PHÂN TÍCH NHÂN VẬT AN DƯƠNG VƯƠNG
“Ai về qua huyện Đông Anh
Ghé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương
Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn ghi.”
Bài ca dao gắn liền với di tích Cổ Loa tên tuổi của người anh hùng đã công xây thành chính
Thục Phán - An Dương Vương. Với người Việt, truyền thuyết An Dương Vương Mị Châu - Trọng Thủy
không phải một câu chuyện lạ lẫm, là một trong những truyền thuyết tiêu biểu, hấp dẫn ý nghĩa
nhất trong chuỗi truyền thuyết về Âu Lạc An Dương Vương trong kho tàng văn học dân tộc. Trong tác
phẩm, bằng trí tưởng tượng phong phú, kết hợp giữa những yếu tố cấu với các yếu tố lịch sử, ông cha ta
đã đưa ra cách giải của riêng nh về nguyên nhân mất nước Âu Lạc; bài học lịch sử cho con cháu muôn
đời trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ Quốc. Đặc biệt, bày tỏ tình cảm, thái độ cách đánh giá về
nhân vật lịch sử An Dương Vương.
Truyền thuyết tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện nhân vật lịch sử, phần lớn theo xu hướng
tưởng hóa. Không chú trọng tính chính c như các văn bản lịch sử, truyền thuyết đã phản ánh lịch sử một
cách độc đáo: câu chuyện lịch sử được khúc xạ qua lời kể của nhiều thế hệ để rồi kết tinh thành hình tượng
nghệ thuật đặc sắc, nhuốm u thần vẫn thấm đẫm cảm xúc đời thường. T cốt lõi lịch sử, qua truyền
thuyết, nhân dân gửi gắm tình cảm, ước mơ, thái độ đối với nhân vật sự kiện lịch sử. Biện pháp nghệ
thuật phổ biến của khoa trương, phóng đại, sử dụng yếu tố ảo như c tích thần thoại. Khác với
những th loại khác, truyền thuyết thường đề cập đến vấn đề về hội. Truyện An Dương Vương Mị
Châu-Trọng Thủy bố cục 2 phần: Từ đầu đến bèn xin hòa: kể về quá trình ADV xây thành chế tạo nỏ
thần thành công nhờ sự giúp đỡ của RV; đoạn còn lại kể về nguyên nhân khiến nước Âu Lạc rơi vào tay
giặc. Truyền thuyết An Dương Vương Mị Châu-Trọng Thuỷ một trong những tác phẩm tự sự dân gian
mang đến một ấn tượng sâu sắc đến với người đọc. Truyện kể về một ông vua anh minh với tầm nhìn xa
trông rộng nhưng trong một phút chủ quan của nh đã dẫn đến bi kịch nước mất nhà tan. Câu chuyện y
đã để lại bài học sâu sắc cho con cháu sau này.
Ngay từ đầu truyện, An Dương Vương đã được giới thiệu “họ Thục tên Phán”, “vua nước Âu Lạc”.
Như vậy 1 vị vua, ông giữ vai t quan trọng ảnh hưởng đến việc thịnh suy của đất nước. Như ta được
biết, ADV rất nhiều công lao trong việc y dựng đất nước. Công lao đầu tiên của ông sau khi lên ngôi
đó là dời thành lũy về nơi đất Việt Thường, Cổ Loa. Đây một quyết định đúng đắn, một chiến lược hết
sức độc đáo của An Dương Vương. Nhưng bước đầu gặp phải nhiều khó khăn bởi “hễ cứ đắp tới đâu lại
lở tới đấy”, ông làm mọi cách cũng không được, nhưng vẫn quyết không bỏ cuộc An Dương Vương bèn
“lập đàn trai giới”. Một việc làm thể hiện quyết tâm của ông việc làm này cũng minh chứng cho việc làm
của ông chính nghĩa, bởi bản thân luôn trọng sạch thì mới dám “lập đàn trai giới” chứ sẽ không ai “cầu
dảo ch thần” cho việc xấu cả. Bên cạnh đó với sự giúp đỡ của cụ già từ phương Đông tới, cùng sứ giả
Thanh Giang càng chứng tỏ việc làm của nhà vua chính nghĩa đúng đắn. Hình ảnh nhà vua “mừng rỡ
1
đón vào trong điện, thi lễ” với cụ già hay “bèn dùng xe bằng vàng rước vào trong thành” với sứ Thanh
Giang còn th hiện rằng An Dương Vương biết trọng người tài, trọng những người góp công cho đất nước
dân thường. Hơn thế nữa 2 nhân vật này xuất hiện cũng minh chứng cho thấy việc làm của ADV rất
được lòng dân cũng như thuận ý trời. dưới sự giúp đỡ của Rùa Vàng thì thành xây nửa tháng xong,
“thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình ốc”, gọi “Loa Thành” hay “Quỷ Long Thành”, người thời
Đường gọi “Côn Lôn Thành” lấy lẽ rằng cao lắm. Qua việc xây thành ta thấy đây một chính sách
đúng đắn một nhà vua như An Dương Vương cần làm để bảo vệ đất nước, đồng thời thể hiện ông
người có tầm chiến lược quyết sách đúng đắn. Không chỉ nói đến công lao xây thành luỹ của nhà vua
chúng ta còn nói đến một công lao khác cũng rất to lớn của ông đó chính việc chế tạo nỏ thần.
Sau khi xây thành xong thì Rùa Vàng lại ba năm rồi ra về. Trước khi ra về thì ADV đã thể hiện lòng
biết ơn với Rùa Vàng, bên cạnh đó ông cũng nói ra nỗi lo lắng cho sự an nguy của đất nước của nh “Nh
ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu giặc ngoài thì lấy chống?”. ông hiểu rằng thành cao
chưa đủ cần phải khí lợi hại để bảo vệ đất nước thường xuyên bị giặc ngoại xâm. Điều đó thể hiện
tầm nhìn xa trông rộng của An Dương Vương. Khi được rùa vàng trao chiếc vuốt, An Dương Vương liền sai
Cao Lỗ chế tạo nỏ thần. Việc Rùa Vàng tháo một chiếc vuốt như một phần cơ thể này cho An Dương Vương
như một sự ghi nhận của thần linh về công lao của ADV đối với đất nước việc ông sai Cao Lỗ chế tạo nỏ
cho thấy ông rất quan tâm đến việc chế tạo khí. Nỏ thần hay còn gọi “Linh quang Kim quy Thần cơ”
cũng nhờ chiếc nỏ thần đó An Dương Vương lại lập thêm công lao to lớn nữa chính việc đánh
thắng quân Triệu Đà. Ngay tên gọi chiến tích của nỏ thần cho thấy đó 1 khí diệu hiếm có, báu
vật quốc gia gi vận mệnh của đất. Đây cũng phần thưởng xứng đáng cho công lao tâm ý của ông.
Qua việc chế tạo nỏ thần đánh thắng giặc ngoại xâm cho thấy ADV là người tầm nhìn chiến lược,
tinh thần cảnh giác cao độ trước sự xâm lược của kẻ thù một vị vua anh minh, sáng suốt, tầm nhìn
xa trông rộng, xứng đáng là anh hung của đất nước.
Trong quá trình xây thành, chế nỏ, thắng giặc đã xuất hiện những yếu tố ảo. Đó 1 cụ già từ phương
Đông tới, cụ già đại diện cho nhân n, điều đó chứng tỏ nhân dân đang giúp đỡ ADV sứ Thanh Giang
sứ của nhà trời, nghĩa việc làm của ADV thuận ý trời hợp lòng dân. Truyện cho ta thấy s ca ngợi,
tự o, biết ơn của nhân dân đối với công lao to lớn của ADV, thế ông phạm sai lầm dẫn đến bi
kịch nước mất nhà tan nhưng nhân dân vẫn để cho ông bất tử dưới thủy cung.
Nói đến những công lao của An Dương Vương thì chúng ta cũng không thể không nhắc đến nhưng sai
lầm của ông, hậu quả của những sai lầm đó bi kịch nước mất nhà tan. Sai lầm đầu tiên chính việc
ông đã hồ trước bản chất của kẻ thù. người cho rằng sai lầm của ông chính việc nhận lời cầu hoà
của Triệu Đà, nhưng đó không phải là sai lầm, bởi xuất phát từ tình yêu hoà bình của dân tộc Việt
ta đã từng bắt gặp trong “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Đó khi giặc Minh sang xâm lược nước ta,
chúng y ra bao nhiêu tội ác nhưng khi chúng thua ta lại cho chúng về nước an toàn. sai lầm ch
An Dương Vương đã không nắm bản chất của xảo huyệt của kẻ thù bởi Triệu Đà chỉ cầu hoà khi chúng
thua khi thua chúng đã bỏ chạy nhưng không phải chạy hẳn về nước về Trâu Sơn đắp lũy, nghĩa
2
chúng vẫn còn nước ta, vẫn nuôi một ý định m chiếm nước ta một lần nữa chưa bao giờ nguôi ngoai
đi sự độc chiếm đầy tàn ác đó.
