Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà hay nhất - Ngữ Văn 12

Xin gửi tới quý thày cô và bạn đọc bài văn mẫu "Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà". Đây là tài liệu không thể thiếu đối với các bạn học sinh chuẩn bị thi cuối học kì 2 lớp 12 và thi THPT Quốc gia môn NGỮ VĂN. Hy vọng tài liệu trên giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích tác phm Người lái đò sông đà Ng văn 12
Dàn ý Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà
I. M bài
- Tác gi Nguyn Tuân: phong cách ngh thuật độc đáo, cái tôi đầy tính,
một nhà văn tài hoa uyên bác, luôn khám phá thế gii bình diện văn hóa thẩm
mĩ.
- Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dng ch nghĩa hội min
Bc, vi ni dung ngi ca v đẹp của con ngưi và thiên nhiên Tây Bc.
II. Thân bài
1. Li đ t
- Lời đề t “Đp vậy thay ...”: thể hin xúc cm mãnh liệt trước v đẹp ca
dòng sông con người gn vi dòng sông, thấy được cm hng ch đạo
ngi ca.
- Lời đề t tiếp: “Chúng thủy ...”: thể hin tính độc đáo của ca con sông
Đà.
2. Hình tượng dòng sông Đà
a. Dòng sông “hung bạo”
- “Cảnh đá bờ sông dng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dng vách
thành”, “đúng ng mi có mt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”.
- mt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” mt cách hn
độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những ngưi lái đó.
- Mường Vát: “có những cái hút c giống như cái giếng tông”,
chúng “th và kêu như cửa cng cái b sc nưc”.
- Trận địa thác đá được miêu t t xa đến gn:
+ Xa: t xa âm thanh thác nưc hin lên vi nhiu trạng thái: “oán trách”, “van
xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như mt ngàn con trâu ... cháy bùng
bùng” (lấy la t c).
+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “”hất hàm”, “oai phong”,
những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh
khuýp qut vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.
+ S biến hóa linh hot ca 3 trùng vi thch trn:
- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo tâm địa ca mt con thủy quái, “dòng
thác hùm beo”, th k thù s mt của con người.
b. Sông Đà trnh
- T trên cao nhìn xuống như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”,
mùa xuân có màu xanh ngc bích, thu l l chín đỏ.
- Khi đi rừng lâu ngày gp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, ánh
sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nng tháng ba
Đường thi”, ...
- Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một b tin sử”, “hồn nhiên như
mt ni nim c tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: ngô non, “con hươu
thơ ngộ”, ...
3. Hình tượng người lái đò sông Đà
- th liên h đến hình nh Hun Cao - ngưi anh hùng trong quan nim ca
Nguyễn Tuân trước cách mạng để dn dắt sang hình tượng ông lái đò.
- V lai lch: tác gi xóa m xut thân, tp trung miêu t ngoại hình: “tay lêu
nghêu ... chất mun” đ ngi ca những con người vô danh âm thm cng hiến.
- Công việc: i đò trên sông Đà, hằng ngày đối din vi con thy quái hung
bo..
- Tài năng và tâm hn:
+ ngưi tng tri, hiu biết thành tho trong ngh lái đò: “trên sông Đà
ông xuôi ngược hơn mt trăm lần”, “nhớ t m ... nhng luồng nước”, ...
+ người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh tài ba: ung dung đối đầu vi thác d
“nén đau giữ mái chèo, tnh táo ch huy bạn chèo ...”, “nắm chc binh pháp ca
thn sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng,
phóng thng thuyn vào gia thác ...”
+ người ngh tài hoa: ưa những khúc sông nhiu ghnh thác, không thích
lái đò trên khúc sông bằng phng, coi vic chiến thắng “con thủy quái”
chuyện thường.
- Khái quát v phong cách ngh thut Nguyn Tuân.
III. Kết bài
- Tng kết ngh thuật đặc sc: ngôn ng điêu luyện, tưởng tượng độc đáo, vận
dng tri thc nhiu ngành ngh thut, xây dựng thành công hình tượng sông Đà
và ông lái đò.
- Khái quát ni dung: tác phm ca ngi v đẹp của con người lao động, v đẹp
thiên nhiên đt nưc.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mu 1
Tác phẩm Người lái đò sông Đà bút đy sáng to, tiêu biu cho phong
cách độc đáo của Nguyn Tuân sau cách mng tháng tám: Uyên bác, tài hoa,
không qun gian lao vt v đ được nhng dòng bút ký, đậm cm giác chân
thc, sức liên tưởng phong phú đem đến cho người đọc người nghe cm nhn
v mt tâm hn khao khát hòa nhp vi nhịp động phát trin của đất nước ca
cuc đi.
