Phân tích nhân vật Thị trong Vợ Nhặt hay nhất - Ngữ Văn 12
Xin gửi tới quý thày cô và bạn đọc bài văn mẫu "Phân tích nhân vật Thị trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân" hay nhất. Đây là tài liệu không thể thiếu đối với các bạn học sinh chuẩn bị thi cuối học kì 2 lớp 12 và thi THPT Quốc gia môn NGỮ VĂN. Hy vọng tài liệu trên giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Đề bài: Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân Ngữ văn 12 Dàn ý chi tiết 1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu nhân vật thị. 2. Thân bài:
a. Hoàn cảnh, ngoại hình:
- Một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia
đình => Hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông dân trong nạn đói năm 1945.
- Không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan
sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm
“gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái
ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.
- Đang bước dần những bước cuối đến cái nghĩa địa của cuộc đời như nhiều số
phận khốn khổ khác trong nạn đói kinh hoàng.
b. Tính cách thị khi mới gặp Tràng:
- Cách nói năng, hành động phản cảm:
+ Cong cớn, sưng sỉa, chỏng lỏn vì miếng ăn.
+ Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”,
điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ.
+ Cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì
lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”.
=> Vô duyên, trơ trẽn, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn.
- Dưới cái nhìn nhân văn: Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống,
thị quyết không buông bỏ cuộc sống dễ dàng. => Khao khát sống mãnh liệt.
- Khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương
tựa những lúc khó khăn như này. => Theo không Tràng về làm vợ.
=> Bên cạnh ý nghĩa nhân văn trong sự kiện thị theo không Tràng, thì Kim Lân
cũng phản ánh một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người
dường như đã xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác,
để đến nỗi những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.
c. Sau khi trở thành vợ Tràng:
- Trên đường trở về nhà với Tràng:
+ Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng
nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô
dâu khi bước về nhà chồng.
+ Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người
làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không.
- Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, khiến
thị thất vọng, nhưng thị không hề phàn nàn với Tràng, quyết tâm cùng người
chồng mới cưới xây dựng gia đình, phấn đấu vượt qua cái nghèo cái khó.
- Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép
nép, ngại ngùng, thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn
với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
- Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo
vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân
hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,...
- Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và
vào miệng” => Cách cư xử tế nhị, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.
- Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật.
=> Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này
không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là
Tràng đi phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một
tương lai tươi sáng hơn. 3. Kết bài Nêu cảm nhận Bài làm 1
Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ
cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên,
không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số
hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng
quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua,
một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải
chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng
dâu hiền thục của bà cụ Tứ?
1. Lai lịch, ngoại hình
- Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà
cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả,
lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con
và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với
mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt
vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con
người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn
biết bao chị gái như thế.
- Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông
thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp
lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi
như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con
mắt. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải. 2. Tính cách - Khi mới gặp Tràng:
+Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe
hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe
bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy
xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm
chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi
thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai
con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị
cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị
cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở.
+Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến
lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của
mình. Thị làm tất cả chỉ để được… ăn!
- Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:
+Trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt
có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì
sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng
con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e
thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác.
Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị
đang về nhà chồng (ai mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân
phận mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể
cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.
+Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản
thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ
trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa ta y
lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến
người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh
Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và
lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự
dòm ngó của mọi người.
+Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng
dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở
dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiên, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám
ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy chủ động chào
bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ,
khẽ nhúc nhích. Chính thái độ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ ,
trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu,
nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy
phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.
+Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ , thị
thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm
như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác
lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát
chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người
biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết
đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể
cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu
đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói. Câu chuyện ấy
khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà
chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người
phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm
ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí
mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song,
thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn
làm người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào
mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế!
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng
qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia
đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam. 3. Số phận
- Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945:
nghèo đói, bị rẻ rúng.
- Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia
đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất
tốt đẹp đã sống lại.
4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không
tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của
thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ).
- Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để
người đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón
che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về
nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn
nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt
thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số phận khi đến
bước đường cùng… Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được
khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người. 5. Kết luận
- Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy
con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế
nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống,
hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.
- Ba nhân vật chính trong Vợ nhặt đã được nhà văn xây dựng theo cách thức
khác nhau. Chính sự khác nhau đó đã góp phần tạo nên giá trị đọc đáo của tác
phẩm. Ba nhân vật trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và
cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Bài làm 2
Nhân vật "Thị" là một thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân
tích tâm trạng người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu, 1945. Nhân
vật vợ Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trò tô
đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
Trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ
bay vù lên như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ
những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh
xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị cũng chạy đói
"ngồi vêu ra" cùng mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, không rõ
quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp
đi của tất cả. Lần đầu nghe Tràng hò "muốn ăn cơm trắng mấy giò...", Thị bị
mấy cô bạn "đẩy vai". Thị "cười như nắc nẻ" cong cớn nói với Tràng: "Này nhà
tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?". Thị "liếc mắt cười tít" làm cho anh cu Tràng "thích lắm".
Lần sau, Thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơi như tổ đỉa.
Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới
chân Thị là vực thẳm, là chết đói! Thị "sưng sỉa" trách Tràng là "điêu", "leo lẻo
cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!". Thấy Tràng vỗ vào cái túi khoe "rích bố
cu", hai con mắt "trũng hoáy" của Thị tức thì sáng lên. Thị "đon đả" với anh cu
Tràng: "Ăn thật nhá!". Thị đã ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, khen:
"Hà, ngon!". Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, nói
với Tràng rất lẳng lơ: "Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!". Chỉ một câu nói tầm phào
của Tràng "làm đếch gì có vợ...", thế là Thị theo về ngay, "Thị về thật". Khi
đứng trong cái nhà "vắng teo... rúm ró" của mẹ con Tràng, Thị đảo mắt nhìn
xung quanh, thất vọng "cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài".
Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, Thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ
sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc.
cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt
đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp
đi. thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ:
"Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!
Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!" (Ca dao)
Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là xấu.
Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem
đến cho ta nhiều xúc động. Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của
Tràng, thành "nàng dâu mới" của bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu
hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết,
cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình,
một mái ấm tình thương, có chồng con như những người đàn bà may mắn khác.
Trước cái nhìn tò mò của bà con xóm chợ, Thị "ngượng nghịu, chân nọ bước
dịu cả vào chân kia". Nghe bọn trẻ con gào lên: "Anh Tràng ơi! Chông vợ hài",
Thị "nhíu đôi mày lại", rồi đưa tay lên "xóc xóc lại tà áo". Chưa gặp bà cụ Tứ,
Thị rất băn khoăn lo lắng "mặt bần thần". Đứng trước mặt mẹ chồng, trông Thị
rất đáng thương: "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt".
Nghe bà cụ Tứ nói: "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân"
Thị "vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ". Đó là tâm trạng của một người con
gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cưới. Tủi cho cảnh ngộ.
Tủi cho duyên số. Thật đáng thương! Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính
"hay đáo để". Cái "liếc mắt cười tít" lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào
lưng Tràng với tiếng mắng yêu: "Khỉ gió". Một lời trách nhẹ chồng: "... chuyện
dai thế, đợi sốt cả ruột". Một cái củng vào trán Tràng kèm theo câu nói yêu:
"Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!".
Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ,
cái chết đói đến dần, Thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo
lắng, nhưng Thị đã có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động
niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong đói khát hoạn nạn.
Hạnh phúc muộn màng nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của
Kim Lân thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của vợ chồng Tràng.
Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. Dậy sớm cùng mẹ chồng quét
tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi
quét sân của Thị "kêu sàn sạt trên mặt đất" tưởng như niềm vui đang xôn xao
trong lòng Thị? Thị "lẳng lặng" đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ
mình rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có "nàng dâu mới", Tràng đã có vợ. Nhà thêm
người, thêm bát đũa, thêm nhân lực.
Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe
tiếng trống thúc thuế, Thị nói với mẹ chồng và chồng: "Trên mạn Thái Nguyên,
Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa ta cả kho thóc của Nhật chia cho
người đói nữa đấy". Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới"
cũng là người truyền tin cách mạng.
Vai trò nhân vật vợ Tràng trong truyện "Vợ nhặt" là một nhân chứng tố cáo, lên
án tội ác tày trời của Nhật - Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu
đồng bào ta bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp đã hạ thấp nhân
phẩm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người con gái như một
thứ đồ rẻ rúng có thể "nhặt" được!
Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách
như tổ đỉa, bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám - hình ảnh ấy,
tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân ta
trong cảnh lầm than nô lệ.
Nhân vật vợ Tràng trong truyện "Vợ nhặt" đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong
đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dần ta vẫn khao khát được sống ấm no
hạnh phúc. Những người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và
tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh
phúc và sự đổi đời với niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời"... Cũng như bà
cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân
đạo của tác phẩm "Vợ nhặt". Bài làm 3
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc
và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu
vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa
tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái
hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng
bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho
cuộc sống bần cùng giai đoạn đó. Đó là nhân vật người vợ.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào
nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết, người chết
như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chơi, đi làm đồng không
gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí bốc lên mùi ẩm thối
của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Tác phẩm như đã tái hiện lên khung
cảnh lúc đó, ở một xóm nghèo nhỏ, người dân sống cực khổ quanh năm , lại
thêm cảnh chèn ép bắt đóng thuế nhọc nhằn sao kể xiết.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống
của những con người nghèo khổ trong xã hội Việt Nam. Là “vợ nhặt”, là chi
tiết và là tình huống truyện thắt nút cho diễn biến xoay quanh nhân vật người
vợ trong tác phẩm. Từ “nhặt” mang lại cho đọc giả cái cảm giác rẻ rúng, bèo
bọt của phận làm nữ nhi, gợi lên niềm xót thương cho số phận con người. “ Vợ
nhặt” nghe quá đỗi chân thực và vẽ lên hình ảnh người phụ nữ có một cuộc
sống khó khăn, chẳng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi ngay cả một đám
cưới nhỏ cũng không có hay chính xác hơn là một mâm cơm ngon cũng chỉ
như giấc mộng hão huyền ngày cô về làm dâu nhà người ta.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn
bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…”
Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của
một anh nông dân nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ
con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Bởi cuộc sống
quá khó khăn, đói kém con người ta trở nên càng mệt mỏi , chán nản, từ già trẻ,
gái trai đều đem sự khắc khổ của đời mà ghim vào những nếp nhăn , nếp chân
chim, và làn da rám nắng , thân thể gầy gò quắt queo. . Trong khung cảnh chiều
tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo
nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng
lên cái lưng gấu của hắn”.
Và bỗng một hôm hắn dắt về một người đàn bà lạ hoắc không một ai trong xóm
nhỏ quen biết. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “ Thị cắp cái
thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi
nửa mặt. Thị có vẻ rón rén,e thẹn” . Một người đàn bà nghèo khổ, không còn
thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi
trời sinh.Tưởng chừng Thị là một người phụ nữ táo bạo vô duyên nhưng thực
chất cũng vô cùng e lệ và suy nghĩ như một người phụ nữ. Cắp thúng con theo
Tràng về, nàng dâu mới cũng bẽn lẽn theo sau, khi bị trêu chọc cũng e thẹn như
bao nàng dâu mới khác. Về đến nhà, khi được Tràng mời ngồi Thị chỉ ngồi
mớm ở giường, tay vân vê và bộ mặt lộ rõ vẽ đầy lo lắng. Chắc có lẽ Thị nghĩ
về cuộc sống mới của hai vợ chồng, rồi cuộc đời của Thị sẽ đi đến đâu.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến
và sự chuyển đổi trong tâm tính thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn
tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng
bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở
trong…”. Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng
nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ
nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp
con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên
nổi, còn mình…”. Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả
qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện
rõ ràng hơn bao giờ hết.
Thế nhưng vì thương con, lại một chữ “thương” mà bỏ qua tất cả để người mẹ
chấp nhận cuộc sống vất vả, khổ cực có thêm một miệng ăn và bà cũng thương
cả hai con người trẻ tuổi trước mặt mình: “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy
thương xót. Nó bây giờ là con dâu trong nhà rồi”. Có hai tình huống xảy ra mà
khiến độc giả có lẽ không cầm được nước mắt, đó là khi nhà ăn bữa cơm đầu
tiên đón nhận thành viên mới và lúc bà mẹ già bưng nồi ‘‘chè khoán’’ nghi ngút
khói ra đặt cạnh mâm cơm. Trong cái thời nạn đói, người chết như rạ ấy thì một
bữa cơm đúng nghĩa quả thực rất khó để có trong một gia đình như của Tráng.
Bữa cơm bao gồm “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một
đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà ăn đều rất ngon lành’’.
Thật sự là nghèo khó đến bần cùng cạn kiệt. Người vợ vẫn ăn mà không một
câu than phiền. Xuất thân của Thị cũng có hơn gì ai. Thị cũng nghèo khó, gầy
gò và vì tình thương mà đến làm vợ, làm con dâu nhà người ta. Thị cũng là một
người vô cùng đảm đang và tháo vát. Khi về nhà Tràng, buổi sáng sớm tinh mơ,
Thị đã dậy sớm để cùng bà dọn dẹp và sửa sang lại căn nhà vườn tược. Dường
như Thị muốn vun vén cuộc sống của gia đình và bắt đầu một cuộc sống mới.
Thị cũng rất vui tính và hòa nhập nhanh với cuộc sống mới. Trong bữa ăn, Thị
kể nhiều câu chuyện, có cả câu chuyện cướp kho thóc Nhật, từ đó dấy lên bao
niềm khát khao hi vọng tự do của những người dân nghèo khó. Một bữa cơm
đón dâu nghèo nàn đến đáng thương.
Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến
tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm
đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến
cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa". Ai cũng muốn có một
bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh
nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà Tứ có thể
mang lại cho con. Và có lẽ trong thâm tâm người ‘‘vợ nhặt’’ cảm thấy xúc động
thêm thương xót cho những con người trong gia đình này. Hoá ra cái đanh đá,
trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói do khát mà ra.
Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt
rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân
vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được
những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật.
Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề
tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành
nên tình huống truyện.ong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản
chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam. Bài làm 4
Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác
mộng khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở
thành đề tài sáng tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở nên
tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất cả
những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người
vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.
Trước tiên, ta thấy Thị là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh.
Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những
người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy
không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác
phẩm, Kim Lân chỉ ban tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất chung
chung như “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Thị xuất
hiện một cách bạo dạn, đáng thương trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu ra”
lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe
tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất bại. Từ sự cong cớn, liếc
mắt cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói trong lần gặp thứ
hai “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái
khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như không
thể nhận ra thị. Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn
nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon
đả”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền
“Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong
thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một
người phụ nữ thật đáng thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, thị đều
hiện lên trên trang giấy với sự khắc khổ, nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói chẳng
những tàn hại dung nhan mà còn tước đoạt cả tính cách và nhân phẩm của thị.
Vì đói mà trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “sưng sỉa”.. Cái đói khiến thị quên
đi việc giữ gìn ý tứ và lòng tự trọng của con gái. Càng tội nghiệp hơn khi cái
đói buộc thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu nói nửa đùa nửa thật
“này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cũng về”. Thế là
xong một câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Sự lãng mạn chỉ là điều không
tưởng. Đang trên bờ vực của cái chết, thị còn lựa chọn nào hơn? Trong suy
nghĩ của thị, Tràng như một cái phao cứu sinh, cứu thị ra khỏi sự đói khát của
thế kỉ. Cái đói đã làm cho thị và biết bao người dân lúc bấy giờ rẻ rúng như vậy.
Có ai ngờ được hạnh phúc lứa đôi được xây đắp bằng bốn bát bánh đúc và một
lời nói bông đùa? Nhưng trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí
ẩm lên mùi ẩm thối của rác tưởi và mùi gây của xác người” thì hạnh phúc tầm
thường, đơn sơ kia cũng đáng quý biết bao.
Bên cạnh đó, Thị còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý
theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống
mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Niềm
lạc quan lạc sống ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như Kim Lân:
“Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ
nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thức khác. Trong hoàn
cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ
đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị
đến với Tràng trước hết làm tìm một chỗ nương tựa trong đói kém. Bởi thế, thị
không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh thảm thương của gia
đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một
tiếng thở dài”. Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn xao,
những chỉ trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy xấu
hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà
chồng, thị thất vọng trước cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả
vào trong suy nghĩ. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn
xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc xây dựng
cuộc sống gia đình về sau..
Nhân vật Thị còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm chất
tốt đẹp. Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u một
cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị bây
giờ là nàng dâu mới với đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước. Chính tình cảm
yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến con người sống
tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình. Sáng hôm sau,
thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong ngoài. Đến cả chính Tràng cũng
phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà
hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng
gặp ở ngoài tỉnh”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới – bữa cơm thảm hại ngày
đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió
mới trong gia đình. Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái
bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào
miệng”. Hoàn cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy
cũng hạnh phúc bình dị, đơn sơ. Sự lạc quan được gói trọn trong lời của bà cụ
Tứ: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn
chả có cám mà ăn đấy”. Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ thông
minh hiểu biết. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị tỏ ra ngạc nhiên hỏi mẹ chồng
“Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” Câu nói của thị làm Tràng ngờ ngợ vỡ ra
trong suy nghĩ “hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật”, “trong ý
nghĩ của hắn vụt ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm éo nhau đi trên đê Sộp.
Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”…
Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật
của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”;
diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua
hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.
Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là
một nhân vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng
thương. Nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi lòng
ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai. Bài làm 5
Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà
văn Kim Lân. Nội dung truyện kể về anh Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe
bò thuê. Giữa trận đói kinh hoàng nuôi thân còn khó, thế mà bất ngờ, anh dám
đèo bòng thêm cô vợ nhặt. Kim Lân đã sáng tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc
đáo, đồng thời vận dụng ngôn ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc họa
tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến anh Tràng và người vợ nhặt, nhân
vật nào cũng sinh động và chân thực.
Ngay cái tên truyện là Vợ nhặt cũng gợi cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị.
Nhân vật vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến tâm
trạng ở từng tình huống khác nhau. Chị đã đem lại niềm vui ấm áp và hạnh
phúc gia đình cho mẹ con Tràng trong cảnh ngộ mấp mé giữa sự sống và cái
chết. Vì thế nhân vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn
thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Thường thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một
cái tên để gọi, để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác. Đôi khi, tên
nhân vật cũng bao hàm một dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể toát lên tư
tưởng chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân đã được nhà văn
Nguyễn Khải nhận xét là: “Dường như chẳng có gì cả nhưng lại có khả năng
làm kinh động lòng người”. Cho nên, khi tác giả cố tình không đặt tên cho
nhân vật của mình và lấy nhân vật không tên ấy làm nhan đề tác phẩm thì chắc
hẳn đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa.
Cốt truyện xoay quanh sự kiện “ nhặt vợ ” bất ngờ và trớ trêu của anh Tràng.
Nhà Tràng chỉ có hai mẹ con ở cái xóm nghèo ven chợ. Là dân ngụ cư nên
Tràng bị khinh rẻ. Đã thế, anh ta vừa luống tuổi lại vừa xấu trai nên ế vợ. Trong
hoàn cảnh bình thường, Tràng không thể cưới được vợ, ấy vậy mà giữa nạn đói
khủng khiếp, anh ta lại “nhặt” được “vợ” một cách tầm phơ tầm phào, chẳng cần phải cưới xin gì.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện trong bối cảnh trận đói năm 1945 đang diễn ra vô
cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù vù như những đám
mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái
Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp
lều chợ. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào? Tất cả
đều không. Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập
trước cửa kho thóc để nhặt nhanh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn việc
gì thì làm để kiếm sống. Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát
khác : Áo quần tả tơi như tổ đỉa… người gầy vêu vao, trên cái khuôn mặt lưỡi
cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị là hiện thân của hàng triệu con
người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.
Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng với cách nói năng đối đáp tỏ ra bạo
dạn. Chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời chòng
ghẹo của mọi người. Khi nghe Tràng hò : Muốn ăn cơm trắng mấy giò này –
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì và bị mấy cô bạn đẩy vai chòng ghẹo… thị
cười như nắc nẻ, cong cớn nói với Tràng: Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói
khoác đấy? Thị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt
cười tít làm cho anh Tràng thích lắm.
Chuyện chỉ có thế và Tràng cũng quên ngay. Lần sau, Tràng vừa trả hàng xong
đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tình thì thị ở đâu sầm sầm chạy đến,
sưng sỉa trách anh: Điêu! Người thế mà điêu! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn
xuống, thế mà mất mặt. Gặp lại chị ta, Tràng không nhận ra vì chị ta khác quá.
Một lúc sau nhớ ra, Tràng toét miệng cười, đon đả: Này hẵng ngồi xuống ăn
miếng giầu đã. Chị ta ngúng nguẩy: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thấy Tràng vỗ
vào túi khoe Rích bố cu… hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị
đon đả: Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Chị ta dang đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn ý tứ
của một người con gái trước người đàn ông chỉ mới quen một hai lần : Thị cắm
đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm
dọc đôi đũa quệt ngang miệng rồi vừa thở vừa khen: Hà, ngon! Mê mải ăn như
chưa từng được ăn bao giờ, như thế là chị ta không phải mới đói một ngày mà
đã đói cả tuần, đói sắp chết.
Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện và nhân cách. Tuy nhiên, ăn xong chị ta cũng
biết đùa cho đỡ xấu hổ : về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Tràng cười nhạt: Làm
đếch gì có vợ, rồi tự nhiên bật ra câu nói: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra
khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tưởng giỡn cho vui, ai ngờ chị ta theo về thật.
Thế là chị ta thành vợ Tràng cứ như là một trò đùa. Hay nói như tác giả là
chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí trước
hết là để có miếng ăn, sau là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói chứ đã
có tình cảm gì với nhau đâu ?! Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo “chồng”
về nhà, chị ta chả biết nói gì, chỉ ngượng ngùng và khó chịu khi thấy mọi người
nhìn mình bằng con mắt tò mò.
Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng đãi ăn một bữa no, ngoài
ra không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ, ấy
vậy mà chị ta đi theo ngay, không đắn đo, sợ hãi gì. Liều lĩnh chăng? Nhẹ dạ
chăng? Mặc kệ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã! Vợ chồng là chuyện
lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói, khỏi chết lúc này là quan trọng nhất.
Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào!
Trên đường theo Tràng về nhà, chị ta vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng, phấp
phỏng, xấu hổ, tủi nhục vì dẫu có lâm vào bước đường cùng thì chị ta cũng
không sao tránh khỏi tiếng xấu là “đàn bà theo giai” trong xã hội phong kiến
đầy rẫy những định kiến nặng nề lúc đó. Còn lo lắng, phấp phỏng vì không biết
liệu cái anh chàng mà chị đánh liều theo về làm vợ này có giúp chị thoát khỏi
chết đói và những người trong gia đình anh ta có thông cảm mà chấp nhận chị hay không?
Chuyện làm “vợ” đến với chị quá bất ngờ khiến lòng chị không yên. Bên cạnh
dáng điệu phởn phở khác thường của Tràng, vẻ e thẹn, ngượng ngập của chị ta
lại càng nổi bật: Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng
con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa
mặt. Nhà văn thật sự đã hiểu thấu tâm trạng và thể hiện được những gì dang
diễn ra trong lòng người đàn bà ấy kể từ Khi chị đặt bước trên con đường xa lạ.
Nhận lời làm vợ Tràng rồi theo anh về nhà, bước đầu chị ta đã có được vẻ nhu
mì, khép nép của một cô dâu. Chắc là với chị, con đường ấy dài dằng dặc, bởi
không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách dễ dàng?
Liệu hành động “Cũng liều nhắm mắt đưa chân” này có mang lại cho chị được
chút hạnh phúc ấm áp nào chăng hay lại khốn nạn hơn, cay đắng hơn tình cảnh
của chị bây giờ?! Bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến chị sốt ruột bật ra câu
hỏi: sắp đến chưa? vẫn chưa đến à? Rồi lại: Nhà có ai không?
Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường,
dưới đất, thì chị ta không khỏi chán ngán, thất vọng: Thị đảo mắt nhìn xung
quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài. Hóa ra gia cảnh của anh
chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn
biết làm sao được nữa? Việc đã rồi ! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc
cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng mời ngồi,
chị ta chỉ ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần…
Nghệ thuật miêu tả kĩ càng, tỉ mẩn của Kim Lân ở chi tiết tưởng như rất bình
thường này khiến người đọc phải chú ý. Sao đã được Tràng mời ngồi mà chị
chỉ ngồi mớm xuống mép giường? Thì ra cái thế ngồi tạm bợ, dè dặt ấy cũng là
cái thế của tâm trạng ngổn ngang trăm mối. Liệu chỗ ngồi này có phải là của
chị không ? Liệu mái nhà cũ kĩ, xiêu vẹo này có phải là nơi chị dung thân ?
Đặc biệt là cảnh chị ta hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần.
Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá chật chội, chị ta chẳng biết
để cái thúng vào đâu? Hay vì giờ đây, cái thúng là tài sản duy nhất nên chị
chẳng nỡ rời? Hay là chị ta sẽ bỏ đi ngay? Chị bần thần vì ngỡ ngàng, vì mải
nghĩ tới chuyện bỗng dưng thành vợ của mình. Nó là thực mà cứ như không
phải thực, khó có thể tin là sự thực. Làm vợ, làm dâu mà như thế này ư? Lấy
chồng, đám cưới, rước dâu… Cái hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái chị
có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm ! Tủi lắm ! Chị không nói được nên lời
bởi cất tiếng, chắc chắn chị sẽ khóc. Nỗi đau không trào ra thành nước mắt mà
chảy ngược vào trong nên càng đau, càng tủi.
Lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, chị ta vừa tủi phận, vừa ngượng ngập.
Gặp bà cụ Tứ, chị e thẹn, khép nép. Trước khi gặp Tràng, hoàn cảnh nghiệt ngã
khiến chị ta có lúc thành ra kẻ trơ trẽn, trâng tráo, nhưng bản chất chị ta không
phải như vậy. Tuy nhiên, ngòi bút của Kim Lân không chỉ tinh tế mà còn rất
nhân hậu. Ông không muốn xoáy sâu vào những nỗi trớ trêu xót xa, đau lòng ấy.
Khi viết truyện ngắn vợ nhặt, mặc dầu lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp do
phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945) làm hơn hai triệu
đồng bào từ miền Bắc đến miền Trung bị chết đói, nhưng dù trong tình huống
bi thảm đến đâu, thậm chí kề bên cái chết thì nhân vật của Kim Lân vẫn khao
khát hạnh phúc, vẫn tin vào cuộc sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống cho ra con người.
Ở cuối truyện, cái khát vọng mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của nhân
vật vợ nhặt đã bộc lộ ra một cách hồn hậu, tự nhiên. Tuy không tìm thấy sự no
đủ nhưng dẫu sao chị cũng vơi bớt được nỗi lo khi biết nhà Tràng chỉ có một
mẹ già. Chị hiểu như thế là ít có khả năng bị hắt hủi, xua đuổi. Mà đấy chẳng
phải đã là một nửa sự sống rồi sao?
Trước sự cảm thông, sẵn lòng chấp nhận của người mẹ già và sự cưu mang của
Tràng, chị đã trở thành một người đàn bà khác hẳn. Nếu như hôm qua, cái đói
đã làm mất đi những gì là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một
đêm ngủ ấm dưới mái nhà bình yên thì vẻ đẹp ấy đã trở về với chị. Chị bắt đầu
vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy
ang. Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà tồi tàn, tăm tối của mẹ con Tràng như
sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy
khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng
là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như
mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện
làm vợ của mình là thật. Người đàn bà vô danh nhưng không vô nghĩa bởi chị
đã đem lại niềm vui và sinh khí cho mẹ con Tràng.
Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ.
Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai
con mắt chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng.
Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo
trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ. Chị hiểu ra cơ sự của
mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng
già nua, tội nghiệp. Bà đang mừng vì cuối cùng thằng con trai vừa nghèo vừa
xấu vừa đứng tuổi của mình cũng đã có vợ, dẫu rằng đó chì là cô vợ nhặt.
Điều đặc biệt thú vị là trong bữa ăn ấy, người nói toàn chuyện vui, toàn chuyện
sung sướng về sau này lại là một bà cụ gần đất xa trời ; còn người nói đến
phong trào đấu tranh chống thuế, phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói lại
chính là chị vợ nhặt – người đàn bà không tên trong tác phẩm. Hình ảnh từng
đoàn những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay
phấp phới hiện lên trong tâm trí của Tràng báo hiệu sắp có một sự đổi thay ghê
gớm. Hình ảnh ấy là một luồng gió mạnh xô đi, cuốn đi ám khí ngột ngạt của
câu chuyện đáng buồn này.
Nhiều người cho rằng ở truyện ngắn Vợ nhặt; nhân vật bà cụ Tứ, người mẹ
nhân hậu và từng trải khiến người đọc xúc động nhất. Điều ấy quả không sai,
nhưng đọc đến những dòng chữ cuối cùng thì điều ám ảnh tâm trí người đọc lại
là hình ảnh người vợ nhặt của anh Tràng. Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực,
sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh người
vợ nhặt – người đàn bà vô danh.
Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật – Pháp
đã gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được
sống đúng nghĩa là một con người. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân
gián tiếp khẳng định: Trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết, những con
người nghèo khổ nếu biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho
nhau thì chính là vừa tự cứu mình, vừa cứu người. Những con người như vậy
nhất định phải được sống ấm no, hạnh phúc. Bài làm 6
Người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân dù không phải
nhân vật trung tâm nhưng lại giữ một vị trí cực kì quan trọng trong toàn bộ tác
phẩm. Có thể nói với nhân vật này, thì giá trị hiện thực và nhân đạo của tác
phẩm mới được hoàn chỉnh hơn.
Nếu như nhân vật Tràng vẫn còn có một mẹ già, một xóm ngụ cư, một công
việc để kiểm sống qua ngày, chờ đến ngày xua tan được cái đói, cái khổ. Thì
người vợ nhặt toàn bộ “trắng tay”. Cô tha phương cầu thực, trên người giá trị
nhất chỉ còn có bộ quần áo. Hình dáng người đàn bà hiện lên cũng hết sức thảm
thương: “cái ngực lép nhô lên” “áo quần tả tơi như tổ đỉa” “thị gầy sọp” “trên
khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” hai con mắt thiếu sức
sống “trũng hoáy” lại. Trong không khí u ám, nặng nề, “không khí vẩn lên mùi
ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” “người chết như ngả rạ”
“người sống xanh xám như những bóng ma”. Và dường như cánh cửa thần chết
cũng đang dần mở ra với thị.
Không chỉ bị biến đổi về ngoại hình, mà nhân cách, tính nết của thị cũng có
những thay đổi đáng lo ngại theo chiều hướng tiêu cực. Vốn là một người phụ
nữ, ai có thể ngờ rằng người con gái đó vì miếng ăn dám đánh đổi cả danh dự
của bản thân. Lần đầu tiên, nghe thấy câu dao của Tràng thị lấp tực chạy tới,
hip mắt cười tình. Nhưng sợ trơ trẽn còn được đẩy lên một nấc nữa khi lần sau
gặp laij, thị “sung xỉa” chạy thẳng đến chỗ Tràng mà mắng.
Rồi đến khi được Tràng thiết đãi bánh đúng, bao nhiêu sự dịu dàng, e thẹn đã
biến đi đâu mất cả, thi cắm đầu vào ắn bốn bát bánh đúc, không hề ngẩng đầu,
không hề trò chuyện. Toàn bộ cái nữ tính, nhân cách của thị đã bị phá hủy vì
miếng ăn. Và còn lạ lùng hơn nữa, khi Tràng chỉ trêu đùa “có về với tớ thì ra
khuân hàng lên xe rồi cùng về” nào ngờ thị theo về thật. Cuộc hôn nhân cả một
đời người, vậy mà thị quyết định thật chóng vánh. Cái đói có thể hủy hoại nhân
cách, hủy hoại thiên tính nữ của một con người khủng khiếp đến vậy sao?
Chỉ vì cái đói mà thi sẵn sàng đem trao thân gửi phận cho một người mà mình
chỉ mới gặp gỡ hai lần. Thậm chí trò chuyện cũng chỉ mới tính trên đầu ngón
tay. Lòng ham sống đã khiến thị đi đến quyết định liều lĩnh, khi có một cơ hội
sống, thị cố gắng bám víu vào nó bằng bất kể giá nào, gạt bỏ mọi nghi lễ, gạt
bỏ cái e dè của người con gái. Hành động ấy cũng cho thấy một tinh thần khỏe
mạnh, long yêu cuộc sống và ham sông của người phụ nữ nông dân này. Đồng
thời cũng là lời lên án gay gắt nhất về sự độc ác của bọn đế quốc, phát xít đã
đầy con người đến bước đường cùng.
Dù viết về người phụ nữ đánh mất những nét đẹp của bản thân, nhưng Kim Lân
không hề khinh thường, dè bỉu mà là một tấm lòng cảm thông, trân trọng. Sau
sự trơ trẽn ấy ta vẫn thấy một người phụ nữ dịu dàng, e ấp, đảm đang. Trên
đường trở về, cắp cái thúng con, thị khép nép bên cạnh Tràng, ngại ngùng hi bị
những đứa trẻ trêu. Và đặc biệt trong giờ phút người con dâu mới gặp mẹ
chồng nàng vô cùng lo lắng, sợ hãi.
Sự thay đổi đó, cũng khiến một chàng trai ngờ nghệch như Tràng có thể nhận
ra: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu
đúng mực không còn gì vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài
phố”. Đồng thời, thị cũng hết sức chăm chỉ, tháo vát. Dưới đôi bàn tay của
người phụ nữ đảm đang nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ, ngôi nhà lại có thêm một sức sống mới.
Và một điều đặc biệt là không phải Tràng hay người mẹ mà chính là cô vợ nhặt
là người đầu tiên nói về lá cờ Việt Minh, về kho thóc Nhật. Đằng sau người
phụ nữ tưởng như bị phá hủy hoàn toàn về nân tính ấy, lại là một con người có
sức sống tiềm tàng mạnh mẽ đến như vậy. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà
Kim Lân lại giao trọng trách nói những vấn đề quan trọng, về tương lai tốt đẹp
cho nhân vật vợ nhặt. Bởi không ai khác, đây là nhân vật có sức sống mạnh mẽ
nhất trong tác phẩm, cũng là nhân vật có số phận bi thương nhất. Bởi vậy để
cho nhân vật là người phát ngôn về tương lai, về hi vọng cũng là cách thể hiện
giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Nhân vật vợ nhặt được đặt vào một tình huống truyện đặc biệt, trong tận cùng
cái đói và cái chết, nhân vật bộc lộ những tính cách, những ước mơ khao khát
sống mãnh liệt của mình. Không chỉ vậy, nhân vật còn mang tính chất kết nối,
tạo nên sự liền mạch giữa cách sự kiện trong tác phẩm. Với nhân vật người vợ
nhặt, không chỉ là sáng tạo thành công của Kim Lân mà nó còn cho thấy giá trị
hiện thực và nhân đạo sâu sắc nhất của ông. Bài làm 7
Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ không thực sự được khai thác nhiều. Nhưng
với nhân vật này, Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân
văn, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Người vợ nhặt được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn.
Thị không có bất cứ gia sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, thị chỉ được gọi
một cách chung chung và đầy rẻ rung là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa, hai lần
gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường, xó chợ. Thị không có họ hàng,
không có nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang phải oằn
mình chống lại nạn đói, thị không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống trong sự
dồn đuổi của cái chết, hàng ngày, hàng giờ, cái đói đã biến thị trở nên xanh xao,
hốc hác, gò má cao, không còn chút sự sống.
Chính hoàn cảnh bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất lòng
tự trọng của bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, cái chết không chỉ vắt kiệt sự
sống của người đàn bà nghèo mà còn sói mòn nhân cách, nhân phẩm của thị,
nó được thể hiện rõ qua hai lần gặp gỡ với Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn
là người không quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, Thị đang ton ton chạy ra,
híp mắt cười tình, rồi đẩy xe bò cho Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn,
khiến thị đánh mất sự e dè, thẹn thùng vốn có.
Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, vô duyên đã đáng mất cả long tự trọng. Sau lần
gặp gỡ đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào, nhưng khi gặp lại Tràng, thi
sầm sập chạy đến, đứng trước mặt mà nói: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”.
Và chỉ đến khi nhận được lời mời cho đi ăn, thì thị không còn chút ý tứ, ngồi
xuống cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn diễn tả
hành động ăn uống thô tục, lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến
thị trở nên táo bạo, liều lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là đáng quý nhất với con
người đã bị bán rẻ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau xót mà không chỉ cô vợ
nhặt mới vậy, mà rất nhiều người dân Việt Nam đã rơi vào tình cảnh này. Và
liều lĩnh nhất là chỉ một câu nói đùa của Tràng, cô đã theo anh về làm vợ.
Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu vúi, thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp
nhận để thoát khỏi sự truy đuổi của thần chết.
Cũng như nhân vật Tràng, sau khi lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự thay đổi
vô cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lí, tính cách, trên đường về nhà, trước
sự để ý của những người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng đi cạnh
Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy sự xấu hổ, ngượng ngùng
trong tâm lí của thị. Đó cũng là biểu hiện đầu tiên đánh dấu sự trở lại của nữ
tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã không còn. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên
niềm lo lắng cho tương lai. Về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy
những cỏ dại vây xung quanh, cái ngực lép của thị nhô lên, nén một tiếng thở
dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghé ở mép giường, tay ôm chặt cái thúng.
Trước mặt mẹ chồng, cô lễ phép chào hỏi, tay mâm mê tà áo đã rách bợt đi.
Những hành động, cử chỉ của thị thể hiện một tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi
lần đầu tiền đối diện với mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép, dịu
dàng trong cách giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần nữa
cho thấy, cái chỏng lỏn chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong
thẳm sâu bản chất thi vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.
Sự thay đổi rõ nhất trong tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị lấy
chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, thị hôm nay đã khắc hẳn, rõ ràng là
người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần
gặp ngoài tỉnh. Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ những
việc làm hết sức gỉn dị mà ý nghĩa mà cô vợ nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ
dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà
lạnh lẽo, u ám của Tràng. Tất cả những hành động đó cho thấy sự đảm đang,
tháo vát của cô cùng cho thấy thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình,
và có khát vọng mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.
Không chỉ biến chuyển trong tính cách mà thị còn có sự biến chuyển trong
nhận thức. Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả không hề dễ dàng, bởi sự dồn
đổi của cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của hai vợ chồng cũng phải diễn ra
trong tiếng khóc tỉ tê của những gia đình có người chết. Bữa cơm đầu tiên đón
cô dâu mới là nồi cháo cám mặn chát, lõng bõng là nước. Nhưng chính lúc ấy,
trong tâm hồn thị vẫn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Không phải ngẫu nhiên, trong ba nhân vật Kim Lân lại chọn thị chứ không phải
hai nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, phá kho thóc Nhật. Có lẽ bởi một người
dám đánh đổi tất cả, kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì khát vọng sống,
hạnh phúc ở họ là không thể huy diệt. Dù không nói rõ về tương lai, nhưng ở
một con người ham sống, ở một tinh thần khỏe khoắn như người vợ nhặt, Kim
Lân cho thấy tinh thần hăng hái, chắc chắn thị sẽ theo cách mạng.
Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ
đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập
trung khắc khọa ở cử chỉ, hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.
Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất
hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nạn đói
năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, lòng tự trọng của nhân vật.
Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ
tính, biết vun vén và có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là
người có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.