











Preview text:
CHÍ PHÈO (TIẾP THEO) I. Tìm hiểu chung
1. Hoàn cảnh sáng tác
Trong sgk chỉ đề cập đến năm sáng tác Được sáng tác vào năm
1941, năm trước Cách mạng tháng Tám, lúc bấy giờ đất nước ta đang
sống trong chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến, dưới sự cai trị của
chính quyền thực dân -> cuộc sống của người dân trở nên cực khổ và
lầm than hơn bao giờ hết thì tp “chí phèo” với đề tài viết về ng nông
dân được Nam Cao chắp bút cũng như trở thành đỉnh cao của văn học hiện thực 2. Nhan đề
Tại sao tác giả lại chọn tên nhan đề cuối cùng là Chí Phèo
nó mang cái ý nghĩa gì
- Nguyên bản(tức là nguyên văn tác phẩm): “Cái lò gạch cũ”
Là hình ảnh xuất hiện ở cả đầu và cuối tp
+ Nơi người ta tìm thấy Chí Phèo
+ Hình ảnh thoáng hiện trong đầu Thị Nở khi nghe tin Chí Phèo chết
Tạo nên cái kết cấu đầu cuối tương ứng
➔ Sự luẩn quẩn, bế tắc của cuộc sống ở nông thôn Việt
Nam trước Cách mạng
- Năm 1941, nhà xuất bản đời mới in đã đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”
+ Hướng sự chú ý vào mối tình Chí Phèo và Thị Nở ( một
con quỷ dữ làng vũ đại và ng đàn bà xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn)
➔ Nhan đề hướng đến tình yêu đó cũng chính là nhan đề
giật gân, gây tò mò, phù hợp với thị hiếu của một lớp
công chúng lúc bấy giờ
Đó cũng chính là lí do khi in sách thì nhà xuất bản đã đổi tên nhan đề
- Năm 1946, khi tác phẩm được in thành sách lần thứ hai,
tác giả đã đổi tên thành “Chí Phèo” nhằm hướng ng đọc
vào chí phèo, hướng đến cả sự tha hóa và bản chất lương
thiện của chí phèo
➔ Lấy tên nhân vật trung tâm, phù hợp với tư tưởng của tác phẩm
3. Tóm tắt tác phẩm
Chí Phèo vốn sinh ra là một người không cha không mẹ
được dân làng Vũ Đại truyền tay nhau nuôi nấng. Lớn lên
Chí trở thành một anh canh điền khỏe mạnh làm việc cho
nhà Bá Kiến. Vốn tính hay ghen Bá kiến đã đẩy Chí vào tù.
Bảy tám năm sau khi ở tù trở về Chí bỗng trở thành một
kẻ lưu manh hóa, sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ khiến cả
làng xa lánh, không ai thừa nhận sự xuất hiện của Chí. Chí
Phèo trở về và một lần nữa trở thành công cụ tay sai cho
Bá Kiến để đổi lấy tiền uống rượu. Chí Phèo gặp Thị Nở và
hai người ăn nằm với nhau. Chí được Thị chăm sóc, bát
cháo hành cùng những cử chỉ của Thị đã làm sống dậy
khát vọng sống hoàn lương của Chí. Chí hy vọng rằng Thị
sẽ là cầu nối để Chí có thể trở về với đời sống lương thiện.
Thế nhưng Bà cô Thị Nở lại ngăn cản Thị Nở đến với Chí. Bị
Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo bèn xách dao đi với mục đích
ban đầu là đâm chết con khọm già nhà Thị nhưng sau lại
rẽ vào nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Chí Phèo đâm chết Bá
Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. 4. Bố cục
Phần 1(Từ đầu đến “cả làng Vũ Đại cũng không ai biết”):
Nhân vật Chí Phèo xuất hiện cùng tiếng chửi
Phần 2(Tiếp theo đến “không bảo người nhà đun nước
mau lên”): Chí Phèo mất hết nhân tính( bị mất cả nhân
hình lẫn nhân tính)
Phần 3(Còn lại): Sự thức tỉnh, ý thức về bi kịch của cuộc đời Chí Phèo
5. Giá trị tác phẩm
- Giá trị nội dung:
+ Qua truyện ngắn Nam Cao đã khái quát một hiện tượng
xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám:
một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy và tình trạng lưu manh hóa.
+ Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá
cả thể xác tâm hồn của người nông dân lương thiện đồng
thời khẳng định bản chất lương thiện ngay trong khi họ bị
vùi dập mất cả nhân hình lẫn nhân tính.
+ Chí Phèo là tác phẩm có giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc.
- Giá trị nghệ thuật:
+ Nghệ thuật điển hình hoá nhân vật.
+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình.
+ Nghệ thuật trần thuật, kết cấu mới mẻ, linh hoạt, phóng túng.
+ Ngôn ngữ, giọng điệu sinh động.
+ Cốt truyện độc đáo, các tình tiết giàu kịch tính. II.
Đọc hiểu văn bản
1. Làng Vũ Đại – hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám
- Làng này dân không quá hai nghìn người, xa phủ, xa tỉnh”
nằm trong thế “quần ngư tranh thực”(tranh đấu nhau để có đc miếng ăn)
- Có tôn ti trật tự nghiêm ngặt(Có người đứng đầu chính là Bá Kiến)
- Mâu thuẫn giai cấp gay gắt, âm thầm mà quyết liệt,
không khí tối tăm, ngột ngạt( mâu thuẫn này được thể
hiện rõ nhất giữa mâu thuẫn của bá kiến với chí phèo) nó
âm thầm quyết liệt rồi bùng cháy lên
- Đời sống của nhân dân vô cùng khổ cực bị đẩy vào bước
đường cùng không lối thoát, bị tha hóa
➔ Tiêu biểu cho xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng
Đời sống nhân dân khổ cực và chế độ tầng lớp thống trị
thì thối nát lạm quyền
Từ không gian của làng Vũ Đại này tác giả đã xây dựng
hình tượng chí phèo
2. Hình tượng nhân vật Chí Phèo
a, Sự xuất hiện của hình tượng Chí Phèo
• Mở đầu truyện là một Chí Phèo say rượu và chửi bới:
+ “Hắn vừa đi vừa chửi”
+ Hắn chửi tất cả : từ trời, đời ,cả làng Vũ Đại , “Chửii cha
đứa nào không chửi nhau với hắn” “đứa chết mẹ nào đẻ ra
thân hắn”=> đối tượng chửi đã được xác định : xã hội thực
dân nửa phong kiến đã sinh ra cái thằng Chí Phèo, đối tượng
chửi qua đó cũng thu hẹp dần > chứng tỏ Chí đang rơi vào
ngõ cụt của sự bế tắc.
• Cái mà Chí nhận được là : “ trời có của riêng nhà nào”,“đời
là tất cả nhưng chẳng là ai” , “không ai lên tiếng
cả” ,“không ai ra điều” , “nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra
Chí Phèo”. Đáp lại tiếng chửi ấy trớ trêu thay lại là “tiếng
chó cắn lao xao”.
• Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo:
Chí đã bị đánh bât ra khỏi xã hội loài người, tiếng chửi trở
nên vật vã, tuyệt vọng. + Chí chửi tức là Chí muốn giao tiếp
với mọi người nhưng tất cả đều im lặng, chỉ có “ba con chó
dữ với một thằng say rượu”)
+ Tiếng chửi của Chí là tiếng nói đau thương của một con
người ý thức về bi kịch của mình: sống giữa cuộc đời nhưng
đã mất quyền làm người. Đó chính là sự đau xót của nhà văn
đối với nhân vật của mình.
b. Sự ra đời và quá trình tha hoá của Chí Phèo.
• Khi mới sinh ra Chí bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ,
được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ bất hạnh, tủi cực
“ hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà
người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”
• Chí là một nông dân hiền lành, lương thiện:
+ Bà ba sai bóp đùi, hắn: “vừa làm vừa run” “ thấy nhục chứ yêu đương gì”
+ Chí là một con người có lòng tự trọng: khi bị bà ba sai bóp
chân, Chí “thấy nhục hơn là thích” trước một việc làm mà
Chí cho là “không chính đáng”.
+ Có ước mơ giản dị: “có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc
muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để
làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”
• Xã hội thực dân nửa phong kiến không để yên cho con
người tội nghiệp ấy được sống với những ước mơ và khát
vọng, Bá Kiến ngấm ngầm đẩy Chí vào tù. Nhà tù thực dân
đã tiếp tay cho lão cáo già Bá Kiến biến Chí Phèo từ một
người nông dân hiền lành lương thiện thành một kẻ lưu
manh, côn đồ khét tiếng. Sau 7, 8 năm tù ra, Chí đã bị cái xã
hội ấy vằm nát cả nhân hình lẫn nhân tính, trở thành một kẻ
lưu manh, một con quỷ dữ.
+ Nhân hình: Bị xã hội lưu manh vằm nát bộ mặt người.
• Gương mặt: “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn,
cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”
• Trang phục: “mặc quần nái đen với cái áo tây vàng”
• Thân thể: “cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng
phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”.
+ Nhân tính: Hành động và lời nói thể hiện tính cách của
một kẻ liều lĩnh, hung hăng:
• “Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi uống rượu với
thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều…Rồi say khướt, hắn xách
một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tận tên tục ra mà
chửi”. Chí bộc lộ tính lưu manh cùng đường: “đập cái chai
vào cột cổng”, lăn lộn dưới đất…cào vào mặt”
• Nói với Bá Kiến: “Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy
thôi”. Trong câu nói ấy của Chí chất chứa hận thù. Chí vẫn
đang còn tỉnh táo để nhận ra kẻ thù của mình. Đó là ý thức
hệ của tầng lớp bị thống trị đối với giai cấp thống trị. Thế
nhưng trước một Bá Kiến cáo già với châm ngôn sống “Thứ
nhất sợ kẻ anh hùng/ Thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân” “con
quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Từ đây chí sống bằng rượu và máu
và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn
đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và
nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn
làm những việc ấy trong lúc say “ăn trong lúc say, ngủ trong
lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết
người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ
hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say
của hắn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài
mênh mang”. . Chí phèo đã sa vào bẫy của tên cáo già
ấymột cách thật dễ dàng. Để rồi sau đó hắn trở thành tay
sai của BK, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một
người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh
Giữa lúc Chí đang rơi vào ngõ thẳm đêm đen của tội lỗi thì
Nam Cao bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã xuất hiện đúng
lúc. Ông mang đến cho Chí một “thiên sứ” – Thị Nở với hi
vọng cữu vãn linh hồn Chí Phèo.
C. Chí Phèo gặp Thị Nở
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở trong một đêm trăng bên bờ suối đã
thức tỉnh phần người của Chí giúp hắn trở về kiếp người. Sự
quan tâm, chăm sóc của Thị Nở đã giúp Chí cởi bỏ phần
“quỷ” để sống lại làm người, khát khao hoàn lương, làm
người lương thiện.
- Diễn biến tâm lí, tình cảm của Chí Phèo
+ Từ tỉnh rượu đến tỉnh ngộ
• Tỉnh rượu: lần đầu tiên – từ khi mãn hạn tù – Chí hết say và
cảm nhận được thời gian và âm thanh hằng ngày của cuộc
sống. Âm thanh cuộc sống đang từng tiếng một gõ nhịp vận
hành cùng với sự thức tỉnh của Chí Phèo. * “Ở đây (căn lều)
người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài
vẫn sáng” * “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Tiếng mấy
bà đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên
sông”. Những âm thanh này ngày nào mà chẳng có, nhưng
đây lại là lần đầu tiên chí mới nhận ra: chao ôi là buồn!
• Tỉnh ngộ : nhận thức và nhìn lại cuộc đời mình trong quá
khứ, hiện tại và cả tương lai * Qúa khứ :“Hắn nao nao buồn”
nhớ về một thời hắn đã từng ước mơ “có một gia đình nho
nhỏ, chồng cuốc mướn,…” * Hiện tại: “Hắn thấy hắn già mà
vẫn còn cô độc”, “hắn “đã tới cái dốc bên kia của cuộc
đời”, “cơ thể đã hư hỏng nhiều” * Tương lai: đáng buồn và
lo sợ vì nghĩ đến nhiều điều bất hạnh: “tuổi già”, “đói rét và
ốm đau, và cô độc”. Tỉnh ngộ, Chí muốn khóc… Chí Phèo
đang thức tỉnh và bắt đầu hồi sinh về kiếp người.
