


Preview text:
- VỢ CHỒNG A PHỦ -
PHÂN TÍCH NHÂN VẬT MỊ Mở bài:
Theo Hoàng Trung Thông, Tô Hoài “ say mê cuộc sống của các dân tộc miền núi như say mê chính
cuộc sống của mình”. Quả thật như vậy. Tô Hoài đã thể hiện hứng thú và sở trường của một nhà văn
phong tục khi tái hiện sống động bức tranh thiên nhiên và con người vùng cao. Bằng vốn hiểu biết qua
những chuyến đi thực tế, thâm nhập vào đời sống của các đồng bào dân tộc miền núi. Và bằng tài năng
văn chương xuất chúng, Tô Hoài đã tạo nên những tác phẩm đặc sắc mang đậm màu sắc Tây Bắc mà
tiêu biểu là “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm đã khắc họa hình tượng nhân vật Mị - một cô gái đẹp, một
thiếu nữ Tây Bắc tràn đầy sức sống và cũng là một nạn nhân của chế độ phong kiến, thần quyền, hủ
tục. Từ đó làm bật lên sức sống tiềm tàng của nhân vật. Thân bài:
Hoàn cảnh sáng tác:
Truyện được viết năm 1952, là kết quả của chuyến đi Tô Hoài cùng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc.
Trong chuyến đi dài 8 tháng, nhà văn đã sống với đồng bào các dân tộc Mông, Dao, Thái ,Mường. Qua
truyện ngắn, nhà văn đứng về phía khát vọng hạnh phúc chân chính của con người để lên án cái xã hội
đã giam hãm trói buộc tuổi xuân và sinh lực của con người miền núi đồng thời thể hiện niềm tin vào
sức sống bất diệt của con người.
Câu chuyện về Mị và A Phủ, Mị cô gái xinh đẹp, nết na vì thương cha cô đã chấp nhận gán nợ về làm
dâu nhà thống lí Pá Tra. Nói là làm dâu nhưng Mị rất khổ, làm đủ thứ việc không bằng con trâu, con
ngựa trong nhà. Mị nhớ về thời gian được đi chơi, được tự do như trước kia. A Phủ chàng trai khỏe
mạnh, vì sự bất bình trước A Sử, A Phủ ra tay và bị bắt về nhà thống lí Pá Tra. Cảnh tượng A Phủ bị
đánh đập và tra tấn đã quá quen thuộc với Mị. Mị không còn cảm xúc. Trong một lần để hổ ăn mất bò,
A Phủ bị trừng phạt, chàng bị trói lại còn bị bỏ đói. Mị trong một lần tình cờ đã bắt gặp dòng nước mắt
chảy dài của A Phủ. Mị suy nghĩ về thân phận mình và thương cho người cùng cảnh ngộ của A Phủ. Cô
cắt dây trói giải thoát A Phủ, cả hai sau đó cùng nhau bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Cả hai lặn lội
đến Phiềng Sa và sau đó thành vợ chồng với nhau. Tóm tắt tác phẩm:
Mị là một cô gái có ngoại hình đẹp và nhiều phẩm chất đáng quý. Mị là một cô gái trẻ đẹp, tài hoa
“Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị.Không có tì bà, đàn nguyệt, Mị đã có sáo và vô số lá
rừng để “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo.” Có thể nói, tài năng âm nhạc là biểu
hiện của tâm hồn tròn đầy bởi những tâm hồn phong phú thường ký thác mọi sự rung động của tấm
lòng vào âm điệu. Mị là người con gái có trái tim sôi nổi, thiết tha yêu thương. Cũng như nhiều cô gái
khác, Mị khao khát yêu và đã có người yêu theo sự lựa chọn của trái tim của mình. Đây là yếu tố tiềm
ẩn cho sức mạnh vùng lên ở nhân vật. Mị là người con gái chăm chỉ, hiếu thảo; có cá tính, tính cách
mạnh mẽ, tự chủ.Là con gái đầu lòng, lại còn mồ côi mẹ, trách nhiệm gia đình đè nặng lên vai Mị.
Quan trọng hơn, vì lòng hiếu thảo, Mị sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm ấy: “Con nay đã biết cuốc nương
làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.”. Chữ “bán” vừa
cho thấy nhận thức đúng đắn của Mị, vừa cho thấy lòng tự trọng của cô.Câu nói thể hiện sự hiếu thảo,
tinh thần tự nguyện cố gắng giúp đỡ bố mẹ, đáng quý hơn là dựa vào chính sức lực của mình, bằng sự
lao động chăm chỉ cần cù của mình. Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời
tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào
nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi
sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, yêu thương
cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của
chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.
