-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ | Văn mẫu lớp 12
Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài gồm 22 bài văn mẫu siêu hay. Qua phân tích Mị các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.
Chủ đề: Văn mẫu 12
479 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 12
809 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Dàn ý Vợ chồng A Phủ nhân vật Mị - Mẫu 1 I. Mở bài
• Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những
vùng miền, ông có vốn ngôn ngữ phong phú, lối trần thuật tự nhiên.
• Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiếu biểu cho phong cách của Tô Hoài,
truyện viết về những con người Tây Bắc tiềm tàng sức sống đã vùng lên đấu
tranh chống lại bọn thống trị.
• Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức. II. Thân bài
1. Mị vốn là cô gái có những phẩm chất tốt đẹp
- Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:
• Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cung hay
như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê”
• Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
• Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm
nương ngô trả nợ thay cho bố.
2. Nạn nhân của những áp bức bất công
• Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con
dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà
trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần
gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, ...
• Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi,
thái cỏ ngựa, ... đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời
gian “lỗ vuông bằng bàn tay ...không biết là sương hay nắng”.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
• Mị sống lầm li “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khỏ Mị quen rồi”.
3. Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị
- Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp
nhận cuộc sống mất tự do.
- Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:
• Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình,
..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.
• Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi
đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.
• Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ
lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do
• Tinh thần phản kháng mạnh mẽ: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối,
nổi loạn muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
• Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến
những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.
- Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng
người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.
- Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:
• Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
• Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh
của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị
đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, ... phải chết”.
• Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ
• Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A
Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
- Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động
của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi. III. Kết bài
• Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị.
• Nghệ thuật: ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với
sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
• Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau
khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn
thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.
Dàn ý Vợ chồng A Phủ nhân vật Mị - Mẫu 2 I. Mở bài • Hoàn cảnh sáng tác
• Nội dung chính của tác phẩm (nhấn mạnh đến nhân vật Mị, một nhân vật được
xây dựng thành công nổi bật của cả tập truyện Tây Bắc) II. Thân bài
1. Nhân vật Mị trước khi về làm dâu
• Mị là một cô gái dân tộc Mèo, xinh đẹp và tài giỏi, có đời sống nội tâm và khát
vọng tự do, có tài thổi sáo “thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê”
• Là con người hiếu thảo, chăm chỉ. Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao
khát đi theo tiếng gọi của tình yêu
• Vì hoàn cảnh gia đình quá nghèo nên cô dã phải làm dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá tra.
2. Cuộc sống của Mị khi ở nhà Thống lí Pá Tra
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
– Để cứu nạn cho cha, cô đã phải làm dâu để gạt nợ, với danh nghĩa là con dâu, nhưng
thực chất là tôi tớ. Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra Mị bị “cúng trình ma” nhà
thống lí, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà con gái
trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”, bị đày đọa, bị đánh, bị phạt, bị trói …
– Không chỉ bị hành hạ về thể xác, Mị còn bị đầu độc bởi chế độ thần quyền, dưới chế
độ quan lại miền núi trước cách mạng, sức mạnh thần quyền thật đáng sợ, nó trói buộc
con người ta trong vô thức làm cho họ trở nên tê liệt về ý thức và không biết phản kháng.
– Sự hành hạ về thể xác, đầu độc bởi chế độ thần quyền khiến cho Mị bị rơi vào tình
trạng mê muội thê thảm, Mị đã sống trong một môi trường cô đơn không tình người
tăm tối, ngột ngạt, căn buồng của Mị ở chính là địa ngục trần gian. Mị dần trở nên
chai sạn với nỗi đau, một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều
cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn
tay …không biết là sương hay nắng”.
– Mị sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”
3. Sức sống tiềm tàng của Mị
– Bị đày đọa, bị bóc lột, nhưng trong Mị vẫn có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, người đọc vẫn nhận ra một cô Mị đầy khát
vọng, sức sống của Mị đã trỗi dậy.
– Cuộc sống bên ngoài với âm thanh (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn
tình,…) tất cả đã ùa vào tâm trí Mị, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.
Mị lẩm nhẩm lời bài hát, Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở
lại”, “Mị còn trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn được đi chơi”…
– Tinh thần phản kháng mạnh mẽ: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, nổi
loạn muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày. Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.
4. Thoát khỏi cuộc đời khổ cực
– A Phủ vì làm mất bò nên đã bị phạt trói, ban đầu Mị dửng dưng, nhưng khi thấy giọt
nước mắt của A Phủ đã khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong
quá khứ. Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa.
– Bất bình trước tội ác của cha con nhà Thống lí, Mị đã cắt dây đay cởi trói cho A Phủ.
Mị sợ sau khi cắt dây cho A Phủ cô sẽ bị nhà Thống lí xử tội, Mị sợ cái chết, sợ cái
khổ, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát để vượt ra khỏi địa ngục trần gian, và để giải thoát chính mình. 5. Nghệ thuật
• Tác giả đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, đặc biệt là
ở phương diện miêu tả tâm lí Mị và A Phủ
• Tái hiện cuộc sống và vẻ đẹp thiên nhiên, phong tục tập quán của người dân miền núi Tây Bắc
• Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện đặc sắc. Tác phẩm đã phơi bày
những sự tàn bạo, bất nhân của giai cấp thống trị miền núi. Ngoài ra, tác phẩm
còn thể hiện được khát vọng sống, sống một cách đúng nghĩa, sống như một
con người của những người lương thiện như Mị và A Phủ. III. Kết bài
Với việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài khắc họa rất rõ cuộc sống của
những người dân nghèo miền núi trước khi có ánh sáng của Đảng, đồng thời lên án sự
thống trị, chuyên quyền độc đoán của giai cấp thống trị thời bấy giờ.
Dàn ý phân tích nhân vật Mị - Mẫu 3 I. Mở bài
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
• Giới thiệu về tác giả tác phẩm.
• Dẫn dắt sơ lược các nhân vật Vợ chồng A Phủ II. Thân bài
* Tổng quan về nhân vật Mị
- Ngoại hình, tư thế, công việc được miêu tả: “ cô gái ngồi quay sợi gai bên tầng đá
trước cửa, cạnh tầu ngựa…” khuôn mặt của cô thì “ Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,…
mặt buồn rười rượi”. Đã gợi ra một thân phận nhân vật khiến người đọc tò mà về thân
phận làm dâu của Mị trong gia đình nhà Thống lí.
- Nhà văn đặt nhân vật trong hoàn cảnh đối lập: Một bên là cô gái làm việc quần quật
suốt ngày đêm với một bên là sự giàu có của nhà Thống lí
- Hoàn cảnh cuộc đời của Mị:
• Mị bị bắt gạt nợ:
• Trước khi bị bắt về làm dâu nhà Thống lí Mị là một cô gái vô cùng xinh đẹp, tràn đầy nhựa sống…
• Tưởng chừng một cô gái như vậy sẽ hạnh phúc trọn vẹn nhưng Mị lại bị món
nợ truyền kiếp của cha mẹ và bị gạt nợ trở thành con dâu nhà Thống lí:
=> “ Con dâu gạt nợ” nhìn bề ngoài thì là con dâu nhưng thực chất là con nợ.
-> Vào một đêm tình mùa xuân, Mị bị bắt đi.
-> Mị đã xin bố mình: “ Con đã biết cuốc nương làm ….cho nhà giàu”.
=> Những điều đó chứng tỏ Mị là một cô gái chăm chỉ, tin vào sức lao động của mình
và không muốn bị bán cho nhà Thống lí.
* Cuộc đời của Mị khi vào làm dâu để gạt nợ nhà thống lý
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
• Đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử. Cho thấy sự ấm ức, đau khổ,
tủi nhục muốn giải thoát kiếp nô lệ.
• Mị nghĩ thương cha nên đã vứt nắm lá ngón. Hành động đã chứng tỏ Mị buông
xuôi, chấp nhận kiếp sống nô lệ.
• Cuộc sống của Mị ở nhà Thống lí: Mị bị đày đọa về cả thể xác lẫn tinh thần,
sống một kiếp người như trâu ngựa: - Nỗi khổ thể xác:
• Biện pháp so sánh: Mị là con trâu, con ngựa thậm chí không bằng con trâu con
ngựa. Cho thấy cuộc sống của Mị còn khổ hơn kiếp vật.
• Các cụm từ chỉ thời gian: Mấy năm nay, mấy năm qua, mỗi mùa,….. Cuộc
sống của Mị triền miên trong công việc không có lúc nghỉ ngơi. - Nỗi khổ tinh thần:
• Được nhà văn miêu tả : Mị không nói gì, cả ngày chỉ “ lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”.
• Thời gian cắt nghĩa: Miêu tả Mị “ Ở lâu trong cái khổ , Mị quen cái khổ rồi” .
Chính cuộc sống bị đày đọa, đã làm tê liệt tinh thần của Mị.
* Con người Mị luôn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt
- Bức tranh mùa xuân: cảnh ăn Tết diễn ra có cỏ tranh thì vàng ửng, váy hoa thì được
phơi đầy trên những mỏm đá..
- Tác nhân làm thay đổi Mị đó là men rượu và tiếng sáo: Mị uống ừng ực từng bát,
tiếng sáo… Tất cả đã thức dậy tâm hồn Mị bị kìm nén bấy lâu nay Mị nhớ lại tuổi trẻ,
những tháng ngày hạnh phúc và Mị muốn nổi loạn
- Sức sống tiềm tàng trong Mị nổi dậy trong đêm tình mùa xuân: Mị nhớ lại quá khứ
tốt đẹp, hạnh phúc mong muốn thoát khỏi kiếp tù đày. Mị khao khát được đi chơi “lấy
ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”, Mị đã nhen nhóm hy vọng cho chính
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
cuộc đời mình, rồi Mị “quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”...
làm đẹp cho chính bản thân.
Bị A Sử trói vào cột nhà rồi hành hạ dã man nhưng Mị không cảm thấy đau về thể xác
vì lòng Mị luôn hướng về tuổi xuân về quá khứ tươi đẹp.
=> Mị muốn chết đi khỏi cuộc sống tù đày này nhưng chính quá khứ tươi đẹp đã nuôi
dưỡng lòng tin trong Mị về khát vọng sống. III. Kết bài
• Truyện ngắn là một trong những tác phẩm hay nhất của ông về người dân Tây bắc.
• Nghệ thuật: Miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc, ngôn ngữ giản dị…
Dàn ý phân tích nhân vật Mị - Mẫu 4 I. Mở bài
• Tô Hoài là một nhà văn tài ba, có vốn ngôn ngữ phong phú và lối trần thuật rất
tự nhiên. Ông nhạy cảm với phong tục tập quán, cảnh sinh hoạt của các vùng miền trên cả nước.
• Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Tô Hoài viết về
những con người vùng núi Tây Bắc, luôn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt và
sẵn sàng đấu tranh chống lại ách thống trị tàn ác.
• Mị là nhân vật biểu tượng cho những người phụ nữ bị áp bức luôn mong ước
được sống, được tự do II. Thân bài
Luận điểm 1: Mị vốn là một cô gái có những phẩm chất rất tốt đẹp
• Trước khi về làm dâu của nhà thống lý Pá Tra, Mị là một người con gái dân tộc
Mông hồn nhiên và trẻ trung. Cô có tài thổi sáo lá khiến bao nhiêu chàng trai mê đắm.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
• Mị đã từng yêu và được yêu, luôn khao khát theo tiếng gọi của tình yêu
• Cô còn là một người con hiếu thảo, biết bố nợ nhà thống lý cô sẵn sàng làm
năng ngô trả nợ thay bố. Mị chăm chỉ làm việc và ý thức cao giá trị của cuộc sống tự do.
Luận điểm 2: Nạn nhân của những áp bức bất công
• Mị bị về làm dâu nhà thống lý Pá Tra để gạt nợ cho bố, bị bóc lột sức lao động,
bị đánh đập, bị trói, bị phát, bị đày đọa nơi địa ngục trần gian.
• Mị dần trở nên chai sạm với nỗi đau, lúc nào mặt cũng buồn rười rượi, dù là lúc
thái cỏ ngựa, quay sợi đều cúi mặt, đôi mắt không sức sống, không quan tâm
đến thời gian và không gian.
• Cô cứ sống lầm lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa, khổ mãi rồi cũng quen.
Luận điểm 3: Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị
+ Khi mà biết mình bị bắt làm dâu nhà thống lí, Mị đã từng có ý định ăn lá ngón tự tử
vì không chấp nhận được cuộc sống mất tự do.
Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống trong Mị đã trỗi dậy:
• Âm thanh cuộc sống bên ngoài ùa vào tâm trí, đánh thức những kỷ niệm của Mị trong quá khứ
• Mị lẩm nhẩm theo lời bài hát, bỗng trong khoảnh khắc ấy tâm hồn Mị được trở
về với thanh xuân và khao khát về tình yêu, sự hạnh phúc.
• Mị nhận ra bản thân mình vẫn còn trẻ, vẫn muốn được đi chơi, một khát khao
tự do dần tràn trong Mị.
• Tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị khi lấy miếng mỡ thắp sáng căn phòng
tối tăm, nổi lợn và muốn “đi chơi tết” để chấm dứt sự “tù đày”
• Khi bị A Sử trói lại Mị vẫn ngân nga theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu,
nhưng rồi cô chợt tỉnh và trở về với hiện thực đau xót.
=> Nhận xét: Trong Mị luôn có một sức sống mãnh liệt, nó âm ỉ và chỉ chờ ngày có cơ
hội để bùng lên một cách mạnh mẽ.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
+ Khi gặp tình huống A Phủ bị bắt trói do làm mất bò
- Lúc đầu Mị dửng dưng với A Phủ vì sau khi thoát khỏi “giấc mơ” đêm tình mùa
xuân thì cô lại trở về là một “cái xác không hồn”.
- Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, sự đồng cảm giữa 2 con người xuất hiện
trong Mị. Cô liên tưởng đến bản thân mình trong quá khứ, thương mình và thương cho
một kiếp người không có tiếng nói, luôn bị kẻ lớn ức hiếp đày đọa. Cô suy nghĩ “có lẽ
ngày mai người kia sẽ chết, chết đau…phải chết”.
- Cô quyết định sẽ cởi trói cho A Phủ, để A Phủ được tự do và sẽ không phải chờ chết
tại nơi địa ngục này.
- Sau khi cởi trói cho A Phủ, Mị sợ cái chết, sợ sẽ phải tiếp tục chịu khổ sở ở nhà
thống lý Pá Tra, cô chạy theo A Phủ thoát khỏi nơi chôn vùi thanh xuân của mình.
=> Nhận xét: Mị là một người con gái lặng lẽ nhưng vô cùng mạnh mẽ, hành động cởi
trói cho A Phủ đã nói lên ý chí của Mị, muốn đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè
lũ thống trị tàn ác, mong cầu một cuộc sống tự do, bình đẳng. III. Kết bài
• Nêu suy nghĩ của mình về hình tượng nhân vật Mị
• Khẳng định khả năng của Tô Hoài: văn phong đậm chất miền núi, ngôn ngữ
trần thuật linh hoạt cùng khả năng miêu tả nội tâm nhân vật tài tình
• Ý nghĩa nhân văn sâu sắc của tác phẩm: sự cảm thông số phận đau khổ của
những người chịu áp bức, bóc lột. Lên án, tố cao bọn thống trị, thực dân đàn áp
nhân dân. Ngợi ca sức sống và vẻ đẹp tiềm tàng trong mỗi người con Tây Bắc.
Phân tích hình tượng nhân vật Mị - Mẫu 1
"Vợ chồng A Phủ" là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Tô Hoài. Truyện
ngắn đã thành công khắc họa cuộc sống và vẻ đẹp của bà con nhân dân vùng Tây Bắc.
Trong đó, nhân vật Mị đã để lại những ấn tượng vô cùng sâu sắc trong lòng độc giả.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Nhà văn đã không chỉ đem đến hình ảnh một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tiềm tàng sức
sống mà còn tái hiện chân thực sự bất công mà con người phải chịu đựng khi bọn thực
dân, chúa đất nắm quyền.
Trước tiên, Mị hiện lên là một người con gái không chỉ xinh đẹp mà còn có những
phẩm chất vô cùng đáng quý. Ngày còn tự do, Mị được rất nhiều người theo đuổi,
"trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị", "có biết bao nhiêu người mê, ngày
đêm đã thổi sáo đi theo Mị". Dễ thấy, cô gái ấy đã từng yêu và được yêu, luôn có khát
khao tình yêu mãnh liệt trong tâm hồn. Không chỉ vậy, Mị còn là một người con hiếu
thảo. Vì để trả món nợ của gia đình, Mị từng xin cha cho đi cuốc đất, trồng ngô kiếm
tiền. Vốn từng có ý định tự tử nhưng thương cha, cô đành phải chấp nhận sống cuộc
đời "làm trâu làm ngựa" cho nhà thống lí.
Ấy vậy nhưng cuộc sống chẳng hề dễ dàng đối với những con người lương thiện. Mị
chính là nạn nhân của những áp bức, bất công trong xã hội xưa. Mang danh con dâu
nhà thống lí - một gia đình nổi tiếng giàu có ở vùng nhưng Mị chẳng được hưởng một
giây phút sung sướng. Tô Hoài đã miêu tả rất chi tiết những khó khăn, cực nhọc mà
Mị phải trải qua: "Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa [...]
Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ,
đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày". Một người con gái trẻ
trung, xinh đẹp bao người theo đuổi khi xưa, giờ lại phải sống như người ở, còn chẳng
bằng con trâu, con ngựa trong nhà. Ngay đến không gian riêng của Mị cũng chỉ là cái
buồng "kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng
chỉ thấy trắng trắng, không biết là sương hay là nắng". Sự tù túng ấy như ngày ngày
vùi dập tâm hồn cô gái. Cuộc sống ngục tù, luôn phải làm việc quần quật, lại còn
thường xuyên bị đánh đập đã khiến niềm hi vọng trong lòng Mị dần lụi tắt.
Ngày qua ngày, Mị trở nên chai sạn với nỗi đau: "Ở trong cái khổ, Mị quen khổ rồi".
Cô cứ lặp đi lặp lại những công việc nhàm chán một cách máy móc. Khác với người
con gái vui tươi, hoạt bát khi xưa, hình ảnh Mị giờ đây chỉ là "một cô con gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái
cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
buồn rười rượi". Chỉ một chi tiết ấy thôi, độc giả cũng thấy được sự bế tắc trong cuộc
sống của Mị. Điều này khiến cho nhân vật ngày một lặng im, bất lực, "lùi lũi như con
rùa nuôi trong xó cửa" và nghĩ rằng mình sẽ mãi bị giam hãm ở chốn này, "đến bao
giờ chết thì thôi". Cả khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột nhà, Mị cũng chẳng
mảy may suy nghĩ, vẫn thản nhiên đốt lửa hơ tay. Đây chính là thái độ buông xuôi của
con người trước thực tại đau khổ, nghiệt ngã.
Cứ tưởng tâm hồn Mị đã bị vùi sâu vào trong bóng đêm ở chốn ngục tù kia, nhưng
thực chất, sức sống vẫn luôn tiềm tàng ở người con gái ấy. Khi mới bị bắt về làm dâu
nhà thống lí, Mị thà ăn lá ngón tự tử chứ quyết không muốn bị giam hãm trong ngôi
nhà đó. Và trong đêm tình mùa xuân, sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị lại có dịp
được bùng phát. Âm thanh tiếng sáo, tiếng chuyện trò, cười đùa vọng từ ngoài vào đã
đánh thức kí ức về những ngày xa xưa của Mị. Giờ đây, cô ý thức được rằng bản thân
mình vẫn còn đang tồn tại, rằng "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Cái
thực tại nghiệt ngã kia không thể nào giam cầm được tâm hồn Mị. Và Mị không chịu
đựng nữa. Một loạt các hành động được Tô Hoài liệt kê: "không nói", "đến góc nhà,
lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng", "Mị muốn đi chơi, Mị
cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách".
Tất cả đều cho thấy sự thức tỉnh trong tâm hồn tưởng như đã lụi tàn của người con gái
Tây Bắc. Sức sống vẫn như một ngọn lửa âm ỉ cháy, chỉ đợi thời cơ để bùng lên dữ dội.
Rồi trong đêm đông lạnh giá, nhìn thấy dòng nước mắt lăn trên má A Phủ, Mị không
kìm nổi sự thương xót. Nhớ đến mình cũng đã từng bị trói, từng chịu sự đánh đập,
hành hạ, cô bất bình, phẫn uất vô cùng. Biết bao cảm xúc dồn nén giờ đây bộc phát
thành hành động. Mị đã cởi trói cho A Phủ rồi cũng vụt chạy đi, thoát khỏi chốn địa
ngục trần gian đã giam cầm mình bao lâu nay. Hành động này chính là một sự phản
kháng, phá tan xiềng xích, đạp đổ cường quyền áp bức của bè lũ thống trị.
Như vậy, qua hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã thể hiện lòng đồng cảm với những
con người phải chịu sự bất công, bóc lột. Với ngôn ngữ giản dị cùng cách kể chuyện
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
linh hoạt, ông lên tiếng tố cáo tội ác của bọn thống trị. Đồng thời, ca ngợi vẻ đẹp tâm
hồn cao quý và sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của người dân trên vùng núi Tây Bắc.
Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" đã mang vô vàn thông điệp ý nghĩa đến với độc giả
mọi thế hệ. Với nhân vật Mị, Tô Hoài không chỉ bày tỏ lòng yêu thương, cảm thông
và trân trọng tới bà con đồng bào miền núi. Tuy phải chịu hoàn cảnh khó khăn, bị
chèn ép không thương tiếc nhưng họ vẫn sáng lên với niềm tin, khát khao sống mãnh
liệt và sức phản kháng tiềm tàng trong sâu thẳm tâm hồn. Nhờ vậy, tác phẩm vẫn còn
giữ nguyên được giá trị cho đến tận ngày hôm nay.
Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ ngắn gọn - Mẫu 2
Giai đoạn kháng chiến, bên cạnh những tác phẩm ngợi ca nhân cách, chiến công của
người lính; số phận lầm than của người dân cũng là mảng đề tài được rất nhiều tác giả
quan tâm. Trong đó có Tô Hoài với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Phân tích nhân vật
Mị trong truyện ngắn, ta sẽ thấy được thực trạng xã hội thối nát cũ, đồng thời cảm
thông, trân trọng vẻ đẹp con người luôn vượt lên trên mọi nghịch cảnh để sống, hướng tới cái thiện.
Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng
miền. Các tác phẩm của ông luôn có vốn ngôn ngữ phong phú và lối trần thuật tự
nhiên. Truyện ngắn của Tô Hoài hấp dẫn, sâu sắc người đọc với cách kể chuyện tự
nhiên, đời thường. Các tác phẩm của ông luôn mang màu sắc tươi sáng, thiên thiên
đẹp đẽ, con người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng nổi bật với những đức tính đáng trân trọng.
