
vào bao vần thơ đẹp của Chế Lan Viên, đã lấp lánh “chất vàng mười” trong hình tượng
người lái đò của cụ Nguyễn Tuân và phả vào trang viết của Tô Hoài sức sống tiềm
tàng mãnh liệt của con người lao động. Đó là phẩm chất, khí phách và tâm hồn của
một chàng trai hoang dại A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” mà mỗi lần gấp
trang sách lại ta không thể nào quên.
Tô Hoài đã để A Phủ xuất hiện trong tác phẩm khá đột ngột, thông qua cuộc đánh
nhau với A Sử, bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lý Pá Tra rồi mới quay ngược
thời gian để kể lại lai lịch của A Phủ.
A Phủ là một chàng trai có số phận bất hạnh. Vì nghèo đói, cả gia đình A Phủ đã chết
trong một trận đậu mùa khủng khiếp. A Phủ mồ côi bị người ta bắt đem bán cho một
người Thái ở bản dưới.
Chốn về những bản vùng cao, mới 10 tuổi, A Phủ đã phải đi làm thuê để kiếm sống. A
Phủ học đủ thứ nghề: “biết đúc lưỡi cày lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Ngoài cái
vòng vía đeo trên cổ, A Phủ không có bạc, không có ruộng. Rồi vì đánh A Sử mà A
Phủ bị buộc làm người ở gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra.
Ta thấy như A Phủ đã bị buộc phải điểm chỉ bằng cả bàn tay của mình vào bức văn tự
bán chính cuộc đời của mình, sự sống của mình, hơn thế nữa, còn bán cả cuộc sống
của những kiếp con, kiếp cháu mình cho bọn nhà giàu để trở thành người ở gạt .Từ đó
A Phủ phải làm việc quần quật đủ các việc công việc nặng nhọc và nguy hiểm như:
cày ruộng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa, quanh năm suốt tháng chỉ có một mình.
Rồi vì để hổ bắt mất bò, A Phủ bị đánh bị trói. Kiếp sống của A Phủ không đáng giá
bằng kiếp sống của một con bò. Để mất một con bò, A Phủ lại bị thống lý Pá Tra trói
đứng vào cột chờ chết.
Sức phản kháng bị tê liệt đến mức thống lý Pá Tra bắt A Phủ tự đóng cọc, tự mang dây
để hắn trói A Phủ vào cọc. A Phủ chỉ còn biết làm theo thống lý, A Phủ không nghĩ
được gì hơn. A Phủ cam chịu và chấp nhận cảnh ngộ của mình. “Dòng nước mắt lấp
lánh bò xuống hai mũi má đã xám đen lại” của A Phủ và Mị vô tình nhìn thấy chính là
tột cùng cho sức chịu đựng của nhân vật này, A Phủ vốn là một người thanh niên khỏe
mạnh mà giờ đây đang từng ngày từng giờ đối diện với cái chết.
Cuộc đời của người nông dân nô lệ ở Hồng Ngài hình như đều kết thúc với cái cọc
trong nhà thống lý, khi mọi cố gắng đều trở nên bất lực. Nếu Mị được miêu tả là một
người có sức sống mãnh liệt thì A Phủ được tập trung khắc họa ở tính cách bướng
bỉnh, ngang tàng, một con người khát khao sống tự do.
Đây cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn của chàng trai lao động miền núi mà Tô Hoài đã
phát hiện và trân trọng. A Phủ sống giữa núi rừng, anh làm được nhiều nghề đến nỗi
con gái trong làng vẫn nói: “Đứa nào có được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt
trong nhà, chẳng mấy mà giàu”, vì A Phủ rất giỏi bẫy hổ, săn bò tót lại biết đúc lưỡi
cày, đi săn cái gì cũng làm phăng phăng…
A Phủ nghèo không thể lấy nổi vợ nhưng vẫn có đời sống phóng khoáng, hồn nhiên
yêu đời, “đang tuổi chơi trong ngày tết đến dù chẳng có quần áo mới như những chàng
trai làng khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng vía trên cổ cũng cứ cùng trai làng đem
sáo, khèn, con quay và quả báo đi tìm người yêu ở các làng trong rừng.
A Phủ cũng là chàng trai bướng bỉnh, ngang tàng khi không chịu được bất công, anh
“chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử…A Phủ đã chạy tới nắm cái
vòng cổ, kẹp giựt đầu xuống xé vai áo đánh tới tấp”. Sự bướng bỉnh, gan góc thể hiện
ở chi tiết A Phủ không khóc lóc van xin mà “quỳ xuống chịu đòn, chỉ im như tượng đá”.
Nhân vật này cũng khao khát tự do đến mức dù mệt và đói, nhưng được Mị cởi trói thì
A Phủ cũng vùng thoát chạy đi. Dẫu đi trong đêm tối họ chưa biết đi đâu nhưng thoát
ra khỏi nhà thống lý nghĩa là đã thoát được cái địa ngục trần gian.
Cuối cùng A Phủ và Mị đã tìm đến khu du kích Phiềng Sa, tìm đến tự do. Từ đấu tranh
tự phát, họ đã tiến tới đấu tranh tự giác. Có thể nói ở A Phủ là vấn đề tìm được nhận
đường, và đó là bài ca ca ngợi quá trình đấu tranh của con người để tìm đến tự do.
Nếu ở nhân vật Mị, Tô Hoài đã thể hiện những diễn biến nội tâm sâu sắc, thể hiện bút
pháp miêu tả tâm lý bậc thầy thì ở A Phủ nhà văn tập trung xây dựng nhân vật qua
hành động mang tính chất bộc trực, khẳng khái. Điều đó góp phần thể hiện tính cách nhân vật.
Nhân vật A Phủ trở thành biểu tượng cho quá trình giác ngộ, cho sự đấu tranh mạnh
mẽ của những người nông dân miền núi nói chung. Cùng với Mi, A Phủ tượng trưng
cho số phận những con người từ trong bóng tối của cuộc đời cam chịu, tủi cực, đã
vươn tới ánh sáng của sự tự do, ánh sáng của cách mạng.
Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được thể hiện sâu sắc qua hình tượng nhân
vật A Phủ. Đây quả thực là một trong những nhân vật kiểu mẫu mà Tô Hoài muốn lột
tả cho bạn đọc của mình.
Tóm lại, nhân vật A Phủ là điểm nhấn to lớn của tác phẩm. Xây dựng nhân vật A Phủ
là một thành công đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Qua việc miêu tả hành động, tính cách
của A Phủ, Tô Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do
của nhân dân lao động Tây Bắc dưới sự thống trị của bọn lãnh chúa thổ ty miền núi.
Có nhà phê bình đã cho rằng: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại. Chỉ riêng mình
nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Đúng vậy, ước mơ tự do mãnh liệt và
những phẩm chất trong con người A Phủ đã làm đẹp thêm vẻ đẹp chung của tác phẩm. Bài tham khảo 12
Trong một tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng, đó là chiếc
chìa khóa để giải mã ý nghĩa ẩn sâu bên trong mỗi tác phẩm, và cũng là nơi tác giả
nhắn nhủ cảm xúc, tâm tư, trăn trở của bản thân. Nhân vật A Phủ trong truyện ngắn
“Vợ chồng A Phủ” là một nhân vật như thế, một nhân vật có số phận nhỏ bé, khổ đau;
nhưng ẩn trong đó là nghị lực sống tiềm tàng, mạnh mẽ.
A Phủ được miêu tả trước hết là một người có số phận bất hạnh, kém may mắn. A Phủ
người Háng Bla. Năm mười tuổi, anh mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận đậu mùa
khủng khiếp, sau đó, “người làng đói bụng đã bắt A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc
của người Thái ở dưới cánh đồng.” Thế nhưng A Phủ không cam chịu, anh đã trốn
thoát lên núi cao, để rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Số phận của A Phủ đại diện cho biết
bao con người nghèo khổ trong xã hội, không có quyền được quyết định cuộc đời mình.
Tuy vậy, vượt lên số phận khốn khó của mình, A Phủ lại có những tính cách tốt đẹp
của một người con trai miền núi. Bởi anh có sự cần cù, chăm chỉ kiếm sống, “biết đúc
lưỡi cày, lại cày giỏi và đi săn bò tót cũng rất bạo.” “Công việc làm hay đi săn, cái gì
cũng phăng phăng.” A Phủ rất khỏe, chạy nhanh như ngựa. Anh trở thành niềm khao
khát của bao cô gái trong làng: “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà.”
Khen vậy, nhưng anh lại chẳng lấy được vợ, vì “không có bố mẹ, không có ruộng,
không có bạc”. Giữa cuộc sống khắc nghiệt như thế, mà A Phủ vẫn giữ được cho mình
sự lạc quan, niềm tin vào cuộc sống, vui vẻ và yêu đời. Dẫu cho không có quần áo đẹp,
chỉ độc một cái vòng vía trên cổ, A Phủ vẫn cứ “cùng trai làng đem sáo, khèn con
quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Thể hiện được một đời sống
tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời và tự tin của tuổi trẻ. Nhưng không chỉ
dừng ở đó, A Phủ còn là một người yêu chính nghĩa. Bất bình trước sự lộng quyền của
A Sử, dẫu biết đó là con quan, A Phủ vẫn “chạy vụt ra, vung tay ném con quay vào
mặt A Phủ”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Đó
là sự phẫn nộ trước những cảnh bất công, phi lý cho cuộc đời, cho thấy được sự gan góc của A Phủ.
