Phân tích nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam
Cao chọn lọc hay nhất
1. Gợi ý dàn bài phân tích nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam
Cao
a. Mở Bài
- Tình huống bi kịch trong vở kịch "Đời thừa" được khắc họa qua nhân vật Hộ,
không chỉ sự bi kịch trong việc chịu đựng gánh nặng cuộc sống, còn
những đau đớn của một nghệ khi phải bước lên những nguyên tắc đạo đức
tình yêu vốn do chính mình thiết lập.
b. Thân Bài
- Giới thiệu về nhân vật Hộ:
+ Hộ một nhà văn nghèo khát vọng ước lớn.
+ Bị ràng buộc bởi gia đình, buộc lòng từ bỏ ước mơ của mình.
+ Sự xung đột giữa ước hoàn cảnh đã đẩy Hộ o thế "đời thừa".
- Bi kịch của một người trí thức:
+ Hộ đam với việc viết văn, muốn đóng góp cho hội.
+ Bắt buộc phải viết để kiếm sống.
- Bi kịch của một người cha, người chồng:
+ Hộ cống hiến cho gia đình, yêu thương vợ con.
+ Cơn khó khăn của cuộc sống ép buộc Hộ phải đánh đổi từ bỏ ước
nghệ thuật.
- Sự đau khổ của nhân vật Hộ:
+ Sống không thể cảm nhận sự sống.
+ Tồn tại không mang ý nghĩa, không để lại dấu ấn.
c. Kết Bài
Nhận thức về bi kịch tinh thần của những nhà tri thức trước Cách mạng tháng
Tám: Tác phẩm "Đời thừa" của Nam Cao đã thật sự vẽ nên một bức tranh
đầy đủ về bi kịch trong cuộc sống của nhà n Hộ. Đồng thời, giúp người
đọc hiểu quan điểm cao quý của nghệ thuật văn chương, cũng như những
giá trị nhân đạo sâu sắc vượt qua thời gian vẫn còn giữ nguyên g trị
quan trọng.
2. Phân tích nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam Cao chọn lọc
hay nhất
nhận định cho rằng "Tất cả những gia đình hạnh phúc đều giống nhau,
nhưng những gia đình bất hạnh lại đau khổ mỗi kiểu riêng trong nỗi đau
chung của cuộc sống." Điều này nhất được thể hiện dưới sự tăm tối của
hội quá khứ, khi mỗi con người đều đối mặt với số phận nỗi đau riêng của
mình. Mỗi tác phẩm văn học cũng bắt nguồn từ cuộc sống. Thực tế, hầu hết
các tác phẩm văn chương lâu đời trong hội những tác phẩm viết về
nỗi đau của con người. thể rằng sự nghiền ngẫm về nỗi đau ấy một sự
thèm khát những giá trị cao đẹp. thể nhà văn muốn cùng mọi người trên
hành trình đến một tương lai hạnh phúc toàn vẹn. Nam Cao một trong
những nhà văn mang tâm huyết như vậy. Điều này được thể hiện qua nhiều
tác phẩm nhân vật ông xây dựng, nhất nhân vật Hộ trong truyện ngắn
"Đời thừa".
Trong dòng văn học hiện thực phê phán, Nam Cao được biết đến một vị
đại biểu xuất sắc đóng góp quan trọng cho sự phát triển của thời kỳ này,
không chỉ riêng về n học còn về văn hóa quốc gia. Nam Cao, một tri
thức từ gia đình nông thôn nghèo khó, bị đẩy vào cuộc sống khắc nghiệt
sự thất nghiệp ngay từ khi mới bước chân vào đời. vậy, bên cạnh nh ảnh
người nông dân, n văn cũng thường miêu tả những nhà văn những
người trí thức tầng lớp nhỏ, n những nhà văn, nhà giáo khổ cực... "Đời
thừa" một truyện ngắn tả chủ đề đó. Qua nhân vật Hộ, một người t
thức nghèo trong hội cũ, với ước tưởng, luôn khao khát những
giá trị cao đẹp trong cuộc sống, nhưng cuối cùng lại bị cuốn vào vòng xoáy
của tiền bạc sống trong một trạng thái nghĩa, ích, "đời thừa". Ngoài
ra, trong trạng thái đau khổ, tuyệt vọng sự rối ren, người trí thức vượt qua
giới hạn của tình yêu lòng nhân ái chính mình đã đặt ra.
Hộ, một nhà văn trí thức, nhận thức sâu sắc về cuộc sống khao khát
xác định nâng cao ý nghĩa cuộc sống thông qua sự nghiệp văn chương
đáng kính được công nhận bởi mọi người. Anh ta những phẩm chất tuyệt
vời của một nhà văn chân chính. Điều đó được thể hiện trước hết qua đam
mãnh liệt của anh ta dành cho văn chương. Với Hộ, "nghệ thuật tất cả,
không đáng quan tâm hơn ngoài nghệ thuật", với anh ta, văn chương
mang đến cho con người niềm vui thẩm mỹ tinh khiết, kỳ diệu không một
niềm vui vật chất nào thể sánh bằng. Mặc anh không mong tìm thấy
đồng cảm từ "Từ" (vợ), nhưng c H không thể kiềm chế được sự phấn
khích tiết lộ với vợ mình n một cách để thể hiện đam mê của mình: "Tôi
văn quá, nên mới khổ... khi được đọc một đoạn văn như thế này hiểu
hết những điều tốt đẹp, thì dầu ăn một món ngon đến đâu cũng không thể so
sánh". Hộ viết văn với tất cả sức mạnh tưởng "khát khao không ngừng
ý nghĩa đối với chàng trai trẻ say tưởng... anh muốn phát triển tài
năng của mình cho đến khi nó cống hiến tràn đầy". Trong Hộ, luôn những
ước mơ, khao khát hoài bão về văn chương, anh ta coi văn chương như
lẽ sống, tưởng của cuộc sống của mình. Đó khát khao về một sự
nghiệp văn chương giá trị cụ thể hơn, mục tiêu cả cuộc đời Hộ khao
khát một tác phẩm đại, một tác phẩm khi ra đời "sẽ làm lu mờ tất cả các
tác phẩm khác cùng thời... một tác phẩm giá trị phải vượt lên trên mọi ranh
giới giới hạn". thể thấy niềm đam hoài bão của Hộ là được trải
nghiệm sáng tạo nghệ thuật, được thừa nhận sự nghiệp sáng tạo đó.
