Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8 | Kết nối tri thức
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF bao gồm 68 trang tổng hợp các kiến thức chọn lọc giúp các bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn đón xem!
Chủ đề: Bài 1: Câu chuyện của lịch sử (KNTT)
Môn: Ngữ Văn 8
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Sơ đồ tư duy Phân tích Hoàng Lê nhất thống chí
Dàn ý phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí Dàn ý 1 I. MỞ BÀI
- Trong nền văn học cổ Việt Nam, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí được coi
là một cuốn tiểu thuyết tiêu biểu viết bằng chữ Hán của Ngô gia văn phái. Tác
phẩm là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Việt Nam
khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX. Mười bảy hồi
của tác phẩm đã ghi lại cuộc sống thối nát của vua quan triều Lê - Trịnh và
phong trào phát triển của phong trào Tây Sơn với hình tượng người anh hùng
Nguyễn Huệ đánh thắng thù trong giặc ngoài.
- Hồi thứ 14 của tác phẩm đã kể lại lần thứ 3 ra Bắc của Nguyễn huệ với chiến
công thần kỳ vào bậc nhất trong lịch sử đại phá 20 vạn quân Thanh chỉ trong 10
ngày và ở đây, hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung với khí phách
hào hùng, trí tuệ sáng suốt, tài thao lược hơn người mãi mãi là hình ảnh đẹp
trong những trang lịch sử chói ngời của dân tộc. II. THÂN BÀI 1
1. Trước hết ở Quang Trung là hình ảnh vị hoàng đế có trí tuệ sáng suốt, có
hành động mạnh mẽ quyết đoán.
- Sự sáng suốt của Nguyễn Huệ chính là ở việc nhận định tình hình và quyết
định lên ngôi hoàng đế:
+ Khi 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc Hà chiếm giữ kinh thành Thăng
Long thì lúc đó Nguyễn Huệ mới chỉ là Bắc Bình Vương đang ở Phú Xuân.
Nhận được tin cấp báo Nguyễn Huệ đã định “thân chinh cầm quân đi ngay”
song trước lời bàn của các tướng sĩ, ông đã nhận thấy rằng cần phải lên ngôi
hoàng đế, chính vị niên hiệu rồi mới đàng hoàng xuất quân. Ở cương vị của
Nguyễn Huệ, việc tiếp thu lời bàn của các tướng sĩ, biết lắng nghe và thực thi
những điều ngoài ý định của mình, đó chính là một sự sáng suốt, sự sáng suốt
của vị chỉ huy biết làm gì để đem đến những lợi chung cho sự nghiệp. Cho nên
chỉ trong một ngày Nguyễn Huệ đã làm xong 2 việc lớn: lên ngôi hoàng đế, lấy
niên hiệu Quang Trung và cũng ngày 25 tháng Chạp, Mậu Thân, đã kịp thời hạ
lệnh xuất quân. Việc lên ngôi trong tình thế cấp bách ấy đủ để thấy sự sáng suốt
trong trái tim của con người luôn biết vì đất nước.
+ Quang Trung còn là người mưu lược sáng suốt khi nhận định tình hình của
giặc, của ta. Ta hãy nghe Quang Trung dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ra Bắc:
“trong khoảng vũ trụ đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng …”. Và để khích lệ
lòng yêu nước của tướng sĩ, để nêu bật chính nghĩa của ta và sự phi nghĩa của
địch, ông đã dẫn ra một hệ thống song hành liên tục: cứ một triều đại phong
kiến phương Bắc thì đi liền với một nhân vật kiệt xuất, tiêu biểu phương Nam.
Rồi để giúp tướng sĩ nhận ra chân tướng “Phù Lê diệt Trịnh” của Tôn Sĩ Nghị,
nhận ra dã tâm, bản chất xâm lược của quân Thanh. Ông khéo léo khích lệ
tướng sĩ khi ngợi ca truyền thống đánh giặc của tổ tiên để từ đó mà kêu gọi
tướng sĩ “những kẻ có lương tri, lương năng hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực
để dựng nên công lớn”. Lời lẽ phân tích của đấng minh quân thật rõ ràng, lập 2
luật thật chặt chẽ khiến ta nhớ tới “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn và nhớ
tới “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt. Có thể nói Quang Trung thật sáng
suốt khi nhận thấy rõ bản chất của kẻ thù và cũng rất sáng suốt khi khơi gợi
lòng yêu nước cho nên quân lính nhất nhất “xin vâng lệnh không dám hai lòng”.
- Ở Quang Trung còn là sự quyết đoán mưu lược trước mọi biến cố, quyết đoán
trong việc nhìn nhận bề tôi, ở cương vị hoàng đế việc nhìn nhận bề tôi là một
điều quan trọng. Qua lời lẽ phân tích của ông đối với Ngô Văn Sở, Phan Văn
Lân, những người mà đáng lẽ ra đang có tội “quân thua chém tướng” song
Quang Trung rất hiểu năng lực của họ cho nên ông đã nhận rõ các tướng lĩnh
của mình đều là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tuỳ cơ ứng
biến là không có tài”. Vì thế ông đã xếp Ngô Thì Nhậm hỗ trợ cho họ. Hiểu rõ
tướng lĩnh của mình, Quang Trung không phạt họ mà trái lại họ còn an ủi động
viên họ “biết lo xa biết làm cho kẻ địch chủ quan kiêu ngạo”. Cách hiểu người,
dùng người đến mức tri âm tri kỷ mà sáng suốt như thế chỉ có ở Quang Trung.
Nhờ có sự sáng suốt am hiểu bề tôi tường tận, ân uy đúng mực như vậy bậc anh
quân đó đã tập hợp, tổ chức được lực lượng giống như Lê Lợi xưa kia:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phu tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”
- Ở Quang Trung ta còn thấy một sự sáng suốt thật đáng quý, đó là tầm nhìn xa
trông rộng. Cho dù quân Thanh đang đóng gần hết đất Bắc Hà nhưng nhờ sự
sáng suốt tự tin, mưu lược tiến đánh đã sẵn “mười ngày đánh đuổi người
Thanh”. Nhưng đó không phải là cái đích lớn mà đích lớn Quang Trung tính
đến đó là “khéo lời lẽ để dẹp yên binh đao” cho nên Nguyễn Huệ đã sáng suốt
chọn Ngô Thì Nhậm vào việc giao dịch với nhà Thanh sau này. Nhưng tầm nhìn
của ông còn xa hơn nữa. Ngay cả khi ngồi trên lưng voi trước trận đánh, Quang
Trung đã chuẩn bị kế hoạch cho mười năm sau, quả là một nhà chính trị văn hoá, 3
một đấng minh quân, một người anh hùng tài trí có tầm nhìn chiến lược sâu sắc biết bao.
* Qua việc phân tích tình hình ta, địch, qua việc chuẩn bị kế hoạch 10 năm xây
dựng Đại Việt ta có thể khẳng định Quang Trung là con người có tài trí sáng
suốt. Đó là điều cần thiết ở một đấng minh quân mà không phải ai cũng có được.
2. Dưới ngòi bút của tác giả Ngô gia văn phái, nhân vật người anh hùng áo
vải còn mang vẻ đẹp của vị tướng có tài thao lược hơn người.
+ Tài thao lược của Nguyễn Huệ ở đoạn trích hồi thứ 14 đó là sự nhanh nhẹn
của một nhà quân sự, một bậc kỳ tài trong việc dùng binh. Dưới sự sáng suốt
trong việc chỉ huy của Quang Trung, đội quân của ông đã lớn mạnh không
ngừng. Sáng suốt trong việc nhận định tình hình của giặc để rồi chớp lấy thời cơ,
tổ chức chiến dịch thần tốc có một không hai trong lịch sử. Nghệ thuật cầm
quân và tài năng quân sự, tài thao lược của Quang Trung chính là ở phương diện thần tốc bất ngờ.
+ Tài thao lược của Quang Trung thể hiện ở phương diện chỉ huy thần tốc mà
cho đến nay chúng ta vẫn chưa hết ngạc nhiên: tại sao Nguyễn Huệ có thể vượt
qua quãng đường từ Phú Xuân đến Thăng Long chóng vánh, hơn bốn trăm dặm
mét trong bốn ngày, một tốc độ di chuyển quân thần tốc và cũng một tốc độ
tuyển quân thần kỳ: cứ 3 suất đinh thì lấy 1. Rồi lạ chỉ trong một ngày 30 Tết
mà có thể tổ chức được cho quân lính ăn Tết rồi kịp ban bố lời dụ về chủ quyền
đất nước. Đó cũng là một ngày đủ để chia thành 5 đoạ quân tiến về Thăng Long
rồi dám dự tính đánh tan quân Thanh vào ngày 7 tháng giêng. Tất cả những
công việc to lớn ấy chỉ diễn ra trong thời gian tính bằng ngày. Không phải là
một bậc kỳ tài thì không thể làm nổi, đó chính là điều kỳ diệu của Quang Trung.
+ Tài thao lược của Quang Trung còn thể hiện rõ khi chọn cách đánh bất ngờ,
biết giặc kiêu căng khinh suất là tổ chức đánh ngay, biết chọn tướng chỉ huy, 4
hoạch định hướng tiến công, phối hợp giữa các cánh quân. Kết quả tài thao lược
được thể hiện rõ ở đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi khiến quân Thanh không kịp trở tay.
Cách đánh bất ngờ thần tốc táo bạo đến mức khi quân Tây Sơn kéo vào thành
Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không hề được tin cấp báo . Vì vậy quân tướng nhà
Thanh nhìn thấy quân Tây Sơn như nhìn thấy “tướng ở trên trời rơi xuống, quân
ở dưới đất chui lên”. Sự thảm bại của quân Thanh là kết quả tất yếu (so sánh với Bình ngô đại cáo)
“Thành Đan Xá thây chết đầy núi ….”
Quang Trung cùng với đội quân của mình đánh dấu thêm mốc son chói lọi trong
những trang lịch sử hào hùng của dân tộc.
3. Hình ảnh Quang Trung – khí phách hào hùng lẫm liệt.
Quang Trung cưỡi voi chỉ huy chiến dịch thần tốc nhưng phong thái ung dung
tỉnh táo khác thường. Quang Trung đã tự tin khẳng định 10 ngày đánh đuổi
quân Thanh thể hiện trí tuệ sáng suốt, biết làm chủ trong mọi tình thế. Chính
phong thái ung dung tự tin của con người có tài thao lược đã tô đậm vẻ đẹp khí phách hào hùng.
Dưới những trang văn hào hùng mang tính sử thi của đoạn trích, ta như nhìn
thấy hình ảnh Quang Trung khoác áo bào đỏ cưỡi trên lưng voi chỉ huy 1 đội
quân dàn trận chữ “Nhất” tiến vào Thăng Long.
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh.
- Trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã có nhiều ông vua từng thân chinh cầm
quân đánh giặc nhưng vừa nắm quyền chỉ huy, vừa quyết đoán phương lược,
vừa đốc xuất chiến dịch và đi với một mũi tiến công xông pha nơi hòn tên mũi
đạn thì chỉ có một Quang Trung. Trong ánh sáng lờ mờ của buổi ban mai, trong 5
khói toả mù trời của súng đạn, Quang Trung với khí phách lẫm liệt, hào hùng đã
khắc tạo một hình tượng đẹp trong chiến trận. Hình ảnh ấy đã được sử sách còn
ghi lại “ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu” tấm áo bào đỏ của quang
Trung sạm đen khói súng. Quang Trung đã trở thành một hình tượng đẹp đẽ về
người anh hùng với khí phách hiên ngang lẫm liệt trong văn học cổ Việt Nam,
trở thành một tượng đài bất hủ trong văn học cổ dân tộc.
- Các tác giả Ngô gia văn phái là những cựu thần, chịu ơn sâu nghĩa nặng của
nhà Lê nhưng họ đã không thể bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê hèn yếu cõng
rắn cắn gà nhà và chiến công lừng lẫy của vua Quang Trung là niềm tự hào lớn
lao của cả dân tộc. Họ là những người tôn trọng sự thực lịch sử và có ý thức dân
tộc bởi thế họ viết thực và hay về người anh hùng dân tộc Quang Trung. III. KẾT LUẬN
- Ở tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14 là một sự cống hiến vô giá của
các tác giả về những trang tư liệu hào hùng trong lịch sử dân tộc qua việc khắc
hoạ vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Quang Trung. Hình ảnh Quang
Trung trong đoạn trích giống như một thứ ánh sáng trong những phút đầu còn le
lói nhưng vẫn sáng ấy, mỗi lúc một cao rộng, lan toả để rồi khắc sâu vào tâm
khảm chúng ta vẻ đẹp trí tuệ sáng suốt, tài thao lược hơn người và một khí
phách hào hùng lẫm liệt.
- Vẻ đẹp của Quang Trung trong khúc khải hoàn ca chiến thắng còn in dấu trong
những câu thơ của Ngô Ngọc Du một nhà thơ đương thời:
“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một giận oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Như trên trời xuống ai dám đương …” 6 Dàn ý 2 I. Mở bài:
● Giới thiệu khái quát những nét tiêu biểu nhất về nhóm tác giả Ngô gia
văn phái: Đây là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì
● Giới thiệu về tiểu thuyết chương hồi Hoàng Lê nhất thống chí và đoạn
trích: Đây là một tiểu thuyết khắc họa chân thực, đầy đủ những biến động
xã hội trong một thời kỳ lịch sử của đất nước, đoạn trích hồi thứ 14 đã
đưa đến những khắc họa đặc sắc về hình tượng vua Quang Trung cùng sự
thảm bại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống II. Thân bài
1. Hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung
* Một người hành động mạnh mẽ, quyết đoán
● Nghe tin giặc chiếm Thăng Long mà không hề nao núng, đích thân cầm quân đi ngay
● Trong vòng hơn tháng, làm được rất nhiều việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên
ngôi và thân chinh cầm quân ra Bắc
* Một con người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén
- Trí tuệ sáng suốt và nhạy bén trong việc nhận định tình hình địch và ta
● Quang Trung đã vạch rõ âm mưu và tội ác của kẻ thù xâm lược đối với
nước ta: “mấy phen cướp bọc nước ta, giết dân ta, vơ vét của cải”...
● Khích lệ tinh thần tướng sĩ dưới trướng bằng những tấm gương dũng cảm
● Dự kiến được một số người Phù Lê có thể thay lòng đổi dạ nên có lời dụ
với quân lính vừa chí tình vừa nghiêm khắc 7
- Trí tuệ sáng suốt và nhạy bén trong xét đoán bề tôi:
● Trong dịp hội quân ở Tam Điệp ta thấy Quang Trung nhận định tình hình
sáng suốt để đưa ra lời ngợi khen cho Sở và Lân
● Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao sự “đa mưu túc trí”
⇒ Dùng người sáng suốt
* Một con người có tầm nhìn xa trông rộng và tài thao lược hơn người
- Tầm nhìn xa trông rộng:
● Mới khởi binh nhưng đã khẳng định “phương lược tiến đánh đã tính sẵn”
● Đang ngồi trên lưng ngựa mà đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao
và kế hoạch 10 năm tới ta hòa bình
- Tài thao lược hơn người thể hiện ở cuộc hành quân thần tốc mà đội quân vẫn chỉnh tề
2. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh
● Hình ảnh Tôn Sĩ Nghị kiêu căng, tự mãn, chủ quan, kéo quân vào Thăng
Long mà không đề phòng gì ⇒ Tướng bất tài
● Khi quân Tây Sơn đánh vào, “tướng sợ mất mật”, ngựa không kịp đóng
yên, người không kịp mặc giáp...chuồn trước qua cầu phao”
● Quân sĩ xâm lược lúc lâm trận thì sợ hãi, xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán
loạn, giày xéo lên nhau mà chết....
⇒ Kể xen lẫn tả thực cụ thể, sống động, ngòi bút miêu tả khách quan
3. Số phận thảm bại của bọn vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân
● Khi có biến, Lê Chiêu Thống vội vã “chạy bán sống bán chết”, cướp cả
thuyền dân để qua sông, luôn mấy ngày không ăn, may có người thương
tình đón về cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn 8
● Đổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt
● Sang Trung Quốc, vua phải cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống người Mãn
Thanh và cuối cùng gửi gắm xương tàn nơi đất khách
⇒ Số phận tất yếu cho một người đứng đầu đất nước nhưng lại bán nước hại dân III. Kết bài:
● Khái quát lại những nét đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công về nội
dung của tiểu thuyết chương hồi: Cách kể chuyện chân thực, sinh động,
khắc họa nhân vật rõ nét...
● Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về hình tượng Nguyễn Huệ, chân
dung kẻ thù và vua quan Lê Chiêu Thống, từ đó đưa ra bài học nhận thức, hành động
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 1
Chiến tranh đã khép lại nhưng trong sử sách nước nhà vẫn còn tô đậm dấu ấn
của trận Ngọc Hồi - Đống Đa với chiến thắng thần tốc, vang dội đất trời đã
khiến chúng ta nhớ đến một vị vua tài ba, anh dũng đó chính là vua Quang
Trung. Tuy tương quan lực lượng chênh lệch nhưng nhờ có những vị tướng giỏi
với tài điều binh khiển tướng đã giúp cho quân dân ta chiến thắng mọi kẻ thù
xâm lược. Chính vì vậy, nhóm tác giả Ngô gia văn phái trong "Hoàng Lê nhất
thống chí" đã tái hiện lại hoàn cảnh nước ta khoảng 30 năm cuối thế kỉ 18, đặc
biệt là qua đoạn trích hồi thứ 14 ta đã thấy được hình tượng vua Quang Trung
và sự thất bại của quân bán nước và cướp nước.