Lương thiện là thế, nhưng A Phủ lại là nạn nhân của hủ tục lạc hậu, nạn nhân của
cường quyền độc ác. Vì tội đánh con quan, A Phủ bị nhà thống lý bắt về xử kiện, bị
tay chân nhà Pá Tra đánh đập dã man. Nhưng anh đã chứng tỏ mình là con người bất
khuất, cứng rắn gan dạ. Anh chỉ quỳ, chịu đòn, im như tượng đá. Cuối cùng, anh bị
buộc nộp vạ một trăm bạc trắng, vì không có tiền nộp vạ nên A Phủ phải vay nợ. Vậy
là anh phải chịu kiếp sống trâu ngựa để trừ nợ, bị trở thành nô lệ với bản án chung thân
suốt đời đúng như lời tên Pá Tra đã nói “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng
bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải
gánh vác những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn
ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò vãi, nương rừng”. Từ một
chàng thanh niên sôi nổi, yêu đời, anh trở nên nhẫn nhục, cam chịu.
Giữa kiếp nô lệ ấy, A Phủ vẫn thể hiện lòng ham sống và khát vọng tự do. Sau khi để
hổ bắt mất một con bò, thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ: “Quân ăn cướp làm mất bò
tao”. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng dây mây quấn từ chân lên vai. Anh bị trói trong
đói rét, trong đau đớn mà chẳng ai ngó ngàng, dù nhà Thống lí “kẻ ra người vào tấp
nập”. Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, anh không cam chịu chết mà tìm mọi
cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng dây, nhích dần dây
trói một bên tay.” Thế nhưng, cha con thống lý lại về và tròng thêm vào cổ anh một cái
dây thòng lọng.Sau bao ngày bị hành hạ, hai hõm má anh xám lại vì tuyệt vọng và khổ
đau. Còn gì đau đớn hơn khoảnh khắc ta nhận thức được rằng mình sẽ chết, mình đang
dần chết đi. Những giọt nước mắt dần lăn xuống, lấp lánh, vì nỗi khát khao được sống,
được tự do. Khát khao ấy đã được thể hiện mạnh mẽ hơn bao giờ hết vào lúc Mị cắt
dây trói cho anh. Sau nhiều đêm bị trói, bị hành hạ, A Phủ đã quỵ xuống. Nhưng tình
yêu cuộc sống đã khiến anh vùng dậy và chạy đi. Những bước chạy của anh là bước
chạy của sự đấu tranh, của sự phấn đấu vươn đến tự do, giải phóng chính mình. Giữa
bóng tối của cuộc đời, A Phủ đang đi tìm cho mình ánh sáng của niềm tin, của tình yêu
đời. Để rồi sau này, khi A Phủ và Mị chạy trốn tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán
bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích cùng bộ đội giải phóng quê hương.
Có thể nói, thông qua nhân vật A Phủ, chúng ta đã nhận ra được giá trị hiện thực và
nhân đạo sâu sắc. Đó là tiếng nói lên án tố cáo tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong
kiến miền núi đang áp bức, bóc lột nhân dân Tây Bắc. Đồng thời, nhà văn cũng phát
hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động. Từ đó bộc lộ niềm
cảm thông, yêu thương chân thành, sâu sắc đến những nhân cách đáng quý ấy.
Về nghệ thuật, nhân vật A Phủ được khắc họa chân dung, tính cách thông qua ngôn
ngữ mộc mạc, giản dị, cùng phong cách trần thuật hấp dẫn, xây dựng nhân vật giữa
những tình huống truyện đặc sắc. Đó là những điều đã làm nên một nhân vật A Phủ
mạnh mẽ, tràn đầy sức sống. Anh là một hình tượng điển hình cho cuộc sống ngột ngạt
của những người lao động hiền lành, chất phác trên vùng cao, dưới sự thống trị của
những người cầm quyền giàu có nhưng mất nhân tính. Họ đẩy những người hiền lành
như anh đến bước đường cùng, để rồi anh phải đấu tranh, phải giải phóng mình, vụt
chạy, tìm cho mình một con đường khác, một con đường mà ở đó anh sẽ tìm thấy được
hạnh phúc. Tô Hoài thấu hiểu được điều đó, ông đặt tình cảm, niềm cảm thương của
mình vào nhân vật A Phủ, với ước mong rằng những người khổ đau sẽ tìm được con
đường giải phóng bản thân.
Đọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số
phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những nhân vật được nhà văn thể hiện. Vợ chồng
A Phủ đã để lại trong lòng độc giả vẻ đẹp về tâm hồn, tính cách của những người vùng
cao, mà nhân vật A Phủ là một hình tượng tiêu biểu như thế. Ở anh, tượng trưng cho
khát vọng tự do, niềm yêu đời, vượt lên số phận để sống, để sống thật tốt, sống vượt
lên những khó khăn của cuộc đời. Bài tham khảo 13
Tôi đã từng đọc ở đâu đó “Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ
dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con người”. Và tôi biết
một người nghệ sĩ như thế - một nhà văn viết về Tây Bắc bằng cả tấm lòng của mình,
cả niềm thương nỗi nhớ luôn thường trực trong trái tim - Tô Hoài! Trong số những
thành công của ông, không thể không nhắc đến “Vợ chồng A Phủ”- truyện ngắn mang
giá trị sâu sắc, đặc biệt là hình ảnh nhân vật A Phủ.
Nếu hôm nay ta có “thấy Nguyễn Nhật Ánh trong tuổi thơ” thì Dế mèn phiêu lưu kí
của Tô Hoài là quyển sách gối đầu của hàng triệu thiếu niên Việt Nam. Tô Hoài - nhà
văn có lối viết rất riêng: đậm đà bản sắc dân tộc với những sáng tác thiên về sự thật
đời thường. Ông có quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh độc đáo có phần quyết liệt “viết
văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường cho dù
phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Trong chuyến đi thực tế dài tám
tháng tại Tây Bắc với đồng bào các dân tộc thiểu số cùng ăn, cùng ở, cùng chung
sống… Chính cuộc sống ấy đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để nhà văn hoàn thành tập Truyện Tây Bắc
A Phủ là nhân vật được tác giả cho xuất hiện khá đột ngột trong cuộc đánh nhau của
thanh niên làng bên với A Sử rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Nhà văn để nhân vật
đi vào trang văn bất ngờ, tự nhiên và đầy ấn tượng. A Phủ quê ở Háng-bla và tuổi thơ
đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp cướp đi cả gia đình anh. A Phủ gan dạ, vừa
ngang bướng đã trốn lên núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, ngày
qua ngày, mùa qua mùa, A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của
người lao động miền núi “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót
rất bạo”, “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa,
quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.
Một mình bươn trải, A Phủ đủ mạnh mẽ, gan góc, sống tự do phóng khoáng thì kết
thúc bị trói buộc cả cuộc đời tại nhà thống lí. Chính sách áp bức của chúa đất đã đẩy
người lao động phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời. Cảnh xử kiện A Phủ là minh
chứng rõ ràng nhất về cách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra
trong khói thuốc phiện mù mịt “tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” và
“Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ, chửi, lại
hút”, cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Riêng A Phủ chỉ âm thầm chịu đựng, nuốt
đắng cay mà chịu đòn đầy đau đớn.
Cảnh Pá Tra trói đứng A Phủ như một tình cảnh bị trói chờ chết như năm nào mà cô
Mị đã phải chịu. Mị không lấy làm lạ. Bởi Mị đã quá quen với những tội ác thế này và
Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi
lửa sưởi rồi lé mắt trông sang, thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm
má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt đau đớn đã làm sống dậy ý thức và tình
cảm của Mị. Ký ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột,
nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Tình thương người còn lớn
ngàn lần nỗi sợ hãi. Nó tiếp thêm sức mạnh và bản lĩnh để Mị hành động cứu A Phủ.
Và Mị đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra và chạy theo A Phủ. Mặc dù
đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính từ những khát vọng
tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy thôi thúc họ phải đấu tranh để sống và được sống.
Thành công của truyện Vợ chồng A Phủ trước hết là ở cốt truyện cùng hình tượng
nhân vật với những nét cá tính khá rõ. Ngoài ra, chất thơ toát lên từ chủ đề của tác
phẩm, từ tâm hồn đôn hậu, chất phác của nhân vật chính và thấm đượm trong những
bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc là điểm nhấn làm nên ấn tượng tuyệt đối.
Nguyễn Minh Châu từng viết “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu
trong bề sâu tâm hồn của con người”. Với Tô Hoài, ông không chỉ tìm kiếm, phát hiện
mà còn khơi nguồn vực dậy trong tâm hồn Mị sức sống, khao khát sống tưởng như đã
bị héo mòn, bị chôn vùi bởi những thế lực tàn bạo. Qua đó nhà văn khéo léo gửi quan
niệm về cuộc sống của bản thân vào nhân vật của mình rằng: Con người lao động,
trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ luôn giữ bản lĩnh và sẵn sàng đấu tranh cho chính hạnh
phúc của bản thân mình.