Đề: Anh/chị hãy phân tích một tác phẩm văn học dựa trên góc độ đặc trưng
văn học.
Văn học bắt nguồn từ đời sống, đã bén rễ với cuộc sống trở thành
một phần không thể thiếu đối với mỗi con người. Tuy nhiên, mỗi tác phẩm văn
học lại mang những đặc trưng riêng khiến trở thành một bộ phận độc đáo. Cụ
thể, trong tác phẩm “Đây mùa thu tới” thuộc tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu
một nhà thơ "mới nhất trong các n thơ mới". Bài thơ đã thể hiện nguồn cảm
xúc mãnh liệt dạt dào của thi nhân trước cảnh vật chớm thu. Mỗi tác phẩm văn
học thường chứa đựng sự đa dạng, thậm chí sự phức tạp trong cách tiếp nhận,
đứng dưới góc độ đặc trưng văn học thì tác phẩm “Đây mùa thu tới” sẽ cho ta
những cảm nhận mới mẻ:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo phai dệt vàng.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…
Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.”
Mỗi bộ môn nghệ thuật điều một chất liệu riêng, một ngôn ngữ riêng.
Đối với văn học ta thể coi nghệ thuật của ngôn từ. Đọc bài thơ “Đây mùa
thu tới” của Xuân Diệu ta sẽ bị thu hút, chú ý suy nghĩ về các lớp từ ngữ độc
đáo đó ngôn từ nổi bật hay còn gọi tính nghệ thuật của ngôn từ. Chỉ mới
đọc đến khổ thơ đầu tiên ta thể thấy đặc trưng ấy:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo phai dệt vàng.”
Xuân Diệu đã lựa chọn từ ‘liễu” đại diện cho nhân vật trữ tình để mở đầu cho
mùa thu mở đầu cho không gian thơ. Những “rặng liễu” rủ xuống được nhân
hóa như một người thiếu n đìu hiu đứng chịu tang. “Liễu” không hiếm trong
thơ xưa, nhưng dường như trong thơ Xuân Diệu lại được cảm nhận miêu
tả thật độc đáo gợi ra một nỗi sầu thương, đơn làm cả không gian chìm lắng
trong cái buồn vắng vẻ. Sự nổi bật của nhịp điệu ngôn ngữ - sự lập lại vần
điệu của các âm thanh trong “liễu đìu hiu - chịu, buồn- buông- xuống, tang -
ngàn hàng” đã gợi lên cho ta một bức tranh được vẽ bằng cả nhạc điệu. thể
thấy n t Xuân Diệu đã rất khéo léo sử dụng ba chuỗi vần liên tiếp đan
xen nhau cùng với những từ láy đã tạo ra được âm điệu trầm bổng mang nét
buồn, gợi tả i dáng buông xuống, xuống mềm mại của “rặng liễu”. Điều đó,
cho thấy rằng ta đang được đọc một thứ ngôn ngữ đã được tác giả tổ chức,
sắp xếp đ thu hút sự chú ý của người đọc chứ không còn một thứ ngôn ngữ
đời thường.
Bàn đến sự nổi bật của ngôn từ ta không khỏi nhắc đến đặc điểm lạ hóa.
đây, trong tác phẩm nhà thơ đã sử dụng những từ ngữ, câu văn rất riêng
biệt. Tác giả đã sử dụng vần lưng “tới với” rất tinh tế, khi mùa thu đến sắc
màu của vạn vật đều trở nên “mơ phai” nhường chỗ cho sắc vàng của “dệt
vàng”. Hay trong câu:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành”
Câu thơ này làm ta phải dừng lại để quan sát suy nghĩ về cấu trúc câu “hơn
một loài hoa”, “hoa đã rụng cành”. Tác giả đã dùng cụm từ “hơn một” nghe
vẻ khá lạ. “Hơn một” tức chỉ số nhiều nhưng tại sao n thơ lại không sử
dụng một số đếm cụ thể? lẽ thi nhân không chỉ nhận thấy rằng không những
một loài hoa rụng mỗi ngày lại thêm nhiều loài hoa rụng rơi, đó cũng
một cách miêu t khá độc đáo gây nhiều hứng thú cho người đọc. Hay cũng
trong khổ hai, ta có:
“Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
Các từ láy “run rẩy”, “rung rinh”, “mỏng manh’ những nét vẽ làm hiện lên
hình ảnh những cành cây run lên rùng mình trong cái g đầu thu hơi se lạnh.
Chỉ trong một câu thơ tới bốn âm “r” đi liền nhau rung- rẩy- rung- rinh
tạo nên nét riêng trong cách miêu tả biểu cảm đặc sắc. Thu đến mang đi sự
xanh tươi tràn trề nhựa sống của cỏ cây nhường chỗ cho sự khô gầy, héo úa của
những cành cây. thể nhiều lúc chúng ta đọc một văn bản chúng ta sẽ không
nghe thấy âm thanh. Chẳng hạn câu văn đang đọc đây, ta sẽ thấy dường như
chẳng nhịp điệu, nhưng nếu một câu văn vần điệu bất ngờ xuất hiện t
sẽ làm ta ấn tượng chú ý đến.
Không chỉ dừng lại nhịp điệu ngôn ngữ nhà t Xuân Diệu cũng một
góc nhìn độc đáo về thời gian, ngay từ nhan đề của bài thơ “Đây mùa thu tới”
gợi ra cho người đọc một cảm nhận, một nhịp bước của thời gian thời khắc
chuyển từ hạ sang thu. lẽ, n thơ đã rất tinh tế khi chọn cho mình góc nhìn
độc đáo để cảm nhận màu sắc, cảnh vật thiên nhiên đầu thu qua các giác quan:
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…
Bằng thị giác của mình, nhà thơ đã nhân hóa ánh trăng thu tựa như một nàng
thơ đang ngẩn ngơ suy trước núi non phủ mình dưới làn sương mờ nhạt. Hai
cụm từ “đã nghe”, “đã vắng” gợi t cái không gian bao la, vắng vẻ của một buổi
chiều thu lành lạnh. Cả hai câu đều bắt đầu bằng từ “đã” phần nào nhấn mạnh
cảm quan về thời gian. Từ đầu thơ sự cảm nhận bằng thị giác thì giờ đây sự
chuyển đổi cảm giác giữa thính giác (đã nghe), đến xúc giác với cái se lạnh của
buổi đầu thu bắt đầu chạm vào da thịt (rét mướt) cuối cùng cái luồn trong
gió, chữ “luồn” ấy dường n đã miêu tả cụ thể cái rét, cảm nhận được bằng
trực giác. Khổ thơ nhiều dấu chấm lửng “…” dường như nhà thơ cố tình tạo
ra những khoảng trống để chứa đựng bao ngưng nga của một nỗi buồn xa vắng,
hồ.
Tác phẩm văn học còn mang tính chỉnh thể. Đặc điểm này làm cho tác
phẩm một sức mạnh hoàn chỉnh tác động đến người đọc. Tác phẩm “Đây
mùa thu tới” sự tham gia của nhiều yếu t từ đó tạo thành một bài thơ,
đó tìm kiếm sự hòa điệu, hợp nhất. Nếu quan sát khắp không gian bài thơ ta
sẽ nhận ra các tính từ chỉ màu sắc như: màu vàng của lá, sắc đỏ, sắc xanh trong
khu vườn mùa thu. nếu dừng lại phân tích thì ta thấy nhà thơ Xuân Diệu
đã dùng những gam màu đối lập nhau, một câu vần điệu khi đưa hai từ đỏ -
xanh lại với nhau, đã khiến cho chúng một mối liên hệ mật thiết. phải ta
sẽ nhận thấy rằng sắc đỏ gam màu nóng còn sắc xanh gam màu lạnh
chúng tương phản nhau. Dường như sự đối lập của hai tính từ này vừa gây một
cảm giác mạnh, vừa biểu hiện sự tàn nhẫn của thời gian làm phôi phai tất cả
trong đó màu lá. Hay hai câu cuối trong khổ thơ thứ ba, cũng chút
đó đối lập nhau. Khi cái lạnh của những cơn gió mua thu bắt đầu đến thì sự xuất
hiện của con người cũng thưa thớt đi. Quan hệ đối kháng ấy còn được thể hiện
trong câu thơ:
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không i”.
“Ít nhiều” là hai từ chỉ số lượng đối lập nhau, nếu tách chúng ra thì nghĩa của
chúng hoàn toàn khác nhau nhưng khi cho hai từ này đứng kế bên nhau lại
trở nên đồng điệu về mặt ý nghĩa. Cụm từ “ít nhiều” tuy không chỉ cụ thể số
lượng nhưng đã gợi lên nỗi sầu buồn, lẻ loi, đơn của người thiếu nữ trước
một không gian bao la, rộng lớn, con người đã xuất hiện trong tâm trạng u buồn,
suy tư. Các yếu tố ngôn từ, hình ảnh trong tác phẩm đều mối quan hệ lẫn
nhau. Những hình ảnh của thiên nhiên, cảnh vật mùa thu như: liễu, vàng, hoa,
nhánh khô, trăng, non xa, sương mờ, mây, chim…chúng mối quan hệ với
nhau, tạo nên một bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời lại mang một
nét u buồn, đơn. Bên cạnh đó, các cụm từ: ngàn hàng, hơn một, đôi nhánh,
ít nhiều, chúng điều nói đến con số nhưng không xác định. Những từ ngữ ấy gợi
sự man mác trong trạng thái hồ không xác định, nỗi buồn thầm lặng khó tả.
Mỗi người đọc chúng ta s dành một sự quan tâm khác nhau đến văn học
ngôn từ của mối quan hệ đặc biệt với thế giới một thế giới ta
thể gọi “hư cấu”. Ta dễ dàng bắt gặp điều đó qua nhan đề của bài thơ “Đây
mùa thu tới”. Tác giả, đã sử dụng p từ chỉ nơi chốn “đây” được dùng một
cách khá đặc biệt. “Đây” trong nhan đề bài thơ hay trong câu: “Đây mùa thu tới
mùa thu tới” được hiểu như không phải nói đến khoảnh khắc nơi nhà thơ lần
đầu viết xuống những dòng thơ đó, hay nơi tác phẩm được xuất bản
đến một khoảng không gian trong bài thơ, trong thế giới cấu. Cũng trong câu
đó, cụm từ “mùa thu” chỉ thời gian tạo nên một không gian cấu, đó một
ngữ cảnh mang tính văn học, không phải mùa thu của quá khứ hay hiện tại
“mùa thu” đang được đặc trưng hóa thái độ của người kể cấu, nhà thơ
Xuân Diệu đang phác họa lại bức tranh mùa thu vừa sinh động đồng thời mang
nét u buồn, đơn qua những tác giả đã nhìn thấy hoặc đã trải qua. Tính
cấu còn được thể hiện qua các từ ngữ như: nàng trăng, thiếu nữ…đó các
chủ thể trữ tình được đặt trong mối quan hệ với cái từ ngữ, hình nh khác trong
bài thơ. Hình ảnh của những nhân vật ấy tạo nên một nét buồn, một nét đa tình
luôn thấp thoáng trong những vần thơ, dường n tác giả đã gửi gấm tâm tư,
tình cảm của nh qua các nhân vật trữ tình.
Tác phẩm “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu một bức tranh mùa thu vừa
đa dạng về đường nét vừa phong phú về màu sắc. Nhưng tất cả đều gợi lên cảm
xúc dạt dạo trước cảnh vật thiên nhiên đang bước vào thu mang một chút buồn,
một chút đơn. Bài thơ đứng dưới góc nhìn của c đặc trưng văn học ta sẽ
càng thấy sự độc đáo, thú vị trong các từ ngữ, câu văn, hình ảnh thơ,
một nét đặc sắc tạo nên dấu ấn suy nghĩ trong lòng người đọc.

Preview text:

Đề: Anh/chị hãy phân tích một tác phẩm văn học dựa trên góc độ đặc trưng văn học.
Văn học bắt nguồn từ đời sống, nó đã bén rễ với cuộc sống và trở thành
một phần không thể thiếu đối với mỗi con người. Tuy nhiên, mỗi tác phẩm văn
học lại mang những đặc trưng riêng khiến nó trở thành một bộ phận độc đáo. Cụ
thể, trong tác phẩm “Đây mùa thu tới” thuộc tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu –
một nhà thơ "mới nhất trong các nhà thơ mới". Bài thơ đã thể hiện nguồn cảm
xúc mãnh liệt dạt dào của thi nhân trước cảnh vật chớm thu. Mỗi tác phẩm văn
học thường chứa đựng sự đa dạng, thậm chí sự phức tạp trong cách tiếp nhận,
đứng dưới góc độ đặc trưng văn học thì tác phẩm “Đây mùa thu tới” sẽ cho ta
những cảm nhận mới mẻ:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…
Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.”
Mỗi bộ môn nghệ thuật điều có một chất liệu riêng, một ngôn ngữ riêng.
Đối với văn học ta có thể coi là nghệ thuật của ngôn từ. Đọc bài thơ “Đây mùa
thu tới” của Xuân Diệu ta sẽ bị thu hút, chú ý và suy nghĩ về các lớp từ ngữ độc
đáo – đó là ngôn từ nổi bật hay còn gọi tính nghệ thuật của ngôn từ. Chỉ mới
đọc đến khổ thơ đầu tiên ta có thể thấy rõ đặc trưng ấy:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”
Xuân Diệu đã lựa chọn từ ‘liễu” đại diện cho nhân vật trữ tình để mở đầu cho
mùa thu và mở đầu cho không gian thơ. Những “rặng liễu” rủ xuống được nhân
hóa như một người thiếu nữ đìu hiu đứng chịu tang. “Liễu” không hiếm trong
thơ xưa, nhưng dường như trong thơ Xuân Diệu nó lại được cảm nhận và miêu
tả thật độc đáo gợi ra một nỗi sầu thương, cô đơn làm cả không gian chìm lắng
trong cái buồn và vắng vẻ. Sự nổi bật của nhịp điệu ngôn ngữ - sự lập lại vần
điệu của các âm thanh trong “liễu – đìu – hiu - chịu, buồn- buông- xuống, tang -
ngàn – hàng” đã gợi lên cho ta một bức tranh được vẽ bằng cả nhạc điệu. Có thể
thấy nhà thơ Xuân Diệu đã rất khéo léo sử dụng ba chuỗi vần liên tiếp và đan
xen nhau cùng với những từ láy đã tạo ra được âm điệu trầm bổng mang nét
buồn, gợi tả cái dáng buông xuống, rũ xuống mềm mại của “rặng liễu”. Điều đó,
cho thấy rõ rằng ta đang được đọc một thứ ngôn ngữ đã được tác giả tổ chức,
sắp xếp để thu hút sự chú ý của người đọc chứ không còn là một thứ ngôn ngữ đời thường.
Bàn đến sự nổi bật của ngôn từ ta không khỏi nhắc đến đặc điểm lạ hóa. Ở
đây, trong tác phẩm nhà thơ đã sử dụng những từ ngữ, câu văn rất riêng
biệt. Tác giả đã sử dụng vần lưng “tới – với” rất tinh tế, khi mùa thu đến sắc
màu của vạn vật đều trở nên “mơ phai” nhường chỗ cho sắc vàng của lá “dệt lá vàng”. Hay trong câu:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành”
Câu thơ này làm ta phải dừng lại để quan sát và suy nghĩ về cấu trúc câu “hơn
một loài hoa”, “hoa đã rụng cành”. Tác giả đã dùng cụm từ “hơn một” nghe có
vẻ khá lạ. “Hơn một” tức là chỉ số nhiều nhưng tại sao nhà thơ lại không sử
dụng một số đếm cụ thể? Có lẽ thi nhân không chỉ nhận thấy rằng không những
một loài hoa rụng mà mỗi ngày lại có thêm nhiều loài hoa rụng rơi, đó cũng là
một cách miêu tả khá độc đáo gây nhiều hứng thú cho người đọc. Hay cũng trong khổ hai, ta có:
“Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
Các từ láy “run rẩy”, “rung rinh”, “mỏng manh’ là những nét vẽ làm hiện lên
hình ảnh những cành cây run lên rùng mình trong cái gió đầu thu hơi se lạnh.
Chỉ trong một câu thơ mà có tới bốn âm “r” đi liền nhau “rung- rẩy- rung- rinh”
tạo nên nét riêng trong cách miêu tả và biểu cảm đặc sắc. Thu đến mang đi sự
xanh tươi tràn trề nhựa sống của cỏ cây nhường chỗ cho sự khô gầy, héo úa của
những cành cây. Có thể nhiều lúc chúng ta đọc một văn bản chúng ta sẽ không
nghe thấy âm thanh. Chẳng hạn câu văn đang đọc đây, ta sẽ thấy dường như nó
chẳng có nhịp điệu, nhưng nếu một câu văn có vần điệu bất ngờ xuất hiện thì nó
sẽ làm ta ấn tượng và chú ý đến.
Không chỉ dừng lại ở nhịp điệu ngôn ngữ nhà thơ Xuân Diệu cũng có một
góc nhìn độc đáo về thời gian, ngay từ nhan đề của bài thơ “Đây mùa thu tới”
gợi ra cho người đọc một cảm nhận, một nhịp bước của thời gian thời khắc
chuyển từ hạ sang thu. Có lẽ, nhà thơ đã rất tinh tế khi chọn cho mình góc nhìn
độc đáo để cảm nhận màu sắc, cảnh vật thiên nhiên đầu thu qua các giác quan:
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…”
Bằng thị giác của mình, nhà thơ đã nhân hóa ánh trăng thu tựa như một nàng
thơ đang ngẩn ngơ suy tư trước núi non phủ mình dưới làn sương mờ nhạt. Hai
cụm từ “đã nghe”, “đã vắng” gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của một buổi
chiều thu lành lạnh. Cả hai câu đều bắt đầu bằng từ “đã” phần nào nhấn mạnh
cảm quan về thời gian. Từ đầu thơ là sự cảm nhận bằng thị giác thì giờ đây là sự
chuyển đổi cảm giác giữa thính giác (đã nghe), đến xúc giác với cái se lạnh của
buổi đầu thu bắt đầu chạm vào da thịt (rét mướt) và cuối cùng là cái luồn trong
gió, chữ “luồn” ấy dường như đã miêu tả cụ thể cái rét, cảm nhận được nó bằng
trực giác. Khổ thơ có nhiều dấu chấm lửng “…” dường như nhà thơ cố tình tạo
ra những khoảng trống để chứa đựng bao ngưng nga của một nỗi buồn xa vắng, mơ hồ.
Tác phẩm văn học còn mang tính chỉnh thể. Đặc điểm này làm cho tác
phẩm có một sức mạnh hoàn chỉnh và tác động đến người đọc. Tác phẩm “Đây
mùa thu tới” có sự tham gia của nhiều yếu tố từ đó nó tạo thành một bài thơ, ở
đó nó tìm kiếm sự hòa điệu, hợp nhất. Nếu quan sát khắp không gian bài thơ ta
sẽ nhận ra các tính từ chỉ màu sắc như: màu vàng của lá, sắc đỏ, sắc xanh trong
khu vườn mùa thu. Và nếu dừng lại phân tích kĩ thì ta thấy nhà thơ Xuân Diệu
đã dùng những gam màu đối lập nhau, một câu có vần điệu khi đưa hai từ đỏ -
xanh lại với nhau, đã khiến cho chúng có một mối liên hệ mật thiết. Có phải ta
sẽ nhận thấy rằng sắc đỏ là gam màu nóng còn sắc xanh là gam màu lạnh và
chúng tương phản nhau. Dường như sự đối lập của hai tính từ này vừa gây một
cảm giác mạnh, vừa biểu hiện sự tàn nhẫn của thời gian làm phôi phai tất cả
trong đó có màu lá. Hay hai câu cuối trong khổ thơ thứ ba, nó cũng có chút gì
đó đối lập nhau. Khi cái lạnh của những cơn gió mua thu bắt đầu đến thì sự xuất
hiện của con người cũng thưa thớt đi. Quan hệ đối kháng ấy còn được thể hiện trong câu thơ:
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói”.
“Ít – nhiều” là hai từ chỉ số lượng đối lập nhau, nếu tách chúng ra thì nghĩa của
chúng hoàn toàn khác nhau nhưng khi cho hai từ này đứng kế bên nhau nó lại
trở nên đồng điệu về mặt ý nghĩa. Cụm từ “ít nhiều” tuy không chỉ cụ thể số
lượng nhưng đã gợi lên nỗi sầu buồn, lẻ loi, cô đơn của người thiếu nữ trước
một không gian bao la, rộng lớn, con người đã xuất hiện trong tâm trạng u buồn,
suy tư. Các yếu tố ngôn từ, hình ảnh trong tác phẩm đều có mối quan hệ lẫn
nhau. Những hình ảnh của thiên nhiên, cảnh vật mùa thu như: liễu, lá vàng, hoa,
nhánh khô, trăng, non xa, sương mờ, mây, chim…chúng có mối quan hệ với
nhau, tạo nên một bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời lại mang một
nét u buồn, cô đơn. Bên cạnh đó, có các cụm từ: ngàn hàng, hơn một, đôi nhánh,
ít nhiều, chúng điều nói đến con số nhưng không xác định. Những từ ngữ ấy gợi
sự man mác trong trạng thái mơ hồ không xác định, nỗi buồn thầm lặng khó tả.
Mỗi người đọc chúng ta sẽ dành một sự quan tâm khác nhau đến văn học
là vì ngôn từ của nó có mối quan hệ đặc biệt với thế giới – một thế giới mà ta có
thể gọi là “hư cấu”. Ta dễ dàng bắt gặp điều đó qua nhan đề của bài thơ “Đây
mùa thu tới”. Tác giả, đã sử dụng phó từ chỉ nơi chốn “đây” được dùng một
cách khá đặc biệt. “Đây” trong nhan đề bài thơ hay trong câu: “Đây mùa thu tới
– mùa thu tới” được hiểu như không phải nói đến khoảnh khắc nơi nhà thơ lần
đầu viết xuống những dòng thơ đó, hay là nơi mà tác phẩm được xuất bản mà là
đến một khoảng không gian trong bài thơ, trong thế giới hư cấu. Cũng trong câu
đó, cụm từ “mùa thu” chỉ thời gian tạo nên một không gian hư cấu, đó là một
ngữ cảnh mang tính văn học, không phải là mùa thu của quá khứ hay hiện tại
mà là “mùa thu” đang được đặc trưng hóa thái độ của người kể hư cấu, nhà thơ
Xuân Diệu đang phác họa lại bức tranh mùa thu vừa sinh động đồng thời mang
nét u buồn, cô đơn qua những gì mà tác giả đã nhìn thấy hoặc đã trải qua. Tính
hư cấu còn được thể hiện qua các từ ngữ như: nàng trăng, thiếu nữ…đó là các
chủ thể trữ tình được đặt trong mối quan hệ với cái từ ngữ, hình ảnh khác trong
bài thơ. Hình ảnh của những nhân vật ấy tạo nên một nét buồn, một nét đa tình
luôn thấp thoáng trong những vần thơ, dường như tác giả đã gửi gấm tâm tư,
tình cảm của mình qua các nhân vật trữ tình.
Tác phẩm “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu là một bức tranh mùa thu vừa
đa dạng về đường nét vừa phong phú về màu sắc. Nhưng tất cả đều gợi lên cảm
xúc dạt dạo trước cảnh vật thiên nhiên đang bước vào thu mang một chút buồn,
một chút cô đơn. Bài thơ đứng dưới góc nhìn của các đặc trưng văn học ta sẽ
càng thấy rõ sự độc đáo, thú vị trong các từ ngữ, câu văn, hình ảnh thơ, nó là
một nét đặc sắc tạo nên dấu ấn và suy nghĩ trong lòng người đọc.