Bắt đầu phân tích:
Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng
khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết
bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương
cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau
thương của mình. Không chỉ bị cướp đoạt cuộc sống tự do của tuổi trẻ, từ khi về nhà thống lí Pá Tra
sống kiếp con dâu gạt nợ, Mị còn bị đày đoạ trong cuộc sống lao động cực nhọc; bị áp chế về tinh thần,
phải sống một cuộc sống mỏi mòn, tàn lụi. Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh
thần, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua
năm khác chẳng nghỉ ngơi. Là con dâu của một gia đình quyền thế, giàu có nhưng lúc nào cô ấy cũng
“cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Chỉ một nét phác hoạ ngoại hình đã gợi lên nội tâm của nhân vật. Không
phải ngẫu nhiên mà Tô Hoài đã khắc hoạ rất kĩ dáng ngồi của Mị với trạng thái tư thế “cúi mặt, mặt
buồn rười rượi” và ngồi ở vị trí “bên tảng đá, cạnh tàu ngựa”. Mị như một cái máy gắn bó với công
việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là
không tới tay Mị. Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn,
chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc
cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương
hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên
vô cảm. Mị là nạn nhân của hủ tục lạc hậu và cường quyền phong kiến miền núi. Tác giả đã so sánh Mị
với hình ảnh con rùa, con trâu, con ngựa – đó là những con vật gắn liền với thân phận hiện nay của Mị,
cam chịu thân phận tôi tớ và phản ứng bị động tiêu cực trước hoàn cảnh. Từ đó, tác giả đã tố cáo mạnh
mẽ tội ác của nhà thống lí Pá Tra không chỉ chà đạp, đày đoạ con người về thể xác mà còn dùng những
khổ sở ấy để súc vật hoá họ ngay từ trong ý nghĩ.Chân dung Mị chưa hiện ra ngay mà chỉ phảng phất
qua đại từ phiếm chỉ “một cô con gái”, có nét gì đó câm lặng và buồn. “Tảng đá”, “tàu ngựa” được mô
tả gắn với Mị, phải chăng đó cũng chính là sự ẩn dụ cho số phận của Mị: câm lặng, trơ lì như đá, và
cực khổ, tủi phận như chính cảm giác của cô khi tự ví mình với loài vật?
Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi. Khi mới bị bắt về
nhà thống lí: Lòng yêu tự do và ham sống, Mị đã phản kháng khá quyết liệt. “Có đến hàng mấy tháng,
đêm nào Mị cũng khóc.” Không cam chịu, vô cùng đau khổ uất ức. Muốn ăn lá ngón tự tử nhưng vì
thương cha nên đành phải chấp nhận sống trong nhà thống lí, “Mị chỉ bưng mặt khóc, Mị ném lá ngón
xuống đất.” Khát vọng tự do khiến Mị tìm đến cái chết như một sự giải thoát quyết liệt, không sống đời tủi nhục. Đêm tình mùa xuân:
Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi: “Trên đầu
núi, các nương ngô nương lúa đã gặ xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ,
tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa”, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi
đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị
rạo rực sức sống mùa xuân "lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước".Dường như
bao nhân vật trong văn học đã tìm đến rượu, hơi men không làm người ta say, mà ngược lại, khiến
người ta thức tỉnh, nhớ nhiều hơn để rồi sau đó, chính rượu lại làm nên những bước chuyển dữ dội
trong cách suy nghĩ và hành động. Cái cách uống rượu của Mị khiến người đọc phải ngạc nhiên, nhưng
cũng không cảm thấy vô lí. Bởi sau bao tháng ngày đau đớn, tủi nhục, giờ là lúc Mị được sống lại với
chính con người mình. Mị uống như để quên đi cái phần đời cay đắng vừa qua, để sống lại mạnh mẽ
cái phần đời tươi trẻ đã có. Chẳng phải thế mà trong Mị lúc này đang sống lại những kỉ niệm của những
ngày trước – những ngày tươi đẹp, hạnh phúc và đầy kiêu hãnh của tuổi trẻ. Từ niềm rạo rực, phấn
chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu
để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây
quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị "quấn tóc lại với
tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách", Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao
người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy. Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung
sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi
chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái
tóc dài của Mị lên cột. Tiếng sáo “vẫn đang rập rờn trong đầu Mị”, tiếng sáo của ngày xuân xưa tươi
đẹp, người yêu thổi sáo gọi Mị đi chơi Bị A Sử trói, Mị vẫn không hay biết, không phản ứng gì. . Mị
đang đi chơi bằng trí tưởng tượng: “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám
chơi” và “Mị vùng bước đi”. Bị dây trói xiết chặt đau đớn. Mị mới trở lại với hiện tại, và không còn
nghe tiếng sáo nữa mà chỉ nghe tiếng chân ngựa đập vào vách. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành
hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy
trong con người Mị. Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị
xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng
chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau
thương. Dòng nước mắt của A Phủ đã trở thành một tác nhân vô cùng quan trọng vì vô tình nó gợi nhắc
và nối lại dòng nước mắt hồi nào đã rơi xuống của Mị khi cô cũng bị trói đứng. Sợi dây gắn kết vô hình
giữa hai số phận đau khổ, khô cằn vì đớn đau đã được dòng nước mắt này tưới lại rồi từ đó hồi sinh, bắt
đầu nảy nở những mầm xanh đầu tiên của sẻ chia, cảm thông. Nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ,
cảm xúc đã dần sống lại: Mị đồng cảm, thương người, thương mình và căm hận bè lũ thống trị dã man,
độc ác. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo
của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình. Kết bài:
Qua hình tượng nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả thực trạng cuộc sống bị áp bức, đè nén, chà
đạp đến cùng cực, nhàu nát của số phận những con người nhỏ bé nơi miền núi cao Tây Bắc, tố cáo,
vạch trần tội ác của bọn phong kiến nơi ấy đồng thời phát hiện nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người
tập trung ngòi bút ngợi ca sức sống tiềm tàng của họ. Đó cũng chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân
đạo toát lên từ nhân vật trung tâm của thiên truyện hấp dẫn này.
Document Outline
- Mở bài:
- Thân bài:
- Kết bài: