










Preview text:
lOMoAR cPSD| 61591627
1. Các phong trào yêu nước đương thời a) Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng (1905-1909)
Đầu thế kỷ XX, trước tác động của phong trào Duy Tân ở Nhật Bản, cách mạng Tân
Hợi ở Trung Quốc (1911) cùng những biến đổi xã hội trong nước, Việt Nam xuất hiện nhiều
phong trào yêu nước. Nổi bật trong đó là phong trào do Phan Bội Châu khởi xướng. Dù kết quả
cuối cùng không thành công nhưng phong trào đã để lại một dấu ấn lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc.
Phan Bội Châu (1867 - 1940), tên thật là Phan Văn San, là một trong những sĩ phu yêu
nước tiêu biểu của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Xuất thân trong một gia đình nhà nho ở Nghệ An,
ông sớm thể hiện tinh thần yêu nước và chí khí cách mạng. Trong bối cảnh đất nước mất độc
lập dưới ách thống trị thực dân Pháp, Phan Bội Châu đã chọn con đường dựa vào tầng lớp sĩ
phu tiến bộ và tầng lớp thanh niên để tìm lối thoát cho dân tộc. Ông chủ trương dùng vũ lực,
phát động phong trào chống Pháp, đồng thời kết hợp với các lực lượng quốc tế để giành độc lập cho Việt Nam.
Năm 1904, Phan Bội Châu sáng lập Hội Duy Tân nhằm tập hợp lực lượng yêu nước,
chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Đến năm 1905, ông phát động phong trào Đông Du,
đưa thanh niên Việt Nam sang Nhật học tập. Ông tin rằng Nhật Bản, sau thành công của công
cuộc Duy tân Minh Trị và chiến thắng Nga – Nhật (1905), là một hình mẫu cho Việt Nam học
tập. Mục tiêu của phong trào là đào tạo lớp trí thức, nhân tài mới, tiếp thu khoa học, quân sự,
văn hóa tiên tiến để chuẩn bị lực lượng lãnh đạo cho công cuộc giải phóng dân tộc.
Trong khoảng từ năm 1905 đến 1909 đã có hơn 200 học sinh Việt Nam được gửi sang Nhật.
Đồng thời, Phan Bội Châu còn tìm kiếm sự trợ giúp đỡ, vận động sự ủng hộ quốc tế.
Tuy nhiên, con đường này sớm bộc lộ những hạn chế cơ bản. Đến năm 1909, dưới áp
lực của Pháp, chính quyền Nhật Bản đã trục xuất lưu học sinh Việt Nam. Phong trào Đông Du
nhanh chóng rơi vào khủng hoảng và tan rã.
Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu thất bại trước hết do bối cảnh lịch sử và điều
kiện khách quan. Vào đầu thế kỷ XX, giai cấp tư sản Việt Nam chỉ mới hình thành, còn rất nhỏ
bé và non yếu, chưa đủ khả năng lãnh đạo một phong trào cách mạng quy mô toàn quốc. Bên
cạnh đó, phong trào phụ thuộc vào sự giúp đỡ bên ngoài, cụ thể là Nhật Bản – một quốc gia
tuy có phong trào Duy Tân thành công nhưng đã trở thành một đế quốc. Chính quyền Nhật sau
một thời gian ngắn ủng hộ Việt Nam, đã vì lợi ích ngoại giao và sức ép từ Pháp mà quay lưng,
trục xuất lưu học sinh Việt Nam (1909) và khiến phong trào Đông Du nhanh chóng sụp đổ.
Ngoài ra, trong bối cảnh quốc tế, tuy có các phong trào chống đế quốc (Trung Quốc, Ấn Độ,
…) nhưng các lực lượng này còn phân tán, thiếu liên kết, không thể tạo thành hậu thuẫn vững
chắc cho cách mạng Việt Nam. Những yếu tố khách quan này khiến phong trào Đông Du không
thể tồn tại lâu dài, rơi vào thế cô lập và suy yếu.
Bên cạnh đó, bản thân phong trào Đông Du cũng tồn tại nhiều hạn chế về đường lối và
phương pháp. Tổ chức Hội Duy Tân và phong trào Đông Du tuy tập hợp được nhiều sĩ phu tiến
bộ và thanh niên yêu nước nhưng tổ chức còn rời rạc, thiếu một lực lượng lãnh đạo thống nhất
và đường lối khoa học. Các thanh niên sang Nhật mới chỉ tiếp thu kiến thức sơ khởi, chưa kịp
trở thành lực lượng nòng cốt để lãnh đạo cách mạng thì phong trào đã tan rã. Hoạt động của
Phan Bội Châu chủ yếu dựa vào tầng lớp sĩ phu và trí thức trẻ, chưa gắn bó với lực lượng quần
chúng công – nông vốn là lực lượng chủ yếu của cách mạng. Khiến phong trào thiếu đi một
nền tảng xã hội vững chắc. Hơn nữa, tư tưởng cứu nước của Phan Bội Châu thiên về con đường
bạo động, cầu viện bên ngoài. Song ông chưa xây dựng được một đường lối cách mạng toàn lOMoAR cPSD| 61591627
diện, khoa học và triệt để nên dễ rơi vào bị động khi tình hình thay đổi. Chính vì vậy, phong
trào do ông lãnh đạo đều lần lượt thất bại.