Khao khát danh vọng đạt được bằng một tác phẩm "đoạt giải Nobel được
dịch sang tất cả các ngôn ngữ trên toàn cầu" không nghĩa Hộ một
người hám danh vọng bình thường. Khao khát y chỉ là biểu hiện cao nhất
của một nhân nhận thức sâu sắc, không chấp nhận một cuộc sống tẻ
nhạt, danh nghĩa. Hộ muốn nâng cao giá trị cuộc sống của mình
thông qua những tác phẩm văn chương giá trị được mọi người công nhận.
sự công nhận đó cũng đồng thời khẳng định sự tuyệt vời của nhà n.
Cuối cùng, Hộ cũng một nhà văn lương tri trong nghề. Anh ta cho rằng
"Sự cẩu thả trong bất kỳ nghề nghiệp o cũng thiếu đạo đức. Nhưng sự
cẩu thả trong văn chương thì thật đáng khinh". ng quan niệm đó,
trước khi lập gia đình, Hộ đã viết với sự cẩn thận, cuộc sống của anh chỉ
phụ thuộc vào ít tiền thù lao từ nghề văn cách viết ấy làm cuộc sống của
anh trở nên hẹp hòi đầy gian khổ. Hộ đặc biệt coi trọng những phẩm chất
đặc trưng của văn chương, đó sáng tạo: "Văn chương không cần... ai cũng
đã có". Với quan niệm tiến bộ về văn chương, Hộ đã thể hiện bản sắc cao
quý của một nghệ khao khát sáng tạo, khao khát xây dựng một sự nghiệp
văn chương giá trị.
Tất cả những phẩm chất đẹp hoài bão cao cả của Hộ, một nhà văn chân
chính, đã tan thành mây khói bị huỷ hoại khi đối mặt với thực tế khắc
nghiệt của cuộc sống. Hộ từng khinh miệt những lo lắng về vật chất, không
quan tâm đến sự cố cực hay đau khổ, đối với anh, nghệ thuật tất cả. Tuy
nhiên, kể từ khi gia đình phải nuôi, Hộ đã hiểu giá trị của tiền bạc, hiểu
những khó khăn khi nhìn thấy vợ con đói rách. Anh đã phải đặt cả sức lực
vào viết văn để kiếm sống cho gia đình. Nhưng điều đó đã thay đổi mục đích
của văn chương, biến nó thành một công cụ bình thường để kiếm tiền. Hộ đã
hoàn toàn trái với tưởng nghệ thuật, ng tưởng của chính mình.
Nghệ thuật của Hộ không còn tạo ra những tác phẩm giá trị để thỏa mãn
tinh thần của con người, chỉ để kiếm được nhiều tiền nhất, nhanh nhất,
nhằm trang trải chi phí nhà cửa, chi phí hàng ngày như giặt đồ, thuốc men
nước mắm. qua đó, Hộ dần dần sẽ mất đi bản chất nghệ trong văn
chương.
Người viết thận trọng trước đây giờ đây phải in nhiều cuốn sách viết vội vàng,
điều đó đồng nghĩa với việc viết cẩu th Hộ coi đáng khinh. Khao khát
một c phẩm vượt trội, một tác phẩm đoạt giải Nobel được dịch ra mọi
ngôn ngữ trên thế giới, giờ đây Hộ phải viết những bài báo người đọc
quên ngay sau khi đọc, những cuốn sách, đoạn văn khiến chính Hộ phải cảm
thấy thất vọng tức giận đến mức phải nghiến răng chửi mình kẻ tầm
thường. Bây giờ, Hộ phải viết những nội dung nhạt nhẽo, vị, gợi những
tình cảm hời hợt, nhẹ nhàng, diễn tả những ý tưởng thông thường, làm mất đi
tầm quan trọng cứu cánh của văn chương. Hộ không đem đến cái mới mẻ
cho văn chương, điều đó ng nghĩa đối với văn chương, Hộ trở thành
một người ích, một nhân thừa thãi. Thêm nữa, với việc ngày càng
nhiều con, mỗi đứa đều mắc các bệnh tật yếu đuối, Hộ phải viết nhanh
hơn, bởi "sự sống không đùa giỡn với những tác phẩm thơ". Đây bi kịch
của một người không chấp nhận sự tha hóa, người nhìn thấy ràng rằng
đang mất đi chính mình không thể cứu vãn, đó bi kịch của một tri thức
nhận thức sâu sắc về giá tr cuộc sống qua một sự nghiệp lớn lao, ý
nghĩa nhưng phải chấp nhận cuộc sống không đáng tồn tại.
Nam Cao đã truyền tải một cách chân thực tâm trạng của Hộ trong bi kịch văn
chương, mang trong đó những trải nghiệm đắng cay của những n trí thức
nghèo trong hội . Tác phẩm không chỉ thể hiện một tưởng nhân đạo
sâu sắc qua sự thương cảm trân trọng tình yêu, còn đưa ra những
tuyên ngôn tiến bộ về sáng tạo văn chương sứ mệnh của người nghệ sĩ.
Đồng thời, Nam Cao cũng gián tiếp tố cáo một hội thiếu nhân đạo đã đẩy
những nhà trí thức vào đường cùng, chôn vùi những ước hoài bão cao
đẹp của họ.
Từ nỗi đau dai dẳng, từ việc trở thành một người ích, một kẻ thừa trong
văn chương, Hộ rơi vào bi kịch thứ hai, một bi kịch còn đau đớn hơn. Đó bi
kịch của một con người coi tình thương nguyên tắc sống cao nhất, người
đã hy sinh tất cả cho tình thương, nhưng cuối cùng lại vi phạm lẽ sống tình
thương của chính mình. Hộ đã luôn mang trong mình một trái tim nhân hậu,
luôn tôn trọng giá trị cuộc sống tình yêu thương. Ngay từ khi n trẻ, anh
đã thể hiện tấm lòng nhân hậu của mình khi "khép mắt vào nỗi đau của Từ...
với tay mở rộng đón nhận Từ trong khi Từ đau đớn không thể tả. Hộ đã nuôi
dưỡng Từ, nuôi mẹ già của Từ, nuôi con không cha của Từ, nhận Từ làm
vợ". Hộ đã thực hiện những việc đó trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn gian
khổ của mình. Anh từng nghĩ rằng: "Người mạnh không phải người dùng
lợi ích của người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Người mạnh chính người
biết giúp đỡ người khác bằng vai trò của mình". Hộ đã trở thành "người
mạnh" anh một nhà hảo tâm đối với Từ, anh hạnh phúc với hành
động đẹp đó.
Ngay cả khi Hộ bị đè nén bởi cuộc sống khó khăn, anh phải chấp nhận mình
một kẻ ích, một người thừa trong văn chương, trong sự nghiệp anh
tôn trọng đam mê. Tuy nhiên, điều đó chỉ làm tâm hồn nhân hậu
nguyên tắc sống của Hộ trở nên ràng hơn. Nỗi đau trong bi kịch văn
chương làm Hộ trở nên đau khổ bế tắc. Anh thể thoát khỏi bi kịch bằng
cách bỏ qua vợ con, từ b tất cả theo đuổi ước của mình. Thậm chí,
trong tâm trí Hộ, đã lúc anh nghĩ về câu nói mạnh mẽ của một triết gia
phương Tây: "Phải biết xấu xa, biết n nhẫn để sống mạnh mẽ." Triết này
vẻ ủng hộ biện hộ cho Hộ nếu anh tự bỏ qua tình thương để sống
mạnh mẽ, để đạt được danh vọng. Tuy nhiên, Hộ không thể bỏ qua tình
thương tiêu chí xác định con người, thiếu nó, con người chỉ một
sinh vật quái dị. Ngoài ra, nghệ thuật Hộ tôn trọng, khao khát một nghệ
thuật đậm đà giá trị nhân đạo, những tác phẩm "tán dương lòng thương,
tình bác ái sự công bằng. tạo sự gần gũi giữa con người." Nếu Hộ hy
sinh tình thương, anh đã phá hủy nguồn gốc nhân đạo tạo nên giá trị của c
phẩm nh. Các tác phẩm của anh sẽ không ch sản phẩm của kẻ ác, kẻ
tàn nhẫn còn sự tồn tại của sự gi dối. Đó do khiến Hộ chấp nhận
hi sinh nghệ thuật để giữ lại tình thương, mặc sự hy sinh này rất đau đớn.
Tuy nhiên, bi kịch đã xảy ra với Hộ. Giá phải trả cho nh thương của Hộ sự
phá hủy hoàn toàn những tưởng, hoài bão ước mơ, việc từ bỏ tri thức
sự nghiệp, sự chấp nhận viết một cách tùy tiện, nhạt nhẽo Hộ vẫn
không thể chấp nhận đã trải qua bao thời gian. Chính vậy, Hộ cảm thấy
u uất buồn . Trong những lúc tuyệt vọng, Hộ dựa vào một hy vọng rằng
anh thể tạm chấp nhận sự hy sinh trong vài năm, đợi đến khi "Từ một
số vốn để kinh doanh", sau đó anh sẽ trở lại với hoài bão lớn trong sự nghiệp.
Tuy nhiên, cuộc sống ngày càng trở nên khó khăn, những bận rộn nhỏ nhặt
nghĩa đã chiếm một phần lớn thời gian của Hộ, đẩy anh vào vòng xoáy
của cuộc sống đ kiếm sống. Nỗi đau đã khiến Hộ tìm đến rượu để giải tỏa,
gặp bạn để nói chuyện văn chương, nhưng đó chỉ những ý tưởng không
bao giờ thể thực hiện. Những giấc mơ văn chương xa xôi ng với hình
ảnh "một con người đáng yêu không phải chính mình nữa" mang đến cho
Hộ sự nhớ nhung, tiếc nuối thậm chí sự oán trách. lúc khi đang ngồi,
Hộ "bỗng dưng đứng lên, mắt đầy nước, mặt u uất, đi ra phố vừa đi vừa nuốt
nước mắt" như cố gắng nuốt trôi những nỗi đau oán trách không biết
tìm ai để trút. ợu làm cho Hộ cảm nhận được nỗi đau chát chua của mình
khiến anh mất đi sự tỉnh táo, Hộ trút nỗi oán hận lên đầu vợ con, những
người mà trong những lúc tức giận, anh coi nguồn gốc trực tiếp gây ra bi
kịch cho mình. Khi say "Hộ nói lời chửi vợ, mắt đầy ánh giận dữ" thời
điểm anh thậm chí đánh Từ, đuổi Từ con trai ra khỏi nhà. Bởi đau khổ
của mình, Hộ đã gây ra đau khổ cho những người anh yêu thương thông
qua những hành động thô lỗ, bạo lực của mình.
Khi tỉnh dậy sau cơn say rượu, Hộ đã trải qua bi kịch thứ hai trong cuộc đời
mình một cách đau đớn. Một người đã coi tình thương nguyên tắc sống đã
vi phạm nguyên tắc đó, xem thường tình thương coi làm tiêu chí làm
người. Anh đau xót cho người vợ đã chịu đựng khổ cực suốt đời, một người
vợ vừa hiền lành, vừa vâng lời, vừa dành trọn tâm hồn cho chồng con. Hộ
cảm thấy hối hận đau đớn khi nhìn thấy người vợ với khuôn mặt mệt mỏi,
đôi mắt thâm quầng, đôi bàn tay như xanh trong xanh, yếu đuối cho đến
từng xương tủy. Hộ đã hy sinh tương lai nghề nghiệp của mình để đổi lấy một
cuộc sống đầy ý nghĩa, nhưng anh đã không thể giữ được nó. Hộ ôm lấy Từ
khóc, tự nhận mình kẻ khốn nạn, tự cảm thấy mình đã bị hủy hoại,
nhưng Từ phủ định rằng Hộ chỉ nạn nhân. Như vậy, con người Hộ đang bị
lẻ, bị giam cầm trong tâm can, đau khổ hối hận lầm lỗi, đau đớn trong
những lời trách móc không nguôi của bản thân.
Nếu trong bi kịch văn chương, Hộ đau đớn không th sống ý nghĩa
cách của một nhà văn, thì trong bi kịch tình thương, Hộ đau đớn không
thể sống đúng với cách một con người. Nỗi đau của H vừa bi kịch đáng
thương sự bất lực trước những nguyện vọng bình thường, chính đáng,
đồng thời ng là bi kịch quan trọng Hộ vẫn giữ được bản chất nhân đạo
khi không chấp nhận sự tàn nhẫn, không ngừng đau đớn sự tàn nhẫn của
mình. Qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã mạnh mẽ lên án hội đòi hỏi quyền
sống, quyền sáng tạo cho người trí thức tiểu sản, vốn một phần không
thể thiếu của Nam Cao.
Bằng cách vẽ nét nhân vật Hộ với những bi kịch dai dẳng đau đớn, Nam
Cao đã đưa người đọc vào thế giới những nỗi đau về nghề nghiệp lương
tâm. Các nhà tri thức trong hội đang bị lẻ, đang trải qua đau khổ cả
về thể xác lẫn tinh thần. Sự đồng cảm với cuộc sống "thừa thãi" của H cũng
như của những người tri thức khác trong hội, lòng nhân đạo của Nam Cao
trở nên sâu sắc hơn, ý nghĩa hơn, đó cũng do tại sao mỗi tác phẩm
ông sáng c những trang viết bất tử, ghi lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng
độc giả, cả trong hiện tại lẫn trong tương lai.
3. Một số lưu ý khi phân tích nhân vật Hộ trong Đời thừa của
Nam Cao
Nhân vật Hộ trong tiểu thuyết "Đời thừa" của Nam Cao một nhân vật trung
tâm mang tính biểu tượng, đại diện cho nhóm người tri thức trong hội
cũ. Phân tích nhân vật Hộ đòi hỏi sự tập trung o các khía cạnh sau đây:
- Tình yêu đau khổ: Hộ là một người đàn ông tài năng, nhưng ông đau khổ
không thể sống theo đúng giá trị nhân đạo tình yêu trong một hội vụn
vặt tình. Hộ đau đớn sự bất lực trước những nguyện vọng thông
thường khao khát một cuộc sống ý nghĩa.
- Sự hy sinh tàn phá: Hộ đã hy sinh tương lai nghề nghiệp để đổi lấy một
cuộc sống nhân văn hơn, nhưng ông lại bị mất đi tất cả những điều đó. Sự hy
sinh của Hộ đem lại cho ông một trái tim đau khổ lương tâm phân vân,
đồng thời phản ánh sự tàn phá của hội đối với những người tri thức.
- Sự mâu thuẫn giằng xé: H sống trong sự mâu thuẫn giữa tình yêu
đau khổ, giữa quyền sống quyền sáng tạo. Ông đối mặt với giằng tinh
thần tâm can, không biết làm thế nào để sống đúng với lương tâm của
mình trong một hội bất công tàn nhẫn.
- Sự th hiện của người tri thức: Hộ đại diện cho nhóm người tri thức tiểu
sản, những người kiến thức tầm nhìn rộng lớn. Qua nhân vật này,
Nam Cao thể hiện sự tàn phá khốn cảnh của những người tri thức trong
hội cũ, cũng như lên án sự tình bất công trong hội.
- Ý nghĩa trong cách của nhà n: Hộ cũng ý nghĩa n một biểu tượng
của nhà văn, mang trong mình sự đau khổ hy sinh đ thể hiện những giá
trị nhân văn khát vọng sáng tạo của mình. Sự khắc họa của Hộ lời kêu
gọi của Nam Cao, đòi quyền sống sáng tạo cho những con người tri thức
trong hội.
Khi phân tích nhân vật Hộ trong tiểu thuyết "Đời thừa" của Nam Cao, cần lưu
ý sự phân tích sâu sắc tinh tế về nhân vật, cùng với việc liên kết nhân vật
với bối cảnh hội thông điệp tác giả muốn truyền đạt.

Preview text:

Phân tích nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam Cao chọn lọc hay nhất
1. Gợi ý dàn bài phân tích nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam
Cao a. Mở Bài
- Tình huống bi kịch trong vở kịch "Đời thừa" được khắc họa qua nhân vật Hộ,
không chỉ là sự bi kịch trong việc chịu đựng gánh nặng cuộc sống, mà còn là
những đau đớn của một nghệ sĩ khi phải bước lên những nguyên tắc đạo đức
và tình yêu vốn dĩ do chính mình thiết lập. b. Thân Bài
- Giới thiệu về nhân vật Hộ:
+ Hộ là một nhà văn nghèo có khát vọng và ước mơ lớn.
+ Bị ràng buộc bởi gia đình, buộc lòng từ bỏ ước mơ của mình.
+ Sự xung đột giữa ước mơ và hoàn cảnh đã đẩy Hộ vào thế "đời thừa".
- Bi kịch của một người trí thức:
+ Hộ đam mê với việc viết văn, vì muốn đóng góp cho xã hội.
+ Bắt buộc phải viết để kiếm sống.
- Bi kịch của một người cha, người chồng:
+ Hộ cống hiến cho gia đình, yêu thương vợ con.
+ Cơn khó khăn của cuộc sống ép buộc Hộ phải đánh đổi và từ bỏ ước mơ nghệ thuật.
- Sự đau khổ của nhân vật Hộ:
+ Sống mà không thể cảm nhận sự sống.
+ Tồn tại mà không mang ý nghĩa, không để lại dấu ấn. c. Kết Bài
Nhận thức về bi kịch tinh thần của những nhà tri thức trước Cách mạng tháng
Tám: Tác phẩm "Đời thừa" của Nam Cao đã thật sự vẽ nên một bức tranh
đầy đủ về bi kịch trong cuộc sống của nhà văn Hộ. Đồng thời, nó giúp người
đọc hiểu rõ quan điểm cao quý của nghệ thuật văn chương, cũng như những
giá trị nhân đạo sâu sắc mà vượt qua thời gian vẫn còn giữ nguyên giá trị quan trọng.
2. Phân tích nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam Cao chọn lọc hay nhất
Có nhận định cho rằng "Tất cả những gia đình hạnh phúc đều giống nhau,
nhưng những gia đình bất hạnh lại đau khổ mỗi kiểu riêng trong nỗi đau
chung của cuộc sống." Điều này rõ nhất được thể hiện dưới sự tăm tối của xã
hội quá khứ, khi mỗi con người đều đối mặt với số phận và nỗi đau riêng của
mình. Mỗi tác phẩm văn học cũng bắt nguồn từ cuộc sống. Thực tế, hầu hết
các tác phẩm văn chương lâu đời trong xã hội cũ là những tác phẩm viết về
nỗi đau của con người. Có thể rằng sự nghiền ngẫm về nỗi đau ấy là một sự
thèm khát những giá trị cao đẹp. Có thể nhà văn muốn cùng mọi người trên
hành trình đến một tương lai hạnh phúc và toàn vẹn. Nam Cao là một trong
những nhà văn mang tâm huyết như vậy. Điều này được thể hiện qua nhiều
tác phẩm và nhân vật ông xây dựng, nhất là nhân vật Hộ trong truyện ngắn "Đời thừa".
Trong dòng văn học hiện thực phê phán, Nam Cao được biết đến là một vị
đại biểu xuất sắc có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của thời kỳ này,
không chỉ riêng về văn học mà còn về văn hóa quốc gia. Nam Cao, một tri
thức từ gia đình nông thôn nghèo khó, bị đẩy vào cuộc sống khắc nghiệt và
sự thất nghiệp ngay từ khi mới bước chân vào đời. Vì vậy, bên cạnh hình ảnh
người nông dân, nhà văn cũng thường miêu tả những nhà văn và những
người trí thức tầng lớp nhỏ, như những nhà văn, nhà giáo khổ cực... "Đời
thừa" là một truyện ngắn mô tả chủ đề đó. Qua nhân vật Hộ, một người trí
thức nghèo trong xã hội cũ, với ước mơ và lý tưởng, luôn khao khát những
giá trị cao đẹp trong cuộc sống, nhưng cuối cùng lại bị cuốn vào vòng xoáy
của tiền bạc và sống trong một trạng thái vô nghĩa, vô ích, "đời thừa". Ngoài
ra, trong trạng thái đau khổ, tuyệt vọng và sự rối ren, người trí thức vượt qua
giới hạn của tình yêu và lòng nhân ái mà chính mình đã đặt ra.
Hộ, một nhà văn trí thức, có nhận thức sâu sắc về cuộc sống và khao khát
xác định và nâng cao ý nghĩa cuộc sống thông qua sự nghiệp văn chương
đáng kính được công nhận bởi mọi người. Anh ta có những phẩm chất tuyệt
vời của một nhà văn chân chính. Điều đó được thể hiện trước hết qua đam
mê mãnh liệt của anh ta dành cho văn chương. Với Hộ, "nghệ thuật là tất cả,
không có gì đáng quan tâm hơn ngoài nghệ thuật", vì với anh ta, văn chương
mang đến cho con người niềm vui thẩm mỹ tinh khiết, kỳ diệu mà không một
niềm vui vật chất nào có thể sánh bằng. Mặc dù anh không mong tìm thấy
đồng cảm từ "Từ" (vợ), nhưng có lúc Hộ không thể kiềm chế được sự phấn
khích và tiết lộ với vợ mình như một cách để thể hiện đam mê của mình: "Tôi
mê văn quá, nên mới khổ... khi được đọc một đoạn văn như thế này và hiểu
hết những điều tốt đẹp, thì dầu ăn một món ngon đến đâu cũng không thể so
sánh". Hộ viết văn với tất cả sức mạnh và lý tưởng "khát khao không ngừng
có ý nghĩa đối với chàng trai trẻ say mê lý tưởng... anh muốn phát triển tài
năng của mình cho đến khi nó cống hiến tràn đầy". Trong Hộ, luôn có những
ước mơ, khao khát và hoài bão về văn chương, anh ta coi văn chương như là
lẽ sống, là lí tưởng của cuộc sống của mình. Đó là khát khao về một sự
nghiệp văn chương có giá trị và cụ thể hơn, mục tiêu mà cả cuộc đời Hộ khao
khát là một tác phẩm vĩ đại, một tác phẩm khi ra đời "sẽ làm lu mờ tất cả các
tác phẩm khác cùng thời... một tác phẩm có giá trị phải vượt lên trên mọi ranh
giới và giới hạn". Có thể thấy niềm đam mê và hoài bão của Hộ là được trải
nghiệm và sáng tạo nghệ thuật, được thừa nhận vì sự nghiệp sáng tạo đó.
Khao khát danh vọng đạt được bằng một tác phẩm "đoạt giải Nobel và được
dịch sang tất cả các ngôn ngữ trên toàn cầu" không có nghĩa là Hộ là một
người hám danh vọng bình thường. Khao khát ấy chỉ là biểu hiện cao nhất
của một cá nhân có nhận thức sâu sắc, không chấp nhận một cuộc sống tẻ
nhạt, vô danh và vô nghĩa. Hộ muốn nâng cao giá trị cuộc sống của mình
thông qua những tác phẩm văn chương có giá trị được mọi người công nhận.
Và sự công nhận đó cũng đồng thời khẳng định sự tuyệt vời của nhà văn.
Cuối cùng, Hộ cũng là một nhà văn có lương tri trong nghề. Anh ta cho rằng
"Sự cẩu thả trong bất kỳ nghề nghiệp nào cũng là thiếu đạo đức. Nhưng sự
cẩu thả trong văn chương thì thật là đáng khinh". Cũng vì quan niệm đó,
trước khi lập gia đình, Hộ đã viết với sự cẩn thận, dù cuộc sống của anh chỉ
phụ thuộc vào ít tiền thù lao từ nghề văn và cách viết ấy làm cuộc sống của
anh trở nên hẹp hòi và đầy gian khổ. Hộ đặc biệt coi trọng những phẩm chất
đặc trưng của văn chương, đó là sáng tạo: "Văn chương không cần... ai cũng
đã có". Với quan niệm tiến bộ về văn chương, Hộ đã thể hiện bản sắc cao
quý của một nghệ sĩ khao khát sáng tạo, khao khát xây dựng một sự nghiệp văn chương có giá trị.
Tất cả những phẩm chất đẹp và hoài bão cao cả của Hộ, một nhà văn chân
chính, đã tan thành mây khói và bị huỷ hoại khi đối mặt với thực tế khắc
nghiệt của cuộc sống. Hộ từng khinh miệt những lo lắng về vật chất, không
quan tâm đến sự cố cực hay đau khổ, vì đối với anh, nghệ thuật là tất cả. Tuy
nhiên, kể từ khi có gia đình phải nuôi, Hộ đã hiểu giá trị của tiền bạc, hiểu
những khó khăn khi nhìn thấy vợ con đói rách. Anh đã phải đặt cả sức lực
vào viết văn để kiếm sống cho gia đình. Nhưng điều đó đã thay đổi mục đích
của văn chương, biến nó thành một công cụ bình thường để kiếm tiền. Hộ đã
hoàn toàn trái với lý tưởng nghệ thuật, và cũng là lý tưởng của chính mình.
Nghệ thuật của Hộ không còn tạo ra những tác phẩm có giá trị để thỏa mãn
tinh thần của con người, mà chỉ là để kiếm được nhiều tiền nhất, nhanh nhất,
nhằm trang trải chi phí nhà cửa, chi phí hàng ngày như giặt đồ, thuốc men và
nước mắm. Và qua đó, Hộ dần dần sẽ mất đi bản chất nghệ sĩ trong văn chương.
Người viết thận trọng trước đây giờ đây phải in nhiều cuốn sách viết vội vàng,
điều đó đồng nghĩa với việc viết cẩu thả mà Hộ coi là đáng khinh. Khao khát
một tác phẩm vượt trội, một tác phẩm đoạt giải Nobel và được dịch ra mọi
ngôn ngữ trên thế giới, giờ đây Hộ phải viết những bài báo mà người đọc
quên ngay sau khi đọc, những cuốn sách, đoạn văn khiến chính Hộ phải cảm
thấy thất vọng và tức giận đến mức phải nghiến răng và chửi mình là kẻ tầm
thường. Bây giờ, Hộ phải viết những nội dung nhạt nhẽo, vô vị, gợi những
tình cảm hời hợt, nhẹ nhàng, diễn tả những ý tưởng thông thường, làm mất đi
tầm quan trọng và cứu cánh của văn chương. Hộ không đem đến cái mới mẻ
cho văn chương, điều đó cũng có nghĩa là đối với văn chương, Hộ trở thành
một người vô ích, một cá nhân thừa thãi. Thêm nữa, với việc có ngày càng
nhiều con, mỗi đứa đều mắc các bệnh tật và yếu đuối, Hộ phải viết nhanh
hơn, bởi vì "sự sống không đùa giỡn với những tác phẩm thơ". Đây là bi kịch
của một người không chấp nhận sự tha hóa, người nhìn thấy rõ ràng rằng
đang mất đi chính mình mà không thể cứu vãn, đó là bi kịch của một tri thức
có nhận thức sâu sắc về giá trị cuộc sống qua một sự nghiệp lớn lao, có ý
nghĩa nhưng phải chấp nhận cuộc sống không đáng tồn tại.
Nam Cao đã truyền tải một cách chân thực tâm trạng của Hộ trong bi kịch văn
chương, mang trong đó những trải nghiệm đắng cay của những nhà trí thức
nghèo trong xã hội cũ. Tác phẩm không chỉ thể hiện một tư tưởng nhân đạo
sâu sắc qua sự thương cảm và trân trọng tình yêu, mà còn đưa ra những
tuyên ngôn tiến bộ về sáng tạo văn chương và sứ mệnh của người nghệ sĩ.
Đồng thời, Nam Cao cũng gián tiếp tố cáo một xã hội thiếu nhân đạo đã đẩy
những nhà trí thức vào đường cùng, chôn vùi những ước mơ và hoài bão cao đẹp của họ.
Từ nỗi đau dai dẳng, từ việc trở thành một người vô ích, một kẻ thừa trong
văn chương, Hộ rơi vào bi kịch thứ hai, một bi kịch còn đau đớn hơn. Đó là bi
kịch của một con người coi tình thương là nguyên tắc sống cao nhất, người
đã hy sinh tất cả cho tình thương, nhưng cuối cùng lại vi phạm lẽ sống và tình
thương của chính mình. Hộ đã luôn mang trong mình một trái tim nhân hậu,
luôn tôn trọng giá trị cuộc sống và tình yêu thương. Ngay từ khi còn trẻ, anh
đã thể hiện tấm lòng nhân hậu của mình khi "khép mắt vào nỗi đau của Từ...
với tay mở rộng đón nhận Từ trong khi Từ đau đớn không thể tả. Hộ đã nuôi
dưỡng Từ, nuôi mẹ già của Từ, nuôi con không cha của Từ, và nhận Từ làm
vợ". Hộ đã thực hiện những việc đó trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn và gian
khổ của mình. Anh từng nghĩ rằng: "Người mạnh không phải là người dùng
lợi ích của người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Người mạnh chính là người
biết giúp đỡ người khác bằng vai trò của mình". Và Hộ đã trở thành "người
mạnh" vì anh là một nhà hảo tâm đối với Từ, và anh hạnh phúc với hành động đẹp đó.
Ngay cả khi Hộ bị đè nén bởi cuộc sống khó khăn, anh phải chấp nhận mình
là một kẻ vô ích, một người thừa trong văn chương, trong sự nghiệp mà anh
tôn trọng và đam mê. Tuy nhiên, điều đó chỉ làm tâm hồn nhân hậu và
nguyên tắc sống của Hộ trở nên rõ ràng hơn. Nỗi đau trong bi kịch văn
chương làm Hộ trở nên đau khổ và bế tắc. Anh có thể thoát khỏi bi kịch bằng
cách bỏ qua vợ con, từ bỏ tất cả và theo đuổi ước mơ của mình. Thậm chí,
trong tâm trí Hộ, đã có lúc anh nghĩ về câu nói mạnh mẽ của một triết gia
phương Tây: "Phải biết xấu xa, biết tàn nhẫn để sống mạnh mẽ." Triết lý này
có vẻ ủng hộ và biện hộ cho Hộ nếu anh tự bỏ qua tình thương để sống
mạnh mẽ, để đạt được danh vọng. Tuy nhiên, Hộ không thể bỏ qua tình
thương vì nó là tiêu chí xác định con người, và thiếu nó, con người chỉ là một
sinh vật quái dị. Ngoài ra, nghệ thuật mà Hộ tôn trọng, khao khát là một nghệ
thuật đậm đà giá trị nhân đạo, là những tác phẩm "tán dương lòng thương,
tình bác ái và sự công bằng. Nó tạo sự gần gũi giữa con người." Nếu Hộ hy
sinh tình thương, anh đã phá hủy nguồn gốc nhân đạo tạo nên giá trị của tác
phẩm mình. Các tác phẩm của anh sẽ không chỉ là sản phẩm của kẻ ác, kẻ
tàn nhẫn mà còn là sự tồn tại của sự giả dối. Đó là lý do khiến Hộ chấp nhận
hi sinh nghệ thuật để giữ lại tình thương, mặc dù sự hy sinh này rất đau đớn.
Tuy nhiên, bi kịch đã xảy ra với Hộ. Giá phải trả cho tình thương của Hộ là sự
phá hủy hoàn toàn những lý tưởng, hoài bão và ước mơ, là việc từ bỏ tri thức
và sự nghiệp, là sự chấp nhận viết một cách tùy tiện, nhạt nhẽo mà Hộ vẫn
không thể chấp nhận dù đã trải qua bao thời gian. Chính vì vậy, Hộ cảm thấy
u uất và buồn bã. Trong những lúc tuyệt vọng, Hộ dựa vào một hy vọng rằng
anh có thể tạm chấp nhận sự hy sinh trong vài năm, đợi đến khi "Từ có một
số vốn để kinh doanh", sau đó anh sẽ trở lại với hoài bão lớn trong sự nghiệp.
Tuy nhiên, cuộc sống ngày càng trở nên khó khăn, những bận rộn nhỏ nhặt
và vô nghĩa đã chiếm một phần lớn thời gian của Hộ, đẩy anh vào vòng xoáy
của cuộc sống để kiếm sống. Nỗi đau đã khiến Hộ tìm đến rượu để giải tỏa,
gặp bạn bè để nói chuyện văn chương, nhưng đó chỉ là những ý tưởng không
bao giờ có thể thực hiện. Những giấc mơ văn chương xa xôi cùng với hình
ảnh "một con người đáng yêu không phải là chính mình nữa" mang đến cho
Hộ sự nhớ nhung, tiếc nuối và thậm chí là sự oán trách. Có lúc khi đang ngồi,
Hộ "bỗng dưng đứng lên, mắt đầy nước, mặt u uất, đi ra phố vừa đi vừa nuốt
nước mắt" như cố gắng nuốt trôi những nỗi đau và oán trách mà không biết
tìm ai để trút. Rượu làm cho Hộ cảm nhận được nỗi đau chát chua của mình
và khiến anh mất đi sự tỉnh táo, Hộ trút nỗi oán hận lên đầu vợ con, những
người mà trong những lúc tức giận, anh coi là nguồn gốc trực tiếp gây ra bi
kịch cho mình. Khi say "Hộ nói lời chửi vợ, mắt đầy ánh giận dữ" và có thời
điểm anh thậm chí đánh Từ, đuổi Từ và con trai ra khỏi nhà. Bởi vì đau khổ
của mình, Hộ đã gây ra đau khổ cho những người mà anh yêu thương thông
qua những hành động thô lỗ, bạo lực của mình.
Khi tỉnh dậy sau cơn say rượu, Hộ đã trải qua bi kịch thứ hai trong cuộc đời
mình một cách đau đớn. Một người đã coi tình thương là nguyên tắc sống đã
vi phạm nguyên tắc đó, xem thường tình thương và coi nó làm tiêu chí làm
người. Anh đau xót cho người vợ đã chịu đựng khổ cực suốt đời, một người
vợ vừa hiền lành, vừa vâng lời, vừa dành trọn tâm hồn cho chồng và con. Hộ
cảm thấy hối hận và đau đớn khi nhìn thấy người vợ với khuôn mặt mệt mỏi,
đôi mắt thâm quầng, và đôi bàn tay như xanh trong xanh, yếu đuối cho đến
từng xương tủy. Hộ đã hy sinh tương lai nghề nghiệp của mình để đổi lấy một
cuộc sống đầy ý nghĩa, nhưng anh đã không thể giữ được nó. Hộ ôm lấy Từ
và khóc, tự nhận mình là kẻ khốn nạn, tự cảm thấy mình đã bị hủy hoại,
nhưng Từ phủ định rằng Hộ chỉ là nạn nhân. Như vậy, con người Hộ đang bị
xé lẻ, bị giam cầm trong tâm can, đau khổ vì hối hận và lầm lỗi, đau đớn trong
những lời trách móc không nguôi của bản thân.
Nếu trong bi kịch văn chương, Hộ đau đớn vì không thể sống có ý nghĩa và
tư cách của một nhà văn, thì trong bi kịch tình thương, Hộ đau đớn vì không
thể sống đúng với tư cách một con người. Nỗi đau của Hộ vừa là bi kịch đáng
thương vì sự bất lực trước những nguyện vọng bình thường, chính đáng, và
đồng thời cũng là bi kịch quan trọng vì Hộ vẫn giữ được bản chất nhân đạo
khi không chấp nhận sự tàn nhẫn, không ngừng đau đớn vì sự tàn nhẫn của
mình. Qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã mạnh mẽ lên án xã hội và đòi hỏi quyền
sống, quyền sáng tạo cho người trí thức tiểu tư sản, vốn là một phần không thể thiếu của Nam Cao.
Bằng cách vẽ nét nhân vật Hộ với những bi kịch dai dẳng và đau đớn, Nam
Cao đã đưa người đọc vào thế giới những nỗi đau về nghề nghiệp và lương
tâm. Các nhà tri thức trong xã hội cũ đang bị xé lẻ, đang trải qua đau khổ cả
về thể xác lẫn tinh thần. Sự đồng cảm với cuộc sống "thừa thãi" của Hộ cũng
như của những người tri thức khác trong xã hội, lòng nhân đạo của Nam Cao
trở nên sâu sắc hơn, ý nghĩa hơn, và đó cũng là lý do tại sao mỗi tác phẩm
mà ông sáng tác là những trang viết bất tử, ghi lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng
độc giả, cả trong hiện tại lẫn trong tương lai.
3. Một số lưu ý khi phân tích nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam Cao
Nhân vật Hộ trong tiểu thuyết "Đời thừa" của Nam Cao là một nhân vật trung
tâm và mang tính biểu tượng, đại diện cho nhóm người tri thức trong xã hội
cũ. Phân tích nhân vật Hộ đòi hỏi sự tập trung vào các khía cạnh sau đây:
- Tình yêu và đau khổ: Hộ là một người đàn ông tài năng, nhưng ông đau khổ
vì không thể sống theo đúng giá trị nhân đạo và tình yêu trong một xã hội vụn
vặt và vô tình. Hộ đau đớn vì sự bất lực trước những nguyện vọng thông
thường và khao khát có một cuộc sống ý nghĩa.
- Sự hy sinh và tàn phá: Hộ đã hy sinh tương lai nghề nghiệp để đổi lấy một
cuộc sống nhân văn hơn, nhưng ông lại bị mất đi tất cả những điều đó. Sự hy
sinh của Hộ đem lại cho ông một trái tim đau khổ và lương tâm phân vân, và
đồng thời phản ánh sự tàn phá của xã hội đối với những người tri thức.
- Sự mâu thuẫn và giằng xé: Hộ sống trong sự mâu thuẫn giữa tình yêu và
đau khổ, giữa quyền sống và quyền sáng tạo. Ông đối mặt với giằng xé tinh
thần và tâm can, không biết làm thế nào để sống đúng với lương tâm của
mình trong một xã hội bất công và tàn nhẫn.
- Sự thể hiện của người tri thức: Hộ đại diện cho nhóm người tri thức tiểu tư
sản, là những người có kiến thức và tầm nhìn rộng lớn. Qua nhân vật này,
Nam Cao thể hiện sự tàn phá và khốn cảnh của những người tri thức trong
xã hội cũ, cũng như lên án sự vô tình và bất công trong xã hội.
- Ý nghĩa trong tư cách của nhà văn: Hộ cũng có ý nghĩa như một biểu tượng
của nhà văn, mang trong mình sự đau khổ và hy sinh để thể hiện những giá
trị nhân văn và khát vọng sáng tạo của mình. Sự khắc họa của Hộ là lời kêu
gọi của Nam Cao, đòi quyền sống và sáng tạo cho những con người tri thức trong xã hội.
Khi phân tích nhân vật Hộ trong tiểu thuyết "Đời thừa" của Nam Cao, cần lưu
ý sự phân tích sâu sắc và tinh tế về nhân vật, cùng với việc liên kết nhân vật
với bối cảnh xã hội và thông điệp mà tác giả muốn truyền đạt.
Document Outline

  • Phân tích nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam Cao c
    • 1. Gợi ý dàn bài phân tích nhân vật Hộ trong Đời t
    • 2. Phân tích nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam Ca
    • 3. Một số lưu ý khi phân tích nhân vật Hộ trong Đờ