“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách văn chương của Tô
Hoài. Tác phẩm đề cập tới những con người Tây Bắc dù trong hoàn cảnh khó khăn,
khốn cùng thì vẫn luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt. Họ đã dũng cảm đứng lên đấu
tranh chống lại bọn thống trị, giải phóng tự do cho chính bản thân mình. Nhân vật Mị
trong tác phẩm là biểu tượng cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ, luôn sẵn sàng
vùng lên khi bị chà đạp, áp bức.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Trước hết, tác giả Tô Hoài đã khắc họa nhân vật Mị hiện lên với quá khứ tươi đẹp. Cô
vốn là con người có những phẩm chất tốt đẹp, chỉ vì hoàn cảnh mà buộc phải thay đổi.
Mị đã là một cô gái người Mông trẻ trung, ngây thơ, hồn nhiên trước khi về làm dâu
nhà thống lí Pá Tra. Cô được miêu tả có tài thổi sáo, “thổi lá cũng hay như thổi sáo”.
Đã có biết bao nhiêu người mê tiếng sáo ấy của Mị mà say đắm, muốn được kết duyên.
Mị cũng là một cô gái bình thường như biết bao cô gái khác, biết yêu, từng yêu và
từng được yêu. Cô luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu để nắm lấy hạnh phúc
cho mình. Không những thế, Mị còn rất hiếu thảo, thương yêu mẹ cha. Cô chăm chỉ,
chịu khó, ý thức mạnh mẽ giá trị của cuộc sống tự do. Vì thế nên Mị đã sẵn sàng làm
nương ngô trả nợ thay cho bố, không muốn phải chịu cảnh tù đày, gán nợ.
Thế nhưng, hoàn cảnh trớ trêu đã dập tắt tương lai tươi sáng của cô gái còn chưa đến
tuổi đôi mươi ấy. Mị bị bắt về làm vợ A Sử, con trai nhà thống lí Pá Tra. Khi bị bắt về
làm dâu, cô đã bị “cúng trình ma” nhà thống lí. Kể từ đó, kiếp làm con dâu gạt nợ, bị
bóc lột sức lao động đã bắt đầu. Số phận của Mị lúc này “không bằng con trâu con
ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”. Mị đã bị đày đọa nơi
địa ngục trần gian với những trận đòn roi, bị đánh, bị phạt, bị trói, … ngày này qua
tháng khác, không thể nào vùng vẫy thoát ra.
Đối diện với cuộc sống bị chà đạp ấy, Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau. Nếu có ai
đến nhà thống lí, chắc hẳn sẽ thấy một cô gái lúc nào cũng cúi mặt “mặt buồn rười
rượi” dù là quay sợi, thái cỏ ngựa, hay làm bất cứ công việc gì. Mị đã không còn quan
tâm đến thời gian nữa, gian phòng của cô chỉ có một “lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra
chỉ thấy một màu trăng trắng, không biết là sương hay nắng”. Khi con người đã không
còn nhận thức về thời gian, không gian, tức là khi đó đã vô cùng tuyệt vọng, phó mặc
cho số phận của mình. Và Mị có lẽ đã sống mãi như thế, cứ lầm lũi “như con rùa nuôi
trong xó cửa”. Cô thậm chí còn không muốn tự kết liễu bản thân, cứ sống mãi mà vô
định Và bởi vì “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”, cô gái trẻ trung, hồn nhiên xưa kia
như cái xác không hồn, không còn chút thiết tha với cuộc sống này.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Ngỡ tưởng rằng mọi sự đày đọa về cả thể xác lẫn tâm hồn sẽ làm Mị dần chai sạn. Thế
nhưng ở sâu trong tâm khảm, Mị vẫn luôn có một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.
Trước hết, khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ, Mị đã có ý định tự tử bằng lá ngón.
Lựa chọn cái chết thay vì phải chịu cảnh ngục tù, cô không chấp nhận cuộc sống mất
tự do, không thể làm chủ số phận. Đó là sự phản kháng mạnh mẽ, dứt khoát ở một cô
gái tưởng chừng yếu đuối, nhỏ bé.
Sức sống tiềm tàng của Mị, sau những năm tháng sống như một con vật, trong đêm
hội mùa xuân ở Hồng Ngài đã trỗi dậy mạnh mẽ. Những âm thanh của cuộc sống bên
ngoài với tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình như ùa vào tâm trí Mị. Nó đã
đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của cô, khiến cô như được hồi sinh. Nghe
tiếng hát, tiếng sáo, Mị đã lẩm nhẩm lời bài hát. Khi đó, dù chỉ trong một khoảnh khắc
ngắn ngủi, tâm hồn cô như đã trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu và
hạnh phúc len lỏi trong tâm trí, khiến Mị muốn được tự do. Cô đã ý thức được sự tồn
tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi
chơi”. Tô Hoài đã sử dụng một loạt các câu độc thoại nội tâm để giúp người đọc thấy
được sự hồi sinh diệu kì của nhân vật.
Tiếp theo đó, Tô Hoài đã khắc họa Mị nổi bật lên với tinh thần phản kháng mạnh mẽ.
Nếu như trước kia, ánh sáng duy nhất trong căn phòng của cô chỉ là ánh nắng, ánh
sương qua ô cửa nhỏ; thì giờ đây Mị đã lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối
tăm, chật hẹp. Thắp sáng lên căn phòng, cũng chính là thắp lên niềm tin nhỏ bé trong
tâm hồn mình. Sau đó, nhân vật đã nổi loạn hơn, muốn được “đi chơi Tết” để có thể
chấm dứt sự tù đày và những tháng ngày tẻ nhạt.
Không được đi chơi, thậm chí còn bị trói lại, thế nhưng giờ đây Mị không còn thẫn
thờ như mọi lần nữa. Lúc này, tâm trí của cô vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của
tình yêu đôi lứa đến những cuộc vui ngoài kia. Trong vô thức, Mị đã vùng dậy, muốn
thoát khỏi sự trói buộc, cầm tù ấy. Tâm hồn một khi đã được thức tỉnh, sẽ không bao
giờ buông bỏ nữa. Cái khao khát tự do ấy cứ cháy mãi trong trái tim nhân vật, âm ỉ
thắp lên hi vọng mãnh liệt được sống, được làm chủ số phận của mình. Nó chỉ trực
chờ để có cơ hội bùng lên một cách mạnh mẽ và dứt khoát.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Và sức sống tiềm tàng ấy đã một lần nữa được khơi dậy trong lòng Mị khi thấy A Phủ
bị phạt trói đứng. Khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã đồng cảm sâu sắc với
anh. Cô chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ cũng đã biết bao nhiêu lần
phải chịu cảnh đòn roi, tra tấn như vậy. Giờ đây, Mị lại biết thương mình và thương
cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, chết đói, chết
rét, phải chết.” Và chính suy nghĩ bất bình trước tội ác dã man của bọn thống lí ấy, Mị
đã cắt dây cởi trói, giải thoát cho A Phủ. Trong một giây phút, ta ngỡ tưởng Mị sẽ lại
phó mặc số phận, sẵn sàng chịu trừng phạt vào ngày mai khi sự việc bại lộ. Thế nhưng
cô đã sợ cái chết, sợ phải sống tiếp những ngày ngục tù với nỗi khổ đau dài dặc trong
nhà thống lí, Mị đã chạy theo A Phủ, tìm lối thoát vượt ra khỏi cái địa ngục trần gian
này. Qua những lần phản kháng từ âm thầm đến mạnh mẽ ấy, ta thấy được một cô gái
nhỏ bé nhưng lại có sức sống tiềm tàng, sẵn sàng trỗi dậy, vượt ra khỏi định kiến và
những hủ tục trói buộc. Mị đã đứng lên, đạp đổ cả cường quyền lẫn thần quyền của bè
lũ thống trị miền núi. Đây chính là vẻ đẹp rất đáng trân trọng của con người trong
hoàn cảnh éo le, khắc nghiệt.
Với lối kể chuyện hấp dẫn, hình ảnh thú vị, ngôn ngữ đậm chất đời thường, Tô Hoài
đã tái hiện được xã hội rối ren, đầy áp bức lúc bấy giờ. Đồng thời đồng cảm, ngợi ca
con người với những phẩm chất đáng trân trọng, luôn vượt lên trên nghịch cảnh để
sống, tự do và tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình.
Phân tích Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 3
Tô Hoài là nhà văn lớn đã đóng góp nhiều thành tựu xuất sắc cho nền văn xuôi hiện
đại nước nhà. Nếu như tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký” đã đánh dấu sự thành công
sự nghiệp của ông thì Vợ chồng A Phủ đã đưa tên tuổi của ông lên tầm cao mới. Tác
phẩm “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn trích trong tập truyện Tây Bắc của ông. Tác
phẩm mang rất nhiều giá trị tư tưởng lớn cả giá trị hiện thực và nhân đạo. Trong
truyện, Tô Hoài đã gửi gắm trọn vẹn tình cảm của mình và tái hiện lại cho người đọc
về cuộc sống của người dân lao động vùng miền núi, dưới ách thống trị tàn ác của bọn
cai quản miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
qua nhiều nét đẹp, phẩm chất khác nhau, qua đó ngợi ca sức sống mãnh liệt và vẻ đẹp
tâm hồn của nhân dân Tây Bắc .
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện đã từng được trao
tặng giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1955. Nhà văn viết tác phẩm sau khi đi
chuyến đi thực tế cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952, thực mắt chứng kiến,
tiếp xúc với đời sống nhân dân nơi đây. Mở đầu tác phẩm, Tô Hoài đã đặc cách giới
thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và gây ấn tượng mạnh mẽ trong
lòng người đọc: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một
cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù
quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng
cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Ngay phần mở đầu, nhà văn đã tạo ra những hoàn cảnh khó khăn, hình ảnh Mị hiện
lên với hình ảnh lầm lũi, buồn tủi. Chính cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về
một cô gái cô đơn lẻ loi như vậy có phải dụ ý nhằm dự báo trước số phận cuộc đời của
Mị đầy những uẩn khúc, bi kịch hay không? Cớ sao một cô gái người dân tộc Mông
tài sắc vẹn toàn, có tài thổi sáo”cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, nhiều chàng
trai si mê theo đuổi cô gái ấy. Một cô gái tài sắc vẹn toàn như vậy đáng ra phải được
yêu thương, phải được sống trong cuộc sống hạnh phúc cơ sao phải sống trong hoàn
cảnh trớ trêu như vậy.
Bởi vì lẽ thương cha, muốn cứu nạn, đỡ nợ giúp cho cha, cô gái ấy - một người con
hiếu thảo dù không muốn nhưng buộc lòng chấp nhận đi làm con dâu để gạt nợ cho
nhà thống lí Pá Tra. Tô Hoài đã khắc họa nỗi cơ cực cả về thể xác của Mị dưới danh
nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chẳng khác gì một tay sai, một người làm trong nhà
thống lí. Thân phận Mị bị đưa đẩy, phải sống chui sống lủi, làm việc quần quần không
bằng thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi
chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn
đêm”. Nhà văn Tô Hoài còn khắc họa nổi bật nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô
Mị mới hồi nào còn vô tư, hồn nhiên, khát khao đắm mình trong tình yêu đôi lứa, mà
bây giờ chỉ lủi thủi, im lặng ngày qua ngày, lầm lì, lùi lũi trong xó nhà, lặng câm
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
chẳng nói lời nào, vẻ mặt buồn rười rượi hiện rõ lên mặt Mị. Căn buồng Mị ở giống
như một địa ngục trần gian tách biệt Mị với thế giới bên ngoài, ánh sáng lọt vào chỉ
qua một lỗ vuông nhỏ. Qua điều này để thấy được nét đáng thương, bất hạnh của nhân
vật Mị cũng chính là hiện thân của đồng bào dân nghèo Tây Bắc muốn tố cáo chế độ
phong kiến miền núi cầm giữ con người một cách tàn bạo vô cùng.
Cô gái xinh đẹp ấy đã từng có ý định muốn chết mà không được chết, vì Mị vẫn còn
đó món nợ của người cha. Sự tồn tại của Mị trên cõi đời này trở nên vật vờ, vô nghĩa,
hoàn cảnh Mị lúc này đáng thương hơn ai hết. Muốn từ giã cuộc đời nhưng vẫn muốn
chống lại cuộc sống không ra gì, Mị chẳng còn điều gì thiết tha với cuộc đời này cả,
dù làm gì Mị cũng chỉ như một cái xác vô hồn, làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm.
Sức sống tiềm tàng trong Mị dần bị vơi bớt đi. Những ẩn sâu bên trong cái hình hài
một con người đau khổ kia vẫn lóe lên khát vọng hạnh phúc chẳng thể nào tiêu tan,
bùi lấp trong tâm hồn đã chai lì từ lâu ấy. Nó chỉ đang chờ đợi thời thuận lợi để có thể
bùng lên, cháy lên để được chìm đắm trong tiếng gọi của tình yêu trong đêm xuân tình ái.
Dường như cuộc đời của Mị lúc này vẫn cứ chỉ mãi nằm trong cái vòng luẩn quẩn,
cùng quẫn ấy, sự phản kháng vùng vẫy của Mị đã làm chai lì đi tâm hồn đẹp đẽ của
Mị. Nhưng sâu trong nó vẫn âm ỉ một lớp vỏ bọc, một tia sáng sức mạnh lóe lên trong
bóng tối u khuất. Mùa xuân đến người ta nô nức chuẩn bị tâm thế đón một năm mới
sang. Bức tranh Hồng Ngài hiện lên làm say say đắm bao tâm hồn. Cái se lạnh của gió
rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, hương sắc diệu kỳ của các loài hoa đẹp đã hưng phấn
thức tỉnh sự vui tươi, háo hức của Mị. Chính cái tiếng sáo hồ hởi thức dậy trong tâm
hồn Mị một chút niềm vui sống, thường ngày Mị chẳng thiết nói năng, khi nghe tiếng
sáo Mị lại nhẩm hát theo tiếng sáo du dương lại nhớ về những kỉ niệm thời mình còn
được tự do. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị uống từng bát, “uống ừng ực” rồi
say đến lịm người đi. Cái men say rượu là chất xúc tác giúp Mị quên hết những đau
khổ hiện tại, mà đắm chìm trong niềm vui, nhớ về ngày mình còn được tự do, nhớ về
cái thời mình tự do tự tại “nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe,
không thấy và cuộc rượu lúc nào cũng không hay”, “ngày trước, Mị thổi sáo cũng
giỏi …” Mị tận hưởng giây phút tươi vui còn sót lại trong cuộc sống bất hạnh của bản
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
thân mình, tự tạo những niềm vui ngày xuân để quên đi nỗi đau khổ mà mình phải trải
qua đằng đẵng từ trước tới giờ. Tâm hồn Mị dần dần vực dậy sau chuỗi ngày đen tối,
Mị bắt đầu ý thức được mình còn trẻ trung, vẫn còn khao khát những niềm vui của
cuộc sống. Dường như chính âm thanh tiếng sáo gọi mời, đánh thức tâm hồn cô quạnh,
đã vốn chai lì với những nỗi đau. Đó là âm thanh khiến “Mị thấy phơi phới trở lại,
trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước, đã hâm nóng ngọn lửa thanh
xuân đã bị vùi dập tắt đi từ khi làm dâu nhà thống lí. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn
đi chơi. Mị lại muốn sửa soạn, mặc đồ đẹp, chải chuốt để đi chơi, để hòa vào không
khí rộn ràng của ngày Tết. Nhưng ai thương cho Mị bây giờ khi A Sử đã dập tắt đi tất
cả những háo hức, tươi vui của Mị. Hắn trói Mị lại chặt cứng vào cột nhà, cột tóc Mị
dựng đứng lên khiến cô không thể cựa quậy. Rồi bỏ mặc Mị, đeo vòng bạc trang sức
xúng xính áo quần đi chơi, để Mị chìm mãi trong trạng thái mơ về một thời xuân trẻ,
lững thững hững hờ trong cảm giác được du xuân. Sợi dây trói buộc chẳng thể nào trói
được giấc mộng ảo diệu của nàng ta về một buổi đi chơi du xuân hằng mong ước.
Cảm giác trở về thực tại đau đến mức tàn khốc, dù vùng vẫy thế nào cũng không thoát
ra được “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, bắp chân bị
dây trói siết lại, đau từng mảnh thịt”. Mị lúc này tự thương cho chính bản thân mình,
cô muốn đứng lên phản kháng lại, một sức mạnh tiềm tàng cứ âm ỉ trong Mị.
Đến với bối cảnh khác, Tô Hoài lại một lần khơi gợi sức sống tiềm ẩn sâu trong Mị
qua hình ảnh cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ. A Phủ cũng giống như Mị là nạn nhân
của bọn thống trị miền núi. Và sau lần làm thuê vì mải săn bắn mà đã bị nhà thống lí
trói đứng. Nhìn thấy hình ảnh của A Phủ, giọt nước mắt trên má chàng “một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã đánh thức lòng thương
cảm của Mị. Mị vốn cho rằng ai cũng như mình và chợt nhận ra hoàn cảnh thương
cảm và xót xa cho cả chính phận bất hạnh của mình. Dòng nước mắt của Mị ngày
trước và nước mắt của A Phủ lúc bấy giờ như hòa chung vào một. Đó là sự giao cảm
của hai tâm hồn tìm được sợi dây nối kết, sự đồng cảm mãnh liệt. “ Chúng nó thật độc
ác”. Trước đây vì sự mê muội, Mị an phận chịu đựng cảnh bản thân bị hành hạ, giam
cầm trong đầy những đau khổ, Mị dù tiềm tàng sức mạnh khao khát tự do nhưng vẫn
còn mang cái vỏ bọc của chấp niệm “Ta là thân đàn bà, nó dắt ra về trình ma nhà nó
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”.. Còn A PHủ tại sao phải chết ở cái nơi này.
Như Nam Cao đã từng nói, đây là “cái sợ cố hữu” của người dân nô lệ. Dù sợ, Mị sợ
rằng nếu cởi trói cho A Phủ thì trước sau gì Mị cũng phải thế chỗ A Phủ và bị trói ở đây mãi.
Nhưng càng nghĩ, Mị lại quyết định rón rén cầm con dao nhỏ cắt lúa vào cắt sợi dây
trói của A Phủ. Động lực nào đã xúi giục Mị hành động như vậy? Đó chính là cái khát
khao trong lòng Mị càng lúc lại càng rực cháy, khát vọng giải thoát bản thân và khát
vọng về một cuộc sống tự do đã dồn nén, thúc đẩy Mị hành động một cách vô thức
như vậy. Sức phản kháng mãnh liệt một lần nữa sôi sục trong người cô gái ấy để đấu
tranh chống lại bọn thực dân phong kiến miền núi tàn bạo, man rợ. Hành động cắt dây
trói của Mị là một hành động dứt khoát nhưng đã khiến Mị không khỏi suy nghĩ rất
nhiều. Đó là một bước chuyển trong nhận thực của người con gái ấy. Điều này còn thể
hiện sự đấu tranh tư tưởng trong Mị, sự giải thoát cho chính bản thân mình, cởi trói
cho một cuộc đời bị áp bức, bóc lột, sống một cuộc đời bị giam hãm, mất tự do.
Rồi Mị dù có phân vân nên đi theo A Phủ hay ở lại, thì cuối cùng Mị đã chọn chạy
trốn khỏi nơi địa ngục trần gian ấy, giải thoát cho bản thân và số phận bất hạnh của
mình. Đi đến Phiềng Sa, Mị lúc này mới cảm nhận lại được sự hạnh phúc mà mình ao
ước bấy lâu. Mị và A Phủ cố gắng chiến đấu dưới sự dìu dắt của đồng chí A Châu. Mị
đã ý thức được đâu là kẻ thù của mình, Mị cũng chẳng còn sợ con ma nào nữa, bước
tiếp mà sống cuộc đời của mình, ngân nga khúc ca mỗi độ xuân về.
Có thể cho rằng linh hồn của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” một phần nằm ở tính
cách, diễn biến tâm lý của nhân vật được nhà văn diễn tả tài tình. Qua bút pháp cá thể
hóa và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình của nhà văn Tô Hoài, nhân vật Mị đã
hiện lên với những nét đẹp phẩm chất vô cùng đáng trân trọng, là một cô gái xinh đẹp
với nhiều tài năng, ẩn sau vẻ ngoài đó là một cuộc đời bất hạnh nhưng luôn mang
trong mình sức sống tiềm tàng. Qua nhân vật Mị, ông muốn gửi gắm đến giá trị nhân
đạo sâu sắc. Chính nhân vật Mị được nhà văn xây dựng là hiện thân của người dân lao
động miền núi dưới quyền cai trị của bọn thực dân phong kiến miền núi.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Phân tích nhân vật Mị đạt điểm cao - Mẫu 4
Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như
trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì
sau năm 1945, tập "Truyện Tây Bắc" đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới.
Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã
giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ
chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá
trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình
vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.
Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài
thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn
của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa
xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn
hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ
trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.
Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc,
nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình
Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái
bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng
bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ. Nhưng xã hội
cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự
quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí
Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi
sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu
thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị
bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.
Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu,
đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ
đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng,
đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của
mình. Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn
cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm
khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện,
giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới
tay Mị. Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít
nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái
buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào
trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi
xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.
Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi.
Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật
tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ
bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống
mùa xuân "lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước". Từ niềm rạo
rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy
ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn
ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa
hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị "quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở
phía trong vách", Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người
con gái khác trong đêm mùa xuân ấy.
Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ
phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã
chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy
mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác
dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của
nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị. Hành động mãnh liệt nhất
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình,
thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số
phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết
sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi
những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng
thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc hoạ tính cách nhân vật qua suy nghĩ và
hành động cùng lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình
tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế
độ áp bức tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói
thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.
Phân tích nhân vật Mị siêu hay - Mẫu 5
Nhà văn Tô Hoài là một người có vốn hiểu biết khá phong phú và sâu rộng về những
vùng miền trên khắp Tổ Quốc nhưng có lẽ hiểu biết nhất vẫn là vùng đất Tây Bắc,
không chỉ khắc nghiệt về khí hậu thời tiết địa hình mà con người ở đây cũng phải chịu
những đau thương của xã hội hủ tục lạc hậu thời bấy giờ. Với văn phong hấp dẫn
người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh sinh động với biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật
sâu sắc Tô Hoài đã mang đến cho chúng ta một hình tượng nhân vật người phụ nữ Tây
Bắc điển hình. Điển hình cho số phận, cho nỗi khổ hạnh phúc lứa đôi và những giá trị
hiện thực và nhân đạo qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ.
Có thể nói tác phẩm này đã mang đến những cảm xúc cho chúng ta khi thấu hiểu số
phận người con gái tên Mị.
Mị xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện với một hình ảnh lầm lũi, buồn tủi. bằng giọng
kể thoang thoảng hương vị của ca dao cổ tích nhân vật Mị hiện ra báo trước một câu
chuyện buồn sắp tới: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi
hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. đó chính
là Mị nhưng tại sao cô lại buồn đến thế. Vả lại khi người ta hỏi ra mới biết cô chính là
con dâu của nhà thống lý Pá Tra giàu lắm mà tại sao lại phải lầm lũi suốt ngày chỉ một
công việc như vậy. những công việc ấy lặp đi lặp lại hằng ngày và Mị lúc nào cũng
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
trông tư thế như vậy. Mị sống âm thầm lẽ loi lặng lẽ sống gắn vào với những vật vô tri
vô giác. Như vậy có thể thấy hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với những gì cô
đang phải chịu tưởng rằng là con dâu nhà thống lý một vùng thì là sung sướng nhưng
không điều đó hoàn toàn trái ngược với những gì chúng ta nghĩ. Và cuộc đời mà tác
giả chuẩn bị kể ra đây sẽ chứng minh cho sự trái ngược ấy. Đồng thời chính điều đó
đã phần nào nói lên, dự báo trước số phận cuộc đời của Mị không bằng phẳng đầy uất
ức và bi kịch của cõi nhân sinh.
