-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt chọn lọc hay nhất | ngữ văn 12
• Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ. + Là một bà mẹ nghèo khổ, goá bụa, già nua, ốm yếu, là dân ngụ cư. + Bà sống với con trai là một anh phụ xe nghèo. + Ngoại hình bà: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen của người già. • Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 12 637 tài liệu
Ngữ Văn 12 1 K tài liệu
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt chọn lọc hay nhất | ngữ văn 12
• Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ. + Là một bà mẹ nghèo khổ, goá bụa, già nua, ốm yếu, là dân ngụ cư. + Bà sống với con trai là một anh phụ xe nghèo. + Ngoại hình bà: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen của người già. • Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 12 637 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 12 1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:







Tài liệu khác của Ngữ Văn 12
Preview text:
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt chọn lọc hay nhất
Với phong cách viết giản dị, gần gũi với đời sống làng quê, nhà văn Kim Lân được xem là nhà văn của
làng quê Việt Nam, những sáng tác của ông luôn chạm tới trái tim người đọc những cảm xúc chân
thành, ấm áp. Tác phẩm "Vợ nhặt " là một ví dụ tiêu biểu. Nổi bật trong tác phẩm đó là hình ảnh bà cụ
Tứ với tình yêu thương con tha thiết. Dưới đây là một số mẫu bài viết phân tích nhân vật bà cụ Tứ hay
nhất mà Luật Minh Khuê muốn gửi tới bạn đọc.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích bà cụ Tứ 1.1. Mở bài
- Giới thiệu nhà văn Kim lân và tác phẩm Vợ Nhặt
- Giới thiệu nhận vật bà cụ Tứ: bà cụ là đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam. 1.2. Thân bài
• Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ
+ Là một bà mẹ nghèo khổ, goá bụa, già nua, ốm yếu, là dân ngụ cư.
+ Bà sống với con trai là một anh phụ xe nghèo
+ Ngoại hình bà: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính
toán theo thói quen của người già.
• Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ
Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch "bà lão phấp phỏng" đó là một lâm lý bất an, phân vân,
hồi hộp, "đứng sững lại"- bà cụ giật mình vì sự xuất hiện của người đàn bà mà con trai mình mang về;
"hấp háy cặp mắt" là thói quen của người già, thể hiện sự ngạc nhiên và tò mò muốn nhìn rõ hơn.
Bà cụ không hề biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà
rất ngạc nhiên, tâm lí bị động trước sự việc. - Sau khi hiểu ra:
+ Bà thương cho con trai mình phải lấy vợ nhặt
+ Bà cũng thấy hờn tủi chính mình có lỗi với con trai bởi không thể lo được chuyện lấy vợ cho con chu đáo.
+ Bà đồng cảm với người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con bà, thương sự ngờ nghệch của đứa con trai.
- Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất, chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về
- Bà lo lắng cho cuộc sống của các con sau này
- Bà đối xử với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng:
+ Ân cần quan tâm con: "con ngồi đây....đỡ mỏi chân"
+ Nói về tương lai với niềm lạc quan "biết thế nào hở con, ai giàu ba họ ai khó ba đời"
+ Bảo ban các con làm ăn.
Bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là
nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam. 1.3. Kết bài
Nêu cảm nhận về hình tượng bà cụ Tứ.
2. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ chọn lọc
2.1. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ (Mẫu 1)
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam. Những tác phẩm của
ông thường viết về nông thôn và những con người quê lam lũ, hồn hậu, chất phác, giàu tình yêu
thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ tình cảnh thê
thảm của nhân dân ta trong nạn đói 1945 đồng thời khẳng định, ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc,
khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai của những người lao động. Trong đó nổi bật là nhân vật bà
cụ Tứ được nhà văn khắc hoạ sinh động, tinh tế, bà hiện lên với hình ảnh một người mẹ nghèo khổ,
trải đời, giàu tình yêu thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.
Nếu ai đã từng đọc qua giọng văn Ngô Tất Tố, Nam Cao, chúng ta sẽ thấy đồng cảm với cuộc sống cơ
cực của những người dân lao động. Họ bị bần cùng và bức bách khiến họ bị tha hoá về nhân phẩm.
Nhưng có những con người trong nỗi cơ cực ấy vẫn liều lĩnh chấp nhận thêm những khốn khổ cùng
cực, vì tình yêu, tình người, lòng nhan hậu. Đó là chị Dậu, là cụ Tứ, là anh cu Tràng.
Trong những tháng ngày u ám vì nạn đói, cái chết có thể rơi xuống bất kì ai thì anh cu Tràng lại làm
một việc tưởng như bị "điên" đó là lấy vợ, tuy nhiên chỉ có mẹ anh- bà cụ Tứ mới là người thấm thía hết cơ sự.
Bà cụ Tứ là mẹ anh cu Tràng. Hình ảnh bà được khắc hoạ trong tác phẩm đó là trong bóng hoàng hôn
chiều, người mẹ nghèo khổ "húng hắng ho". Trước mái tranh nghèo trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại, người mẹ nghèo lại càng thêm cơ cực.
Vốn dĩ việc làm nhà, cưới vợ là một chuyện hệ trọng trong cuộc đời mỗi con người, cần có sự đóng
góp ý kiến của cha mẹ - những người đi trước. Thế nhưng sự kiện Tràng lấy vợ lại đi ngược lại với
những lẽ hiển nhiên đó, việc Tràng lấy vợ được thông báo đột ngột khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên, ban
đầu chỉ là sự thắc mắc thái độ sốt sắng của thằng con trai, bà cụ Tứ hấp háy hai con mắt nhìn Tràng
chậm chạp hỏi: Có việc gì thế vậy? Khi Tràng vẫn thong thả chưa trình bày câu chuyện, bà cụ phấp
phỏng bước theo con vào nhà. Kim Lân đã rất khéo léo khi dùng hai từ "phấp phỏng" để diễn tả sự lo
lắng và sự nhẫn nại chờ đợi của bà cụ. Hành động "đứng sững lại" thể hiện sự ngạc nhiên đã lên cao
trào, nhà văn đã thấu suốt những nỗi băn khoăn của nhân vật, rất nhiều câu hỏi đang xoay quanh bà:
Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng
con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà ai thế nhỉ? Những câu hỏi cứ
dồn dập được đặt ra mà không có câu trả lời. Mọi thắc mắc xoay quanh sự xuất hiện của người đàn bà
trong ngôi nhà vốn dĩ chỉ có hai mẹ con bà sống. Đáng thương hơn bà cụ lại tưởng mình nhầm lẫn: bà
cụ hấp háy mắt cho đỡ cay, nỗi băn khoăn của bà vẫn không được giải bày, bà lão quay sang nhìn con
ra chiều không hiểu. Điều này thật dễ hiểu, trong sự việc này bà cụ hoàn toàn bị động, mọi việc đã rồi
mà bà không hay biết điều gì cả.
Khi con trai bà vẫn trì hoãn bí mật, mời mẹ vào nhà ngồi, bà cụ "lập cập" bước vào nhà. "Lập cập" là
sự run rẩy của người già hay là sự thấp thỏm, lo sợ những điều không hay xảy đến. Với một người mẹ
cả đời lam lũ này còn gì khủng khiếp sẽ xảy đến với bà nữa đây. Kim Lân đã khơi dậy lên trong lòng
người đọc một sự cảm thương sâu sắc với hai từ "lập cập".
Có lẽ bà cụ Tứ không nghĩ được rằng người đàn bà đang ngồi kia chính là vợ của con trai, là con dâu
của bà. Có lẽ cảm thấy sốt ruột trước thái độ của bà cụ mà Tràng phải lên tiếng: "kìa nhà tôi nó chào
u". Vậy mà bà cụ vẫn không hiểu được đầu đuôi câu chuyện, làm sao một người mẹ nghèo khốn khổ
ấy có thể tin rằng con trai mình có vợ. Bà cũng hiểu rõ hoàn cảnh đáng thương của con trai mình, vừa
nghèo, vừa xấu, vừa cục mịch, làm gì có ai để ý tới chứ đừng nói lấy vợ, trong giai đoạn nghèo khó "ốc
chẳng mang nổi mình ốc mà còn mang cọc cho rêu" ai có thể nghĩ tới chuyện cưới xin được. Nỗi băn
khoăn của bà cụ từ đầu tới giờ mới được gỡ khi Tràng dõng dạc vắn tắt trình bày cơ sự :" nhà tôi nó
mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau. Chẳng qua nó cũng là cái số
cả. Và thế là bà cụ cúi đầu nín lặng. Không phải là im lặng mà là im lặng nín nhịn không thể nói được
điều gì. Lúc này bà đã hiểu hết sự tình. Nhà văn Kim Lân đồng cảm với những suy tư, những tủi hờn
xót xa trong lòng bà cụ: "lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót
thương cho số kiếp đứa con của mình. Những nỗi ai oán, xót thương, những thổn thức trong lòng bà
chỉ nhà văn Kim Lân mới hiểu được. Thì ra suy nghĩ của bà cụ không đơn giản như chúng ta nghĩ, cái
nghèo đói không làm bà cụ chấp nhận cuộc sống buông tuồng, bà đau đá trong lòng vì không thể hoàn
thành trách nhiệm của người mẹ đó là chăm lo cho hạnh phúc của con trai mình một cách chu đáo.
"Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ
cái mở mặt sau này". Còn bản thân cụ Tứ, khi đứa con độc nhất của mình cưới vợ là những lời tự
trách, là tiếng khóc nghẹn ngào của người mẹ nghèo khổ. Tuổi già hạt lệ như sương, nhưng trong kẽ
mắt kèm nhèm của bà cụ vẫn rỉ xuống hai dòng nước mắt. Đó là những giọt nước mắt tủi phận cùng
cực, đó là những giọt nước mắt xót thương cho sự khốn khó của chính mình. Đó đồng thời cũng chính
là giọt nước mắt của lòng tự trọng, những giọt nước mắt giữ nhân cách của con người, những giọt
nước mắt ấy là minh chứng thể hiện tình yêu của mẹ đối với các con.
Bà cụ Tứ hết sức lo lắng cho cuộc sống của các con. Chỉ một câu đáp: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi
nhau sống qua được cơn đói khát này không? Băn khoăn ấy có cơ sở cả, xóm ngụ cư của cụ đang sống
trong những tháng ngày lầm than do cơn đói hoành hành, việc giữ cho mình được mạng sống còn khó
huống chi cu Tràng còn đèo bòng. Ở cái tuổi gần đất xa trời, đáng lẽ bà đã được nghỉ ngơi, nhưng vì
cái nghèo đói, khổ cực mà trong lòng bà vẫn đau đáu một nỗi niềm lo lắng cho các con.
Hình ảnh bà cụ Tứ chỉ xuất hiện nửa sau tác phẩm, có thể người ta sẽ nghĩ bà cụ xuất hiện với dáng vẻ
cay nghiệt thường thấy ở các bà mẹ chồng, nhưng cụ xuất hiện với sự nhã nhặn trong cách cư xử đặc
biệt là chuỗi diễn biến tâm trạng nhân vật khắc hoạ nhân cách cao đẹp của người phụ nữ. Trước mắt
chúng ta đó là hình ảnh một người mẹ thương con vô bờ bến, những nỗi lo, những suy nghĩ trong
lòng cụ được nhà văn ghi lại một cách chân thật, xúc động.
Qua hình tượng nhân vật bà cụ Tứ với biết bao tâm trạng xen lẫn với các tình huống con trai "nhặt
được vợ", nhà văn Kim Lân đã làm nổi bật lên tấm lòng của người mẹ nghèo khổ nhưng giàu lòng vị
tha, nhân hậu. Với những tình cảm mà bà cụ đã dành cho con trai và con dâu, chúng ta càng thấu hiểu
hơn về tấm lòng của người mẹ và cũng chính điều đặc biệt này khiến nhân vật bà cụ Tứ hiện lên chân
thật và cảm động hơn đối với người đọc. Hình ảnh người mẹ với tình yêu thương con ấy, như một
ngọn nến thắp sáng cuộc đời tối tăm của những kiếp người nghèo khổ bị cùng cực.
2.2. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ (Mẫu 2)
Có một lí do khiến người đọc cảm thấy ấn tượng khi đọc các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Kim
Lân...bởi họ viết hay, viết thật. Mỗi khi đọc một trang văn, ta lại như sống cùng nhân vật đi qua những
niềm vui, niềm hạnh phúc và cả nỗi đau đáu, bi ai. Đọc truyện ngắn "vợ nhặt" của Kim Lân, nhân vật
bà cụ Tứ hiện lên như một điển hình về người đàn bà tuy sống trong cảnh nghèo khổ đến cùng cực
những tình yêu thương con vô bờ bến.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối với nạn đói khủng khiếp năm
1945. Kim Lân không tập trung miêu tả kĩ hiện thực tàn khốc của nạn đói mà miêu tả vẻ đẹp tinh thần
giấu sau vẻ bề ngoài xơ xác vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong hoàn cảnh ấy họ vẫn nhen
nhúm niềm tin và hi vọng vào một tương lai tươi đẹp.