Phong trào Đông Du và những hoạt động của Phan Bội Châu tuy thất bại nhưng đã để
lại nhiều bài học quý báu. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong hành trình tìm đường cứu
nước, từng khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu, song cũng nhận thấy hạn chế
của con đường dựa vào ngoại viện. So với Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc đã đi theo một
hướng khác. Thay vì trông chờ vào sự hỗ trợ từ nước ngoài, Người lựa chọn con đường cách
mạng vô sản trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin. Nguyễn Ái Quốc khẳng định muốn giải phóng
dân tộc phải dựa vào sức mạnh tự thân của nhân dân, đặc biệt là giai cấp công nhân và nông
dân, đồng thời kết hợp với phong trào cách mạng thế giới. Đây chính là điểm khác biệt căn
bản, giúp Người vượt qua hạn chế của các bậc tiền bối, đưa dân tộc đến con đường cách mạng
đúng đắn và đi đến thắng lợi.
b) Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906 - 1908)
Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872, người làng Tây Mộc, huyện Tiên
Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ Ly Mã, tự là Tử Cán. Ông không những
là nhà hoạt động chính trị mà còn là một nhà văn, nhà báo, nhà văn hóa lỗi lạc của dân tộc.
Sinh ra trong cảnh đất nước còn lầm than dưới ách đô hộ của thực dân Pháp nên ông
mang trong mình hoài bão lớn, chính là giải cứu dân tộc khỏi sự giày xéo của thực dân, để
giành lại chủ quyền cho tổ quốc, để đưa dân tộc Việt Nam lên ngang hàng với các dân tộc khác
trên thế giới. Trong số các sĩ phu đương thời và cả sau này, Phan Châu trinh là người thấy rõ
nhược điểm của con người và cả xã hội Việt Nam thời bấy giờ.
Phan Châu Trinh chủ trương thay đổi từ gốc rễ bằng cách nâng cao trình độ trí tuệ và
đạo đức của người Việt, ví dụ như: Phát triển kinh tế văn hóa, học những tư tưởng tiến bộ của
phương Tây, từ bỏ phong tục tập quán lạc hậu. Ông cho rằng Việt Nam phải phát triển kinh tế
và giáo dục để tự lực tự cường, hội nhập và thế giới văn minh rồi mới nên mưu cầu độc lập chứ
không nên cầu viện ngoại bang, dùng bạo lực để giành độc lập như chủ trương của Phan Bội Châu.
Theo Phan Châu Trinh, nhiệm vụ cấp bách của dân tộc ta là: “Chấn dân khí”, thức tỉnh
tinh thần tự lực tự cường, làm cho nhân dân giác ngộ được quyền lợi của mình, xóa bỏ nọc độc
chuyên chế, ông chủ trương “Không cần hô hào đánh Pháp, chỉ nên đề xướng dân quyền, dân
đã giác ngộ quyền lợi của mình, bấy giờ mới có thể dần dần mưu tính đến chuyện khác”; “Khai
dân trí”, bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thiết khoa học thực
dụng, bài trừ hủ tục, tuyên truyền lối sống tiết kiệm, văn minh; “Hậu dân sinh”, chăm lo đời
sống cho nhân dân bằng việc phát triển kinh tế, chỉ con đường làm ăn cho dân, như khẩn hoang
làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa.
Đứng trước tình cảnh cơm không đủ no, áo không đủ mặc của nhân dân, Phan Châu
Trinh nhận định rằng muốn cứu nước trước hết phải cứu dân, do đó ông chủ trương “Khai dân
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Ông cùng Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý cáp đi khắp Quảng
Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Dưới sức ảnh hưởng của Phan
Châu Trinh, người dân nhiều nơi không chịu nổi áp bức nên đã vùng lên; phong trào chống sưu
thuế là kết quả tất yếu của phong trào Duy Tân do nhà yêu nước Phan Châu Trinh khởi xướng,
trong đó, quy mô lớn nhất là ở tỉnh Quảng Nam. lOMoAR cPSD| 61591627
Mặc dù có cùng kẻ thù là thực dân Pháp và khuynh hướng dân chủ tư sản, Phan Châu
Trinh lại có chủ trương cứu nước bằng con đường cải cách ôn hòa, bất bạo động, vạch trần vua
quan phong kiến thối nát, đòi Pháp sửa đổi chính sách cai trị thuộc địa. Phong trào cứu nước
của cụ quả thật đã góp phần cổ cũ tinh thần tự lập, tự cường, mở mang tư tưởng của nhân dân
ta, song nguyên nhân chủ yếu làm phong trào này đi đến sự thất bại như phong trào của cụ
Phan Bội Châu chính là sự ảo tưởng trong mục đích muốn ôn hòa khi đối mặt với một chính
quyền thực dân tàn bạo. Như lời Nguyễn Ái Quốc từng nhận xét: “Cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu
cầu người Pháp thực hiện cải lương, đó là sai lầm chẳng khác gì xin giặc rủ lòng thương”.
Hoặc Tôn Quang Phiệt nhận xét về chủ trương của cụ Phan Châu Trinh như sau: “Phan
Chu trinh hô hào: Không bạo động, bạo động là chết… Phan Chu Trinh đã muốn thực hiện
chương trình khai dân trí, xướng dân quyền của dân mình; dân đã khôn ngoan tiến bộ về mọi
mặt, đã biết dùng quyền của mình thì mới có thể độc lập được. Tuy nhiên, cứ lấy tư cách một
người thân sĩ chân không mà hô hào cải lương thì làm sao mà được toàn dân hưởng ứng, toàn
dân thực hiện được; mà toàn dân không hưởng ứng, không thực hiện, thì cải lương với ai?
Cả hai phái bạo động và cải lương đều thất bại, vì lúc đó nước ta chưa đủ điều kiện chủ
quan và khách quan để đuổi được ngoại xâm giành được độc lập. Tuy nhiên, cách mạng võ
trang của Phan Bội Châu được người sau noi theo và đã thành công. Các nhà hoạt động cách
mạng thường nói “thất bại là mẹ thành công”, trường hợp này rất đúng. Còn chủ trương cải
lương của Phan Chu Trinh thì bị thất bại và bị phá sản luôn, sau Phan Chu Trinh những nhà
chân chính ái quốc của nước ta không ai đi theo con đường ấy nữa.”
Nguyễn Ái Quốc sau khi nhận thấy những thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế
kỷ XX, Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Người không đi theo con
đường cải cách ôn hòa hay bạo động vũ trang, cầu viện ngoại bang mà đi đến các nước đế quốc
phương Tây để tìm hiểu tận gốc rễ bản chất của chủ nghĩa thực dân. Do đó người tìm thấy con
đường cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Người nhận ra rằng muốn giải phóng dân
tộc thì phải đánh đổ cả thực dân và phong kiến, dưới sự lãnh đạo của một chính đảng vô sản,
con đường cứu nước của Người kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, giải phóng
dân tộc với giải phóng xã hội, và dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Nguồn tham khảo: https://www.youtube.com/watch?v=lGHYXiOGSoU
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thong-tin-ly-luan/-/2018/825833/tu-tuong-
canhtan-cua-nha-yeu-nuoc-phan-chau-trinh.aspx
https://se.ctu.edu.vn/hoat-dong-su/tu-lieu-lich-su/712-phan-boi-chau-phan-chau-trinh-
vakhuynh-huong-cuu-nuoc-dau-tk-xx.html
c) Một số phong trào khác:
Từ tháng 3 đến tháng 11 năm 1907, phong trào Đông Kinh nghĩa thục do Lương Văn
Can, Nguyễn Quyền và một số nhân sĩ tiến bộ phát động ở Hà Nội đã nhanh chóng lan tỏa.
Đây là một phong trào giáo dục – văn hóa, chủ trương mở trường dạy học miễn phí, biên soạn
sách báo mới, truyền bá khoa học – kỹ thuật, phê phán lối học từ chương, với phương châm
“khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Tuy nhiên, do thiếu đường lối chính trị triệt để và bị
thực dân Pháp đàn áp, phong trào chỉ tồn tại chưa đầy một năm rồi bị giải tán. Dẫu thất bại,
Đông Kinh Nghĩa Thục đã để lại dấu ấn quan trọng trong việc nâng cao dân trí, khơi dậy tinh
thần yêu nước và chuẩn bị cơ sở tư tưởng cho các phong trào cách mạng sau này. lOMoAR cPSD| 61591627 2.
a) Sự ra đời của Chủ nghĩa Mác-Lênin:
Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào những năm 40 thế kỷ XIX trong bối
cảnh chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ với những mâu thuẫn nội tại không thể khắc phục
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Học thuyết
này kế thừa và phát triển những thành tựu khoa học tự nhiên và xã hội đương thời, gồm ba bộ phận cấu thành:
Thứ nhất, triết học Mác cung cấp thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa
học để nhận thức và cải tạo thế giới.
Thứ hai, kinh tế chính trị Mác nhằm vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản thông
qua học thuyết giá trị thặng dư.
Cuối cùng, chủ nghĩa xã hội khoa học đã chỉ ra quy luật tất yếu dẫn đến sự sụp đổ của chủ
nghĩa tư bản và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản thông qua cuộc cách mạng vô sản.
Đến đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đã phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác trong điều kiện chủ nghĩa
tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Những đóng góp nổi bật của Lênin bao gồm:
Một là lý luận về chủ nghĩa đế quốc: Chỉ ra rằng chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của
chủ nghĩa tư bản, là nguyên nhân gây ra chiến tranh và áp bức dân tộc.
Hai là, lý luận về cách mạng vô sản: Đề ra học thuyết về cách mạng vô sản và chuyên chính vô
sản, khẳng định khả năng cách mạng có thể nổ ra và thắng lợi ở khâu yếu nhất của chủ nghĩa
đế quốc, thậm chí ở một nước tư bản kém phát triển.
Ba là, vấn đề dân tộc và thuộc địa: Lênin nhấn mạnh sự cần thiết phải liên minh giữa phong
trào công nhân ở các nước tư bản với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đây
là điểm đặc biệt quan trọng thu hút các chiến sĩ yêu nước ở các nước phương Đông.
Từ chỗ là “bóng ma cộng sản", sau gần nửa thế kỷ đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản và các
trào lưu cơ hội chủ nghĩa dưới mọi màu sắc. Chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành hệ tư tưởng, ngọn
đuốc dẫn đường cho phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
Con đường Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác- Lênin:
Để thực hiện được hoài bão của mình. Người đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Từ khi rời Tổ Quốc (05/6/1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước thuộc địa
và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh đã bổ sung cho mình
những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các chữ: tự do, bình đẳng, bác ái. Khoảng
cuối năm 1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà hoạt động chính trị xã
hội của Pháp và thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia Đảng xã hội Pháp- một đảng tiến
bộ lúc bấy giờ. Đồng thời, sự kiện Hội nghị Versailles (1919) là một bước ngoặt trong nhận
thức. Những yêu sách đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam của Người bị các nước
đế quốc phớt lờ. Người kết luận: "Chủ nghĩa Wilson chỉ là một trò bịp bợm lớn". Sự thất vọng
này khiến Người phải tìm một con đường mới, một hệ tư tưởng mới. lOMoAR cPSD| 61591627
Tại Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu
tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản III do Lênin sáng lập và trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự lựa chọn dứt khoát, đánh dấu bước chuyển biến về
chất trong tư tưởng của Người: từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản.
Từ khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh hoạt động trong Đảng xã hội Pháp, trong
tổ chức Cộng sản Quốc tế và trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, phong trào giải
phóng dân tộc.ở đây Người đã tận mắt thấy cuộc sống cùng cực, bị đàn áp của các dân tộc thuộc địa.
Chính những điều đó đã giúp Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc hơn về bản chất cách
mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin. Thực tiễn sống và hoạt động ở nước ngoài đã đưa
Người đến những nhận thức mới:
Thứ nhất, ở các nước thuộc địa, đâu đâu Người cũng thấy người lao động trong chủ
nghĩa thực dân đế quốc bị đày ải trong tủi nhục, đói nghèo, bị bóc lột đàn áp dã man và ở đâu
các dân tộc bị áp bức đều có khát vọng đấu tranh đòi giải phóng. ý thức quốc tế của Người
được hình thành từ đó.
Thứ hai, ở các nước tư bản phát triển, tự xưng là văn minh, Người thấy cũng có hai loại
người: Tầng lớp trên sống hết sức xa hoa, thừa thãi, còn đa số nhân dân lao động phải sống
cuộc đời nheo nhóc, bần hàn. Chính do sự cảm thông, yêu thương những người cùng khổ và
lòng căm ghét tư bản, đế quốc thực dân, mà tình cảm và ý thức giai cấp ở Người từng bước được nảy nở.
Nhờ những nhận thức rút ra từ thực tiễn gần 10 năm lặn lội tìm đường cứu nước, nên
năm 1920 khi đọc luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở luận cương những lời
giải đáp đầy sức thuyết phục cho nhiều câu hỏi đang nung nấu và tìm tòi. Người đã viết: “ Luận
cương của Lênin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng
đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng
đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta."
Khác với nhiều trí thức tư sản phương Tây đến với chủ Nghĩa Mác- Lênin chủ yếu như
đến với một học thuyết, nhằm giải quyết những vấn đề về tư duy hơn là hành động, Nguyễn Ái
Quốc đến với chủ nghĩa Mác- Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng
dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc tiếp thu lý luận
Mác- Lênin theo phương pháp nhận thức Macxit đồng thời theo lối “ đắc ý, vọng ngôn” của
phương Đông, cốt nắm lấy cái bản chất, cái tinh thần chứ không tự trói buộc trong cái vỏ ngôn
từ. Người vận dụng lập trường, quan đIểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin để tự
tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối cách phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể
của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.
3. Cơ sở lý luận quan trọng nhất: Chủ nghĩa Mác-Lênin
Sự khác biệt căn bản của Hồ Chí Minh so với các nhà yêu nước cùng thời không chỉ thể
hiện ở tầm nhìn chiến lược hay khả năng tổ chức, mà trước hết bắt nguồn từ cơ sở lý luận mà
Người lựa chọn. Nếu như nhiều khuynh hướng cứu nước đầu thế kỷ XX còn thiếu một nền tảng
khoa học vững chắc, thì Hồ Chí Minh đã sớm tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin một học thuyết
cách mạng, triệt để và khoa học. Chính sự lựa chọn này đã quyết định bước phát triển mới về lOMoAR cPSD| 61591627
chất trong tư tưởng của Người, đồng thời mở ra con đường giải phóng dân tộc phù hợp với xu thế của thời đại.
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin.” Trên lập trường, quan
điểm và phương pháp của học thuyết này, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX. Chính vì vậy mà Chủ nghĩa Mác - Lênin tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trò
quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thực tiễn cho thấy việc Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin để vượt qua khủng hoảng
về đường lối cứu nước là Hội nghị Trung ương 8 của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng
5/1941) và sự ra đời của Mặt trận Việt Minh, dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945. Đây là Hội nghị do Hồ Chí Minh chủ trì, Đảng cộng sản lãnh đạo đặt ra chiến lược mới:
giải phóng dân tộc đặt lên hàng đầu, tập trung lực lượng toàn dân, không chỉ giai cấp công
nhân, tư sản hay tầng lớp trí thức, mà mọi tầng lớp dân tộc Việt Nam đều phải tham gia. Hội
nghị nhận định: “Đế quốc Pháp-Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà
chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào… Quyền lợi tất cả các giai
cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp-Nhật ngày
nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”. Do đó: “Cuộc
cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách
mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết
một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì
chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận,
của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng, thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp mọi tầng lớp nhân dân với mục tiêu
giải phóng dân tộc. Đây là tổ chức mà Người đã vận dụng cả quan điểm giai cấp và dân tộc:
dùng Mác-Lênin làm cơ sở lý luận, nhưng vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể: ở
nơi thuộc địa nửa phong kiến, người nông dân chiếm đông đảo, trình độ kinh tế-văn hóa thấp,
quốc gia bị đô hộ. Mặt trận Việt Minh đã góp phần quyết định sự thành công của Cách mạng
tháng Tám và vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh là vô cùng to lớn, Người được ví như người
cầm lái con tàu cách mạng vượt qua bão táp để cập bến độc lập tự do. Từ những ví dụ lịch sử
ấy, ta có thể thấy rõ rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin đã gợi cho Hồ Chí Minh đường lối (lý luận về
giai cấp, dân tộc, đế quốc và chủ nghĩa thực dân; phương pháp đấu tranh kết hợp chính trị và
vũ trang). Người không sao chép máy móc mà vận dụng sáng tạo, phù hợp hoàn cảnh Việt Nam
thuộc địa nửa phong kiến. Nhờ vậy, Người đã vượt qua được cuộc khủng hoảng về đường lối
(nhiều phong trào thất bại, thiếu tổ chức, phân tán, thiếu định hướng) và lãnh đạo nhân dân ta
giành độc lập thành công. https://dhcsnd.edu.vn/duong-loi-chien-luoc-cach-mang-giai-phong- dan-toc-cua-dang-thoi-ky- 1930-1945
https://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/chu-tich-ho-chi-minh-va-mat-tran-viet-minh-
trongmoi-quan-he-voi-cac-dang-phai-chinh-tri-truoc-cach-mang-thang-tam-1945-2889
Thứ hai, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ lý luận với thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh
đã tiến dần tới những nhận thức “lý tính” trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu sắc hơn, để rồi
tiếp thu học thuyết của ông một cách chọn lọc, không rập khuôn máy móc, không sao chép giáo
điều. Người tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo phương pháp mácxít, nắm lấy cái tinh thần, cái lOMoAR cPSD| 61591627
bản chất. Người không coi đó là một hệ thống giáo điều, mà xem như phương pháp luận để
nhận thức và cải tạo hiện thực. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội. Đây chính là nét sáng tạo nổi bật, làm cho tư tưởng của Người vượt lên so với các
khuynh hướng cứu nước đương thời.
Thứ ba, chủ nghĩa Mác - Lênin còn giúp Hồ Chí Minh mở rộng tầm nhìn thời đại, đặt cách
mạng Việt Nam trong mối quan hệ mật thiết với phong trào cách mạng thế giới. Nhờ đó, tư
tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự tiếp nối truyền thống dân tộc, mà còn là một bước nhảy
vọt, hòa nhập vào dòng chảy chung của nhân loại tiến bộ. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh không
chỉ vận dụng mà còn bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Những luận điểm của Người
về cách mạng giải phóng dân tộc, về xây dựng Đảng, về đạo đức và con người xã hội chủ nghĩa
đã làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới.
Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng
tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng - mà không
phải chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin - chúng tôi giành được những thắng lợi
đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin”. Chính thế
giới quan và phương pháp luận Mác-Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng hợp kiến thức và kinh
nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước: “trong cuộc đấu tranh, vừa làm nghiên cứu lý
luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có xã hội chủ nghĩa,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới”
Như vậy, sự khác biệt căn bản trong cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh chính là việc
Người tiếp cận, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây không chỉ là nền
tảng lý luận làm nên bản lĩnh và tầm vóc tư tưởng của Hồ Chí Minh, mà còn là yếu tố quyết
định đưa cách mạng Việt Nam từ chỗ bế tắc đến con đường thắng lợi. Sự lựa chọn ấy đã khẳng
định tính khoa học, cách mạng và thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh, làm nên sự khác biệt
rõ rệt so với những người yêu nước cùng thời.
4. Vì sao việc áp dụng chủ nghĩa Mác – Lênin tiến bộ hơn các phong trào yêu nước đương thời a)
Trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước ở Việt Nam như
Cần Vương theo khuynh hướng phong kiến, còn phong trào Đông Du, Duy Tân theo khuynh
hướng dân chủ tư sản. Nhìn chung các phong trào trước đó đều xuất phát từ tinh thần dân tộc
sâu sắc nhưng còn hạn chế về đường lối, còn mang tính tự phát với đơn lẻ chưa có đường lối
cách mạng rõ ràng thống nhất và chưa tập hợp được tối đa lực lượng cho cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhận xét rằng: “ Con đường cứu nước của Cụ Phan Bội Châu “chẳng khác gì
“đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, của Cụ Phan Châu Trinh chẳng khác gì “Cầu xin giặc rủ
lòng thương”, còn Cụ Hoàng Hoa Thám “còn nặng cốt cách phong kiến”; trong khi đó thể chưa
giải quyết được mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế
quốc và giai cấp địa chủ. Chủ nghĩa Mác – Lênin, với học thuyết đấu tranh giai cấp và cách
mạng vô sản, cung cấp một thế giới quan khoa học, chỉ ra quy luật phát triển của xã hội, con
đường giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp. Đặc biệt, quan điểm của Lênin về
cách mạng thuộc địa đã giúp khắc phục hạn chế của các phong trào trước đó: cách mạng không
chỉ đòi độc lập mà còn hướng đến xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, triệt để xóa bỏ áp bức. lOMoAR cPSD| 61591627
b) Lợi ích chủ nghĩa Mác – Lênin đem lại cho Việt Nam
Trước hết, đó là xác định mục tiêu chiến lược rõ ràng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã xác định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1975, độc lập
thống nhất là mục tiêu, khát vọng lớn nhất, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được đặt
ra và từng bước thực hiện. Và từ năm 1975 đến nay, thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
đã chứng minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đất nước có được cơ
đồ, vị thế, tiềm lực và uy tín như ngày nay.
Bên cạnh đó, Chủ nghĩa Mác Lênin chỉ ra cách xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng.
Qua đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ cách mạng Việt Nam với lực lượng cách mạng giải
phóng dân tộc là toàn thể nhân dân, trong đó công nhân, nông dân, trí thức trở thành nền tảng,
nòng cốt, tạo sức mạnh toàn dân, cả về lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, thành lập mặt
trận dân tộc và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
Một minh chứng sinh động về việc Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin để
xây dựng lực lượng cách mạng là sự ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
(22/12/1944) — được xem là quân chủ lực đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Lực lượng này
là bước phát triển mới về lực lượng vũ trang – chính trị, vừa mang tính cách mạng, vừa mang
tính quần chúng, với những sĩ quan, chiến sĩ được tuyển chọn từ nhân dân, những đội tự vệ và
lực lượng cứu quốc. Về tổ chức, Đảng đã đặt chi bộ lãnh đạo trong Đội, nhằm đảm bảo đường
lối cách mạng đúng đắn, gắn chặt giữa tuyên truyền, giác ngộ chính trị với hoạt động vũ trang.
Về phương pháp, Đội “xuất phát từ dân, vì dân, phục vụ dân”, ảnh hưởng sâu rộng trong quần
chúng để tập hợp lực lượng, củng cố lòng tin, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Chỉ chưa
đầy nửa năm sau ngày thành lập, vừa chiến đấu vừa vũ trang tuyên truyền, Đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân đã phát triển, lớn mạnh nhanh chóng. Sự ra đời và hoạt động của Đội
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng nước ta lúc đó, đánh dấu bước phát triển rất quan
trọng của lực lượng vũ trang nhân dân ta, cũng là cái mốc đánh dấu một bước tiến quan trọng
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đây không chỉ
là lực lượng chiến đấu mà còn là biểu tượng cho sự kết hợp giữa nhân dân với Đảng, giữa chính
trị với quân sự — một dẫn chứng cụ thể cho việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin của Người về
cách mạng dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam.
https://www.qdnd.vn/vung-buoc-duoi-quan-ky-quyet-thang/doi-viet-nam-tuyen-truyen-
giaiphong-quan-doi-quan-chu-luc-dau-tien-cua-cach-mang-viet-nam-795273
Không những vậy, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra phương pháp đấu tranh, cách mạng khoa
học, về tổ chức, xây dựng Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, về đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, tiến tới xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra được phải có
một chính Đảng để giữ vai trò lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc và rồi Đảng Cộng Sản
Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam, là sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử trên con đường đấu tranh và
chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam
kéo dài suốt từ cuối thế kỷ XIX sang đầu năm 1930.
Hơn nữa, chủ nghĩa Mác – Lênin còn tiếp tục định hướng công cuộc xây dựng, phát triển kinh
tế – xã hội, củng cố quốc phòng, hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững bản sắc và độc lập chính
trị, thực tiễn từ sau Cách mạng Tháng 10 Nga, Nước Nga Xô Viết cũng đã gặp rất nhiều khó lOMoAR cPSD| 61591627
khăn trong và ngoài nước nhưng đã có chính sách để khôi phục và phát triển, cũng như nước
ta trong giai đoạn từ năm 1945 đến 1954, vừa thành lập đã gặp muôn vàn khó khăn, nhưng với
chiến lược và đường lối đúng đắn, nước ta đã kháng chiến chống Thực dân Pháp thành công
và tạo được những tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, so với các phong trào yêu nước đương thời, việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin
không chỉ giúp dân tộc Việt Nam giành thắng lợi trong cách mạng giải phóng mà còn định hình
một con đường phát triển độc lập, bền vững và có tính khoa học, đưa cách mạng từ giải phóng
dân tộc sang xây dựng xã hội mới
*Nguồn: Giáo Trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong cách mạng Việt Nam
[https://lyluanchinhtri.vn/kien-dinh-muc-tieu-doc-lap-dan-toc-va-chu-nghia-xa-hoi-trong- cachmang-viet-nam-239.html]
Hồ Chí Minh kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin – nền tảng
quyết định thành công [https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-
chiminh/c-mac/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/ho-chi-minh-kien-dinh-van-dung-va-phat-
triensang-tao-chu-nghia-mac-lenin-nen-tang-quyet-dinh-thanh-cong-4008]
5. Ví dụ lịch sử
VD1: Khởi nghĩa Yên Thế (1884 - 1913)
Khởi nghĩa Yên Thế (1884 – 1913) là một trong những phong trào tiêu biểu chống thực dân
Pháp vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đây là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhất, trên
bình diện rộng nhất và kéo dài nhất trong các cuộc khởi nghĩa chống lại ách thống trị của thực
dân Pháp, nổi bật cho phong trào yêu nước của dân tộc ta trước khi có Đảng lãnh đạo. Dưới
sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám, lực lượng nông dân ở vùng rừng núi Yên Thế (Bắc Giang)
đã kiên cường kháng chiến suốt gần 30 năm. Nghĩa quân áp dụng chiến tranh du kích, dựa
vào địa thế hiểm trở của núi rừng, tiến hành nhiều trận đánh gây tổn thất cho quân Pháp,
buộc chúng phải nhiều lần thương lượng hòa hoãn. Tuy nhiên, về mục tiêu và nhận thức, khởi
nghĩa Yên Thế vẫn chủ yếu tập trung vào việc giữ đất, bảo vệ làng xã, chống lại ách thống trị
của thực dân nhằm duy trì đời sống cho nông dân, chứ chưa vươn tới mục tiêu giải phóng
dân tộc toàn diện. Phong trào cũng chỉ mang tính chất địa phương với lực lượng tham gia
chủ yếu là nông dân, chưa có sự lãnh đạo thống nhất bằng một chính đảng tiên phong, vì vậy
nên cuối cùng phong trào của người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám đã bị thực dân Pháp đàn áp và thất bại.
Trái với những hạn chế từ thất bại của khởi nghĩa Yên Thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh – sau khi
tìm ra con đường cứu nước từ chủ nghĩa Mác-Lênin – đã có nhận thức mang tính bước ngoặt
về cách mạng Việt Nam. Người khẳng định rằng cách mạng giải phóng dân tộc không thể chỉ
dựa vào một bộ phận riêng lẻ như nông dân, mà phải là sự nghiệp của toàn thể nhân dân.
Trong đó, giai cấp công nhân, nông dân và trí thức được xác định là nền tảng, nòng cốt tạo
nên sức mạnh toàn dân. Đặc biệt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của một chính
đảng kiểu mới – Đảng Cộng sản – nhằm thống nhất đường lối, chiến lược và phương pháp
cách mạng. Người còn vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một cách linh hoạt, sáng tạo trong việc
kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh ngoại giao với tuyên
truyền, gắn độc lập dân tộc với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng Điện Biên
Phủ năm 1954 là minh chứng tiêu biểu cho nhận thức đúng đắn và tài lãnh đạo kiệt xuất của
Hồ Chí Minh. Khi thực dân Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất
Đông Dương nhằm quyết chiến chiến lược, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã xác định
phương châm “toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính” và đặc biệt chỉ đạo lOMoAR cPSD| 61591627
chiến dịch theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc” để đảm bảo thắng lợi. Trong suốt gần
hai tháng, quân ta lần lượt đánh chiếm các cứ điểm, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, tiến
tới bao vây toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Ngày 7/5/1954, quân ta toàn thắng, bắt sống tướng De
Castries cùng toàn bộ Bộ Chỉ huy Pháp. Thắng lợi này không chỉ đập tan hoàn toàn kế hoạch
Nava, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, mà còn cổ vũ mạnh mẽ cho các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Sự khác biệt giữa hai nhận thức này rất rõ ràng. Trong khi khởi nghĩa Yên Thế thể hiện tinh
thần yêu nước mạnh mẽ nhưng vẫn dừng lại ở khuôn khổ một phong trào nông dân mang
tính tự phát, thì Hồ Chí Minh đã chỉ ra con đường cách mạng mang tính khoa học, toàn diện
và có tầm nhìn chiến lược. Nếu như Hoàng Hoa Thám chủ yếu dựa vào sức mạnh vũ trang
địa phương, thì Hồ Chí Minh lại đề cao khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tổ chức chính trị
thống nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo. So với phong trào khởi nghĩa Yên Thế
chỉ dựa vào lực lượng nông dân và đấu tranh quân sự địa phương, Chiến dịch Điện Biên Phủ
đã thể hiện sự khác biệt căn bản trong tư duy của Hồ Chí Minh: đó là cuộc chiến tranh nhân
dân toàn dân, toàn diện, có sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, nhờ vậy đã giành thắng lợi vang dội, đi vào lịch sử.
Qua so sánh ta có thể thấy, khởi nghĩa Yên Thế và tư tưởng của Hoàng Hoa Thám đã góp
phần làm rạng ngời truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, cuộc khởi nghĩa tuy bị
dập tắt song đã để lại một trang sử hào hùng về truyền thống chống giặc ngoại xâm, về lòng
yêu nước, ý chí quật cường, sự mưu trí, dũng cảm và những chiến công hiển hách của các
tướng lĩnh (Nghĩa quân Yên Thế), đặc biệt là hình tượng người anh hùng áo vải Hoàng Hoa
Thám. Trong khói lửa tàn khốc của kẻ xâm lược, Hoàng Hoa Thám đã trở thành một người
anh hùng dân tộc, một thiên tài, một người mà ngay cả chính giới Pháp cũng phải thừa nhận
“Mỗi thế kỷ chỉ xuất hiện một lần mà thôi”. Cuộc khởi nghĩa là một minh chứng đầy thuyết
phục về sức mạnh tiềm tàng của nhân dân, đóng góp nhiều kinh nghiệm quý báu vào kho
tàng lịch sử quân sự Việt Nam, đặc biệt là những nét độc đáo về chiến tranh du kích, chiến
tranh nhân dân, về xây dựng lực lượng, căn cứ làng xã chiến đấu liên hoàn trên một địa bàn
rộng khắp. Mặc dù vậy, phong trào đó vẫn chưa đưa ra được một con đường giải phóng dân
tộc triệt để. Chỉ đến khi Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, nhận thức cách mạng
mới đạt tới tầm cao mới, kết hợp được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Chính sự
khác biệt về nhận thức này đã quyết định con đường cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi,
khẳng định vai trò lãnh đạo lịch sử của Hồ Chí Minh đối với dân tộc. Tư tưởng đó đã được
hiện thực hóa trong suốt 9 năm kháng chiến, đưa tới đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ
năm 1954, “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ,
công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
VD2: Khởi nghĩa Yên Bái (1930)
Ngày 25 tháng 12 năm 1927 tại Hà Nội, Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ) - một đảng mang
khuynh hướng dân chủ tư sản, ảnh hưởng bởi Trung Hoa Quốc dân Đảng. Được thành lập
với mục đích là đánh đuổi Thực dân Pháp và lập ra nước Việt Nam Cộng hòa Dân quốc. Lực
lượng nòng cốt của cuộc khởi nghĩa này là các binh lính người Việt phục vụ quân đội thuộc
địa Pháp (lính khố xanh, lính khố đỏ) đồn trú tại tỉnh Yên Bái và các tỉnh lân cận dưới sự lãnh
đạo của VNQDĐ tiêu biểu là Nguyễn Thái Học. VNQDĐ được thành lập dựa trên khao khát
độc lập của dân tộc, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc khởi nghĩa diễn ra là vào tháng 2
năm 1929, thực dân Pháp khủng bố trắng sau vụ ám sát tên trùm mộ phu Bazin, khiến hàng
loạt đảng viên VNQDĐ bị bắt. Trước nguy cơ tổ chức bị tan vỡ hoàn toàn, Ban lãnh đạo
VNQDĐ, đứng đầu là Nguyễn Thái Học, quyết định phát động khởi nghĩa trên toàn quốc để
giành thế chủ động, dù lực lượng chưa thực sự sẵn sàng. Đêm ngày 9, rạng sáng ngày 10
tháng 2 năm 1930, cuộc khởi nghĩa nổ ra tại Yên Bái, là nơi then chốt nhất. Nghĩa quân đã
tấn công vào đồn binh Pháp, giết chết và làm bị thương một số sĩ quan, hạ sĩ quan. Tuy nhiên,
do lực lượng mỏng, kế hoạch thiếu chặt chẽ và sự phản ứng nhanh chóng của đối phương, lOMoAR cPSD| 61591627
cuộc nổi dậy nhanh chóng bị dập tắt. Các cuộc khởi nghĩa ở Phú Thọ, Hải Dương, Thái Bình...
cũng lần lượt thất bại. Khởi nghĩa Yên Bái hoàn toàn thất bại. Thực dân Pháp tiến hành một
cuộc khủng bố dã man. Hàng trăm đảng viên VNQDĐ và những người yêu nước bị bắt. Ngày
17 tháng 6 năm 1930, 13 lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa, trong đó có Nguyễn Thái Học, Phó Đức
Chính, đã bị chém tại Yên Bái. VNQDĐ về cơ bản bị tan rã.
Sự khác biệt căn bản nhất giữa Khởi nghĩa Yên Bái (1930) và các cuộc khởi nghĩa do Đảng
Cộng sản lãnh đạo nằm ở đường lối và lực lượng lãnh đạo. Khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam
Quốc dân Đảng (VNQDĐ) - một đảng theo khuynh hướng dân chủ tư sản - phát động. Mục
tiêu của họ là đánh đuổi thực dân Pháp để thiết lập một nền "Cộng hòa Dân quốc" theo mô
hình của các nước tư bản. Lực lượng lãnh đạo chủ yếu là các trí thức, tiểu tư sản yêu nước
và tư sản dân tộc, với một tổ chức còn non trẻ, thiếu chặt chẽ. Trong khi đó, các cuộc khởi
nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, tiêu biểu là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (19301931) và
đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám (1945), lại dựa trên một đường lối cách mạng vô sản rõ
ràng. Mục tiêu không chỉ là giành độc lập dân tộc mà còn tiến tới xây dựng một chế độ xã hội
chủ nghĩa. Giai cấp lãnh đạo là giai cấp vô sản, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản -
một tổ chức có đường lối chính trị đúng đắn, kỷ luật nghiêm minh và cơ cấu tổ chức chặt chẽ
từ trung ương đến địa phương, tạo nên sức mạnh lãnh đạo vượt trội.
Sự khác biệt về đường lối dẫn đến sự khác biệt sâu sắc trong phương pháp đấu tranh và việc
tập hợp lực lượng. Khởi nghĩa Yên Bái chủ yếu dựa vào phương pháp bạo động quân sự
đơn thuần, mang tính chất ám muội và cảm tử, tập trung vào việc kêu gọi binh lính người Việt
trong quân đội Pháp nổi dậy tại các đô thị và đồn binh. Cuộc khởi nghĩa này hầu như không
dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi, đặc biệt là nông dân - lực lượng chiếm đa số trong
xã hội, dẫn đến tình trạng cô độc và dễ dàng bị đối phương dập tắt. Ngược lại, Đảng Cộng
sản áp dụng một phương pháp đấu tranh toàn diện, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa. Quan trọng hơn,
Đảng đặc biệt chú trọng xây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng, vận động và tập hợp
được đông đảo lực lượng quần chúng công-nông làm nòng cốt, đồng thời thu hút mọi tầng
lớp yêu nước khác trong một mặt trận dân tộc thống nhất. Sức mạnh đó đã tạo nên một làn
sóng cách mạng toàn dân, quyết định đến thắng lợi cuối cùng.
Hệ quả tất yếu của những khác biệt trên dẫn đến kết quả và ý nghĩa lịch sử hoàn toàn trái
ngược. Khởi nghĩa Yên Bái nhanh chóng thất bại chỉ sau một đêm, kéo theo sự đàn áp khốc
liệt của thực dân Pháp và sự tan rã của VNQDĐ. Sự thất bại này là minh chứng hùng hồn
cho thấy con đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã hoàn toàn bế tắc trong
điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tuy nhiên, nó vẫn là một tấm gương về tinh thần yêu nước và
hy sinh anh dũng, và chính sự thất bại ấy đã dọn đường, tạo tiền đề cho sự thắng lợi của
khuynh hướng cách mạng vô sản. Trái lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cuộc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đã thành công rực rỡ, giành lại chính quyền trên cả nước một
cách nhanh chóng và ít đổ máu. Thắng lợi này không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - mà còn khẳng định một chân lý lịch sử: chỉ có
đường lối cách mạng vô sản và sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng tiên
phong mới có thể giải phóng dân tộc thành công.
Trên đây là hai cuộc khởi nghĩa tiêu biểu đại diện cho hai khuynh hướng phong kiến và tư sản
chủ nghĩa, mặc dù thất bại nhưng đã góp những viên gạch cho “căn nhà hòa bình” của dân
tộc. Để lại nhiều bài học về đường lối tư tưởng, lực lượng nòng cốt cần thiết, sự lãnh đạo và
hơn thế nữa, tạo tiền đề cho sự thành công của phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh và Cách mạng Tháng Tám sau này.