Sai lầm thứ hai không cẩn thận bị mất u vật quốc gia. người nói rằng sai lầm của An Dương
Vương là nhận lời cầu hôn, gả Mị Châu cho Trọng Thủy, cho Trọng Thủy rể, để tự do đi lại trong thành
không giám sát, theo dõi. Nhưng đó không phải sai lầm ADV muốn dùng tình thông gia để nâng cao mối
quan hệ của hai nước. Đó không chỉ mong muốn của An Dương Vương còn nguyện ước bao đời
nay của nhân dân ta. Thế nhưng, tiếc thay khao khát đó không thể thực hiện được sự chân thành chỉ đến
từ một phía, còn phía kia cả một mưu đồ đen tối. Gả con gái không phải sai lầm của An Dương Vương,
đó ông đã nghĩ đến hòa bình sau y. Mà sai lầm của ông đó không canh phòng cẩn mật dẫn đến mất
báu vật quốc gia. Trọng Thủy đã những hai lần tiếp cận với nỏ thần nhưng ADV lại không hề hay biết.
Nếu như lúc đầu, An Dương Vương xây thành, dựng nước ý thức n giữ thì giờ đây, liệu ông
còn được như thế? ADV đã phần ngủ quên trên chiến thắng bảo vệ mật quốc gia. An Dương
Vương thực sự đáng trách.
Nếu như 2 sai lầm trên những sai lầm khách quan thể do kẻ thù quá mưu xảo quyệt ADV
không lường trước được nhưng sai lầm thứ ba sai lầm đáng trách nhất của ADV. Đó sự chủ quan, khinh
địch. Đây sai lầm lớn nhất dẫn đến bi kịch nước mất nhà tan. Khi nghe tin Đà phát binh sang đánh Âu Lạc,
An Dương Vương y vào sức mạnh của nỏ thần, vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, ch quan, cười nói rằng:
“Đà không sợ nỏ thần sao?”. Điềm nhiên ung dung, bình thản trước những khó khăn thử thách.
Những anh hùng lái xe vẫn “điềm nhiên” lao đi giữa mưa bom bão đạn, mang theo bao tình yêu Tổ quốc thì
ADV lại khác, khi giặc đã đến tận kinh thành thì sự điềm nhiên ấy của nhà vua còn đáng được khen ngợi
nữa không? ADV quá y vào nỏ thần từ khi xây dựng đất nước, ADV ch sa vào vui chơi giải trí
không chăm lo cho nước nhà. Thái độ điềm nhiên của ADV thật đáng trách, tiếng cười của ADV đó tiếng
cười của sự chủ quan khinh địch. Quân Triệu Đà tiến sát đến thành, vua mới mang nỏ thần ra bắn nhưng
không còn linh nghiệm. Đến đây, ta lại tự hỏi: Một người đã ý thức giữ gìn bảo vệ dân tộc, lo cho an
nguy tắc, đã từng đánh đuổi quân xâm lược, sao lại kết thúc bằng màn thua quá đổi nhanh chóng đến như
vậy?”. lẽ cũng s phần nào liên quan đến nỏ thần sự y của An Dương Vương . ch quan vào
khí, ông đã không cho rèn luyện binh lính. Nếu vua binh lính tinh nhuệ với kiểu thành hình xoắn ốc t
mất nước cũng sẽ không diễn ra nhanh đến như thế. Đất nước sụp đổ, Triệu Đà chiếm được nước ta,
Nam Việt sáp nhập với Âu Lạc tr thành nước Lạc Việt. Nhân dân oán thương, lầm lũi chịu đựng 1000 năm
Bắc thuộc cùng với những chính sách cai trị đồng hóa hết sức tàn bạo nhân đạo. Còn về phần An
Dương Vương, sau khi thất bại thảm hại, gấp rút lên ngựa đưa con gái chạy về phương Nam. Khi phải bỏ cả
thành trì để chạy thoát thân, Thục Phán đem theo Mỵ Châu hi vọng giữ lại một chút hạnh phúc gia đình.
ADV bèn kêu cứu sứ Thanh Giang khi đã bị dồn đến đường cùng, nhưng không ngờ rằng nước mất thì nhà
cũng tan. Lời thét lớn của Rùa Vàng làm nhà vua như tỉnh ngộ: Kẻ nào ngồi sau ngươi chính giặc đó”.
Trước mặt biển rộng, sau lưng quân thù. Bất lực, ông đành tuốt kiếm chém Mị Châu-đứa con gái yêu
quý của mình. Hành động ấy thể hiện sự hối hận muộn màng của ADV. Đó không phải hành động của
3
một người cha chém con của một vị vua trừng trị thần dân tội phản quốc, hành động quyết đoán
của 1 vị vua công phân minh, sẵn ng trừng trị kẻ phản quốc đó con của mình.
An Dương Vương một người cha đáng trách khi thẳng tay trừng phạt con gái. Nhưng đồng thời
vua đứng đầu một nước, ông không thể không trừng trị kẻ đã gây ra lỗi lầm phản nước. Chính trong giờ
phút thử thách quyết liệt ấy, càng khẳng định lòng yêu nước của nhà vua trước sau đều không thay đổi. Hơn
thế, đặt nghĩa nước lên trên tình nhà, một bậc quân vương, kẻ phạm tội không thể không trừng tr nên
An Dương Vương cũng một người đáng thương khi phải nghiêm khắc trừng phạt con trong đau đớn. Xây
dựng chi tiết An Dương Vương cầm “sừng bảy tấc” rẽ nước đi xuống biển bất tử dưới thủy cung cũng
đã thể hiện cái nhìn khoan dung, tấm lòng nhân hậu của nhân ân ta với vị vua vừa công vừa tội này.
Tuy nhân dân ta đã dành cho ông một kết cục hậu, nhưng ta lại tự hỏi, nỗi đau nhà tan bi kịch nước
mất có khiến ông day dứt, ôm mãi nỗi đau này? Nhà thơ Quang Huy cũng đã thật sự đau lòng:
“An Dương Vương dưới đáy mồ nghìn tuổi
Vẫn hằng đêm nức nở lưỡi gươm xưa
Mây vẫn trắng để tan trời vĩnh cữu
Mỵ Châu ơi, oan nghiệt đến bao giờ?
Nếu như Thánh Gióng được bay về trời sau khi đánh đuổi giặc Ân, Hai Trưng tuy không đuổi được
quân t phải trầm mình xuống dòng sông Hồng thì tại sao vua An Dương Vương lại không được như vậy?
lẽ, i tội của ông quá lớn, chính cái tội đó đã khiến ông không đủ cách để được bay về trời. Để sau
này, mỗi khi ngồi ngẫm lại lịch sử nước nhà, ta ngẩng cao đầu cho sự dũng cảm công lao to lớn của
Tháng Gióng hay Hai Bà Trưng. Ta sẽ cúi đầu khi nhớ về vua An Dương Vương, để tiếc nuối cho một thời
của đất nước Âu Lạc.
Truyện An Dương Vương Mị Châu-Trọng Thủy đã thành công trong việc kết hợp nhuần nhuyễn
giữa cốt lõi lịch sử các yếu tố ảo, hoang đường tạo nên sự hấp dẫn, li kì, góp phần thể hiện được thái
độ của nhân dân ta đối với các nhân vật, giúp cho câu chuyện them sinh động linh hoạt. Với thể loại
truyện truyền thuyết, giọng kể phong phú khi ngợi ca tôn vinh, khi ngậm ngụi, chua xót cho cảnh nước mất
nhà tan. Ngoài ra tác phẩm sử dụng c chi tiết giàu ý nghĩa biểu ợng: ngọc trai, giếng nước,…
Với kết cấu chặt chẽ đến hoàn mỹ, cốt truyện ly hấp dẫn, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố
lịch s với yếu tố ảo đã phản ánh quan điểm đánh giá, thái độ tình cảm của nhân dân về nhân vật An
Dương Vương. Qua việc xây dựng hình tượng nhân vật An Dương Vương , nhân dân gửi gắm lòng kính
trọng đối với thái độ dũng cảm, biết lo cho dân ý thức bảo vệ đất nước của người anh hùng An Dương
Vương . Đồng thời cũng phê phán thái độ chủ quan, khinh địch, mất cảnh giác của nhà vua khiến đất nước
phút chốc rơi vào tay giặc. Không chỉ cho thấy Thục Phán một vị vua vừa công vừa tội, vừa được ca
ngợi vừa bị phê phán, nhân dân còn cho thấy sự đáng trách cả đáng thương của An Dương Vương khi
đứng trên cương vị của người cha trước lỗi lầm của con gái. Câu chuyện về người anh hùng Thục Phán sẽ
còn được lưu truyền như một lời răn dạy cho mọi thế hệ: Không được chủ quan, khinh địch, luôn đề cao
cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù.
4

Preview text:

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT AN DƯƠNG VƯƠNG
“Ai về qua huyện Đông Anh
Ghé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương
Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn ghi.”
Bài ca dao gắn liền với di tích Cổ Loa và tên tuổi của người anh hùng đã có công xây thành chính là
Thục Phán - An Dương Vương. Với người Việt, truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy
không phải là một câu chuyện lạ lẫm, nó là một trong những truyền thuyết tiêu biểu, hấp dẫn và có ý nghĩa
nhất trong chuỗi truyền thuyết về Âu Lạc và An Dương Vương trong kho tàng văn học dân tộc. Trong tác
phẩm, bằng trí tưởng tượng phong phú, kết hợp giữa những yếu tố hư cấu với các yếu tố lịch sử, ông cha ta
đã đưa ra cách lí giải của riêng mình về nguyên nhân mất nước Âu Lạc; bài học lịch sử cho con cháu muôn
đời trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Đặc biệt, bày tỏ tình cảm, thái độ và cách đánh giá về
nhân vật lịch sử An Dương Vương.
Truyền thuyết là tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử, phần lớn theo xu hướng lí
tưởng hóa. Không chú trọng tính chính xác như các văn bản lịch sử, truyền thuyết đã phản ánh lịch sử một
cách độc đáo: câu chuyện lịch sử được khúc xạ qua lời kể của nhiều thế hệ để rồi kết tinh thành hình tượng
nghệ thuật đặc sắc, nhuốm màu thần kì mà vẫn thấm đẫm cảm xúc đời thường. Từ cốt lõi lịch sử, qua truyền
thuyết, nhân dân gửi gắm tình cảm, ước mơ, thái độ đối với nhân vật và sự kiện lịch sử. Biện pháp nghệ
thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, sử dụng yếu tố kì ảo như cổ tích và thần thoại. Khác với
những thể loại khác, truyền thuyết thường đề cập đến vấn đề về xã hội. Truyện An Dương Vương và Mị
Châu-Trọng Thủy có bố cục 2 phần: Từ đầu đến bèn xin hòa: kể về quá trình ADV xây thành và chế tạo nỏ
thần thành công nhờ sự giúp đỡ của RV; đoạn còn lại kể về nguyên nhân khiến nước Âu Lạc rơi vào tay
giặc. Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thuỷ là một trong những tác phẩm tự sự dân gian
mang đến một ấn tượng sâu sắc đến với người đọc. Truyện kể về một ông vua anh minh với tầm nhìn xa
trông rộng nhưng trong một phút chủ quan của mình đã dẫn đến bi kịch nước mất nhà tan. Câu chuyện này
đã để lại bài học sâu sắc cho con cháu sau này.
Ngay từ đầu truyện, An Dương Vương đã được giới thiệu “họ Thục tên Phán”, “vua nước Âu Lạc”.
Như vậy là 1 vị vua, ông giữ vai trò quan trọng ảnh hưởng đến việc thịnh suy của đất nước. Như ta được
biết, ADV có rất nhiều công lao trong việc xây dựng đất nước. Công lao đầu tiên của ông sau khi lên ngôi
đó là dời thành lũy về nơi đất Việt Thường, Cổ Loa. Đây là một quyết định đúng đắn, một chiến lược hết
sức độc đáo của An Dương Vương. Nhưng bước đầu gặp phải nhiều khó khăn bởi “hễ cứ đắp tới đâu là lại
lở tới đấy”, ông làm mọi cách cũng không được, nhưng vẫn quyết không bỏ cuộc An Dương Vương bèn
“lập đàn trai giới”. Một việc làm thể hiện quyết tâm của ông và việc làm này cũng minh chứng cho việc làm
của ông là chính nghĩa, bởi bản thân luôn trọng sạch thì mới dám “lập đàn trai giới” chứ sẽ không có ai “cầu
dảo bách thần” cho việc xấu cả. Bên cạnh đó với sự giúp đỡ của cụ già từ phương Đông tới, cùng sứ giả
Thanh Giang càng chứng tỏ việc làm của nhà vua là chính nghĩa và đúng đắn. Hình ảnh nhà vua “mừng rỡ 1
đón vào trong điện, thi lễ” với cụ già hay “bèn dùng xe bằng vàng rước vào trong thành” với sứ Thanh
Giang còn thể hiện rằng An Dương Vương biết trọng người tài, trọng những người góp công cho đất nước
dù là dân thường. Hơn thế nữa 2 nhân vật này xuất hiện cũng là minh chứng cho thấy việc làm của ADV rất
được lòng dân cũng như thuận ý trời. Và dưới sự giúp đỡ của Rùa Vàng thì thành xây nửa tháng là xong,
“thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình ốc”, gọi là “Loa Thành” hay “Quỷ Long Thành”, người thời
Đường gọi là “Côn Lôn Thành” lấy lẽ rằng nó cao lắm. Qua việc xây thành ta thấy đây là một chính sách
đúng đắn mà một nhà vua như An Dương Vương cần làm để bảo vệ đất nước, đồng thời thể hiện ông là
người có tầm chiến lược và quyết sách đúng đắn. Không chỉ nói đến công lao xây thành luỹ của nhà vua mà
chúng ta còn nói đến một công lao khác cũng rất to lớn của ông đó chính là việc chế tạo nỏ thần.
