Phân tích tác phẩm Bức thư của thủ lĩnh da đỏ (Dàn ý + 3 mẫu) - Chân trời sáng tạo

Phân tích tác phẩm Bức thư của thủ lĩnh da đỏ (Dàn ý + 3 mẫu) được biên soạn ra cho các em học sinh tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức để chuẩn bị thật tốt cho kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích tác phm Bức thư ca th lĩnh da đỏ
Dàn ý phân tích tác phm Bức thư ca th lĩnh da đỏ
I. M bài
- Gii thiu v văn bn nht dng (nhng bài viết có ni dung gần gũi, bức
thiết đi vi cuc sống trước mt của con người và cộng đồng xã hội,…).
- Gii thiu v văn bản “Bức thư của th lĩnh da đỏ” (hoàn cảnh ra đời, khái
quát giá tr ni dung và giá tr ngh thuật,…).
II. Thân bài:
1. Những điều thiêng liêng trong kí c của người da đ
- Mảnh đất là người mẹ, bông hoa là ngưi chị, ngưi em.
- Dòng nưc là máu ca t tiên.
- Tiếng thì thm của dòng nước là tiếng nói ca cha ông.
- Ngh thut: so sánh, nhân hóa.
→ Tình yêu thiên nhiên, sự gn bó vi đất đai, môi trường.
2. Nhng lo lng của người da đ nếu bán đất cho ngưi da trng
- H s ly đi trong lòng đất nhng gì h cn.
- Lòng thèm khát ca h s ngu nghiến đất đai.
- H chẳng để ý đến bu không khí mà h hít th.
- Ngh thut: đi lp.
→ Thái độ bo v đất đai và ý thức bo v môi trường t nhiên.
3. Kiến ngh của ngưi da đ
- Phi biết quý trng đất đai.
- Hãy khuyên bảo chúng đất là m.
→ Giọng điệu thng thiết, đanh thép, hào hùng.
→ Khẳng định s cn thiết phi bo v đất đai, môi trưng.
III. Kết bài:
- Khái quát giá tr ni dung và ngh thut của văn bản:
+ Ni dung: Qua bức thư trả li yêu cầu mua đất ca Tng thống Mĩ
Phreng-klin, th lĩnh người da đ Xi-át-tơn,tác giả đã đặt ra mt vấn đ có ý
nghĩa toàn nhân loại: Con người phi sng hòa hp vi thiên nhiên, phải chăm
lo bo v môi trường và thiên nhiên như bảo v mng sng ca mình.
+ Ngh thut: giọng văn truyền cm, so sánh, nhân hóa, đip ngữ,….
- Bài hc cho bn thân: yêu thiên nhiên, gi gìn môi trường,….
Phân tích tác phm Bức thư của th lĩnh da đỏ - Mu 1
Bc thư của th lĩnh da đỏ là một văn bản để li khá nhiu ấn tượng trong lòng
người đọc. Đây là bức thư của th lĩnh da đỏ Xi-át-tơn trả li tng thống Mĩ
Phreng-klin pi-ơ- xơ về vic ông này có ý định mua đất của người da đỏ. Mt
bức thư được viết bng mt văn phong khá độc đáo, trong đó ngưi viết trình
bày quan điểm và bc l tình cm ca mình mt cách đy hàm ý, rt sâu xa,
thâm thuý. Bao trùm lên toàn b bức thư là tình cảm yêu mến quê hương, đất
nước thiết tha, sâu sc, mnh m. Chính tình cm y đã chi phi mch cm xúc
ca bức thư và quan đim ca th lĩnh da đ.
Đối vi th lĩnh Xi-át-tơn và đồng bào ca ông, không có gì thiêng liêng hơn
mảnh đất ca h bởi "Đất là m", nó gn bó máu tht vi h t bao đời nay:
Mảnh đất này là bà m ca ngưi da đ. Chúng tôi là mt phn ca m và m
cũng là mt phn ca chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là những ngưi
chị, người em ca chúng tôi. Nhng mỏm đá, những vũng nước trên đồng c,
hơi ấm ca chú nga con và của con người, tt c đều chung một gia đình.
Hơn nữa, mảnh đất mảnh đất này còn thm đm m hôi và xương máu ca cha
ông h
Dòng nưc óng ánh, êm trôi, dưi nhng dòng sông con suối đâu chỉ
nhng git nưc, mà còn là máu ca t tiên chúng tôi.
Mảnh đất dưi chân chúng (ngưi da trng) là nhng nm tro tàn ca cha ông
chúng tôi... đất đai giàu có đưc là do nhiu mng sng ca chng tc chúng
tôi bi đp nên.
Hình ảnh quê hương đt nưc tr thành hình ảnh thân thương nhất, hn sâu
trong trái tim và kí c h:
Đối vi đng bào tôi, mi tc đt là thiêng liêng, mi lá thông óng ánh, mi b
cát, mi hạt sương long lanh trong những cánh rng rm rp, mỗi bãi đất hoang
và tiếng thì thm ca côn trùng là nhng điều thiêng liêng trong kí c và kinh
nghim của đồng bào tôi. Nhng dòng nha chy trong cây cối cũng mang ký
c ca ngưi da đ.
Trong cm xúc ca th lĩnh Xi-át-tơn, quê hương đất nưc h là mnh đất tht
êm đềm và thơ mộng có tiếng lá cây lay động vào mùa xuân, tiếng v cánh ca
côn trùng vào mùa hè, có tiếng ếch kêu ban đêm trên hồ, có âm thanh êm ái ca
những cơn gió thoảng qua trên mt hồ, có hương thơm của phn thông.
Tâm hn tinh tế nhy cm và s gn bó tha thiết với quê hương đất nước đã
khiến th lĩnh Xi-át--tơn cảm nhận đưc tt c nhng nét bình d nên thơ của
thiên nhiên, ca cuc sng và viết v nó vi mt nim t hào cao độ.
Để trình bày đưc mt cách rõ ràng, sâu sắc quan điểm đất đai ca t tiên là
thiêng liêng, không th đem ra để mua bán, đi chác! và bc l được tình yêu
Đất Mẹ, yêu quê hương đất nưc sâu nng ca mình, tác gi ca bc thư đã sử
dng rng rãi th pháp ngh thuật so sánh, nhân hoá; đồng thời đối lp quan
điểm, tình cm của người da đ với quan đim, tình cm ca ngưi da trng:
Nếu như người da đ coi mảnh đất này là "M", coi mi vt xung quanh mình
là "anh em", thì ni da trng coi chúng là "k thù", là "vật mua được", "tước
đoạt dưc"...
Chính tình cm sâu đậm đối với quê hương đất nưc đã to nên cht tr tình và
sức lay động rt ln ca áng văn chương độc đáo này.
Xut phát đim ca bức thư là lòng yêu quê hương đất nước, nhưng thời gian
trôi đi, bức thư có thêm một giá tr mi; nó tr thành mt trong những văn bn
hay nht v thiên nhiên và môi trường.
Trong bức thư của mình, th lĩnh da đỏ không ch đề cập đến "đất" mà còn đề
cập đến c các hiện tượng có liên quan đến "đất" như: sông, h, rừng, núi, động
thc vt, không khí, ánh nng...Tc là nhng hiện tượng làm cho đất có giá tr,
có ý nghĩa, nhng hiện tượng to nên cái mà ngày nay ta gi là t nhiên và môi
trưng sinh thái.