Nhóm tác giả Ngô gia văn phái bao gồm hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và
Ngô Thì Du. Ngô Thì Chí (1753 - 1788) là em ruột của Ngô Thì Nhậm, ông
từng làm quan dưới thời vua Lê Chiêu Thống và tuyệt đối trung thành với nhà 9
Lê. Có nhiều nguồn tài liệu cho rằng ông là tác giả của 7 hồi đầu của "Hoàng Lê
nhất thống chí". Ngô Thì Du (1772 - 1840) là anh em chú bác ruột của Ngô Thì
Chí tuy học giỏi nhưng không đỗ đạt gì. Ông làm quan dưới thời nhà Nguyễn
đến năm 1827 thì về nghỉ và là tác giả của 7 hồi tiếp theo của "Hoàng Lê nhất
thống chí". Đoạn trích được học là hồi thứ 14 của "Hoàng Lê nhất thống chí" đã
tái hiện lại chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến
công thần tốc đại phá quân Thanh, đồng thời cho thấy sự thảm bại của tướng
nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Trong tác phẩm, vua Quang Trung - Nguyễn Huệ được miêu tả sắc nét với tài
cầm quân "bách chiến bách thắng", có tính quyết đoán và nhiều phẩm chất tốt
đẹp khác. Ông sẵn sàng lắng nghe ý kiến của thuộc hạ để hiểu lòng dân, lên
ngôi vua giữ lòng người rồi mới xuất quân ra Bắc chiến đấu. Khi đến Nghệ An
ông lại cho với người cống sĩ vào để hỏi rằng chuyến đi này của ông liệu thắng
hay bại cho thấy rằng ông làm mọi việc là vì dân cho nên việc nhỏ nhất cũng
phải theo ý kiến của dân. Khi nghe vị cống sĩ trả lời "Chúa công đi ra chuyến
này, không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan" thì vua Quang Trung
"mừng lắm" vì sự quyết tâm này của ông đã được nhân dân ủng hộ. Ông lập tức
cho người kén lính và chỉ trong một thời gian rất ngắn, nhà vua đã có "hơn một
vạn quân tinh nhuệ" trong tay. Nhờ có trí tuệ nhanh nhạy, sáng suốt hơn người,
nhạy bén trước thời cuộc và vô cùng khéo léo nên ông đã thuyết phục được các
binh sĩ "không dám hai lòng". Khi nói với các binh sĩ, ông đã cho họ ngồi cho
thấy rằng ở đây không hề có sự phân biệt giữa vua và lính. Sau khi lấy lịch sử từ
các triều đại trước ra để cho binh sĩ thấy nỗi khổ của nhân dân dưới ách thống
trị ngoại bang, ông không quên nhất định sẽ phải trừng phạt kẻ phản bội khiến
cho các binh sĩ càng thêm đồng lòng, quyết tâm chống giặc hơn. Nhờ vào ý chí
quyết chiến quyết thắng, có tầm nhìn xa trông rộng, khao khát hòa bình nên
quân Lam Sơn đã giành chiến thắng "thần tốc" ở trận Ngọc Hồi. Lời hứa hẹn
đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng của ông
được chứng minh bằng tài điều binh khiển tướng như thần. Ông đảm bảo bí mật 10
hành quân, nghi binh tấn công làng Hà Hồi, dùng ván phủ rơm ướt để tấn công
làng Ngọc Hồi đã khiến cho quân Thanh hoàn toàn bất ngờ, khi chúng biết được
tin tức thì đã không thể chống cự được nữa, chỉ biết giẫm đạp lên nhau mà chạy.
Dựa vào những chi tiết trên, chúng ta có thể thấy rằng vua Quang Trung là một
vị anh hùng dân tộc quả cảm, tài trí, giàu lòng nhân ái, bậc thiên tài quân sự và
cũng chính là linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn , của chiến thắng vĩ đại.
Khi nghĩa quân Lam Sơn giành chiến thắng thì cũng là lúc quân tướng nhà
Thanh thất bại thảm hại và bè lũ bán nước hại dân Lê Chiêu Thống phải gánh
chịu số phận bi đát. Quân Thanh thì có tướng bất tài Tôn Sĩ Nghị luôn kiêu căng,
tự mãn chủ quan kéo quân vào xâm chiếm thành Thăng Long chỉ chăm chú việc
yến tiệc vui mừng mà không đề phòng bất trắc, "sợ mất mật", "ngựa không kịp
đóng yên", "người không kịp mặc áo giáp" mà vội vàng chuồn trước. Quân sĩ
thì vô dụng cho nên khi quân Tây Sơn đánh vào thì bỏ chạy toán loạn, giày xéo
lên nhau mà chết, chúng tham sống sợ chết đến mức tranh nhau qua cầu, xô đẩy
nhau rơi xuống nước chết nhiều đến nỗi nước sông Nhị Hà cũng bị tắc không
thể chảy được. Vua tôi Lê Chiêu Thống thì chỉ biết chầu chực, cầu cạnh, luồn
cúi dựa vào thế lực quân Thanh, chạy bán sống bán chết khi nghe tin quân Tây
Sơn đuổi kịp và phải trốn sang Tàu. Đó cũng chính là số phận nhục nhã, hèn hạ
của vua tôi Lê Chiêu Thống nói riêng và của toàn bộ lũ bán nước và cướp nước nói chung.
Tác giả đã lựa chọn trình tự kể theo diễn biến các sự kiện lịch sử, ngôn ngữ kể,
tả chân thực, gây ấn tượng mạnh đã thể hiện thái độ của mình với từng đối
tượng khác nhau như vua Quang Trung, quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống.
Nhịp điệu nhanh, hối hả ẩn chứa sự hả hê, sung sướng trước chiến thắng oanh
liệt của vua Quang Trung và sự thất bại thảm hại của kẻ thù. Nhịp điệu có phần
chậm hơn, không giấu giếm được sự ngậm ngùi, xót thương khi miêu tả tỉ mỉ
cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống vì họ vốn là những cựu thần của 11
nhà Lê. Đoạn trích đã thể hiện quan điểm lịch sử đúng đắn, tinh thần yêu nước
thương dân của nhóm tác giả và từ đó lên án lũ bán nước, cướp nước.
Qua đoạn trích trên, nhóm tác giả đã đem đến cho người đọc một bức tranh
"toàn bích" về vị anh hùng oai phong, lẫm liệt và tài giỏi Quang Trung. Đó cũng
chính là tấm gương sáng để chúng ta cần học hỏi và noi theo về tinh thần quả
cảm, yêu nước. Lòng yêu nước chính là sức mạnh vĩ đại giúp chúng ta chiến
thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 2
Hoàng Lê nhất thống chí, cuốn sách của dòng họ Ngô Thì ở làng tả Thanh Oai,
một cuốn sách ghi lại nhiều sự kiện lịch sử, trong đó có vua Quang Trung đại
phá hơn ba mươi vạn quân Thanh, một tác phẩm đưa con người ngược lại quá
khứ để thấy được cuộc sống, xã hội thời bấy giờ và hòa mình vào chiến thắng
vẻ vang hào hùng, đắm mình trong không khí tưng bừng lịch sử đó.
Ngô Gia Văn Phái đã tái hiện chân thực nhân vật lịch sử Quang Trung, người có
công to lớn, một vị anh hùng của dân tộc trong chống ngoại xâm, giữ gìn đất
nước, Quang Trung hiện lên trong tâm trí người đọc là một con người mạnh mẽ,
quyết đoán, tài trí song toàn, xả thân vì đất nước, xả thân vì dân tộc, đoán trước
được những gì sẽ xảy ra với nhân dân ta khi nghe tin quân Thanh tấn công vào
miền Bắc đất nước ta, nhận thấy được mối nguy hại cận kề, sự tàn khốc mà
quân Thanh sẽ gây ra cùng với sức mạnh của chúng ông đã lên ngôi hoàng đế tự
mình dẫn quân ra Bắc ngăn chặn mối nguy hại đó, một con người tài ba có tài
thao lược, con người có thể thấu hiểu lòng dân, thấu hiểu lòng binh sĩ, những lời
lẽ của ông khích lệ mạnh mẽ tình yêu dân tộc, sức mạnh, nỗi khát khao trong
lòng binh sĩ. Không chỉ thế ông còn có tầm nhìn xa trông rộng, biết cách chọn
người tài, đứng đầu nhưng vẫn lắng nghe ý kiến từ nhiều phía để có cái nhìn
đúng đắn nhất về sự việc. 12
Đặc biệt mưu lược hơn người của Quang Trung thể hiện trong cách ông cầm
quân, cách mà ông lãnh đạo binh sĩ của mình tiến công thần tốc ra Bắc, cùng
với chiến thuật được lên trước đó vô cùng tinh vi, không có một kẽ hở nào trước
cuộc tấn công quân Thanh ở Ngọc Hồi, sự tư duy khi ông cho người ghép ván,
lấy rơm dấp ván đánh vào tâm lí quân địch khiến chúng hoảng sợ dẫm đạp lên
nhau chạy về nước trước sự xuất hiện bất ngờ của quân ta, tính chất bất ngờ là
vô cùng quan trọng trong trận thắng lần đó, sự kiêu căng chủ quan vì sức mạnh
của bản thân mà coi thường quân dân ta đã dẫn tới thất bại của quân Thanh. Lúc
quân thanh còn kiêu ngạo cả tướng lẫn quân cũng là lúc lực lượng của ta chuẩn
bị chu đáo, biến đổi từng ngày một, không khinh thường địch, tinh thần dân tộc
đồng lòng của nhân dân cũng là nguyên nhân to lớn nhất dẫn tới những trận
thắng tiếp theo. vừa ca ngợi mưu trí song toàn của Quang Trung các tác giả nhà
Ngô Gia Văn Phái cũng đã rất tinh tế trong tái hiện lại thảm cảnh vô cùng nhục
nhã của bè lũ vua quan tướng Ngô Sĩ Nghị và sự mục nát, yếu ớt không có tinh
thần của dưới thời vua Lê Chiêu Thống, những con người bất tài vô dụng đó
người thì theo thuyền cá về phía Bắc lẩn trốn, người thì tháo chạy không kịp
mặc giáp, không kịp đóng yên ngựa.
Ngòi bút tinh tế của mình các tác giả đã dựng lên một thảm cảnh vừa buồn cười
vừa tủi nhục của chế độ mục nát, đồng thời ca ngợi sự tài tình của vua Quang
Trung, tinh thần dân tộc của quân dân ta kiên cường, phản ánh trận chiến ác liệt
và vẻ vang của chiến thắng trong giai đoạn lịch sử không thể quên.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 3
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm viết bằng chữ Hán của Ngô gia văn phái.
Tác phẩm là những ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê. Đoạn
trích thuộc hồi thứ mười bốn đã tái hiện chân thực vẻ đẹp anh dũng, hào hùng,
tài trí song toàn của người anh hùng áo vải Quang Trung. Đồng thời cho thấy sự
thất bại thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống và bè lũ cướp nước. 13
Trong tác phẩm nổi bật lên hai chân dung chính: chân dung của vị anh hùng
Nguyễn Huệ và chân dung của bè lũ cướp nước cùng vua tôi Lê Chiêu Thống.
Với mỗi nhân vật tác giả có cách khắc họa riêng, hết sức tài tình vừa đảm bảo
tính chân thực, khách quan vừa thể hiện được cái tôi cá nhân tác giả.
Trước hết về người anh hùng Quang Trung, ông là nhà lãnh đạo quyết đoán, có
trí tuệ sáng suốt. Ngay khi vừa hay tin quân Thanh tiến đến Thăng Long, ông đã
nhanh chóng quyết định lên ngôi vua, để danh chính ngôn thuận đem quân tiến
ra Bắc. Cách làm việc của ông hết sức nhanh chóng, quyết đoán, có tầm nhìn
xa, bởi nếu ông không lên ngôi vua thì danh không chính, ngôn cũng không
thuận thật khó có thể làm việc lớn.
Lên ngôi vua cũng cách thức làm yên lòng dân và ông ngay lập tức cầm quân ra
Bắc. Trên đường tiến quân ra Bắc ông gặp Nguyễn Thiếp một người tài giỏi,
mưu lược, ông trân trọng, lắng nghe kế sách của Nguyễn Thiếp. Ông là người
rất trân trọng và ủng hộ người tài. Ra đến Nghệ An ông đã tuyển được hơn một
vạn tinh binh, mở cuộc duyệt quân lớn. Trước khi cầm quân ra Bắc ông còn đọc
lời phủ dụ binh lính, vạch trần âm mưu xâm lược hiểm độc của nhà Thanh, cho
thấy bộ mặt xấu xa, tàn ác của kẻ thù; đồng thời cũng nêu lên ý thức kỷ luật cho binh sĩ.
Những lời ông nói như sấm vang, chớp giật, có tác động to lớn trong việc khích
lệ tinh thần binh sĩ. Ông còn là người hết sức sáng suốt, có tầm nhìn ra trông
rộng. Là một người tài giỏi, Quang Trung đã đoán biết được tình hình của giặc,
lập kế sách tiến đánh và khẳng định chỉ trong vòng mười ngày là giành lại được
kinh thành Thăng Long. Ông tiến hành một cuộc hành binh thần tốc, 25 tháng
Chạp xuất quân ở Phú Xuân, 30 ông đã đến Tam Điệp ở Ninh Bình.
Và ngày đêm 30 bắt đầu tiến quân ra thành Thăng Long. Đây quả là cuộc hành
quân thần tốc, có một không hai trong lịch sử nước nhà. Không chỉ vậy ông còn
nhìn rõ bản chất quân địch, là nước lớn, sau khi thua nhất định sẽ quay lại báo 14
thù. Bởi vậy, ông đã có kế sách ngoại giao ngay sau khi dành được chiến thắng.
Ông quả là một bậc kỳ tài, thấu hiểu những gian nan, thử thách mà dân tộc phải
đối mặt, đưa ra những phương hướng, chiến lược đứng đắn, là cơ sở cho sự đại thắng của quân dân ta.
Quang Trung còn có tài dụng binh như thần. Ông thấu hiểu chỗ mạnh chỗ yếu
của các tướng sĩ: trách mắng Sở và Lân rất nghiêm khắc cho họ thấy mức độ
nghiêm trọng của sự việc, nhưng đồng thời cũng khen ngợi hành động của họ để
bảo toàn lực lượng. Ông đánh giá cao Ngô Thì Nhậm về sự mưu trí, mưu lược
hơn người. Ông quả là một tướng tài biết nhìn việc, nhìn người.
Tài cầm quân đã xuất sắc, tài đánh trận của ông cũng không hề kém cạnh. Để
khích lệ lòng quân ông cho binh sĩ ăn tết trước, hẹn mùng 7 vào Thăng Long
mở tiệc lớn. Không những vậy ông còn đảm bảo được yếu tố bất ngờ, bắt sống
hết quân do thám và tân binh của giặc, khiến các đồn không thể báo tin cho
nhau. Đảm bảo yếu tố bất ngờ, nhằm đúng tết nguyên đán tiến đánh kẻ thù, bởi
lúc này chúng đang ngủ quên trên chiến thắng, say mê hưởng lạc, không phòng bị.
Ông thay đổi chiến thuật linh hoạt: trận Hà Hồi dùng nghi binh, đánh Ngọc Hồi
cho quân chế tạo những tấm ván ghép bằng rơm ướt, nhờ vậy mà giảm được
thương vong. Đặc biệt hơn nữa ông còn đích thân ra trận, chỉ huy một hướng
tiến công. Quang Trung là hội tụ vẻ đẹp, tinh hoa và khí phách của dân tộc.
Trái ngược với vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt của vua Quang Trung bọn quân tướng
nhà Thanh thất bại thảm hại. Tôn Sĩ Nghĩ ban đầu tiến vào nước ta một cách dễ
dàng nên luôn kiêu căng tự mãn. Không nắm rõ tình hình, chỉ lo ăn chơi hưởng
lạc. Hắn còn là kẻ tham sống, sợ chết, chưa đánh đã sợ mất mật mà bỏ chạy:
“ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn kỵ mã của mình
chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy”. Những kẻ khác kẻ thì
đầu hàng, kẻ thắt cổ tự vẫn. 15
Thật là một bọn ô hợp, hèn nhát và bất tài. Ở đoạn văn này ngòi bút miêu tả
được tác giả phát huy hết tác dụng, kết hợp với nhịp điệu nhanh, gấp gáp cho
thấy sự hoảng hốt và thất bại thảm hại của kẻ thù. Đồng thời còn cho thấy giọng
điệu hả hê, sung sướng trước thắng lợi của quân ta và sự đại bại của quân giặc.
Còn về phía vua tôi Lê Chiêu Thống, khi xảy ra biến loạn, quân Thanh tan rã thì
vô cùng sợ hãi, bỏ chạy, thậm chí còn cướp cả thuyền của dân để qua sông. Lê
Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc phải cạo đầu, tết tóc, trang phục như người
Mãn. Thật đáng thương thay từ một bậc quân vương đứng đầu hàng vạn người,
vậy mà chỉ vì quyền lợi của bản thân và dòng họ, Lê Chiêu Thống đã bán nước
nên phải chịu nỗi nhục vong quốc, nắm xương tàn phải bỏ lại nơi đất khách quê người.
Mặc dù cùng miêu tả về sự thảm bại, nhưng nhịp điệu ở đoạn văn này nhịp điệu
lại chậm hơn. Thể hiện sự xót thương, ngậm ngùi cho số phận của Lê Chiêu
Thống. Bởi dù sao ông cũng là một cựu thần trung thành của nhà Lê, trước sự
sụp đổ triều đại mình tôn thờ không khỏi không ngậm ngùi, chua xót.
Tác phẩm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn hấp dẫn người đọc ở nghệ
thuật trần thuật. Ghi lại những sự kiện lịch sử qua từng mốc lịch sử, cho thấy
không khí khẩn trương, gấp gáp và chiến thắng hào hùng của quân ta. Nghệ
thuật miêu tả nhân vật sinh động, hấp dẫn. Từng trận đánh được miêu tả chi tiết,
cho thấy khí thế hừng hực của quân ta và sự thất bại thảm hại của quân thù.
Nghệ thuật đối lập giữa ta và địch: một bên đớn hèn, nhát chết một bền xông
xáo, mưa chí, tài lược.
Qua hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất thống chí, tác giả đã cho người đọc
một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về vẻ đẹp anh hùng, dũng cảm, mưu lược của
người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Chiến thắng oanh liệt vẻ
vang của nhân dân ta trước kẻ thù. Đồng thời còn cho thấy sự thất bại thảm hại
của nhà Thanh, và sự đáng thương của vua tôi Lê Chiêu Thống. 16
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 4
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm do một số người cùng trong dòng họ Ngô
Thi viết. Có thể hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du viết trong
những thời điểm nối tiếp nhau.
Ngô Thì Chí (1758 – 1788) là em ruột của danh nhân Ngô Thì Nhậm. Ông làm
quan dưới thời Lê Chiêu Thống, từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyễn
Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt lộng thần Nguyễn Hữu Chỉnh và dâng Trung
hưng sách bàn kế khôi phục nhà Lê. Sau đó, ông được vua Lê Chiêu Thống cử
đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong, lập ra đoàn nghĩa binh chống Tây
Sơn, nhưng trên đường đi ông bị bệnh và mất đột ngột tại huyện Gia Bình, tỉnh
Bắc Ninh. Nhiều tài liệu cho rằng ông viết bảy hồi đầu của truyện.
Ngô Thì Du (1772 – 1840) là anh em chú bác với Ngô Thì Chí ông học giỏi
nhưng không đổ đạt gì. Dưới triều Tây Sơn, ông ấn mình ở vùng Kim Bảng, Hà
Nam. Thời nhà Nguyễn, ông ra làm quan, được bổ nhiệm làm Đốc học Hải
Dương, đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là tác giả bảy hồi tiếp theo của Hoàng
Lê nhất thống chí, trong đó có hồi mười bốn được trích giảng ở đây. Còn lại ba
hồi cuối có thể do một người khác trong Ngô gia văn phái viết vào khoảng đầu triều Nguyễn.
Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn sách ghi chép về những sự kiện của vương
triều nhà Lê, có lẽ là vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại quyền cai trị đất
Bắc Hà cho vua Lê, về hình thức, tuy tác phẩm chịu ảnh hưởng lối viết tiểu
thuyết chương hồi của Trung Quốc, những các tác giả rất tôn trọng sự thật lịch
sử. Cho nên, mặc dù do nhiều người viết và viết ở nhiều thời điểm khác nhau
nhưng nội dung tác phẩm về cơ bản vẫn giữ được tính nhất quán.
Trong văn học Việt Nam thời trung đại, có thể coi Hoàng Lê nhất thống chí là
một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán có quy mô to lớn nhất và đạt được 17
những thành công xuất sắc nhất về mặt nghệ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết.
Tác phẩm đã tái hiện chân thực và sinh động bối cảnh lịch sử đầy biến động ở
nước ta trong khoảng hơn ba thập kỷ cuối của thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX.
Khởi đầu câu chuyện là sự sa đọa, thối nát đến cực độ của các tập đoàn phong
kiến. Thời Lê mạt, vua chẳng ra vua. Vua Lê Hiển Tông ốm đau, bạc nhược, chỉ
còn biết chắp tay rủ áo, cam phận làm bù nhìn. Câu nói cửa miệng của ông ta là:
Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui, Vua Lê Chiêu Thống đê hèn, cúi đầu khuất
phục trước giặc Mãn Thanh, mong cứu vãn cái ngai vàng mục ruỗng sắp sụp đổ.
Ông vua cuối cùng là Lê Duy Mật thì tệ hại đến mức bị người đời đánh giá cùng
chỉ là một cục thịt trong cái túi da mà thôi.
Bên phủ Chúa, Trịnh Sâm sống xa hoa hưởng lạc, hoang dâm vô độ. Vì say mê
Đặng Thị Huệ nên Chúa Trịnh sẵn sàng phế con trưởng, lập con thứ, gây nên
loạn từ trong nhà loạn ra. Anh em chém giết lẫn nhau. Kiêu binh ỷ thế lộng
hành, Sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến đã đến hồi quyết
liệt, cần được giải quyết. Trong bối cảnh đó, cuộc nổi dậy với khí thế ngất trời
của phong trào Tây Sơn là một tất yếu.
Rồi Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh, lập nên triều đại Tây
Sơn. Nhưng cơ nghiệp nhà Tây Sơn ngắn ngủi. Chúa Nguyền dần dần hồi phục
thế lực, dẹp Tây Sơn, lập vương triều mới (1802). Kết thúc tác phẩm là tình
cảnh thảm hại, nhục nhã của vua tôi Lê Chiêu Thống khi nương thân ở nước người.
Tất cả những sự kiện lịch sử trên được các tác giả ghi chép lại thật cụ thể, tỉ mi.
Nối bật lên trên bối cảnh của thời đại nhiễu nhương ấy là hình bóng của những
con người thuộc các phe phái đối lập, đặc biệt là hình ảnh ngời sáng của vua 18
Quang Trung Nguyễn Huệ – người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của dân tộc.
Hồi thứ mười bốn là đoạn trích dài, kể lại diễn biến của nhiều tình tiết, sự kiện.
Để hiểu rõ đoạn trích này, chúng ta phải tìm hiểu đôi nét về nội dung của hồi
mười hai và mười ba. Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần
thứ hai đề bắt viên quan phản bội Vũ Văn Nhậm thì vua Lê Chiêu Thông sợ hãi
bỏ kinh thành Thăng Long chạy lên vùng biên ải phía Bắc, chiêu mộ nghĩa binh
Gần vương đế chống lại.
Nhưng nhóm nghĩa binh ít ỏi ấy không đủ sức đối địch với quân Tây Sơn. Lê
Chiêu Thống bèn cử hai viên quan hầu cận là Lê Duy Đản và Trần Danh Án bí
mật trốn sang Trung Quốc, gặp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị để
cầu viện. Tôn Sĩ Nghị muốn nhân cơ hội này cướp nước ta liền tâu lên vua Mãn
Thanh, xin đưa quân sang đánh.
Được lệnh, Tôn Sĩ Nghị kéo đại quân sang với danh nghĩa phù Lê, diệt Tây
Sơn. Trước thế giặc mạnh, quân Tây Sơn rút lui về cố thủ ở Tam Diệp. Quân
giặc kéo thẳng tới Thăng Long, không gặp sức kháng cự nào liền sinh ra kiêu
căng, tự mãn. Lê Chiêu Thống cùng theo về, nhận sắc phong bù nhìn An Nam Quốc Vương.
Đoạn đầu của hồi thứ mười bốn nói về việc Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng
Long, thấy dễ dàng, cho là vô sự nên không đề phòng gì cả. Điều đó làm cho
vua tôi Lê Chiêu Thống vốn đã biết rất rõ tài cầm quân xuất quỷ nhập thần của
Nguyễn Huệ, rất lo lắng.
Quân tướng Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long chỉ lo chơi bời, tiệc tùng, không hề để ý
đến việc quân, lính thì tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỷ
luật gì cả. Người cung nhân cũ đến tâu với thái hậu về thái độ chủ quan coi
thường Tây Sơn của giặc Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống có nguy cơ phải
chạy sang đất Trung Hoa một chuyến nữa. Thái hậu hoảng hốt nói với vua. Nhà 19
vua lúc bấy giờ mới hoảng sợ, đến doanh trại xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân, bị hắn
mắng thẳng vào mặt nên sợ hãi lui về.
Ở hồi thứ mười bốn này, với cảm quan lịch sử nhạy bén và niềm tự hào dân tộc
to lớn, các tác giả đã khắc hoạ thành công hình ảnh người anh hùng dân tộc
Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, miêu tả sự thảm bại
của các tướng lĩnh nhà Thanh và số phận bi đát của vua Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân.
Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ được miêu tả là con người tài ba, hành
động một cách quả quyết, xông xáo, nhanh gọn và có chủ đích rõ ràng. Nghe tin
giặc Thanh dã chiếm đến tận Thăng Long. Nguyễn Huệ đã thân chinh cầm quân
đi ngay. Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng (từ 24 tháng 11 đến 30 tháng Chạp),
Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế
đốc xuất đại binh ra Bắc, gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn, tuyển mộ quân
lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành
quân, đánh giặc và nghĩ đến cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
Một nhân tố quan trọng cần phải xem xét trước hết trong văn bản này là tác giả.
Khi sáng tạo tác phẩm, tác giả không chỉ tái hiện hiện thực khách quan mà còn
thể hiện những tư tưởng, tình cảm, quan điểm chính trị, xã hội,… của mình.
Tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô gia văn phái – một nhóm tác giả rất
trung thành với nhà Lê. Nếu xét theo quan điểm phong kiến thì trong con mắt
của Ngô gia, vua Quang Trung là kẻ nghịch tặc. Thế nhưng trong tác phẩm,
hình ảnh Quang Trung – Nguyễn Huệ lại được miêu tả khá sắc nét với tài cầm
quân “bách chiến bách thắng”, tính quyết đoán cùng nhiều phẩm chất tốt đẹp khác.
Các chi tiết, sự kiện trong phần đầu đoạn trích này cho thấy vua Quang Trung là
người rất mạnh mẽ, quyết đoán nhưng không hề độc đoán, chuyên quyền. Ông
sẵn sàng lắng nghe và làm theo ý kiến của thuộc: hạ, lên ngôi vua để giữ lòng 20
người rồi mới xuất quân ra Bắc. Ngay khi đến Nghệ An, ông lại cho vời một
người cống sĩ đến để hỏi về việc đánh quân Thanh như thế nào.
Chi tiết này cho thấy Quang Trung luôn quan tâm đến ý dân, lòng dân. Khi vị
cống sĩ nói: “Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, quân Thanh sẽ
bị dẹp tan”, ông “mừng lắm”, không chỉ vì người cống sĩ nói đúng ý mình mà
chủ yếu là vì chủ trương của ông, quyết tâm của ông đã được nhân dân đồng
tình ủng hộ. Bằng chứng là ngay sau đó ông cho tuyển quân “chưa mấy lúc đã
được hơn một vạn quân tinh nhuệ”.
Cách ăn nói của vua Quang Trung cũng rất có sức thuyết phục, vừa khéo léo,
mềm mỏng vừa rất kiên quyết, hợp tình hợp lý. Khi nói với binh sĩ, ông đã cho
họ ngồi (một cử chỉ biểu lộ sự gần gũi mặc dù ông đã xưng vương), từng lời nói
đều giảm đi, để hiểu. Sau khi lấy lịch sử từ các triều đại trước ra để cho binh sĩ
thấy nỗi khổ của nhân dân dưới ách thống trị ngoại bang, ông không quên tuyên
bố sẽ trừng phạt những kẻ phản bội, ăn ở hai lòng. Điều đó khiến cho binh sĩ
thêm đồng lòng, quyết tâm chống giặc.
Những lời nói, việc làm của vua Quang Trung thật hợp tình, hợp lý và trên hết
là hợp với lòng người. Vừa mềm dẻo vừa kiên quyết, xét đúng công, đúng tội,
đặt lợi ích của quốc gia và của dân chúng lên trên hết, ông đã khiến cho binh sĩ
thêm cảm phục, càng quyết tâm chống giặc. Đó là một yếu tố rất quan trọng tạo
nên những chiến thắng liên tiếp của quân Tây Sơn dưới sự thống lĩnh của vua Quang Trung.
Ở phần tiếp theo của đoạn trích, để diễn tả không khí chiến trận rất khẩn trương,
quyết liệt, các tác giả đã chú trọng nhiều hơn đến các sự kiện nhưng không vì
thế mà làm mờ nhạt hình ảnh tài năng của vị thống lĩnh. Lời hứa chắc chắn
trước lúc xuất quân của ông đã được đảm bảo bằng tài thao lược, xử trí hết sức
nhạy bén, mưu trí trong những tình huống cụ thể: đảm bảo bí mật hành quân,
nghi binh tấn công làng Hà Hồi, dùng ván phủ rơm ướt để tấn công đồn Ngọc 21
Hồi,… Tài dùng binh khôn khéo đó khiến cho quân Thanh hoàn toàn bị bất ngờ,
khi chúng biết được tin tức thì đã không thể chống cự lại được nữa, chỉ còn cách
giẫm đạp lên nhau mà chạy.
Phần cuối của đoạn trích chủ yếu diễn tả cuộc tháo chạy hỗn loạn, nhục nhã của
đám quan quân nhà Thanh. Ra đi “binh hùng tướng mạnh”, vậy mà chưa đánh
được trận này đã phải tan tác về nước. Rất có thể sau khi bại trận, quân số của
Tôn Sĩ Nghị (trước đó là hai – mươi vạn) vẫn còn đông hơn quân của vua
Quang Trung nhưng trước sức tấn công như vũ bão của quân Tây Sơn, dưới sự
chỉ huy của một vị tướng tài ba và quyết đoán, chúng đã không còn hồn vía nào
để nghĩ đến chuyện chống trả.
Trong đoạn này giọng điệu của các tác giả tỏ ra vô cùng hả hê, vui sướng. Khi
miêu tả tài “xuất quỷ nhập thần” của quân Tây Sơn, các tác giả viết: “Thật là:
Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”… Ngược lại, khi viết về Tôn
Sĩ Nghị thì: “Tôn Sĩ Nghị sợ mất mặt, ngựa không kịp đóng yên, người không
kịp mặc áo giáp…”. Đó không còn là giọng của một người ghi chép lại các sự
kiện một cách khách quan mà là giọng điệu sảng khoái của nhân dân, của dân
tộc sau khi đã khiến cho bọn xâm lược ngoại bang, Vốn trước ngạo nghễ là thế,
giờ đây phải rút chạy nhục nhã.
Đoạn nói về vua tôi nhà Lê càng khẳng định thái độ của các tác giả khi viết tác
phẩm này. Mặc dù luôn đề cao tư tưởng trung nghĩa nhưng trước sự nhu nhược,
hèn hạ của đám vua tôi nhà Lê, các tác giả vẫn thể hiện ít nhiều thái độ mỉa mai,
châm biếm. Số phận những kẻ phản dân, hại nước cũng thảm hại chẳng kém gì
những kẻ cậy đông, đem quân đi xâm lược nước khác. Đó là số phận chung mà
lịch sử dành cho lũ bán nước và lũ cướp nước.
Cuộc đại phá quân Thanh xâm lược là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Người làm nên kỳ tích ấy là Quang Trung
– Nguyễn Huệ, vị “anh hùng áo vải” vừa có tài thao lược vừa luôn hết lòng vì 22
dân, vì nước. Trang sử hào hùng ấy đã được ghi lại bởi Ngô gia văn phái –
nhóm tác giả đã vượt qua những tư tưởng phong kiến có hữu để tái hiện lịch sử một cách chân thực.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 5
Văn học trung đại Việt Nam khi nhắc đến thể chí không thể không nhắc đến tác
phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Tác phẩm không chỉ là
một mẫu mực của thể loại, mà cùng với ngòi bút chân thực sắc sảo đã cho hậu
thế thấy được bản lĩnh của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, cùng sự thất bại
thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống và quân Thanh. Điều này đã được phản
ánh rõ nét trong hồi thứ mười bốn của tác phẩm này.
Tác phẩm viết theo thể “chí”: một thể văn cổ ghi chép sự vật, sự việc, vừa có
tính chất văn học, vừa có tính chất lịch sử. (Đây thực chất là một tiểu thuyết lịch
sử, viết theo lối tiểu thuyết chương hồi.) Tác phẩm gồm 17 hồi, 7 hồi đầu do
Ngô Thì Chí viết, 7 hồi tiếp theo do Ngô Thì Du viết, 3 hồi còn lại do người
khác viết. Tác phẩm được viết ở nhiều thời điểm nối tiếp nhau từ giai đoạn cuối
triều Lê đến đầu triều Nguyễn.
Đó là thời kỳ thống nhất đất nước thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh. Đoạn trích là
Hồi thứ 14: Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu
Thống trốn ra ngoài. Văn bản là lời ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của của Quang
Trung cùng nghĩa quân Tây Sơn và sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh, bè lũ Lê Chiêu Thống.
Mở đầu đoạn trích là sự xuất hiện của Nguyễn Huệ. Ngược về những phần
trước, có thể thấy Nguyễn Huệ được miêu tả hết sức tài năng, lẫm liệt: “Nguyễn
Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh lại có tài cầm quân. Xem hắn ra
Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết”. Chỉ bằng những 23
lời hết sức ngắn gọn của người hầu gái trong cung vua ta đã phần nào nhận thấy
tài năng hơn người của Nguyễn Huệ.
Quân Thanh kéo vào Thăng Long, bành trướng thế lực, nghe được tin đó
Nguyễn Huệ hết sức tức giận, định cầm quân đi tiêu diệt ngay lũ nghịch thù.
Nhưng nghe theo lời khuyên của các tướng sĩ, tại núi Bân ông đã tế cáo trời đất
lên làm vua, lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi lệnh xuất quân đi ngay. Việc
Nguyễn Huệ lên ngôi vua đã tạo nên cơ sở vững chắc cả về tình và lý, qua đó
thấy được tài năng của ông. Dù là người tài năng xuất chúng nhưng ông cũng
rất biết lắng nghe ý kiến người khác, cân nhắc kỹ lưỡng trong mọi hành động.
Tài năng cầm quân, thiên tài quân sự trong ông được chứng minh qua cuộc hành
quân thần tốc ra kinh thành Thăng Long. Ông lựa thời cơ là những ngày giáp tết
Nguyên Đán, khi kẻ địch đang mải mê trên chiến thắng, lo chuyện ăn chơi
hưởng lạc, không phòng bị để tiêu diệt chúng. Vừa đi ông vừa chiêu mộ quân sĩ,
chỉ trong vài ngày ngắn ngủi Nguyễn Huệ cùng đội quân của mình đã ra đến Bắc Hà.
Trước khi chuẩn bị tiến đánh, trong bài dụ của mình ông đã khích lệ lòng yêu
nước, lòng căm thù giặc cho tướng sĩ: “Người phương Bắc không phải giống
nòi nước ta bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc
ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người minh không thể chịu nổi, ai cũng
muốn đuổi chúng đi […] dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi
được chúng về phương Bắc”. Đọc lời dụ của ông ta không khỏi nhớ đến bài
Hịch tướng sĩ hào hùng của Trần Quốc Tuấn, lời dụ của ông cũng có sức thuyết phục không kém.
Trong cách dùng người, Nguyễn Huệ cũng tỏ ra là người hết sức xuất sắc. Ông
nhận thấy được điểm yếu của mình, Sở và Lân chỉ là kẻ hữu dũng, vô mưu bởi
vậy ông để lại Ngô Thì Nhậm mưu lược hơn người. Và quả nhiên nhìn nhận của
ông hoàn toàn chính xác. Ngô Thì Nhậm phát huy bản thân, “biết nín nhịn để 24
tránh mũi nhọn” của kẻ thù, tránh tổn thất cho quân ta. Đồng thời cũng không trách mắng Sở và Lân.
Bên cạnh đó, ta cũng thấy ông là người có tầm nhìn xa trông rộng, dự đoán
chính xác khả năng chiến thắng của ta và tiên liệu những công việc ngoại giao
cần làm sau chiến thắng. Ông cử Ngô Thì Nhậm, khéo ăn khéo léo để thương
thuyết với kẻ thù, để nhân dân ta nghỉ sức, xây dựng đất nước. Ông quả là một
vị vua vừa có tâm lại vừa có tầm.
Đẹp đẽ nhất là khung cảnh Quang Trung lâm trận, suy nghi, khí thế bừng bừng,
một mình một mũi tiến quân, tiêu diệt quân giặc. Với tinh thần tôn trọng lịch sử,
sự ngưỡng mộ, lòng khâm phục chân thành với vua Quang Trung bằng ngòi bút
chân thực, đan xen kể và tả sinh động, các tác giả Ngô gia văn phái đã làm nổi
bật hình ảnh vua Quang Trung – người anh hùng áo vải, niềm tự hào lớn của cả dân tộc.
Bên cạnh một Quang Trung uy nghi lẫm liệt trong chiến trận lại là những kẻ bán
nước hèn nhát – vua tôi Lê Chiêu Thống. Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung
thành của ông ta vì lợi ích riêng của dòng họ mà đem vận mệnh của dân tộc đặt
vào tay kẻ thù xâm lược. Và lẽ tất nhiên, khi bán nước họ sẽ chịu nỗi sỉ nhục và
sự đau đớn. Từ một ông vua Lê Chiêu Thống trở thành kẻ số phận hết sức bi
thảm. Phải chạy trốn sang phương Bắc và chết ở nơi đất khách quê người.
Đối lập với hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn là chân dung kẻ thù xâm lược, cụ thể
qua hình ảnh kẻ cầm đầu - Tôn Sĩ Nghị. Hắn ta là kẻ kiêu căng, tự mãn, chủ
quan, kéo quân vào Thăng Long dễ dàng “ngày đi đêm ngủ” như “đi trên đất
bằng”, cho là vô sự, không đề phòng gì.
Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì hèn nhát, vô trách nhiệm thì sợ mất
mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp… chuồn trước qua
cầu phao; quân thì “ai nấy đều rụng rời sợ hãi xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán
loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, “quân sĩ các doanh nghe thấy đều hoảng hồn, 25
tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết
rất nhiều”, “đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được
nữa”. Miêu tả sự trốn chạy, đại bại của quân tướng nhà Thanh với âm điệu
nhanh, mạnh, gấp gáp gợi sự thất bại liên tiếp, thể hiện tâm trạng hả hê, sung
sướng của người cầm bút.
Bằng quan điểm lịch sử chân chính của các sử gia, Ngô gia văn phái đã ghi lại
một cách chân thực và sắc nét hình ảnh hào hùng của người anh hùng áo vải
Quang Trung. Bên cạnh đó là sự thảm bại của vua tôi Lê Chiêu Thống và sự
thất bại nhục nhã của quân tướng nhà Thanh. Đoạn trích được trần thuật theo
dòng thời gian, giọng điệu linh hoạt, khi trầm buồn, khi gấp gáp, hối hả đã cho
thấy tài năng kể chuyện bậc thầy của tác giả.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 6
"Hoàng Lê nhất thống chí" là cuốn lịch sử chương hồi của một số tác giả trong "
Ngô gia văn phái". Tác phẩm đã khái quát một giai đoạn lịch sử với bao biến cố
dữ dội đẫm máu từ khi Trịnh Sâm lên ngôi Chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc
Hà (1868-1802) như : loạn kiêu binh, triều Lê- Trịnh sụp đổ, Nguyễn Huệ đại
phá quân Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn.
Sự sụp đổ không thể nào cưỡng đại của triều đại Lê- Trịnh và khí thế sấm sét
của phong trào nông dân Tây Sơn là hai nội dung lớn được phản ánh qua
"Hoàng Lê nhất thống chí". Đặc biệt là Hồi thứ 14 đã được thể hiện một cách
hào hùng sức mạnh quật khởi của dân tộc trước thù trong giặc ngoài và khắc
họa hình tượng Nguyễn Huệ, người anh hùng dân tộc đã làm nên chiến công Đống Đa bất tử.
Ta như được sống lại những giờ phút lịch sử oanh liệt và hào hùng của dân tộc
vào cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Kỉ Dậu (1789) khi Lê Chiêu Thống đã 26
rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta.
Tác giả " Hoàng Lê nhất thống chí" mở đầu Hồi thứ 14 đã viết:
"Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận,
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài"
Vị cứu tinh của dân tộc thuở ấy là Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đất Tây
Sơn. Ngày 22 tháng 11 năm Mậu Thân, Tôn Sĩ Nghị chiếm Thăng Long. Tướng
Ngô Văn Sở lui binh về án ngữ tại Tam Điệp. Ngày 24, Nguyễn Huệ được tin
cấp báo, và ngày 25 lên ngôi Hoàng đế "tế cáo trời đất cùng các thần Sông, thần
Núi", lấy niên hiệu là Quang Trung. Nguyễn Huệ đốc xuất đại binh ra Bắc.
Ngày 29 đến Nghệ An tuyển thêm một vạn quân tinh nhuệ.
Nguyễn Huệ tổ chức duyệt binh truyền hịch đến quân Thanh, vạch trần âm mưu
của bọn chúng "mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, kêu gọi tướng sĩ
đồng tâm, hiệp lực, để dựng nên công lớn".... Nhà Vua chia quân ra làm năm
doanh (tiền, hậu, tả, hữu, trung quân) rồi thần tốc ra Tam Điệp hội quân với
cánh quân Ngô Văn Sở. Quang Trung chia đại quân ra làm năm đạo, cho quân
ăn tết Nguyên Đán trước, "bảo kín" với các tướng soái đến tôi 30 thần tốc đánh
quân Thanh, hẹn ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long "mở tiệc ăn mừng".
Qua đó, ta thấy rõ Quang Trung có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, sáng suốt,
giàu mưu lược, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng lũ xâm lăng. Các sự
kiện như lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, tuyển quân và truyền hịch ở Nghệ An,
cho quân sĩ ăn tết Nguyên Đán trước; đặc biệt, nhà vua đã tạo nên yếu tố bất
ngờ đánh quân Thanh vào đúng dịp tết khi chúng "chỉ chăm chú vào việc yến
tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc" đã thể hiện tinh thần quyết
đoán của một thiên tài quân sự khi Tổ quốc lâm nguy. 27
Tác giả mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi
thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa xảy ra: "Không biết rằng,
Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân.
Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết.
Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một
người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã
phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét."
Nguyễn Huệ là một anh hùng có tài điều binh khiển tướng, trù hoạch quân mưu
như thần. Ra quân đánh thắng như chẻ tre. Bắt sống toàn bộ toán quân Thanh đi
do thám tại Phú Xuyên, dùng mưu gọi loa, vây kín làng Hà Hồi, quân Thanh "
rụng rời sợ hãi" phải đầu hàng. Dùng kỳ mưu kết ba tấm ván thành một bức bên
ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức; mỗi bức có 20 dũng sĩ, lưng
dắt dao ngắn thành trận chữ "nhất" xông thẳng vào đồn Ngọc Hồi.
Súng quân Thanh bắn ra đều vô hiệu. Vua Quang Trung cưỡi voi độc chiến.
Sáng mồng 5, đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử,
hàng vạn giặc bị giết "thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại
bại". Vua đã đặt phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, hợp vây quân Thanh
tại Quỳnh Đô, giặc trốn xuống Đầm Mực vị quây Tây Sơn " lùa voi cho giày
đạp, chết đến hàng vạn người".
Thừa thắng, vua Quang Trung tiến vào giải phóng Kinh thành Thăng Long đúng
trưa mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu. trước kế hoạch hai ngày. Có tài thao
lược vô song, có tin vào sức mạnh chiến đấu và tinh thần yêu nước của tướng sĩ,
của nhân dân ta mới có niềm tin tất thắng ấy. Chiến thắng Đống Đa 1789 đã làm
cho tên tuổi người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ sáng ngời mãi ngàn thu.
Các tác giả "Hoàng Lê nhất thống chí" đã từng ăn lộc của nhà Lê, vốn có cảm
tình với nhà Lê nhưng trước họa xâm lăng và chiến công Đống Đa oanh liệt,
học đã đứng trên lập trường dân tộc, đã viết nên những trang văn đẹp nhất, dựng 28
nên một tượng đài kỳ vĩ, tráng lệ của người anh hùng Nguyễn Huệ. Chỉ mấy
năm sau, trong bài "Ai tu vãn" khóc vua Quang Trung qua đời, Ngọc Hân công chúa đã viết:
"Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình."
Đó là hình tượng người anh hùng Quang Trung trong văn học mà ta cảm nhận
được với bao người ngưỡng mộ. Bằng biện pháp nghệ thuật tương phản đối lập,
các tác giả " Hoàng Lê nhất thống chí" đã miêu tả và nêu bật sự thảm hại của
quân Thanh xâm lược và số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua phản nước hại dân.
Chỉ huy 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta là Tôn Sĩ Nghị. Sau khi
chiếm được Thăng Long "không mất một mũi tên, như vào chỗ đông người",
hắn vô cùng "kiêu căng buông tuồng". Bọn tướng tá chỉ biết "chơi bời tiệc tùng,
không hề để ý gì đến việc quân". Chúng huênh hoang tuyên bố là đầu xuân sẽ
kéo quân thẳng đến sào huyệt của Tây Sơn để "bắt sống, không một tên nào lọt lưới".
Thế nhưng, trước sự tiến công như vũ bão của Nguyễn Huệ, bao đồn giặc bị
đánh tơi bời. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng. Đồn Ngọc Hồi bị dập nát, Sầm Nghi
Đống phải tự tử. Hàng vạn giặc bỏ mạng ở đầm Mực. Tôn Sĩ Nghị " sợ mất mật,
ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp...nhằm hướng Bắc mà
chạy". Quân tướng " hoảng hồn, tan tác bỏ chạy". Chúng tranh nhau chạy, xô
đẩy nhau rơi xuống sông. Cầu phao đứt, hàng vạn giặc bị rơi xuống nước mà
chết, đến nỗi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn. Bọn sống sót chạy tháo thân về nước!
Bọn Việt gian bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh, Trịnh Hiến
đang trên đường tháo chạy trở thành lũ ăn cướp. Chúng bạt vía kinh hồn chạy 29
đến Nghi Tàm, " thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá vội cướp lấy rồi chèo
sang bờ bắc". Tại cửa ải, Lê Chiêu Thống và bọn cận thần " than thở, oán giận,
chảy nước mắt" trông thật bi đát, nhục nhã. Còn Tôn Sĩ Nghị "cũng lấy làm xấu
hổ". Chết nhưng nết không chừa! Lê Chiêu Thống hứa "lại xin sang hầu tướng
quân", nghĩa là tiếp tục rước voi về giày mả tổ ! Còn Tôn Sĩ Nghị vẫn khoác
lác: "Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi!"
Có thể nói, hình ảnh lũ xâm lược và bọn bán nước được miêu tả bằng nhiều chi
tiết châm biếm, thể hiện một thái độ khinh bỉ sâu sắc. Đọc Hồi thứ 14 của "
Hoàng Lê nhất thống chí", ta càng thấu rõ tim đen quân xâm lược phương Bắc
và âm mưu của Thiên triều, và bộ mặt dơ bẩn của bọn Việt gian bán nước. Ta
càng thêm tự hào về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta, vô cùng
kính phục và biết ơn Nguyễn Huệ, nhà quân sự thiên tài của Đại Việt.
Nghệ thuật kể chuyện, bút pháp miêu tả nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê
Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị) rất chân thực và sinh động tạo nên những trang văn
hào ùng tuyệt đẹp vừa giàu giá trị văn chương, vừa mang tính lịch sử sâu sắc.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 7
Ngô gia văn phái là một nhóm các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì. Sự nghiệp
văn chương của nhóm tác giả này nổi bật và tiêu biểu nhất với Hoàng Lê nhất
thống chí, cuốn lịch sử chương hồi nổi tiếng. Tác phẩm khái quát lại một giai
đoạn, thời kỳ lịch sử với những biến cố đầy biến động từ khi chúa Trịnh Sâm
lên ngôi đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà.
Hồi thứ mười bốn đã khắc họa một cách chân thực về sức mạnh, tinh thần quật
khởi của dân tộc ta trước cảnh thù trong giặc ngoài cùng với chiến công lừng
lẫy của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Cuối năm 1788, đầu năm 1789, Lê
Chiêu Thống đã kéo 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị đứng đầu sang xâm 30
chiếm nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị đã đóng chiếm được Thăng
Long, tướng Ngô Văn Sở rút lui về Tam Điệp để chống đỡ.
Trước hoàn cảnh đó, Nguyễn Huệ thể hiện như một người anh hùng của toàn
thể dân tộc. Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế vào ngày 25, "tế cáo đất trời
cùng các non sông, thần núi" rồi đưa quân ra Bắc. Ông cũng tuyển chọn những
đội quân tinh nhuệ và có tinh thần yêu nước, kháng chiến để tham gia chiến đấu
giữ gìn, bảo vệ đất nước.
Ngày 30 tháng Một, Nguyễn Huệ mở tiệc thiết đãi quân nhân, dự định vào ngày
mồng bảy thì vào thành để mở tiệc mừng. Có thể thấy rằng Nguyễn Huệ là một
con người có hành động quyết đoán, mạnh mẽ, có tư duy lớn trong việc nhận
biết tình hình của ta và của địch. Ông cũng là người nhìn xa trông rộng, biết
địch biết ta, tài thao lược vô cùng tài giỏi. Những dự định trong cuộc kháng
chiến được Nguyễn Huệ tiên đoán như một vị thần.
Trong kháng chiến, hình tượng người anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ
hiện lên với tư thế, tầm vóc lớn lao, oai phong. Quân Thanh khi vừa thấy bóng
dáng nhà vua đã chạy tán loạn tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, quân ta
vây kín làng rồi bắc loa thông báo khiến quân Tanh "ai nấy đều rụng rời sợ hãi,
liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết"; mùng 5 Tết tiến
đến Ngọc Hồi, nhà vua đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, ghép liền ba tấm làm
một, lấy rơm nước phủ lại, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, cùng
với đó là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ "nhất" tiến vào đồn.
Trước tình thế đó, mọi sự phản công của kẻ thù đều vô hiệu hóa. Quân Thanh đã
tự hại mình khi dùng những súng ống phun khói làm cho quân ta lung lay, rối
ren nhưng lại tự "gậy ông đập lưng ông" đối với chiến thuật này. Ngay lập tức,
Nguyễn Huệ đã sai đội quân khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước,
gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất, lấy dao ngắn mà chém. Trận chiến 31
kết thúc với hình ảnh "quân Thanh thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại".
Quang Trung cưỡi voi vào thành Thăng Long để giải phóng toàn dân tộc vào
trưa ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu.
Trước tình cảnh ấy, quân Thanh thua thảm hại khi mừng vui yến tiệc, không lo
việc lớn. Việc tác giả miêu tả cụ thể, chi tiết, sống động hình ảnh quân Thanh bị
thua tan tác, chạy loạn đã thể hiện rõ sự thất bại đến thảm hại của quân Thanh.
Hoàn toàn ngược lại trước sự thua trận của quân Thanh, quân ta mạnh mẽ, như
"tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên".
Sự khắc họa về cảnh thua trận đến thảm hại của quân tướng nhà Thanh được
Ngô gia văn phái miêu tả rất rõ. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng
yên, người không kịp mặc áo giáp, cứ nhằm hướng Bắc chạy. Sầm Nghi Đống
thì thắt cổ tự tử, quân nhà Thanh đều "hoảng hồn, tan tác bỏ chạy" khắp nơi,
tranh nhau xô đẩy xuống sông, giẫm đạp lên nhau mà chết. Lê Chiêu Thống
cũng vội vã bỏ chạy, cướp thuyền để đi.
Đoạn trích Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí là một đoạn trích đặc
sắc, hay và độc đáo, vô cùng sinh động. Có rất nhiều những điểm nhấn về nghệ
thuật đáng lưu ý trong đoạn trích, góp phần làm nổi bật được nội dung câu
chuyện. Giọng điệu lúc nhanh lúc chậm thể hiện sự biến đổi linh hoạt trong
cách kể chuyện khiến người đọc như đang sống trong từng trang văn của cuộc
kháng chiến hào hùng do Quang Trung - Nguyễn Huệ thao lược.
Cùng với đó là việc khắc họa hình tượng nhân vật với những nét nổi bật, đặc
sắc. Tướng vua tôi Lê Chiêu Thống cùng lũ quân Thanh đều thất bại thảm hại.
Trong khi đó, hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ hiện lên với tư
tưởng, tầm vóc hiên ngang, bất khuất. 32
Đoạn trích "Hồi thứ mười bốn" của Hoàng Lê nhất thống chí cho ta thấy được
những âm mưu tàn độc của quân xâm lược đối với dân tộc ta. Đoạn trích cũng
cho ta thấy được vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết dân tộc và tài thao lược, mưu
tính tuyệt vời của một con người kiệt xuất vua Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 8
Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn học viết theo lối chương hồi,
mang đậm giá trị lịch sử. Phản ánh được một cách chân thực và sống động tình
hình xã hội đầy biến động ở Việt Nam ba mươi năm cuối thế kỉ mười tám, và
mấy năm đầu thế kỉ mười chín.
Trong tác phẩm này, các tác giả nhà Ngô gia văn phái đã đặc biệt xây dựng kết
cấu tác phẩm và xây dựng rõ nét chân dung nhân vật lịch sử, điển hình trong số
đó chính là người anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ. Trong hồi mười
bốn của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, các tác giả Ngô gia văn phái đã
khắc họa hình ảnh Nguyễn Huệ – Người anh hùng dân tộc mưu lược toàn tài, trí
tuệ hơn người cùng tài cầm quân xuất chúng.
Người anh hùng Nguyễn Huệ được xây dựng trong tác phẩm là một người kiêu
hùng, quyết đoán với những hành động mạnh mẽ, dứt khoát. Khi được tin quân
Thanh kéo sang, chiếm đóng Thăng Long, Nguyễn Huệ đã lập tức “tế cáo trời
đất”, lên ngôi hoàng đế. Sau đó lập tức thân chinh kêu gọi binh lính, đốc thúc
đại quân, cả thủy lẫn bộ kéo ra Bắc đánh dẹp quân Thanh. Qua hành động này ta
có thể thấy Nguyễn Huệ là một người vô cùng quyết đoán, đặc biệt đối với
những vấn đề liên quan đến vận nước thì không hề chần chừ, do dự mà thân
chinh cầm quân đi đánh giặc.
Trước khi mang quân ra Bắc, Nguyễn Huệ đã cho gọi La Sơn Phu tử Nguyễn
Thiếp vào để bàn bạc cơ mưu. Điều này cho thấy Nguyễn Huệ tuy dũng mãnh,
trí tuệ hơn người nhưng không độc đoán mà rất coi trọng ý kiến của những bậc 33
hiền tài, biết chiêu mộ ý kiến của hiền thần. Quả thực, Nguyễn Huệ là một bậc
minh quân tài năng sáng suốt.
Biết được số lượng binh lính mà quân địch kéo sang Thăng Long là rất lớn – hai
mươi chín vạn quân, cũng xét thấy tương quan lực lực giữa ta và địch có sự
chênh lệch, Nguyễn Huệ đã dốc sức chiêu mộ binh lính, mở cuộc duyệt binh lớn
ở doanh trấn nhằm nâng cao sức mạnh của quân ta. Đồng thời cũng phân chia
quân thành bốn doanh: tiền, hậu,tả hữu; lên kế hoạch tiến công đánh giặc.
Như vậy, Nguyễn Huệ là một vị chủ tướng đầy mưu lược, không chỉ nâng cao
sức mạnh cho quân mình mà còn bố trí, đề ra những kế hoạch cụ thể, chu toàn.
Đây là tiền đề cho những thắng lợi vang dội sau này. Nguyễn Huệ là người có
trí tuệ sáng suốt, biết “đánh” vào lòng quân để nâng cao nhuệ khí, tinh thần chiến đấu.
Ông đã phân tích cặn kẽ tình hình quân quân giặc ở thành Thăng Long, nêu cao
truyền thống đánh giặc bất khuất của dân ta từ thời hai Bà Trưng, Đinh Tiên
Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lí Thái Tổ…Từ đó ông làm tiền đề để
đưa ra lời kêu gọi toàn quân: “Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương
năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn.”
Những lập luận sắc bén, chặt chẽ, thấu tình đạt lý của Nguyễn Huệ đã khơi dậy
được nhuệ khí chiến đấu, lòng tự tôn của toàn quân, phát huy được sức mạnh
tinh thần to lớn cho cuộc chiến sắp tới. Là một người chủ tướng, Nguyễn Huệ
cũng đề cao kỷ luật, những quy định chặt chẽ với nghĩa quân, xử phạt nghiêm
khắc với những ai ăn ở hai lòng, phản bội đất nước, dân tộc “Chớ có quen theo
thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc,
không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước”.
Sự đa mưu túc trí của Nguyễn Huệ còn thể hiện ở tài dùng người,cầm quân,
vạch ra những chiến lược, chiến thuật đánh giặc độc đáo, hợp lý. Đội quân của
Nguyễn Huệ có cuộc hành quân thần tốc do người chủ tướng đề ra chiến lược 34
cho quân lính thay phiên nhau, cứ ba người một tốp thay phiên võng nhau đi,
thành ra quân trẩy đi liên miên không phải dừng mà ai nấy đều lần lượt được
nghỉ. Do đó, quân Tây Sơn đã hành binh cực kỳ thần tốc.
Cách chống lại vũ khí của giặc cũng vô cùng độc đáo bằng cách dùng khiên có
bao phủ rơm ướt bên ngoài, với chiến lược này hỏa tiễn của quân địch không
thể phát huy được tác dụng. Nguyễn Huệ còn thực hiện chiến thuật nghi binh,
cho quân mở cờ gióng trống ở phía Đông, quân địch khi rút chạy đã vô cùng
hoảng sợ, rày xéo lên nhau mà chạy về nước.
Như vậy, hình ảnh vua Quang Trung Nguyễn Huệ được các tác giả Ngô Gia văn
phái khắc họa một cách sống động,chân thực hình tượng của một người anh
hùng trí tuệ, oai phong lẫm liệt. Điều đáng nói ở đây là các tác giả Ngô gia
thuộc nhà Lê mà viết về Quang Trung trên tinh thần ngợi ca như vậy, tức là
đứng trên lập trường dân tộc để phản ánh. Điều đó càng làm cho tác phẩm mang nhiều giá trị hơn.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 9
Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, có thể nói cảm hứng yêu nước
và tự hào dân tộc nhiều khi đã lấn át cả thái độ thiên vị với triều Lê. Điều đó đã
mang lại những trang viết thực và hay.
Khi cho rằng “Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại” có lẽ tác giả
của nhận định này đã nghĩ đến những trang viết chân thực, sống động phản ánh
trung thành bản chất của thời đại mà nhà văn đó sống. Điều này khiến độc giả
Việt Nam nhớ đến một tác phẩm “thực và hay” như thế: “Hoàng Lê nhất thống
chí” của Ngô gia văn phái. Có ý kiến cho rằng: trong “Hoàng Lê nhất thống chí”
của Ngô gia văn phái, có thể nói cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc nhiều khi
đã lấn át cả thái độ thiên vị với triều Lê. Điều đó đã mang lại những trang viết 35
thực và hay”. Chỉ riêng qua hồi thứ mười bốn của tác phẩm ta đã thấy rõ điều này.
“Hoàng Lê nhất thống chí” phản ánh thời kỳ lịch sử cuối thế kỉ XVIII của đất
nước ta. Khi ấy, triều đình vua Lê chúa Trịnh đang suy đồi, thối nát, khởi nghĩa
nông dân nổi lên liên tiếp mà tiêu biểu là phong trào nông dân Tây Sơn của ba
anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Ngô gia văn phái là tập thể tác
giả gồm những anh em họ Ngô Thì như Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du,… Họ đều là
những bậc quan thần của triều đại vua Lê, chúa Trịnh.
Hồi thứ mười bốn của tác phẩm tái hiện chiến thắng lẫy lừng của Quang Trung
– Nguyễn Huệ trong xuân Kỷ Dậu và sự thảm bại của bè lũ vua Lê Chiêu Thống
và quân Thanh xâm lược. Theo thói thường, đứng về phía triều đình, Ngô gia
văn phái phải coi lực lượng của Quang Trung là “giặc cỏ”. Nhưng vượt lên
những quan điểm chính trị thông thường, tập thể tác giả họ Ngô đã có cái nhìn
tiến bộ về sự kiện chấn động lịch sử này.
Họ nhìn cuộc khởi nghĩa dưới ánh sáng của sự khách quan trong tiến trình vận
động lịch sử. Bởi thế, hình ảnh vua Quang Trung hiện lên với những vẻ đẹp phi
thường của bậc đại tướng. Còn bè lũ Chiêu Thống và Tôn Sĩ Nghị thật ngu ngốc
và thảm hại đến đáng thương. Chính sự chân thật của lịch sử cùng sự sống động
của ngòi bút những tác giả họ Ngô đã tạo nên những trang viết “thực và hay” đến thế.
Trong đoạn trích, hình tượng người anh hùng dân tộc Quang Trung hiện lên vô
cùng đẹp đẽ, phi thường. Đó là con người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán
và có trí tuệ sáng suốt, sâu xa, nhạy bén. Nghe tin giặc đánh chiếm đến tận
Thăng Long, ông không hề nao núng mà quyết định thân chinh cầm quân đi
ngay. Trong vòng một tháng từ 24 tháng 11 đến 30 tháng Chạp ông đã liên tiếp làm nhiều việc. 36
Việc ông tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế nhằm thu phục lòng dân và có danh
nghĩa ra Bắc dẹp giặc. Tiếp đó, nhà vua đốc xuất đại binh ra Bắc, trên đường đi,
Quang Trung vừa gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn vừa tuyển quân lính và
mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân
đánh giặc. Những việc đó thần tốc và sáng suốt vô cùng. Nó cho phép nhà vua
thu nạp được người tài và binh tướng dồi dào, tinh nhuệ. Lời phủ dụ quân lính
của ông sâu sắc và thấm thía:
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho chúng chích luân bất phản
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ…”
Những lời ấy đã khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và hành động xâm lăng
phi nghĩa, trái đạo trời của giặc, nêu bật dã tâm của giặc. Đồng thời, nêu cao
truyền thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, kêu gọi quân lính, ra kỷ
luật. Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn, ý tứ phong phú, sâu xa có tác động
kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc. Ngay sau đó,
ông đã họp với tướng sĩ để lên kế hoạch đối phó quân Thanh. Ông tỏ ra sáng
suốt trong việc xét đoán và dùng người.
Bên cạnh đó, Quang Trung – Nguyễn Huệ còn là người có ý chí quyết thắng và
tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh nhưng ông đã khẳng định "Phương lược
đã tính sẵn… mười ngày sẽ đuổi được người Thanh". Sau đó, ông còn tính kế
hoạch ngoại giao sau chiến tranh đối với một nước "lớn gấp mười lần mình" để
có thể dẹp binh đao để cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng. Điều này
ở Nguyễn Huệ đã khẳng định rằng ông thực sự là một tài năng quân sự, một nhà 37
mưu lược tài ba. Trong những cuộc chiến tranh phong kiến ở Việt Nam, hiếm
có một vị tướng nào tính toán thần tình và sâu xa đến vậy.
Bước vào cuộc chiến, nhà vua đã thể hiện tài dụng binh như thần. Nhà vua đã
chủ trương một cuộc hành quân thần tốc. Ngày 25 tháng Chạp xuất quân ở Huế.
Ngày 29 tới Nghệ An (350km qua núi đèo). Tuyến quân tổ chức đội ngũ, duyệt
binh 1 ngày. Hôm sau: ra Tam Điệp (150km). Đêm 30 tháng Chạp lên đường ra
Thăng Long. Và điều đặc biệt là tất cả đều đi bộ! Từ Tam Điệp trở ra (150km)
vừa hành quân vừa đánh giặc.
Ngày 5 Tết vào Tháng Long (trước đó, Quang Trung đã định liệu là ngày mùng
7, như vậy là vượt kế hoạch hai ngày!). Dù việc hành quân liên tục nhưng cơ
nào, đội ấy vẫn chính tề. Điều này khẳng định tài cầm quân của người làm
tướng như vua Quang Trung.
Trong trận chiến với quân Thanh, hình ảnh nhà vua hiện lên vô cùng oai phong,
lẫm liệt. Ông thân chinh cầm quân, đóng vai trò là tổng chỉ huy chiến dịch thực
sự, hoạch định, phương lược tiến đánh, tổ chức quân sự từ thống lĩnh một mũi
quân tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy áo vải, quân Tây Sơn đã đánh trận
thật lẫy lừng: Bắt sống quân do thám ở Phú Xuyên để giữ bí mật, tạo bất ngờ;
vây kín làng Hà Hồi, quân lính vây quanh dạ ran làm cho lính trong đồn sợ hãi
đều xin hàng; công phá đồn Ngọc Hồi lấy ván ghép quấn rơm ướt để tránh tên
lửa của địch,… Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù khiếp vía.
Trong việc khắc họa hình ảnh chân dung vua Quang Trung – Nguyễn Huệ, các
tác giả đã thể hiện sự tôn trọng sự thật lịch sử và ý thức dân tộc. Dù có cảm tình
với nhà Lê họ không thể bỏ qua sự thực là vua Lê đã hèn yếu " cõng rắn cắn gà
nhà". Chiến công lừng lẫy của Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của cả dân
tộc. Bên cạnh đó, các nhà văn cũng đã khắc họa thật sinh động hình ảnh bè lũ
bán nước và cướp nước 38
Bọn Tôn Sĩ Nghị, sầm Nghi Đống không đề phòng, chỉ lo yến tiệc vui chơi.
Chúng ngạo mạn gọi quân Tây Sơn là lũ “giặc cỏ”. Nhưng khi đội quân “giặc
cỏ” ấy đến thì chỉ biết tháo chạy và nhận lấy những cái chết thê thảm. Tôn Sĩ
Nghị thì cắt râu bỏ trốn, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Bọn quân lính thì chen
lấn, xô đẩy, dẫm lên nhau mà chạy về nước. Bọn vua tôi phản dân hại nước Lê
Chiêu Thống cùng chịu chung số phận. Thê thảm nhục nhã nhất là vua Lê phải
lê thân sang đất Bắc để rồi chịu cái chết băng giá nơi đất khách quê người.
Đây là đoạn văn miêu tả chân thực tình cảnh khốn khổ của vua Lê Chiêu Thống.
Tác giả văn gửi gắm ở đó một chút cảm xúc riêng của người bề tôi cũ của nhà
Lê. Điều này được thể hiện qua những giọt nước mắt và thái độ săn sóc của
người Thổ hào với giọng văn ngậm ngùi.
Hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái cùng
toàn bộ tác phẩm thực sự là những áng văn – sử chân thực, sinh động. Tập thể
nhà văn chẳng những thể hiện thành công vai trò “thư ký của thời đại” của mình
mà còn để lại trong lịch sử văn học dân tộc một dấu ấn đậm nét của tài năng và tâm đức.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 10
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình.
Hai câu thơ trích trong Ai tư vãn của công chúa Ngọc Hân khóc chồng không
phải là cái nhìn của tác giả Hoàng Lê nhất thống chí. Đoạn trích ở hồi thứ mười
bốn này, đã tái hiện hình tượng Nguyễn Huệ nhưng bằng một nhãn quan khác,
một thiện cảm khác, thiện cảm hướng về nhà Lê.
Hình tượng nhân vật này thuộc một vùng không gian nghệ thuật, vùng ý thức tư
tưởng ngược chiều. Tính chất phi chính thống của Nguyễn Huệ không nằm 39
trong ý định ngợi ca, nhưng từng chữ, từng dòng miêu tả thì chân dung người
anh hùng áo vải đã từ từ sừng sững được hiện lên. Khi bức tượng đài hoàn thiện
thì chính nhà văn cũng không khỏi bất ngờ, đó là điều hiếm thấy trong văn học nước nhà.
Hồi thứ mười bốn bắt đầu bằng cái việc hèn hạ của Lê Chiêu Thống "Cõng rắn
cắn gà nhà". Tôn Sĩ Nghị cùng hai chục vạn quân Thanh kéo sang chính là để
thực hiện cái ý đồ trái quy luật lịch sử là phản dân hại nước của vua Lê, nhằm
hai mục đích khác nhau, về danh nghĩa, chi viện cho một nước nhỏ, với tư cách
là một nước lớn (nước của Thiên tử hay một nước lân bang?). Còn trên thực
chất, ở chúng có một cái gì đó rất khó hiểu.
"Cứ xem lời lẽ trong bài hịch thì những điều họ bắt mình phải đương lấy rất là
nặng nề, còn họ thì chỉ lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để dọa dẫn
mà thôi". Vì sao mà Tôn Sĩ Nghị lại không ra tay? Thái độ "án binh bất động"
này hoàn toàn không giống sự khẩn trương đến gấp gáp lúc kéo quân sang. Từ
cửa ải hướng thẳng tới Thăng Long, đại binh của Tôn tổng đốc đã từng hăng hái
tiến lên với tốc độ ngày đi đêm nghỉ, xuyên rừng vượt núi. Nay, tới kinh thành,
giặc còn chưa tiếp cận được, họ đã vội dừng lại là cớ làm sao?
Sự không thực lòng của Tôn Sĩ Nghị trong sự nghiệp phù Lê đã được tiên đoán
của người cung nhân ấy : "Họ chẳng qua chỉ là người khách, chuyến này sang
cũng cốt xem sự thể khó hay dễ để liệu về tiến lui mà thôi". Đối phương của
Nguyễn Huệ do vậy không hẳn là bọn bán nước mà là lũ cướp nước. Bọn bán
nước thì đê hèn nhưng không có lực lượng. Còn bọn cướp nước thì không chỉ
tướng mạnh quân đông mà tham vọng tâm địa cũng không thể coi thường.
Trong chiến tranh, thắng lợi bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh.
Vì vậy cái mạnh của Nguyền Huệ, ớ người cầm quân được soi từ nhiều phía.
Chi một cái nhìn của người cung nhân cũ từ phủ Trường Yên cũng rõ: "Nguyễn
Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra 40
Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết". Cái nhìn đó
hẳn không sai. Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm lộng hành, lấn át ngôi vua bị
Nguyễn Huệ trừng trị đã dành.
Nhưng trừng trị theo cái kiểu "bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm
như giết con lợn" thì trong lịch sử những nhân vật xuất chúng của nước chúng ta
chưa thấy lần nào. Bới tính hiệu quả, tính tức thời của hành động chỉ như một
chớp mắt, một cái trở bàn tay. Uy của Nguyễn Huệ tựa hổ sấm sét, đến nỗi
"Không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt". Chân dung ấy quả thật như
huyền thoại, một ánh sao băng nhưng hoàn toàn không cô lập.
Ở đó có mạch nguồn, có độ sâu cội rễ. Nguyễn Huệ đã làm những việc cha ông
từng làm trước hiểm hoạ xâm lăng là "không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn
bạo". Nguyễn Huệ đứng lên trong hoàn cảnh ấy, cái tâm, cái chí của Nguyễn
Huệ là cái tâm, cái trí của tiền nhân. Ngọn cờ đạo lí đã dẫn đường cho cuộc xuất
quân thần tốc, và cái tâm, cái tự của trăm họ bấy giờ làm cho con đường ấy rộng ra.
Sự thấu hiểu, lắng nghe của Nguyễn Huệ một cách thành thực và khiêm tốn
cũng đủ điều chỉnh cho cơn bão căm hờn tạm thời nén xuống. Nhận được tin
cấp báo của Nguyễn Văn Thuyết từ Tam Điệp chạy trạm vào Phú Xuân, Bắc
Bình Vương giận lắm định thân chinh cầm quân lập tức di ngay. Nghe lời can
ngăn của các tướng sĩ dưới quyền, ông chấp nhận "lòng tôn phò của mọi người"
làm nghi thức lên ngôi hoàng đế. Khi tới Tam Điệp, Sở, Lân mang gươm đến
xin chịu tội vì đúng là họ có tội. Người chủ tướng (cũng là vua mới) không phải
không hiểu tội danh lớn nhất trong binh pháp phải xử lý như thế nào.
Đúng ra thì "quân thua chém tướng", đó là luật. Nhưng không có luật lệ nào trái
được nhân tâm. Lòng Sở, Lán không phải thế, hơn nữa đó là mưu lược của Ngô
Thì Nhậm. Lẽ ra bị trừng phạt, nhưng cuối cùng lại được ngợi khen. Cách hiểu
người và dùng người đến mức tri kỷ, tri âm như thế không phải là người cầm 41
quân nào cũng có dược. Đâu phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Huệ trong việc tập
hợp, tổ chức lực lượng lại làm được cái việc Lê Lợi trước đó đã từng làm "Dựng
cần trúc ngọn cờ phấp phới" (Bình Ngô đại cáo).
Tướng của Nguyễn Huệ là Hám Hổ Hầu đi kén lính ở Nghệ An theo quy định
cứ ba trai tráng (ba suất đinh) thì lấy một người. Thế mà chẳng mấy chốc đã
được "hơn một vạn quân tinh nhuệ". Niềm tin của vua Quang Trung là dựa vào
cơ sở lòng dân ấy. Không biết là ông nói với mọi người hay nói với chính mình
trong lần gặp Sở, Lân ở Tam Điệp: "Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương
lược tiến đánh đã có tính sẵn.
Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh". Có được cái tâm, cái trí,
kẻ thao lược phải có quyền mưu, mà linh hồn của quyền mưu là cái dũng. Như
ta biết : quyết tâm của Tôn Sĩ Nghị là vào tới sào huyệt của Nguyễn Huệ ở Phú
Xuân với mục tiêu "Bọn giặc ấy nhất định lần lượt bị bắt sống, không một tên
nào lọt lưới" và tự đắc hợm mình "người Nam Hà sẽ đến mà xem". Còn Nguyễn
Huệ chỉ một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Tôn Sĩ Nghị vào
Nam, Nguyễn Huệ ra Bắc, hai cuộc hành tiến trái chiều nhưng đều lấy thời điểm
ngày hạ cây nêu làm mốc.