Sau khi xây thành xong thì Rùa Vàng ở lại ba năm rồi ra về. Trước khi ra về thì ADV đã thể hiện lòng
biết ơn với Rùa Vàng, bên cạnh đó ông cũng nói ra nỗi lo lắng cho sự an nguy của đất nước của mình “Nhờ
ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Vì ông hiểu rằng thành cao
chưa đủ mà cần phải có vũ khí lợi hại để bảo vệ đất nước thường xuyên bị giặc ngoại xâm. Điều đó thể hiện
tầm nhìn xa trông rộng của An Dương Vương. Khi được rùa vàng trao chiếc vuốt, An Dương Vương liền sai
Cao Lỗ chế tạo nỏ thần. Việc Rùa Vàng tháo một chiếc vuốt như một phần cơ thể này cho An Dương Vương
như một sự ghi nhận của thần linh về công lao của ADV đối với đất nước và việc ông sai Cao Lỗ chế tạo nỏ
cho thấy ông rất quan tâm đến việc chế tạo vũ khí. Nỏ thần hay còn gọi là “Linh quang Kim quy Thần cơ”
và cũng nhờ chiếc nỏ thần đó mà An Dương Vương lại lập thêm công lao to lớn nữa chính là việc đánh
thắng quân Triệu Đà. Ngay tên gọi và chiến tích của nỏ thần cho thấy đó là 1 vũ khí kì diệu hiếm có, là báu
vật quốc gia và giữ vận mệnh của đất. Đây cũng là phần thưởng xứng đáng cho công lao và tâm ý của ông.
Qua việc chế tạo nỏ thần và đánh thắng giặc ngoại xâm cho thấy ADV là người có tầm nhìn chiến lược, có
tinh thần cảnh giác cao độ trước sự xâm lược của kẻ thù và là một vị vua anh minh, sáng suốt, có tầm nhìn
xa trông rộng, xứng đáng là anh hung của đất nước.
Trong quá trình xây thành, chế nỏ, thắng giặc đã xuất hiện những yếu tố kì ảo. Đó là 1 cụ già từ phương
Đông tới, cụ già là đại diện cho nhân dân, điều đó chứng tỏ nhân dân đang giúp đỡ ADV và sứ Thanh Giang
là sứ của nhà trời, nghĩa là việc làm của ADV là thuận ý trời và hợp lòng dân. Truyện cho ta thấy sự ca ngợi,
tự hào, biết ơn của nhân dân đối với công lao to lớn của ADV, vì thế dù ông có phạm sai lầm dẫn đến bi
kịch nước mất nhà tan nhưng nhân dân vẫn để cho ông bất tử dưới thủy cung.
Nói đến những công lao của An Dương Vương thì chúng ta cũng không thể không nhắc đến nhưng sai
lầm của ông, mà hậu quả của những sai lầm đó là bi kịch nước mất nhà tan. Sai lầm đầu tiên chính là việc
ông đã mơ hồ trước bản chất của kẻ thù. Có người cho rằng sai lầm của ông chính là việc nhận lời cầu hoà
của Triệu Đà, nhưng đó không phải là sai lầm, bởi vì nó xuất phát từ tình yêu hoà bình của dân tộc Việt mà
ta đã từng bắt gặp trong “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Đó là khi giặc Minh sang xâm lược nước ta,
chúng gây ra bao nhiêu tội ác nhưng khi chúng thua ta lại cho chúng về nước an toàn. Mà sai lầm là ở chỗ
An Dương Vương đã không nắm rõ bản chất của xảo huyệt của kẻ thù bởi Triệu Đà chỉ cầu hoà khi chúng
thua và khi thua chúng đã bỏ chạy nhưng không phải là chạy hẳn về nước mà về Trâu Sơn đắp lũy, nghĩa là 2
chúng vẫn còn ở nước ta, vẫn nuôi một ý định xâm chiếm nước ta một lần nữa và chưa bao giờ nguôi ngoai
đi sự độc chiếm đầy tàn ác đó.