Ngay t gia thế k XIX, khi t nhiên môi trường sinh thái mi bt đu b đe
da bi s phát trin ca nn công nghip cơ khí và ý thức vô trách nhim ca
con ngưi, th lĩnh Xi-át-tơn đã nhìn thấy nguy cơ của vic vt kit đt đai,
biến nó thành nhng bãi hoang mạc; nguy cơ của nhng tiếng ồn ào lăng mạ
trong tai; nguy cơ ca cuc sống không nghe được âm thanh l loi ca chú
chim đớp mi hay tiếng tranh cãi ca chú ếch ban đêm bên hồ; nguy cơ của bu
không khí b vy bn bi khói ca các nhà máy; nguy cơ cn kit nguồn động
vt quý hiếm...
Theo th lĩnh Xi-át-tơn: không khí quảquý giá, vô cùng quý giá bi không
khí này là ca chung muông thú, cây cối và con người cùng nhau hít th. Và
ông đề ngh người da trng phải cùng người da đỏ gi gìn bu không khí trong
lành: Nếu có bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phi gi gìn và làm cho nó
thành một nơi thiêng liêng cho ngay cả ngưi da trắng cũng có thể thưng thc
được nhng làn gió thm đượm hương hoa đồng ni.
Cũng theo th lĩnh Xi-át-tơn, sự cân bằng sinh thái là điều cn thiết ca cuc
sng, ông đề ngh tiếp người da trng phi đi x vi các muông thú sng trên
mảnh đất này như những người anh em .
Cui cùng, ông cnh báo: Con người là gì, nếu cuc sng thiếu nhng con thú?
Và nếu chúng ra đi, thì con người cũng s chết dn, chết mòn vì ni bun cô
đơn về tinh thn, bởi vì điều gì s xy ra đối vi con th thù cũng sẽ xảy ra đối
với con người. Mi vật trên đời đu có s ràng buc, Đt là M. Điều gì xy ra
đối vi đt đai, tc là xy ra vi nhng đứa con ca Đt.
Ngày nay, nguồn tài nguyên đã b khai thác ti mc cn kiệt, môi trường thiên
nhiên đang bị ô nhim, b tàn phá cc k nghiêm trọng, quan điểm ca th lĩnh
da đỏ v mi quan h gia con ngưi vi thiên nhiên tr thành vấn đề mang
tính thi s nóng hi.
T nhng giá tr trên, Bức thư ca th nh da đỏ mãi mãi chiếm mt v trí
xứng đáng trong văn chương và cuộc sng ca con ngưi.
Phân tích tác phm Bức thư của th lĩnh da đỏ - Mu 2
Bo v thiên nhiên và môi trưng hin nay là vấn đề sống còn đối vi nhân loi.
Tt nhiên phi có s đồng thun và nhng bin pháp có tính cht chiến lược
toàn cầu. Song, để có được những hành động kp thi và hiu qu y, con
người phi t đổi mi v nhn thc. Bc thư của th lĩnh da đ Xi-át-tơn góp
phn tích cực vào tư tưng, tình cm ca chúng ta trên phương din va nêu.
t là m". Luận điểm quan trng này chy sut bài văn, và riêng phần đầu
bức thư, nó mở ra mt quan nim hoàn toàn mi m. Vì sao "mi tấc đất là
thiêng liêng", nghĩa là mt khái nim vt chất đã đưc tinh thn hoá ? Vì mt
mt, "mi lá thông óng ánh, mi b cát, mi hạt sương..." đi với ngưi dân da
đỏ đã trở nên không khí trong lành để sống, để hít th hng ngày. Và mt mt
khác, nó là trí tu, là khái niệm. Đất va là không gian va là thi gian, và tt
c điều này đã trở nên máu tht: "Nhng dòng nha chy trong cây ci cũng
mang trong đó kí ức ca ngưi da đỏ". Câu văn chân thành như một li tâm
nim, mt tiếng nói trung thc tha thiết của lương tâm. Hình ảnh bà m tr đi
tr li nhiu ln đoạn văn nhằm khẳng đnh quan h huyết thống, mà khi đã
có quan h huyết thng thì không th chia ct, tách ri: "Chúng tôi là mt phn
ca m, và m cũng là một phn của chúng tôi". Người vi bông hoa là ch, là
em: người vi mm đá, vũng nước,... đu cùng chung một gia đình. Dòng nưc
đâu ch là nhng giọt nước, nó là "máu ca t tiên chúng tôi". Tiếng thì thm
ca nó chính là "tiếng nói ca cha ông chúng tôi". Luận điểm quan trng này
mt mt phn ánh quan h cng sinh gia con người với môi trưng sng t
buổi sơ khai, nhưng mt mt nó xác nhn mt quy lut trưng tồn: con ngưi
mun tn ti, phi da vào thiên nhiên để tn ti. Và như thế, đồng thi nó d
báo những nguy cơ: con người s t hu dit nếu nhng khế ước thiêng liêng
gia con ngưi với môi trường đã được thiết lp mt cách t nhiên b xâm
phạm. Và không dưới hai ln, khế ưc tinh thn y được gi tên mt cách nôm
na là "kí c của người da đỏ".
Trên cơ sở y, tác gi bức thư gay gắt phê phán li sng thc dng của "ngưi
da trắng" đã đang phá vỡ mi quan h vn thân thin giữa con người với đất,
vi thiên nhiên. H đã thay thế quan h gia đình bằng quan h s hu, quan h
chiếm đoạt. Ly li nhuận làm thước đo, con người tàn bo, ích k và tham lam
t biến mình thành con thú: "Lòng thèm khát ca h s ngu nghiến đất đai, ri
để li đng sau nhng bãi hoang mc". Thế giới mà người da trng to ra là
nhng thành ph rt trái vi t nhiên ch: "chẳng có nơi nào yên tĩnh cả,
chẳng có nơi nào là nghe được tiếng lá cây lay đng vào mùa xuân hay tiếng v
cánh ca côn trùng". Thế là: biến đất đai thành vt bán mua, biến nông thôn
thành đô thị, nhưng quá quắt hơn, họ biến bu không khí vn là ca chung, ca
muông thú, cy, c người da trắng cũng cùng sẻ chia "hít th bu không khí
đó" thành đối tưng chẳng đáng quan tâm. Điều đáng nói đây, cũng tht vô lý
đây: tác giả bức thư lưu ý cả đến quyn li ca những người đi chinh phục,
trong lúc chính k đi chinh phục li chẳng đoái hoài. "Nếu có bán cho Ngài
mảnh đất này, Ngài phi gi gìn và làm cho nó thành một nơi thiêng liêng cho
ngay c người da trắng cũng có thể thưng thc đưc nhng làn gió thm
đượm hương hoa đồng c". ( đoạn trưc: nhng âm thanh của mùa xuân đối
vi h không có ý nghĩa gì hơn là những tiếng ồn ào lăng mạ trong tai). Cách
lp lun dẫn đến cao trào khi người viết bức thư so sánh hai hình ảnh mt thuc
v thiên nhiên, còn mt thuc v nền văn minh hiện đại: "con trâu rng" và
"con nga st nh khói". Nếu xét v phương diện ích li trong giao thông thì:
"con nga st nh khói" là vô địch, là nim t hào. Nhưng nếu ch cn đến nó
mà bn b nhng con trâu rừng thì khi đoàn tàu chạy qua li là mt hành vi t
sát. Câu văn sau đây vưt qua s khp khing ca bin pháp so sánh thông
thường để đạt đến mt s tiên tri, minh triết: "Tôi là k hoang dã, tôi không
hiu ni ti sao mt con nga st nh khói li quan trọng hơn nhiều con trâu
rng mà chúng tôi ch giết đ duy trì cuc sng". Mt câu hi không có hi âm
vì không th có một cách nào đó trả li, vy bản thân nó đã là chân lý, một s
tht hin nhiên.
Phn kết ca bức thư cũng như phần quan trng phía trên không b ràng buc
bi nghi thức bán mua thông thường một vùng đất có th còn rt hoang vu. Cái
chính là thái đ của con người trước sau đối vi đt ra sao ? V ch s hu, nó
có th thuc v người da trắng, nhưng "Ngài phi dy con cháu rng mảnh đất
dưới chân chúng là nhng nm tro tàn ca cha ông chúng tôi", mảnh đt y "do
nhiu mng sng ca chng tc chúng tôi bồi đắp nên", nghĩa là mồ m t tiên
ca ngưi da đỏ. Nhưng cái chính cũng chưa hẳn đã là như thế ! Dù ch s hu
là ai, đi vi người da đỏ và người da trắng: "Đất là Mẹ". Đã là mẹ, đất s yêu
thương đùm bọc mọi đứa con mình. Nhưng có điều: đừng có mt ai xúc phm
ti đất đai. Bởi "Điều gì xy ra vi đất đai tc là xảy ra đối vi nhng đứa con
ca Đt".
Phân tích tác phm Bức thư của th lĩnh da đỏ - Mu 3
Năm 1854, Tổng thng th 14 ca nưc M là Phreng-klin Pi-ơ-xơ tỏ ý mun
mua vùng đất của người da đ để m mang h thống đưng st. Th nh
Xi-át-tơn đã gửi bức thư này để tr lời. Đây là một bức thư ni tiếng, từng được
coi là mt trong những văn bản hay nht v đề tài thiên nhiên và môi tng.
Bng mt giọng văn đy sc truyn cm, cùng vi li s dng phép so sánh,
nhân hoá, điệp ng phong phú, đa dng, tác gi bc thư này đã đặt ra mt vn
đề quan trọng có ý nghĩa toàn cầu: Con ngưi phi sng hòa hp vi thiên
nhiên, phải chăm lo bo v môi trường thiên nhiên như bảo v chính mng
sng ca mình.
Bức thư có thể chia làm ba đoạn:
Đon 1: Quan h ca người da đ đối vi đt, vi thiên nhiên.
Đon 2: S đối lp gia ngưi da đ và ngưi da trng trong cách sng, trong
thái đ đối vi đt đai và thiên nhiên.
Đon 3: Bo v môi trường thiên nhiên chính là bo v cuc sng ca mình.
M đầu bức thư, tác gi đề cập đến đất đai cùng mọi vt liên quan vi nó như
nước, đng vt, thc vt, bu tri, không khí... Tt thy đều thiêng liêng đối vi
người da đ vì đó là kỉ nim ghi sâu trongc:
Đối vi đng bào tôi, mi tc đt là thiêng liêng, mi lá thông óng ánh, mi b
cát, mi hạt sương long lanh trong những cánh rng rm rp, mỗi bãi đất hoang
và tiếng thì thm ca côn trùng là nhng điều thiêng liêng trong kí c và kinh
nghim của đồng bào tôi. Nhng dòng nha chy trong cây cối cũng mang
trong đó kí c ca ngưi da đ.
Không ch là k nim, mảnh đất này còn là bà m ca người da đ. Chúng tôi là
mt phn ca m m cũng là mt phn ca chúng tôi. Nhng bông hoa ngát
hương là người chị, người em ca chúng tôi. Nhng mỏm đá, những vũng nước
trên đng cỏ, hơi ấm ca chú nga con và của con người, tt c đều cùng chung
mt gia đình.
Trong đoạn văn này, tác giả đã sử dng phép nhân hoá nhiu lần để th hin ý
ng của mình. Đất là m. Những bông hoa ngát hương là người chị, người
em ca chúng tôi. Tt c nhng gì tn ti trên mặt đất hi t li thành gia đình,
t m. Phi là ngưi gn bó suốt đời và hiểu đất đai sâu sc đến độo tác gi
mi viết nên nhng dòng ch xúc động sâu xa như thế.
Dòng nưc óng ánh, êm trôi dưi nhng dòng sông, con suối đâu chỉ
nhng git nưc, mà còn là máu ca t tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi bán mnh
đất này cho Ngài, Ngài phi nh rng, Ngài phi dy bo con cháu rng, mnh
đất này là thiêng liêng và nhng tia sáng chói chang phn chiếu t mt h trong
vt s nói lên cái gì đó vềc ca người da đỏ. Tiếng thì thm ca dòng nước
chính là tiếng nói ca cha ông chúng tôi.
T hình nh ca nưc, tác gi liên tưng, so sánh vi máu ca t tiên, tiếng rì
rào của dòng nước là tiếng nói ca cha ông. Qu là những so sánh đc đáo và
chính xác, xut phát t tình yêu tha thiết, chân thành.
Tiếp theo, tác gi gii thích nguyên nhân s khác bit, thm chí đi lp nhau
trong cách sống và thái độ đối vi đt của ngưi da đ và người da trng:
Tôi biết ngưi da trng không hiu cách sng ca chúng tôi. Đi vi h, mnh
đất này cũng như mảnh đất khác, bi l h là k xa lạ, và trong đêm tối, h ly
đi từ lòng đt nhng gì h cn. Mảnh đất này đâu phải là những người anh em
ca h, mảnh đất này là k thù ca h và khi đã chinh phc đưc, thì h s ln
ti. M m t tiên ca h, h còn quên và h cũng chng cn ti dòng tc ca
h. H cư xử vi m đất và anh em bu trời như những vật mua được, tưc
đoạt đưc, rồi bán đi như những con cu và nhng hạt kim cương sáng ngi.
Lòng thèm khát ca h s ngu nghiến đất đai, rồi đ li đng sau nhng bãi
hoang mc.
Đip ng kết hp vi phép tương phản đã thể hiện rõ ý tưng của người viết.
Đất đi vi người da đỏ là anh em, đi với ngưi da trng là k thù bi vì
người da trng cho rằng đất là th mua được, tước đot đưc.
Ngưi da đ sinh ra và ln lên đây, làm sao họ có th đi x t bc vi mnh
đất nghĩa tình?! Mảnh đất h có được là do ông cha để li và biết bao m hôi
xương máu đổ ra mi to dựng nên. Đây là điểm khác hn với người da trng.
Ngưi da trắng đối x vi đt tàn nhẫn và coi đất là th hàng hoá vô tri vô giác
dùng để mua bán, trao đi. Chính vì thế mà th lĩnh da đ ngạc nhiên trước
cách đi x lnh lùng, tàn nhn của ngưi da trắng đối vi đất. Khi đã chiếm
đoạt đưc, lòng tham ca h s ngu nghiến đất đai, ri đ li đng sau nhng
bãi hoang mc.
Vì cách đi x ca ngưi da trắng đối vi đất hoàn toàn đối lp với người da
đỏ, nên th lĩnh Xi-át-tơn ra điều kin rng nếu người da đ buc phi bán đt
thì ngưi da trắng cũng phải đi x vi đt trân trọng như người da đ.
