-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân hay nhất
"Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa". Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân hay nhất
Mục lục bài viết
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm
1.1. Tác giả Nguyễn Tuân
1.2. Tác phẩm Chữ người tử tù
2. Phân tích chi tiết tác phẩm Chữ người tử tù
2.1. Hình ảnh nhân vật Huấn Cao
2.2. Hình ảnh nhân vật viên quản ngục 2.3. Cảnh cho chữ 4. Tổng kết
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm
1.1. Tác giả Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại với nhiều đóng góp xuất sắc trong cả
hai giai đoạn trước và sau năm 1945. Nguyễn Tuân có phong cách nghệ thuật độc đáo trong đó nổi
bật là nét tài hoa - uyên bác, ông chủ yếu khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
Một vài nhận định hay và đặc về Nguyễn Tuân
- "Đây là một nhà văn "suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật" (Nguyễn Đình Thi), tự nhận mình là
người "sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa".
- "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì trầm bổng, khi thì xô bồ bừa
bãi như ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài
hoa". (GS. Nguyễn Đăng Mạnh)
- "Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ
văn để người nông nổi thưởng thức." (Vũ Ngọc Phan)
- Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của
chữ" (Ý của Tố Hữu). Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì của cái Đẹp là biểu hiện
sinh động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam". (Vũ Ngọc Phan).
1.2. Tác phẩm Chữ người tử tù
"Chữ người tử tù" là truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập "Vang bóng một thời". Truyện ngắn này
nằm trong mạch cảm hứng chung của toàn tập truyện, ca ngợi và khẳng định cái đẹp trong quá
khứ, những vẻ đẹp xa xưa nay chỉ còn vang bóng, những giá trị cổ truyền nay bỗng trở nên lạc lõng, lẻ loi.
>> Tham khảo: Tóm tắt Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân ngắn gọn, đầy đủ nhất
2. Phân tích chi tiết tác phẩm Chữ người tử tù
2.1. Hình ảnh nhân vật Huấn Cao
"Hình tượng văn học là sự tổng hợp những tư tưởng và say mê, là kết quả của một tấm lòng đầy
thiết tha" (Biêlinxki). Hình tượng nhân vật trong tác phẩm bao giờ cũng mang dấu ấn mạnh mẽ
của nhà văn, bộc lộ tiếng nói riêng, phong cách độc đáo của người nghệ sĩ. Mỗi hình tượng nhân
vật điển hình lại tỏa chiếu ra một ánh sáng riêng. Đó chính là ánh sáng của tư tưởng nhà văn, của
lý tưởng thẩm mỹ được soi chiếu qua hình tượng. Và nhân vật Huấn Cao chính là hình tượng được
khắc họa mang đậm những dấu ấn tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân khi Huấn Cao hội tụ tất
cả những vẻ đẹp của tài hoa, khí phách và thiên lương.
Huấn Cao xuất hiện trong tác phẩm trước hết là một con người tài hoa và trong "Chữ
người tử tù", Nguyễn Tuân khắc họa vẻ đẹp tài hoa của nhân vật chủ yếu ở nghệ thuật thư pháp.
Tính chất tượng hình và những tầng ý nghĩa sâu xa, hàm súc đã khiến người xưa đưa việc viết chữ
nho lên thành một môn nghệ thuật, một thú chơi tao nhã, đó là nghệ thuật thư pháp. Vẻ đẹp của
thư pháp toát ra từ hình thức, đường nét cho đếm nội dung ý nghĩa của chữ. Người viết chữ không
chỉ thể hiện tài hoa trong những nét chữ "rồng bay phượng múa" mà chủ yếu gửi gắm, bộc lộ
những hoài bão, tâm nguyện, khát vọng, ý chí của mình qua ý nghĩa của chữ. Do vậy, chiêm
ngưỡng thư pháp là chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cả tài hoa, tâm hồn và khí phách.
Tài năng trong nghệ thuật thư pháp của Huấn Cao được Nguyễn Tuân thể hiện bằng nhiều cách.
Đầu tiên là gián tiếp qua những lời đồn đại. Huấn Cao chưa đến mà tên tuổi của ông đã đến trước
trong sự "ngờ ngợ" của quản ngục. Bình sinh ông mới viết có "hai bộ tứ bình và một bức trung
đường cho ba người bạn thân", vậy mà cả "vùng tỉnh Sơn" đã biết tiếng về "cái tài viết chữ rất
nhanh và rất đẹp của ông". Chữ của Huấn Cao còn được miêu tả trong lời ca ngợi và niềm khát
khao mong mỏi của quản ngục: "Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm... Có được chữ ông Huấn mà
treo là có được một báu vật trên đời." Vẻ đẹp trong đường nét và ý nghĩa của chữ còn được chính
Huấn Cao khẳng định, đó là "những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của
một đời con người". Và cũng chính tài năng phi thường xuất chúng của Huấn Cao đã lý giải được
vì sao viên quản ngục lại kính trọng ông đến thế, thậm chí bất chấp nguy hiểm để biệt đãi, để thổ
lộ nỗi lòng và cuối cùng, vứt bỏ cả sự thận trọng vốn có để vào phòng giam xin chữ tử tù, mong
được lưu giữ "báu vật trên đời". Tài hoa của Huấn Cao đã khiến cho chữ của ông thậm chí còn quý
giá hơn cả mạng sống của con người!
Không chỉ tài hoa, Huấn Cao còn là người có khí phách ngang tàng.
Theo công văn nhận tù, Huấn Cao là "người đứng đầu bọn phản nghịch" chống lại triều đình. Nhìn
ở góc độ của nhân dân, Huấn Cao là đấng trượng phu "chọc trời khuấy nước", là con người dũng
cảm, ngang tàng, dám đứng lên chiến đấu chống lại cả một thể chế xã hội tàn bạo, bất công.
Ngay khi vừa xuất hiện, Huấn Cao đã gây một ấn tượng mạnh cho người đọc bằng việc ông dỗ
gông ngay trước cửa nhà lao: "Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh
đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái". Nét mặt lạnh lùng, cử chỉ mạnh mẽ, âm
thanh của đầu chiếc thang gông đập xuống thềm đá, hình ảnh trận mưa rệp trên nền đá xanh... đó
là những chi tiết đầy ấn tượng khắc họa một vị "thủ xướng ngạo ngược", ngang tàng. Thái độ ngạo
nghễ ấy cho thấy Huấn Cao có thể làm bất cứ điều gì ông muốn mà không hề đếm xỉa đến phản
ứng của ngục quan hay bọn lính.
Suốt nửa tháng ở nhà lao mới, trước cách cư xử kỳ lạ của quản ngục, dù có ngạc nhiên, Huấn Cao
vẫn "thản nhiên nhận rượu thịt, coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị
giam cầm". Nhưng, nhận biệt đãi mà vẫn khinh bạc đến điều, Huấn Cao không quan tâm đến bất
kỳ ẩn ý nào có thể giấu bên trong cách cư xử của quản ngục, cũng không bận tâm đến bất kỳ sự
trả thù nào sau khi sỉ nhục y. Với Huấn Cao, dù là dụ dỗ, mua chuộc hay trả thù đều là vô nghĩa.
Bản lĩnh và khí phách của Huấn Cao đã thể hiện rõ nét trong cảnh cho chữ cuối cùng. Không chỉ
tư thế đĩnh đạc, đàng hoàng, chỉ riêng việc Huấn Cao dành đêm sống cuối cùng của mình, bình
thản viết chữ, cho chữ và khuyên bảo quản ngục, cứu vớt một con người đã cho thấy ông đứng
trên mọi sự sống chết ở đời.
Tài hoa và khí phách khiến Huấn Cao được người đời kính phục, song có lẽ ông sẽ không
thể được yêu quý ngưỡng mộ và nể trọng đến thế nếu không có một tấm lòng nhân hậu,
không biết trọng nhân cách, nghĩa tình.
