
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61685031
Đề: phân tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng chống
tội phạm ma túy giữa việt nam và các nước. Mở đầu:
Tội phạm ma túy là một trong những vấn đề nhức nhối mang tính toàn cầu, đe
dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội và sự phát triển bền vững của
mỗi quốc gia. Không chỉ gây ra những hệ lụy nghiêm trọng về kinh tế, sức khỏe
cộng đồng và đạo đức xã hội, tội phạm ma túy còn có mối liên hệ chặt chẽ với
nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác như rửa tiền, buôn lậu vũ khí và tổ chức tội
phạm xuyên quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự phát triển của công nghệ
và mạng lưới tội phạm quốc tế đã làm gia tăng mức độ tinh vi, phức tạp của các
hoạt động phạm tội liên quan đến ma túy, đặt ra những thách thức lớn đối với
công tác đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này.
Tại Việt Nam, tội phạm ma túy diễn biến ngày càng phức tạp, với sự xuất hiện của
nhiều đường dây vận chuyển, buôn bán ma túy lớn xuyên quốc gia, có sự móc nối
giữa các tổ chức tội phạm trong và ngoài nước. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà
nước và các cơ quan chức năng đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật,
tăng cường công tác đấu tranh, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm kiểm
soát và ngăn chặn hiệu quả tội phạm ma túy. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, dù có
nhiều nỗ lực, nhưng tội phạm ma túy vẫn tiếp tục gia tăng với những phương
thức, thủ đoạn mới, đòi hỏi các biện pháp đấu tranh phải được đổi mới, linh hoạt và hiệu quả hơn.
So sánh với các quốc gia khác, Việt Nam có nhiều điểm tương đồng trong chính
sách phòng chống tội phạm ma túy nhưng cũng tồn tại một số khác biệt do điều
kiện kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi. Việc nghiên cứu, phân
tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội
phạm ma túy giữa Việt Nam và một số quốc gia khác sẽ giúp rút ra những bài học
kinh nghiệm quan trọng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
phòng chống loại tội phạm này trong bối cảnh mới. Nội Dung I,Tìm hiểu chung
1.khái niệm về đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy của tổ chức quốc tế và Việt Nam.
-Tội phạm ma túy : là những hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến sản xuất,
vận chuyển, mua bán, tàng trữ, tổ chức sử dụng hoặc chiếm đoạt trái phép các
chất ma túy. Đây là một trong những loại tội phạm nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến an ninh, trật tự xã hội và sức khỏe con người.
*Tội phạm ma túy dưới góc độ pháp luật quốc tế lOMoAR cPSD| 61685031
Có thể định nghĩa tội phạm về ma túy là những hành vi cố ý vi phạm quy định của
quốc gia, quốc tế về quản lí các chất ma túy.
Tội phạm về ma túy thường được xác định là tội phạm có tính quốc tế bởi vì : -
Quy mô và xu hướng phát triển của tội phạm ma túy không chỉ giới hạn
trong phạm vi quốc gia mà còn còn lan rộng sang quốc tế. -
Tội phạm ma túy càng đa dạng hóa, mở rộng sang quốc gia khác nhau với
nhiều thủ đoạn cất giấu ma túy tinh vi, xảo quyệt. -
Mạng lưới hoạt động của tội phạm buôn lậu ma túy ngày càng tăng.
b, Phân loại tội phạm mang tính quốc tế Các nhóm tội phạm chính: * Tội diệt chủng
* Tội ác chống lại loài người * Tội phạm chiến tranh * Tội xâm lược
* Tội khủng bố quốc tế
* Tội buôn bán ma túy quốc tế * Tội buôn bán người
c. Sự lan truyền và ảnh hưởng của tội phạm ma túy
*Nguyên nhân gia tăng tội phạm ma túy
Nhu cầu sử dụng ma túy ngày càng lớn, đặc biệt là giới trẻ.
Lợi nhuận từ buôn bán ma túy rất cao, dẫn đến việc tội phạm tổ chức các đường dây tinh vi.
Sự phát triển của công nghệ giúp tội phạm dễ dàng mua bán, giao dịch và vận
chuyển ma túy trên không gian mạng.
Một số quốc gia có chính sách khoan dung hoặc hợp pháp hóa một số chất ma
túy, gây ảnh hưởng đến khu vực lân cận.
*Các loại ma túy phổ biến và xu hướng thay đổi
Ma túy tổng hợp (Methamphetamine, Ketamine, Ecstasy) ngày càng phổ biến,
thay thế heroin truyền thống. lOMoAR cPSD| 61685031
Việc sản xuất ma túy đang dịch chuyển mạnh sang khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là Tam giác Vàng.
Hình thức mua bán ma túy qua mạng, sử dụng tiền ảo để thanh toán đang gia tăng.
*Ảnh hưởng của tội phạm ma túy
-Gây mất an ninh trật tự, làm gia tăng các tội phạm liên quan như giết người, cướp giật.
Ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, đặc biệt là thế hệ trẻ.
-Làm suy giảm nguồn nhân lực, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
-Gây khó khăn cho hợp tác quốc tế, vì mỗi nước có chính sách kiểm soát ma túy khác nhau.
Những vấn đề pháp lý về hoạt động giữa Việt Nam và các nước trong đấu tranh
phòng chống tộ phạm ma túy.
II. vấn đề pháp lý...
1. ở việt nam
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tội phạm ma
túy. Tình hình tội phạm ma túy ở Việt Nam diễn biến phức tạp, với nhiều đường
dây buôn bán ma túy xuyên quốc gia.
Chính phủ Việt Nam rất coi trọng hợp tác quốc tế trong phòng, chống ma tuý,
bằng việc tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác song phương, đa phương trong
lĩnh vực phòng, chống ma tuý với các nước, các tổ chức phi Chính phủ, đặc biệt
với sự hỗ trợ của Tổ chức phòng, chống tội phạm và ma tuý của Liên hợp quốc
(UNODC), với các nước tiểu vùng sông Mêkông và với các quốc gia có chung
đường biên giới... Ngày 1/9/1997, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ra Quyết định số 798/QĐ-CTN về việc tham gia 3 công ước quốc tế về
kiểm soát ma tuý đó là: Công ước thống nhất về các chất ma tuý năm 1961; Công
ước về các chất hướng thần năm 1971 và Công ước của Liên hợp quốc về chống
buôn bán bất hợp pháp các chất ma tuý và các chất hướng thần năm 1988.
Năm 2000, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật
Phòng, chống ma tuý. Trong Luật Phòng chống ma tuý, hợp tác quốc tế về phòng,
chống ma tuý được qui định thành một chương riêng - Chương VI (từ Điều 46 đến Điều 51).
- Việt Nam nằm gần khu vực Tam Giác Vàng – một trong những trung tâm sản
xuất ma túy lớn nhất thế giới * Chính sách: lOMoAR cPSD| 61685031
- Việt Nam có hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh về phòng chống ma túy,
bao gồm Luật Phòng, chống ma túy và các văn bản hướng dẫn thi hành. (Các
văn bản pháp luật chính; Luật Phòng, chống ma túy năm 2021; Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017))
- Việt Nam tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng chống ma túy, tham gia các
điều ước quốc tế và ký kết các thỏa thuận song phương với nhiều quốc gia.
-Việt Nam triển khai nhiều chương trình, kế hoạch phòng chống ma túy,
tập trung vào các biện pháp như: - Tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma túy
- Triệt phá các đường dây buôn bán ma túy
- Cai nghiện và phục hồi sức khỏe cho người nghiện ma túy
2.Một số nước khác
- Khu vực tam giác vàng, nằm sát khu vực biên giới các nước Lào, Myanma, Thái
Lan, được xác định là nguồn cung ma túy lớn thứ hai trên thế giới, hàng năm
cung cấp ra thị trường trên 80 tấn heroine và hàng nghìn tấn ma túy tổng hợp các loại.
(Báo cáo của Cơ quan phòng chống tội phạm và ma túy của Liên Hợp Quốc
(UNODC) cho thấy, trong năm 2022, khu vực Đông và Đông Nam Á đã thu giữ hơn
151 tấn ma túy các loại, trong đó chủ yếu là ma túy tổng hợp; thu giữ ketamine
(một loại ma túy tổng hợp nguy hiểm, phổ biến trong năm 2022) là 27,4 tấn, tăng 167% so với năm 2021.)
Các biện pháp pháp lý và thực tiễn đấu tranh ma túy tại các nước khác
1. Chính sách nghiêm khắc
• Trung Quốc: Áp dụng án tử hình đối với tội phạm ma túy.
• Indonesia, Malaysia: Có hình phạt tử hình đối với hành vi buôn bán ma túy. 2. Chính sách khoan dung
• Hà Lan: Hợp pháp hóa cần sa nhưng vẫn kiểm soát chặt ma túy tổng hợp.
• Bồ Đào Nha: Chuyển hướng từ trấn áp sang cai nghiện và giáo dục.
=> Việt Nam là điểm trung chuyển quan trọng của các đường dây ma túy
quốc tế. 3. kết hợp giữa Việt Nam và các nước
Hợp tác pháp lý giữa Việt Nam và các nước trong phòng chống ma túy
2.1. Hợp tác song phương lOMoAR cPSD| 61685031
Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác song phương với các nước nhằm trao
đổi thông tin, phối hợp điều tra và xử lý tội phạm ma túy, bao gồm:
-Hiệp định hợp tác phòng chống tội phạm với Lào, Campuchia, Trung Quốc, Thái Lan, Hoa Kỳ…
-Thỏa thuận về dẫn độ tội phạm với một số nước để đảm bảo xử lý tội phạm ma
túy lẩn trốn qua biên giới.
2.2. Hợp tác đa phương
-Thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Chống Ma Túy (1961, 1971, 1988).
-Tham gia INTERPOL, ASEANAPOL, phối hợp truy bắt tội phạm ma túy quốc tế.
-Hợp tác trong khuôn khổ ASEAN về kiểm soát và ngăn chặn dòng chảy ma túy trong khu vực.
*Giữa Việt Nam và các nước:
Ngày 1/9/1997, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Quyết
định số 798/QĐ-CTN về việc tham gia 3 công ước quốc tế về kiểm soát ma tuý đó
là: Công ước thống nhất năm 1961 về các chất ma túy; Công ước năm 1971 về các
chế phẩm ma túy; Công ước Liên hợp Quốc năm 1988 về chống buôn bán phi
pháp ma túy và các chế phẩm ma túy.
Năm 2000, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật
Phòng, chống ma tuý. Trong Luật Phòng chống ma tuý, hợp tác quốc tế về phòng,
chống ma tuý được qui định thành một chương riêng - Chương VI (từ Điều 46 đến Điều 51).
Ngày 21/01/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2003/NĐ-CP về hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống ma tuý.
Chính phủ Việt Nam đã không ngừng tăng cường mở rộng quan hệ phối hợp với
các tổ chức quốc tế, đặc biệt là UNODC, INTERPOL... hợp tác với nhiều quốc gia
trên thế giới, khu vực thông qua việc ký kết các hiệp định, thoả thuận, bản ghi
nhớ như: Bản ghi nhớ hợp tác tiểu vùng sông MêKông (MOU); các bản hiệp định,
thoả thuận hợp tác với Chính phủ Liên bang Myan-ma, Cộng hoà Hung-ga-ry, Lào,
Cam-pu-chi-a, Thái Lan, Trung Quốc…
Hàng năm, Việt Nam đã tổ chức nhiều đoàn cán bộ đi tham quan, khảo sát, tập
huấn và dự hội nghị, hội thảo về phòng chống ma tuý và thực hiện các dự án được
hỗ trợ về cơ sở vật chất, công nghệ, tăng cường năng lực pháp luật.
Thứ nhất, với Trung Quốc: lOMoAR cPSD| 61685031
Là một quốc gia lớn, có đường biên giới tiếp giáp với 6 tỉnh của Việt Nam, Trung
Quốc bị ảnh hưởng bởi 2 nguồn ma tuý lớn nhất thế giới là "Trăng lưỡi liềm vàng"
và "Tam giác vàng" nên lượng ma tuý tràn vào Trung Quốc hàng năm rất lớn.
Nhiều năm qua, Trung Quốc đã mở các chiến dịch tấn công tội phạm đạt hiệu quả,
đặc biệt là chiến dịch "bàn tay sắt". Công tác quản lý người nghiện của Trung Quốc
có những mô hình để nhiều nước học hỏi. Trung Quốc đã bắt giữ nhiều vụ buôn
lậu heroin có nguồn gốc từ Tam giác vàng đến Trung Quốc, sau đó đến Lào và Việt
Nam. Pháp luật Trung Quốc quy định hình phạt các tội về ma tuý rất nghiêm khắc.
Theo quyết định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc về việc cấm ma tuý
ngày 28/12/1990: Hành vi buôn lậu, vận chuyển, mua bán hoặc sản xuất trái phép
từ 1kg thuốc phiện trở lên; 50g heroin trở lên hoặc các chất ma tuý khác có số
tượng lớn thì bị phạt tù từ 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình và tịch thu tài sản...
Trên cơ sở Hiệp định đã ký kết ngày 26/7/2001, Uỷ ban quốc gia phòng chống ma
tuý, Bộ Công an 2 nước Việt Nam - Trung Quốc và giữa các tỉnh có chung đường
biên giới đã có nhiều cuộc tiếp xúc, trao đổi thông tin kinh nghiệm phòng, chống
ma tuý. Cơ quan chức năng của hai bên đã tăng cường trao đổi kinh nghệm về:
chống tội phạm ma tuý, kiểm soát tiền chất, giám định, cai nghiện, xoá bỏ cây thuốc phiện...
Thông qua các thông tin được trao đổi, nhiều vụ án đã được hai bên phối hợp điều
tra thành công. Hai nước đã thiết lập Văn phòng liên lạc qua biên giới
(BLO) về phòng, chống ma tuý tại thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh và thị
xã Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), tổ chức họp giao ban hàng tháng
để trao đổi công việc, thông tin phối hợp đấu tranh trên toàn tuyến biên giới. Thứ hai, với Lào:
Lào là một quốc gia có biên giới tiếp giáp với Việt Nam, Thái Lan, My-an-ma,
Trung Quốc và tiếp giáp với "Tam giác vàng" - nguồn ma tuý lớn của thế giới, ở
Lào hiện vẫn còn tình trạng trồng cây thuốc phiện. Hình phạt dành cho tội phạm
về ma tuý trong Bộ luật Hình sự Lào trước đây quy định nhẹ hơn so với Việt Nam.
Theo tài liệu mới nhất của Uỷ ban Quốc gia phòng chống ma tuý Lào, Điều 135
Bộ luật Hình sự Lào mới sửa đổi qui định nghiêm khắc hơn: Người nào thực hiện
hành vi mua, bán, buôn lậu và sử dụng các loại ma tuý trên 500g heroin hoặc 3kg
methamphetamine hoặc trên 10kg tiền chất, có thể bị phạt hoặc tử hình (trước đây
qui định tù từ 10 năm đến chung thân).
Thực hiện Hiệp định giữa hai Chính phủ về kiểm soát ma tuý, các chất hướng thần
và tiền chất ngày 6/7/1998, những năm gần đây chính phủ hai bên đã cùng phối
hợp kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt việc mua bán, vận chuyển ma tuý, các chất
hướng thần và tiền chất qua lại biên giới hai nước, cùng trao đổi công tác chỉ đạo,
đào tạo cán bộ, giám định chất ma tuý, xét nghiệm xác định người nghiện, điều tra
khám phá tội phạm ma tuý, giáo dục, phòng ngừa. Các tỉnh có chung đường biên lOMoAR cPSD| 61685031
đã tổ chức giao ban định kỳ trao đổi tình hình và công tác phòng chống tội phạm
ma tuý, giải quyết vấn đề người dân qua lại biên giới, thay cây thuốc phiện tại khu vực biên giới. Thứ ba, với Campuchia:
Cam-pu-chi-a có biên giới giáp với phía Tây Nam của Việt Nam và tiếp giáp với
Lào, Thái Lan. Hiện một số vùng của Cam-pu-chi-a còn trồng cây thuốc phiện,
cây cần sa với số lượng ít. Cam-pu-chi-a bị ảnh hướng bởi ma tuý từ Thái Lan và
Lào sang, sau đó được vận chuyển đến Việt Nam, Mỹ, Australia. Cơ quan pháp
luật của Cam-pu-chi-a đã hợp tác với cơ quan bài trừ ma tuý của Mỹ bắt giữ các
vụ buôn lậu ma tuý từ châu Âu đến Cam-pu-chi-a, bắt giữ hàng ngàn viên ecstasy.
Hình phạt cao nhất dành cho tội phạm ma tuý ở Cam-pu-chi-a là tù chung thân.
Thực hiện Bản ghi nhớ do Chính phủ hai bên đã ký kết về hợp tác kiểm soát ma
tuý, các chất hướng thần và tiền chất ngày 1/6/1998, từ đó tới nay hàng năm hai
nước đã tổ chức hội nghị song phương cấp Bộ nhằm trao đổi thông tin, kinh
nghiệm, rà soát những hoạt động trong năm. Thiết lập Văn phòng thông tin liên lạc
qua biên giới tại tỉnh Tây Ninh (Việt Nam) và Svêy-riêng (Cam-puchi-a). Các tỉnh
có chung đường biên giới đã tích cực trao đổi thông tin, kinh nghiệm liên quan đến
công tác phòng, chống ma tuý. Thứ tư, với Thái lan:
Thái Lan là quốc gia có tình hình tội phạm và tệ nạn nghiện ma tuý phức tạp ở khu
vực Đông Nam Á. Thuốc phiện từ Af-ga-ni-stan được vận chuyển qua Pa-kistan
vào Thái Lan được đóng gói lại và tiếp tục phân phối đi các nơi khác. Những năm
qua, Thái Lan đã mở nhiều chiến dịch tấn công truy quét tội phạm ma tuý có hiệu
quả. Pháp luật của Thái Lan qui định về các hình phạt cho tội phạm ma tuý rất
nghiêm khắc: Người nào tiêu thụ hoặc sở hữu để tiêu thụ các chất ma tuý thuộc
bảng I số lượng dưới 100g đã được xác định là ma tuý nguyên chất sẽ bị phạt tù từ
5 năm đến chung thân và bị phạt tiền từ 50.000 - 500.000bạth; trên 100g sẽ bị phạt
chung thân hoặc tử hình. Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Vương
quốc Thái Lan về hợp tác kiểm soát ma tuý, các chất hướng thần và tiền chất đã
được ký kết ngày 7/10/1998. Hàng năm, các cơ quan chức năng của hai nước đã
phối hợp tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề, trao đổi các đoàn thăm quan
nghiên cứu học tập về mô hình tổ chức và chia sẻ những bài học kinh nghiệm rút
ra từ công tác này. Việt Nam học tập của Thái Lan nhiều kinh nghiệm như: chiến
dịch tổng tấn công tệ nạn ma tuý trên qui mô toàn quốc tháng 2/2003, công tác
phối hợp toàn diện, đồng bộ giữa công tác giảm cung, giảm cầu, giảm tác hại thông
qua các biện pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma tuý... Thứ năm, với Myanmar:
Là một quốc gia năm trong khu vực "Tam giác vàng", mặc dù mấy năm gần đây
diện tích trồng cây thuốc phiện và sản xuất thuốc phiện ở My-an-ma đã giảm, lOMoAR cPSD| 61685031
nhưng quốc gia này vẫn có số diện tích trồng cây thuốc phiện và là nơi sản xuất
thuốc phiện lớn thứ hai trên thế giới. Số lượng ma tuý hàng năm thu giữ tại Myan-
ma rất lớn. Thực hiện Hiệp định song phương đã ký kết ngày 11/3/1995, Việt Nam
và My-an-ma đã tiến hành trao đổi thông tin, kinh nghiệm trong công tác đấu tranh
chống buôn lậu ma tuý, triệt phá cây thuốc phiện và hoàn thiện hệ thống pháp luật
phòng, chống ma tuý, tham quan mô hình cai nghiện, trao đổi hợp tác kỹ thuật.
Hai bên tích cực tham gia hoạt động hợp tác hành pháp qua biên giới thông qua hệ
thống Văn phòng liên lạc phòng chống ma tuý (BLO) của dự án hợp tác hành pháp phòng, chống ma tuý.
=>Hợp tác quốc tế đã góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm
ma tuý. Số vụ án ma tuý khám phá tăng, số đối tượng bắt giữ tăng, mở rộng được
nhiều vụ án xuyên quốc gia liên quan đến quốc tế; phối hợp quản lý buôn bán tiền
chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý; nâng cao hiệu quả trao đổi thông
tin… Thực tế những năm qua, thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế trong
phòng, chống ma tuý, chúng ta đã học hỏi và trao đổi được nhiều kinh nghiệm
phòng, chống ma tuý từ các nước, tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ về đào tạo
cán bộ, cai nghiện về kinh phí, trang thiết bị của UNODC và các quốc gia. Dự báo
thời gian tới, tội phạm ma tuý ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới
sẽ gia tăng và có nhiều diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh phòng, chống ma tuý
của Việt Nam cũng như trên toàn cầu sẽ còn nhiều khó khăn, vất vả.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy quan hệ hợp tác phòng, chống ma tuý giữa Việt Nam
với các nước vẫn chưa tương xứng với nhu cầu của mỗi nước. Thời gian tới, trên
cơ sở hiệp định và các cam kết với các quốc gia, các cơ quan chức năng của Việt
Nam và các bên cần tăng cường hơn nữa, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác với
các nước khác để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới.
4. Phân định thẩm quyền tài phán.
Tội phạm ma túy là tội phạm có tính quốc tế nên thẩm quyền tài phán sẽ thuộc về
tòa án hình sự quốc gia. 2.1. Các nguyên tắc phân định thẩm quyền tài phán
- Nguyên tắc lãnh thổ: Quốc gia có thẩm quyền tài phán đối với các hành vi phạm
tội xảy ra trên lãnh thổ của mình, không phân biệt người phạm tội là ai.
- Nguyên tắc quốc tịch (chủ động và thụ động)
+ Nguyên tắc quốc tịch chủ động: Quốc gia có thẩm quyền tài phán là quốc gia mà
thủ phạm hoặc nghi phạm thực hiện tội phạm là công dân.
+ Nguyên tắc quốc tịch thụ động: Quốc gia có thẩm quyền tài phán là quốc gia mà
nạn nhân của các hành vi tội phạm là công dân. lOMoAR cPSD| 61685031
- Nguyên tắc an ninh quốc gia: Quốc gia có thẩm quyền tài phánđối với các hành
vi phạm tội xâm phạm đến lợi ích của quốc gia, không phân biệt người phạm tội
là ai và hành vi phạm tội xảy ra ở đâu.
- Nguyên tắc thẩm quyền tài phán phổ cập: Quốc gia có thể xét xử một số loại tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng không phụ thuộc vào địa điểm thực hiện tội phạm
cũng như mối quan hệ quốc tịch chủ động hoặc thụ động của thủ phạm hay nạn
nhân hoặc các nguyên tắc phân định thẩm quyền tài phán khác đã được luật quốc tế thừa nhận.
2.2. Phân định thẩm quyền tài phán đối với tội phạm ma túy theo điều ước quốc tế
Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế đấu tranh chống tội phạm ma túy, cộng đồng quốc
tế đã thống nhất và thông qua ba công ước đa phương toàn cầu về chống ma túy
và các chế phẩm ma túy sau đây:
- Công ước thống nhất năm 1961 về các chất ma túy
- Công ước năm 1971 về các chế phẩm ma túy
- Công ước Liên hợp Quốc năm 1988 về chống buôn bán phi pháp ma túy và các chế phẩm ma túy
Công ước Liên hợp Quốc năm 1988 về chống buôn bán phi pháp ma túy và các
chế phẩm ma túy quy định vấn đề thẩm quyền xét xử tội phạm ma túy được giải
quyết theo các nguyên tắc truyền thống, như nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc
quốc tịch (chủ động và bị động), nguyên tắc bảo đảm an ninh quốc gia. Bên cạnh
đó, nguyên tắc quốc tịch phương tiện bay và tàu thuyền, nơi hành vi phạm tội
được thực hiện cũng được coi là nguyên tắc đặc thù trong phân định thẩm quyền
xét xử tội phạm ma túy. Bởi vì trong lĩnh vực phạm tội ma túy, các phương tiện
bay và tàu thuyền là công cụ chủ yếu được sử dụng phổ biến nhất trong việc thực
hiện tội phạm. Trong công ước năm 1988 cũng quy định nguyên tắc thẩm quyền
phổ cập là nguyên tắc được sử dụng trong xác lập thẩm quyền xét xử của các quốc
gia thành viên đối với tội phạm ma túy.
2.3. Thẩm quyền tài phán của Việt Nam đối với tội phạm ma túy Việt Nam sẽ dựa
trên cơ sở của các điều ước quốc tế (song phương và đa phương) mà Việt Nam là
thành viên để xác định thẩm quyền tài phán.
Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự 2015 cũng quy định thẩm quyền tài phán dựa
trên - Nguyên tắc lãnh thổ
Khoản 1, Điều 5, Bộ luật Hình sự 2015 quy định bộ luật Hình sự áp dụng với mọi
hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trừ trường hợp tại Khoản 2 là người nước ngoài phạm tội được hưởng
quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự. lOMoAR cPSD| 61685031
=> Đối với tội phạm ma túy được thực hiện trên lãnh thổ Việt
Nam thì thẩm xét xử sẽ thuộc về tòa án Việt Nam. Trừ TH tại Khoản 2, Điều 5, Bộ luật Hình sự 2015
Lưu ý: Nguyên tắc lãnh thổ cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu
quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam
hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.
- Nguyên tắc quốc tịch
Khoản 1, Điều 6, Bộ luật Hình sự 2015 quy định Công dân Việt Nam có hành vi
phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật
này quy định là tội phạm, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam
theo quy định của Bộ luật này.
=> Đối với tội phạm ma túy mà người thực hiện hành vi phạm tội là người có
quốc tịch Việt Nam thì thẩm xét xử có thể sẽ thuộc về tòa án Việt Nam -
Nguyên tắc an ninh quốc gia
Khoản 2, Điều 6, Bộ luật Hình sự 2015 quy định người nước ngoài phạm tội ở
ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp hành vi phạm tội
xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
=> Đối với tội phạm ma túy nếu hành vi phạm tội xâm hại đến lợi ích công dân hay
đất nước Việt Nam thì Việt Nam sẽ có thẩm quyền xét xử
- Nguyên tắc thẩm quyền phổ cập (hạn chế áp dụng với ma túy)
Việt Nam có thể xét xử tội phạm cực kỳ nghiêm trọng ảnh hưởng đến cộng đồng
quốc tế, như tội phạm chiến tranh, tội ác chống loài người.
Tội phạm ma túy thường không thuộc nhóm này, nhưng nếu có liên quan đến tài
trợ khủng bố hoặc tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, có thể bị xử lý theo nguyên tắc này.
5. Hỗ trợ đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy từ các tổ chức quốc tế
UNODC (Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc)
Là một trong những đối tác quan trọng của Việt Nam trong công tác phòng chống
tội phạm ma túy. UNODC cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và phát triển các chiến
lược phòng chống ma túy, đồng thời giúp Việt Nam xây dựng các chính sách và
chương trình hành động quốc gia. lOMoAR cPSD| 61685031
Ngoài ra, UNODC còn hỗ trợ Việt Nam trong việc thu thập và phân tích dữ liệu về
tình hình tội phạm ma túy, từ đó đưa ra các biện pháp can thiệp phù hợp.
INTERPOL (Tổ chức Cảnh sát Hình sự Quốc tế)
INTERPOL hỗ trợ các quốc gia trong việc phối hợp điều tra và triệt phá các tổ chức
tội phạm xuyên quốc gia, bao gồm các đường dây buôn bán ma túy quốc tế. Cơ
quan này cung cấp các nền tảng trao đổi thông tin và phối hợp giữa các lực lượng
cảnh sát quốc gia để chống lại tội phạm ma túy, tổ chức các chiến dịch điều tra và
truy quét tội phạm ma túy ở nhiều quốc gia và khu vực, chia sẻ dữ liệu về các tội
phạm ma túy và các phương thức buôn bán ma túy mới.
Việt Nam là một trong những quốc gia hợp tác chặt chẽ với INTERPOL, đặc biệt
trong việc chia sẻ thông tin và phối hợp hành động chống tội phạm ma túy xuyên
quốc gia. Việt Nam đã tham gia vào nhiều chiến dịch quốc tế do INTERPOL tổ
chức, bao gồm các chiến dịch truy quét các đường dây ma túy.
ASEANAPOL (Hiệp hội Cảnh sát các quốc gia Đông Nam Á)
Đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh hợp tác giữa các lực lượng cảnh sát
trong khu vực để chống lại tội phạm ma túy, đặc biệt là tội phạm ma túy xuyên biên giới.
=>Sáng kiến khu vực:
Kế hoạch hành động ASEAN về phấn đấu bảo vệ Cộng đồng chống tệ nạn ma túy
(2016 - 2025) là một sáng kiến quan trọng giúp các quốc gia trong khu vực Đông
Nam Á, bao gồm Việt Nam trong hợp tác phòng chống tội phạm ma túy. Kế hoạch
này khuyến khích các quốc gia phối hợp trong việc thực hiện các biện pháp phòng
ngừa, điều trị nghiện ma túy, đồng thời tập trung vào việc triệt phá các đường
dây buôn bán ma túy xuyên quốc gia.
THỰC TIỄN ÁP DỤNG:
III.NHỮNG THÁCH THỨC, CƠ HỘI VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CHIẾN
LƯỢC HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM MA TÚY
GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC 1.
Thách thức trong hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm ma túy
1.1. Thách thức về pháp lý và chính sách •
Sự khác biệt về chính sách ma túy giữa các quốc gia: Một số nước
có xu hướng hợp pháp hóa một số loại ma túy (như cần sa), trong khi Việt Nam
duy trì chính sách xử lý nghiêm khắc. Sự khác biệt này gây khó khăn trong phối
hợp điều tra và xử lý tội phạm xuyên biên giới.Có một số quốc gia có xu hướng lOMoAR cPSD| 61685031
hợp pháp hóa hoặc giảm nhẹ hình sự hóa một số loại ma túy, đặc biệt là cần sa.
Tuy nhiên, mức độ hợp pháp hóa khác nhau tùy theo từng nước và từng loại ma túy.
VD:Một số quốc gia cho phép sử dụng cần sa cả cho mục đích y tế và giải trí, bao gồm:
-Canada: Hợp pháp hóa cần sa từ năm 2018, cho phép sản xuất, mua bán
và sử dụng có kiểm soát.
-Uruguay: Là quốc gia đầu tiên hợp pháp hóa cần sa hoàn toàn vào năm 2013.
-Thái Lan: Năm 2022, Thái Lan hợp pháp hóa cần sa chủ yếu cho mục đích
y tế và nghiên cứu, nhưng việc sử dụng giải trí vẫn còn gây tranh cãi.
-Malta: Quốc gia châu Âu đầu tiên hợp pháp hóa cần sa vào năm 2021, cho
phép sở hữu và trồng một số lượng nhỏ để sử dụng cá nhân.
Một số nước không hợp pháp hóa hoàn toàn nhưng giảm nhẹ hình phạt đối với
việc sở hữu ma túy với số lượng nhỏ:
-Bồ Đào Nha: Từ năm 2001, Bồ Đào Nha phi hình sự hóa việc sở hữu và sử
dụng ma túy (bao gồm cả heroin, cocaine, cần sa) với lượng nhỏ. Người vi phạm
sẽ được tư vấn, điều trị thay vì bị truy tố hình sự.
-Hà Lan: Dù cần sa vẫn là bất hợp pháp, nhưng Hà Lan thực hiện chính sách
“khoan dung” (tolerance policy), cho phép bán cần sa tại các quán cà phê dưới sự
kiểm soát của chính phủ.
-Mexico: Năm 2021, Tòa án Tối cao Mexico ra phán quyết cho phép người
trưởng thành sở hữu và sử dụng cần sa.
Ngược lại, nhiều nước vẫn xử lý nghiêm khắc các hành vi liên quan đến ma túy:
-Trung Quốc, Singapore, Indonesia, Malaysia: Áp dụng hình phạt rất
nghiêm khắc, bao gồm án tử hình đối với tội phạm ma túy.
-Việt Nam: Duy trì chính sách kiểm soát chặt chẽ, với hình phạt nặng đối
với tội phạm ma túy, bao gồm cả tử hình đối với các vụ buôn bán, vận chuyển ma túy lớn. •
Hạn chế trong hiệp định dẫn độ tội phạm: Việt Nam chưa có hiệp
định dẫn độ với một số quốc gia có công dân phạm tội ma túy tại Việt Nam hoặc
công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài, gây khó khăn trong việc truy bắt, xét xử. lOMoAR cPSD| 61685031 •
Kiểm soát tiền chất, hóa chất sử dụng trong sản xuất ma túy: Một
số nước có chính sách kiểm soát tiền chất lỏng lẻo, tạo điều kiện cho tội phạm lợi
dụng để sản xuất ma túy tổng hợp.
Tiền chất ma túy là các hóa chất có thể được sử dụng để sản xuất ma túy tổng
hợp như methamphetamine, MDMA (thuốc lắc) và fentanyl. Nhiều quốc gia có
chính sách kiểm soát tiền chất khác nhau, trong đó một số nước có sự quản lý
lỏng lẻo, tạo điều kiện cho tội phạm lợi dụng để sản xuất và buôn bán ma túy tổng hợp.
1. Các nước có chính sách kiểm soát tiền chất lỏng lẻo 1.1. Trung Quốc •
Là nguồn cung cấp chính của nhiều tiền chất quan
trọng như ephedrine, pseudoephedrine (dùng để sản xuất
methamphetamine) và fentanyl. •
Dù chính phủ Trung Quốc đã thắt chặt kiểm soát một
số tiền chất, nhưng vẫn còn nhiều hóa chất chưa bị cấm, hoặc tội
phạm tìm cách lách luật bằng cách thay đổi cấu trúc hóa học của chúng. •
Các tổ chức tội phạm thường xuất khẩu tiền chất sang
các nước Đông Nam Á, Mỹ Latinh để sản xuất ma túy tổng hợp. 1.2. Ấn Độ •
Là nước sản xuất lớn các hóa chất công nghiệp và
dược phẩm, trong đó có nhiều tiền chất như ephedrine và acetic
anhydride (tiền chất heroin). •
Hệ thống giám sát tiền chất chưa thực sự chặt chẽ,
đặc biệt trong kiểm soát xuất khẩu, khiến tội phạm dễ lợi dụng. 1.3. Mexico •
Là trung tâm sản xuất fentanyl và methamphetamine
lớn nhất thế giới, phần lớn nguyên liệu nhập từ Trung Quốc và Ấn Độ. •
Việc kiểm soát tiền chất còn lỏng lẻo, đặc biệt là trong
việc giám sát các phòng thí nghiệm ngầm của các băng đảng ma túy
như Sinaloa và Jalisco New Generation Cartel.
1.4. Một số nước Đông Nam Á •
Myanmar, Lào, Campuchia: Nằm trong khu vực “Tam
giác vàng” - trung tâm sản xuất ma túy lớn của thế giới. Các nước lOMoAR cPSD| 61685031
này có biên giới khó kiểm soát, hệ thống pháp luật còn yếu, khiến
tiền chất dễ bị buôn lậu vào để sản xuất ma túy. •
Thái Lan: Dù kiểm soát tương đối chặt chẽ, nhưng vẫn
có tình trạng tiền chất bị tuồn vào các khu vực biên giới để sản xuất ma túy.
1.2. Thách thức về thực thi và hợp tác liên ngành •
Tội phạm ma túy ngày càng tinh vi và có tổ chức: Các
băng nhóm xuyên quốc gia sử dụng công nghệ cao, thay đổi phương
thức hoạt động liên tục, gây khó khăn trong phát hiện và triệt phá. •
Sự phối hợp giữa các cơ quan thực thi pháp luật còn
hạn chế: Các lực lượng phòng chống ma túy của Việt Nam và các
nước có sự khác biệt về quy trình điều tra, phương thức hợp tác,
gây chậm trễ trong xử lý vụ án. •
Thiếu nguồn lực và công nghệ hiện đại: Công tác
phòng chống ma túy đòi hỏi chi phí lớn cho trang thiết bị giám sát,
truy vết, nhưng Việt Nam và một số nước trong khu vực vẫn còn
hạn chế về tài chính và công nghệ. 1.3. Thách thức về địa lý và tình hình khu vực •
Vị trí địa lý của Việt Nam: Việt Nam nằm gần “Tam giác
vàng” (Myanmar - Lào - Thái Lan), một trong những khu vực sản
xuất ma túy lớn nhất thế giới. Các tuyến vận chuyển ma túy từ đây
qua biên giới Việt Nam sang Trung Quốc, châu Âu và Bắc Mỹ đang gia tăng. •
Tội phạm ma túy gắn liền với các loại tội phạm khác:
Buôn lậu, rửa tiền, mua bán vũ khí, tổ chức đánh bạc trực tuyến…
tạo nên mạng lưới tội phạm đa dạng và khó kiểm soát.
Đây là hình ảnh minh họa về hoạt động buôn lậu tiền chất ma túy trên thế giới,
với các tuyến vận chuyển chính từ Trung Quốc, Ấn Độ và Mexico đến Đông Nam
Á và Hoa Kỳ. Nó cũng cho thấy cách các tổ chức tội phạm sử dụng tàu hàng, xe tải
và thuyền nhỏ để vận chuyển tiền chất, cùng với biểu tượng của lực lượng thực
thi pháp luật trong nỗ lực kiểm soát.
2. Cơ hội hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạmma túy
2.1. Sự cam kết mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế lOMoAR cPSD| 61685031 •
Cam kết của ASEAN về “Cộng đồng không ma túy”:
Các nước ASEAN hợp tác chặt chẽ trong kiểm soát ma túy, chia sẻ
thông tin tình báo, tuần tra biên giới. •
Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế hỗ trợ: UNODC
(Văn phòng Liên Hợp Quốc về Ma túy và Tội phạm), INTERPOL, ASEANAPOL, INCB
(Cơ quan kiểm soát ma túy quốc tế) đang tăng cường hợp tác với Việt Nam trong
đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật và tài trợ trang thiết bị. •
Mỹ, EU và Australia mở rộng hợp tác với Việt Nam: Các
nước này có chương trình hỗ trợ Việt Nam về kiểm soát tiền chất,
nâng cao năng lực điều tra và phòng chống rửa tiền liên quan đến ma túy.
2.2. Ứng dụng công nghệ và kinh nghiệm quốc tế •
Trí tuệ nhân tạo (AI) và Big Data trong giám sát, phát
hiện tội phạm: Nhiều nước đã ứng dụng AI để phát hiện giao dịch
đáng ngờ, theo dõi chuỗi cung ứng tiền chất, giúp Việt Nam học hỏi và áp dụng. •
Tăng cường hợp tác huấn luyện, đào tạo chuyên sâu:
Việt Nam có cơ hội gửi cán bộ sang học hỏi kinh nghiệm ở các nước
có hệ thống phòng chống ma túy tiên tiến.
2.3. Mở rộng hợp tác khu vực và song phương •
Hợp tác với Trung Quốc, Lào, Campuchia trong tuần
tra biên giới: Tăng cường kiểm soát các tuyến đường vận chuyển ma túy. •
Hợp tác với Nhật Bản, Hàn Quốc trong điều tra và truy
tố tội phạm: Các nước này có nhiều vụ người Việt Nam tham gia tội
phạm ma túy, đòi hỏi phối hợp chặt chẽ để dẫn độ, xét xử. •
Tham gia các sáng kiến quốc tế về chống rửa tiền:
Giúp kiểm soát dòng tiền liên quan đến buôn bán ma túy.
3. Phương hướng chiến lược hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm ma túy
3.1. Hoàn thiện pháp luật và cơ chế hợp tác quốc tế
-Ký kết thêm các hiệp định song phương, đa phương về dẫn độ, hỗ trợ tư
pháp, kiểm soát tiền chất.
-Hài hòa hóa luật pháp với các nước trong khu vực để tạo thuận lợi cho
hợp tác điều tra, truy tố. lOMoAR cPSD| 61685031
-Tham gia sâu hơn vào các tổ chức quốc tế như UNODC, INTERPOL,
ASEANAPOL để cập nhật chính sách và nhận hỗ trợ kỹ thuật.
3.2. Nâng cao năng lực thực thi pháp luật
-Tăng cường đào tạo cho lực lượng phòng chống ma túy về kỹ năng điều
tra, giám sát tài chính, công nghệ cao.
-Ứng dụng công nghệ vào giám sát, truy vết tội phạm như hệ thống camera
AI tại cửa khẩu, theo dõi giao dịch đáng ngờ bằng công nghệ tài chính (Fintech).
-Mở rộng hợp tác chia sẻ thông tin với các nước để nhanh chóng phát hiện
các đường dây ma túy xuyên quốc gia.
3.3. Kiểm soát chặt chẽ nguồn cung và giảm cầu ma túy
-Siết chặt kiểm soát tiền chất, hóa chất sử dụng trong sản xuất ma túy.
-Hợp tác với các nước có kinh nghiệm về cai nghiện, phục hồi để xây dựng
mô hình hiệu quả, giảm tái nghiện.
-Tăng cường tuyên truyền và giáo dục phòng chống ma túy trong cộng
đồng, đặc biệt là giới trẻ. Kết luận
Cuộc chiến chống tội phạm ma túy không chỉ là vấn đề của riêng Việt Nam mà đòi
hỏi hợp tác chặt chẽ với các nước trên thế giới. Dù còn nhiều thách thức, Việt
Nam có nhiều cơ hội để tăng cường hợp tác song phương, đa phương nhằm nâng
cao năng lực kiểm soát ma túy, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm quốc tế để xây
dựng chiến lược phòng, chống hiệu quả.
IV. Các mô hình hiệu quả trong phòng, chống ma túy V.KẾT BÀI
Tội phạm ma túy là một thách thức nghiêm trọng đối với mọi quốc gia, không chỉ
ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội mà còn đe dọa đến sự phát triển kinh tế và
đời sống người dân. Cuộc chiến chống tội phạm ma túy đòi hỏi không chỉ những
biện pháp mạnh mẽ từ phía cơ quan chức năng mà còn cần có sự tham gia của
toàn xã hội, cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các quốc gia trên thế giới. Qua
phân tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn trong hoạt động đấu tranh phòng chống
tội phạm ma túy giữa Việt Nam và một số quốc gia khác, có thể thấy rằng mỗi
quốc gia có cách tiếp cận khác nhau nhưng đều hướng đến mục tiêu chung là
kiểm soát và giảm thiểu tác hại của ma túy đối với xã hội. lOMoAR cPSD| 61685031
Đối với Việt Nam, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công tác
phòng chống tội phạm ma túy, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Các
đối tượng phạm tội ngày càng tinh vi, manh động và có sự liên kết chặt chẽ với tội
phạm ma túy quốc tế, đòi hỏi các cơ quan chức năng không ngừng đổi mới
phương thức đấu tranh, hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực thực thi. Việc
học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác như Mỹ, Trung Quốc, Singapore hay Thái
Lan sẽ giúp Việt Nam có những điều chỉnh phù hợp trong chính sách và biện pháp thực hiện.
Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc chiến
chống tội phạm ma túy, nhất là khi các đường dây buôn bán ma túy xuyên biên
giới ngày càng mở rộng. Việt Nam cần tiếp tục tăng cường hợp tác với các tổ chức
quốc tế như Liên Hợp Quốc, INTERPOL, ASEAN, cũng như các nước láng giềng để
trao đổi thông tin, phối hợp điều tra và truy bắt tội phạm. Đồng thời, công tác
tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của người dân về tác hại của ma
túy và trách nhiệm chung trong phòng chống tội phạm ma túy cũng cần được đẩy mạnh.
Nhìn chung, cuộc chiến chống tội phạm ma túy là một nhiệm vụ lâu dài và đầy
thách thức, đòi hỏi sự quyết tâm, đồng bộ trong các chính sách, biện pháp thực
thi cũng như sự phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nước. Từ những bài
học kinh nghiệm của các nước, Việt Nam có thể tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp
luật, nâng cao hiệu quả thực thi và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội,
góp phần bảo đảm an ninh, trật tự và phát triển bền vững trong tương lai.