+ Khát khao hoàn lương và mong ước hạnh phúc
• Chí ngạc nhiên và xúc động “mắt hình như ươn ướt” khi
Thị Nở mang “một nồi cháo hành còn nóng nguyên” vì đây
là lần đầu tiên “hắn được một người đàn bà cho”, “đời hắn
chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Chí lại
nghĩ đến con mụ Bà Ba và lấy làm kinh tởm vì những trò
dâm đãng “nó chỉ mong cho thỏa nó chứ yêu đương gì”.
• Chí “ăn năn”, “thấy lòng thành trẻ con” và “muốn làm
nũng với thị như với mẹ” khi được Thị Nở chăm sóc bằng
tình cảm thương yêu.
• Chí trở nên hiền lành đến khó tin: “Ôi sao mà hắn hiền, ai
dám bảo đó vẫn là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch
mặt đâm chém người?”, “cái bản tính của hắn, ngày thường
bị lấp đi” đã trỗi dậy mạnh mẽ, Chí sống đúng với con người
thật của mình, giống như anh canh điền hiền lành trước đây.
• Chí mong muốn trở lại làm người lương thiện: “Trời ơi! Hắn
thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết
bao!... Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân
thiện của những người lương thiện”
• Chí khát khao hạnh phúc và có một mái ấm gia đình: “Gía
cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay là mình sang đây ở với
tớ một nhà cho vui.” Giống như lời cầu hôn chất phác, giản dị.
Qua miêu tả tâm lí hồi sinh của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao
cho cho ta thấy được bản tính tốt của con người có ngay
trong con người bị tha hoá. Bản tính ấy sẽ trỗi dậy khi có
chất xúc tác. Đó là sự thương yêu, quan tâm. Từ đó nhà văn
kêu gọi chúng ta cần tin vào con người, tin vào bản chất tốt
đẹp của mỗi con người và cần giúp đỡ họ tìm lại những cái
tốt đẹp nhất của phần “người” * Bài học nhân sinh: Con
người cần phải quan tâm , chia sẻ tình thương giữa người với
người. Tình thương có khả năng cảm hoá được con người.
d. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
- Nguyên nhân cả làng Vũ Đại, cả xã hội ko ai đón nhận linh
hồn người vừa trở về của Chí. Định kiến của bà cô cũng là
định kiến của cả xã hội đương thời. - Chí đau đớn và tuyệt
vọng: Thị Nở đã cắt đứt với Chí Phèovì bị bà cô cấm đoán
+ Uống rượu cho thật say nhưng “càng uống lại càng tỉnh
ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn!”
+ “Hắn ôm mặt khóc rưng rức” càng thấm thía nỗi đau khôn
cùng của thân phận. - Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến
nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đam chết
con “khọm già”, con “đĩ nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về
thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của CP dẫn Chí
đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng:
kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra
nỗng nỗi khốn cùng này chính là BK.
+ Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí
càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyến làm người, cướp
đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. - Chí Phèo đến nhà Bá
Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
+ “Tao muốn làm người lương thiện”
+ “Ai cho tao lương thiện?” Đó là những câu hỏi vút lên đầy
cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau
của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân.
• Chí giết Bá Kiến và tự sát. Cái chết của Chí Phèo là bản án
tố cáo xã hội thực dân nửa phong, một cuộc sống mà trong
đó, con người muốn sống lương thiện cũng không được.
➔ * Đánh giá
➔ - Nghệ thuật: Giọng kể đa thanh, khắc họa nhân vật
độc đáo, xây dựng tình huống truyện hấp dẫn, hợp lý.
➔ - Nội dung: Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể
hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ. Vạch
trần tội ác của bọn thực dân phong kiến đồng thời thể
hiện niềm tin vào sức mạnh của tình người, vào nhân
tính và bản chất con người.
3. Nhân vật Bá Kiến
• Đôi nét về nhân vật bá kiến
- Đại diện cho giai cấp thông trị ở làng Vũ Đại chính là bá Kiến.
Qua nhân vật này, bộ mặt xấu xa tàn bạo của bọn cường hào,
địa chủ bị phơi bày rất rõ nét.
- Không giống một số nhân vật địa chủ trong những tác phẩm
khác của Nam Cao, ở Chí Phèo, bá Kiến hiện lên với tư cách là
một nhân vật điển hình hoàn chỉnh.
- Nam Cao không hề tả diện mạo, chỉ nói đến tiêng quát "rất
sang" và "cái cười Tào Thảo" mà y vẫn tự phụ hơn đời.
- Nhân vật này trở thành sống động cơ bản còn do tài miêu tả
nội tâm sắc sảo, chân thật của tác già.
• Khi Bá Kiến gặp Chí Phèo
Nhà văn để cho bá Kiến xuất hiện lần đầu tiên trước đọc giả đúng lúc Chí Phèo say rượu,
đến cổng nhà hắn rạch mặt, kêu làng ăn vạ.
- Cảnh tượng thật hỗn loạn, huyên náo.
- Vừathấy Chí Phèo "nằm dài, không nhúc nhích rên khẽ như gần
chết”, “thoáng nhìn qua", bá Kiến “đã hiểu cơ sự”;
⇒ Nhanh chóng tìm ra được kế sách thích hợp nhất để ứng phó, biết
rõ tác hại của đám đông này.
- Bố con bá Kiến thêm mất mặt nếu để dân làng chứng kiến hành
động thô tục của Chí Phèo.
- Trước đám đông người, bá Kiến khó có thể diễn thành công
mánh khóe, mua chuộc, dụ dỗ.
- Đầu tiên, Bá Kiến tìm cách giải tán đám đông,
+ Hắn “quát mấy bà vợ”, và đuổi họ vào nhà. Hhững người “tuôn
đến xem” nghe tiếng quát “rất sang” này đủ hiểu: cụ muôn đuổi khéo mình.
+ “quay sang bọn người làng”, bá Kiến dịu giọng hơn một chút
“cả các ông các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này?”.
⇒ “không ai nói gì, người ta lảng dần di”. Cho dù vừa tò mò, vừa hả
hê, nhưng họ vẫn nể, vẫn sợ cụ bá, ngay vợ cụ cũng phải vào nhà rồi...
- Đến khi chỉ còn trơ lại Chí Phèo, cụ bắt đầu giở giọng đường
mật, gọi đầy tớ cũ của mình - nay đã bị biến thành con vật gớm
ghiếc - bằng anh, vồn vã mời Chí vào nhà uống nước.
- Qhận có họ hàng với anh cùng đinh khốn khổ này “rồi giết gà
mua rượu cho hắn uống, xong lại đãi thêm đồng bạc để về uống
thuốc..”. ⇒ Chí Phèo ngồi lên, bá Kiến biết là đã thắng.
- Quát mắng lí Cường, sau khi đã “đưa mắt nháy con một cái”.
⇒ Bá Kiến đà đi guốc vào bụng dạ Chí Phèo lúc này: ưa phỉnh nịnh,
ham cái lợi trước mắt...
⇒ Bá Kiến “khôn róc dời” đạt được cả hai mục đích: vừa tạm dập tắt
ngọn lửa hờn căm trong con người Chí Phèo, vừa chuẩn bị biến Chí
Phèo thành tay sai lợi hại.
⇒ Cái xảo quyệt lọc lõi của tôn cường hào này được thể hiện một cách sinh động.
● Cường hào: Người có quyền thế trong chốn thôn quê, áp bức nông dân
• Tính cách của Bá Kiến
- Già đời đục khoét đè đầu cưởi cổ nông dân,
- Nhiều kinh nghiệm phong phú, trong “cái nghề làm việc quan”.
- Biết “thế nào là mềm nắn rán buông”. - Bá Kiến:
+ Ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn.
+ Đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì
vứt trả lại năm hào, “vì thương anh túng quá!”.
+ Có không ít thủ đoạn thâm hiểm “trị không được thì cụ dùng”.
- “Cụ nghĩ bụng: cũng phải có những thằng dầu bò chứ? Không
có những thằng dầu bò. thì lấy ai trị những thằng dầu bò?” ⇒
Tìm cách cho lũ đàn em, hoặc đám dân làng “sinh chuyện”- tức
là đốt phá, chém giết lẫn nhau, để hắn “có dịp mà ăn!”
⇒ Bá Kiến đã vận dụng triệt để những kinh nghiệm đó để biến Chí
Phèo - một thanh niên chất phác, tự trọng và khỏe mạnh thành “con
quỷ dữ làng Vũ Đại”, sẵn sàng theo lệnh hắn để đi đâm chém., rồi
phải kết liễu cuộc đời minh một cách thảm khốc.
⇒ Bi kịch của Chí Phèo đã góp phần quan trọng hoàn thiện chân
dung gian hùng của bá Kiến.
- Nam Cao vạch trần nhân cách bỉ ổi của “tiên chỉ làng Vũ Đại”,
trong những mối quan hệ kín đáo.
- Đặc tả sự lợi dụng đê tiện và thói dâm ô vô độ của tên cường
hào này, Nam Cao đã bỏ qua nhiều chi tiết rất phong phú, rất
cụ thể và sinh động của nguyên mẫu Lí Bính ở làng Đại Hoàng.
- Việc gỡ gạc của cụ lí đối với người đàn bà vắng chồng và có
tiền, lẫn máu ghen tuông của hắn cũng chỉ được lướt qua.
- Chỉ mấy dòng tả ý nghĩ của cụ bá về người vợ thứ tư trẻ đẹp
ngồn ngộn sức sống
⇒ khắc sâu trong người đọc về một nhân cách thảm hại.
⇒ Bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào,
vừa có những nét riêng biệt sinh động không giông bất kì một tên
địa chủ nào trong văn học.
⇒ Bằng nhân vật bá Kiến, Nam Cao đã ghi nhận những thành công
mới mẻ trong việc xây dựng nhân vật.
⇒ Sự tiến bộ đáng kể của Nam Cao nói riêng phương pháp sáng tác
hiện thực ở giai đoạn 1939 - 1945 nói chung. IV. TỔNG KÉT 1. Giá trị nội dung
a. Giá trị hiện thực:
Nam Cao đi sâu làm nổi bật các mỗi mẫu thuân, xung đột ở làng quê
Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám:
+ Mối mâu thuẫn thường xuyên trong nội bộ bon cường hào thống trị.
+ Mối mâu thuẫn đối kháng gay gắt giữa bon cường hào thống trị với
người nông dân bị áp bức bóc lột.
Nam Cao còn chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng Chí Phèo.
- Nam Cao tập trung thế hiện tình cảnh khốn khổ của người nông
dân nghèo bị áp bức, bị tàn phá về tâm hồn, bị hủy diệt về nhân tính
trở thành những kẻ lưu manh hóa.
b. Giá trị nhân đạo:
Thái độ đồng cảm, xót thương của Nam Cao trước số phận khổ cực
của những người nông dân.
Nhà văn đã kết án đanh thép cái xa hội tàn bạo, phi nhân tính đã
tàn pha cả thế xác và tâm hồn người nông dân lao động không
những thế còn đấy họ vào chỗ chết.
Nam Cao khắng định ước mơ, khát vọng tình yêu, hạnh phúc của
con người trong bất cứ thân phận và cảnh ngộ nào.
Niềm tin của Nam Cao vào bản chất lương thiện của người lao động
ngay cả khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. 2. Giá trị nghệ thuật:
- Nghệ thuật xây dựng và điển hình hoá nhân vật:
- Nam cao có sở trường khám phá và miêu tả những trạng thái tâm lý
phức tạp của nhân vật.
- Chí Phèo có một lối kết cấu mới mẻ, độc đáo.
- Cốt truyện hấp dẫn, tình tiết đầy kịch tính và luôn biến
hóa, càng về cuối càng gay cấn với những tình tiết quyết liệt, bất ngờ.
- Ngôn ngư sống động, điêu luyện, gần với lời ăn tiếng nói
trong đời sống. Giọng điệu của nhà văn phong phú và biến
hóa, có sự đạn xen lẫn lộn.
- Nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tự nhiên mà vẫn nhất quán.