Hình ảnh bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, tuy nhiên bà cụ đã trở thành nhân vật trung tâm của tác
phẩm. Dưới ngòi bút của Kim Lân, hình ảnh bà cụ Tứ hiện lên là một bà mẹ có số phận bất hạnh vì goá
chồng, mất đứa con gái, chỉ còn một đứa con trai làm nghề kéo xe bò và cũng không được nhanh nhẹn
như người ta. Có lẽ rằng tất cả những nỗi đau đã đè lên vai người phụ nữ đáng thương ấy. Hai mẹ con
sống trong một căn nhà tồi tàn , rúm ró ở xóm ngụ cư và con trai bà có nguy cơ không có vợ. Chân
dung nhân vật bà cụ Tứ được tác giả giới thiệu dần dần qua diễn biến câu chuyện. Bắt đầu là "tiếng
cười húng hắng ho", một bà lão với cái dáng "lọng khọng" từ đầu ngõ "vừa đi vừa lầm bẩm tính toán
trong miệng". Tính từ "lọng khọng" rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình dung cái dáng
gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ già bởi gánh nặng cuộc đời, bởi cái nghèo khổ. Chính cái nghèo khó cũng
làm khuôn mặt bà một nét "bủng beo u ám". Qua miêu tả ngoại hình bà cụ Tứ, chúng ta thấy được đó
là người mẹ có cuộc đời khổ cực, bất hạnh.
Buổi chiều bà cụ Tứ mang một tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngõ đi vào, thấy thái độ khác thường của
Tràng "reo lên như một đứa trẻ" và "lật đật chạy ra đón mình" thì bà lão theo con vào trong nhà với
tâm trạng "phấp phỏng". Đó chính là biểu hiện của sự lo lắng, sự hồi hộp bởi bà không biết có sự gì sẽ
đón mình trong nhà. Khi tới giữa sân, nhìn thấy một người đàn bà trong căn nhà vốn xưa nay chỉ có
hai mẹ con, bà ngạc nhiên "đứng sững lại". Tác giả đã khéo léo sử dụng độc thoại nội tâm để diễn tả
tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà cụ lúc này. Hàng loạt những câu hỏi được đặt ra trong đầu bà
"quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng
con mình thế kia? sao lại chào mình bằng u? không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Một loạt các câu
hỏi cứ liên tiếp được đặt ra trong đầu bà cụ, nhưng bà cụ vẫn không tìm được câu trả lời, vì vậy bà đổ
lỗi cho cặp mắt của mình, bà không tin vào mắt mình "bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự
dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải". Bà lão "nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra
người nào" nên bà quay sang hỏi con trai với sự ngạc nhiên không hiểu của chính mình.
Khi người đàn bà lạ mặt ấy trông thấy bà cụ về, cất tiếng chào "U đã về ạ", ngay cả tiếng chào thân
thiết ấy cũng không làm bà cụ hiểu ra. "Ô hay, thế là thế nào nhỉ?" rồi bà lão "băn khoăn ngồi xuống
giường". Mãi tới khi Tràng vừa giới thiệu, vừa giải thích "đây là nhà tôi", "chúng tôi phải duyên phải
kiếp với nhau", "chẳng qua nó cũng là cái số cả". Lúc này bà lão mới bắt đầu hiểu ra và "cúi đầu nìn
lặng", cái tư thế ấy ẩn chứa bao suy nghĩ, tâm sự, nỗi niểm mà không thể diễn đạt thành lời. Lúc này
người đọc như hiểu được nội tâm bên trong cái vẻ tưởng chứng như già nua, cũ kĩ của bà. Bà đã hiểu
ra con bà đã có vợ, bà hiểu ra những khó khăn, nghèo đói mà Tràng phải chịu đựng, rồi bà lại hiểu ra
chính số phận bất hạnh của đờ bà khiến con bà rơi vào hoàn cảnh như hiện tại. Bà "xót thương cho số
kiếp đứa con mình", sự ai oán đó vừa hướng tới chính bản thân bà, vừa hướng tới con bà, đó là một
cảm xúc vừa tội nghiệp, vừa nhân hậu biết bao.