Nguyên nhân th hai dn ti s khác biệt trong thái độ đi x với đất gia
người da đ và ngưi da trng xut phát t cách sống và môi trưng sng
không giống nhau. Người da trng gn với môi trường thành ph san sát nhng
tòa nhà bê tông lnh lùng cao chc trời, còn ngưi da đ mt đi gn bó vi
thiên nhiên phong phú và sống động:
thành ph ca ngưi da trng, chng có nơi nào yên tĩnh cả, chẳng có nơi
nào là nghe được tiếng lá cây lay động vào mùa xuân hay tiếng v cánh ca
côn trùng. Nếu có nghe thy thì đó cũng ch là nhng tiếng ồn ào lăng mạ trong
tai. Và cái gì s xy ra đối vi cuc sng, nếu con người không nghe đưc âm
thanh l loi của chú chim đớp mi hay tiếng tranh cãi ca nhng chú ếch ban
đêm bên hồ? Tôi là người da đ, tôi tht không hiu nổi điều đó. Ngưi
Anh-điêng chúng tôi ưa nhng âm thanh êm ái ca những cơn gió thoảng qua
trên mt hồ, được nước mưa gội ra và thm đượm hương thơm của phn
thông.
Đoạn văn giống như một bài thơ tr tình, bay bng, bc l niềm vui sướng và
t hào ca th lĩnh về mảnh đất ca b tộc mình. Người da đỏ biết bo v
quý mến thiên nhiên bi đó là tt c đời sng vt cht và tinh thn ca h:
Không khí qu là quý giá đối với người da đỏ, bi l bu không khí này là ca
chung, muông thú, cây ci và con ngưi cùng nhau hít thở. Người da trng
cũng cùng chia s, hít th bầu không khí đó. Nhưng hình như ngưi da trng
chẳng để ý gì đến nó. Nếu chúng tôi bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phi nh
rằng không khí đối vi chúng tôi là vô cùng quý giá và phi chia s linh hn
vi tt c cuc sng mà không khí ban cho. Ngn gió mang lại hơi thở đầu tiên
ca cha ông chúng tôi và cũng nhn lại hơi th cui cùng ca h. Nếu có bán
cho Ngài mảnh đất này, Ngài phi gi gìn và làm cho nó thành một nơi thiêng
liêng cho ngay c người da trắng cũng có th thưởng thc đưc nhng làn gió
thấm đượm hương hoa đồng c.
Như vậy, chúng tôi mi cân nhc nhng ý mun mua mảnh đất này ca Ngài.
Nếu có quyết đnh chp nhn yêu cu ca Ngài, chúng tôi phải đưa ra một điu
kin - đó là, người da trng phi đi x vi các muông thú sng trên mảnh đất
này như những ngưi anh em.
Th lĩnh da đỏ đi từ ngc nhiên đến căm giận khi phi chng kiến thái độ đối
x tàn bạo đối vi muông thú của ngưi da trng:
Tôi là k hoang dã, tôi không hiu bt c mt cách sng nào khác. Tôi đã
chng kiến c ngàn con trâu rng b chết dn chết mòn trên những cánh đồng
trơ trọi vì b người da trng bn mỗi khi có đoàn tàu chạy qua. Tôi là k hoang
dã, tôi không hiu ni ti sao mt con nga st nh khói li quan trọng hơn
nhiu con trâu rng mà chúng tôi ch giết để duy trì cuc sống. Con người là gì,
nếu cuc sng thiếu nhng con thú? Và nếu chúng ra đi, thì con người cũng s
chết dn chết mòn vì ni buồn cô đơn về tinh thn, bi l điều gì s xy đến vi
con thú thì cũng chính xy ra đối với con ngưi. Mi vt trên đi đu có s
ràng buc.
đoạn văn này, tác giả khẳng định: Tạo hoá luôn luôn điu hòa s cân bng
sinh thái gia con ngưi vi thiên nhiên.
Có th xem đây là kết lun ca bức thư:
Ngài phi dy con cháu rng mảnh đất dưi chân chúng là nhng nm tro tàn
ca cha ông chúng tôi, và vì thế, chúng phi kính trọng đất đai. Ngài phi bo
chúng rằng đất đai giàu có được là do nhiu mng sng ca chng tc chúng
tôi bi đp nên. Hãy khuyên bảo chúng như chúng tôi thường dy con cháu
mình: Đất là Mẹ. Điều gì xy ra vi đất đai tức là xy ra đối vi nhng đứa con
ca Đất. Con người chưa biết làm t để sống, con ngưi giản đơn là một sợi tơ
trong cái t sống đó mà thôi. Điều gì con người làm cho t sống đó, tc là làm
cho chính mình.
Đi xa hơn, lời kết lun còn cnh báo: Nếu không đối x t tế vi đt thì ngay
cuc sng ca ngưi da trắng cũng bị tn hại vì Đất là M ca c loài ngưi.
Giá tr ca bức thư mang tính chất vĩnh cu chính là nh mệnh đề cha đng ý
nghĩa khoa học và triết lý đúng đắn, sâu sc này.
Tác gi lp li hình nh Đất là M vi ý khẳng định đất sinh ra con ngưi, nuôi
con ngưi ln lên, p , che ch con người. Cui đời, con người li tr v vi
Đất, mi quan h gia đt và ngưi thật khăng khít, không thể tách ri nhau.
Vì sao mt bức thư nói về việc mua bán đất t thế k XIX c M nhưng
đến nay lại được coi là mt trong những văn bản ni tiếng nht v đề tài thiên
nhiên và môi trường?
Có l bi ni dung bức thư quá hay, quá tiến b, dù thi đim đó, th lĩnh
Xi-át-tơn chưa thể có được ý thc đy đủ, khoa hc v vấn đề bo v thiên
nhiên và môi trường. Hơn nữa, xuất phát đim ca bức thư trước hết vn là t
lòng yêu quê hương đt nưc. Khi ngưi da trng t châu Âu tràn sang châu Mĩ
thì ngưi Anh-điêng đang sống theo hình thc b lạc, nghĩa là đang sống mt
cách hòa đng với thiên nhiên. Thiên nhiên như một bà m hin cung cp cho
h tt c nhng th cn thiết ca cuc sng hng ngày, v phía h, h cũng
thấy được tác động tr li của con ngưi đi vi thiên nhiên. Nền cơ khí máy
móc ca ngưi da trng xâm nhập đã làm đo ln tt c, hu hoi gần như hoàn
toàn môi trường sng quen thuc ca h. H đã ngầm có ý thc phn kháng,
ch ch dp bc l. Bc thư trả li yêu cầu mua đất ca Tng thng M là mt
cơ hội thun li. Chính vì vy, trong thư, ta không thấy th lĩnh da đỏ tr li là
có bán đt hay không, li càng không nói đến chuyn giá c. vấn đề đưc đt ra
như một gi thiết (nếu... nếu... ), mà đặt gi thiết ch yếu là để tạo đà, tạo thế
cho vic trình bày quan điểm và bc l suy nghĩ, cảm xúc ca mình. Th lĩnh
da đỏ Xi-át-tơn không chỉ đề cập đến đất mà còn đề cập đến tt c các hin
ng có liên quan tới đất như đã nói trên, tc là nhng th làm cho đất tr nên
có giá trị, có ý nghĩa, tạo nên cái mà hin nay ta gọi là môi trưng sinh thái t
nhiên.
Ngày nay, nhân loi đã bước sang thế k XXI. thi đim này, tài nguyên ca
trái đt gần như đang b khai thác cn kiệt, môi trường thiên nhiên đang bị ô
nhim nng n và b tàn phá nghiêm trng. Bi cảnh đó khiến cho Bc thư của
th lĩnh da đỏ Xi-át-tơn trở thành mt trong những văn bản có giá tr nht v đề
tài thiên nhiên và môi trưng sng - mt vấn đ nóng bỏng đang đưc c thế
giới quan tâm hàng đu.
| 1/13

Preview text:

Phân tích tác phẩm Bức thư của thủ lĩnh da đỏ
Dàn ý phân tích tác phẩm Bức thư của thủ lĩnh da đỏ I. Mở bài
- Giới thiệu về văn bản nhật dụng (những bài viết có nội dung gần gũi, bức
thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng xã hội,…).
- Giới thiệu về văn bản “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” (hoàn cảnh ra đời, khái
quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…). II. Thân bài:
1. Những điều thiêng liêng trong kí ức của người da đỏ
- Mảnh đất là người mẹ, bông hoa là người chị, người em.
- Dòng nước là máu của tổ tiên.
- Tiếng thì thầm của dòng nước là tiếng nói của cha ông.
- Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa.
→ Tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó với đất đai, môi trường.
2. Những lo lắng của người da đỏ nếu bán đất cho người da trắng
- Họ sẽ lấy đi trong lòng đất những gì họ cần.
- Lòng thèm khát của họ sẽ ngấu nghiến đất đai.
- Họ chẳng để ý đến bầu không khí mà họ hít thở.
- Nghệ thuật: đối lập.
→ Thái độ bảo vệ đất đai và ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên.
3. Kiến nghị của người da đỏ
- Phải biết quý trọng đất đai.
- Hãy khuyên bảo chúng đất là mẹ.
→ Giọng điệu thống thiết, đanh thép, hào hùng.
→ Khẳng định sự cần thiết phải bảo vệ đất đai, môi trường. III. Kết bài:
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản:
+ Nội dung: Qua bức thư trả lời yêu cầu mua đất của Tổng thống Mĩ
Phreng-klin, thủ lĩnh người da đỏ Xi-át-tơn,tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý
nghĩa toàn nhân loại: Con người phải sống hòa hợp với thiên nhiên, phải chăm
lo bảo vệ môi trường và thiên nhiên như bảo vệ mạng sống của mình.
+ Nghệ thuật: giọng văn truyền cảm, so sánh, nhân hóa, điệp ngữ,….
- Bài học cho bản thân: yêu thiên nhiên, giữ gìn môi trường,….
Phân tích tác phẩm Bức thư của thủ lĩnh da đỏ - Mẫu 1
Bức thư của thủ lĩnh da đỏ là một văn bản để lại khá nhiều ấn tượng trong lòng
người đọc. Đây là bức thư của thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn trả lời tổng thống Mĩ
Phreng-klin pi-ơ- xơ về việc ông này có ý định mua đất của người da đỏ. Một
bức thư được viết bằng một văn phong khá độc đáo, trong đó người viết trình
bày quan điểm và bộc lộ tình cảm của mình một cách đầy hàm ý, rất sâu xa,
thâm thuý. Bao trùm lên toàn bộ bức thư là tình cảm yêu mến quê hương, đất
nước thiết tha, sâu sắc, mạnh mẽ. Chính tình cảm ấy đã chi phối mạch cảm xúc
của bức thư và quan điểm của thủ lĩnh da đỏ.
Đối với thủ lĩnh Xi-át-tơn và đồng bào của ông, không có gì thiêng liêng hơn
mảnh đất của họ bởi "Đất là mẹ", nó gắn bó máu thịt với họ từ bao đời nay:
Mảnh đất này là bà mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là một phần của mẹ và mẹ
cũng là một phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là những người
chị, người em của chúng tôi. Những mỏm đá, những vũng nước trên đồng cỏ,
hơi ấm của chú ngựa con và của con người, tất cả đều chung một gia đình.
Hơn nữa, mảnh đất mảnh đất này còn thấm đẫm mồ hôi và xương máu của cha ông họ
Dòng nước óng ánh, êm ả trôi, dưới những dòng sông con suối đâu chỉ là
những giọt nước, mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi.
Mảnh đất dưới chân chúng (người da trắng) là những nắm tro tàn của cha ông
chúng tôi... đất đai giàu có được là do nhiều mạng sống của chủng tộc chúng tôi bồi đắp nên.
Hình ảnh quê hương đất nước trở thành hình ảnh thân thương nhất, hằn sâu
trong trái tim và kí ức họ:
Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ
cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất hoang
và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong kí ức và kinh
nghiệm của đồng bào tôi. Những dòng nhựa chảy trong cây cối cũng mang ký ức của người da đỏ.
Trong cảm xúc của thủ lĩnh Xi-át-tơn, quê hương đất nước họ là mảnh đất thật
êm đềm và thơ mộng có tiếng lá cây lay động vào mùa xuân, tiếng vỗ cánh của
côn trùng vào mùa hè, có tiếng ếch kêu ban đêm trên hồ, có âm thanh êm ái của
những cơn gió thoảng qua trên mặt hồ, có hương thơm của phấn thông.
Tâm hồn tinh tế nhạy cảm và sự gắn bó tha thiết với quê hương đất nước đã
khiến thủ lĩnh Xi-át--tơn cảm nhận được tất cả những nét bình dị nên thơ của
thiên nhiên, của cuộc sống và viết về nó với một niềm tự hào cao độ.
Để trình bày được một cách rõ ràng, sâu sắc quan điểm đất đai của tổ tiên là
thiêng liêng, không thể đem ra để mua bán, đổi chác! và bộc lộ được tình yêu
Đất Mẹ, yêu quê hương đất nước sâu nặng của mình, tác giả của bức thư đã sử
dụng rộng rãi thủ pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá; đồng thời đối lập quan
điểm, tình cảm của người da đỏ với quan điểm, tình cảm của người da trắng:
Nếu như người da đỏ coi mảnh đất này là "Mẹ", coi mọi vật xung quanh mình
là "anh em", thì người da trắng coi chúng là "kẻ thù", là "vật mua được", "tước đoạt dược"...
Chính tình cảm sâu đậm đối với quê hương đất nước đã tạo nên chất trữ tình và
sức lay động rất lớn của áng văn chương độc đáo này.
Xuất phát điểm của bức thư là lòng yêu quê hương đất nước, nhưng thời gian
trôi đi, bức thư có thêm một giá trị mới; nó trở thành một trong những văn bản
hay nhất về thiên nhiên và môi trường.
Trong bức thư của mình, thủ lĩnh da đỏ không chỉ đề cập đến "đất" mà còn đề
cập đến cả các hiện tượng có liên quan đến "đất" như: sông, hồ, rừng, núi, động
thực vật, không khí, ánh nắng...Tức là những hiện tượng làm cho đất có giá trị,
có ý nghĩa, những hiện tượng tạo nên cái mà ngày nay ta gọi là tự nhiên và môi trường sinh thái.
Ngay từ giữa thế kỉ XIX, khi tự nhiên và môi trường sinh thái mới bắt đầu bị đe
dọa bởi sự phát triển của nền công nghiệp cơ khí và ý thức vô trách nhiệm của
con người, thủ lĩnh Xi-át-tơn đã nhìn thấy nguy cơ của việc vắt kiệt đất đai,
biến nó thành những bãi hoang mạc; nguy cơ của những tiếng ồn ào lăng mạ
trong tai; nguy cơ của cuộc sống không nghe được âm thanh lẻ loi của chú
chim đớp mồi hay tiếng tranh cãi của chú ếch ban đêm bên hồ; nguy cơ của bầu
không khí bị vấy bẩn bởi khói của các nhà máy; nguy cơ cạn kiệt nguồn động vật quý hiếm...
Theo thủ lĩnh Xi-át-tơn: không khí quả là quý giá, vô cùng quý giá bởi không
khí này là của chung muông thú, cây cối và con người cùng nhau hít thở. Và
ông đề nghị người da trắng phải cùng người da đỏ giữ gìn bầu không khí trong
lành: Nếu có bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải giữ gìn và làm cho nó
thành một nơi thiêng liêng cho ngay cả người da trắng cũng có thể thưởng thức
được những làn gió thấm đượm hương hoa đồng nội.
Cũng theo thủ lĩnh Xi-át-tơn, sự cân bằng sinh thái là điều cần thiết của cuộc
sống, ông đề nghị tiếp người da trắng phải đối xử với các muông thú sống trên
mảnh đất này như những người anh em .
Cuối cùng, ông cảnh báo: Con người là gì, nếu cuộc sống thiếu những con thú?
Và nếu chúng ra đi, thì con người cũng sẽ chết dần, chết mòn vì nỗi buồn cô
đơn về tinh thần, bởi vì điều gì sẽ xảy ra đối với con thứ thù cũng sẽ xảy ra đối
với con người. Mọi vật trên đời đều có sự ràng buộc, Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra
đối với đất đai, tức là xảy ra với những đứa con của Đất.
Ngày nay, nguồn tài nguyên đã bị khai thác tới mức cạn kiệt, môi trường thiên
nhiên đang bị ô nhiễm, bị tàn phá cực kỳ nghiêm trọng, quan điểm của thủ lĩnh
da đỏ về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên trở thành vấn đề mang
tính thời sự nóng hổi.
Từ những giá trị trên, Bức thư của thủ lĩnh da đỏ mãi mãi chiếm một vị trí
xứng đáng trong văn chương và cuộc sống của con người.
Phân tích tác phẩm Bức thư của thủ lĩnh da đỏ - Mẫu 2
Bảo vệ thiên nhiên và môi trường hiện nay là vấn đề sống còn đối với nhân loại.
Tất nhiên phải có sự đồng thuận và những biện pháp có tính chất chiến lược
toàn cầu. Song, để có được những hành động kịp thời và hiệu quả ấy, con
người phải tự đổi mới về nhận thức. Bức thư của thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn góp
phần tích cực vào tư tưởng, tình cảm của chúng ta trên phương diện vừa nêu.
"Đất là mẹ". Luận điểm quan trọng này chạy suốt bài văn, và riêng ở phần đầu
bức thư, nó mở ra một quan niệm hoàn toàn mới mẻ. Vì sao "mỗi tấc đất là
thiêng liêng", nghĩa là một khái niệm vật chất đã được tinh thần hoá ? Vì một
mặt, "mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương..." đối với người dân da
đỏ đã trở nên không khí trong lành để sống, để hít thở hằng ngày. Và một mặt
khác, nó là trí tuệ, là khái niệm. Đất vừa là không gian vừa là thời gian, và tất
cả điều này đã trở nên máu thịt: "Những dòng nhựa chảy trong cây cối cũng
mang trong đó kí ức của người da đỏ". Câu văn chân thành như một lời tâm
niệm, một tiếng nói trung thực tha thiết của lương tâm. Hình ảnh bà mẹ trở đi
trở lại nhiều lần ở đoạn văn nhằm khẳng định quan hệ huyết thống, mà khi đã
có quan hệ huyết thống thì không thể chia cắt, tách rời: "Chúng tôi là một phần
của mẹ, và mẹ cũng là một phần của chúng tôi". Người với bông hoa là chị, là
em: người với mỏm đá, vũng nước,... đều cùng chung một gia đình. Dòng nước
đâu chỉ là những giọt nước, nó là "máu của tổ tiên chúng tôi". Tiếng thì thầm
của nó chính là "tiếng nói của cha ông chúng tôi". Luận điểm quan trọng này
một mặt phản ánh quan hệ cộng sinh giữa con người với môi trường sống từ
buổi sơ khai, nhưng một mặt nó xác nhận một quy luật trường tồn: con người
muốn tồn tại, phải dựa vào thiên nhiên để tồn tại. Và như thế, đồng thời nó dự
báo những nguy cơ: con người sẽ tự huỷ diệt nếu những khế ước thiêng liêng
giữa con người với môi trường đã được thiết lập một cách tự nhiên bị xâm
phạm. Và không dưới hai lần, khế ước tinh thần ấy được gọi tên một cách nôm
na là "kí ức của người da đỏ".
Trên cơ sở ấy, tác giả bức thư gay gắt phê phán lối sống thực dụng của "người
da trắng" đã và đang phá vỡ mối quan hệ vốn thân thiện giữa con người với đất,
với thiên nhiên. Họ đã thay thế quan hệ gia đình bằng quan hệ sở hữu, quan hệ
chiếm đoạt. Lấy lợi nhuận làm thước đo, con người tàn bạo, ích kỷ và tham lam
tự biến mình thành con thú: "Lòng thèm khát của họ sẽ ngấu nghiến đất đai, rồi
để lại đằng sau những bãi hoang mạc". Thế giới mà người da trắng tạo ra là
những thành phố rất trái với tự nhiên ở chỗ: "chẳng có nơi nào yên tĩnh cả,
chẳng có nơi nào là nghe được tiếng lá cây lay động vào mùa xuân hay tiếng vỗ
cánh của côn trùng". Thế là: biến đất đai thành vật bán mua, biến nông thôn
thành đô thị, nhưng quá quắt hơn, họ biến bầu không khí vốn là của chung, của
muông thú, cỏ cây, cả người da trắng cũng cùng sẻ chia "hít thở bầu không khí
đó" thành đối tượng chẳng đáng quan tâm. Điều đáng nói ở đây, cũng thật vô lý
ở đây: tác giả bức thư lưu ý cả đến quyền lợi của những người đi chinh phục,
trong lúc chính kẻ đi chinh phục lại chẳng đoái hoài. "Nếu có bán cho Ngài
mảnh đất này, Ngài phải giữ gìn và làm cho nó thành một nơi thiêng liêng cho
ngay cả người da trắng cũng có thể thưởng thức được những làn gió thấm
đượm hương hoa đồng cỏ". (Ở đoạn trước: những âm thanh của mùa xuân đối
với họ không có ý nghĩa gì hơn là những tiếng ồn ào lăng mạ trong tai). Cách
lập luận dẫn đến cao trào khi người viết bức thư so sánh hai hình ảnh một thuộc
về thiên nhiên, còn một thuộc về nền văn minh hiện đại: "con trâu rừng" và
"con ngựa sắt nhả khói". Nếu xét về phương diện ích lợi trong giao thông thì:
"con ngựa sắt nhả khói" là vô địch, là niềm tự hào. Nhưng nếu chỉ cần đến nó
mà bắn bỏ những con trâu rừng thì khi đoàn tàu chạy qua lại là một hành vi tự
sát. Câu văn sau đây vượt qua sự khập khiễng của biện pháp so sánh thông
thường để đạt đến một sự tiên tri, minh triết: "Tôi là kẻ hoang dã, tôi không
hiểu nổi tại sao một con ngựa sắt nhả khói lại quan trọng hơn nhiều con trâu
rừng mà chúng tôi chỉ giết để duy trì cuộc sống". Một câu hỏi không có hồi âm
vì không thể có một cách nào đó trả lời, vậy bản thân nó đã là chân lý, một sự thật hiển nhiên.
Phần kết của bức thư cũng như phần quan trọng phía trên không bị ràng buộc
bởi nghi thức bán mua thông thường một vùng đất có thể còn rất hoang vu. Cái
chính là thái độ của con người trước sau đối với đất ra sao ? Về chủ sở hữu, nó
có thể thuộc về người da trắng, nhưng "Ngài phải dạy con cháu rằng mảnh đất
dưới chân chúng là những nắm tro tàn của cha ông chúng tôi", mảnh đất ấy "do
nhiều mạng sống của chủng tộc chúng tôi bồi đắp nên", nghĩa là mồ mả tổ tiên
của người da đỏ. Nhưng cái chính cũng chưa hẳn đã là như thế ! Dù chủ sở hữu
là ai, đối với người da đỏ và người da trắng: "Đất là Mẹ". Đã là mẹ, đất sẽ yêu
thương đùm bọc mọi đứa con mình. Nhưng có điều: đừng có một ai xúc phạm
tới đất đai. Bởi "Điều gì xảy ra với đất đai tức là xảy ra đối với những đứa con của Đất".
Phân tích tác phẩm Bức thư của thủ lĩnh da đỏ - Mẫu 3
Năm 1854, Tổng thống thứ 14 của nước Mỹ là Phreng-klin Pi-ơ-xơ tỏ ý muốn
mua vùng đất của người da đỏ để mở mang hệ thống đường sắt. Thủ lĩnh
Xi-át-tơn đã gửi bức thư này để trả lời. Đây là một bức thư nổi tiếng, từng được
coi là một trong những văn bản hay nhất về đề tài thiên nhiên và môi trường.
Bằng một giọng văn đầy sức truyền cảm, cùng với lối sử dụng phép so sánh,
nhân hoá, điệp ngữ phong phú, đa dạng, tác giả bức thư này đã đặt ra một vấn
đề quan trọng có ý nghĩa toàn cầu: Con người phải sống hòa hợp với thiên
nhiên, phải chăm lo bảo vệ môi trường thiên nhiên như bảo vệ chính mạng sống của mình.
Bức thư có thể chia làm ba đoạn:
Đoạn 1: Quan hệ của người da đỏ đối với đất, với thiên nhiên.
Đoạn 2: Sự đối lập giữa người da đỏ và người da trắng trong cách sống, trong
thái độ đối với đất đai và thiên nhiên.
Đoạn 3: Bảo vệ môi trường thiên nhiên chính là bảo vệ cuộc sống của mình.
Mở đầu bức thư, tác giả đề cập đến đất đai cùng mọi vật liên quan với nó như
nước, động vật, thực vật, bầu trời, không khí... Tất thảy đều thiêng liêng đối với
người da đỏ vì đó là kỉ niệm ghi sâu trong kí ức:
Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ
cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất hoang
và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong kí ức và kinh
nghiệm của đồng bào tôi. Những dòng nhựa chảy trong cây cối cũng mang
trong đó kí ức của người da đỏ.
Không chỉ là kỉ niệm, mảnh đất này còn là bà mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là
một phần của mẹ và mẹ cũng là một phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát
hương là người chị, người em của chúng tôi. Những mỏm đá, những vũng nước
trên đồng cỏ, hơi ấm của chú ngựa con và của con người, tất cả đều cùng chung một gia đình.
Trong đoạn văn này, tác giả đã sử dụng phép nhân hoá nhiều lần để thể hiện ý
tưởng của mình. Đất là mẹ. Những bông hoa ngát hương là người chị, người
em của chúng tôi. Tất cả những gì tồn tại trên mặt đất hội tụ lại thành gia đình,
tổ ấm. Phải là người gắn bó suốt đời và hiểu đất đai sâu sắc đến độ nào tác giả
mới viết nên những dòng chữ xúc động sâu xa như thế.
Dòng nước óng ánh, êm ả trôi dưới những dòng sông, con suối đâu chỉ là
những giọt nước, mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi bán mảnh
đất này cho Ngài, Ngài phải nhớ rằng, Ngài phải dạy bảo con cháu rằng, mảnh
đất này là thiêng liêng và những tia sáng chói chang phản chiếu từ mặt hồ trong
vắt sẽ nói lên cái gì đó về kí ức của người da đỏ. Tiếng thì thầm của dòng nước
chính là tiếng nói của cha ông chúng tôi.
Từ hình ảnh của nước, tác giả liên tưởng, so sánh với máu của tổ tiên, tiếng rì
rào của dòng nước là tiếng nói của cha ông. Quả là những so sánh độc đáo và
chính xác, xuất phát từ tình yêu tha thiết, chân thành.
Tiếp theo, tác giả giải thích nguyên nhân sự khác biệt, thậm chí đối lập nhau
trong cách sống và thái độ đối với đất của người da đỏ và người da trắng:
Tôi biết người da trắng không hiểu cách sống của chúng tôi. Đối với họ, mảnh
đất này cũng như mảnh đất khác, bởi lẽ họ là kẻ xa lạ, và trong đêm tối, họ lấy
đi từ lòng đất những gì họ cần. Mảnh đất này đâu phải là những người anh em
của họ, mảnh đất này là kẻ thù của họ và khi đã chinh phục được, thì họ sẽ lấn
tới. Mồ mả tổ tiên của họ, họ còn quên và họ cũng chẳng cần tới dòng tộc của
họ. Họ cư xử với mẹ đất và anh em bầu trời như những vật mua được, tước
đoạt được, rồi bán đi như những con cừu và những hạt kim cương sáng ngời.
Lòng thèm khát của họ sẽ ngấu nghiến đất đai, rồi để lại đằng sau những bãi hoang mạc.
Điệp ngữ kết hợp với phép tương phản đã thể hiện rõ ý tưởng của người viết.
Đất đối với người da đỏ là anh em, đối với người da trắng là kẻ thù bởi vì
người da trắng cho rằng đất là thứ mua được, tước đoạt được.
Người da đỏ sinh ra và lớn lên ở đây, làm sao họ có thể đối xử tệ bạc với mảnh
đất nghĩa tình?! Mảnh đất họ có được là do ông cha để lại và biết bao mồ hôi
xương máu đổ ra mới tạo dựng nên. Đây là điểm khác hẳn với người da trắng.
Người da trắng đối xử với đất tàn nhẫn và coi đất là thứ hàng hoá vô tri vô giác
dùng để mua bán, trao đổi. Chính vì thế mà thủ lĩnh da đỏ ngạc nhiên trước
cách đối xử lạnh lùng, tàn nhẫn của người da trắng đối với đất. Khi đã chiếm
đoạt được, lòng tham của họ sẽ ngấu nghiến đất đai, rồi để lại đằng sau những bãi hoang mạc.
Vì cách đối xử của người da trắng đối với đất hoàn toàn đối lập với người da
đỏ, nên thủ lĩnh Xi-át-tơn ra điều kiện rằng nếu người da đỏ buộc phải bán đất
thì người da trắng cũng phải đối xử với đất trân trọng như người da đỏ.
Nguyên nhân thứ hai dẫn tới sự khác biệt trong thái độ đối xử với đất giữa
người da đỏ và người da trắng xuất phát từ cách sống và môi trường sống
không giống nhau. Người da trắng gắn với môi trường thành phố san sát những
tòa nhà bê tông lạnh lùng cao chọc trời, còn người da đỏ một đời gắn bó với
thiên nhiên phong phú và sống động:
Ở thành phố của người da trắng, chẳng có nơi nào yên tĩnh cả, chẳng có nơi
nào là nghe được tiếng lá cây lay động vào mùa xuân hay tiếng vỗ cánh của
côn trùng. Nếu có nghe thấy thì đó cũng chỉ là những tiếng ồn ào lăng mạ trong
tai. Và cái gì sẽ xảy ra đối với cuộc sống, nếu con người không nghe được âm
thanh lẻ loi của chú chim đớp mồi hay tiếng tranh cãi của những chú ếch ban
đêm bên hồ? Tôi là người da đỏ, tôi thật không hiểu nổi điều đó. Người
Anh-điêng chúng tôi ưa những âm thanh êm ái của những cơn gió thoảng qua
trên mặt hồ, được nước mưa gội rửa và thấm đượm hương thơm của phấn thông.
Đoạn văn giống như một bài thơ trữ tình, bay bổng, bộc lộ niềm vui sướng và
tự hào của thủ lĩnh về mảnh đất của bộ tộc mình. Người da đỏ biết bảo vệ và
quý mến thiên nhiên bởi đó là tất cả đời sống vật chất và tinh thần của họ:
Không khí quả là quý giá đối với người da đỏ, bởi lẽ bầu không khí này là của
chung, muông thú, cây cối và con người cùng nhau hít thở. Người da trắng
cũng cùng chia sẻ, hít thở bầu không khí đó. Nhưng hình như người da trắng
chẳng để ý gì đến nó. Nếu chúng tôi bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải nhớ
rằng không khí đối với chúng tôi là vô cùng quý giá và phải chia sẻ linh hồn
với tất cả cuộc sống mà không khí ban cho. Ngọn gió mang lại hơi thở đầu tiên
của cha ông chúng tôi và cũng nhận lại hơi thở cuối cùng của họ. Nếu có bán
cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải giữ gìn và làm cho nó thành một nơi thiêng
liêng cho ngay cả người da trắng cũng có thể thưởng thức được những làn gió
thấm đượm hương hoa đồng cỏ.
Như vậy, chúng tôi mới cân nhắc những ý muốn mua mảnh đất này của Ngài.
Nếu có quyết định chấp nhận yêu cầu của Ngài, chúng tôi phải đưa ra một điều
kiện - đó là, người da trắng phải đối xử với các muông thú sống trên mảnh đất
này như những người anh em.
Thủ lĩnh da đỏ đi từ ngạc nhiên đến căm giận khi phải chứng kiến thái độ đối
xử tàn bạo đối với muông thú của người da trắng:
Tôi là kẻ hoang dã, tôi không hiểu bất cứ một cách sống nào khác. Tôi đã
chứng kiến cả ngàn con trâu rừng bị chết dần chết mòn trên những cánh đồng
trơ trọi vì bị người da trắng bắn mỗi khi có đoàn tàu chạy qua. Tôi là kẻ hoang
dã, tôi không hiểu nổi tại sao một con ngựa sắt nhả khói lại quan trọng hơn
nhiều con trâu rừng mà chúng tôi chỉ giết để duy trì cuộc sống. Con người là gì,
nếu cuộc sống thiếu những con thú? Và nếu chúng ra đi, thì con người cũng sẽ
chết dần chết mòn vì nỗi buồn cô đơn về tinh thần, bởi lẽ điều gì sẽ xảy đến với
con thú thì cũng chính xảy ra đối với con người. Mọi vật trên đời đều có sự ràng buộc.
Ở đoạn văn này, tác giả khẳng định: Tạo hoá luôn luôn điều hòa sự cân bằng
sinh thái giữa con người với thiên nhiên.
Có thể xem đây là kết luận của bức thư:
Ngài phải dạy con cháu rằng mảnh đất dưới chân chúng là những nắm tro tàn
của cha ông chúng tôi, và vì thế, chúng phải kính trọng đất đai. Ngài phải bảo
chúng rằng đất đai giàu có được là do nhiều mạng sống của chủng tộc chúng
tôi bồi đắp nên. Hãy khuyên bảo chúng như chúng tôi thường dạy con cháu
mình: Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra với đất đai tức là xảy ra đối với những đứa con
của Đất. Con người chưa biết làm tổ để sống, con người giản đơn là một sợi tơ
trong cái tổ sống đó mà thôi. Điều gì con người làm cho tổ sống đó, tức là làm cho chính mình.
Đi xa hơn, lời kết luận còn cảnh báo: Nếu không đối xử tử tế với đất thì ngay
cuộc sống của người da trắng cũng bị tổn hại vì Đất là Mẹ của cả loài người.
Giá trị của bức thư mang tính chất vĩnh cửu chính là nhờ mệnh đề chứa đựng ý
nghĩa khoa học và triết lý đúng đắn, sâu sắc này.
Tác giả lặp lại hình ảnh Đất là Mẹ với ý khẳng định đất sinh ra con người, nuôi
con người lớn lên, ấp ủ, che chở con người. Cuối đời, con người lại trở về với
Đất, mối quan hệ giữa đất và người thật khăng khít, không thể tách rời nhau.
Vì sao một bức thư nói về việc mua bán đất từ thế kỉ XIX ở nước Mỹ nhưng
đến nay lại được coi là một trong những văn bản nổi tiếng nhất về đề tài thiên nhiên và môi trường?
Có lẽ bởi nội dung bức thư quá hay, quá tiến bộ, dù ở thời điểm đó, thủ lĩnh
Xi-át-tơn chưa thể có được ý thức đầy đủ, khoa học về vấn đề bảo vệ thiên
nhiên và môi trường. Hơn nữa, xuất phát điểm của bức thư trước hết vẫn là từ
lòng yêu quê hương đất nước. Khi người da trắng từ châu Âu tràn sang châu Mĩ
thì người Anh-điêng đang sống theo hình thức bộ lạc, nghĩa là đang sống một
cách hòa đồng với thiên nhiên. Thiên nhiên như một bà mẹ hiền cung cấp cho
họ tất cả những thứ cần thiết của cuộc sống hằng ngày, về phía họ, họ cũng
thấy được tác động trở lại của con người đối với thiên nhiên. Nền cơ khí máy
móc của người da trắng xâm nhập đã làm đảo lộn tất cả, huỷ hoại gần như hoàn
toàn môi trường sống quen thuộc của họ. Họ đã ngầm có ý thức phản kháng,
chỉ chờ dịp bộc lộ. Bức thư trả lời yêu cầu mua đất của Tổng thống Mỹ là một
cơ hội thuận lợi. Chính vì vậy, trong thư, ta không thấy thủ lĩnh da đỏ trả lời là
có bán đất hay không, lại càng không nói đến chuyện giá cả. vấn đề được đặt ra
như một giả thiết (nếu... nếu... ), mà đặt giả thiết chủ yếu là để tạo đà, tạo thế
cho việc trình bày quan điểm và bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc của mình. Thủ lĩnh
da đỏ Xi-át-tơn không chỉ đề cập đến đất mà còn đề cập đến tất cả các hiện
tượng có liên quan tới đất như đã nói trên, tức là những thứ làm cho đất trở nên
có giá trị, có ý nghĩa, tạo nên cái mà hiện nay ta gọi là môi trường sinh thái tự nhiên.
Ngày nay, nhân loại đã bước sang thế kỉ XXI. ở thời điểm này, tài nguyên của
trái đất gần như đang bị khai thác cạn kiệt, môi trường thiên nhiên đang bị ô
nhiễm nặng nề và bị tàn phá nghiêm trọng. Bối cảnh đó khiến cho Bức thư của
thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn trở thành một trong những văn bản có giá trị nhất về đề
tài thiên nhiên và môi trường sống - một vấn đề nóng bỏng đang được cả thế
giới quan tâm hàng đầu.