-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích sự liên quan giữa lý do tải và loại mối quan hệ được tìm kiếm trên Tinder của sinh viên Việt Nam nhằm đi sâu vào làm rõ động cơ sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến này | Tiểu luận Nghiên cứu và đánh giá truyền thông
Lý do tải và sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder của sinh viên Việt Nam. Những loại mối quan hệ mà sinh viên Việt Nam tìm kiếm khi sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder. Sự liên quan giữa lý do sử dụng và loại mối quan hệ được sinh viên Việt Nam tìm kiếm trên ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Nghiên cứu và đánh giá truyền thông 1 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Phân tích sự liên quan giữa lý do tải và loại mối quan hệ được tìm kiếm trên Tinder của sinh viên Việt Nam nhằm đi sâu vào làm rõ động cơ sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến này | Tiểu luận Nghiên cứu và đánh giá truyền thông
Lý do tải và sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder của sinh viên Việt Nam. Những loại mối quan hệ mà sinh viên Việt Nam tìm kiếm khi sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder. Sự liên quan giữa lý do sử dụng và loại mối quan hệ được sinh viên Việt Nam tìm kiếm trên ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Nghiên cứu và đánh giá truyền thông 1 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ CÔNG CHÚNG VÀ QUẢNG CÁO ----------------------- Tiểu luận
MÔN HỌC: NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ TRUYỀN THÔNG Đề tài chung:
NGHIÊN CỨU HÀNH VI SỬ DỤNG ỨNG DỤNG HẸN HÒ TRỰC TUYẾN, CỤ THỂ
LÀ ỨNG DỤNG HẸN HÒ TRỰC TUYẾN TINDER CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM Báo cáo cá nhân:
PHÂN TÍCH SỰ LIÊN QUAN GIỮA LÝ DO TẢI VÀ LOẠI MỐI QUAN HỆ ĐƯỢC
TÌM KIẾM TRÊN TINDER CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM NHẰM ĐI SÂU VÀO LÀM
RÕ ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG ỨNG DỤNG HẸN HÒ TRỰC TUYẾN NÀY
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Huyền Linh Lớp
: Truyền thông Marketing K41 A1 Mã sinh viên : 2156160020 Giảng viên : Phạm Hương Trà
Hà Nội, tháng 6, năm 2023 MỤC LỤC
A. PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC – ĐÁNH GIÁ NHÓM ......................................... 2
B. BÁO CÁO CÁ NHÂN .......................................................................................... 4
I. Phần 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................... 4
1. Giới thiệu nội dung báo cáo .......................................................................... 4
2. Câu hỏi nghiên cứu chính ............................................................................. 5
3. Phương pháp thu thập thông tin ................................................................. 6
II. Phần 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................ 7
1. Mức độ nhận biết các ứng dụng hẹn hò trực tuyến, đặc biệt là Tinder của
sinh viên Việt Nam. ............................................................................................ 7
2. Lý do tải và sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder của sinh viên Việt
Nam……………………………………………………………………………10
3. Những loại mối quan hệ mà sinh viên Việt Nam tìm kiếm khi sử dụng ứng
dụng hẹn hò trực tuyến Tinder....................................................................... 14
4. Sự liên quan giữa lý do sử dụng và loại mối quan hệ được sinh viên Việt
Nam tìm kiếm trên ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder. ............................ 16
III. Phần 3: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ............................................................ 19
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................... 21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 22
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, Ả B NG SỐ L Ệ
I U, HÌNH ẢNH ĐÃ SỬ DỤNG ........... 23 1
1. A. PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC – ĐÁNH GIÁ NHÓM
CHỦ ĐỀ: NGHIÊN CỨU HÀNH VI SỬ DỤNG ỨNG DỤNG HẸN
HÒ TRỰC TUYẾN, CỤ THỂ LÀ ỨNG DỤNG HẸN HÒ TRỰC
TUYẾN TINDER CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM
Lớp: Truyền thông Marketing K41A1 – Nhóm 4 STT H và tên
Đánh giá nhiệm vụ đã phân công ĐIỂM 1 Nguyễn Thế Minh
Nhóm trưởng hoàn thành nhiệm vụ 1.7 Kiên
giao bài tập và đốc thúc tiến độ làm
việc của cả nhóm.
Tham gia năng nổ vào quá trình xây
dựng đề tài chung của cả nhóm.
Còn hạn chế trong trong quá trình
phân chia bài tập nhóm gây khó
nắm bắt thông tin cho các thành viên. 2
Nguyễn Thị Phương Hoàn thành đúng hạn nộp bài tập, 1.65 Linh
tham gia năng nổ đóng góp ý kiến. 3 Nguyễn Thị Hồng
Hoàn thành đúng hạn nộp bài tập, 1.7 Thắm
có tham gia nhưng không tích cực 2
đóng góp xây dựng bài trong quá
trình làm bài tập nhóm. 4 Đàm Mai Linh
Hoàn thành đúng hạn nộp bài tập, có 1.7
đóng góp trong việc tìm tài liệu có giá trị tham khảo. 5
Nguyễn Thu Trang Hoàn thành đúng hạn nộp bài tập, 1.7
cùng với nhóm trưởng tích cực tham
gia và theo dõi quá trình xây dựng đề tài chung của cả nhóm. 6 Nguyễn Hoàng
Hoàn thành đúng hạn nộp bài tập. Tuy 1.5 Minh
nhiên không tích cực tham gia vào quá
trình hoàn thiện bài tập chung của cả
nhóm, chất lượng bài tập không cao. 7 Nghiêm Diệp Nhi
Hoàn thành bài tập đúng hạn, có tham 1.65
gia nhưng không tích cực vào quá
trình xây dựng đề tài chung của nhóm. 3 B. BÁO CÁO CÁ NHÂN
I. Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu nội dung báo cáo
Hẹn hò trực tuyến là một thuật ngữ không còn xa lạ đối với giới trẻ ngày nay. Vấn
đề hẹn hò ở tuổi sinh viên vẫn luôn đóng vai trò là một mắt xích quan trọng trong hành
trình tìm kiếm tình bạn, tình yêu, hôn nhân và gia đình trong cuộc đời của mỗi con
người. Đặc biệt, với sự phát triển vượt bậc của công nghệ số ở thời điểm hiện tại, chính
điều này đã góp phần trở thành một nguồn ý tưởng dồi dào cho các nhà sáng lập. Các
ứng dụng hẹn hò trực tuyến liên tiếp được xuất hiện và nhanh chóng trở nên phổ biến,
có thể kể đến như: OkCupid, Tinder, Bumble, Badoo,... Khác với hoạt động hẹn hò
truyền thống thông thường, những ứng dụng này cho phép bỏ qua trình tự các bước
phức tạp để thiết lập một mối quan hệ. Thay vào đó, chỉ với vài thao tác đơn giản, dễ
thực hiện trên màn hình cảm ứng, người dùng hoàn toàn có thể chủ động tìm kiếm,
chọn lọc đối tượng ghép cặp tiềm năng một cách nhanh chóng và chính xác.
Hòa mình vào nhịp sống hối hả của thời đại, thế hệ trẻ hiện nay ngày càng bận rộn
theo đuổi công danh và sự nghiệp, không còn đủ thời gian cho việc vun đắp tình cảm
đôi lứa. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của đại dịch toàn cầu, giãn cách xã hội đã khiến nhiều
người trẻ sử dụng các nền tảng hẹn hò trực tuyến như một phương tiện để kết nối với
mọi người. Các ứng dụng này không chỉ giúp tiết kiệm năng lượng, tiền bạc mà còn
nhân lên gấp bội cơ hội tìm thấy nửa kia của cuộc đời.
Nắm bắt được xu hướng này, Tinder nổi lên trên thị trường như một cái tên tiên
phong làm thay đổi bộ mặt của văn hóa hẹn hò. Từ khoảng đầu năm 2019 đến nay,
Tinder thịnh hành ở Việt Nam với số lượng người dùng khổng lồ, đặc biệt chiếm hơn
một nửa trong số thuộc nhóm tuổi sinh viên. Nổi tiếng với câu khẩu hiệu: "It starts with
a swipe", tạm dịch là "Tình yêu bắt đầu từ lần quẹt". "Quẹt" là kỹ thuật được Tinder áp
dụng nhằm khuyến khích người dùng chủ động đưa ra quyết định cũng như định hình 4
xu hướng lựa chọn đối tượng phù hợp với bản thân bằng cách xây dựng hồ sơ cá nhân
bao gồm những thông tin sơ lược như tên, tuổi, trình độ học vấn, phạm vi sinh sống,
ảnh (ngoại hình) và lời giới thiệu (sở thích/tính cách/loại mối quan hệ cần tìm). Nếu hồ
sơ được người dùng quẹt trái tức là bị bỏ qua/không thích thì ngược lại, hai hồ sơ đều
được quẹt phải lẫn nhau sẽ tạo nên sự tương hợp. Từ đó, hai người có thể bắt đầu cuộc
hội thoại với nhau qua tin nhắn và tiến đến hình thành một mối quan hệ trong tương lai.
Dựa trên tình hình thực tế cho thấy một lượng lớn các sinh viên tại các trường cao
đẳng, đại học ở Việt Nam được ghi nhận đã và đang sử dụng Tinder, nhóm chúng em
quyết định lựa chọn đề tài: "Nghiên cứu hành vi sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến,
cụ thể là ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder của sinh viên Việt Nam" nhằm trả lời
những câu hỏi về động lực thúc đẩy, quá trình trải nghiệm thực tế và ảnh hưởng tốt/xấu
lên sinh viên thông qua trải nghiệm trực tuyến trên Tinder. Việc Tinder dần trở nên phổ
biến đồng thời đã làm bộc lộ những khía cạnh khác nhau đến từ chính lý do sử dụng
ứng dụng này. Trong quá trình thực hiện khảo sát, em phát hiện có rất nhiều động cơ
đằng sau hành vi tải và sử dụng Tinder, ngoài việc đơn thuần chỉ tìm kiếm tình yêu.
Trong số đó không phải động cơ nào cũng dẫn tới mối quan hệ tích cực, do đó em lựa
chọn "Phân tích sự liên quan giữa lý do tải và loại mối quan hệ được tìm kiếm trên
Tinder của sinh viên Việt Nam nhằm đi sâu vào làm rõ động cơ sử dụng ứng dụng hẹn
hò trực tuyến này." làm đề tài cho báo cáo cá nhân của mình để có cái nhìn toàn diện
và tổng quan hơn về thực trạng hành vi cũng như nâng cao nhận thức về động cơ sử
dụng Tinder lành mạnh, nhằm hướng tới xây dựng môi trường hẹn hò trực tuyến an toàn, văn minh.
2. Câu hỏi nghiên cứu chính
Nghiên cứu hướng tới làm rõ các vấn đề sau:
- Mức độ nhận biết của sinh viên đối với các ứng dụng hẹn hò trực tuyến? 5
- Lý do tải và sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder của sinh viên?
- Loại mối quan hệ mà sinh viên tìm kiếm trên ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder của sinh viên?
- Sự liên quan giữa lý do tải và loại mối quan hệ được tìm kiếm trên ứng dụng hẹn
hò trực tuyến Tinder nhằm hiểu rõ động cơ sử dụng của sinh viên?
3. Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học: Cơ sở phương pháp luận dựa trên quan
điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và đường lối
của Đảng, Nhà nước về báo chí và lý thuyết xã hội học truyền thông, cơ sở luận
báo chí học, lý thuyết công chúng và nghiên cứu công chúng báo chí - truyền
thông, tâm lý học báo chí nhằm phục vụ thao tác hóa khái niệm.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Tiến hành thu thập thông tin, dữ liệu thông
qua bảng hỏi Anket nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu. Sử dụng một bảng câu
hỏi in sẵn với đa dạng cách đo lường câu trả lời thực hiện trên sinh viên từ các
trường đại học, cao đẳng tại Việt Nam, sau ba tuần điều tra trên công chúng mục
tiêu, nhóm thu được 135 câu trả lời. Đây là phương pháp giúp thu thập dữ liệu
thực tế phục vụ mục đích nghiên cứu.
- Phương pháp chọn mẫu: Trong phạm vi tối đa mà khả năng tiếp cận cho phép,
nhóm chúng em đã sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Số lượng sinh
viên trả lời bảng hỏi được chọn ngẫu nhiên, do đó số liệu có thể không được phân
bố đồng đều và rộng rãi.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Dựa trên số liệu đã được thu thập quan bảng
hỏi và các hình thức khác, phương pháp tổng hợp và phân tích sẽ rút ra được sự
so sánh hay điểm chung nhất giữa các yếu tố, đồng thời phát hiện những sự thật
ngầm hiểu đằng sau hành vi sử dụng Tinder của sinh viên. 6
- Phương pháp quan sát: Đây là phương pháp nhằm đi sâu vào tìm hiểu hành vi
sử dụng Tinder của sinh viên một cách trực quan nhất. Kết quả quan sát sẽ được
phục vụ cho cơ sở cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê, đồ thị, mô hình hóa: Tổng hợp các số liệu thu thập được
dưới dạng những biểu đồ tổng quát để dễ dàng có được tỷ lệ, từ đó có được sự
so sánh, rút ra cái nhìn tổng quan và toàn diện hơn.
II. Phần 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Mức độ nhận biết các ứng dụng hẹn hò trực tuyến, đặc biệt là Tinder của sinh viên Việt Nam.
Dựa trên kết quả điều tra trên 135 sinh viên đến từ các trường cao đẳng, đại học
tại Việt Nam, khảo sát cho thấy hầu hết sinh viên đều nhận biết được từ hai đến ba ứng
dụng hẹn hò trực tuyến khác nhau đang thịnh hành trong thời điểm hiện tại. Số lượng
người dùng đông đảo của các ứng dụng này đồng thời cũng chủ yếu đến từ nhóm đối
tượng học sinh, sinh viên. Đây là điều kiện thuận lợi giúp mở ra cơ hội cho người nghiên
cứu đi sâu vào làm rõ, phân tích việc sử dụng các ứng dụng hẹn hò trực tuyến cũng như
động cơ đằng sau thúc đẩy hành vi này.
Bạn đã và đang sử dụng những ứng dụng nào? 3% 12% Tinder 5% Bumble Facebook Da ng 59% Litmatch 21% Waodate 7
Biểu đồ 1. Mức độ nhận biết của sinh viên Việt Nam đối với các ứng dụng hẹn hò trực tuyến.
Chiếm tỷ lệ số người bình chọn lên đến 59% là ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder.
Là một ứng dụng toàn cầu được ra mắt vào năm 2012 bởi nhà sáng lập người Mỹ gốc
Iran, Sean Rad, Tinder nhanh chóng trở thành cầu nối gắn kết các cặp đôi được lựa
chọn nhiều nhất. Nổi tiếng ở Việt Nam từ những năm bùng nổ đại dịch Covid-19, Tinder
luôn là cái tên nóng được phủ sóng rộng khắp trên các nền tảng mạng xã hội hay trong
các cuộc hội thoại của thanh niên. Theo một thống kê được thực hiện bởi chính ứng
dụng này, thời điểm đại dịch diễn biến phức tạp tại Việt Nam đã chứng kiến nhu cầu
tìm bạn và hẹn hò trực tuyến nhảy vọt, đặc biệt là ở thế hệ gen Z (tuổi từ 18-25), chiếm
đến hơn 50% số người dùng. Mặc dù xu hướng hẹn hò qua mạng vẫn còn chứa đựng
nhiều nguy cơ tiềm ẩn rủi ro nhưng nhìn chung, giới trẻ đều có tâm lý cởi mở trong việc
nói chuyện và làm quen với người mới thông qua màn hình điện tử. Có thể nhận thấy
trong thời đại ngày này, phần lớn những mối tình sinh viên đều được se duyên bởi Tinder.
Hình 1. Poster quảng cáo ứng dụng hẹn hò Tinder 8
Với 21% số lượt bình chọn, vị trí thứ hai thuộc về Bumble. Thành lập bởi Whitney
Wolfe Herd, Bumble được mệnh danh là ứng dụng hẹn hò trực tuyến dành riêng cho
đặc quyền nữ giới. Tuy có giao diện giống với Tinder, Bumble vượt trội hơn với tính
năng gây ấn tượng: "Women make the first move", tạm dịch là phụ nữ mới có quyền
bắt chuyện trước. Ý tưởng độc đáo nay đã đánh trúng vào mặt trái của Tinder - nạn
quấy rối tình dục ở nữ giới. Ngoài những thông tin cơ bản, Bumble còn hé lộ cả những
tính cách ở người dùng qua hàng loạt các câu hỏi trắc nghiệm chuyên sâu. Tuy không
phổ biến ở thị trường Việt Nam như Tinder, Bumble vẫn là cái tên được đánh giá cao
hơn đối thủ của mình bởi việc xây dựng những mối quan hệ chất lượng, an toàn và lành mạnh.
Hình 2. Poster quảng cáo ứng dụng hẹn hò Bumble
Theo sau đó là Litmatch, Facebook Dating và Waodate, chiếm tỷ lệ dưới 13%.
Đến từ Trung Quốc, Litmatch (12%) là ứng dụng hẹn hò, kết bạn ẩn danh được nhiều
người trẻ ưa thích. Mặc dù mới gia nhập vào thị trường Việt Nam, ứng dụng này đã đẩy
mạnh truyền thông, quảng cáo hướng tới đối tượng mục tiêu là học sinh, sinh viên.
Tương tự Litmatch, ra mắt vào khoảng đầu tháng 5 năm 2019, Facebook Dating (5%)
là cái tên sinh sau đẻ muộn so với hiện tượng nổi tiếng Tinder. Dựa trên lợi thế được 9
tích hợp với siêu ứng dụng toàn cầu Facebook, Facebook Dating là tính năng hẹn hò
được khá nhiều người dùng đến từ nhiều độ tuổi khác nhau ở Việt Nam ủng hộ tuy
nhiên số lượng thanh niên được ghi nhận là không nhiều. Cuối cùng, Waodate (3%) là
ứng dụng được ít người thực hiện khảo sát biết đến nhất. Giống với những lý do kể trên,
Waodate tập trung vào nhóm người dùng ở độ tuổi trưởng thành, có công việc, thu nhập
ổn định và mong muốn được hẹn hò kết đôi thực tế ngoài đời thực.
Tựu chung lại, người trẻ Việt Nam là nhóm đối tượng nhanh nhạy nhất trong việc
cập nhật các nền tảng số, vì thế nhận biết được khá nhiều các ứng dụng hẹn hò đang
thịnh hành trên thị trường ngày nay. Điều đó cũng cho thấy sinh viên Việt Nam dành
sự quan tâm lớn đến vấn đề hẹn hò trực tuyến và có nhu cầu kết nối lẫn nhau qua màn
hình điện tử. Từ đây động cơ thúc đẩy hành vi sử dụng của sinh viên đối với các ứng
dụng hẹn hò dần được bộc lộ, trở thành đề tài cho các nhà truyền thông khai thác và nghiên cứu.
2. Lý do tải và sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder của sinh viên Việt Nam.
Theo thống kê được thực hiện trên 5.19%
135 người được khảo sát trả lời câu
hỏi: "Bạn có đã và đang sử dụng ứng
dụng hẹn hò trực tuyến Tinder Có
không?", nhóm rút ra được 128 câu Không 94.81%
trả lời "Có", chiếm đến 94.81% và
chỉ 7 câu trả lời "Không", chiếm 5.19%.
Biểu đồ 2. Mức độ tải và sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder của sinh viên Việt Nam. 10
Từ đó, nhóm đi đến khảo sát sâu hơn nhằm trả lời câu hỏi: "Động lực nào thúc đẩy
hành vi sử dụng Tinder của sinh viên?" Các phản hồi này cho thấy có rất nhiều động
cơ được sinh viên đưa ra đằng sau lựa chọn tải và sử dụng Tinder, phần lớn trong số đó
được ngầm hiểu đến từ tâm lý cô đơn và áp lực xã hội.
Bảng 1. Lý do tải và sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder của sinh viên Việt Nam. STT Động cơ N Tỷ Xếp lệ hạng 1
Tò mò, giết thời gian cho vui 9 7 6 2 Cô đơn, buồn chán 51 40 1 3
Bắt trend, chạy theo xu hướng 13 10 4 4
Thể hiện, quảng bá bản thân 10 8 5
5 Được nói chuyện, làm quen dễ dàng, thoải mái hơn 19 15 3 các hình thức khác 6
Chủ động tìm kiếm người hấp dẫn, hợp gu 26 20 2
Theo số liệu thống kê, có thể nhận thấy tâm lý cô đơn, buồn chán là lý do hàng
đầu được các bạn sinh viên lựa chọn, với 51 lượt, chiếm 40%. Điều này là khá dễ hiểu
nếu xét đến tình hình thực tế rằng hầu hết các sinh viên theo học cao đẳng, đại học đều
rời xa gia đình, nhà trường và bạn bè thân thiết để bắt đầu một cuộc sống tự lập. Việc
chủ động tìm kiếm và thiết lập những mối quan hệ ở một môi trường mới là không hề
đơn giản đối với một bộ phận sinh viên bởi lẽ, tình bạn ở đại học theo nhận định chung
là không thể hiện sự gắn bó, khăng khít như thường thấy ở các cấp học khác. Ngoài ra, 11
trong tâm lý học hành vi, lứa tuổi sinh viên còn chứng kiến sự xuất hiện của khủng
hoảng tuổi 20 hay còn được gọi là khủng hoảng ¼ cuộc đời, người trẻ ở giai đoạn này
vừa loay hoay định nghĩa bản ngã của bản thân lại vừa phải chịu trách nhiệm cho tương
lai phía trước. Chính bởi những lý do kể trên mà không ít sinh viên rơi vào trạng thái
cô đơn và lạc lõng, đây cũng là động cơ chủ yếu dẫn tới hành vi tải và sử dụng Tinder.
Như đã phân tích ở trên, việc tạo dựng những mối quan hệ ở môi trường đại học
không phải là điều đơn giản đối với tất cả các bạn trẻ. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh
mẽ và phổ biến rộng khắp của các loại thiết bị điện tử, điện thoại thông minh, mạng xã
hội đã phần nào làm phai mờ đi cơ hội được gặp gỡ, giao lưu hay những hoạt động thực
tế gắn kết lẫn nhau của sinh viên. Do vậy, Tinder xuất hiện như một giải pháp hữu hiệu
trong việc chủ động tìm kiếm bạn bè, người yêu hấp dẫn, thú vị và hợp gu. Đây cũng
chính là động cơ được bình chọn nhiều thứ hai trên bảng xếp hạng bởi 26 sinh viên,
chiếm tỷ lệ 20%. "Đúng người, sai thời điểm" được cho là một khái niệm tình yêu
không xuất hiện trên Tinder. Ứng dụng này không những khuyến khích việc chủ động
trong việc tìm kiếm, chọn lọc nửa kia sao cho phù hợp với tiêu chí của bản thân mà còn
cho phép người dùng nhanh chóng chấm dứt với đối tượng làm quen không mong muốn.
Theo ngay sau đó, "Được nói chuyện, làm quen dễ dàng, thoải mái hơn các hình
thức khác" được 19 lượt bình chọn, chiếm 15%. Với Tinder, người dùng được tự do,
thoải mái giao tiếp, làm quen đối phương mà không cần đến chỗ đông người, vừa tiết
kiệm được thời gian, năng lượng và tiền bạc đồng thời lại góp phần bỏ qua cảm giác
lúng túng, ngại ngùng vào lần đầu gặp gỡ thực tế do đã có giai đoạn tìm hiểu qua mạng
trước đó. Điều này đã đặc biệt gây ấn tượng đối với những bạn trẻ có tính cách có phần
còn tự ti, rụt rè, bảo thủ.
Đứng ở vị trí thứ tư trên bảng tổng sắp, được 13 số lượt bình chọn, chiếm 10%,
“chạy theo xu hướng” hay "bắt trend" là một thuật ngữ quen thuộc đối với giới trẻ. Khi 12
đại dịch Covid 19 bùng phát ở Việt Nam, các chỉ thị giãn cách xã hội liên tiếp được
thực hiện, Tinder đã ghi nhận số người sử dụng tăng đột biến. Thời điểm này, Tinder
là từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất bởi tất cả mọi người. Không chỉ sinh viên, thành
phần đông đảo học sinh cấp 3 và người đi làm cũng là nhóm đối tượng tiếp cận Tinder
vì ảnh hưởng bởi xu hướng. Hiện nay, khi tình hình dịch bệnh được kiểm soát, mặc dù
đã chứng kiến những dấu hiệu hạ nhiệt, Tinder vẫn là luôn lựa chọn hàng đầu của sinh
viên khi hẹn hò qua mạng.
"Tò mò, giết thời gian", "Thể hiện, quảng bá bản thân" là những lý do còn lại được
khá ít tỷ lệ bình chọn, dưới 9%, tương ứng khoảng 10 lượt. Giới trẻ ngày nay thuộc thế
hệ Z (18-25 tuổi), được sinh ra và lớn lên cùng với quá trình hình thành và phát triển
của công nghệ số, mạng Internet. Điều này đã dẫn tới việc lạm dụng và lệ thuộc vào
màn hình điện tử thường thấy ở một bộ phận thanh thiếu niên. Do đó, việc sinh viên sử
dụng Tinder như một mạng xã hội để giải trí hay giết thời gian cũng là điều hoàn toàn dễ hiểu.
Mặt khác, một số ít câu trả lời khảo sát lại cho thấy mục đích phía sau những trang
cá nhân trên Tinder lại nhằm vào việc thể hiện và quảng bá hình ảnh bản thân, phục vụ
lợi ích cá nhân. Đáng nói là chính những hồ sơ trực tuyến này đã gây ra áp lực đồng
trang lứa lên sinh viên. Đây là hiện tượng tâm lý thường được bắt gặp phổ biến trên các
nền tảng mạng xã hội. Ở trường hợp của Tinder, thay vì tìm kiếm tình yêu chân thành,
sinh viên lại càng cảm thấy cô độc, tự ti, bất mãn, kém cỏi, lòng tự trọng giảm sút khi
bắt gặp những hình ảnh trên mạng của bạn bè xung quanh có phần quá hạnh phúc, hoàn
hảo và hào nhoáng. Sinh viên có thể so sánh mình với người khác dựa trên các đặc điểm
ngoại hình và sức hấp dẫn của họ, dẫn đến việc hạ thấp sự tự tin, giá trị của bản thân,
cũng như nảy sinh phức cảm tự ti về hình ảnh cơ thể. Từ đó gây nên những hệ lụy tâm
lý không đáng có cho người sử dụng rằng sự thất bại trong chuyện tình cảm hay những
tiêu cực qua quá trình trải nghiệm Tinder là do bắt nguồn từ bản thân họ. 13
3. Những loại mối quan hệ mà sinh viên Việt Nam tìm kiếm khi sử dụng ứng
dụng hẹn hò trực tuyến Tinder.
Bảng 2. Mối quan hệ được sinh viên Việt Nam tìm kiếm khi sử dụng ứng dụng
hẹn hò trực tuyến Tinder. STT Loại mối quan hệ N Tỷ Xếp lệ hạng 1 Người tâm sự 77 60 1 2 Người yêu 19 15 2 3 Bạn đời 13 10 3 4
Mối quan hệ qua đường (Bạn tình, tình một đêm) 13 10 3 5 Khác 6 5 4
Phù hợp với đa phần các động cơ kể trên, "Người tâm sự" là suy nghĩ hàng đầu
của sinh viên khi tìm kiếm một mối quan hệ trên Tinder, chiếm đến 60%. Trong trường
hợp này, vì lý do cô đơn và buồn chán nhưng lại không có nhu cầu bước vào một mối
quan hệ rõ ràng, chính thức, sinh viên đơn thuần chỉ mong muốn có người để trò chuyện,
chia sẻ niềm vui, nỗi buồn hay những khó khăn, áp lực trong cuộc sống. Nói chuyện
với người không quen biết, chưa từng gặp mặt ngoài đời không chỉ làm giảm cảm giác
cô đơn, tăng sự đồng cảm mà còn giúp sinh viên thoải mái bày tỏ bản thân và những
điều thầm kín mà không sợ bị chỉ trích hay phán xét. Từ đó có thể nhận lại được những
lời khuyên hữu ích từ những người lạ giàu kiến thức và trải nghiệm. Người tâm sự đa
số là bạn bè hoặc có thể phát triển thành người yêu trong tương lai. 14
15% sinh viên có nhu cầu kết đôi qua quá trình làm quen trên Tinder, khiến "Người
yêu" trở thành loại mối quan hệ được bình chọn nhiều thứ hai trên bảng xếp hạng. Để
gợi ý được đối tượng ghép cặp tiềm năng, Tinder yêu cầu người dùng điền rõ loại mối
quan hệ phù hợp theo nhu cầu của mình trên hồ sơ/tiểu sử. Sau khi nhận thông báo
tương hợp, sinh viên thường lựa chọn chia sẻ một vài thông tin cá nhân như công việc,
nghề nghiệp, sở thích,... để tìm hiểu lẫn nhau. Khung chat tin nhắn là không gian riêng
của hai người, đây cũng là nơi những mặt trái của Tinder bộc lộ, phải kể đến những
đoạn hội thoại độc hại mang tính chất quấy rối tình dục bằng lời nói, những bình luận
tiêu cực, phản cảm, miệt thị ngoại hình, phân biệt chủng tộc cùng nguy cơ bị lộ hoặc bị
phát tán hình ảnh/ thông tin cá nhân,... Chính bởi vậy, sinh viên luôn cần cẩn thận khi
tiết lộ thông tin riêng tư, tránh các dấu hiệu lửa đảo qua mạng và tin vào trực giác của
bản thân hay bạn bè khi quyết định có nên gặp mặt trực tiếp đối phương hay không.
Khi cảm thấy có sự kết nối và quan tâm giữa hai người, sinh viên tiến tới giai đoạn hẹn
hò trực tiếp và xây dựng mối quan hệ đôi lứa lâu dài.
Đồng xếp hạng ở vị trí thứ ba là "Bạn đời" và "Mối quan hệ qua đường, bạn tình,
tình một đêm", với 13 lượt bình chọn, chiếm 10%. Bạn đời hay vợ/chồng là vấn đề của
hôn nhân và gia đình, là bước tiến lớn so với tình cảm lãng mạn. Tình yêu giờ đây
không còn là vấn đề duy nhất giữa hai người yêu nhau mà gắn vào đó còn là hai từ trách
nhiệm và bổn phận. Do vậy khi tìm kiếm bạn đời, dù qua Tinder hay các hình thức khác
như mai mối, xem mắt,... người trẻ ít nhiều đều phải trải qua thời gian thực tế ở bên
nhau. Thời đại công nghệ số ngày nay đã ghi nhận không ít những đám cưới được tổ
chức và các cặp đôi uyên ương nên duyên vợ chồng nhờ chính ứng dụng hẹn hò trực tuyến này.
"Những mối quan hệ qua đường, bạn tình, tình một đêm" qua điều tra ở sinh viên
cho kết quả không nhiều (5%), nhưng vẫn tồn tại. Những mối quan hệ này không xuất
phát từ tình yêu mà đến từ tình dục. Chúng không được coi là hành vi xấu nếu được 15
làm chủ và nhận thức toàn diện. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng vì những lý do như tính
chất công việc bận rộn, khắc nghiệt cùng hoàn cảnh sinh sống không ổn định, phức tạp
không cho phép cá nhân dành thời gian, công sức và tình cảm để nuôi dưỡng tình yêu
với một người khác, họ sẽ có xu hướng lựa chọn những mối quan hệ qua đường, hời
hợt để thỏa mãn nhu cầu về thể xác. Ngoài ra, tình một đêm, bạn tình còn được cho là
phù hợp với tuýp người phong trần, thích phiêu lưu, vui vẻ và không muốn bị ràng buộc
vào bất cứ một mối quan hệ nào. Như vậy, tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy và sự tự
nhận thức mà tìm kiếm mối quan hệ qua đường có trở thành hành vi xấu độc và gây
nên những hệ quả tâm lý cho sinh viên hay không.
4. Sự liên quan giữa lý do sử dụng và loại mối quan hệ được sinh viên Việt
Nam tìm kiếm trên ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder.
Bảng 3. Sự liên quan giữa lý do sử dụng và loại mối quan hệ được sinh viên
Việt Nam tìm kiếm trên ứng dụng hẹn hò Tinder. Động cơ Loại mối quan hệ
Tò mò, giết thời gian cho vui
Người tâm sự, bạn trò chuyện
Được nói chuyện, làm quen dễ dàng,
Người tâm sự, người yêu, bạn đời
thoải mái hơn các hình thức khác
Chủ động tìm kiếm người hợp gu Người yêu, bạn đời
Chạy theo xu hướng, “bắt trend”
Người tâm sự. người yêu, mối quan hệ qua
đường (bạn tình, tình một đêm,...) Cô đơn buồn chán
Người tâm sự. người yêu, mối quan hệ qua
đường (bạn tình, tình một đêm,...) 16
Thể hiện bản thân, quảng bá bản thân
Người yêu, mối quan hệ qua đường (bạn tình, tình một đêm,...)
Lý do tải và loại mối quan hệ được tìm kiếm trên Tinder là hai yếu tố đồng thời
vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau, bổ sung và tác động lẫn nhau. Mục đích
khi phân tích hai yếu tố này là nhằm hướng tới cách nhìn nhận tổng quan và toàn diện
hơn về động cơ sử dụng ứng dụng hẹn hò trực tuyến Tinder của sinh viên Việt Nam.
"Người tâm sự" là đối tượng được sinh viên trả lời khảo sát hướng tới nhiều nhất
trên Tinder. Ghi nhận từ số liệu cho thấy mối quan hệ này phần lớn có sự liên kết chặt chẽ tới những l
ý do tải và sử dụng sau: "Tò mò, giết thời gian cho vui", "Cô đơn, buồn
chán", "Được nói chuyện, làm quen dễ dàng, thoải mái hơn các hình thức khác" và
"Chạy theo xu hướng". Đây cũng chính là loại mối quan hệ được xem là an toàn và lành
mạnh nhất. Sinh viên mà tìm kiếm người tâm sự trên Tinder vì mong muốn được lắng
nghe, thấu hiểu thường sẽ theo đuổi những cuộc đối thoại mang tính chất sâu sắc,
nghiêm túc và có giá trị. Bên cạnh đó, họ cũng chủ động tránh xa loại chủ đề hời hợt,
vô nghĩa, chẳng hạn như tin nhắn/hình ảnh gạ gẫm, dung tục, phản cảm hay xúc phạm, quấy rối,…
Tương tự “Người tâm sự”, "Người yêu", "Bạn đời", đều là mối quan hệ có ý
nghĩa không thể thiếu trong cuộc đời của mỗi con người. Chúng khuyến khích người
trẻ theo đuổi tình yêu một cách trong sáng và chân thành. Chính vì thế khi lấy những
mối quan hệ này làm động lực thúc đẩy hành vi sử dụng, sinh viên sẽ tiếp cận Tinder
với những lý do lành mạnh, hợp lý như "Được nói chuyện, làm quen dễ dàng, thoải mái
hơn các hình thức khác" và "Chủ động tìm kiếm người hợp gu".
Như đã phân tích ở phần trên, việc tìm kiếm những mối quan hệ qua đường như
bạn tình, tình một đêm không phải là một hành vi xấu nếu nó được hình thành từ những
động cơ phù hợp, dưới sự nhận thức tỉnh táo và hiểu biết toàn diện của sinh viên. 17
Tuy nhiên trên thực tế, có rất nhiều nguyên nhân khiến cho sinh viên tìm đến loại
mối quan hệ kém lành mạnh này, đầu tiên phải kể đến tâm lý cô đơn, buồn chán mà
xuất phát điểm là từ áp lực xã hội. Tuổi thanh xuân là quãng thời gian tươi đẹp và tràn
đầy sức sống nhất trong cuộc đời mỗi con người. Tuy nhiên nó lại chứa trong đó vô số
những áp lực vô hình. Ngoài áp lực về học tập, tài chính, công việc tương lai, áp lực
đôi lứa cũng được cho là không hề nhỏ và đáng được lưu tâm. Khi được đặt trong môi
trường mà bạn bè xung quanh đều có người yêu, cộng thêm khuôn mẫu của gia đình,
xã hội về tiêu chí độ tuổi cần phải đạt được tình yêu đôi lứa, hôn nhân và gia đình,
không ít các bạn trẻ đã tìm đến Tinder như một phương tiện nhằm xoa dịu áp lực. Điều
này vô hình trung càng làm gia tăng thêm tâm lý cô đơn và lạc lõng vốn hiện hữu ở lứa
tuổi sinh viên. Những mối quan hệ qua đường, hời hợt dựa trên động cơ tiêu cực này
không những không khỏa lấp được nỗi cô đơn, lẻ loi cùng áp lực xã hội, áp lực đồng
trang lứa mà còn khiến nỗi cô đơn trở nên sâu sắc hơn, gây nên những hệ lụy tâm lý
như căng thẳng thần kinh, âu lo, giảm sự cam kết, đánh mất niềm tin và lãng phí cơ hội
vào một mối quan hệ thực chất. Hơn nữa, sinh viên có thể thậm chí rơi vào lối sống
phóng túng, bỏ bê, vô trách nhiệm và lạm dụng Tinder.
Ngoài ra, "thể hiện bản thân", "chạy theo xu hướng/bắt trend" cũng là những lý
do được đánh giá là tiêu cực, kém lành mạnh khi liên quan tới các mối quan hệ qua
đường. Nhiều sinh viên có xu hướng lựa chọn bạn tình, tình một đêm như một cách để
thể hiện, khoe khoang với người khác khi cho rằng những trải nghiệm trên sẽ mang lại
cảm giác hài lòng, tự hào và thỏa mãn về bản thân. Điều này đã tạo nên một xu hướng
độc hại trên Tinder. Khi bị ảnh hưởng hoặc chạy theo xu hướng, một bộ phận sinh viên
đã vô thức bình thường hóa hoặc xem nhẹ những tác hại của loại mối quan hệ này.
Như vậy, nhìn chung mặt trái của Tinder không chỉ đơn giản đến từ bản chất của
ứng dụng mà còn do chính hành vi sử dụng đến từ những động cơ tiêu cực, lệch lạc,
thiếu hiểu biết của một số người dùng. 18
Trên đây là sự liên quan giữa lý do tải, sử dụng và loại mối quan hệ được tìm
kiếm trên Tinder, nhằm làm rõ đầy đủ các khía cạnh của động cơ sử dụng ứng dụng hẹn
hò trực tuyến Tinder của sinh viên Việt Nam.
III. Phần 3: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Dựa trên số liệu điều tra, có thể thấy sinh viên Việt Nam không chỉ nhận biết được
khá nhiều các ứng dụng hẹn hò trực tuyến trên thị trường ngày nay mà còn là bộ phận
tham gia vào quá trình tải và sử dụng đông đảo nhất. Ngoài những phản hồi về trải
nghiệm hẹn hò, làm quen qua Tinder, động cơ thúc đẩy và loại mối quan hệ mà sinh
viên tìm kiếm cũng là đề tài nghiên cứu được nhiều người quan tâm.
128 câu trả lời khảo sát đến từ nhóm đối tượng sinh viên trên phạm vi các trường
cao đẳng, đại học ở Việt Nam với đa dạng tiêu chí từ độ tuổi, giới tính, quê quán,... đã
chỉ ra rằng có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tải và sử dụng Tinder. Chúng
có thể đến từ chính gia đình, người thân, bạn bè đồng trang lứa, mạng xã hội hay môi
trường sinh sống. Chính vì vậy, nếu không có nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện
về động cơ sử dụng, người trẻ có thể dễ dàng rơi vào vòng xoáy tiêu cực của các xu
hướng độc hại trên ứng dụng này. Bởi vậy, tôi xin đưa ra một số đề xuất như sau:
- Sinh viên cần đặt giới hạn về lượng thời gian dành cho ứng dụng mỗi tuần hoặc
mỗi ngày để tránh việc lạm dụng.
- Sinh viên nên dành thời gian vào các hoạt động chăm sóc thể chất và tinh thần
để hiểu bản thân cả bên trong lẫn bên ngoài trước khi thực sự có nhu cầu tìm kiếm tình yêu.
- Sinh viên không nên sử dụng ứng dụng hẹn hò như một phương tiện thay thế cho
các tương tác xã hội hoặc hỗ trợ tinh thần trong đời thực.
- Sinh viên không nên sử dụng Tinder chỉ vì ảnh hưởng bởi xu hướng từ bạn bè và những người xung quanh. 19