Cảm xúc trong bà càng cụ thể "chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc nhà ăn nên làm nổi,
những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì..." Đọc câu văn này, chúng ta có cảm giác
như trái tim người mẹ khốn khổ đang rung lên đau đớn, xót xa. Cảm xúc của người mẹ già chất chứa
sự so sáng con người và con mình trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng. Sự so sánh ấy không chỉ làm nổi
bật sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình mà còn là lời tự trách bản thân, sự day dứt trong lòng bà,
điều đó thể hiện lòng nhân ái thương con tha thiết.
Cảm xúc xót thương của bà còn thể hiện qua sự lo lắng "biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này không". Có lẽ vừa tủi phận mình, vừa thương con khiến cho "trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà rỉ xuống hau dòng nước mắt". Bà cố kìm nén xúc động, cố nuốt những giọt nước mắt
mặn đắng vào trong lòng vốn đã chất chứa đầy sự đau khổ,tủi nhục. Những giọt nước mắt cứ lặng lẽ rỉ
ra từ đôi mắt khô cằn ấy.
Diễn biến câu chuyện được đẩy lên đỉnh điểm, cả ba nhân vật được Kim Lân khắc hoạ đều có tâm
trạng căng thẳng, Tràng và người "vợ nhặt" hồi hộp chờ đợi người mẹ lên tiếng, như hiểu ra câu
chuyện, sự đau buồn khiến cho bà lão khẽ "thở dài", bà muốn giấu đi nỗi buồn, nỗi đau đáu trong
lòng để hướng tới người đàn bà lạ ấy. Bà "đăm đăm nhìn người đàn bà" khi thị "cúi mặt xuống tay
vân vê tà áo đã rách bợt". Bà lão không chỉ nhìn người con dâu bằng mắt mà bằng cả tấm lòng của bà.
Bà nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình
mới có vợ được..." Trong suy nghĩ của người mẹ ấy, Thị chính là người mang ơn và con tra bà chính là
người chịu ơn. Điều đó chứng tỏ bà không hề coi thường khinh bỉ người vợ nhặt mà còn cảm thông
trân trọng dù cho Thị có là người đàn bà rách rưới, nghèo đói và không gia đình. Bà lão lại tiếp tục day
dứt "chẳng lo lắng được cho con..." Bà phó thác, chông chờ vào sự may rủi "may ra mà qua khỏi được
cái đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ông giời bắt chết cũng phả chịu
chứ biết làm thế nào lo cho hết được. Hoàn cảnh thật bi đát khốn cùng, mặc dù lo lắng, đau buồn
những người mẹ già đã ấm thầm chấp nhận nàng dâu mới. Sau khi "khẽ dặng hắng một tiếng", bà lão
"nhẹ nhàng" nói "Ừ thì thôi các con phảu duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...". Hai tiếng
"mừng lòng" mà bà lão nói với các con thật chân thật, chất phác, chân tình biết bao, lời nói ấy thật xúc
động đối với người "vợ nhặt" đáng thương kia.
Bà mẹ nghèo khổ nhân hậu thấu hiểu hoàn cảnh và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ bất đắc dĩ trở
thành con dâu của mình. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm diễn tả tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ
Tứ. Cảm xúc như những đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ nghèo khổ, những cảm xúc ấy khiến
người đọc xót xa với tình thương con, ý thức trách nhiệm của người mẹ khiến cho bà con phải lo cưới
vợ cho con bằng tất cả khả năng.
Bà cụ tâm sự, dặn dò các con mình "nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm
ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá....biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi
con cái chúng mày về sau". Trong lời tâm sự của bà có những lời thành thật "nhà ta thì nghèo", vì vậy
bà nhắc nhở các con của mình bảo ban nhau làm ăn, lời động viên của bà thể hiện sự lạc quan vào
tương lai tươi sáng của các con bà cũng như cuộc đời bà, từ nay trong nhà đã có nàng dâu mới, chia
sẻ gánh nặng với bà, đó là lời động viên đáng quý giúp các con bà vượt qua giai đoạn khó khăn.
Tâm trạng của bà buồn vui xen lẫn, bà vẫn đau đáu cái nghèo đeo bám "đăm đăm nhìn ra ngoài . Bóng
tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mòi đống rấm
ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài", cái thở dài ấy
là sự bất lực về thân phận của bà, trong kí ức đau buồn của bà "nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con
gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình". Tất cả như một cuốn phim tấn bi kịch
cuộc đời bà, bà lo sợ tương lai của các con có giống như cuộc đời bà "vợ chồng chúng nó lấy nhau,
cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?". Dù tâm trạng đầy bất an, nhưng bà vẫn niềm
nở đối với người con dâu của mình "con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân", câu nói ấy
đã rút ngắn khoảng cách giữa mẹ chồng- nàng dâu, an ủi nàng dâu mới. Lời nói của bà là sự thương
xót với con dâu mình "bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ đã là con dâu trong
nhà rồi". Bằng những lời nói thân mật, bà tâm sự "kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng
nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi lúc này. Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u
mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...".Bà cụ hiểu rằng khi
cưới xin cho con cần phải làm vài ba mâm cỗ trước hết là báo cáo với ông bà tổ tiên, sau là ra mắt
bà con xóm làng, bà cũng hiểu trong hoàn cảnh đói kém này chẳng ai chấp nhặt, tính toán. Nói tới đây
bà cụ "nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy ròng ròng, những giọt nước mắt ấy là tấm
lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo.
Nếu như chiều hôm trước tâm trạng cả bà cụ hỗn độn xen lẫn lo âu thì sáng hôm sau tâm trạng bà
tràn ngập niềm vui. Niềm vui ấy được thể hiện trên khuôn mặt của người mẹ rõ ràng "bà nhẹ nhõm,
tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên", "xăm xắn thu dọn, quét
tước nhà cửa" với ý nghĩ "thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm
ăn có cơ khấm khá hơn". Bà vui mừng vì con trai bà đã yên bề gia thất, gia đình bà có thêm thành viên
mới. Bữa ăn đầu tiên khi nhà có dâu mới chỉ vỏn vẹn "rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo"
nhưng "toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này". Những câu chuyện ấy không có chuyện
quá khứ mà chỉ có những câu chuyện về tương lai tốt đẹp sau này, câu chuyện thật giản dị "Tràng ạ,
khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này
ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà con mà xem..." Chính câu chuyện đó đã làm cho
không khí đầm ấm hơn, nhưng cái nghèo thì vẫn đeo bám họ "câu chuyện trong bữa ăn bỗng ngừng
lại. Liêu cháo lõng bõng mỗi người được có lưng hai bát đã hết nhẵn". Thế nhưng bà lão "lật đật chạy
xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút" bà lão với giọng dí dỏm "chè khoán đây,
ngon đáo để cơ". Bà lão muốn xua đi không khí ảm đạm, lạc quan giữa tình cảnh khốn khó, nhưng bên
trong tâm hồn người mẹ ấy, là những nỗi lo âu. Món ăn đặc biệt ngày đón nàng dâu là "chè khoán" và
khẳng định "xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Chi tiết này khiến người đọc cảm nhận được
tình thương, tấm lòng đáng quý của bà, kết đoạn là giọt nước mắt của người mẹ già, nhưng "không
dám để con dâu nhìn thấy bà khóc".
Nhà văn Kim Lân đã diễn tả sâu sắc và tinh tế tâm lí bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ nhưng tình
yêu con vô bờ bến. Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối của hiện tại cũng như cuộc đời bà mà hướng
tới tương lai tươi sáng của các con. Trong văn học Việt Nam hình ảnh người mẹ luôn hiện lên với lòng
bao dung, vị tha giàu đức hi sinh. Qua truyện ngắn "Vợ nhặt" nhà văn đã tạo dựng lên một hình ảnh
về người mẹ nghèo khổ, hết lòng vì con, với ngòi bút tinh tế đã lột tả được diễn biến tâm lí của bà cụ
qua từng lời nói, suy nghĩ, hành động. Phải là người có tấm lòng nhân hậu, sự thấu đời mới có cái
nhìn chân thực như thế.
"Vợ nhặt" không chỉ đơn giản là những trang văn mà chính là những mảnh đời khổ cực, nghèo khổ.
Nhưng trong cái nghèo khổ ấy, họ vẫn toát lên nhân cách cao quý. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến chúng ta
cảm động sâu sắc trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ già, bà chính là ánh sáng trong đường
hầm tố tăm của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm làm cho giá trị nhân
đạo của tác phẩm trở lên cảm động, đọng lại trong lòng người đọc những suy nghĩ và rung động.