Mị một cô gái người dân tộc Mông xinh đẹp giỏi giang và hiếu thảo với cha mẹ nhưng
dưới chế độ xã hội cũ cơ hội hạnh phúc và thực tế đau khổ sẽ diễn ra với cô như thế nào?
Trước khi làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái xinh đẹp tài năng
“Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. những chàng trai cô gái Mông tài giỏi
chỉ cần một chiếc lá rừng là có thể thổi thành sáo nghe rất vui tai và Mị cũng có tài ấy.
không những thế Mị còn là một cô gái có lòng tự trọng có tình yêu và đã có người
yêu, khi cha bị đe dọa rằng thống lý muốn lấy Mị làm con dâu để gánh nợ cho món nợ
từ đời bố mẹ. Bố Mị sót con nhưng cũng xót nương ngô. Mị thì nói với bố rằng giờ Mị
có thể cuốc bẫm trồng ngô nên xin cha đừng gả Mị cho nhà thống lý. Mị có người yêu
rồi, cô yêu cuộc sống tự do và yêu đời không ham giàu sang phú quý. Thế nhưng
những ngày tháng tươi đẹp ấy nhanh chóng kết thúc vì Mị phải về làm dâu nhà thống
lý Pá Tra. Một cô gái xinh đẹp, tài năng hiếu thảo đến như vậy tưởng chừng sẽ có một
cuộc sống hạnh phúc nhưng ai ngờ hiện thực lại trái ngược với những gì mà người ta hay đoán.
Trong một đêm tình mùa xuân Mị đã bị A Sử con trai của thống lý Pa Tra lừa gạt và
bắt về nhà. Trong cái đêm định mệnh ấy Mị đang ngồi đợi người yêu của mình đến
nhưng A Sử đã đến và giả vờ giống người yêu Mị, hắn thò ngón tay đeo nhẫn vào
vách, Mị tưởng người yêu bước ra thì một toán người chụp lấy cô và đưa cô về nhà.
Bắt đầu từ đấy cuộc sống của Mị sống trong những ngày tháng đau khổ nhất và cũng
là bắt đầu của kiếp làm dâu gạt nợ. Bề ngoài Mị là con dâu nhà thống lý nhưng thực
chất Mị chỉ là thứ để gán nợ mà thôi. Cuộc sống của Mị không bằng một con ở, nếu
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
như con ở có thể được giải thoát khi đã trả hết nợ thì kiếp dâu gạt nợ của Mị sẽ không
bao giờ được giải thoát.
Kiếp làm dâu gạt nợ có thể nói là những ngày tháng đau khổ tủi nhục nhất cuộc đời
Mị. cô bị tra tấn về thể xác lẫn tinh thần. Mị tê liệt lòng yêu đời yêu cuộc sống và tinh
thần phản kháng. Trước đó, cô có tìm đến lá ngón để giải thoát cho mình nhưng nghĩ
về cha và những lời cha nói, Mị lại đành phải ngậm ngùi vứt đám lá ngón trong tay
quay trở về nhà thống lý. Vả lại trong xã hội ngày xưa khi người con gái cúng trình
ma nhà chồng thì cả một đời đến khi chết chỉ có thể ở nhà chồng mà thôi, đến khi nào
rũ xương ở đó ngay cả khi chồng đã chết đi. Và từ lần ấy Mị không nghĩ đến chuyện
chết nữa mặc dù cha đã qua đời. Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen khổ rồi “Bây giờ Mị
tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi
làm mà thôi. ” Thế nhưng con trâu con ngựa nhà thống lý còn sướng hơn cả Mị bởi vì
chúng làm nhưng cũng có lúc chúng được đứng gãi chân nhai cỏ, còn Mị thì hết ngày
này qua này qua ngày khác đều làm quần quật không biết ngày tháng là gì “ Mị tủi
thân nghĩ mình không bằng con ngựa”. Mị trở thành một công cụ lao động đúng hơn
là con dâu nhà thống lý, cuộc sống của mình quanh quẩn bằng những công việc được
sắp trước những công việc đó lặp đi lặp lại thành một vòng luẩn quẩn mà Mị cứ quay
mình trong đó không thể thoát ra được “lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau,
mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa
năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng
gài một bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế.
Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái
nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày. ” Căn buồng Mị ở giống như một địa ngục trần
gian tách biệt Mị với thế giới bên ngoài, Mị bị trà đạp về thể xác và tinh thần trói buộc
bởi thần quyên và cường quyền “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa
nuôi trong xó cửa, ở buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà
trông ra. ”. Có thể nói những ngày tháng ấy, Mị không được sống là chính mình, cô bị
trói buộc và mất đi tinh thần phản kháng.
Thế nhưng khi những đêm tình mùa xuân trên rẻo cao đến thì sức sống tiềm tàng trong
Mị trỗi dậy mãnh liệt. điều đó khẳng định rằng cô gái trẻ Hơ Mông vẫn đã có sự phản
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
kháng trước thực tại của mình. Đêm tình mùa xuân đã đến những yếu tố ngoại cảnh đã
tác động đến Mị. Mùa xuân đến đất trời Hồng Ngài thay đổi đầy sức sống và xuân sắc.
con người Hồng Ngài cũng rủ nhau đi chơi trên khắp các sân, trẻ con, người lớn đặc
biệt là trai gái, họ rủ nhau chơi pao, chơi quay. Chính những yếu tố đã tác động đến
tâm hồn Mị, Mị thấy tâm hồn phơi phới trở lại. Có tiếng sáo gọi bạn tình làm cho Mị bổi hổi bồi hồi:
“Mày có con trai con gái Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
Mùa xuân trên Hồng Ngài như thế, mùa xuân trong nhà thống lý cũng rộn rã không
kém, mọi người ăn bữa cơm cúng trình ma sau đó uống rượu bên bếp lửa. Mị thi lẩm
nhẩm theo lời bài hát mà người đang thổi, rồi lén uống rượu, cố uống ực từng bát như
đang cố uống từng chén say chén đắng của số phận mình. Tiếp đó Mị bước vào phòng
xắn một ít mỡ cho đèn sáng lên, hành động đó như thể hiện sự thắp sáng chính số
phận của Mị, Mị đã bừng tỉnh. Mị thấy lòng mình phơi phới trở lại Mị còn trẻ và Mị
muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc và với chiếc váy hoa, nhưng hành động đó đã bị A Sử
phát hiện và trói cô vào cột. Mị đứng yên trong bóng tối hơi rượu vẫn thoảng làm cho
cô tưởng mình không bị trói, trong đầu tiếng sáo vẫn văng vẳng. Mị vùng bước đi
nhưng không thể bước được, thằng A Sử cột cả tóc Mị lên khiến Mị không nghiêng
cũng không cúi được. Mị quay lại với thực tại phũ phàng và Mị ước “ nếu lúc này có
nắm là ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Dù bị vùi dập nhưng chúng ta đã thấy
được phần nào sức sống tiềm tàng và sư phản kháng của Mị trở lại. điều đó dự báo
cho một cuộc vùng dậy về sau.
Những đêm tình mùa xuân qua đi, Mị lại quay lại với cuộc sống như trước. lại kể lại
chuyện A Sử đi chơi gây gổ và bị một người tên A phủ đánh thương. Nhà thống lý bắt
được A Phủ và đánh đập anh tơi bời, đánh xong lại hút thuốc phiện. sau đó chúng trói
anh vào một cái cột. Mị dù bị trói chân tay dã dời nhưng khi chồng về cô vẫn phải
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
gượng sức dậy đi lấy thuốc về cho chồng, thế nhưng ngay cả khi đau hắn cũng vãn tra
tấn cô bằng những cái đạp vào mặt. Mị lạnh và hằng ngày cô thường hở lưng vào buổi
đêm cho đỡ lạnh. Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói ban đầu Mị dửng dưng vì cảnh tượng
ấy diễn ra thường xuyên. Nhưng sau khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A phủ rơi
lấp lánh rơi xuống hai hõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ đến cảnh Mị bị trói đêm đó,
nước mắt nước mũi rơi xuống mà không tài nào lau được. Mị thương mình rồi thương
người, Mị quyết định cắt dây trói thả A phủ đi. Đó là một quyết định nguy hiểm
nhưng trong đầu Mị bây giờ không còn nghĩ được gì nữa. Mị nghĩ mình đã cúng trình
ma nhà nó thì sớm muộn gì mình cũng chết, còn người kia làm sai mà phải chết. Mị
cắt dây cho A phủ và cùng anh chạy khỏi Hồng Ngài. Điều đó đó thể hiện tinh thần
phản kháng và sức sống trong Mị. Cô vượt qua nỗi sợ hãi và vượt qua thần quyền hủ
tục để cùng A phủ đi đến một vùng đất mới. từ đó cuộc đời tươi sáng theo cách mạng đã đến với Mị.
Như vậy có thể thấy Mị là một cô gái điển hình cho số phận những người phụ nữ
Mông thời bây giờ. Họ có tài năng có nhan sắc nhưng lại bị chính những thần quyền
hủ tục và cường quyền bạo lực trà đạp về thể xác cũng như tinh thần. họ đã biết vùng
dậy đi theo cách mạng để chống lại những thế lực kia. Qua đây ta cũng thấy được
những nét văn hóa của người Mông đó là thờ ma và có những phong tục đẹp như thổi sáo chơi quay.
Phân tích nhân vật Mị - Mẫu 6
Có thể nói đóng góp lớn lao cho sự thành công của tập Truyện ngắn Tây Bắc chính là
“Vợ chồng A Phủ”. Xét riêng trong truyện này nhân vật giàu ấn tượng nhất , sinh
động nhất là Mị. Bức chân dung về nhân vật trung tâm của tác phẩm là sự phối hợp
của những mảng màu hoàng hôn u ám và bình minh rạng ngời ; của khát vọng sống,
khát vọng tự do tiềm ẩn mãnh liệt trong cái hình xác nô lệ . Phát hiện và sáng tạo nhân
vật Mị trong truyện, Tô Hoài đã chứng tỏ là cây bút bậc thầy trong việc khám phá
những miền sống lẩn khuất trong thẳm sâu con người nơi mảnh đất cuối trời tây Bắc ở thời kỳ đen tối.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị bắt về làm con
dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra.Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê
liệt, chỉ "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi
chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà.
A Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở
trừ nợ cho nhà Thống lí.Không may hổ vồ mất 1 con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói
đứng vào cọc đến gần chết.Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, hai người chạy trốn đến
Phiềng Sa. Mị và A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích.
Chủ đề: Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại
quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn
chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì hủy
diệt được của những kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh
sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng.
Mị xuất hiện trong lời kể về thời quá khứ của cô là cô gái Mèo hoàn thiện, bông hoa
ban thuần khiết của núi rừng Tây Bắc. Xuất thân trong một gia đình nghèo nhưng Mị
được thiên phú hình dáng và nhiều tư chất tốt đẹp. Mị không chỉ đẹp mà trong cô còn
ẩn tàng sự yêu đời, ham sống, say sưa với mối tình đầu. Những ngày tháng tuổi trẻ của
cô trôi đi êm đềm đến trong tình thương của bố, trong âm thanh tuổi trẻ và sắc màu
đêm hội đất miền tây. Mỗi ngày sống, trái tim cô như tràn căng hồi hộp sung sướng
chờ nghe âm thanh tiếng sáo quen thuộc của người yêu.
Mị đồng thời là cô gái chăm làm, một đứa con hiếu thảo, biết xa lánh cái ác và biết
trân trọng nâng niu tình yêu của mình, giàu lòng tự trọng. Sức trẻ và sự thánh thiện
dồn tụ trong Mị, và với nó Mị hy vọng đứng vững giữa cuộc đời với khát khao tự do
làm chủ cuộc sống. Mị tâm sự với cha mình " con nay đã biết cuốc nương làm ngô,
con phải làm ngô để trả nợ cho bố".
Nhưng số phận "những bông hoa" xinh đẹp và đầy sức sống ấy, ở thời điểm lịch sử
này đến chung chịu số phận đau thương - đó là một tất yếu. Tô Hoài đã nhận rõ được
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
cái logic nghiệt ngã này và “nàng Kiều” đất miền tây cũng không thoát khỏi nỗi đa đoan đoạn trường.
Cái đau đớn của số phận Mị bắt đầu từ một thứ tội truyền kiếp mãn tính của người
nghèo, đó là không tiền của tất yếu sẽ trở thành nô lệ. Bố Mị vay tiền của Pá tra - số
nợ lãi đến khi mẹ cô chết mà bố vẫn không trả hết. Mị đã trở thành vật thế gán nợ và
thành nô lệ trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế. Và cũng bắt đầu bằng một nguyên
nhân đau đớn bi phẫn, đó là “lỗi” của người xinh đẹp với phẩm hạnh trắng trong! Mị
trở thành cô con dâu gạt nợ, một thứ “hàng hóa” trao đổi.
Phản ứng của Mị những ngày đầu là mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc và định
tự tử. Đây là phản ứng tự nhiên của cô gái trẻ yêu đời bỗng nhiên bị tước đoạt hết tự
do; đồng thời cũng là phản kháng quyết liệt của con người ham sống muốn kiếm tìm
một cuộc sống cho ra sống. Cuộc sống với tất cả tự nhiên của kiếp người chứ không
phải vật vờ tồn tại trú ngụ cái rỗng không trong thể xác.
Tuy nhiên phản kháng của Mị bị chặn đứng, Tô Hoài thêm một lần cho thấy bản lĩnh
khai thác các mối liên hệ chi phối nội tâm con người. Kiều hơn một lần quên sinh
tránh ô nhục - thoát kiếp đoạn trường. Và nếu Kiều chết, sẽ không còn sự vương vấn
nào về món tiền “ba trăm lạng”. Nhưng ở đây, Mị xót xa hơn, Mị chết - món nợ vẫn
còn; và đương nhiên, cha cô phải là người gánh chịu tủi hờn đến hết kiếp. Và bi kịch
xuất hiện, muốn chết mà không thể chết, đây cũng chính là nguyên nhân ý thức cam
chịu xuất hiện trong Mị.
Những năm tháng sống Pha Tra là chuỗi ngày địa ngục, Mị xuất hiện trong không
gian ấy như một cái bóng, suốt ngày cúi mặt im lặng. Đó vẫn chưa phải nỗi đau đớn
thật sự, Nhà văn đã tìm ra sự thê thảm của nhân vật, đó là ý chí của Mị bị mài mòn.
Trong đầu Mị, những suy nghĩ khát vọng, âm thanh sắc màu thời xưa cũ đã mờ chìm;
thay vào đó là cái phải nhớ, quanh quẩn lặp đi lặp lại tẻ ngắt như một vòng tròn nặng
nề không lối thoát: " Mị cúi mặt không nghĩ nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại
những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt … con ngựa, con trâu làm còn có
lúc nghỉ ..đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu làm việc cả đêm cả ngày".
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Cùng với công việc nặng nhọc triền miên là sự hành hạ trực tiếp của cha con Thống lý
trên thân xác, bản thân Mị bị đánh, trói và từng chứng kiến không biết bao nhiêu
người bị hành hạ đến chết. Ý chí của Mị dần bị đè bẹp dưới sức mạnh tàn bạo thời
trung cổ, mà hệ quả của nó là làm cho nỗi cay đắng đen tối luôn đọng lại đặc quánh
trong Mị, cô tự rút ra kết luận: mình không bằng con ngựa. Và rồi hành động của cô tê
liệt: lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Tuy nhiên nỗi đau khổ tinh thần mới là thật sự là nỗi đau tê tái, nó biến Mị thực sự trở
thành “con vật”mang tên người. Mất tình yêu đầu là nỗi đau tinh thần quá khứ, nhưng
đau hơn, xót hơn là Mị không được phép nghĩ về nó; bởi mỗi ý nghĩ về tình xưa ở nơi
cô đồng nghĩa với sự phạm tội ghê gớm. Chúa đất miền núi và tập tục cúng ma do
chúng lập nên, đã ràng buộc một cô gái có chồng và Mị sống song tồn với một ý nghĩ:
Mình đã "trình ma" Thống lý thì chỉ có còn cách chết rũ xương ở đây. Tô Hoài đã sắc
sảo nhìn thấy việc tập tục mê tín thần quyền bắt tay với giai cấp thống trị tạo ra một
thứ "thuốc phiện tinh thần" trói chặt đời Mị, nô dịch tinh thần cô.
Mị bị cấm đoán trong việc hòa nhập cộng đồng. A sử trói Mị, dùng bạo lực quyết liệt
tách Mị ra khỏi thế giới con người . Vì vậy, bên trong thể xác tơi tả của Mị là tâm hồn
cô đơn trống rỗng, nếu còn một mảnh nhỏ cũng bị cào nhàu nát. Thể xác ấy, tâm hồn
ấy bị giam hãm trong không gian chật hẹp tù đọng, làm cho nỗi đau thêm chồng chất,
sự bất lực đến cực cùng. Tô Hoài xây dựng đoạn truyện đầy ẩn dụ về căn buồng của
Mị, và với nó, nhà văn giúp người đọc hình dung được nỗi đau tột cùng của kiếp người nô lệ.
Trong không gian oi ngạt ấy, thời gian như ngưng đọng. Trước mát Mị chỉ là sắc màu
hoàng hôn dài đằng đẵng buồn tẻ, tê tái. Mị thực sự không còn sống nữa mà chỉ còn là
một sinh thể tồn tại chậm chạp bước về cõi chết. Cách áp chế ấy của gia đình thống lý
Pá Tra, đã tạo ra những hệ quả ghê gớm, nó đập vỡ biến dạng tâm hồn vốn trong như
pha lê của cô gái trẻ trung yêu đời là Mị.
Phần đầu truyện Mị chỉ chỉ nói một câu duy nhất còn lại là im lặng khuất phục, nhưng
Mị cũng đã nuôi ý định tự vẫn. Còn bây giờ, Mị không buồn nghĩ đến cái chết nữa.
Đây là một tình tiết khám phá xuất sắc về nội tâm nhân vật của nhà văn; bởi khi con
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
người nghĩ về cái chết, tức là còn tha thiết sống cuộc sống, muốn tìm cuộc sống tốt
hơn và phủ nhận thực tại. Nhưng khi không buồn nghĩ đến cái chết thì đã là sự buông
thả số phận cho định mệnh mà không còn ý niệm về sự tồn tại của mình. Logic phát
triển tâm lý ở Mị đã đến cái đỉnh bi kịch ấy. Với cô, thời gian không còn ý nghĩa,
không còn gợi cảm xúc và hình ảnh cuộc sống chỉ còn là màn sương mờ đục. không
quá khứ hiện tại. Nhưng ghê gớm hơn cả là sự tàn bạo đã làm cho Mị mất mát điều
lớn nhất đó là: đánh mất tình đồng loại. Cô gái có trái tim nhạy cảm ngày xưa bây giờ
hóa đá, chính bởi vậy ,trước cái chết đang ập xuống đầu A Phủ mà Mị vẫn bình thản,
đó là thái độ tàn nhẫn không thể có ở con người.
Toàn bộ những tình tiết truyện đen tối, vây bủa Mị, có sức gợi rất mạnh về bối cảnh
xã hội phong kiến và thần quyền miền núi. Đó là bản cáo trạng về sự tước đoạt quyền
sống của những con người lương thiện vô tội đến triệt để mà Mị là nhân chứng. Tội
phạm tạo lên bi kịch đó là cha con Thống lí và xã hội miền núi đen tối một thời. Và
hình ảnh Mị cũng trở thành hình ảnh khái quát cho những thân phận nghèo hèn nô lệ
nơi miền đất núi rừng âm u tù hãm. Con đường mà họ đi chỉ là hành trình dưới roi vọt
cường quyền, trong cái nhà tù oi ngạt khổng lồ là xã hội phong kiến miền núi.
Khi đọc Chí Phèo, người đọc đã chứng kiến một Chí Phèo từ người biến thành “con
quỷ dữ làng Vũ Đại”, thế nhưng chỉ một bát cháo hành của Thị Nở, một hòn than nhân
tính nhỏ trong cái đống tro tàn Chí Phèo bỗng bốc cháy một khát vọng làm người
lương thiện. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài cũng đã tìm được hòn than nhân tính
ấy. Bởi thế, Mị cô gái hồn nhiên tươi trẻ với bao khát vọng đã bị áp chế của thế giới
bạo tàn làm cho gục ngã và biến đổi chỉ còn là chiếc bóng đã hồi sinh.
Phát hiện của Tô Hoài là tìm thấy một sự thật nhân văn, đó là, song tồn với cuộc sống
đen tối còn có một cuộc sống khác tiềm ẩn trong Mị. Nhà văn đã đi sâu vào tận cùng
cuộc sống nội tâm nhân vật, phát hiện khơi gợi nó và ông đã tìm thấy nơi ấy vẫn nén
chứa một tiềm năng ham sống khát khao hạnh phúc.
Phản ánh sức trỗi dậy của Mị, Tô Hoài xây dựng một hoàn cảnh điển hình làm bối
cảnh hồi sinh của tâm hồn cô gái Mèo nô lệ. Đây là một dụng công tinh tế, nhờ nó mà
trước hết bản năng con người tự nhiên được trỗi dậy. Thiên nhiên chuyển mùa và
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
những vang động của cuộc sống đã tác động vào tận cùng ngõ sâu góc khuất của tâm
hồn bị băng giá đóng cứng lại và hơi ấm của nó đã làm cho sự băng giá ấy rã dần.
Hình ảnh mùa xuân về trên vùng núi cao, trong chuyện thật tươi đẹp với sắc màu sinh
động: "váy hoa đem phơi trên đá xoè ra như những con bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện
nở trắng đồi màu đỏ hoa, đỏ thẫm rồi sang màu tím man mác". Bên sắc màu là âm
thanh, là tiếng cuộc sống rộn rã; tiếng trẻ cười chơi quay và tiếng sáo gọi bạn tình…
Nhà văn dường như đã đến “gõ cửa” tâm hồn nhân vật tái hiện cái khoảnh khắc ngày
chuẩn bị đón xuân, tạo vật và con người bừng tỉnh. Hoàn cảnh ấy tác động vào tâm
hồn Mị. Trong thế giới thâm cung lạnh lẽo u ám ấy, dù không nhìn thấy sắc màu,
nhưng âm thanh tiếng sáo lay động Mị làm cho cô bừng thức. Chi tiết tiếng sáo được
chọn làm đối tượng tác động lấy thức Mị là sự tinh tế của ngòi bút Tô Hoài, bởi chỉ có
âm thanh mới thực sự xuyên được những bức tường dày, những cánh cửa khép, để rồi
tưới lên, thúc gọi trái tim cô quạnh héo úa làm cho nó hồi sinh. Và cũng bởi tiếng sáo
ấy gắn liền thời quá khứ mộng mơ của Mị mà sự thăng hoa nhất ngọt ngào nhất là
tiếng gọi của mối tình đầu.
Chính nhờ nó, niềm u mê tăm tối, nỗi lung linh hồn Mị lạc lối đã được đánh thức. Mị
vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ của mình bấy lâu nay, tâm hồn cô trở về với đời sống
thực tiễn , trong óc cô tái hiện kỷ niệm đẹp của một thời con gái: uống rượu chơi
xuân, nhịp sáo tình yêu dìu dặt… Mị đã vượt tình trạng “sống thực vật”, phí thời gian
và bắt đầu sống với những niềm vui chỉ trong chốc lát. Trong khoảng sống trở lại ấy
lần đầu tiên Mỹ có hành động , phản ứng đầu tiên là ý nghĩ muốn chết "nếu có nắm lá
ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay". Phản ứng ấy khẳng định rằng, Mị đã
thực sự sống lại, lý trí sáng suốt đã phân tích cho Mị hiểu rằng hoàn cảnh sống thực
tại là vô cùng đau xót tủi hờn.
Nhưng tiếng sáo (trong hoàn cảnh điển hình được xây dựng) vẫn thôi thúc quyến rũ "
tiếng sáo gọi bạn tình vẫn lơ lửng bay ngoài đường" tác động vào con người hồi sinh
của Mị, và mạnh hơn, nó xâm nhập vào trong tâm hồn và lý trí của cô tồn tại và sống
trong đó, thôi thúc day dứt "trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo". Tiếng sáo khơi gợi
sức sống như những đợt sóng ào ạt, những sục sôi trong miền khuất lấp đã trỗi dậy
thành hành động: “Mị đến góc nhà lấy ống mỡ xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
cho sáng". Xây dựng nhiều hình ảnh trong đoạn truyện này, nhà văn đã biểu đạt được
hành động thức tỉnh của nhân vật. Mị thắp đèn lên soi rọi vào chính cõi u mê của
mình, thoát khỏi đêm tối triền miên của quá khứ, thay đổi cái không gian lúc nào cũng
bàng bạc như hoàng hôn mà Mị lâu nay vẫn tồn tại. Mị đã tự hành động như một con
người tự do, tự đi theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút váy hoa … sửa soạn
chơi tết. Đoạn truyện toát lên một tinh thần nhân văn cao đẹp, Tô Hoài đã gửi đến
thông điệp, con người dù cùng cực và bị nhấn chìm trong đen tối đến mấy, thì trước
sau vẫn là con người. Vấn đề đặt ra là cái gì, bối cảnh nào sẽ nâng họ dậy và đỡ họ trở
lại với nhịp cuộc đời.
Giữa lúc lòng ham sống vừa xuất hiện, thì Sử đến cùng với những sợi dây trói. Động
tác trói vợ của A sử rất thản nhiên, rành rẽ. Một hành động trong bối cảnh cụ thể của
truyện, gợi cảm nhận sự tàn ác đến lạnh lùng của thế giới bạo tàn không còn lương tri.
Nhưng cái chính là cái tàn nhẫn ấy càng làm khát vọng của con người trở lên mãnh
liệt, một khi họ đã vượt qua cái chết, sự quằn quại đau đớn và đã hồi sinh. Mị bị trói,
nhưng tiết tấu của cuộc sống vẫn gọi thiết tha " tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc
chơi, những đám chơi … Mị vùng bước đi". Đoạn văn đã miêu tả thành công cuộc
giằng xé quyết liệt giữa khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn nhẫn lạnh
lùng. Xét phương diện tinh thần thì Mị đã thắng; khát vọng của Mị trào ra khỏi, “Bung
phá” những sợi dây trói khắc nghiệt vô tình. Tuy nhiên khát vọng ấy thực tế vẫn bị đè
bẹp, lằn dây trói cứa vào làn da thịt, làm Mị tỉnh lại, giấc mộng tan biến thay vào đó là
ý nghĩ cay đắng "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”; và như vậy cuộc
vùng dậy lần thứ nhất của Mỹ thất bại, sự quẫy đạp vươn dậy không đủ sức mạnh để thay đổi số phận.
Đột biến lớn nhất làm thay đổi kiếp sống của Mị là đêm Mị quyết định cứu A phủ.
Khởi đầu là tâm trạng lạnh lùng thản nhiên của Mị khi nhìn A phủ bị trói đứng " Mị
thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi". Tâm
hồn vốn nhân hậu đã rơi vào vô cảm, nhưng nước mắt A phủ đã đánh thức trái tim Mị.
Thoát ra khỏi vô cảm, My sống dậy bằng những hồi ức run rẩy nơi trái tim đầy thương
tích của chính cô: Mị nhớ lại A sử trói Mị; Cảm giác thương thân làm tăng thêm xúc
cảm thương người để rồi bật lên tiếng kêu " trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
". Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm trời trong cái thế giới nhà Thống lý, Mị mới bật kêu
được thành tiếng con người. Mị đã thực sự sống lại hoàn toàn, với ý nghĩa là con
người đầy đủ nhân cách; và do vậy đến đây, lòng thương người đã trở thành sức mạnh
lấn át nỗi thương thân. Lòng nhân hậu trong Mị đã hồi sinh, và chính nó trở thành
động lực giúp Mị chiến thắng nỗi sợ, thúc đẩy cô có hành động cứu người: Mị rút dao
cắt dây cứu A Phủ. Hành động xong, nỗi sợ xuất hiện nhưng bản năng tự vệ tích cực
đã kích thích hành động tiếp theo Mị chạy theo A phủ, với lời giải thích ngắn gọn "ở
đây thì chết mất". Mị đã trở về là Mị tư cách là con người và trưởng thành về nhận
thức, cô thấy rõ được bộ mặt của thế giới bạo tàn, kiên quyết từ bỏ nó. Hành động
chạy trốn của Mị là hành động chạy theo khát vọng tự do mà bấy lâu bị nén chặt. Mị
tự thoát ra khỏi bóng đêm để đến với ánh sáng; tự đập vỡ không gian oi ngạt cầm tù
mở ra cuộc đời mới cho chính bản thân mình, mặc dù ở thời điểm này, hành động ấy vẫn là tự phát
Nhân vật trung tâm Mị được xây dựng thành công và là hình ảnh văn học đặc sắc.
Trang viết về Mị ở phần đầu truyện đầy ấn tượng, trong đó có những đoạn viết thăng
hoa. Tài năng độc đáo của Tô Hoài là xây dựng lên những nghịch cảnh diễn biến tinh
vi trong con người Mị. Một cô gái xinh đẹp nhưng gánh chịu số phận đa đoan, một nội
tâm đầy mâu thuẫn. Các tình tiết viết về Mị hầu hết là đối thoại nội tâm, hay nói cách
khác Mị hiện lên trong truyện bằng những tình tiết thoát ra từ miêu tả nội tâm. Những
cuộc đối thoại nội tâm đã dẫn đến kết cục bất ngờ nhưng hoàn toàn hợp lý và logic.
Hành động cứu A Phủ là hành động táo bạo có ý nghĩa quyết định đời Mị và mở ra
cuộc sống mới. Ở đó, Mị và A phủ thành vợ thành chồng, cùng đội du kích đánh giặc
bảo vệ bản làng ở miền đất mới Phiềng xa. Hành động ấy khẳng định cuộc sống vốn
tiềm tàng và phong phú, những đau khổ và khát vọng tự do đều tồn tại trong Mị từ
trước, vấn đề đặt ra là cái gì khơi gợi cho sự tích cực trỗi dậy chiến thắng. Hành động
giải phóng (Cứu A Phủ và cứu mình) là hành động tự phát, và nó trở thành phát triển
tự giác ở đoạn sau của tác phẩm. Nhưng Tô Hoài đã tạo ra được cái khác biệt giữa
nhân vật Mị với các nhân vật: Thúy Kiều (Truyện Kiều - Nguyễn Du) hay Vũ Nương
(Người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ)… ở chỗ bông hoa xứ Mèo không tìm đến
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
một thế giới ảo tưởng, hoặc một vòng vây đen tối bi kịch mới, mà là khát vọng vùng
lên tìm một con đường sống với sự đổi thay và tự do triệt để.
Phân tích nhân vật Mị - Mẫu 7
Tô Hoài cùng với Nam Cao, Kim Lân, đều là những nhà văn hiện thực nổi tiếng trong
nền văn học Việt Nam hiện đại, để lại nhiều những tác phẩm có giá trị nhân văn, phản
ánh hiện thực xã hội một cách khách quan và nhiều xúc cảm, đau đớn, xót xa, thương
cảm, yêu thương,… Nếu như bản thân Nam Cao hay Kim Lân cả trước và sau cách
mạng đều tập trung vào đề tài người nông dân, trí thức tiểu tư sản vùng đồng bằng
Bắc Bộ, thì Tô Hoài lại được xem là nhà văn hiện thực của vùng miền núi phía Bắc
nước ta, bằng một tấm lòng thiết tha, gắn bó, ngòi bút cảm thông sâu sắc với số phận
của những con người khốn khổ chịu sự áp bức, bóc lột của cả cường quyền và thần
quyền phong kiến tàn ác. Đặc biệt, điểm sáng trong đề tài của Tô Hoài còn nằm ở việc
ông tập trung vào số phận của những người phụ nữ vùng cao, ông vừa khai thác cuộc
đời bất hạnh, vừa làm nổi bật cả những vẻ đẹp trong tâm hồn họ, đồng thời Tô Hoài
cũng dần hé mở những lối thoát, giải phóng cho nhân vật của mình bằng những định
hướng về một cuộc đời khi cách mạng về. Một trong những tác phẩm thành công nhất
của Tô Hoài chính là Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, một người phụ nữ có số phận
đớn đau, cam chịu, sau cùng lại vùng dậy đấu tranh để tìm lại cuộc đời, tìm lại tự do.
Mị là một người phụ nữ đại diện cho nhiều người phụ nữ khác Hồng Ngài, cũng như ở
cả vùng núi rừng Tây Bắc. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật Mị hiện lên là một cô
gái xinh đẹp, lại có tài thổi sáo rất hay, thuở còn xuân Mị được biết bao nhiêu trai bản
theo đuổi, đứng đến nhẵn cả góc nhà chỗ đầu giường Mị nằm. Thế nhưng Mị sinh ra
trong một gia đình nghèo khó, cha Mị vì lấy mẹ Mị mà phải đi vay nợ, món nợ với
nhà thống lý Pá Tra mà cho đến đời Mị vẫn không thể trả hết. Thành thử, Mị phải
chấp nhận số kiếp làm con dâu gán nợ, gả làm vợ của A Sử, con trai thống lý Pá Tra.
Mà dưới chế độ cường quyền thần quyền đàn áp thì cuộc đời của người con dâu gán
nợ, nó khốn nạn lắm, Mị nào được hưởng cảnh sung sướng của một cô con dâu nhà
giàu, mà trái lại phải nai lưng ra làm lụng quanh năm ngày tháng, đầu tắt mặt tối
không khác gì một nô lệ để trả nợ cho cha.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Cuộc sống đau khổ khiến Mị nhiều lần muốn ăn lá ngón để chết quách đi, nhưng Mị
lại không chết được, bởi chết rồi thì ai sẽ trả nợ cho cha, rồi dần dà Mị trở nên chai lì,
lầm lũi như con rùa trong xó cửa, chỉ biết ăn và làm, không thiết tha bất cứ điều gì
khác. Bởi lẽ Mị bị bắt về gán nợ, không chỉ là làm lụng lấy sức lao động để bù đắp,
mà Mị đã bị bắt về đã làm lễ trình ma nhà A Sử, cả đời Mị sẽ sống làm người nhà nó,
chết cũng là ma nhà nó rồi, Mị đã hoàn toàn không có một lựa chọn nào khác, không
có một sự tự do nào nữa. Chết không được thì người ta buộc phải sống, mà sống theo
cách của Mị thì nó lại đau đớn quá, Mị sống với một tâm hồn một trái tim như tro tàn
nguội lạnh, sống mà đến độ tưởng mình không còn là người nữa, mà chỉ là một cỗ
máy lao động có chân tay, biết nói chuyện trong nhà thống lý Pá Tra. Đến nỗi Mị thấy
mình đến loài súc sinh chăn trong nhà cũng không bằng bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị
cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa.
Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có
lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm
cả ngày”. Đọc những dòng văn ấy, người ta đã tưởng đến độ con người phải bị áp bức,
bị vắt kiệt bị giam cầm đến mức nào mới có thể có những suy nghĩ đớn đau đến
nhường này. Và cái khổ nó đã làm biến dạng cả tâm hồn, ngoại hình Mị, đầu óc cô
không nghĩ việc gì khác ngoài những việc làm lụng, dù làm gì cũng cúi mặt, buồn rười
rượi, lại ngày càng chẳng nói năng gì, dường như Mị quên đi cả khả năng giao tiếp của mình.
Không chỉ thế, đời Mị nó không chỉ khổ về thể xác, mà nó còn là cả những đớn đau về
một tâm hồn trong hoạt cảnh tù đày. Mị mang danh là vợ A Sử thế nhưng giữa họ
không hề có tình yêu, Mị cũng từng có một người yêu, nhưng món nợ của cha mà đứt
gánh. Khi về nhà này làm dâu, dường như cuộc đời của Mị chuyển sang hẳn kiếp nô
lệ, bị bóc lột không chỉ sức lao động mà con là tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Không gian sống của Mị là một căn buồng có một cái lỗ vuông bằng bàn tay, thật
chẳng khác gì cái nhà tù, mà từ đó trông ra “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết
là sương hay là nắng”, đời Mị cứ ngồi ở cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết
thì thôi. Rõ ràng là cuộc đời của một người tù chung thân, mà nó cũng chỉ xuất phát từ
cái nỗi Mị là đàn bà ở Hồng Ngài, nhà Mị nghèo quá, mà cha Mị lại mắc nợ người ta.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Thế nên để chống chọi với đau đớn đang tàn phá tâm hồn và thể xác, Mị bị buộc phải
trở nên chai lì một cách bất lực, sống cuộc đời của một con rùa lầm lũi trong xó cửa, cam chịu và bế tắc.
Những tưởng rằng, cuộc đời của Mị sẽ chỉ mãi nằm trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc ấy
và cái lòng ham sống, cái sự phản kháng vùng vẫy của Mị đã chết hẳn từ mấy năm
trước rồi. Nhưng không, nó vẫn âm ỉ, tiềm tàng nằm thật sâu trong lòng Mị, được bao
bọc xung quanh bởi những lớp chai cứng xù xì, dưới lớp tro tàn tàn nguội lạnh để chờ
thời cơ nổi dậy. Mùa xuân đến người ta đang nô nức, hào hứng chuẩn bị đón Tết, phụ
nữ phơi váy hoa khắp nơi, đám trẻ nô đùa chơi quay, và có tiếng sáo ai rủ bạn đi chơi
thấp thoáng. Chính cái tiếng sáo thiết tha, bồi hồi ấy đã thức dậy trong tâm hồn Mị
một chút niềm vui sống, thường ngày Mị chẳng thiết nói năng, thế mà nay Mị lại
nhẩm hát theo tiếng sáo du dương. Đó là dấu hiệu cho sự thức tỉnh của lòng ham sống,
ham vui, ham hạnh phúc trong Mị. Ngày Tết người ta uống rượu, Mị cũng uống “uống
ừng ực từng bát” như thể muốn trút hết những uất ức, thống khổ trong lòng một cách
thống khoái, mạnh mẽ. Thế rồi Mị lặng người nhìn người ta nhảy múa vui chơi, Mị lại
nhớ về những ngày còn ở với cha mẹ, Mị cũng có những ngày tháng tươi đẹp như thế.
Mị chợt nhớ mình còn biết thổi sáo, thổi lá cũng rất hay. Mị uống rượu và thổi sáo, Mị
tận hưởng cuộc sống, tự tạo dựng lại cho mình những niềm vui ngày xuân để quên đi
nỗi sầu khổ, đớn đau suốt mấy năm qua của mình. Tâm hồn Mị dần dần sống lại một
cách chậm rãi, Mị bắt đầu ý thức được mình còn trẻ trung, vẫn còn khao khát những
niềm vui của cuộc sống. Có lẽ rằng chính cái âm thanh tiếng sáo gọi bạn đầu làng, cái
âm thanh của sự sống cứ văng vẳng bên tai Mị, đã hâm nóng lại ngọn lửa thanh xuân
trong lòng cô, khiến “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những
đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có
chồng cũng đi chơi Tết”. Mị lại sửa soạn áo quần, tóc tai và muốn ra ngoài hòa vào
không khí vui nhộn của dịp Tết, hòa nhập với xã hội. Nhưng đau đớn thay, bấy nhiêu
những hớn hở, khao khát của Mị đã bị người chồng A Sử dập tắt, nó trói Mị chặt cứng
vào cột nhà khiến cô không thể động đậy. Lúc này đây mấy thấy cái tấm lòng ham
sống, khao khát tự do của Mị được bộc lộ một cách mãnh liệt và sâu sắc. Một người
vốn đã chai lì cảm xúc, quen bị hành hạ, quen lao động nặng nhọc quanh năm, thờ ơ
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
với cái chết, thế mà lại bắt đầu sợ. Mị nghĩ đến nhà này cũng có một người đàn bà bị
trói vào cột đến chết, “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ
tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau từng mảnh thịt”. Lúc này đây Mị sợ chết tức
là lòng ham sống của Mị còn mãnh liệt lắm, Mị thấy đau đớn tức là tâm hồn Mị đã
dần dà sống lại, cũng biết buồn biết khổ, chứ không còn chai sạn như trước nữa. Mị đã
sống lại một cách hoàn toàn cả về tâm hồn lẫn thể xác.
Cuộc gặp gỡ với A Phủ, có lẽ chính là định mệnh, là bước ngoặt lớn cho sự phản
kháng và việc giành lấy tự do của Mị sau khi tâm hồn nhân vật này hoàn toàn thức
tỉnh. Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói giữa sân, bị bỏ đói, bị đánh đập chỉ vì làm mất
một con bò, nhưng ban đầu Mị vẫn thản nhiên, thổi lửa hơ tay, dường như lòng người
đàn bà này lại quay trở về cái vẻ chai sạn, chết hết mọi xúc cảm như trước kia. Thế
nhưng sự bình tĩnh, im lặng ấy lại chính là dấu hiệu, sự chuẩn bị cho một quá trình
phản kháng mạnh mẽ mà không ai ngờ tới của Mị. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống
hai hõm má xám đen lại” của A Phủ, như là một giọt nước cuối cùng rớt vào ly nước
vốn đã đầy ăm ắp của Mị, trở thành giọt nước tràn ly. Nó đã dấy lên trong lòng người
đàn bà này biết bao nhiêu là cảm xúc, Mị thấy căm giận nhà thống lý Pá Tra, chúng nó
đã trói chết bao nhiêu người đàn bà như vậy, chúng nó thật độc ác, nhưng phận đàn bà
làm dâu trong nhà thì muôn đời phải vậy. Còn A Phủ sao phải chịu chết như thế, Mị
thấy bất bình, thấy xót xa cho một kiếp người nhưng còn chẳng bằng con bò bị mất,
phải chết vì một con bò, giống như Mị phải làm trâu làm ngựa, gần như chết hẳn trong
cái nhà này vì món nợ truyền kiếp của cha. Ôi sao đời Mị và đời A Phủ lại đớn đau
giống nhau đến vậy, chẳng lẽ cứ nghèo khó, không quyền thế là phải chịu áp bức, đau
khổ hay sao? Mị thương người đàn ông tội nghiệp đó, sắp phải chịu chết đói, chết rét,
chết vì bị đánh, Mị muốn cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi Mị cũng sợ mình sẽ là người
phải chịu chết thay. Mị đã đấu tranh tư tưởng nhiều lần, rồi cuối cùng Mị ra một quyết
định rất táo bạo, Mị cởi trói cho A Phủ, thì thào một tiếng “Đi ngay…”. Nhìn thấy một
kẻ vốn đã gần chết tới nơi, thế nhưng lại vẫn dùng hết sức bình sinh chạy vụt xuống
triền đồi, lòng Mị dường như vỡ ra cái gì đó, phải rồi, Mị đã giải thoát cho người ta thì
cũng phải giải thoát cho chính mình chứ, và thế là Mị chạy vụt theo A phủ. Những câu
nói cuối cùng trong đoạn trích “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất”, chính là minh
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
chứng cho sự phản kháng mạnh mẽ, ý thức mưu cầu tự do, lòng ham sống, ham tự do
mãnh liệt đang cháy ngùn ngụt trong lòng của người đàn bà nhiều năm vốn đã chai lì, lạnh giá.
Vợ chồng A Phủ nói chung và nhân vật Mị nói riêng chính là tấm lòng yêu thương,
thông cảm, trân trọng của Tôi Hoài đối với những người con miền núi, những con
người dù phải chịu nhiều những đắng cay chèn ép của thần quyền và thần quyền khắc
nghiệt. Thế nhưng họ vẫn có một niềm tin, khao khát sống mãnh liệt, sức phản kháng
tiềm tàng mạnh mẽ, sẵn sàng đứng lên tự giải thoát cho bản thân, giành lại quyền mưu
cầu hạnh phúc và tự do của bản thân. Từ đó Tô Hoài cũng nhấn mạnh tư tưởng của
một nhà văn cách mạng, ấy là hướng nhân dân, những con người đang chịu cảnh lầm
than thoát khỏi ách áp bức bằng con đường cách mạng, tạo dựng niềm tin của nhân
dân vào tương lai tươi sáng của Đảng và nhà nước.
Phân tích nhân vật Mị - Mẫu 8
Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như
trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì
sau năm 1945, tập "Truyện Tây Bắc" đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới.
Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã
giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ
chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá
trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình
vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.
Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài
thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn
của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa
xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn
hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ
trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc,
nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình
Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái
bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng
bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ.
Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời
Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào
nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô
gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô
gái hết mực hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được
nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã
trói buộc cuộc đời cô.
Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu,
đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã
bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ
đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng,
đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình.
Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn cả trâu
cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác
chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt
đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới tay Mị.
Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm
lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị
nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra
cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của
nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi.
Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật
tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ
bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống
mùa xuân "lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước".
Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô
cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan
đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen
nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị "quấn tóc lại với tay lấy cái
váy hoa vắt ở phía trong vách", Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như
bao người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy.
Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ
phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã
chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy
mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác
dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của
nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị.
Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị
xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp
người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh
trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải
thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí
thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc họa tính cách nhân vật qua suy nghĩ và
hành động cùng lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình
tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế
độ áp bức tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói
thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Phân tích nhân vật Mị - Mẫu 9
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt
kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về
đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể.
Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn
bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công
nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với
cách mạng của nhân dân Tây Bắc .
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất –
giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của
chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Vợ
chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý
và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có
một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy,
dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy
cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như
lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí
quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một
số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.
Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp. Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc,
cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một
tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương. Quả thế, Mị đã được
yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thanh
hò hẹn của người yêu. Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một
cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống
cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh
nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu
ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai
cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.
Song nhà văn còn khắc họa đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới
hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay,
Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương
hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li
tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế
độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy
đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui
sống trong những con người vô cùng đáng sống.
Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha.
Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài
mãi sự tồn tại vật vờ. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi muốn chết nghĩa
là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn
thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không
còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước cũng chỉ là cái xác
không hồn của Mị mà thôi.
Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia
dang còn một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong
đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp
thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên,
thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu .
Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Gió
rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp
phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ.
Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng
quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người
hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ
về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ
mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ.
Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và
A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những
khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của
mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng
lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân
phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng
phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra
cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó
lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn
vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị
mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút
thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên
không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi“.
Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi
chơi, bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một
thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống
trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc
mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân
bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến
một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và
cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại
dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ.
Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va
chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân
đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người
con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ
phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm
trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị
mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy
hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó
cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt
bắt đầu từ những dòng nước mắt:“Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh
bò xuống hai má đã sạm đen. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn
đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói,
đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm
không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị
nhớ ra mình, xót thương cho mình.
Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể
thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình
thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt
lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây
thôi còn người kia việc gì mà phải chết ”. Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy
theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết
hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con
người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng
yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn
những con người ham sống như Mị.
Vợ chồng A Phủ qua việc khắc họa sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị đã tố cáo
hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa
đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh
phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động. Đặc biệt đề cao sự đồng
cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem
lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ trong những ngày
tháng sưu cao thuế nặng. Để có tiền nộp sưu cho chồng (thuế thân) và người em chồng
đã mất. Chị Dậu đã phải bán con, chị Dậu tưởng khổ đến thế là cùng, nhưng người
phụ nữ bất hạnh ấy còn có một gia đình.
Phân tích nhân vật Mị - Mẫu 10
Tô Hoài là cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam với phong cách viết
gần gũi với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây
Bắc” là câu chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con
người khi bị áp bức, bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mị có
sức ám ảnh đối với người đọc.
Tô Hoài đã dẫn dụ người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhàng
nhưng đầy ý vị “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái
ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay
sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi
mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài đã rất khéo léo khi gợi tả hình ảnh của Mị qua
những cử chỉ và nét mặt đặc trưng đó. Một sự đối lập đến đau lòng giữa căn nhà rộng
lớn của thống lý và sự lầm lũi, côi cút của người con gái bí hiểm đó.
Một cô gái chịu sự dày vò về tinh thần, nhưng dường như lại có sức mạnh, nghị lực
phi thường đang được nhen nhóm trong lòng của Mị.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nết na, được nhiều trai làng theo đuổi. Những tưởng rằng
cuộc sống của Mị sẽ sung sướng, hạnh phúc nhưng vì món nợ mà mẹ Mị với nhà
thống Lý đã khiến cho cuộc đời cô rơi vào bế tắc và tuyệt vọng như bây giờ. Thương
cha, thương cho thân phận hẩm hiu của mình mà Mị đành lặng lẽ về làm dâu nhà
thống Lý trong tủi nhục và đau khổ.
Tô Hoài đã diễn tả cuộc sống như chết rồi của Mị tại nhà thống Lý, một cuộc sống cơ
cực, không khác gì thân trâu ngựa. Phận là con dâu nhưng Mị lại bị đối xử không khác
gì nô lệ, thậm chí thân trâu ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi “con trâu con ngựa làm
còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở nhà này
vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm”. Bị đày đọa về thể xác và tinh thần khiến cho
Mị ngày càng rơi vào cảnh bế tắc, tuyệt vọng.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ và nhạy cảm, Tô Hoài đã khắc họa trạng trạng thái lầm lũi, một
kẻ sống lặng câm y hệt “một con rùa trong xó cửa, căn phòng chỉ có một lỗ sáng to
bằng bàn tay”. Căn phòng đó giống như địa ngục trần gian, giam giữ cuộc đời Mị,
khiến cho cuộc đời một người con gái đang tuổi thanh xuân phải chôn vùi nơi đây.
Thống lý Pá Tra là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hà khắc, hủ tục, đẩy con
người vào bước đường cùng không thương tiếc. Những người nông dân thấp cổ bé
họng không biết kêu than ai, chỉ biết chấp nhận và chịu đựng.
Đã có lúc Mị muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình nhưng nghĩ đến cảnh
người cha già, thương cha nên cô đành chấp nhận cuộc sống hiện thực. Niềm khát
khao sống, khát khao yêu trong con người Mị dường như đã không còn. Mị chấp nhận
sống, chấp nhận sự tồn tại như đã chết. Bên trong Mị vẫn còn tiềm ẩn sức sống rất
mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng nổ.
Tô Hoài đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp của Hồng Ngài khiến cho chính
người đọc cũng cảm thấy thích thú. Nó dường như là đòn bẩy để khơi gợi lên niềm tin
và nghị lực trong cuộc sống. Mị đã lén uống rượu, trong cơn say, Mị đã ý thức được
bản thân mình muốn gì “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng
ngày tết vẫn đi chơi. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn ở với
nhau”. Lúc ấy Mị đã ý thức được những khát khao trong lòng mình cháy bỏng như thế
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
nào và tiếng sáo ngoài kia là một trong những động lực khơi gợi lại những kỉ niệm êm
đẹp một thời Mị từng có.
Nhưng chính hành động này của Mị đã khiến cho A Sử biết được, hắn trói Mị vào cột
và bỏ đó đi chơi. Mị vẫn đang lâng lâng trong hơi men rượu, và ký ức của cô lại ùa về
dữ dội. Tuy nhiên thực tại đã kéo Mị lại với những gì mà Mị đang đối mặt: đau đớn và
tủi nhục, khắp mình mẩy đau nhức.
Tuy nhiên có thể nói cảnh tượng Mị cởi trói cho A Phủ mới là cảnh tượng khắc họa
cực kỳ sắc nét và chân thực tâm trạng, khát khao của Mị. Mị đã vùng lên đấu tranh,
vùng lên đòi hạnh phúc của chính mình. Giọt nước mắt của A Phủ đêm hôm ấy đã
đánh thức tình cảm, sự bùng cháy trong trái tim của Mị: “Đêm ấy A Phủ khóc, một
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã sạm đen”. Giọt nước mắt ấy đã
khiến thay đổi cuộc đời Mị về sau.
Chi tiết Mị cởi trói cho A phủ và quyết định chạy trốn theo A Phủ là một sự bùng nổ
về tinh thần. Sự đè nén bấy lâu nay trong lòng Mị đã được bứt phá và giải tỏa ra. Mị
đã có thể tự lựa chọn con đường đi cho chính mình, Mị tự đấu tranh, Mị không thể
mãi chịu cảnh bị người ta hành hạ, đè nén. Đây chính là sự bứt phá trong con người
của Mị. Đây cũng chính là sự thành công của Tô Hoài khi khắc họa hình tượng nhân vật này.
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt hình
tượng nhân vật Mị để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc nhất.
Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 11
Con người sinh ra vốn đã được tạo hóa ban tặng cho quyền được sống, được làm
người và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Ý thức được điều đó, khao khát được hòa
mình vào cuộc sống, con người đã vượt qua mọi trở ngại khó khăn, thử thách để
hướng tới một điều thật ý nghĩa: sự sống. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng
A Phủ” của Tô Hoài cũng đã phần nào biểu hiện điều đó. Bằng sức sống mãnh liệt,
lòng khát khao được sống, Mị đã can đảm và tìm thấy sự sống cho chính mình.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ làm việc và có tài thổi sáo giỏi. Chính vì thế mà
cô gái ấy là niềm khao khát, ước mơ của bao nhiêu chàng trai: “Có biết bao nhiêu
người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Có thể nói, cuộc sống của Mị đang trên đà
đơm hoa kết trái, một cuộc sống mà ở tuổi của cô ai cũng phải ao ước. Thế nhưng
bước ngoặt của cuộc đời Mị đã dần chuyển sang hướng khác khi cô trở thành con dâu
gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Và người con gái đẹp ấy lại một lần nữa tỏ rõ tấm
lòng hiếu thảo của một người con khi nghe lời cha, chấp nhận về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý.
Tiếng là con dâu nhà thống lý nhưng ai cũng thấy được cô con dâu chẳng khác gì kẻ
tôi đòi, phải làm việc quần quật suốt ngày đêm. Hình ảnh Mị thật tội nghiệp như một
“con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, như “con trâu con ngựa nuôi trong chuồng, chỉ
biết ăn cỏ, chỉ biết làm việc mà thôi”. Đối lập hoàn toàn với cha con nhà thống lý ăn
chơi trác táng là hình ảnh cô Mị ngồi cạnh tàu ngựa, trước tảng đá, dù chẻ củi hay
gánh nước từ dưới suối lên, lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi. Sống trong nhà
thống lý Pá Tra không phải là cô Mị trẻ trung, yêu đời như ngày xưa nữa. Chính thần
quyền và cường quyền nhà thống lý đã giết chết tuổi thanh xuân, bóp nghẹt cuộc sống
của Mị cả về thể xác lẫn tâm hồn. Lúc này, Mị không khác gì một cái xác không hồn
vật vờ, làm việc như nữ nô, thành một kẻ hầu người hạ cho chồng mà có thể bị chồng
đánh đập tùy hứng bất cứ lúc nào. Cuộc sống của Mị khép chặt trong căn buồng kín
bưng, trông ra ngoài chỉ duy nhất có “một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc
nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Ý thức về cuộc sống của Mị dường như đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. “Ở lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Điều này đã cho thấy con người nô lệ trong Mị vẫn
còn sống, con con người thực của cô thì dường như đã chết. Mị không bày tỏ, không
kêu than cũng không phản kháng gì, chỉ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa và
“chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi”.
Thế nhưng, “ngoài đầu núi lấp ló, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng
sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi”. Ta tưởng chừng như cô Mị đã trở nên vô cảm vô hồn,
chỉ biết chấp nhận kiếp sống đọa đày nhưng không phải. Chính tiếng sáo gọi bạn trong
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
đêm tình mùa xuân – biểu tượng của tình yêu và khát vọng sống – đã gợi dậy những
sâu thẳm trong lòng Mị bấy lâu. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”. Cách
uống rượu ấy như báo trước một cuộc nổi loạn mà chính bản thân Mị cũng chưa ý
thức rõ: “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, còn Mị thì đang sống về
ngày trước”. Chính những ngày tháng tuổi trẻ nghèo khó nhưng tự do, vui vẻ và hạnh
phúc đã khiến cho lòng ham sống của Mị trỗi dậy: “Mị thấy phơi phới trở lại”. “Trong
đầu Mị rập rờn tiếng sáo” và “Mị muốn đi chơi”. Từ chuyển biến trong suy nghĩ, Mị
đã có một hành động thật ý nghĩa” “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ
vào đền cho thêm sáng” và “với tay lấy cái váy hoa vắt ở vách” để chuẩn bị đi chơi.
Hành động này có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm
triền miên của quá khứ, và giờ đây Mị muốn bước ra khỏi cuộc sống tối tăm ấy, đến
với tiếng sáo và những âm thanh rộn rã ngoài kia để được sống là chính mình.
Vậy mà nghiệt ngã thay, khi Mị toan bước đi thì bị A Sử kéo lại, chẳng nói chẳng rằng
liền trói Mị vào cột nhà. Và bây giờ Mị khóc, khóc cho cái oan trái của một kiếp
người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống “không
bằng con ngựa”. Men rượu làm cho Mị say, Mị mơ màng giữa ý thức và thực tại cho
nên cô có ý định “vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa được. Mị không còn
nghe thấy tiếng sao nữa”. Chính thực tại đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết
cực ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát thì nhân vật không thể tự giải
thoát cho mình, đồng thời nó cũng bắt đầu khơi dậy cho những cuộc nổi loạn trong
tương lai của nhân vật.
Ngọn lửa khao khát sống trong cô Mị thực sự bùng cháy khi tự tay cô cởi trói cho A
Phủ. Chứng kiến cảnh A Phủ bị đánh đập dã man, và hình ảnh “một dòng nước mắt
lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã khiến cho Mị chợt nhớ lại cái đêm
mình cũng bị trói đứng vào cái cột thế kia, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống
cổ mà không cách nào lau đi được. Chính từ đó đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương
những người cùng cảnh ngộ. Mị đã thấy được cái bất công phi lý, sự tàn ác của cha
con nhà thống lý và không muốn thấy thêm một cái chết oan ức, cho nên cô đã cởi trói
cho A Phủ. Rõ ràng Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô đã sẵn
sàng chịu trói và chịu chết thay cho A Phủ vì cô nghĩ rằng, chỉ có chết thì cô mới có
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
thể được giải thoát khỏi kiếp sống tù, đớn đau nhục nhã này. Nhưng không phải. Khi
thấy a Phủ chạy đi rồi, chạy đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị không
muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống cho nên “Mị vụt chạy ra” theo A Phủ.
Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình.
Qua việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài cũng đã phần nào tố cáo chế độ thống trị của
bọn chúa đất, địa chủ phong kiến, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của những người nông
dân miền núi hiền lành, chất phác. Họ biết yêu cái đẹp, trọng lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình.
Sức sống của nhân vật Mị được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình, độc đáo. Từ một
con người dường như đã bị mất hết sức sống, nhưng với một nghị lực phi thường, một
lòng ham sống mãnh liệt, Mị đã tìm thấy cuộc sống cho bản thân mình và dám đấu
tranh với những thử thách để rồi vượt qua. Thật vậy, Nguyễn Khải cũng đã từng triết
lý: “Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải
có sức mạnh để vượt qua những ranh giới ấy”. Con đường vượt qua những ranh giới
của nhân vật Mị phần nào đã chứng minh cho chân lý ấy.
Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 12
Đọc “ Tắt đèn” của Ngô Tất Tố ta không thể quên được hoàn cảnh cuộc đời của chị
Dậu- cuộc đời của kẻ khốn khó cùng yêu thương… cho đến khi đọc truyện ngắn “ Vợ
chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài ta mới nhận thấy rõ hơn, sâu sắc hơn nỗi khổ của
người miền núi nói chung và điển hình là nhân vật Mị. Một cô gái xinh đẹp hiếu thảo
nhưng lại là nạn nhân của chế độ phong kiến bất công tàn ác. Xã hội ấy đã biến Mị trở
thành một con người câm nặng, vô cảm, lầm lũi, nhưng cuối cùng con người ấy không
chịu số phận tự vùng lên cứu người và giải thoát chính bản thân mình.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái Mèo xinh đẹp, thổi sáo
hay và có nhiều chàng trai mê, cô chăm chỉ hiếu thảo với cha già, trong cô luôn luôn
khát vọng về một cuộc sống tự do. Những món nợ truyền kiếp do bố mẹ Mị lấy nhau
không có tiền vay thống lí Pá Tra năm nào cũng phải trả lãi một nương ngô, đó là sợi
dây oan nghiệt đối với Mị. Hạnh phúc không đến với Mị thời con gái, Mị đã bị A sử
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
con trai thống lí Pá Tra bắt cóc đem về cúng trình ma Mị trở thành con dâu gạt nợ cho
nhà thống lí. Mị làm dâu nhưng thực chất là nô lệ, vùi dập, chà đạp tước đi mọi quyền
sống của con người, từ đây Mị sống kiếp sống của con vật. Ở đoạn đầu của tác phẩm
hình ảnh Mị “ một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc
nào cũng vậy dù quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe
suối lên cô ả cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách miêu tả này của Tô Hoài đã cho
người đọc thấy được các trơ lì, vô cảm của Mị giống như kiếp con ngựa. Hình ảnh ấy
đối lập hoàn toàn với nhà thống lí quyền thế giàu có “có nhiều nương nhiều ruộng
nhiều thuốc phiện nhất làng”. Trong công việc Mị lúc nào cũng cúi mặt xuống Mị
nghĩ “ mình không bằng con trâu con ngựa”. Căn buồng Mị ở như chuồng nhốt thú kín
mít qua ô cửa sổ bằng bàn tay mình nhận ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương
hay nắng. Nó thể hiện sự tù túng âm u lạnh lẽo giống như địa ngục trần gian hãm thể
xác và tâm hồn của Mị. Mị không chỉ bị tước đoạt về sức lao động mà còn bị áp chế
về cả tinh thần “ nó đã bắt mình về trình mà nhà nó rồi thì chỉ còn đợi chết ở đây
thôi”. Lúc mới làm dâu nhà thống lí Pá Tra đêm nào Mị cũng khóc, tủi cực Mị tìm đến
cái chết. Mị toan ăn lá ngón tự tử. Nhưng Mị thương cha già “mày chết nhưng nợ tao
vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì ai làm nương ngô ngô giả được nợ
người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Không được con ơi!” Mị ném nắm là ngón xuống
đất. Mị quay trở lại với kiếp sông trâu ngựa “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.
Những chi tiết gây ám ảnh ngột ngạt bức bối về một nhà tù rùng rợn về số phận, kiếp
người, cuộc đời bị áp bức nơi địa ngục trần gian. Nhà văn đã cất lên tiếng nói đòi nhân
quyền của con người. Tố cáo tội ác của xã hội phong kiến miền núi tàn ác vô nhân đạo
đã làm tàn lụi niềm vui sống của con người. Nhưng điều đau xót nhất với Mị là phải
sống với người chồng mà mình không thương yêu lại còn bị đánh đập hành hạ. Những
đêm tình mùa xuân lại trở về trên núi cao, tiếng sáo tiếng khèn gọi bạn tình Mị muốn
đi và nhẩm theo lời bài hát, Mị uống rượu. Nhưng khát vọng của Mị chưa được thực
hiện thì bị A sử chặn đứng lại dùng một thúng sợi đay A sử trói đứng Mị suốt đêm
trong căn buồng u tối. Dây trói siết chặt làm cho da thịt Mị đau nhức như bị đứt ra
từng mảng, đau đớn xót xa Mị nghĩ “ kiếp mình không kiếp ngựa”.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Sau khi A Phủ đánh A sử bị thương, Mị được cởi trói để đi lấy lá thuốc cho chồng
“Mị cũng thức suốt đêm im lặng ngồi xoa thuốc dấu cho chồng. Lúc nào Mị mỏi quá,
cựa mình, thì những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mị lại gục đầu nằm thiếp
đi. Khi đó, A sử bèn đạp chân vào mặt Mị. Mị choàng thức, lại nhặt nắm là thuốc xoa
đều trên lưng chồng”. Những đêm đông trên núi cao dài và buồn nếu như không có
bếp lửa làm bạn thì Mị sẽ chết tàn chết héo, mỗi đêm Mị trở dậy hơ tay, hơ lưng,
không biết bao nhiêu lần. Có đêm A sử chợt về thấy Mị ngồi đấy hắn liền đánh Mị
ngã ngay xuống bếp lửa. Hành động của A sử cho thấy hắn là một kẻ vũ phu, những
quan niệm lạc hậu của xã hội phong kiến miền núi vẫn còn tồn tại.
Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã không để cho Mị sống mãi kiếp ngựa trâu mà còn
phát hiện ở Mị cái khả năng thay đổi cuộc đời. Khả năng ấy bắt nguồn từ quy luật “ có
áp bức có đấu tranh”. Đó là việc Mị cởi trói cứu A Phủ Với Mị là vậy còn với A Phủ
những hành động ấy còn tàn ác dã man hơn. Trước hết điều đó được thể hiện ở màn
xử kiện phạt vạ. Mở màn là hình ảnh đầy ám ảnh A Phủ bị trói, bị đánh đập một cách
tàn nhẫn “ người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ
chửi, lại hút”. Tất cả cứ như một vòng tuần hoàn “ cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm,
càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Hành động tàn ác ấy đã khiến “
mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt chảy máu”. Tất cả đâu chỉ có vậy, sự tàn ác còn
được thể hiện khi A Phủ làm mất con bò để hổ ăn thịt, A Phủ bị cha con thống lí Pá
Tra trói đứng vào cột ở giữa núi rừng mùa đông Hồng Ngài. Sương muối giá buốt lại
bị bỏ đói. Chỉ là mất con bò thôi mà bọn chúng đã coi mạng sống của con người như
một con động vật rẻ mạt, không có giá trị
Nếu như trong cùng một giai đoạn văn học này, trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất
Tố, chị Dậu phải chịu sự ràng buộc của sưu cao thuế nặng, thì trong truyện ngắn “ Vợ
chồng A Phủ” này cả hai nhân vật đều chịu sự chi phối ràng buộc của thần quyền. Đó
chính là phương thức hữu hiệu để giai cấp thống trị nô dịch người dân nghèo. Mị bị
bắt về làm dâu với thân phận đàn bà, lại đã cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra, Mị
không còn cách nào khác chỉ biết sống tiếp “nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi chỉ
còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” và từ đấy Mị sống trong danh nghĩa là con dâu
nhưng thực chất là thân phận nô lệ.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Chính nỗi đau bất hạnh của Mị và A Phủ cùng với sự tàn nhẫn độc ác của cha con
thống lí Pá Tra đã làm thức dậy tinh thần phản kháng của người đàn bà yếu đuối. Tình
thương tiềm ẩn trong Mị không chết, cũng như sức sống của Mị không thể bị tê liệt
hoàn toàn. Trong đêm đông rẻo cao ấy sức sống của Mị đã hồi sinh khi Mị bắt gặp
dòng nước mắt của A Phủ “ một ngọn lửa sưởi vừa bừng lên Mị cay mắt trông sang,
thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước lấp lánh đang bò xuống hai hõm má
xám đen lại”. Giọt nước mắt của người đàn ông tràn đầy sức sống giàu can đảm nhưng
ở đây đang ở thế tuyệt vọng và oan ức đã có tác động sâu sắc tới Mị. Giọt nước mắt ấy
đã khiến Mị từ cõi quên đến cõi nhớ. Nhớ lại A sử đã trói Mị không quên cảm giác uất
hận đau đớn và từ đây trái tim Mị không cô đơn nữa. Mị đã thấy được kẻ thù “ chúng
nó thật độc ác” quá phẫn nộ “cơ chừng này chỉ đêm mai người kia sẽ chết,chết đau,
chết đói, chết rét, phải chết”. Cách ngắt nhịp ngắn và điệp từ “ chết” đã diễn tả những
căm phẫn và xót thương đang ào ạt dâng lên trong lòng Mị. Bởi hơn ai hết Mị hiểu thế
nào là chết đau, chết đói, chết rét, trên cơ thể kia. Trỗi dậy trong lòng Mị lúc này là
tinh thần phản kháng mạnh mẽ, tình thương đã đem lại chó Mị sức mạnh khiến Mị từ
người phụ nữ vô cảm, cam chịu nô lệ trở thành người phụ nữ can đảm mạnh mẽ. Mị
tính định cởi trói cho A Phủ, nhưng Mị nghĩ đến biết đâu A Phủ chạy trốn được Mị bị
trói thay vào đó và chết ở đó thì sao?
Nhưng dù nghĩ như vậy nhưng Mị cũng không thấy sợ bởi lòng can đảm và sức mạnh
trong Mị đã trở lại. Nó đã dẫn đến hành động táo bạo rút dao cắt đứt dây trói. Đây là
hành động bất ngờ đến với cô nhưng lại là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng
mãnh liệt trong Mị. Mị đã chạy băng trong đêm tối theo người đàn ông xa lạ với khát
vọng một tương lai tươi sáng hơn. Hành động quyết liệt và mạnh mẽ của Mị trong
đêm ấy không chỉ giải phóng cho A Phủ mà còn giải phóng cho chính bản thân mình.
Cùng lúc đó Mị đã phải vượt lên hai sức mạnh của cường quyền và thần quyền để có
sức mạnh tự do đi theo con đường cách mạng. Điều đó chứng tỏ rằng giai cấp thống
trị có thể đày đọa người lao động nhưng không thể dập tắt được khát vọng sống và
khát vọng tự do của họ.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật rất độc đáo, các kể chuyện đi từ hiện tại đến quá khứ
rồi lại đến hiện tại, cách kể chuyện như vậy để cho thấy được số phận cực khổ luôn
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
sống trong đày đọa. Hơn thế chuyện còn sử dụng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật
một cách sâu sắc đặc biệt trong đêm tình mùa xuân và trong đêm cứu A Phủ. Tô Hoài
đã thành công khi sử dụng hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ để coi đó là động lực
cho Mị vùng dậy đấu tranh. Từ đó đến bước ngoặt cuộc đời của hai nhân vật
Viết về cuộc đời và số phận của nhân vật Mị, nhà văn nhân danh quyền con người để
nên án, tố cáo tội ác của bọn thực dân và phong kiến đã áp bức đọa đày tước đoạt
quyền sống, quyền làm người của họ. Nhà văn không chỉ thương cảm sâu sắc với nỗi
đau khổ con người mà còn đồng tình với khát vọng giải phóng, đồng thời còn mở ra
cho họ con đường tươi sáng. Từ đó thấy được chiều sâu nhân đạo của nhà văn.
Hình tượng nhân vật Mị - Mẫu 13
Tô Hoài là một trong những tấm gương sáng về tinh thần lao động sáng tạo, về công
phu rèn luyện tay nghề của một người viết văn xuôi ở Việt Nam.
Ông đã có hơn nữa thế kỷ cầm bút. Ông đã được chủ tịch nước tặng giải thưởng Hồ
Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I -1996). Nhà văn đã gửi đến chúng ta một khối
lượng tác phẩm nhiều đến mức đáng khâm phục: hơn 100 quyển sách với nhiều thể
loại khác nhau. Tuy nhiên những trang viết thực sự đạt chất lượng cao của cây bút này
thể hiện ở ba mảng đề: đề tài miền núi Tây Bắc, đề tài vùng quê thành Hà Nội và các
đề tài dành cho thiếu nhi. Chỉ xét riêng về đề tài miền núi Tây Bắc, truyện ngắn Vợ
Chồng A Phủ trong tập truyện Tây Bắc (1953) là một thành tựu nổi bật của Tô Hoài.
Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công xuất sắc hình tượng nhân vật
Mị, đặc biệt là đoạn cô bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra đến khi trốn khỏi Hồng Ngài.
Trước hết, chúng ta thấy Mị là một cô gái con nhà nghèo, xinh đẹp, ham sống, có đời
sống tinh thần phong phú. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải
đến vay nhà thống lý, bố của Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một
nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ
chết rồi cũng chưa trả hết nợ. Nhưng đó không phải là lý do để các chàng trai tốt bụng
xà Mị. Trái lại, đến tuổi yêu đương, Mị được nhiều chàng trai mê say vì sắc đẹp. vì
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
phẩm hạnh, suốt đêm đứng thổi sáo xung quanh vách hoặc thổi sáo đi theo Mị. Và bản
thân Mị cũng thổi sáo giỏi, hát hay. Mỗi khi tiếng sáo vọng lại, lòng Mị cũng thiết tha
bổi hổi rồi ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Mặc dù ham sống như thế
nhưng có lúc Mị muốn tự kết liễu cuộc đời mình trong lần trốn về nhà bố. Thật ra, vì
ham sống nên Mị không chấp nhận kiếp sống tủi nhục, chết ngay trong cõi sống.
Nhưng với Mị, thời điểm ấy, cái chết là phương tiện để giải thoát chứ không phải là mục đích của Mị.
Mặt khác, Mị là cô gái sớm gặp bất hạnh, đau khổ đến cùng cực đồng thời còn là một
nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần. Vào một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ
vách mà cứ ngỡ là tiếng hò hẹn của người yêu, Mị bèn nhấc tấm vách gỗ thì bị A Sử
bắt về làm vợ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Bao nhiêu mộng đẹp của
lứa tuổi xuân thì mơn mởn bị chôn vùi. Sự trinh trắng của người con gái bị A Sử cướp
đoạt. Mị đau buồn có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Mị đã hái lá ngón
ở trong rừng, giấu trong áo rồi trốn về nhà lạy chào cha lần cuối để tự tử. Nghe lời
than vãn, phân trần của người cha ốm yếu, Mị không đành chết bởi lẽ Mị chết thì bố
Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. cho nên, Mị đành phải trở lại nhà thống lý
để làm nô lệ. Mị bị giày xéo bị chà đạp gần như chỉ còn là công cụ biết nói: Ở lâu
trong cái khổ Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là
con ngựa (…) Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa. Mị bị cướp đoạt công sức một cách
tàn nhẫn : con ngựa con trâu làm có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai
cỏ. đàn bà con gái trong nhà này thì vùi vào làm việc cả ngày lẫn đêm. dường như Mị
bị chai lì mọi cảm giác đến mất cả đời sống ý thức: mỗi ngày Mị càng không nói, lùi
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ
một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng trăng trắng không biết là sương hay
nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ
chết thì thôi. Sở dĩ Mị an phận như thế là do bọn thống lý Pá Tra đã đưa vào đầu óc cô
những tư tưởng mê tín dị đoan khá cay độc.Ở dân tộc H’mông thời trước có những hủ
tục: người con gái khi bị “trình ma” thì coi như cuộc đời trở nên đen tối từ lúc ấy: nếu
chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một
người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con. Và nếu
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
chồng lại chết, lại vẫn phải ở với người đàn ông khác trong nhà ấy! . (Tô Hoài - cảm
nghĩ về truyện Vợ chồng A Phủ). Do đó, Mị đã tin một cách tuyệt đối : ta là thân đàn
bà, nó đã bắt tâ về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.
Thế nhưng, Mị là một cô gái có sức sống tiềm tàng, một khao khát tự do, hạnh phúc
mãnh liệt. không có sự bạo tàn nào vùi dập, trói buộc nổi, nhất là khi được ngoại cảnh
tác động. khi mùa xuân tràn về các làng Mèo, trai gái tụ tập bên nhau nô đùa, nhảy
múa, thổi sáo gọi bạn tình, Mị đã sống lại những chuỗi ngày tự do. Ngồi trong căn
phòng tăm tối, Mị lén uống rượu uống ừng ực từng bát mà bên tai vẫn văng vẳng tiếng
sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng. dù
chẳng năm nào A Sử cho cô đi chơi tết, nhưng cô rất khao khát được đi như bao cô gái
khác cùng trang lứa. Hành động của Mị góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm
vào đĩa đèn cho sáng, chứng tỏ cô không cam chịu bóng tối ngột ngạt, u ám của kiếp
nô lệ phong kiến. trong phút giây, Mị đã quên đi cảnh ngộ thực tại để hành động theo
tiếng gọi giục giã , tha thiết, rạo rực, cháy bỏng từ trái tim khát khao hạnh phúc, tình
yêu của bản thân mình, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong
vách chuẩn bị đi chơi. Bất ngờ, A Sử đã tàn nhẫn trói đứng cô vào cột nhà, quấn luôn
tóc trên cột. Nhưng cái kiểu trói thời trung cổ ấy của A Sử vẫn không dập tắt được
lòng ham sống vẫn âm ỉ, tiềm tàng trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo du dương trầm bổng,
tượng trưng cho sức sống mùa xuân của tuổi trẻ mạnh đến nỗi tuy Mị bị trói nhưng
vẫn không biết mình đang bị trói. tiếng sáo đã đưa cô đi theo những cuộc chơi, những
đám chơi, và Mị cố vùng bước đi trong cảnh bi thảm: tay chân đau không cựa được.
Tuy cả đêm ấy Mị phải trói đứng, khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức nhưng
trong lòng cô vẫn nồng nàn tha thiết nhớ cuộc vui.
Thật dữ dội làm sao cái sức sống ấy đặc biệt hình ảnh a Phủ bị trói đứng một lần nữa
lại đánh thức nơi Mị nỗi tủi nhục của than phận “không bằng con ngựa” của mình
đồng thời khơi dậy lòng trắc ẩn tiềm tàng trong cô. A Phủ là một chàng trai tràn trề
sinh lực, lao động giỏi, con nhà nghèo, bố mẹ chết sớm, lưu lạc đến Hồng Ngài làm
thuê, do cùng bọn con trai làng sinh sự đánh nhau với A Sử vào dịp chơi tết. A Phủ bị
“bắt sống, trói gô chân tay lại” khiêng về nhà Thống lý. Từ đó, anh phải đi ở trừ nợ
cho nhà Pá Tra. Trong một lần chăn bò, chẳng may hổ ăn thịt mất một con bò, Pá Tra
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
đẩy A Phủ vào cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây quấn từ chân lên vai, sang
hôm sau Pá Tra quẳng thêm một vòng thòng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không cúi,
không còn lúc lắc được nữa”. Nhìn cảnh ngộ A Phủ lúc đầu, Mị hãy còn thái độ thản
nhiên, sau đó, trông thấy thứ ngôn ngữ câm lặng phát ra từ dòng nước mắt của A Phủ,
cô xúc động, thương cảm và đồng cảm với anh. Đồng thời, giọt nước mắt ấy như tiếng
gọi thiêng liêng của tính giai cấp và ý thức phản kháng đối với Mị: Lúc ấy đã khuya.
Trong nhà đã ngủ yên, Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sang lên, Mị lé mắt
trông sang, thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử
trói Mị , Mị cũng phải trói đứng như thế kia. Nhiều lần hóc, nước mắt chảy xuống
miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà
ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cỡ chừng này là đêm mai là
người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Vì thế, Mị liền hành động một
cách táo bạo, “phiến loạn” quyết liệt. Cô cởi trói cho A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi
Hồng Ngài, chạy sang Phiền Sa: Lúc ấy, trong cảnh nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước
lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng A Phủ đương biết có người bước lại. Mị rút
con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phì từng hơi, không biết mê hay
tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị
chỉ thì thào được một tiếng :”đi ngay…” rồi Mị nghẹn lại, A Phủ bỗng khụy xuống,
không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng
lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm, nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã
lăn, chạy (…) và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. “Nhân chi sơ
tính bổn thiện”. Hành động trên đây có xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể
thương thân “, từ sự thôi thúc cấp bách của cảnh ngộ hiện tại, từ tiếng gọi thiêng liêng,
bất tử của cuộc sống độc lập – tự do. Cô cởi trói cho A Phủ cũng là từ cởi trói xiềng
xích đang đè nặng lên chính cuộc đời của mình, Cứu A Phủ là Mị đã cứu mình một
lúc vượt qua hai tầng địa ngục đày đọa con người một cách dã man: tầng địa ngục
phong kiến và tầng tầng địa ngục mê tín – thần quyền. Thật đáng biểu dương làm sao
cho hình ảnh hai con người trẻ tuổi, nhựa sống mãnh liệt bị phong kiến trói đứng rồi
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
vùng dậy một cách quyết liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt,
bật tung như quả bom to đang ra sức tung phá giữa khu vực cần phải hủy diệt. Đúng
như một nhà nghiên cứu văn học đã nhận xét: Không ai trói buộc được sự sống, kìm
hãm được sự sống. Tóm lại, Mị là một hình tượng nhân vật phụ nữ có tính chất điển
hình cho mảng truyện viết về đề tài miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực
dân đô hộ của nhà văn Tô Hoài nói riêng cũng như của dòng văn học Việt Nam giai đoạn 1945-4975 nói chung.
Qua hình tượng nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả thực trạng cuộc sống bị áp
bức, đề nén, chà đạp đến cùng cực, nhàu nát của số phận những con người nhỏ bé nơi
miền núi cao Tây Bắc, tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến nơi ấy đồng thời
phát hiện nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người tập trung ngòi bút ngòi bút ngợi ca
sức sống tiềm tàng của họ. Đó cũng chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo toát
lên từ nhân vật trung tâm của thiên truyện hấp dẫn này.
Hình tượng nhân vật Mị - Mẫu 14
Tô Hoài là nhà văn rất thành công trong những nhà văn thuộc nền văn xuôi hiện đại.
Tác phẩm của ông thường viết về những vấn đề gần gũi thân quen trong cuộc sống
thường ngày. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc mang lại
những giá trị sâu sắc. Nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là Mị, một phụ nữ phải chịu
nhiều bất hạnh, nhưng có vẻ đẹp tâm hồn và có sức sống mãnh liệt, dám đứng lên đấu
tranh tìm lại hạnh phúc cho mình.
Nhân vật Mị hiện lên trong cách giới thiệu của tác giả ở ngay đầu câu chuyện gợi lên
cho người đọc một sự lôi cuốn lạ kỳ. Chỉ bằng vài câu chữ, tác giả đã cho người đọc
hình dung ra được cuộc sống đầy đau khổ mà Mị đang phải hứng chịu trong nhà Pá
Tra. "Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái
cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Hình ảnh người con gái với vẻ mặt và ánh mắt vô hồn bên cạnh cái quay sợi, tảng đá,
tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào
"buồn rười rượi". Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng
ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.
Mị trước đó là một người con gái đẹp của núi rừng Tây Bắc, cô có tài có sắc, có một
tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương, có rất nhiều người yêu
và cô cũng đã trao gửi tình yêu cho một người trai làng yêu cô tha thiết.
Nhưng số phận may mắn không đến với cô, người con gái tài hoa miền sơn cước đó
phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán
mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Danh nghĩa là con
dâu nhưng cô đã phải chịu mọi khổ cực đến tận cùng của một kẻ tôi tớ. Thân phận Mị
không chỉ là thân trâu ngựa, "Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được
đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm" .
Không những bị đày đọa về thể xác, Mị còn bị dày vò về một nỗi đau tinh thần không
lối thoát. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, "lùi lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa". Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa
sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng
trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam
hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của
cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh
quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi
đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.
Quá khổ cực và muốn giải thoát cho mình bằng cái chết, nhưng lại lo cho cha nên Mị
đã cố sống. Khi cha Mị không còn nữa, thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật
vờ, như một đồ vật không cảm xúc. Muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một
cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không
thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi
nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước... cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Cuộc sống của Mị cứ thế lầm lũi trôi qua ngày này sang tháng khác, những tưởng con
người thật sự của Mị đã chết đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia
đang còn một con người, có khao khát sống đến mãnh liệt. Khát vọng hạnh phúc có
thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ,
nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng
hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy
ắp tiếng gọi của tình yêu.
Chính không khí mùa xuân của Hồng Ngài năm ấy đã làm trỗi dậy sức sống ở con
người Mị. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài
hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê
dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu,
Mị lén uống từng bát, "uống ừng ực" rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa
gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy
đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tàn lúc nào cũng không
hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi ...), và quan trọng
hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người:
"Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết.
Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau".
Tiếng sáo thật có ý nghĩa bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi
trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị
đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc
ấy, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán
tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và
khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.
Hòa mình vào không khí náo nhiệt của mùa xuân, tâm hồn tưởng như đã chết của Mị
dần được sưởi ấm, nó lớn dần và lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị,
cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: "Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp
đi chơi". Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại
tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi.
Dù bị A Sử trói vào cột nhưng Mị vẫn chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân
trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực
tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ
mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo
tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa
thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa
tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân.
Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng
hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.
Sức sống le lói của Mị đã bùng phát lên thành hành động, đó là hành động Mị cởi trói
cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi.
Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình
mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của
một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện
thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng
thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng
phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội
tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: "A Phủ là cái xác
chết đứng đó cũng thế thôi". Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị.
Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt: "Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước
mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã sạm đen". Và giọt nước mắt kia là giọt nước
cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ
mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy
xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt
của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Con người Mị lúc này đã tỉnh táo, Mị đã nhận thức được những đau khổ mà Mị đã
phải chịu đựng và thương cho người có cùng cảnh ngộ như mình là A Phủ. Nhưng nó
còn vượt lên giới hạn thương mình: "Mình là đàn bà ... chỉ còn biết đợi ngày rũ xương
ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết". Nhưng khi cởi trói cho A Phủ xong,
Mị càng tỉnh táo hơn và bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người
như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm
lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.
Phải nói rằng, nhà văn đã có sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống của con người Tây Bắc,
có sự cảm thông sâu sắc đối với những người phụ nữ nơi đây, nhà văn mới có thể phát
hiện ra cái vẻ đẹp nằm sâu trong tâm hồn người phụ nữ bất hạnh ấy.
Thông qua nhân vật Mị nhà văn đã thay toàn dân tố cáo cái thế lực phong kiến đã áp
bức, bóc lột và chà đạp nên quyền sống cơ bản của con người. Cũng qua nhân vật ấy
Tô Hoài đã ca ngợi khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do hạnh phúc của những
con người nghèo khổ ấy, đồng thời thể hiện sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, tình giai cấp
của dân tộc Việt trong những khó khăn gian khổ.
Phân tích Mị - Mẫu 15
Tây Bắc là mảnh đất đã gây biết bao thương nhớ cho các nhà văn trong đó có Tô
Hoài. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được ông sáng tác năm 1952 và in trong tập
“Truyện Tây Bắc”. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng lên vùng cao Tây
Bắc của nhà văn. Nổi bật trong truyện ngắn này là nhân vật Mị, người đã gây được
nhiều ấn tượng, cảm xúc cho bạn đọc.
Mị là nhân vật chính trong phần mở đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đây là
nhân vật tiêu biểu, đại diện cho số phận của những người con dâu gạt nợ ở miền núi.
Mị có hoàn cảnh thật đáng thương, bất hạnh. Cô được sinh ra trong một gia đình
nghèo khổ. Vì không có tiền cưới vợ nên bố Mị đã vay tiền bố của thống lí Pá Tra,
mỗi năm phải nộp lãi một nương ngô. Đến khi mẹ của Mị chết vẫn chưa trả hết số nợ.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi kèn lá hay
như thổi sáo. Những đêm tình mùa xuân “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị
có sức hút, sức hấp dẫn như bông hoa rừng đầy hương sắc. Vẻ đẹp của cô gái người
Mông khiến chàng trai nào cũng muốn có được.
Mị là cô gái yêu tự do, dám lên tiếng phản đối lệ tục dùng con người làm vật thế mạng
cho món nợ vật chất của người thân còn tồn tại trong cuộc sống của người dân Tây
Bắc. Khi thống lí Pá Tra nói với bố Mị rằng: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì
tao xóa hết nợ cho” thì Mị thẳng thắn trả lời: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô,
con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Lời nói
của Mị đã chứng tỏ cô là một người có nhận thức sâu sắc về cuộc sống, Mị chấp nhận
làm nương ngô cả đời để trả nợ chứ không làm con dâu gạt nợ và sống cuộc sống mất
tự do trong nhà thống lí.
Khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị vô cùng đau đớn và phẫn uất: “Có đến hàng mấy
tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị chuẩn bị sẵn lá ngón để tự tử nhưng nghĩ đến bố
“Mị không đành lòng chết”. Hành động định tự tử của Mị nhìn bề ngoài là hành động
tiêu cực nhưng thực chất lại thể hiện sự đấu tranh mãnh liệt đòi giải thoát kiếp trâu
ngựa. Hành động ấy còn thể hiện thái độ không chấp nhận cuộc sống thực tại, không
chấp nhận thân phận nô lệ của Mị.
Nhưng thời gian trôi đi khiến sự phản kháng trong con người Mị không còn mạnh mẽ
nữa. Cô được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của tác giả nên khiến câu chuyện khách
quan và chân thực hơn. Hình ảnh người con gái ấy hiện lên qua các công việc “ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi
cõng nước dưới khe suối. Bất kể làm gì thì “cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Mị gần như câm lặng và cam chịu số phận “Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”..
Gia đình thống lí Pá Tra “có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”,
giàu có là vậy nhưng con dâu phải làm việc như thân trâu ngựa. Mị cũng tưởng mình
là con trâu, con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”. Nhưng con trâu, con
ngựa “làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ” còn Mị phải
làm việc cả đêm lẫn ngày, không một phút nghỉ tay. Những công việc hái thuốc phiện,
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
giặt đay, xe đẩy, bẻ ngô, hái củi, tước sợi đay hiện ra như một dòng chảy không bao
giờ ngừng khiến Mị “lùi lũi như con rùa nơi trong xó cửa”.
Dường như cuộc sống của người con dâu gạt nợ đã khiến cô trở nên câm lặng, “càng
ngày Mị càng không nói”. Không những thế, Mị còn mất hết ý niệm về thời gian,
không gian. Điều ấy được tác giả đặc tả qua chi tiết: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có
một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy
trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Và chính Mị cũng đã nghĩ rằng “mình
cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”.
Ngỡ tưởng cô gái ấy tồn tại như cái xác không hồn trong nhà thống lí nhưng không
khí của mùa xuân đã làm tâm hồn và lòng yêu đời của Mị trỗi dậy. Tiếng sáo rủ bạn đi
chơi mang âm hưởng bồi hồi, tha thiết, rạo rực khiến Mị nhớ đến quá khứ, nhớ đến
cuộc sống tự do của mình trước đây. Mị nhẩm thầm theo lời bài hát:
“Mày có có con trai con gái rồi Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”.
Tiếng sáo có sức quyến rũ đến lạ kì. Nó đưa Mị trở về sống với những cảm xúc của
một thời tuổi trẻ. Mị không còn “lùi lũi”, chịu đựng nữa. Dường như cô muốn thoát ra
khỏi cái vỏ bọc để sống đúng là chính mình. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát”
rồi Mị say, “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng
Mị thì đang sống về những ngày trước”. Trước đây, Mị đã từng là một cô gái thổi sáo
giỏi, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
Không khí của những đêm tình mùa xuân tràn về khiến lòng Mị phơi phới trở lại và
“đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ
lắm và cũng muốn đi chơi như bao nhiêu người khác. Ý định muốn đi chơi của Mị đã
trở thành hành động khi cô “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào ống đèn cho
sáng” rồi “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Hành động ấy
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
của Mị đã thể hiện sự hồi sinh trong tâm hồn, thể hiện một sức sống mãnh liệt mà bấy
lâu nay bị những khổ cực đè nén khiến nó không có cơ hội được bộc lộ.
Nhưng giữa lúc lòng yêu đời trỗi dậy mãnh liệt thì cũng là lúc Mị bị vùi dập phũ
phàng. A Sử biết Mị muốn đi chơi nên “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào
cột nhà”, A Sử “quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu
được nữa”. Trong không gian của bóng tối, Mị vẫn nghe thấy những âm thanh dìu dặt
của tiếng sáo, nó “đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.
A Sử có thể trói buộc Mị về thể xác nhưng không thể trói buộc được Mị về tâm hồn.
Tiếng sáo da diết như mời gọi đã khiến “Mị vùng bước đi” nhưng Mị không thể cất
bước vì “tay chân đau không cựa được”. Nỗi đau về thể xác khiến Mị quay về thực tại,
Mị đau đớn, “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Mị đã ý thức được cuộc
sống thực tại và xót xa cho số phận của bản thân mình.
Bằng một sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong con người, Mị đã tự giải thoát cho
chính mình qua hành động cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi
Hồng Ngài đến khu du kích Phiềng Sa. A Phủ là người đối đầu với A Sử - con trai
thống lí Pá Tra trong lần A Sử cùng chúng bạn kéo vào làng chơi và dọa đánh bọn con
trai lạ. Vì đấu tranh cho cái thiện, cho chính nghĩa mà A Phủ bị bắt làm nô lệ cho nhà thống lí.
Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị
chợt nhớ lại đêm mình bị A Sử trói đứng như thế. Từ thản nhiên, thờ ơ, Mị đã có sự
đồng cảm với tình cảnh, thân phận của A Phủ. Suy cho cùng, cả hai người đều là
những vật thế mạng cho món nợ của người thân hoặc của chính mình.
Giai cấp thống trị ở miền núi đã lợi dụng lệ tục cổ hủ đó để bóc lột sức lao động của
họ biến họ trở thành thân trâu ngựa làm giàu cho mình. Bằng tấm lòng thương người,
Mị đã “cắt nút dây mây” và bảo A Phủ “Đi ngay”. Hành động ấy vô cùng táo bạo bởi
nếu gia đình thống lí biết thì Mị sẽ là người bị trói tay vào chỗ của A Phủ.
Khát vọng giải thoát bản thân và khát vọng về một cuộc sống tự do đã thôi thúc Mị bỏ
trốn cùng A Phủ. Sức sống trong cô đã bùng lên mạnh mẽ để đấu tranh chống lại
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
cường quyền, thần quyền và phụ quyền. Hành động cắt dây trói cho A Phủ cũng là
hành động cắt dây trói cho chính mình, chấm dứt cuộc đời nô lệ, bị áp chế của Mị.
Có thể nói, Mị là linh hồn của phần một trong truyện “Vợ chồng A Phủ”. Nhân vật
này được Tô Hoài khắc họa bằng bút pháp cá thể hóa và nghệ thuật miêu tả tâm lí
nhân vật tinh tế. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu
sắc. Đây cũng là một trong những yếu tố góp phần quan trọng làm nên sự thành công của tác phẩm.
Phân tích Mị - Mẫu 16
Tô Hoài là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông viết trên
nhiều mảng đề tài và ở mảng nào Tô Hoài cũng chứng tỏ mình là bậc thầy trong miêu
tả phong tục và nếp sinh hoạt của con người. Đằng sau những phong tục tập quán đó
chúng ta còn thấy được số phận, điệu hồn, tính cách của mỗi người dân Việt Nam. Vợ
chồng A Phủ có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Đằng sau
những trang văn phong tục là cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ của Mị, nhưng đồng thời
trong cô còn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
Mị là nhân vật trung tâm trong tác phẩm, bởi vậy sự xuất hiện của nhân vật được
chuẩn bị hết sức kĩ lưỡng. Mở đầu tác phẩm là sự xuất hiện của Mị gắn liền với những
công việc lặp đi lặp lại, cùng với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi. Chi tiết này
đã hé mở cho chúng ta thấy cả một thế giới nội tâm đầy đau khổ, bất hạnh. Rồi ngòi
bút của Tô Hoài ngược về quá khứ, để cho người đọc thấy được một Mị - người con
gái trẻ trung, xinh đẹp và rất tài năng. Tiếng sáo của Mị đã khiến cho biết bao chàng
trai xao xuyến đi theo. Không chỉ vậy Mị còn là cô gái yêu lao động, yêu tự do, nhất
định muốn lao động để trả nợ chứ không chịu làm con dâu gạt nợ. Ở Mị hội tụ đầy đủ
những phẩm chất đẹp đẽ để được sống cuộc đời hạnh phúc song do các thế lực thần
quyền chà đạp, đàn áp mà cuộc đời của cô vô cùng bất hạnh, đáng thương.
Mị là hiện thân cho những đau khổ bất hạnh của người phụ nữ miền núi. Cô làm việc
triền miên, hơn cả trâu ngựa trong nhà. Công việc trở thành nỗi ám ảnh khiến Mị
không thể nghĩ đến bất cứ điều gì, Mị bị bóc lột nặng nề về thể xác. Không chỉ vậy cô
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
còn bị giam hãm trong căn phòng nhỏ mà chỉ có một ô cửa sổ bé bằng bàn tay, nhìn ra
ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Không chỉ vậy cô còn bị
bóc lột về tinh thần, lấy A Phủ về nhưng chưa bao giờ Mị được làm người vợ thực sự,
bởi A Sử vẫn đi lấy những người khác, sẵn sàng trói đứng Mị mà không hề thương
tiếc. Ngoài ra, Mị còn bị áp chế về thần quyền, đây là thế lực vô hình như lại có sức áp
chế vô cùng khủng khiếp. Khi Mị đã bị cúng trình ma, Mị tin rằng cả đời mình sẽ
không thoát khỏi nơi đây nên Mị lầm lũi sống qua ngày, chờ cho đến lúc chết. Sự áp
chết nặng nề cả về thể xác và tinh thần, từ cường quyền đến thần quyền đã đẩy Mị từ
cô gái trẻ trung giàu sức sống trở thành một cô gái tội nghiệp, đáng thương. Điều đó là
lời tố cáo đanh thép nhất với bọn cầm quyền phong kiến đương thời.
Nhưng liệu Mị đã mất đi hoàn toàn sự phản kháng, mất đi hoàn toàn niềm tin, niềm hi
vọng vào cuộc sống. Thực tế chỉ cần có những chất xúc tác phù hợp, đúng thời điểm
thì niềm tin đó sẽ bùng lên mãnh liệt và biến thành hành động. Ẩn sâu trong Mị vẫn có
khát vọng sống, nó được thể hiện trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ.
Sức sống tiềm tàng của Mị trước hết thể hiện trong đêm tình mùa xuân. Mùa xuân là
mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa của yêu thương và nảy sinh sự sống. Lấy thời
điểm này là hoàn toàn hợp lí. Tâm lí Mị chịu tác động mạnh mẽ bởi những màu sắc
tươi đẹp, rực rỡ, những âm thanh tươi vui, rộn ràng của những đứa trẻ ngoài sân. Tất
cả những yếu tố đó đã tác động tích cực đến tâm hồn Mị. Nhưng quan trọng nhất là sự
tác động của men rượu và tiếng sáo gọi bạn tình. Bản thân việc Mị uống rượu không
lạ, vì ngày tết Mị cũng uống rượu như biết bao người khác. Nhưng cách uống lại hết
sức bất thường, Mị uống ừng ực từng bát, như uống đi sự phẫn uất, nốt tủi hờn vào
trong. Đồng thời chất men sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn,
chối bỏ thực tại tìm về quá khứ. Và quan trọng nhất là âm thanh tiếng sáo, tiếng sáo
xuất hiện từ xa đến gần, gợi nhắc Mị nhớ về một thời quá vãng tự do, hạnh phúc .
Cùng với hơi men và tiếng sáo, Mị chối bỏ thực tại, tìm về với khóa khứ, Mị lịm đi và
nhớ về ngày trước, quá khứ tươi đẹp. Mặc dù vậy Mị vẫn đi vào buồng mà không đi ra
ngoài đi chơi như những người khác. Nhưng chính lúc ấy tiếng sáo lại xuất hiện đầy
hữu ý, đã thôi thúc Mị, để Mị mạnh mẽ chối bỏ thực tại từ bỏ cuộc sống hiện tại. Mị
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
bỏ ra ngoài, lấy ống mỡ xắn một miếng, thắp đèn lên cho sáng. Hành động thắp đèn
của Mị còn cho thấy Mị đang tự thắp sáng mơ ước, hi vọng cho cuộc đời của chính
mình. Mị khao khát được đi chơi, được ra ngoài như mọi người, Mị đã lấy váy và
chuẩn bị đi thì Mị A Sử chặn đứng. Hắn nhẫn tâm trói đứng Mị vào cột nhà. Nhưng
dù thể xác Mị bị trói nhưng tầm hồn cô đã phiêu diêu về một nơi khác, nơi cuộc sống
hạnh phúc, và tự do của ngày trước.
Với diễn biến tâm lí hết sức phức tạp, nhưng vẫn vô cùng hợp lí, Mị đã có cuộc nổi
loạn đầu tiên, sau rất nhiều năm sống trong giam hãm, tù đày, tưởng như đã mất hết hi
vọng sống. Tuy chưa thể thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra nhưng cũng phần nào cho thấy
sức sống tiềm tàng trong Mị, chỉ cần thời cơ thích hợp nó sẽ bùng lên mãnh liệt.
Nếu như trong đêm tình mùa xuân Mị vẫn chưa thể tự cứu thoát được bản thân, thì
trong đêm Đông cứu A Phủ, với sự trợ lực, tác động từ đối tượng khác, Mị không chỉ
giải cứu người khác mà còn giải cứu được chính mình. Bằng ngòi bút vô cùng tinh tế
Tô Hoài đã miêu tả vô cùng khéo léo và tài hoa quá trình tâm lí phức tạp ấy
Sau cuộc nổi loạn không thành lần trước, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt về ý
thức, bởi vậy, nhìn A Phủ bị trói đứng Mị cũng không hề có bất cứ phản ứng gì. Mị
hằng đêm đốt củi sưởi ấm cho bản thân, và trong một lần Mị thấy giọt nước mắt xám
đen bò dài trên má A Phủ. Giọt nước mắt đó có tác động vô cùng mạnh đến tinh thần
Mị. Nó đánh động, giúp Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ lại những đêm bản thân bị
đánh, cũng từng khóc như vậy. Trong cô bắt đầu xuất hiện sự cảm thương với người
xung quanh: “Trời ơi! Nó bắt trói người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó
bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Đồng thời Mị thoát ra
khỏi tình trạng mơ hồ, nhận thức rõ kẻ thù của mình: “Chúng nó thật độc ác”. Đây là
bước đầu tiên nhen nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng.
Mị nhớ về hoàn cảnh mình, so sánh tình cảnh của bản thân với A Phủ, “Ta là thân đàn
bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi …
Người kia việc gì mà phải chết thế”. Đồng thời bằng sự bản lĩnh, mạnh mẽ của mình,
Mị đã lấy con dao cắt dây trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, bột phát
xong lại rất logic, hợp lí, thể hiện tình yêu thương giữa con người với con người. Sau
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
cuộc nổi loạn lần thứ nhất giải cứu cho A Phủ, Mị thực hiện cuộc nổi loạn lần thứ hai
– ngay sau đó, để giải cứu cho chính mình. Mị không chỉ cắt đứt sợi dây hữu hình
đang trói buộc, giam cầm một người con trai khỏe mạnh thoát khỏi vòng nô lệ, mà còn
cắt đứt sợi dây vô cùng trong tư tưởng, tinh thần đã bị nô lệ hóa của mình, đã trói
buộc Mị trong một khoảng thời gian dài. Đêm tình mùa xuân nếu như mới khơi dậy
khát vọng hạnh phúc, yêu thương thì đến đêm đông cứu A Phủ đã làm sáng lên khát
vọng được tự do ở con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khắc họa chân thực, rõ
nét diễn biến tâm lí, những cung bậc cảm xúc của Mị trong những quá trình tâm lí
khác nhau. Tác phẩm cũng làm sáng lên tinh thần nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài, cảm
thương cho số phận bất hạnh của nhân vật, nâng niu trân trọng những khát vọng, mơ
ước của họ. Đồng thời lên án, tố cáo bọn phong kiến miền núi chà đạp lên quyền sống,
quyền hạnh phúc của con người.
Phân tích Mị - Mẫu 17
Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam.
Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như "O chuột”,
“Dế mèn phiêu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những
tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”…
Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại
dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với
đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người
đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng
lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.
Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp
người héo hắt, tàn tạ “ chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị không hiện lên bằng
chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt
nợ trong nhà thống lý Pá Tra.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu
sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu lao
động “biết cuốc nương làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi
biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin “bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần
thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của
chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan
nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời
người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà
thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy.
Lúc đầu mới về “làm dâu” để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã “hằng mấy tháng
trời đêm nào Mị cũng khóc”. Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không
cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái
chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không
đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để
quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa ngục trần gian ấy đã
giam cầm cuộc đời Mị.
Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa
sổ nhỏ như lòng bàn tay “trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Mị bị nô lệ
hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn
tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả
đêm lẫn ngày “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối
mùa thì đi nương bẻ bắp…”.
Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất
hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con
ngựa, con trâu, con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
lặng câm, băng giá “càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong
xó cửa”. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không?
Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con
người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng
lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên
ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa
lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm.
Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả
một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng
cũng đầy bi kịch.Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười
của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc
váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn
không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”.
Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây
quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã
mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá
băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh.
Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị
một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay,
thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp
nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:
Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Ta đi tìm người yêu
Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành
động “nổi loạn nhân tính”. Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để
giải sầu“ Mị uống ực từng bát rồi say”. Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất
bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy.
Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây
Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh.
Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị
“lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Còn gì hạnh phúc bằng
khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của
người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người
đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị.
Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường
vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị
nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ “Mị
trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.
Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là
một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống
trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị
vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng.
Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân.
Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu,
không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có
lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”.
Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng
mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình
không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là
món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa,
nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra.
Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ
thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị.
Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp
nhận được thực tại cay đắng này.
Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng
sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa
xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi
yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng
mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền.
Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn
đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục
để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc
cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm
thông chia sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật “Mị quấn lại tóc.
Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị hành động thản nhiên, dù Mị
biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần
quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn
nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của
Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi dây, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn
luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa.
Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống
bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn
của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng
đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn
Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập
cả vào hồn Mị là Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn “Mị vùng bước đi”. Hành
động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng
đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi “tay chân đau
không cựa được” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh.
Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc
tỉnh thì “nồng nàn tha thiết nhớ”. Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến
tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu
chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này.
Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Sợ chết là
biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn
mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương
tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay
báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành
đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.
Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong
nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà
giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử
đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và
buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn.
Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng
như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng
“Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của
người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà
trong bản thân người phụ nữ nào cũng có.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó
là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị
mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính “dòng nước mắt lấp
lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm
thía được nỗi cùng cực của kiếp người.
Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc
của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế
kia, có «nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được».
Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất
dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này.
Mị càng căm phẫn càng uất hận “chúng nó thật độc ác”. Nhớ đến những chuyện ngày
trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân
đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
đây thôi”. Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng
phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị
chợt chùng lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ
Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị
nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị
táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt đứt sợi dây trói đã phần nào
cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám đứng lên
đương đầu với lũ ác thú.
Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh
của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt
dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình.
Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong
bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi: chạy
theo A Phủ hay ở đây chờ chết?
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị
vụt chạy theo A Phủ. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm
tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè
nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm
nín: “A Phủ. Cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất”.
Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng
gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng
Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục.Đây không phải là hành
động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống
tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu.
Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất
ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống
lại cả cường quyền và thần quyền. Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh
của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn.
Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn
ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp
phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào
miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.
Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu
thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn
đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền
núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.
Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con
người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu
tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc
đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân
văn ngời sáng của tác phẩm.
Phân tích nhân vật Mị - Mẫu 18
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
"Vợ chồng A Phủ" là một truyện ngắn trong tập "Truyện Tây Bắc" của Tô Hoài, được
giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tác phẩm ra
đời từ kết quả cuộc thâm nhập đời sống đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, kể về
cuộc đời khốn khó trăm chiều của người dân vùng cao khi chưa có ánh sáng của
Đảng. Đọc "Vợ chồng A Phủ", ta không thể quên được chi tiết Mị cắt dây trói cứu A
Phủ – một chi tiết làm nên mọi giá trị tác phẩm. Và, đúng như ai đó đã từng nói, khi
cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thông lí Pá Tra.
Có thể nói, toàn bộ đoạn trích trong sách "Văn 12" là tất cả những chuỗi ngày cực
nhọc mà Mị phải trải qua (kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, đến khi cô
cùng A Phủ trốn thoát. Với một dung lượng truyện ngắn vừa phải, Tô Hoài đã thể hiện
rất nghệ thuật, chân thật quá trình chuyển biến của Mị, từ lúc cam chịu thân phận nô lệ
của mình, tới khi thức tỉnh, tự giải thoát cởi trói cho A Phủ. Câu chuyện về Mị, được
bắt đầu từ một hình ảnh rất giàu sức gợi: "Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra,
thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Lúc nào
cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe lên, cô
ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi", chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự
vật đã hiện lên khá rõ nét. Câu văn cũng như dài thêm ra để độc giả lĩnh hội một cách
thấu đáo. Vị trí, xuất hiện của Mị đã nói lên tất cả, ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh
tàu ngựa. Gòn hình ảnh nào đắt hơn chi tiết đó? Con người ngang hàng với những vật
vô tri, thân phận trâu ngựa, thậm chí còn như gắn liền với chúng.
Mị vốn là một cô gái con nhà nghèo – "nghèo từ trong trứng"; cô trẻ đẹp, giàu lòng
yêu đời, ham sống và có tài thổi sáo; Mị còn là một cô gái chăm làm, một đứa con
hiếu thảo... Nhưng, một thứ nợ "gia truyền" của người nghèo, cô đã phải "đi tù khổ
sai" trong nhà thống lí Pá Tra, dưới hình thức làm dâu gạt nợ. Biết bao thân phận
người dân miền núi, đã bị trả giá bằng cả đời người như thế, bởi hình thức cho vay nặng lãi.
Thời gian đầu, khi mới ở "nhà tù Pá Tra", Mị đau đớn, uất ức, phản kháng quyết liệt.
"Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc". Cô không thể chấp nhận làm thân phận
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
nô lệ cho nhà giàu. Nhưng, tất cả đã thành định mệnh. Nàng Kiều của Nguyễn Du
trước khi dấn thân vào cuộc đời ô nhục, cũng hơn một lần nghĩ đến quyên sinh mà
cũng không thoát khỏi kiếp đọa đày 15 năm. Ở đây, Mị còn khổ hơn, bởi món nợ vẫn
còn đấy, đổ lên đầu bố già. Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhọc
nhất đổ lên đầu Mị. Mấy năm sau khi bố già qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết
nữa, bởi vì "Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con
ngựa (...) chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Đời Mị chỉ là công việc nối tiếp
nhau, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc
phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đẩy, cuối mùa đi bẻ bắp... thêm vào sự đọa đày thể
xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần mê tín, thần quyền đã hỗ trợ rất đắc lực cho giai
cấp thống trị. Nó thực sự là thứ "thuốc phiện tinh thần" như lời Mác nói.
Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn, ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực
đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào
đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. "Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con
rùa nuôi trong xó cửa" thật không ở đâu, mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ
đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tự coi rẻ mình một cách tuyệt vọng như vậy.
Mị cam chịu thân phận con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng kín
mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, "đến bao giờ chết thì thôi".
Khi một "nạn nhân" đau khổ, còn hướng tới cái chết để tìm sự giải thoát, thì phải
chăng, trong họ vẫn còn chút gì đó gọi là phản kháng? Mị cũng có lần như thế, nhưng
nó bị triệt tiêu và cô đã dường như phó mặc thân phận mình cho định mệnh, không
còn ý thức về thời gian. Với Mị, sự chuyển biến của thời khắc sớm tối, năm tháng qua
đi cũng không còn ý nghĩa, không gợi cho cô cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ là một màn
sương mờ đục, không hiện tại, quá khứ và tương lai.
Nhưng, đó chỉ là một phần trong con người của Mị. Sức mạnh của ngòi bút nhân đạo
Tô Hoài không chỉ dừng lại ở tình cảm xót thương Mị, ở sự tố cáo tính tàn bạo của
giai cấp thống trị, mà còn lì ở chỗ nhìn ra con người bên trong của nhân vật. Ông đã
tìm sâu vào tận cùng ý thức và trong đáy sâu của tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn
le lói chút ánh sáng, hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hạnh phúc, như lớp trong
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
dày nguội lạnh vẫn còn ủ chút than hồng, lớp than ấy chỉ cần một ngọn gió thoảng qua
là bùng lên. Tô Hoài đã góp thêm vào truyền thông nhân đạo trong nền văn học dân
tộc một tiếng nói có quyền năng và sức tái tạo riêng.
Như đã nói ở phần đầu, Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, một khát khao làm chủ cuộc
sống tính cách ấy, phẩm chất ấy không bao giờ chết, nó chỉ tạm thời bị đè nén xuống.
Và ngọn gió để thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị, là hoàn cảnh điển hình: mùa
xuân về trên vùng cao: "Hồng Ngài năm ấy, ăn tết vào lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng,
gió và rét rất dữ dội". Dẫu trong thời tiết khắc nghiệt, xuân về cũng đem đến cho
người dân vùng cao một niềm vui sống được mùa. Sức sống của tạo vật và con người
như bừng tỉnh: "trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra treo trên các
mỏm dài xòe ra như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng, lại đổi ra màu
đỏ hay, đỏ thẫm rồi sang màu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà...".
Hoàn cảnh ấy, không thể không tác động vào tâm hồn Mị. Trong các yếu tố "ngoại
lực" của mùa xuân, phải kể đến tiếng sáo: "Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo
gọi bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi...". Như vậy, với Mị,
tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của tình yêu, của khát vọng ham sống. Trong
không khí ấy, Mị lại được kích động bởi men rượu: "Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực
từng bát". Cách uống rượu ấy như báo trước một sự nổi loạn mà chính Mị cũng chưa ý
thức rõ: "Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng (...), còn Mị thì
đang sống về ngày trước".
Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống "phi thời gian" lâu nay của
mình. Tiếp đó, lòng ham sống trong cô trỗi dậy mãnh liệt: "MỊ thấy phơi phới trở lại".
Phản ứng đầu tiên đến trong tâm trí Mị là một ý nghĩ: "Nếu có nắm lá ngón trong tay
lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không thèm nhớ lại nữa...". Ý nghĩ về cái chết
lúc này, là sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh.
Trong khi ấy tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ Mị. Nó là biểu tượng của sự
sống mà bấy lâu nay Mị đã quên, giờ đang trở lại. Tiếng sáo theo sát diễn biến tâm
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
trạng nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài (lơ lửng bay
ngoài đường), đã trở thành sự hiện hữu của đời sống bên trong (rập rờn trong đầu).
Từ những chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa. "Mị đến
góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đèn cho thêm sáng". Hành động này có
nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá
khứ. Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt, cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn
bạo. A Sử bước vào, thản nhiên xách ra một thúng sợi dây, trói đứng Mị vào cột nhà.
Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột nhà ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa
niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo, lạnh lùng. Lúc mới bị trói,
Mị vẫn còn nhừ sống trong tâm trạng mê say với tiếng sáo ngó kia. Mị như quên mình
đang bị trói, Quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút khao cuộc sống
mãnh liệt, Mị đã "vùng bước đi". Nhưng, thực tế phũ phàng là những vòng dây trói
đang thít chặt, dẫu mong ước mãnh liệt đến mấy, Mị cũng không vượt qua được. Hai
biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược, tiếng sáo gọi
bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan.
"Mị không nghe tiếng sáo nữa chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách (...). Mị
thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa – thực tại phũ phàng đã bóp nghẹt những
khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát, nhân
vật không thể tự giải thoát cho mình; đồng thời nó cũng hứa hẹn những cuộc nổi loạn
trong tương lai của nhân vật.
Sau đêm xuân bị trói đứng, tình cảnh u mê của Mị có phần trầm trọng hơn. Trước
cảnh A Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị là người hoàn toàn vô cảm, vô hồn; cô vẫn thản
nhiên thổi lửa hơ tay. A Phủ có là cái xác chết đứng đấy, Mị cũng thế thôi. Đôi mắt
mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi cho Mị một điều gì. Nhưng như đã nói ở đoạn
trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự do hãy còn đó trong hồn Mị. Không phải ngẫu
nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả lặp đi lặp lại nhiều lần trong một đoạn văn
ngắn. Đấy là đoạn văn miêu tả tâm lí nhân vật khá sâu sắc, tinh tế. Nhưng, cái gì đã
khiến Mị trở lại với con người thật của mình? Một lần trở dậy, khi "ngọn lửa bập bùng
sáng lên, Mị hé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Chao ôi nước mắt! Cái giọt đau, giọt
khổ ấy đã làm Mị "chợt nhớ lại" việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy
như thế mà không lau được; Mị lại nhớ tới người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này,
và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi. Tết năm trước đã thế, lần này trí nhớ của Mị lại lóe
lên một cách vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền nó nối lại ba số phận. Mị
không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng.
Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức chấp nhận
sự hi sinh về mình: lấy con dao nhỏ cắt dây cho A Phủ. Đó là đỉnh cao của đời Mị và
cũng là nơi tập trung giá trị trang văn. Hành động của Mị, tuy không thể đoán trước,
nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Bởi, Mị từng nguyện làm rẫy, chịu
khổ để trả nợ cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để
cứu một con người vô tội?
Nhưng, tính cách. Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên
thú vị. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi,
Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng chạy theo. Một kết cấu thật chặt chẽ: Mị đã cứu A
Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình? Và "hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống
núi". Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận
thức: nhận thức thực tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ, bởi cô thấy sự bất
công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội, và nhận thức "người" cũng là để qua
đó nhận thức, soi sáng "mình" cho nên, có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là
Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá Tra. Điều đó, hoàn toàn đúng với lí
luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu tiên của Tuyên ngôn Đảng cộng sản, F.
Ăngghen từng khẳng định: "Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp. Áp bức,
bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng: mạnh mẽ."
Tuy nhiên, cách kết thúc của tác phẩm, chúng ta có thể thấy được, bởi Tô Hoài sáng
tác thiên truyện này sau Cách mạng tháng Tám. Trước đó không lâu, Ngô Tất Tố,
Nam Cao, Nguyên Hồng... đã không thể tìm được một con đường tốt đẹp cho nhân vật
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
của mình. Còn Mị, và nhiều nhân vật khác trong các tác phẩm văn học Cách mạng, đã
tìm ra con đường giải phóng thật sự, biết cách "cởi trói" cho mình trong quá trình đến
với Cách mạng. Tô Hoài đã có được một tác phẩm thật ý nghĩa, góp phần vào viện
bảo tàng con người Việt Nam tiến lên dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Mị là nhân vật
thành công bậc nhất trong văn xuôi Cách mạng đương đại Việt Nam. Điều này chỉ có
thể đạt được khi tác phẩm "chín" về nghệ thuật và đứng trên tầm cao tư tưởng.
Gần nửa thế kỷ đã qua, Vợ chồng A Phủ vẫn đứng vững trước thử thách của thời gian
và công luận; nó như chứng minh sức sống bất diệt của nghệ thuật. Và tôi muốn lấy
câu nói của Sê-đư-rin để kết thúc bài văn này: "Văn học nghệ thuật luôn đứng ngoài
những quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết".
Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 19
Tô Hoài là nhà văn có vốn sống sâu sắc về cuộc sống và tính cách của con người Tây
Bắc, có lẽ cũng bởi vậy mà trong những tác phẩm của mình Tô Hoài hình ảnh con
người, văn hóa Tây Bắc luôn đậm nét, đúng như những tâm sự mà Tô Hoài từng thổ
lộ: “đất và người Tây Bắc đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá”. Một trong những
tác phẩm tiêu biểu nhất của Tô Hoài viết về Tây Bắc có thể kể đến, đó chính là Vợ chồng A Phủ.
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc được trích từ tập Truyện Tây Bắc, câu chuyện
kể về cuộc đời và số phận của Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ gia
đình mà trở thành người con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí Pá Tra. Theo dõi cuộc
đời của Mị, ta cũng thấy được hành trình hồi sinh, trỗi dậy của sự sống bị vùi dập bởi
thần quyền, cường quyền.
Mị là một cô gái Tây Bắc xinh đẹp, trước khi trở thành con dâu gạt nợ nhà Thống lí,
Mị được rất nhiều chàng trai theo đuổi vì vẻ ngoài xinh đẹp, tài hoa cùng sức sống
tuổi trẻ, căng tràn sức sống. Mang trong mình sức trẻ, khát khao hạnh phúc nhưng Mị
lại có số phận bất hạnh, éo le vì gia đình Mị phải chịu món nợ lớn đối với thống lí Pá Tra.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra không chỉ tước đoạt đi hạnh phúc mà
còn khiến Mị từ một cô gái xinh đẹp, yêu đời trở nên lầm lũi như con rùa nuôi trong
xó cửa, hi vọng sống cũng bị tước đoạt khiến Mị trở nên cam chịu, đáng thương.
Nhân vật Mị được tác giả Tô Hoài ưu ái miêu tả với những vẻ đẹp tinh khôi, tuyệt vời
nhất của một người đàn bà. Không chỉ xinh đẹp, Mị còn có tài thổi sáo khiến bao
người “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”, rồi những đêm tình mùa xuân, những chàng
trai “đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị”. Trước khi bị đẩy vào guồng quay của số
phận bất hạnh, Mị từng sống những ngày tháng tươi đẹp nhất của tuổi trẻ, Mị từng yêu và được yêu.
Mị mang trong mình khát khao tự do, khát khao hạnh phúc, khi biết gia đình có món
nợ lớn với gia đình thống lí, Mị đã từng xin bố cho mình làm nương, làm rẫy lấy tiền
trả nợ chứ không chấp nhận làm con dâu gạt nợ “ bố đừng bán con cho nhà giàu, con
sẽ làm nương ngô trả nợ cho bố”. Nhưng cuộc đời nào được như ý muốn, Mị bị A Sử
con trai thống lí nhìn trúng nên buộc phải về nhà thống lí với thân phận con dâu gạt nợ
nhưng thực chất lại là người ở không hơn không kém.
Mị là người con có hiếu với cha, trước sự ép buộc làm dâu gạt nợ, Mị đã từng phản
kháng dữ dội đến mức muốn ăn lá ngón trả nợ, nhưng cũng vì thương cha nên Mị đã
từ bỏ quyết định tự tử giải phóng mình để gánh món nợ gia đình giúp cha yên tâm an dưỡng tuổi già.
Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra Mị phải làm việc quần quật ngày đêm như “con
trâu con ngựa”. Mị bị hành hạ cả về thể xác và tinh thần, lâu dần Mị đã tê liệt “sống
trong cái khổ Mị quen rồi”, Mị trở nên lầm lũi, cam chịu như “con rùa nuôi trong xó
cửa”. Khi bố đã mất Mị cũng không còn ý định tự tử nữa, có thể thấy cường quyền
không chỉ chà đạp con người về thể xác mà khủng khiếp hơn nó có thể “giết chết” đi
sự sống của một cô gái hồn nhiên, yêu đời như Mị.
Tuy nhiên, sự sống, khát vọng sống của Mị chỉ tạm thời bị tê liệt, chỉ cần có chất “xúc
tác” là có thể bùng cháy mãnh liệt. Trong đêm tình mùa xuân, khi nghe tiếng hát gọi
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
bạn tình, Mị chợt nhận ra mình còn trẻ, cảm nhận được khát vọng chân thực nhất của
mình “Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người có gia đình như Mị vẫn đi chơi”.
Hóa ra khát vọng sống tự do, hạnh phúc bên trong con người Mị không mất đi mà nó
vẫn tiềm ẩn bên trong sâu thẳm tâm hồn Mị. Ngọn lửa của sự sống ấy tuy le lói nhưng
vẫn lặng lẽ cháy, chỉ cần một cơn gió thổi đến sức sống ấy lại bùng cháy trở lại. Giọt
nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh sự sống mãnh liệt ấy, Mị đã vượt qua bao nỗi sợ hãi,
cường quyền, thần quyền và cả cái chết để cứu A Phủ cũng như giải cứu cho chính bản thân mình.
Sự thức tỉnh và bùng cháy của sự sống trong tâm hồn Mị đã khẳng định sức sống tinh
thần mạnh mẽ có thể đưa con người thoát ra khỏi ám ảnh khổ đau, bất hạnh để tự giải
cứu mình, hướng đến một cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng hơn.
Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 20
Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã
giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây
Bắc" (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc
(1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi,
chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành
công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn
là do tài năng nghệ thuật của một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài
đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện
pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ
thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động
của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện
thực và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô
gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là tâm lý của
một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi
kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình
sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền
của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con
dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn
không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý
định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị
quen khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim
của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống,
mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm
khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo
quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ
niệm đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi
chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy
chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái
đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với
Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như
một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo
tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn
đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ
khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ
sức thổi đi lớp cho buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt
qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm thành công lên ở chỗ đó.
Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn
trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ
đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ
tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ
trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở
nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi
Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau
khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả
rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông
sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với
cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá
lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa
xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống
miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh
ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những
chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày
trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc
trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò
mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy
mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con
vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những
chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình:
“Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày
rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm
nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà
phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì
mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu
Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A
Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của
Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc
sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì
chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước
mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với
người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận
ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại
nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt
nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho
A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét
tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.
Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện
động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng
chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí
ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo
A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải
sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của
Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè
nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị
nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”.
Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa
đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân -
hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và
A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà
những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không
sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía
trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan
trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ
cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài
đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những
người phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan
chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim
Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài
cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự
đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác
phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta
hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong
cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ
lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm
“Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ
Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng
tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.
Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ
của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân
trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã
góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.
Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân - Mẫu 21
Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn hân bất lực của hoàn
cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức manh phúc sinh
trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học
cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn
của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hối
duyên của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất
cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hối sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm tình mùa xuân quyến rũ.
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
Ở vùng rẻo cao Hồng Ngài không gì vui bòng Tết đến, xuân về. Năm nay Hồng Ngài
đón một cái tết đặc biệt. Đúng lúc gió và rét rất dữ dội thế nhưng, bất chấp cái khắc
nghiệt của thời tiết, không khí đón Tết vui xuân của Hồng Ngài vẫn rất náo nức tưng
bừng. Tiếng cười nói rộn vang. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng sáo rủ bạn đi chơi.
Không khí tưng bừng, náo nức ấy đã vọng vào tâm hồn Mị, khiến tâm hồn Mị thức tỉnh hồi sinh.
Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương
Tao không có con trái con gái
Tao di tìm người yêu
Lời của tiếng sáo thật giản dị mộc mạc, nhưng nó chứa chan niềm vui niềm tự do, khát
vọng yêu đương, hạnh phúc. Khúc ca say mê náo nức của mùa xuân tuổi trẻ đã vọng
vào cõi sâu thẳm trong lòng Mị thiết tha đã đánh thức cõi lòng câm lặng bấy lâu của
Mị, tiếng sáo ấy khơi dậy sức sống tiềm tàng trong con tim Mị. . Ý thức về quyền làm
người trỗi dậy, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Cách
uống rượu của Mị thật lạ. Mị uống lấy được, uống như chưa bao giờ được uống, uống
cho bõ hờn, bõ tức. Uống để cuốn phăng đi bao cay đắng tủi nhục của quãng đời đã
qua. Uống cho thỏa khát khao say mê, phía trước. Men rượu nồng nàn tiếng sao tha
thiết đã nhấc bổng Mị thoát khỏi thực tại, dìu Mị trở về miền quá khứ đẹp tươi với bao
khát khao nồng cháy. Mị say, cứ lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người hát trong lòng Mị
đang sống về ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi … có biết bao nhiêu người mê.
Ngày trước Mị trẻ trung yêu đời, ngày trước Mị đã từng yêu và được yêu. Sống với
ngày trước, lòng Mị bỗng phơi phới trở lại đột nhiên vui sướng, hạnh phúc. Những kí
ức hạnh phúc đã thôi thúc Mị nổi loạn. Bắt đầu là sự nổi loạn trong ý nghĩ. Mị trẻ lắm,
Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày Tết cũng đi chơi.
Huống chi Mị với A Sử không có lòng với nhau, vậy mà vẫn phải ở với nhau. Lần đầu
tiên, sau chuỗi ngày dài dằng dặc, sống cam chịu, nhấn nhục với kiếp ngựa trâu như
con rùa nuôi trong xó tối, Mị dám chối bỏ ràng buộc duyên phận với A Sử để thành
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
người tự do. Đắm chìm trong miền kí ức say mê, trong những khát khao nồng cháy
dường như Mị đã quên cả thực tại. Rượu đã tan lúc nào. Người về đã vãn cả. Mị
không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Cõi mộng, cõi mơ miền thương nẻo nhớ đang gọi Mị.
Mãi sao, Mị mới bừng tỉnh. Mị đứng dậy nhưng không bước ra đường chơi nữa mà từ
từ bước vào buồng. Ý nghĩ muốn đi chơi đã lóe lên trong đầu Mị nhưng nó chưa đủ
mạnh để dứt Mị ra khỏi thế giới ngục tù. Phản ứng nổi loạn ở Mị cần thêm thời gian
và chất xúc tác. Bước vào buồn, ngòi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông bằng
bàn tay, mờ mờ trăng trắng. Bao cay đắng tủi nhục của kiếp nô lệ trung thân bỗng dội
về, dày vò cõi lòng Mị tan nát, ứ máu đầy bi kịch. Và Mị bỗng nảy ra ý nghĩ thật lạ
lùng, đột biến mà mang tinh tất yếu : Mị muốn tự tử : nếu có nắm lá ngón trong tay
lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước
mắt úa ra. Cứ nghĩ Mị sẽ tự tử ngay nhưng đúng lúc ý nghĩ muốn chết trỗi dậy thì
tiếng sao gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường lại một lần nữa vang vọng vào tâm hồn
Mị. Khúc ca yêu nồng nàn ấy đã dập tắt ý nghĩ muốn chết nhưng cũng không thể sống
lùi lũi như con rùa nuôi trong xó tối nữa. Mị phải sống trong vùng trời tươi sáng, ngập
tràn ánh nắng tự do, hạnh phúc. Và chính ý nghĩ ấy đã thôi thúc Mị có hành động nổi
loạn, táo bạo, quyết liệt từng có. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ vào
thêm đĩa đèn cho sáng. Tại sao Mị phải thắp đèn ? Phải chăng, Mị không cam chịu
sống trong xó tối nữa ? Mị muốn phá tan màn đêm âm u, mù tối nơi đại ngục trần gian
này. Mị muốn thắp sáng cho tương lai của mình. Ngọn lửa trên đĩa đèn hay ngọn lửa
trong lòng Mị đang rừng rực cháy. Thắp đèn xong, Mị cuốn lại tóc, với tay lấy cái váy
và rút thêm cái áo. Bất chấp mọi luật lệ của nhà thống lí, Mị hành động như một người hoàn toàn tự do
Những khát vọng cháy bỏng của Mị vừa bùng lên thì đã bị vùi dập một cách thô bạo
tàn nhẫn. A Sử trói đứng Mị vào cột bằng cả một thúng sợi đay tàn nhẫn. Tóc Mị xõa
xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được nữa.
Rồi A Sử tắt đèn đóng cửa lại. Tại sao A Sử phải trói Mị như thê ? Có phải đó là thói
quen tàn bạo của A Sử hay chính A Sử cũng giật mình hoảng sợ trước hành động nổi
loạn táo bạo của Mị ? Hắn phải dùng mọi vũ lực thô bạo nhất để dập tắt tinh thần phản
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
kháng mạnh mẽ của Mị. Tuy nhiên những cánh cửa buồng khép chặt, những làn dây
chói chặt không sao chói được tâm hồn Mị. Bóng ma của buồng gian cũng không sao
dập tắt được ngọn lửa cháy sáng trong tim Mị. Mọi vũ lực bạo tàn của A Sử đều trở
nên vô nghĩa. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi
rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi, những đám chơi. Mị
khe khẽ hát, tiếng hát cất lên từ trái tim sôi nổi, nồng nàn. Rồi Mị vùng bước đi, mạnh
mẽ, quyết liệt, sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do đã trỗi dậy mãnh liệt. Sức sống ấy
cứ trào ra ngoài ra sợi dây trói.
Nhưng rồi Mị chợt bừng tỉnh, những làn dây chói cứa vào ra thịt đau dứt, xót xa, đau
đớn đến tê tái. Tiếng sáo tha thiết, dìu dặt tắt lịm, chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vách
nhức nhối ai oán. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Cả đêm ấy, Mị lúc
mê, lúc tỉnh, lúc đớn đau, quặn thắt trước thực tại thê thảm, khốn cùng, lúc lại cồn
cào, tha thiết nhớ. Quá khứ, thực tại, hạnh phúc, khổ đau cứ giằng xé trong trái tim
Mị. Ngòi bút Tô Hoài thật tinh tế tài hoa khi lách vào cõi sâu tâm tư của Mị khiến Mị
trở thành ‘thật hơn con người thật’.
Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và
chờ dịp bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến
cho nhân vật một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao
đẹp của tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng
góp của ông cho văn học Việt Nam.
Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 22
Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài (xuất bản năm
1953). Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận
của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền
núi trước Cách mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Tô Hoài đã
thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp.
Nhân vật Mị mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp
nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
tốt lành, nhưng chỉ vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho
đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho
nhà hắn. Mị bị coi như một thứ đồ vật vô tri vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ.
Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí gian ác là chuỗi dài đau thương,
khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa.
Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam
chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, đa cảm thủa nào đường như đã chết, chỉ còn lại
người đàn bà lúc nào cũng vậy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi ngồi quay sợi gai bên
tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa của nhà thống tí. Mị sống âm thầm, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Không những bị đọa đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về tinh thần. Cô chán
sống nhưng không được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người
bố già càng thêm đau khổ. Cuộc đời Mị bị trói buộc bằng quyền lực, bằng tập tục mê
tín dị đoan lâu đời của người dân miền núi. Mị cho rằng mình đã bị Con ma nhà thống
lí nhận mặt: nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
đây thôi. Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con thống lí làm cho Mị sống triền
miên trong đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm
tình. Cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Thân xác
Mị héo úa, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị
cũng đến chết héo. Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối
u ám đang vây phủ cuộc đời. Không có người thông cảm với nỗi khổ của mình, Mị
phải tìm đến ngọn lửa và coi nó là bạn. Khổ biết chừng nào!
Tác giả giúp người đọc hình dung rõ hơn về cuộc đời bế tắc của Mị qua hình ảnh căn
buồng cô ở kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay.
Ở trong nhìn ra không biết là đêm hay ngày, sương hay nắng.
Bao năm qua, bị đày đọa trong nhà thống lí, mọi cảm xúc của Mị hầu như tê liệt. Tinh
thần phản kháng cũng vậy. Mị nghĩ rằng mình là con trâu con ngựa của nhà giàu, chỉ
biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa đêm còn được nghỉ, còn cô
không lúc nào ngớt việc. Trước kia, có lần cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
ngón tự tử, giờ đây cô không nghĩ đến cái chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rồi. Đời
Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi trong vô vọng. Với Mị, cuộc sống không còn ý nghĩa.
Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm
xúc, khát khao đã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì
mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã
nhưng Mị vẫn sống âm thầm, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị
đày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén
uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi
bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những
đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…
Rõ ràng, bản chất đích thực đã trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, cảm xúc tưởng
như đã lụi tàn vì đau khổ đang sống dậy. Mị thấy mình còn trẻ lắm, mà còn trẻ thì phải
được hưởng hạnh phúc. Vì thế nên bất chợt Mị muốn đi chơi. Nhưng khát vọng chính
đáng đã bị hiện thực phũ phàng vùi dập. A Sử đánh Mị, trói Mị, Mị vẫn thả hồn lâng
lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên niềm
khao khát hạnh phúc trong lòng Mị. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không thể giải
phóng được cuộc đời cô nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh.
Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày nó sẽ bùng cháy dữ dội khi gặp cơn gió mạnh.
Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy
sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người xảy ra thường xuyên ở nhà
thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen
lại của A Phủ, Mị không cầm lòng được. Mị thương A Phủ cũng bị rơi vào vòng đọa
đày, khốn khổ như mình. Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha
con tên thống lí bạo tàn đối xử dã man. Có người chết đói, chết rét sau mấy ngày cùm
trói. A Phủ kia cũng sẽ như vậy thôi và đến một ngày nào đó, Mị cũng thế. Hơn bao
giờ hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị. Nếu cứ cúi đầu chấp
nhận số phận có nghĩa là chấp nhận cái chết bi thảm. Từ hình ảnh đau thương của A
Phủ trước mắt, Mị liên tưởng đến tương lai mù tối, bế tắc của mình. Chính điều đó đã
Văn mẫu 12: Phân tích nhân vật Mị
làm sống lại trái tim tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương
người, thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của A Phủ như giọt nước cuối cùng
làm tràn đầy bình nước, cảm thương số phận A Phủ, một chàng trai dũng cảm, khỏe
mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên
thống lí gấp bội. Cái thương cái ghét bùng lên, lấn át nỗi sợ, dẫn Mị đến hành động
táo bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ.\
Đây là hành động bộc phát xong nó là kết quả tất yếu của cả một quá trình bị dồn nén,
bức xúc về mặt tinh thần bây giờ đã đến lúc giải thoát và đó cũng chính là biểu hiện
tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng ẩn chứa trong con người Mị bấy lâu nay.
Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt những dây trói vô hình đã cột chặt cô vào
quãng đời tủi nhục. Cô chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và sự sống còn
của mình : ở đây thì chết mất Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự giải
phóng mình khỏi nanh Vuốt cha con tên thống lí tàn bạo. Từ trong cái địa ngục giam
cầm đày ải mình suốt mấy năm qua, từ trong sự bủa vây tàn khốc của cái chết, Mị đã
vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong hoàn
cảnh đau thương, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định không bạo lực đen tối nào có thể
vùi dập được sức sống và khao khát tự do của con người ; đồng thời nhấn mạnh rằng,
chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng
được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm.