Phân tích quan điểm của triết học Mác- Lênin - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Đề: Phân tích quan điểm của triết học Mác- Lênin về bản chất con người. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Họ và tên: Nguyễn Thị Huỳnh Như MSSV: 31211025340 Mã lớp HP: 21C1PHI51002318
ĐỀ THI TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
Đề: Phân tích quan điểm của triết học Mác- Lênin về bản chất con người. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
1. Khái niệm về con người
a. Con người là một thực thể tự nhiên
- Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất
của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các
thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là một thực
thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội.1 Con người là một
thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương
diện tự nhiên và xã hội. Về bản tính tự nhiên, con người là kết quả của quá trình tiến
hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên, con người được xem là một phần của giới
tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là thân thể vô cơ của con người. Tuy nhiên,
con người không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính xã
hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội.2
b. Con người là một thực thể xã hội
Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn
tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con người là một thực
thể xã hội có các hoạt động xã hội, hoạt động quan trọng nhất của con người chính là
lao động sản xuất. Trong hoạt động sản xuất, con người không chỉ có các quan hệ lẫn
nhau trong sản xuất, mà còn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Tính xã hội của con
người chỉ có trong xã hội loài người, con người không thể tách khỏi xã hội và đó là
điểm cơ bản làm cho con người khác với các động vật khác. Ngôn ngữ và tư duy của
1 Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Triết học Mác- Lênin (2021), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.201
2 https://loigiaihay.com/con-nguoi-va-ban-chat-cua-con-nguoi-c126a20218.html 1
con người được phát triển thông qua việc lao động và giao tiếp với nhau và đây cũng
là biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể xã hội. 3
2. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
Luận điểm nổi tiếng về con người được C.Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc
(1845): "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội".4
Như vậy, theo như C.Mác thì bản chất con người không phải là cái gì đó thần bí, trừu
tượng mà nó được nhận thức thông qua các tổ chức, các mối quan hệ xã hội hiện thực,
xác định. Bản chất của con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người
hiện thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các mối quan hệ xã hội tham
gia hình thành, phát triển bản thân phải thông qua các hoạt động thực tiễn của mỗi con
người. Bởi vì, trong quá trình hoạt động, con người bị quy định, chi phối bởi các mối
quan hệ xã hội. Con người vừa là khách thể, vừa là chủ thể của các quan hệ xã hội;
vừa chịu sự chi phối của các quy luật xã hội, lịch sử. Vì thế bản chất con người không
nhất thành bất biến mà luôn vận động biến đổi. C.Mác đã chỉ rõ con người tạo ra hoàn
cảnh đến mức độ nào thì hòa cảnh cũng tạo ra con người ở mức độ ấy. 5 3. Ý nghĩa lý luận
- Thứ nhất, bản tính con người hình thành bởi những yếu tố xã hội quy định, mà những
yếu tố xã hội đó là điều kiện kinh tế- xã hội. Con người trong mọi hoạt động sản xuất,
lao động đều thể hiện mục đích, lợi ích của mình trong quan hệ với những người xung
quanh và với xã hội. Những mục tiêu, lợi ích của con người bao giờ cũng gắn với tính
chế định của điều kiện lịch sử- xã hội trong một thời đại nhất định. Điều kiện kinh tế-
xã hội có những điều kiện lịch sử- xã hội khác nhau, có những quan hệ kinh tế nhất
định trong hoàn cảnh đó. Nó là yếu tố khách quan quy định quá trình tồn tại xã hội ở
3 Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn học Triết học Mác- Lênin (2021), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.202
4 C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập,
Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5 Trích dẫn từ nguồn: ‘https://toptailieu.com/phan-tich-luan-diem-cua-c-mac-trong-tinh-hien-thuc-cua-no-ban-
chat-con-nguoi-la-tong-hoa-nhung-quan-he-xa-hoi/’ 2
mọi thời đại nhất dịnh. Lênin gọi đây là quyết định luận lịch sử.6 Tuy nhiên yếu tố trực
tiếp quy định về bản chất và đặc trưng của nhân cách không phải là tất cả quan hệ kinh
tế mà đó chính là quan hệ lợi ích. Trong đời sống, yếu tố cá nhân và yếu tố xã hội gắn
bó chặt chẽ với nhau trong điều kiện kinh tế xã hội. Sự phát triển của con người chỉ có
thể phát triển đúng quy luật khi con người biết tự giác nhận thức, giải quyết hài hòa
mối quan hệ cá nhân- xã hội trên phương diện lợi ích. Con người trong bất kì thời đại
nào đều hoạt động trước hết vì lợi ích của bản thân nên lợi ích cá nhân đóng vai trò
trực tiếp cho mọi hoạt động tích cực của con người còn lợi ích xã hội là điều kiện và
đóng vai trò định hướng cho việc thực hiện lợi ích cá nhân. Việc giải quyết hài hòa
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là động lực của sự phát triển nhân cách. Và khi
nào lợi ích còn cân bằng thì yếu tố con người cá nhân và yếu tố con người xã hội chịu
sự quy định ở đây, nhân cách con người được xác định đầy đủ khi đặt nó trong mối
quan hệ với các nhu cầu và lợi ích.
- Thứ hai, nhân cách là tổng hòa các yếu tố tạo thành giá trị mới của mỗi cá nhân trong
xã hội.7 Bởi vì con người trong quá trình định hình quy định bởi tài và đức. Do vậy,
trong đời sống mỗi cá nhân trong quá trình rèn luyện không chỉ rèn luyện về trí thức
mà còn rèn luyện về đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng: đạo đức không tách
rời tài năng, nên tài và đức cần phải đi đôi, phát triển song hành cùng nhau. Người
cũng cho rằng có tài mà không có đức thì vô dụng và có đức mà không có tài thì làm
việc gì cũng khó do đó con người cần phát triển một cách toàn diện.
- Thứ ba, sự hình thành và phát triển nhân cách bị quy định bởi nhân tố văn hóa của xã
hội. Giá trị tinh thần trong đời sống xã hội sẽ tác động đến hành vi, tình cảm, đạo đức
của mỗi cá nhân và họ chịu hiệu quả của những yếu tố giáo dục hình thành nhân cách
con người. Và văn hóa xã hội là tổng hòa các văn hóa cá nhân để định hình nên mỗi
con người trong trong xã hội. Mỗi cá nhân sinh ra được tiếp nhận, được trưởng thành,
được phát triển, chịu sự quy định bởi những cái chuẩn mực được phản ánh trong thế
giới quan, hệ thống tri thức xã hội, trong những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm
6 Bùi Xuân Dũng- Phạm Thị Kiên (2021), Nhân cách con người Việt Nam và sự phát triển nguồn nhân lực trong
quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.56
7,8 Bùi Xuân Dũng- Phạm Thị Kiên (2021), Nhân cách con người Việt Nam và sự phát triển nguồn nhân lực
trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.58, tr.65- 66 3
mĩ... Xã hội hóa cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển không chỉ biểu hiện
sự tác động một chiều mà còn bao hàm cả quá trình cá nhân hóa xã hội. Giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng. Mối quan hệ này khẳng định vai trò to lớn của sự tác động xã
hội đến sự hình thành và phát triển nhân cách, đồng thời khẳng định vai trò chủ thể
hoạt động cải tạo xã hội của con người.8 4. Ý nghĩa thực tiễn
- Mỗi một cá nhân trong xã hội ề
đ u có tư cách là một nguồn nhân lực của đất nước. Do
vậy nên để phát triển con người trong quá trình hình thành nên bản chất con người là
tổng hòa các quan hệ xã hội thì chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
bằng cách giáo dục đạo đức, chú trọng sức khỏe, giáo dục thẩm mỹ và chất lượng cuộc
sống. Nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi
mới. Ngay từ khi bắt đầu các cấp học, giáo viên và phụ huynh đã bắt đầu định hướng
cho con em mình về tương lai, về ngành nghề phù hợp với thế mạnh của bản thân. Từ
đó tập trung đào tạo, bồi dưỡng cho nguồn nhân lực của tương lai. Ngoài ra các trường
cao đẳng, đại học phải làm tốt công tác tuyển sinh, xây dựng chương trình phù hợp với
trình độ, nhận thức của sinh viên và đáp ứng đúng nhu cầu của xã hội trong quá trình
hội nhập. Nước ta nên tiến hành rà soát lại chương trình đào tạo ở các trường, tăng thời
gian học thực hành, giảm thời gian học lý thuyết, gắn quá trình đào tạo với hoạt động
thực tập. Thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục ở nước ta để
phát triển hơn nữa nguồn nhân lực. Bên cạnh đó thì việc phát triển những giá trị truyền
thống của Việt Nam như có ý thức và năng lực tự làm chủ bản thân, sống có lý tưởng.
Việc phát triển nguồn nhân lực cũng cần gắn liền với nâng cao chất lượng cuộc sống,
sức khỏe của người dân, đảm bảo cho người dân được phát triển toàn diện, các chính
sách đảm bảo an sinh xã hội.9
- Trong mọi giai đoạn, thời kì cách mạng, vấn đề cơ chế, chính sách hợp lý, đồng bộ
để thu hút phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp cách mạng là rất quan
trọng. Nhà nước và các tổ chức phải có cơ chế, chính sách vận dụng linh hoạt ở những
9 Bùi Xuân Dũng- Phạm Thị Kiên (2021), Nhân cách con người Việt Nam và sự phát triển nguồn nhân lực trong
quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.144- 148 4
lĩnh vực khác nhau, ngành nghề, cơ quan khác nhau để hỗ trợ nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực phát triển.
- Cần chú trọng đảm bảo sự quản lý của Nhà nước, sự điều hành của Chính phủ đối
với phát triển nguồn nhân lực. Nhà nước cần ban hành cơ chế, chính sách đãi ngộ, bồi
dưỡng, thu hút nguồn nhân lực. Nhà nước cần hướng tới xây dựng đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, có vị thế ngày càng cao trong cộng đồng
quốc tế. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước cần tổng kết về mặt lý luận và thực tiễn về
nguồn nhân lực ở Việt Nam để kịp thời đánh giá, khắc phục những mặt chưa tốt để rút
ra kinh nghiệm cho việc xây dựng chính sách mới.
- Nước ta tạo ra được môi trường làm việc thích hợp với thực tiễn nền kinh tế đất
nước. Con người là tổng hòa các quan hệ xã hội nên khi mỗi cá nhân có được môi
trường làm việc tốt sẽ thúc đẩy, kích thích người lao động trong quá trình làm việc,
giúp con người nâng cao năng suất làm việc. Nhà nước cần quản lý nguồn nhân lực
hiệu quả, tránh xảy ra hiện tượng ‘chảy máu chất xám’ do nguồn nhân lực chất lượng
cao không phục vụ cho Nhà nước mà phục vụ cho các doanh nghiệp nước ngoài. 5. Vận dụng
- Với tư cách là một sinh viên Ueh, trong một môi trường rộng lớn, chúng ta được định
hình bởi tổng hòa các quan hệ xã hội. Chúng ta là những sinh viên đang trên con
đường hoàn thiện nhân cách, dần trở thành chủ của đất nước trong tương lai, vì vậy,
trong quá trình học tập, chúng ta không chỉ học kiến thức mà còn học các kĩ năng, học
giao tiếp, thể chất, phát triển tổng thể những phẩm chất đạo đức và tài năng một cách
toàn diện. Mỗi cá nhân là sinh viên Ueh hãy năng động và sáng tạo hơn trong việc học
tập như thể hiện tính sáng tạo, lý tưởng của mình trong các tác phẩm nghiên cứu khoa
học. Cá nhân tôi, khi được học tập ở môi trường Ueh, tôi sẽ dốc hết sức mình để học
tập, rèn luyện, trau dồi kiến thức chuyên môn để đạt thành công cho chính tương lai
mình và có được sự tự tin khi được các nhà tuyển dụng tin tưởng. Khi ta thành công
thì chúng ta đã khẳng định được nguồn nhân lực của nhà trường trong quá trình đào
tạo, đó chính là nguồn nhân lực chất lượng cao đầy tiềm năng góp phần thực hiện
thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay.10
10 Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.120 5