Huấn Cao có tài viết chữ, nhưng ông đã khẳng định: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền
thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Với ông Huấn, mỗi bức tranh chữ là một tác phẩm nghệ
thuật quý giá, và nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là một thế giới cao khiết không có chỗ cho
danh lợi, càng không chấp nhận sự đớn hèn. Đây cũng là quan điểm của chính Nguyễn Tuân, một
nhà văn luôn đối lập nghệ thuật với tính vụ lợi. Lời khẳng định của Huấn Cao cho thất tiết tháo
trong sạch, kiên cường của của một nhà nho tài hoa tài tử coi thường cả những cám dỗ vật chất lẫn
sức mạnh cường quyền. Với Huấn cao, viết chữ là một việc cao quý thiêng liêng không chỉ để thể
hiện tài hoa trong nghệ thuật thư pháp mà quan trọng hơn là bộc lộ và gửi gắm cái tâm, cái chí của
mình; mà cái tâm, cái chí ấy thì chỉ có thể chia sẻ với những người tri âm, tri kỷ, đó là lý do giải
thích vì sao "tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỷ, ông ít khi chịu cho chữ". Thực ra, cái gọi là
"khoảnh" trong tính cách của Huấn Cao chỉ càng thể hiện sự quý trọng với bạn bè, sự trân trọng
cái đẹp, cũng là với chính tài hoa, tâm chí của mình.
Quản ngục là viên tiểu lại mà Huấn Cao từng "khinh bạc đến điều", là kẻ đại diện cho cái trật tự
xã hội xấu xa tàn ác mà Huấn cao từng đấu tranh chống lại, nhưng quản ngục cũng là người khao
khát có được báu vật trên đời là chữ ông Huấn Cao. Huấn cao đã ngạc nhiên về sự biệt đãi kỳ lạ
của quản ngục, tới khi biết được tấm lòng biệt nhỡn liên tài và sở thích cao quý của quản ngục thì
Huấn Cao thực sự xúc động. Con người đứng trên mọi sự sống chết ở đời, con người coi thường
cả vàng ngọc và quyền thế, con người luôn cao ngạo, ngang tàng ấy đã phải thốt lên lời than ân
hận: "Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Như vậy, với Huấn Cao, điều
quý trọng nhất trong cuộc đời chính là tấm lòng. Người biết trân trọng tấm lòng chắc chắn cũng là
người có một tấm lòng. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã được nâng lên rất nhiều khi ông không
chỉ có tài hoa, khí phách mà còn có lòng yêu cái thiện, trân trọng thiên lương của con người. Từ
vị trí là kẻ thù, Huấn Cao đã coi quản ngục là tri kỷ, đã nhập ông vào hàng ngũ bạn thân của mình
khi quyết định cho chữ. Có thể thấy Huấn Cao không chỉ quý cái đẹp, ông còn quý những người
biết yêu, biết trọng cái đẹp. Chính tấm lòng của Huấn Cao đã đem đến cho ông một vẻ đẹp trọn
vẹn, hoàn mỹ, vẻ đẹp của thiên lương cao quý. Qua nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã thể hiện
một quan niệm thẩm mỹ rất tiến bộ: tâm gắn liền với tài, cái đẹp gắn liền với cái thiện.
2.2. Hình ảnh nhân vật viên quản ngục
Đây là nhân vật thể hiện rõ nét một trong những đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Tuân, một nhà văn thường khám phá con người ở bình diện tài hoa nghệ sĩ. Tuy chỉ là người coi
tù, nhưng khi hiện lên trong ngòi bút của Nguyễn Tuân, quản ngục lại được miêu tả, khám phá
trong vẻ đẹp của người có tâm hồn nghệ sĩ, là người biết yêu cái đẹp, biết trọng người tài. Nhân
vật quản ngục đã góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng chủ đề của tác phẩm và quan điểm thẩm mỹ
của nhà văn. Có thể nhận ra vẻ đẹp trong tâm hồn, nhân cách quản ngục qua những diễn biến tâm
tư cũng như cách ứng xử của quản ngục trong cuộc kỳ ngộ với Huấn Cao.
Khi nghe tin Huấn Cao sắp đến trong đoàn tử tù, quản ngục đã thăm dò qua thơ lại một cách thận
trọng, kín đáo nhưng vẫn không giấu nổi thái độ kính nể và sự ngưỡng mộ. Có thể nhận thấy điều
quan trọng đầu tiên trong ấn tượng của quản ngục về Huấn Cao là tài viết chữ. Sự chú ý đặc biệt
đó đã hé mở phần nào con người của quản ngục khi ông ta quan tâm đến Huấn Cao không phải về
quan điểm chính trị hay sự nguy hiểm mà trước hết là ở phương diện tài hoa. Có thể nhận ra trong
chi tiết này nét phong cách của Nguyễn Tuân, một nhà văn luôn quan sát con người từ phương diện tài hoa.
Con người quản ngục đã hiện rõ hơn ở tâm tư, dáng vẻ của ông trong đêm đợi tù. Trong bóng đêm
thăm thẳm, quạnh quẽ của nhà giam, quản ngục "băn khoăn ngồi bóp thái dương", nghĩ ngợi, trăn
trở. Trong cái nhìn tư lự của quản ngục, hình ảnh "ngôi sao chính vị" nhấp nháy trên bầu trời ít
nhiều có mối liên hệ với tâm trạng thao thức chờ đợi của ông ta đêm nay. Có lẽ sự ngưỡng mộ,
trọng nể của quản ngục với Huấn Cao đã nhập hình ảnh người tử tù vĩ đại sắp vĩnh biệt cuộc đời
với ngôi sao Hôm sắp từ biệt vũ trụ. Hình ảnh "chiếc án thư cũ vàng đã nhợt, son đã mờ, đĩa dầu
sở trên cây đèn nến vơi lần mực dầu" được nhắc lại tới hai lần cùng chi tiết miêu tả quản ngục
"đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu" gợi cảm giác xót xa: quản ngục đã trải qua gần hết cuộc
đời ở nơi ngự trị cái ác, cái xấu. Công việc xấu xa độc ác đã giam cầm chính cuộc đời lương thiện
của ông. Trong chốn tăm tối dơ dáy ấy, quản ngục luôn thấy mình cô độc, chia sẻ những tâm tư
của ông đêm nay chỉ là những đồ vật cũ kỹ, tàn tạ cùng ngọn đèn leo lét. Hình ảnh "những đường
nhăn nheo của bộ mặt tư lự bây giờ đã biến mất hẳn" càng cho thấy quản ngục luôn phải sống hai
vai trong hai cuộc đời, ban ngày là một quản ngục mẫn cán với những sự vụ nhàm chán, ban đêm
lại trở về cõi riêng của trăn trở suy tư. Những hình ảnh so sánh về gương mặt như "mặt nước ao
xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ", về "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà
nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ", về những cái "thuần khiết" giữa một đống "cặn bã"... đã thể hiện
cách đánh giá của nhà văn với con người quản ngục, một kẻ "chọn nhầm nghề" mà sự kiện Huấn
Cao sắp tới có lẽ là dịp để quản ngục nhìn lại rõ lòng mình cùng tình cảnh đáng buồn của cuộc đời
mình. Những xét đoán của quản ngục về thơ lại đã cho thấy sự sâu sắc, từng trải của ông. Quản
ngục đã đánh giá nhân cách con người thông qua tình cảm của họ, lấy tiêu chí "biết kính mến khí
phách... biết tiếc, biết trọng người có tài" để phân định tốt xấu, vô tình hay hữu tình... Thực ra, đây
cũng chính là tiêu chí nhìn người của Nguyễn Tuân - một nhà văn luôn quan sát, khám phá, miêu
tả, khen chê con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, luôn kính mến, trân trọng cái đẹp, người tài.
Nhân cách của quản ngục mỗi lúc một hiện rõ trong cảnh đón Huấn Cao sáng hôm sau. Ngay khi
nhận tù, quản ngục đã thể hiện "lòng kính nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá" trong ánh mắt
"hiền lành", trong sự "biệt nhỡn" với riêng Huấn Cao - thái độ khiến bọn lính lấy làm lạ, còn tử tù
thì ngạc nhiên. Con người thực trong quản ngục đã vô tình bộc lộ bởi sự kính trọng không thể che
dấu với Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc nhận ra rằng tất cả những dặn dò sự vụ, những
đe nẹt, thậm chí cả "những mánh khóe hành hạ thường lệ" với tù nhân có lẽ chỉ là tấm bình phong
an toàn để quản ngục giữ cho mình yên ổn trong chốn đề lao, nơi con người sống với nhau "bằng
tàn nhẫn, bằng lừa lọc".
Suốt nửa tháng trời Huấn Cao ở nhà lao, quản ngục chân thành, cung kính biệt đãi Huấn Cao.
Nguyên nhân sự biệt đãi áy xuất phát từ niềm kính trọng và yêu mến sâu sắc của quản ngục với tài
năng và khí phách của Huấn Cao, với ý muốn giúp Huấn Cao "đỡ cực trong những ngày cuối cùng
còn lại". Việc làm này có thể coi là một hành vi dũng cảm, dám bất chấp luật pháp, làm đảo lộn
trật tự hà khắc của nhà tù, biến kẻ tử tù thành thần tượng để cung phụng, tôn thờ. Mặc dù Huấn
Cao tỏ thái độ cao ngạo, khinh mạn, quản ngục vẫn sai người hàng ngày dâng rượu và thức nhắm
, dáng vẻ khép nép, nói năng nhất mực cung kính, lễ phép và không lấy gì làm oán thù đối với thái
độ "khinh bạc đến điều" của ông Huấn. Có thể thấy quản ngục đã quá hiểu khí phách của con
người "chọc trời khuấy nước", càng hiểu rằng trong mắt Huấn Cao, ông chỉ là một gác tiểu lại coi
tù hèn mọn. Quản ngục đã xếp thứ hạng người trong xã hội không phải bằng những tiêu chí thông
thường của đẳng cấp hay cảnh ngộ mà bằng tài hoa, khí phách của họ; và với tiêu chí ấy, quản
ngục nhận thức sâu sắc sự hèn kém của mình trước Huấn Cao - "một người cách xa y nhiều quá".
Nhưng thái độ khép nép, nhẫn nhục lại không hề hạ thấp con người quản ngục mà chỉ càng khiến
người đọc hiểu thêm vẻ đẹp trong nhân phẩm của ông theo đúng cách ông nhìn nhận thơ lại: "một
kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biếc tiếc, biết coi trọng người có tài. hắn không phải kẻ xấu
hay vô tình" - thậm chí có thể coi là tư thế "đê thủ bái mai hoa" , tư thế đáng kính trọng của những
con người biết cúi đầu trước sự cao khiết của hoa mai, trước cái Đẹp.
Càng hiểu tầm vóc và khí phách của con người Huấn Cao cũng như thân phận hèn mọn của mình,
quản ngục càng khổ tâm vì một nỗi niềm riêng chưa thể bày tỏ. Từ lâu, "sở nguyện" của quản ngục
là "được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết". Một gã tiểu lại giữ tù
mà khao khát, mong mỏi được sở hữu, chiêm ngưỡng chữ ông Huấn, lại coi đó là một "báu vật
trên đời". Sở thích và quan niệm ấy đã tách quản ngục ra khỏi môi trường sống tầm thường chốn
đề lao dơ dáy, lừa lọc, thể hiện nhân cách thanh sạch, cao quý của ông. Nỗi mong mỏi xin được
chữ ông Huấn, sự khổ tâm khi có Huấn Cao trong tay mà lại không đủ can đảm giáp lại mặt một
người cách xa nhiều quá, cảm giác bồn chồn sợ hãi khi mai mốt "ông Huấn bị hành hình mà không
kịp xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời mất". Tất cả nỗi niềm day dứt khổ sở ấy đã thể hiện sự
trân trọng kính mến vô cùng của quản ngục với cái Đẹp và người Tài.
Khi được tin ông Huấn phải vào kinh chịu án tử hình, viên quản ngục "tái nhợt người". Đó là nét
mặt của một người đang sợ hãi và xúc động đến cực điểm, trước hết, đó là sự thương tiếc Huấn
Cao, sau là nỗi tiếc hận đau đớn khi án tử hình sẽ mang cả Huấn Cao và những "báu vật" mà quản
ngục khát khao cả đời vào cõi hư vô. Tình huống khắc nghiệt ấy đã đẩy quản ngục tới chỗ phải bỏ
qua sự kín đáo và thận trọng để bộc lộ nỗi lòng, cũng là "sở nguyện" lớn lao, cao quý với thơ lại
để rồi qua thơ lại, tấm lòng của quản ngục đã may mắn khiến Huấn Cao cảm động và đồng ý cho
chữ. Với thái độ "biệt nhỡn liên tài", quản ngục đã được Huấn Cao xếp vào hàng những người tri
âm, tri kỷ, được ông Huấn coi đó là "một tấm lòng trong thiên hạ". Trong đêm cuối cùng, khi ông
Huấn đồng ý cho chữ, quản ngục đã được miêu tả trong tư thế "khúm núm", và sau đó, khi nghe
lời dạy cuối cùng của Huấn Cao, "ngục quan cảm động vái người tù một vái, chắp tay nói một câu
mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh." Trước
hết, đây là tư thế, dáng vẻ của một con người yêu mến cái đẹp, sẵn sàng liều lĩnh để được một lần
chiêm ngưỡng và sở hữu cái đẹp. Nhưng qua vẻ xúc động mãnh liệt của quản ngục, còn có thể
nhận ra sự cao quý đáng trân trọng trong tâm hồn ông: có được chữ ông Huấn, cũng là "báu vật"
quản ngục khao khát suốt đời, vậy mà người ta không thấy sự mãn nguyện, sung sướng, chỉ thấy
nỗi đau xót, tiếc thương cho một nhân cách vĩ đại sắp vĩnh biệt cuộc đời. Hóa ra cái mà quản ngục
tôn thờ, ngưỡng mộ không chỉ là cái Đẹp của nghệ thuật mà hơn hết là cái đẹp của tài năng, nhân
cách và thiên lương, những vẻ đẹp tập trung trong hình ảnh người tử tù vĩ đại. Người đọc đã nhận
ra ở quản ngục một nhân cách đáng trân trọng khi biết yêu quý, kính trọng người tài và cái Đẹp,
lại càng trân trọng quản ngục hơn khi chứng kiến sự đau xót, tiếc nuối của ông trong đêm cuối vĩnh biệt Huấn Cao.
Thông qua những nét ngoại hình, dáng vẻ đầy ấn tượng và đặc biệt là những chi tiết miêu tả nội
tâm chân thực, nhân vật quản ngục đã được thể hiện với sở thích cao quý và thanh khiết, với lòng
yêu mến cái đẹp và kính trọng người tài. Như vậy, tuy không phải nhân vật chính với vẻ đẹp tài
hoa nghệ sĩ, quản ngục vẫn là nhân vật được Nguyễn Tuân khám phá trong phương diện tài hoa
nghệ sĩ bởi tấm lòng "biệt nhỡn liên tài", là nhân vật thể hiện những quan niệm độc đáo, tích cực
của nhà văn về con người và nghệ thuật. 2.3. Cảnh cho chữ
Cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân khẳng định là " một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Cảnh
tượng phi thường ấy đã được miêu tả bằng bút pháp tương phản và cảm hứng lãng mạn nhằm tôn
vinh cái Đẹp, cái Thiện. Trong không khí trang trọng, cổ kính của cảnh cho chữ, vẻ đẹp tài hoa,
khí phách và thiên lương của Huấn Cao đã được tập trung miêu tả sinh động, gợi cảm và tỏa sáng
rực rỡ. Quả thật, đây là một "cảnh tượng trước nay chưa từng có" bởi sự xuất hiện của những yếu
tố tương phản đầy ấn tượng.
Thứ nhất là sự tương phản trong tình huống sáng tạo nghệ thuật
Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo tự do, nay người nghệ sĩ tài hoa đang say mê tô từng nét chữ
lại là một người tử tù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng". Nghệ thuật giúp cho cái đẹp bất tử, nhưng
người sáng tạo nghệ thuật lại là một tử tù đang ở đêm cuối cùng của cuộc đời, chỉ sớm mai phải
vào kinh lĩnh án tử hình. Nghịch lý xót xa ấy khiến cái đẹp trở nên mong manh, quý giá và giờ
khắc tạo ra cái đẹp càng trang trọng, thiêng liêng. Đó cũng là nguyên nhân tạo ra tâm thế kỳ lạ của
các nhân vật: hoàn thành việc cho chữ và xin chữ mà người cho không sung sướng, người xin
không mãn nguyện, cả hai bên đều ngậm ngùi, buồn bã. Hình ảnh "lửa rụng xuống nền đất ẩm
phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo" sau khi Huấn Cao hoàn thành việc cho chữ gây ấn tượng
sâu sắc cho người đọc về sự lụi tắt, không chỉ của đốm lửa mà còn của một sinh mệnh vĩ đại.
Thứ hai là sự tương phản trong hoàn cảnh sáng tạo nghệ thuật
Người nghệ sĩ thư pháp thường viết chữ ở những thư phòng thanh sạch, cao khiết với bạch lạp,
hương trầm, nay Huấn Cao cho chữ quản ngục trong "một buổi tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy
mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Và chính trong sự tương phản này lại hàm chứa
những tương phản mang ý nghĩa sâu sắc: "khói tỏa như đám cháy nhà" xua tan đi bẩn thỉu, ánh
đuốc đỏ rực xua tan đi cái tối tăm, sự thanh khiết cao quý tỏa ra từ "tấm lụa trắng tinh", mùi thơm
ở nghiên mực xua đi những tầm thường, dơ dáy trốn ngục tù. Sự tương phản thứ hai cho thấy ý chí
phi thường của những con người yêu cái đẹp, dám vượt lên trên mọi sự nghiệt ngã chốn ngục tù
để sáng tạo, chiêm ngưỡng và lưu giữ cái đẹp, những con người đã giúp cho cái đẹp ngự trị và tỏa
sáng ngay chính nơi chốn của cái xấu, cái ác.
Thứ ba là sự tương phản trong vị thế của người tù và kẻ coi tù
Trong đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân nhiều lần dùng hai chữ "người tù" để gọi
Huấn Cao, có lẽ đây cũng là dụng ý khắc họa đậm nét hơn sự tương phản: "người tù cổ đeo gông,
chân vướng xiềng" thì uy nghi, đàng hoàng, hiên ngang, đĩnh đạc viết chữ và dạy bảo, khuyên ngủ;
người giữ tù thì lại "run run bưng chậu mực", "khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô
chữ đặt trên phiến lụa óng", thậm chí người tù sau khi viết xong còn "đỡ viên quản ngục đứng
thẳng người dậy" còn ngục quan sau khi nhận được chữ và lời khuyên bảo thì "cảm động, vái
người tù một vái". Trước cái đẹp, cái thiện, mọi trật tự thông thường ở nhà tù đã bị đảo lộn: không
còn là người tù và kẻ coi tù; chỉ có Huấn Cao, người cho chữ, người sáng tạo và ban phát cái đẹp
và thiên lương, quản ngục, người xin chữ, người ngưỡng mộ và may mắn tiếp nhận cái đẹp - và
trật tự mới giữ họ được thiết lập theo tiêu chí của cái đẹp, cái thiện. Cái đẹp, cái thiện, cái cao cả
đã chiến thắng và tỏa sáng, bóng tối dơ dáy của ngục tù đã nhường chỗ cho ánh sáng của cái đẹp
cao khiết, của thiên lương trong sáng. Chi tiết Huấn Cao "đỡ viên quản ngục đứng thẳng người
dậy" mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc: Huấn Cao không chỉ sáng tạo, ban phát cái đẹp mà thông qua
sức mạnh kỳ diệu của cái đẹp, Huấn Cao còn cứu vớt cả một con người. Hình ảnh "ngục quan cảm
động, vái người tù... nghẹn ngào: "kẻ mê muội này xin bái lĩnh" là sự minh chứng rõ nét cho sức
mạnh cảm hóa của cái đẹp, như sự khẳng định của nhà văn Dostoevsky: "Cái đẹp cứu rỗi thế giới".
Hình ảnh "một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch"
cho thấy lòng yêu quý và trân trọng cái đẹp đã xóa đi mọi khoảng cách giữa những con người vốn
là đối địch. Họ đã cùng nhau hình thành một thế giới thanh sạch cao cả, thế giới của cái đẹp, cái
thiện, quay lưng lại thế giới của cái xấu, cái ác. Chi tiết 'ba người nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau"
càng cho thấy họ đã thực sự trở thành tri âm, tri kỷ bởi tình yêu cái đẹp và lòng hướng hiện.
Sự tương phản trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Trước 1945, Nguyễn Tuân được coi là nhà văn có tư tưởng duy mỹ và quan điểm "nghệ thuật vị
nghệ thuật"; nhưng trong thực tế sáng tác, và trong "Chữ người tử tù", Nguyễn Tuân lại thể hiện
quan niệm thẩm mỹ rất tiến bộ. Là nhà văn tài hoa, Nguyễn Tuân có sở trường và hứng thú đặc
biệt khi miêu tả những vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ, nhưng trong cảnh cho chữ, ông lại không hề miêu
tả cụ thể đường nét của chữ, thậm chí cũng không nhắc đến nội dung bức châm. Phải chăng nhà
văn đã kiềm chế hứng thú miêu tả, tôn vinh để hướng tới khẳng định những giá trị cao quý hơn tài hoa.
Các nhân vật trong cảnh cho chữ cũng không bình luận về những dòng chữ đặc biệt cao quý trên
tấm lụa bạch như cách thưởng thức một bức tranh chữ hay một tác phẩm nghệ thuật. Căn cứ vào
tâm thế xúc động kính cẩn của viên quản ngục, căn cứ vào những lời khuyên bảo của Huấn Cao
với họ, có thể nhận ra nội dung bao trùm trong bức châm có lẽ không tách rời hai chữ "thiên
lương", bức châm đã được chiêm ngưỡng như một biểu tượng của "cái đẹp, cái thiện, của lẽ sống
làm người". Cảnh cho chữ, xin chữ đã trở thành nơi hội tụ của tài hoa, của nhân tâm cùng sự tri
âm tri kỷ trong hoàn cảnh ngục tù. Quản ngục vốn chỉ có khát vọng xin chữ, vậy mà ông ta đã
được nhiều hơn cả sự mong mỏi, Huấn Cao không chỉ cho chữ mà còn cho bài học làm người quý
giá: trước khi đến với cái đẹp của nghệ thuật phải giữ trọn cái đẹp của thiên lương, cái đẹp không
thể tách rời cái thiện. Việc Huấn Cao "cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài" của quan ngục mà đồng ý
cho chữ là biểu hiện gắn kết giữa tài và tâm, còn lời khuyên của viên quản ngục cho thấy quan
điểm của Nguyễn Tuân về sự thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện, không thể chiêm ngưỡng cái
đẹp ở nơi ngự trị của cái ác, không thể hướng tới cái đẹp cao cả ở chốn mà thiên lương khó giữ cho lành vững. 4. Tổng kết
Truyện ngắn "Chữ người tử tù" đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của tác giả "Vang bóng
một thời" từ việc xây dựng nhân vật tài hoa nghệ sĩ đến việc phát huy cao nhất bút pháp tương
phản trong miêu tả, từ nghệ thuật xây dựng tình huống đến tạo không khí cổ xưa cho tác phẩm, từ
việc sử dụng ngôn ngữ giàu tính tạo hình, có nhịp điệu đến việc tô đậm những tính cách phi thường,
xuất chúng tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Ca ngợi Huấn Cao, con người hội tụ cả tài hoa,
khí phách và thiên lương, truyện ngắn vừa thể hiện quan niệm thẩm mỹ tiến bộ của Nguyễn Tuân
vừa ngầm lên án một xã hội tàn bạo không dung nạp, chấp nhận cái đẹp, người tài. Đó cũng là
cách nhà văn kín đáo bày tỏ sự bất bình với trật tự xã hội đương thời.