Riêng với Nguyễn Huệ trước một trận chiến dường như không cân sức (kẻ thù
đông hơn gấp bội) thế mà dám hẹn với các tướng của minh "đến ngày mồng 7
năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng". Điều đó thể hiện rõ lòng
quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược của Nguyễn Huệ. Quả thật, theo dõi
cuộc hành quân của Nguyễn Huệ từ Tam Điệp trở ra, người đọc mới hiểu thế
nào là thần tốc về lực lượng, quân của Nguyễn Huệ chia làm năm đạo, có cả
thuỷ bộ, nhưng bộ binh là chính.
Phương tiện hành quân không nói đến lừa ngựa, chỉ có một số voi, trong đó có
thớt voi vua Quang Trung cưỡi. Vậy thì đại quân chủ yếu là chạy bộ, không chỉ
từ Tam Điệp mà trước đó từ Nghệ An, khi nhà vua hạ lệnh tiến quân "Các quân 42
đéu nghiêm chỉnh,đội ngũ mà đi". Vậy "đi" đây là đi bộ. Họ vừa đi vừa đánh.
Thế mà đêm 30 tháng Chạp Mậu Thân (1788) còn ở Tam Điệp, mồng 3 tháng
Giêng năm Kỷ Dậu (1789) đã tới Hà Hồi, vượt qua hai con sông Gián Khẩu và
Thanh Quyết. Hơn một trăm cây số, mà họ chỉ hành quân trong ba ngày.
Giữ nguyên tốc độ ấy, mờ sáng ngày mùng 5, đại quân đã đến đồn Ngọc Hồi,
vượt qua sự kháng cự không phải là không đáng kể của đồn này dưới sự chỉ huy
của tên Thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống, cùng ngày hôm ấy, đại quân đã
tiến đến Thăng Long. Điều có thực mà như không có thực, đúng như lời dặn của
vua Quang Trung : "Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác!".
Hình như trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc Việt Nam, có hai câu nói
gần giống nhau khi nhận định về sự thắng bại, hơn thua. Ấy là câu trả lời vua
Trần của Trần Hưng Đạo "năm nay thế trận giặc nhàn" và lời dặn trên đây của
Nguyễn Huệ. Cùng với cuộc hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử
chiến tranh, cách đánh của vua Quang Trung biến hóa như thần, không một thứ
sách vở nào có được. Đó là cách đánh bao vây, chia cắt địch, tạo yếu tố bất ngờ.
Đối phương rơi vào một thế cờ bày sẵn không kịp trở tay. Vì sao khi tới sông
Thanh Quyết, toán do thám của quân Thanh bỏ chạy, Quang Trung đã cho truy đuổi đến cùng ?
Thực ra số quân địch ấy không có gì đáng kể. Điều quan trọng với Quang Trung
là những trận đánh lớn tiếp theo, Tôn Sĩ Nghị không thể chủ động đề phòng.
Đảm bảo được yếu tố bất ngờ nghĩa là đảm bảo được một nửa thắng lợi. Do vậy
ở đồn Hà Hồi, mãi tới khi Quang Trung bắc loa truyền gọi, quân lính trong đồn
lúc ấy mới biết. Vì bị động, bị bất ngờ "ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng,
lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết". Nói cho cùng, thắng bại trong
chiến tranh phụ thuộc vào hai yếu tố : thể và lực.
"Lực" liên quan đến "thế" và "thế" đại quân Tây Sơn có thể tạo ra "lực". Quang
Trung đã tận dụng và phát huy hai yếu tố trung tâm then chốt ấy. Bất ngờ là một 43
khía cạnh của thế. Ở đây có bất ngờ về thời gian và địa điểm tấn công. Còn có
sự bất ngờ về cách đánh. Kẻ địch cho dù có biết thời điểm tấn công – nhưng
không biết cách đánh của đối phương, cũng rất khó đề phòng. Vì vậy, đồn Hà
Hồi chiến thắng nhanh chóng, dễ dàng. Không cần bắn một mũi tôn nào mà kẻ
thù tự đem mình chịu trói. Cái đó còn nhờ vào mưu. Phải có một quyền mưu đạt
tới mức nghệ thuật mới có thể vừa chiến thắng vẻ vang vừa bảo toàn lực lượng.
Nhưng tới đồn Ngọc Hồi, cửa ngõ của kinh thành Thăng Long thì cách đánh ở
Hà Hồi không thể ứng dụng được nữa. Muốn áp đảo đối phương ngay từ phút
đầu thì phải cần đến một phương sách khác, để vô hiệu hoá lực lượng phản công
của địch. Quang Trung đã dùng rơm và ván, nghĩa là một thứ khiên, mộc đơn
giản mà thật sáng tạo tài tình tạo ra lá chắn để đại quân vẫn với đội hình ấy dàn chữ "nhất" tiến lên.
Diệu kế ấy làm cho các mũi tên quân giặc bắn ra "chẳng trúng người nào cả".
Quân giặc phải dùng đến ống phun khói tung hỏa mù để làm cho quân Nam rối
loạn thì bỗng chốc gió lại đổi hướng, quân Thanh tự hại mình, khốn đốn không
phương chống đỡ. Uất ức vì tướng giỏi, quân đống, ý chí và mưu lược có thừa
mà phải tự trói tay nộp mạng, Sầm Nghi Đống thắt cổ chết là chuyện đương nhiên.
Điều Nguyễn Trãi tổng kết trong Bình Ngô đại cáo "Đánh một trận sạch không
kình ngạc – Đánh hai trận tan tác chim muông" đã được Quang Trung kế thừa ở
thời đại ông. Để đạt tới tính triệt để, tính tuyệt đối, vừa tiêu diệt toàn bộ lực
lượng đối phương vừa bẻ gãy hoàn toàn ý chí của chúng, nhất là ở vào địa bàn
trọng yếu như đồn Ngọc Hồi, Quang Trung đã phối hợp tấn công phía trước với
hai cánh như thế của hai gọng kìm. Lực lượng của địch không nhỏ bé như ở Hà
Hồi, nhưng cảm thấy bất lực giữa một "thiên la địa võng" bao vây. Quân ứng
chiến đại bại đã đành, quân rút chạy càng vô cùng hoảng loạn. 44
Chạy về phía đê Yên Duyên thì đã thấy quân của Quang Trung gióng trống mở
cờ, tắt sang đường Vịnh Kiều chạy trốn thì quân voi của Quang Trung từ Đại
Áng kéo sang chặn lối. Còn cái chết nào nhục nhã hơn đối với chúng là ở vào
cái thế cùng đường và hoảng loạn bội phần ấy phải trốn cả xuống Đầm Mực
đành để cho "quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người".
Giữ cho mình cái thế và lực ấy, đại binh của Tây Sơn kéo thẳng vào thành
Thăng Long. Điều thú vị là các trận đánh của Quang Trung ngày một quy mô
lớn rộng hơn như cơn bão xoáy tăng dần cường độ, vượt qua mọi cánh cửa vòng
ngoài tiến vào đại bản doanh mà tuyệt nhiên không gặp một vật cản nào đáng kể.
Những vật cản ấy dù là Sầm Nghi Đống hay Tôn Sĩ Nghị, dù là Hà Hồi, Ngọc
Hồi, hay cả Thăng Long, quân xâm lược đều ở vào một tình thế không mấy
khác nhau : sợ hãi, cuống cuồng, bất lực. Sầm Nghi Đống tự tử đã đành, Tôn Sĩ
Nghị không thể trở tay một khi đã "sợ mất mật". Thế là "ngựa không kịp đóng
yên, người không kịp mặc áo giáp" cắm đầu nhắm hướng Bắc mà chạy.
Chi tiết có thực này tuy chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng ý nghĩa của nó lại rất lớn.
Chỉ mới ít ngày trước đó hai chục vạn quân Thanh hùng hổ từ phương Bắc kéo
sang định làm cỏ nước Nam, hợm hĩnh là thế, nay một mảnh giáp cũng không
còn, nói gì đến bọn bán nước cầu vinh Lê Chiêu Thống. Tư cách tiện nhân hèn
hạ của y dược đặc tả trong nhiều trường hợp, như những giọt nước mắt tiễn đưa
Tôn Sĩ Nghị ở biên cương phía Bắc của vua Lê thật thảm hại mà cũng nực cười.
Như thế là bức phác thảo về nhân vật Quang Trung đó vừa hoàn tất với những đường nét cuối cùng.
Bức tượng đài có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà cứ sừng sững
hiện lên dưới bầu trời trong veo còn sặc mùi thuốc đạn của kinh thành. Trong
khải hoàn môn của người thắng cuộc, vua Quang Trung là biểu tượng đầy ý
nghĩa cho những gì thuộc về dân tộc. Đó là đạo lý Việt Nam, tài trí Việt Nam, 45
sức mạnh Việt Nam. Phải chăng hình tượng đó ít nhiều sống lại trong giấc mơ
của Nguyễn Du khi biến đổi một kẻ anh hùng thảo dã trong Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thành một anh hùng tái thế – Từ Hải trong Truyện Kiều?
Trở lại điểm nhìn của tác giả Hoàng Lê nhất thống chí, nhìn tổng quát thì đó là
một cái nhìn khách quan. Hình tượng nhân vật Quang Trung do đó như có một
thứ ánh sáng soi vào. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn những yếu tố duy tâm nằm
ngoài nhận thức về quy luật lịch sử, về đời sống con người. Chẳng hạn như
không ít lần khi tường thuật sự kiện hay ý nghĩ của nhân vật, nhà văn đã nói đến
cơ trời. Cơ trời chính là thiên lý, là mệnh mà con người không cưỡng nổi. Kể
trận chiến ở Ngọc Hồi, kẻ chủ động dùng hỏa hổ là quân Thanh.
Cách phản công này không phải là không có tác dụng vì kẻ chủ mưu có được
một thứ vỏ bọc của sự tàng hình. Nhưng đột ngột thay, trong chốc lát trời trở
gió. Đó là một biểu hiện của cơ trời. Rồi khi Quang Trung kéo quân vào Thăng
Long, Tôn Sĩ Nghị không hề hay biết. "Nào hay cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã
đổi". Đã là "thiên lý", người hợp với nó là đại nghĩa, còn ngược lại là Tôn Sĩ
Nghị, Lê Chiêu Thống, thất bại là lẽ đương nhiên.
Chính Lê Chiêu Thống đã thú nhận sự khoanh tay bất lực trước cái cơ trời,
mệnh trời ấy khi y nói với Tôn Sĩ Nghị lúc chia tay "Cô không có tài, chẳng giữ
nổi xã tắc. Đội ơn tướng quân vâng lệnh chỉ của hoàng đế sang cứu viện, nào
ngờ lòng trời không giúp nước nhỏ, nay ngài lại bỏ mà đi. Kính chúc tướng
quân về triều được hai chữ "vạn phúc". Song, ngay trong cái yếu tố duy tâm này
không hẳn chỉ mang ý nghĩa tiêu cực. Cái tích cực lên ngôi mới thay cũ, nắng
thay mưa. Khách quan, điều ấy hợp với lòng người.
Sự tiến bộ rất đáng ghi nhận ở đây chính là điểm đó, ở cái chỗ mà cuộc sống đã
đem lại cho tác phẩm văn chương những chân lý nghệ thuật mới nằm ngoài định
kiến hoặc sự áp đặt của bất kỳ ai. 46
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 11
Chuyện vua Quang Trung đại phá quân Thanh, ngày nay, hẳn chẳng mấy ai còn
không biết. Người dân Việt từ lâu đã từng thân thiết và tự hào với những cái tên
Hà Nội, Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa... Nhưng hình như không phải ai
cũng biết rằng, phần lớn những gì vẫn được truyền tụng về chiến công oai hùng
đó lại không được lấy trực tiếp từ chính sử.
Phải đâu ai cũng tỏ tường rằng những hiểu biết lâu nay về sự kiện đại phá quân
Thanh chính ra lại chứa đựng nhiều nhất trong một tác phẩm vẫn được coi là
tiểu thuyết, cuốn sách mang tên Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô
Thì ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc về Hà Nội, chứ không phải Hà Tây như
nhiều sách đã ghi lầm). Quả thế, nếu muốn được thở hít lại bầu không khí như
của những tháng ngày có chiến thắng tưng bừng đó thì không gì hơn là cùng
đọc lại Hồi thứ mười bốn trong thiên tiểu thuyết lịch sử của văn phái họ Ngô.
Thế nhưng trong chủ đích của người viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí thì Hồi thứ
mười bốn này được soạn ra không cốt để ngợi ca chiến thắng của Quang Trung.
Ai còn hồ nghi xin đọc lại hai vế đối mở đầu, người làm sách, theo thường lệ
của tiểu thuyết chương hồi, vẫn muốn qua đó để tự tóm tắt nội dung của toàn hồi truyện:
Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài.
Rõ ràng, theo tác giả, đây là một đoạn truyện kể về vua Lê, ông nhìn từ phía vua
Lê, theo đúng tinh thần "Hoàng Lê thống nhất". Nên trong đoạn trích này của
thiên tiểu thuyết, nếu có ai được gọi chỉ bằng một chữ "vua" thì kẻ đó nhất định
phải là Lê Chiêu Thống, nếu có quân đội nào được gọi là "nghĩa binh" (quân
chính nghĩa) thì đó cũng chỉ có thể là "quân đội nhà Lê (trong khi lực lượng 47
thực đáng gọi là nghĩa quân, nghĩa binh, quân đội Tây Sơn lại chỉ được gọi
chung là "quân lính", "quân sĩ", không hề có chữ "nghĩa" nào bên cạnh).
Vào khoảng cuối đoạn trích, người viết còn ghi lại chi tiết kể về cuộc gặp gỡ
giữa mẹ con của Lê với người thổ hào tại một sơn trại thuộc vùng Hòa Lạc. Đấy
không phải một sự cố ý tạo ra tình huống hài hước, để người đọc có dịp nhạo
cười một kẻ ngu trung. Trái lại, tác giả dường như đã gắng công để cuộc gặp gỡ
có ánh lên vẻ cao đẹp của một tấm lòng thần tử tận tụy, trung trinh, ngay cả khi
đấng quân vương của mình đang cơn khốn khó.
Trong chi tiết này, thấy có cả mừng tủi lệ rơi, cả cơm gà vội vàng thết đãi, cả lối
tắt đưa vua chạy loạn... tác giả như cố nhắn rằng: đối với các triều đại đa tàn
kia, lòng người còn chưa nỡ bỏ, và dẫu vua Lê có lâm vào hoạn nạn thì trong
đời vẫn chưa hết mối cô trung...
Có nghĩa là, xét về mặt lập trường chính trị, tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí
đứng về phía đối địch với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Song may mắn làm
sao họ Ngô đã không thể thắng chính mình. Mối tình cảm chính trị ấy không
thắng nổi tình yêu sự thật, không thắng nổi lương tri, lương tâm của người biết
nhận ra sự thật và tha thiết muốn nói lên sự thật. Tình cảm chính trị ấy đã không
thể chuyển hóa thành sức mạnh văn chương, không đủ sức chi phối nội dung của văn chương.
Không biết người viết Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí có ngờ
rằng, với công trình nghệ thuật này, mình đang viết bản án dành cho chính cái
chế độ mình vẫn hằng tôn kính? Và con người phù Lê ấy liệu có tự giác nhận ra
rằng mình đang tấu lên khúc ca dành cho những người đang kết thúc số mệnh
lịch sử của chính nhà Lê.
Nhưng đấy chính là sự thật. Một sự thật vô cùng thú vị khi ta tiếp nhận, thưởng
thức và suy ngẫm về tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Tuy nhiên tác giả của
những trang viết ta đang nói tới là một nhà văn, một người làm nghệ thuật. Tư 48
cách nghệ sĩ không cho phép ông kể sự thật một cách phiến diện, giản đơn. Hồi
chuyện được bắt đầu từ phía có vẻ như ngược lại.
Đội quân xâm lược nhà Thanh thoạt nhiên được nói tới cứ y như một đạo hung
binh, với sức mạnh lay thành phá ải, không gì có thể đương đầu: "Lại nói Tôn Sĩ
Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi như giẫm đất bằng, ngày
đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long,
không mất một mũi tên, như vào chỗ không người". Cứ xem đây thì chống chọi
lại một đạo binh như thế này khác nào đem trứng chọi đá? Chưa hết, ngày liền
sau đó, tác giả lại bồi thêm: "Từ xưa các nhà cầm quân chưa có khi nào được dễ dàng như thế".
Nhưng sự dễ dàng chưa từng có gió, chính nó lại khiến cho những người từng
trải, biết suy nghĩ có lý để mà ngờ vực. Từ rất lâu trước đấy, người xưa đã hiểu
rằng cái gì đến độ thái quá, đến tột cùng thì thế nào cũng gặp phải sự biến.
"Cùng tắc biến" (đến tận cùng thì phải thay đổi). Nhưng mà biến theo chiều trái lại.
Và cái mầm mống của sự biến ấy, tác giả đã không để cho người đọc phải chờ
đợi lâu. Cổ nhân từ xưa đã dạy: "thắng không kiêu", Nhưng đạo quân của Tôn
Sĩ Nghị chưa kịp thắng trận nào cho ra thắng đã quá vội kiêu: "quân lính các
đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không có kỷ luật gì cả... Bọn tướng
tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân". Mầm mống
của bại vong đã được nứt nanh từ đây.
Chuyện trở nên rõ ràng hơn qua lời của người cung nhân cũ đến từ phủ Trường
Yên. Không rõ những lời nói ấy về mặt sử học thì chính xác và sâu xa tới mức
nào, chứ về mặt văn chương thì chi tiết này cực thú. Không hẳn chỉ nói những
lời nói của người từng là cung nữ ấy đã phác họa ra đại cục, thắng lợi của vua
Lê, nếu có, cũng chưa mang ý nghĩa gì lớn, mà mối nguy cho triều Lê thì quả đã
như mồi lửa âm ỉ bên trong trường vách. 49
Cũng không hẳn chỉ vì những câu nói ấy đã sớm đem lại ấn tượng về một
Nguyễn Huệ bách thắng, một Nguyễn Huệ kiêu hùng, từ trước khi Nguyễn Huệ
bằng thịt bằng xương xuất hiện trên chương truyện: Xem hắn ra Bắc vào Nam,
ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt
trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn...
Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đều phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E
rằng chẳng mấy lâu nữa hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà
kia mà chống lại, thì địch sao cho nổi"? Âm vang của một chiến thắng hào hùng
nghe như đã văng vẳng dần lên từ lời cảnh báo của cung nhân.
Cái thú văn chương trong chi tiết về người cung nhân còn có thể nhìn ra từ chỗ;
nó cho thấy, hóa ra, một phụ nữ tầm thường, hèn mọn, bị vua ruồng bỏ, xa cung
cấm đã lâu, thế mà còn thông hiểu binh tình gấp bội phần so với một Thái hậu
"mẫu nghi thiên hạ" cao sang, quyền quý. Rồi đến khi bà Thái hậu đem chuyện
ấy nói với vua, vua nói lại với Tôn Sĩ Nghĩ thì ta còn vỡ lẽ: những kẻ nắm binh
quyền dương dương tự đắc kia, còn không có nổi một kiến thức đàn bà!
Vậy là một người phụ nữ vô danh cũng đã thừa khả năng mở mắt cho cả một bộ
sâu triều đình, vua quan, tướng tá về cách đánh, tình thế, cách cầm quân. Lời
nói của cung nữ xưa quả đã khiến Thái hậu phải "giật mình" và vua Lê "hoảng
sợ". Nhưng cũng chỉ đến thế thôi. Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí nhận ra và
đã muốn chúng ta cùng thấu hiểu: Không gì có thể đem lại cho bè lũ bạc nhược
kia sức mạnh trong ý chí và hành động.
Bọn chúng đã không hành động, dù cho có lo lắng có giận dữ trách mắng nhau.
Bởi vì nỗi lo âu, lời quát nạt rồi cũng chóng qua đi. Và bọn người đó lại tiếp tục
nằm ườn ra trên lạc thú, lười nhác tự dối lừa mình trong ý nghĩ: "Cần phải tính
toán cho chu đáo không thể hấp tấp và uể oải đợi chờ đến sang xuân, vào ngày
mùng sáu thì sẽ xuất quân, như vậy cũng không còn xa gì nữa"... 50
Nhà văn đã cho ta thấy một mầm mống bại vong nữa của bè lũ Lê Chiêu Thống.
Nó nằm trong bản chất của một chế độ đã không còn khả năng hành động,
không còn đủ sức mạnh, ý chí, quyết tâm để mà hành động. Và trong khi bọn
cướp nước bán nước cứ đờ đẫn đi, rã rời ra trong kiêu căng và trễ nải thì người
anh hùng áo vải Tây Sơn lại khẩn trương làm được một núi việc khổng lồ.
Quả thế, nếu quân Thanh không làm gì khác ngoài việc ăn chơi thì quân Tây
Sơn lúc nào cũng ráo riết trong chuẩn bị. Phía quân Thanh im lìm bất động :
Ngược lại, phía bên Tây Sơn, tình hình chuyển biến từng ngày. Hẳn chẳng phải
là tình cờ, khi chuyển mạch truyện sang phía thời gian nối tiếp nhau, dồn dập:
"Ngày 20 tháng ấy (tháng 11 âm lịch, năm Mậu Thân 1788). Sớ lui về Tam
Điệp thì ngày 24 Tuyết đã vào đến Phú Xuân".
Chỉ một tháng sau, Nguyễn Huệ đã làm xong mọi việc đắp khắp trong ngoài" và
"hạ lệnh xuất quân, hôm ấy, nhằm ngày 25 tháng chạp". Bốn ngày sau "ngày 29
đến Nghệ An". Hơn một vạn quân được quân kén ngay sau đó, lập tức được đưa
vào cơ ngũ chỉnh tề. Để rồi ngày 30. Quân đến Tam Điệp và ngay tối hôm ấy,
năm cánh hùng binh tràn ngập Bắc Hà, sau khi đã kịp mở tiệc khao quân, ăn Tết trước.
Ta đang được chứng kiến văn chương của Hoàng Lê Nhất Thống Chí một cỗ
máy vận hành hết công suất, một hơi thở mạnh mẽ, gấp gáp, một dòng máu
chảy sục sôi trong huyết quản, một sức sống rạo rực, bừng bừng, đầy phấn chấn.
Tác giả Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thuộc về một dòng họ
danh vọng bậc nhất trên đất Bắc. Còn Nguyễn Huệ xuất thân từ một người áo vải miền Trung.
Song không vì thế mà văn phái Ngô gia đã vội nhìn lãnh tụ Tây Sơn chỉ như
một kẻ võ biền, một kẻ nông phu ít học. Ngược lại, người con của dòng họ Ngô
Thì đã vượt qua rất nhiều thành kiến để đem lại cho người đọc sự thật về một
Quang Trung giàu tri thức và am hiểu lòng người. Hãy lắng nghe lại một lời 51
hiểu dụ của Hoàng đế Quang Trung trong cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn tại Nghệ An.
Có phải là ta đã nhận ra, từ bên dưới lời văn, cái hồn phách thiêng liêng của một
Nam quốc sơn hà, cái giọng khích lệ nghiêm nghị của một Hịch tướng sĩ, và
nhất là cái âm hưởng dõng dạc, chứa đầy căng một niềm bất khuất, tự hào ở
những dòng đầu tiên của áng thiên cổ hùng văn Bình ngô đại cáo? Chắc chắn
phải là một trí tuệ, một tâm hồn cao rộng lắm mới có thẻ bao gồm và chung đúc
được chừng ấy tinh hoa trong một bài nói làm lay động lòng người.
Nhưng tác giả sẽ dần dần cho ta hiểu hai khối tự tin kia nặng nhẹ rất khác nhau.
Sự tự tin của quân Thanh là sự tự tin kiêu ngạo và mù quáng, tự tin trong ảo
tưởng, không biết gì về đối phương, không biết gì về tình thế. Trong khi niềm tự
tin bên phía Tây Sơn được bảo đảm chắc nịch rằng bằng cả một công phu chuẩn
bị, từ lực lượng phương tiện chiến đấu đến việc nuôi dưỡng, hun đúc chí quyết
tâm. Vì thế, khi chiến dịch thực sự diễn ra thì đó là trận đánh giữa một bên là
anh dũng, là hào khí ngất trời với bên kia chỉ thấy hoảng loạn đớn hèn, khiếp nhược.
Cái chiến dịch phi thường ấy, trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, chỉ được kể lại
bằng thứ ngôn ngữ rất bình thường của truyện, của văn xuôi. Và kể không dài,
khi in vào sách giáo khoa thì cũng còn chưa đầy nổi hai trang giấy. Nhưng đó là
hai trang giấy vô cùng quý giá, vì nó đã ghi lại không chỉ thật chân thực mà còn
thật sống động, thật có không khí một chiến thắng cho hôm nay vẫn là thần tốc
nhất trong lịch sử Việt Nam.
Người đọc truyện có thể qua đây mà hình dung ra một chuỗi trận đánh nối tiếp
nhau, trận nào cũng hùng tráng, trận nào cũng như chớp nhoáng, mà không trận
nào giống trận nào. Có trận đánh ở hai sông, sông Gián và sông Thanh Quyết,
hết cái gọi là "Nghĩa binh" của Lê Chiêu Thống, lại đến quận Thanh mới trông 52
thấy bóng quân Tây Sơn từ xa đã sợ mất mật mà tự tan, mà tháo chạy, để rồi bị
bắt sống không thoát một tên.
Rồi tới trận Hà Hồi, binh uy của vua Quang Trung đúng là như sấm động, chỉ
cần dạ ran lên cũng lấy được đồn. Chỉ thấy quân Thanh chống cự một lần duy
nhất ở Ngọc Hồi, nhưng sự chống cự mới yếu ớt và ngắn ngủi làm sao! Chúng
bắn ra để chẳng trúng người nào. Chúng dùng ống phun khói lửa ra, để tự chịu
một trận hỏa công khi trời trở gió.
Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí càng viết lại càng cho ta thấy rõ sự khác
nhau một vực một trời một vực giữa bè lũ Tôn Sĩ Nghị - Lê Chiêu Thống với
quân tướng của Quang Trung. Với quân Thanh, súng đạn và ống phun lửa cũng
chẳng có nghĩa gì, chẳng làm được việc gì ngoại trừ việc tự đốt mình.
Còn với quân Tây Sơn, những vật dụng sinh hoạt thường ngày như ván, như
rơm cũng đã đủ khiến họ trở nên vô địch. Quân Thanh chỉ chạy thôi cũng đã
chết hàng vạn đứa, như Mực, Quỳnh Đô. Còn đội quân xung kích của Quang
Trung trong trận Ngọc Hồi tính ra chỉ khoảng sáu trăm, vậy mà vẫn phá xong
một tuyến phòng thủ kiên cố nhất.
Cái có của lũ cướp nước và bán nước, như người viết tác phẩm này cho thấy, là
quân đông, vũ khí nhiều. Nhưng ý chí chiến đấu, tinh thần chiến đấu, sự sẵn
sàng cho chiến đấu lại là cái chúng không hề có. Tuyệt nhiên không thấy ở bọn
này, dù chỉ một chút cái ý thức mà Trần Quốc Tuấn trước đây đã ghi tạc vào
lòng dạ của các tướng dưới quyền mình: "nên nhớ câu" đặt mồi lửa vào dưới
đống củi" làm nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội "làm răn sợ".
Tác giả hồi truyện này cho thấy rõ : bọn chúng cứ yên tâm kề cà, dềnh dàng yến
ẩm trên đống lửa, không hề lo chi đến việc bất trắc". Để rồi khi lửa cháy lên thì
việc độc nhất chúng thật khẩn trương làm không phải là cứu hỏa, mà là bỏ chạy
cho nhanh. Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thực tế đã thành 53
tấm bia miệng còn vững bền gấp hàng chục, hàng trăm lần bia đá, để ghi lại cho
muôn đời sau chê cười sự hèn nhát của một lũ vua quan tướng tá.
Những chi tiết cụ thể, sinh động được nêu ra ở đây, quả thật hùng hồn hơn mọi
lời nghị luận. Quang Trung là vua, nhưng vẫn tự mình cưỡi voi đốc chiến. Còn
Tôn Sĩ Nghị, thân làm tổng chỉ huy, nhưng chưa xung trận đã sợ hãi tháo chạy,
vội vã tới mức "Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp".
Quân lính dưới quyền cũng không hề chiến đấu mà chỉ biết chạy theo, để rồi sự
hèn nhát chịu đòn trừng phạt cuối cùng: không ai đánh mà quân chết đuổi nhiều
tới mức một dòng sông lớn như Nhị Hà mà nước cũng phải tắc nghẽn, không
chảy nổi.. Mẹ con vua Lê thì bị bỏ rơi, phải qua sông bằng thuyền đánh cá, leo
đào mãi mới gặp được Tôn Sĩ Nghị, thế mà vẫn phải chịu nhục nhã tỏ ra sự tri
ân: "Đội ơn tướng quân... Đều là ơn của tướng quân ban cho!".
Người viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí, dù muốn dù không, thì vẫn phải nhận
rằng: sức mạnh duy nhất trong trận chiến chỉ có thể tìm thấy từ phía của quân
đội Tây Sơn.. Sức mạnh ấy có nguồn gốc ở nhân dân. Dùng ván phủ rơm dấp
nước kết lại thành lá chắn, thành tường chống đạn để xung phong, một sự khôn
ngoan kì lạ thế không thể được sinh ra từ bọn người hoa xa hoa, quyền quý.
Và sự phấn khích, đồng lòng muôn người như một, không ngại khó nhọc, không
quản hi sinh, tình cảm ấy chính là ánh lửa rực rỡ cháy lên từ tinh thần yêu nước
của khối quần chúng nhân dân vĩ đại. Sức mạnh vô địch của nhân dân cộng với
tài trí vô song của người lãnh đạo đã làm cho đội quân của những người áo vải
bình thường phút chốc lớn vụt lên sánh ngang thần thánh, uy thế chấn động trời
đất, ẩn hiện, biến hóa xuất quỷ nhập thần, "tướng ở trên trời xuống, quân dưới
đất chui lên". Và Hồi thứ mười bốn này của Hoàng Lê Nhất Thống Chí sẽ được
thực sự trở thành một khúc ca, với những câu văn cứ làm như ta phải nhớ không
nguôi tới Bình Ngô Đại Cáo. 54
Rồi trong hồi truyện ấy, tác giả sẽ còn cám cảnh cho Lê Chiêu Thống khi phải
chạy khỏi Thăng Long. Rồi tác giả sẽ còn khép hồi truyện này bằng hai dòng
thơ, như muốn gợi rất nhiều lâm li, ai oán:
Bờ cõi xong bề tính liệu
Nước non buồn nỗi lúc chia ly
Nhưng có lẽ họ Ngô đã hoài công. Tình cảm xót xa có lẽ đã không thể truyền
vào lòng của số đông người đọc truyện. Bởi trước đó, người viết đã quá thành
công trong việc dựng lên chân dung của một triều đại không còn sức sống: một
triều đại cần phải chia tay, phải đưa tiễn xuống mồ một cách vui vẻ chứ không
phải một cách buồn đau. Người viết cũng đã quá thành công trong việc tạo ra
cảm giác: chiến thắng oai hùng này quả thật là thuộc về người xứng đáng, quân
khởi nghĩa Tây Sơn dưới sự dẫn dắt của vị anh hùng dân tộc Quang Trung.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 12
“Hoàng Lê nhất thống chí” được viết bằng chữ Hán. Tác phẩm ghi chép về sự
thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc
Hà cho vua Lê. Nó không chỉ dừng lại là sự thống nhất của vương triều nhà Lê,
mà còn được viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội
phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và mấy năm đầu thế kỷ
XIX. Văn bản là hồi thứ 14, viết về sự kiện Quang Trung đại phá quân Thanh.
Ngô Gia Văn Phái là một nhóm tác giả dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai,
nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Dòng họ Ngô Gia là một dòng họ tài
danh của đất kinh kì, không những có nhiều người làm quan lớn, có quan hệ rất
mật thiết với triều đình mà tài văn chương cũng đứng đầu thiên hạ. Hoàng Lê
nhất thống chí là kì công hợp lực của nhiều văn nhân thuộc nhiều thế hệ của
dòng họ Ngô Gia. Có thể coi đây là bộ tiểu thuyết lớn nhất, có nhiều giá trị nhất
của nền văn học trung đại. 55
Qua Hồi thứ 14, với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác
giả “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng
dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm hại
của quân tướng nhà Thanh và số phận thảm thương, bi đát của vua tôi Lê Chiêu
Thống. Cách kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách sinh động cụ thể, gây được ấn tượng mạnh.
Trước thế mạnh của giặc, quân Tây Sơn ở Thăng Long, rút quân về Tam Điệp
và cho người vào Phủ Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ. Nhận được tin ngày
24/11, Nguyễn Huệ liền tổ chức lại lực lượng chia quân làm hai đạo thuỷ – bộ.
Ngày 25 tháng Chạp, làm lễ lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung, trực tiếp chỉ đạo
hai đạo quân tiến ra Bắc. Ngày 29 tháng Chạp, quân Tây Sơn ra đến Nghệ An,
Quang Trung cho dừng lại một ngày, tuyển thêm hơn 1 vạn tinh binh, mở một
cuộc duyệt binh lớn. Ngày 30, quân của Quang Trung ra đến Tam Điệp, hội
cùng Sở và Lân. Quang Trung đã khẳng định : “Chẳng quá mười ngày có thể
đuổi được người Thanh”. Cũng trong ngày 30, giặc giã chưa yên, binh đao hãy
còn mà ông đã nghĩ đến kế sách xây dựng đất nước mười năm sau chiến tranh.
Ông còn mở tiệc khao quân, ngầm hẹn mùng 7 sẽ có mặt ở thành Thăng Long
mở tiệc lớn. Ngay đêm đó, nghĩa quân lại tiếp tục lên đường. Khi quân Tây Sơn
ra đến sông Thanh Quyết gặp đám do thám của quân Thanh, Quang Trung ra
lệnh bắt hết không để sót một tên.
Từ rạng sáng ngày 3 Tết, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận tưng bừng
khiến quân thanh khiếp sợ, kinh hồn bạt vía. Đến trưa mùng 5 Tết, Quang Trung
đã dẫn đầu đoàn quân thắng trận tiến vào Thăng Long, kết thúc trận tiến quân
lịch sử, quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Hồi thứ 14 cũng đã khắc họa đậm nét hình ảnh người anh hùng Quang Trung –
Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ hiện lên với những tài năng kiệt xuất, hiếm có ở trên
đời. Trước hết, ông là vị vua hết lòng yêu nước, thương dân. Nghe tin quân giặc
đã kéo vào thành, lòng ông sôi sục, muốn cầm quân đi đánh ngay. Tấm lòng yêu 56
nước, thương dân lớn lao của vị anh hùng lúc nào cũng lo lắng cho vận mệnh
đất nước, căm ghét kẻ hung bạo, tham lam. Bởi thế, khi kẻ thù giày xéo lên quê
hương, cướp bóc dân chúng lầm than, ông không thể tha thứ được. Khi đất nước
sạch bóng quân thù, ông lại tiếp tục đem tâm huyết an dân, mở mang sản xuất,
dựng xây cuộc sống yên bình. Tấm lòng của bậc minh quân thật lớn lao biết chừng nào.
Quang Trung là người biết nhìn người và trọng dụng nhân tài. Đối với Ngô Thì
Nhậm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sư “đa mưu túc tri’ việc
Sở và Lân rút chạy Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo
toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm
là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao.
Quang Trung cũng là người thông minh, nhạy bén, quyết đoán, hành động quyết
liệt, mạnh mẽ. Tính ông nói là làm, rất nhanh chóng và gọn gàng. Quân giặc
vừa đặt chân vào thành, ông đã vạch ra mưu kế đánh giặc. Chính bởi luôn hành
động mạnh mẽ, ông đã cùng nghĩa quân làm nên cuộc hành binh thần tốc, tạo
nên tính bất ngờ, là cơ sở của những chiến công hiển hách, khiến kẻ thù kinh
hồn bạt vía, đến lúc thua chạy cũng không biết là bởi vì sao.
Quang Trung là người có tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh đánh giặc,
chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như đinh
đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”. Đang ngồi trên lưng ngựa,
Quang Trung đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 năm tới
ta hòa bình hết sức rõ ràng. Đối với địch, thường thì biết là thắng việc binh đao
không thể dứt ngay được vì nỗi sỉ nhục của nước lớn còn đó. Cho nên, sau chiến
thắng là phải thực hiện ngoại giao hòa hoãn để đợi thời cơ. Ông khẳng định: nếu
“chờ 10 năm nữa ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu
quân mạnh thì ta có sợ gì chúng”. 57
Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn người. Cuộc hành quân thần tốc
do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Vừa hành
quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung hoạch định kế hoạch từ 25 tháng chạp
đến mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tiết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức
2 ngày. Hành quân xa, liên tục như vậy nhưng đội quân vẫn chỉnh tề, bí mật
được giữ kín, không phiền nhiễu nhân dân, sức mạnh được duy trì cũng là do tài
tổ chức của người cầm quân.
Vua Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông
làm tổng chỉ huy chiến dịch thực sự, là một dũng tướng tài ba trên xa trường.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh
những trận hoành tráng, thắng áp đảo kẻ thù. Khí thế đội quân làm cho kẻ thù
khiếp vía và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc họa lẫm liệt: trong cảnh
“khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì”, nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi
voi đi đốc thúc” với tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.
Hình ảnh người anh hùng được khắc họa đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ
sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần. Quang Trung Nguyễn Huệ là người
tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại.
Mơ ước về một vị anh hùng trượng nghĩa giúp nước, giúp đời, Nguyễn Đình
Chiểu đã khắc họa đậm nét nhân vật Lục vân Tiên với đầy đủ những phẩm chất
cao quý, thậm chí là phi thường. Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng, hội tụ
đầy đủ những chuẩn mực của một người anh hùng nghĩa hiệp, tuổi trẻ, tài cao,
lòng đầy khát khao được đem công danh, tài năng cứu người, giúp đời.
Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, những phẩm chất của
người anh hùng trọng nghĩa khinh tài và bậc quân tử thanh liêm, chính trực
được bộ lộ rõ nét. Trước bọn cướp hung bạo, chàng dũng cảm tả xông hữu đột
đánh cho chúng một trận tơi bời:
“Lâu la bốn phía vỡ tan, 58
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay”.
Trước Kiều Nguyệt Nga, chàng giữ lễ đúng mực:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.”
Trước mong muốn đền đáp ơn cứu giúp, chàng khảng khái chối từ, nêu cao đạo lí nhân nghĩa ở đời:
“Vân Tiên nghe nói liền cười:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Này đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Lục Vân Tiên quả thực là một người rất chính trực, anh hùng, chính nghĩa và
nhân hậu, là hình tượng gửi gắm niềm tin và ước mong của nhân dân ta đem đến một xã hội công bằng.
Hồi thứ 14 trong tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí thể hiện rõ xu thế lịch sử
của nước ta thế kỉ 18. Với ý thức tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc,
những người trí thức, các tác giả Ngô Gia Văn Phái vốn là những cựu thần chịu
ơn sâu, nghĩa nặng của nhà Lê nhưng họ đã không thể bỏ qua sự thực vua nhà
Lê yếu hèn đã cõng rắn cắn gà nhà và ghi nhận chân thực chiến công lẫy lừng
của nghĩa quân Tây Sơn, làm nổi bật hình ảnh vua Quang Trung – người anh
hùng áo vải, niềm tự hào lớn của cả dân tộc. 59
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 13
"Hoàng Lê nhất thống chí" của nhóm tác giả Ngô gia văn phái từ lâu đã được
xem là cuốn sách lịch sử đặc biệt quan trọng, là cuốn tư liệu quý giá cho các nhà
sử gia nước nhà. Tuy nhiên, vượt ra khuôn khổ giá trị của cuốn sách lịch sử
thông thường, tác phẩm còn mang một giá trị văn chương hay, độc đáo, rất tiêu
biểu cho thể loại tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi. Toàn bộ tác phẩm
gồm có mười bảy hồi.
Đó là một chuỗi câu chuyện lịch sử dài, với biết bao nhiêu là những biến cố
thăng trầm, đầy dữ dội, đau thương, đẫm máu và nước mắt của các triều đại
phong kiến Việt Nam từ ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII đến mấy năm đầu thế kỉ
XIX; từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa cho đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà, lật
đổ triều đại Tây Sơn, lập nên triều đại Gia Long – nhà Nguyễn. Trong tác phẩm,
tiêu biểu có Hồi thứ mười bốn: "đánh Ngọc Hồi quân Thanh thua trận.
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài", là một trong những phần hay nhất
của tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí". Tác giả đã dựng lên bức chân dung về
người anh hùng áo vải dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá
quân Thanh và tái hiện sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận bi
đát của vua tôi Lê Chiêu Thống một cách chân thực, sinh động.
Có thể nói, dưới ngòi bút của nhà văn, người đọc như đang sống lại những giờ
phút đau thương của lịch sử dân tộc khi mà vào cuối năm Mậu Thân 1788, đầu
năm Kỉ Dậu 1789, vua Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ
Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị
chiếm được thành Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở phải tạm thời rút lui về Tam Điệp để phòng thủ.
Đứng trước vận mệnh lịch sử Việt Nam "ngàn cân treo sợi tóc", Nguyễn Huệ
hiện lên như một vị cứu tinh chói lọi của dân tộc ta. Nhận được tin báo Nguyễn 60
Huệ giận lắm, "định thân chinh cầm quân đi ngay". Chỉ trong vòng hơn một
tháng trời, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc: Ngày 25 lên ngôi hoàng đế,
"tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi", rồi đốc thúc đại quân tiến ra Bắc.
Ngày 29 tới Nghệ An, nhà vua cho tuyển thêm quân sĩ và mở một cuộc duyệt
binh lớn, thu nạp được hơn một vạn quân tinh nhuệ; sau đó đưa ra lời phủ dụ,
vạch rõ âm mưu và sự tàn độc của quân xâm lược phong kiến phương Bắc, nêu
cao truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc và đưa ra lời hiệu
triệu kêu gọi các quân sĩ "đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn".
Lời phủ dụ như sấm truyền bên tai, như một lời hịch mang âm hưởng vang vọng
của sông núi, kích thích lòng yêu nước và truyền thống anh hùng của dân tộc.
Chưa dừng lại ở đó, nhà vua còn hoạch định kế hoạch hành quân "lần này ta ra,
thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mười
ngày có thể đánh đuổi được người Thanh" rồi chia quân sĩ ra làm năm đạo".
Hôm đó là ngày 30 tháng chạp, vua cho tổ chức mở tiệc khao quân , hẹn đến
ngày mồng bảy năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng...
Qua đó, ta thấy vua Quang Trung - Nguyễn Huệ hiện lên là một con người có
hành động mạnh mẽ, xông xáo, có trí tuệ sáng suốt trong nhận định tình hình
địch ta và là người biết nhìn xa trông rộng, chưa thắng nhưng nhà vua đã nghĩ
tới quyết sách ngoại giao, kế hoạch hòa bình trong mười năm tới.
Tác giả đã mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi
thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa diễn ra: "Không biết rằng,
Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân.
Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết.
Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một
người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn.
Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét". Lời
nhận xét đó không phải là không có căn cứ. Điều này được thể hiện rất rõ, rất 61
chân thực, cụ thể trong cuộc điều binh khiển tướng trực tiếp của nhà vua. Trong
chiến trận, vua Quang Trung hiện lên oai phong, lẫm liệt, có tài thao lược hơn
người. Có thể nói dưới bàn tay chỉ huy của nhà vua, quân đi đến đâu, giặc bị tiêu diệt tới đó.
Lúc đi đến sống Gián và sông Thanh Quyết, toán quân Thanh vừa trông thấy
bóng nhà vua đã "tan vỡ chạy trước"; tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc vua
lặng lẽ cho vây kín làng rồi dùng mưu bắt loa truyền gọi khiến quân Thanh "ai
nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam
lấy hết"; sáng mùng 5 tết tiến sát đồn Ngọc Hồi, đề phòng trước mũi súng của
giặc, vua Quang Trung đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm
làm một, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, cứ mười người một bức, lưng
giắt dao ngắn, theo sau là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ "nhất" tiến thẳng vào đồn.
Vì thế, súng giặc bắn ra đều vô tác dụng. Nhân có gió bắc, quân Thanh dùng
súng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, hòng làm quân ta rối loạn, không
ngờ bỗng trời trở gió nam ngược lại, thành ra quân Thanh tự hại mình. Trước
tình thế nghìn năm có một ấy, nhà vua liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che,
xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất cứ nấy
dao ngắn thủ sẵn trong tay áo mà chém.
Kết quả, quân Thanh "thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại
bại". Thừa thắng xông lên, vua Quang trung lẫm liệt, oai phong cưỡi voi tiến
vào giải phóng thành Thăng Long vào trưa ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu – trước kế
hoạch hai ngày. Giặc bỏ chạy, vua cho phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng,
vây quân Thanh ở Quỳnh Đô, giặc chạy xuống đầm Mực, cuối cùng bị quân
Tây Sơn " lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người".
Nhà văn đã tả thật chi tiết, sinh động sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và
số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua quan phản nước hại dân bằng một giọng 62
điệu vừa ngậm ngùi xót xa, lại vừa mạnh mẽ, tự hào. Vua Quang Trung tiến
binh đến Thăng Long, rồi kéo quân vào thành. Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở Thăng
Long chỉ chăm chú vào ngày tết, yến tiệc vui mừng, không lo chi đến việc bất trắc.
Ngược lại, quan quân ta mạnh mẽ như hổ báo, thế như chẻ tre, như "tướng ở
trên trời xuống, quân chui dưới đất lên". Vì bị đánh úp bất ngờ, không có chuẩn
bị, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo
giáp, cứ nhằm hướng bắc mà chạy; Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự vẫn; quân sĩ
nhà Thanh đều "hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô
đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi
xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa".
Còn số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước hại dân Lê Chiêu Thống cũng
phải chịu cảnh nhục nhã của kẻ vong quốc. Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng
kẻ thân tín "đưa thái hậu ra ngoài", bỏ chạy, cướp cả thuyền dân để qua sống,
may được người thổ hào giúp cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp Tôn
Sĩ Nghị, vua tôi " cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt", sau này
phải cạo đầu tết tóc như người Mãn Thanh...
Đến đây, chúng ta mới thấy hết được tác giả Ngô gia văn phái là những con
người tôn trọng lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan. Mặc dù, họ vốn dĩ là cựu
thần nhà Lê, ăn bổng lộc triều Lê, không có thiện cảm với quân Tây Sơn, thậm
chí xem Tây Sơn như là kẻ thù, nhưng họ vẫn viết về Quang Trung và những
chiến công của đoàn quân áo vải một cách thật hả hê, mạnh mẽ, tự hào.
Điều đó có được là do ý thức dân tộc của những trí thức có lương tri, lương tâm.
Họ đã thấy được những cái hạn chế, sự thối nát, hèn mạt của nhà Lê và dã tâm
xâm lược độc ác, hống hách của quân Thanh nên họ không thể đứng đó mà
ngoảnh mặt làm ngơ được. Qua đó, chúng ta cảm thấy thật tâm phục, khẩu phục 63
trước ý thức, trách nhiệm và tình yêu đất nước dân tộc của nhóm tác giả Ngô gia văn phái.
Đoạn trích "Hồi thứ mười bốn" trong "Hoàng Lê nhất thống chí" là một đoạn
trích hay, độc đáo, có nhiều thành công về mặt nghệ thuật: kể tả đan xen rất sinh
động, cụ thể, gây được ấn tượng mạnh; giọng điệu biến đổi linh hoạt, phù hợp
với từng đoạn văn, từng hoàn cảnh lịch sử. Cảnh tháo chạy của quân tướng nhà
Thanh được miêu tả dưới cái nhìn hả hê, mãn nguyện của người thắng trận
trước sự thất bại thảm hại của kẻ thù cướp nước: âm hưởng nhanh, dồn dập, gợi sự tán loạn, tan tác.
Cảnh bỏ chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống được miêu tả dài hơn, âm hưởng
chậm, toát lên vẻ chua xót, ngậm ngùi... Đặc biệt sự thành công nổi bật trong
đoạn trích là nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật với đầy đủ diện mạo tới
bản chất: Tôn Sĩ Nghị (tướng nhà Thanh) thì kiêu căng, ngạo mạn, khi bị quân
Tây Sơn đánh đến thì "sợ mất mật" hèn hạ dẫn quân bỏ chạy;
Vua Lê Chiêu Thống hiện lên là con người ích kỉ, vì lợi ích dòng họ mà trở
thành kẻ phản động, đớn hèn, nhục nhã cướp cả thuyền dân mà bỏ trốn; Còn
vua Quang Trung – nhân vật chính trong truyện lại hội tụ biết bao phẩm chất
của một người anh hùng "văn võ song toàn", đầu đội trời chân đạp đất... Tất cả
đã hòa với nhau làm một, tạo nên sự thành công tuyệt vời của một tác phẩm tiểu
thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi.
Khép lại đoạn trích "Hồi thứ mười bốn" người đọc thấy được những âm mưu
tàn ác của quân xâm lược phương Bắc đối với dân tộc ta. Đồng thời, qua đoạn
trích ta càng cảm thấy tự hào hơn về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân
tộc Việt Nam, thấm thía và biết ơn sâu sắc những con người anh hùng, trong đó
có nhà vua, nhà quân sự tài ba Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Phân tích Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14 64
Đất nước Việt Nam ta đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử biết bao thăng trầm,
có những sự kiện lớn được lưu vào sổ sách cũng như dựa vào đó làm nguồn cảm
hứng cho các nhà văn. Và thời kì những năm cuối thế kỉ XVIII cuối thế kỉ XIX,
đã có sự kiện lớn, và đã được các nhà văn Ngô gia văn phái ghi chép lại thông
qua tác phẩm " Hoàng Lê nhất thống chí". Có nhận xét rằng: "Hoàng Lê nhất
thống chí" của Ngô gia văn phái, có thể nói cảm hứng yêu nước và tự hào dân
tộc nhiều khi đã lấn át cả thái độ thiên vị với triều đình Lê. Điều đó đã mang lại
những chi tiết thực và hay. Ta có thể thấy rõ điều đó qua hồi 14 của tác phẩm.
Ngô gia văn phái là tập hợp các anh em nhà họ Ngô làm việc cho triều đình nhà
Lê. Khi ấy triều đình nhà Lê đang ở thế suy tàn, thối nát,vì vậy nhiều cuộc khởi
nghĩa nổi dậy và tiêu biểu là phong trào Tây Sơn của anh em nhà Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Các nhà văn họ Ngô đã tái hiện lại một cách chân
thực nhất và khách quan nhất về thời kì ấy.
Hồi thứ 14, tác giả đã phác họa lại một cách sinh động nhất về chiến thắng lẫy
lừng của Nguyễn Huệ cùng với đó là sự thất bại thảm hại của quân Thanh và
vua Lê bán nước. Như đã biết, tác giả họ Ngô làm việc cho triều Lê chắc hẳn
phải thiên vị vua tôi, phải coi thường nghĩa quân của Nguyễn Huệ - coi đó là
giặc cỏ, nhưng thông qua hồi thứ 14 này, ta có thể thấy rằng họ nhìn mọi sự việc
diễn ra vô cùng khách quan, nhận diện được đâu là tốt, xấu. Chính vì vậy, mà
những trang lịch sử được viết ra đã mang lại những chi tiết "thực và hay" đến thế.
Nổi bật nhất trong hồi 14 này đó hình ảnh người anh hùng áo vải cầm quân đầy
tài năng, đó chính là Nguyễn Huệ. Ông có cái nhìn tổng quan về thời cuộc, biết
nhìn xa trông rộng, tính toán chính xác trong từng bước đi. Khi nghe tin quân
Thanh đã kéo đến thành Thăng Long mà không tốn một chút công sức, ông tức
giận lắm, nhưng ông vẫn không hề nao núng, mà quyết muốn cầm quân đi ngay.
Chỉ trong vòng một tháng, ông đã làm được bao nhiêu việc, từ tế cáo trời đất, 65
lên ngôi vua và lấy hiệu Quang Trung, bởi ông muốn có được lòng tin của dân,
lấy danh nghĩa để dẹp loạn phương Bắc. Liền tiếp đó, ông đã cầm quân đi ngay,
trên đường đi ông không ngừng tuyển thêm binh sĩ tinh nhuệ, đào tạo để thành
đội quân. Những việc làm đó thật nhanh chóng, kiên quyết cho thấy được sự
quyết liệt và sáng suốt của nhà vua Quang Trung. Ông họp bàn với các tướng sĩ
đưa ra các chiến lược vậy mà ông đã có một cái nhìn khẳng định "sau mười
ngày sẽ đại phá được quân Thanh". Thêm vào đó, ông còn nghĩ cách để hòa
hoãn, tìm cách ngoại giao lại với quân Thanh bởi ông cho rằng đất nước cần
phải được yên ổn, xây dựng phát triển, xây dựng lực lượng, tạo những đội quân
mạnh cho chính đất nước mình.
Từ trước cuộc chiến hay kể cả khi bước vào cuộc chiến, Quang Trung đã chứng
minh được mình là một nhà quân sự tài ba. Ông có một tài năng dùng binh như
thần. Ông điều quân thần tốc đi từ Huế vào ngày 25 tháng Chạp đến Nghệ An
vào ngày 29 tháng Chạp vượt qua 350km đường lẫn cả núi đèo, rồi ra đến Tam
Điệp. Trong cuộc hành trình ấy ông còn tổng duyệt binh và đến 30 tháng Chạp
đội quân đã đến thành Thăng Long. Điều ngạc nhiên là tất cả đội quân của ông
đều đi bộ. Trải qua bao khó khăn gian khổ trên cuộc hành trình dài mà đội quân
của ông vẫn chỉnh tề, cờ nào đội đấy vẫn nghiêm chỉnh, điều này càng khẳng
định thêm tài cầm quân của ông. Điều đó càng dễ hiểu khi đội quân đến thành
Thăng Long và đánh tan quân giặc trước dự kiến đó hai ngày. Ông tự mình chỉ
huy, xuất thân ra trận cùng các binh lính của mình và đã đạt được thành công
như mong đợi. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng, Ngọc Hồi thì bị đập nát, Sầm Nghi
Đống phải tự tự, hàng vạn quân giặc đã phải bỏ mạng. Tôn Sĩ Nghị thì "sợ mất
mật, ngựa không kịp đóng yên... cứ nhắm hướng bắc mà chạy". Một khung cảnh
náo loạn của bọn giặc cướp nước, đó là cái giá mà bọn chúng phải trả vì tội xâm
lược, phá hạnh phúc bình yên của dân tộc khác. 66
Bọn Việt gian bán nước cũng phải chịu số phận tủi nhục không kém, trên đường
bỏ chạy, chúng hóa thành bọn cướp, cướp thuyền của dân để chạy trốn sang bên phía Bắc mà lánh nạn.
Hồi thứ 14 vô cùng đặc sắc bởi nó đã vẽ nên khung cảnh toàn diện nhất của
cuộc chiến, nó nêu lên một chiến thắng vẻ vang của dân tộc,và cũng là lời nhắc
nhở, cảnh cáo đến những kẻ ngoại xâm, hay bán nước sẽ phải trả giá cho những
tội lỗi mà chúng đã làm. Bằng tài năng kể chuyện, nhà văn họ Ngô đã miêu tả
chân thực từng nhân vật cũng như các sự kiện cao trào và vô cùng hấp dẫn. Vì
vậy "Hoàng Lê nhất thống chí" xứng đáng sống mãi với lịch sử của dân tộc. Nó
mãi mãi là những trang viết "thực và hay". 67