Sai lầm thứ hai là không cẩn thận bị mất báu vật quốc gia. Có người nói rằng sai lầm của An Dương
Vương là nhận lời cầu hôn, gả Mị Châu cho Trọng Thủy, cho Trọng Thủy ở rể, để tự do đi lại trong thành và
không giám sát, theo dõi. Nhưng đó không phải sai lầm vì ADV muốn dùng tình thông gia để nâng cao mối
quan hệ của hai nước. Đó không chỉ là mong muốn của An Dương Vương mà còn là nguyện ước bao đời
nay của nhân dân ta. Thế nhưng, tiếc thay khao khát đó không thể thực hiện được vì sự chân thành chỉ đến
từ một phía, còn phía kia là cả một mưu đồ đen tối. Gả con gái không phải là sai lầm của An Dương Vương,
đó là vì ông đã nghĩ đến hòa bình sau này. Mà sai lầm của ông đó là không canh phòng cẩn mật dẫn đến mất
báu vật quốc gia. Trọng Thủy đã có những hai lần tiếp cận với nỏ thần nhưng ADV lại không hề hay biết.
Nếu như ở lúc đầu, An Dương Vương xây thành, dựng nước và có ý thức gìn giữ thì giờ đây, liệu ông có
còn được như thế? ADV đã có phần ngủ quên trên chiến thắng và lơ là bảo vệ bí mật quốc gia. An Dương
Vương thực sự đáng trách.
Nếu như 2 sai lầm trên là những sai lầm khách quan có thể do kẻ thù quá mưu mô xảo quyệt mà ADV
không lường trước được nhưng sai lầm thứ ba là sai lầm đáng trách nhất của ADV. Đó là sự chủ quan, khinh
địch. Đây là sai lầm lớn nhất dẫn đến bi kịch nước mất nhà tan. Khi nghe tin Đà phát binh sang đánh Âu Lạc,
An Dương Vương ỷ y vào sức mạnh của nỏ thần, vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, chủ quan, cười mà nói rằng:
“Đà không sợ nỏ thần sao?”. Điềm nhiên là ung dung, bình thản trước những khó khăn thử thách.
Những anh hùng lái xe vẫn “điềm nhiên” lao đi giữa mưa bom bão đạn, mang theo bao tình yêu Tổ quốc thì
ADV lại khác, khi giặc đã đến tận kinh thành thì sự điềm nhiên ấy của nhà vua có còn đáng được khen ngợi
nữa không? ADV quá ỷ y vào nỏ thần và từ khi xây dựng đất nước, ADV chỉ sa vào vui chơi giải trí mà
không chăm lo cho nước nhà. Thái độ điềm nhiên của ADV thật đáng trách, tiếng cười của ADV đó là tiếng
cười của sự chủ quan khinh địch. Quân Triệu Đà tiến sát đến thành, vua mới mang nỏ thần ra bắn nhưng
không còn linh nghiệm. Đến đây, ta lại tự hỏi: “ Một người đã có ý thức giữ gìn và bảo vệ dân tộc, lo cho an
nguy xã tắc, đã từng đánh đuổi quân xâm lược, sao lại kết thúc bằng màn thua quá đổi nhanh chóng đến như
vậy?”. Có lẽ cũng sẽ có phần nào liên quan đến nỏ thần và sự ỷ y của An Dương Vương . Vì chủ quan vào
vũ khí, ông đã không cho rèn luyện binh lính. Nếu vua có binh lính tinh nhuệ với kiểu thành hình xoắn ốc thì
dù có mất nước cũng sẽ không diễn ra nhanh đến như thế. Đất nước sụp đổ, Triệu Đà chiếm được nước ta,
Nam Việt sáp nhập với Âu Lạc trở thành nước Lạc Việt. Nhân dân oán thương, lầm lũi chịu đựng 1000 năm
Bắc thuộc cùng với những chính sách cai trị và đồng hóa hết sức tàn bạo và vô nhân đạo. Còn về phần An
Dương Vương, sau khi thất bại thảm hại, gấp rút lên ngựa đưa con gái chạy về phương Nam. Khi phải bỏ cả
thành trì để chạy thoát thân, Thục Phán đem theo Mỵ Châu hi vọng giữ lại một chút hạnh phúc gia đình.
ADV bèn kêu cứu sứ Thanh Giang khi đã bị dồn đến đường cùng, nhưng không ngờ rằng nước mất thì nhà
cũng tan. Lời thét lớn của Rùa Vàng làm nhà vua như tỉnh ngộ: “ Kẻ nào ngồi sau ngươi chính là giặc đó”.
Trước mặt là biển rộng, sau lưng là quân thù. Bất lực, ông đành tuốt kiếm chém Mị Châu-đứa con gái yêu
quý của mình. Hành động ấy thể hiện sự hối hận muộn màng của ADV. Đó không phải là hành động của 3
một người cha chém con mà là của một vị vua trừng trị thần dân có tội phản quốc, là hành động quyết đoán
của 1 vị vua công tư phân minh, sẵn sàng trừng trị kẻ phản quốc dù đó là con của mình.
An Dương Vương là một người cha đáng trách khi thẳng tay trừng phạt con gái. Nhưng đồng thời là
vua đứng đầu một nước, ông không thể không trừng trị kẻ đã gây ra lỗi lầm là phản nước. Chính trong giờ
phút thử thách quyết liệt ấy, càng khẳng định lòng yêu nước của nhà vua trước sau đều không thay đổi. Hơn
thế, vì đặt nghĩa nước lên trên tình nhà, là một bậc quân vương, kẻ phạm tội không thể không trừng trị nên
An Dương Vương cũng là một người đáng thương khi phải nghiêm khắc trừng phạt con trong đau đớn. Xây
dựng chi tiết An Dương Vương cầm “sừng tê bảy tấc” rẽ nước đi xuống biển và bất tử dưới thủy cung cũng
đã thể hiện cái nhìn khoan dung, tấm lòng nhân hậu của nhân ân ta với vị vua vừa có công vừa có tội này.
Tuy nhân dân ta đã dành cho ông một kết cục có hậu, nhưng ta lại tự hỏi, nỗi đau nhà tan và bi kịch nước
mất có khiến ông day dứt, ôm mãi nỗi đau này? Nhà thơ Quang Huy cũng đã thật sự đau lòng:
“An Dương Vương dưới đáy mồ nghìn tuổi
Vẫn hằng đêm nức nở lưỡi gươm xưa
Mây vẫn trắng để tan trời vĩnh cữu
Mỵ Châu ơi, oan nghiệt đến bao giờ?”
Nếu như Thánh Gióng được bay về trời sau khi đánh đuổi giặc Ân, Hai Bà Trưng tuy không đuổi được
quân thù phải trầm mình xuống dòng sông Hồng thì tại sao vua An Dương Vương lại không được như vậy?
Có lẽ, cái tội của ông quá lớn, chính cái tội đó đã khiến ông không đủ tư cách để được bay về trời. Để sau
này, mỗi khi ngồi ngẫm lại lịch sử nước nhà, ta ngẩng cao đầu cho sự dũng cảm và công lao to lớn của
Tháng Gióng hay Hai Bà Trưng. Ta sẽ cúi đầu khi nhớ về vua An Dương Vương, để tiếc nuối cho một thời
của đất nước Âu Lạc.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy đã thành công trong việc kết hợp nhuần nhuyễn
giữa cốt lõi lịch sử và các yếu tố kì ảo, hoang đường tạo nên sự hấp dẫn, li kì, góp phần thể hiện được thái
độ của nhân dân ta đối với các nhân vật, giúp cho câu chuyện them sinh động và linh hoạt. Với thể loại
truyện truyền thuyết, giọng kể phong phú khi ngợi ca tôn vinh, khi ngậm ngụi, chua xót cho cảnh nước mất
nhà tan. Ngoài ra tác phẩm sử dụng các chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng: ngọc trai, giếng nước,…
Với kết cấu chặt chẽ đến hoàn mỹ, cốt truyện ly kì hấp dẫn, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố
lịch sử với yếu tố kì ảo đã phản ánh quan điểm đánh giá, thái độ và tình cảm của nhân dân về nhân vật An
Dương Vương. Qua việc xây dựng hình tượng nhân vật An Dương Vương , nhân dân gửi gắm lòng kính
trọng đối với thái độ dũng cảm, biết lo cho dân và ý thức bảo vệ đất nước của người anh hùng An Dương
Vương . Đồng thời cũng phê phán thái độ chủ quan, khinh địch, mất cảnh giác của nhà vua khiến đất nước
phút chốc rơi vào tay giặc. Không chỉ cho thấy Thục Phán là một vị vua vừa có công vừa có tội, vừa được ca
ngợi vừa bị phê phán, nhân dân còn cho thấy sự đáng trách và cả đáng thương của An Dương Vương khi
đứng trên cương vị của người cha trước lỗi lầm của con gái. Câu chuyện về người anh hùng Thục Phán sẽ
còn được lưu truyền như một lời răn dạy cho mọi thế hệ: Không được chủ quan, khinh địch, luôn đề cao
cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù. 4