Tác phm kết qu ca cuộc hành trình ngưc min Tây Bắc giai đoạn năm
1958-1960 đầy tri nghim sâu sc ca tác giả, được in lần đầu trong tp Sông
Đà (1960). Sông Đà quanh co, uốn n dc qua các triền núi, dòng c chy
xiết với đ dc lớn. Chính đặc điểm đó đã tạo cho Đà giang một v đp k thú,
rất hoang kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo tr tình đã làm nổi
bt lên v đẹp tài hoa, ngh sĩ của ông lái đò ông lái đò trên dòng Đà giang.
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn ca nền văn học Vit Nam hiện đại. Ông có nhng
thành tu to ln trong c hai thi k trước sau năm 1945. Trưc 1945, ông
tập “Vang bóng một thời” gồm mười mt truyn rất đặc sc, giá tr
cùng to ln. Hoà chung vi không khí thi đại trong cuc kháng chiến chng
Pháp M ca dân tc, phong cách Nguyn Tuân vn luôn gi được nét sáng
to, riêng biệt. Ông là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế gii
bình diện văn hoá thẩm m. Nguyn Tuân miêu t con người trong v đẹp
tài hoa ngh sĩ. Thiên nhiên hiện lên trong văn chương của ông cũng trở thành
nhng công trình ngh thut k vĩ, độc đáo. Người lái đò ng Đà đoạn trích
được rút ra t tp tu bút Sông Đà được ông viết năm 1960, trong một chuyến
đi gian nan nhưng đy hng khi v min Tây Bc him tr. Chuyến đi thoả
mãn cái khát khao “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi ấy ông đã không
quên tìm kiếm “chất vàng” của cnh sắc thiên nhiên nơi đây, rt him tr nguy
hiểm nhưng cũng mang vẻ đẹp hùng thơ mộng say đắm lòng ngưi. V đẹp
của con người nơi đây được ông như “chất vàng mười đã qua thử la” họ
người dân lao động trí tuệ, lòng dũng cảm sc mnh chế ng thiên
nhiên.
Hai hình ng bao trùm, xuyên sut tác phẩm hình ợng con sông Đà
hình tượng người lái đò trên dòng ng quanh năm d tn thách thc vi con
người. Vi ngòi bút tài hoa của mình ông đã tạo nên hình tượng Đà giang mang
hai sc thái, hai bình diện tương phn vừa ng vĩ, hung bạo những cũng cũng
không kém phn tr nh, thơ mộng.
Nguyn Tuân dn d người đọc cun theo cm giác va s hãi tt cùng va
như đam mê, thích thú. Bng sc ởng tưởng phong phú ca mình, li hành
văn nhạy bén độc đáo của mình con sông Đà hung bạo hin lên trong lòng
người đọc vi niềm đam hãi hùng thích thú cùng. Cái hung bạo đưc
nhà văn miêu tả m đầu bng cảnh “đá bờ ng dng vách thành”, nghệ thut
n d nhng khối đá b sông được Nguyễn Tuân như những thành trì kiên
cố, vũng chãi và đy ry s nguy him, n, đe doạ trc chờ. Nhà văn miêu tả,
mt sông lúc ấy “đúng ngọ” mi mt trời, vách đá “chẹt lòng sông như
mt cái yết hu”, có quãng tưởng như con hươu, con nai nhy t b này qua b
kia. Các liên ởng tưởng chừng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng li cha
đựng đầy dng ý ngh thut ca tác gi. Ch sông phải đến tn gia trưa, khi
mt tri lên cao nht mi ánh nng chiếu vào, động t mạnh “chẹt” rất biu
cm xen ln vi ngh thuật so sánh “như mt cái yết hầu”, hai bên bờ con hươu
con nai th nhảy qua đưc. Nhng hình ảnh độc đáo được tác gi khéo léo
lồng vào, đã tạo cho người đọc được độ cao của vách đá, đ hp ca lòng sông.
Ngi trong khoang thuyền đi qua khúc sông ấy “mùa cũng thy lạnh”, tác
gi miêu t thông qua cm giác, mùa ng nc oi bức nhưng khi qua đây,
chính cái khung cnh choáng ngp, k vĩ, cht hẹp đã làm cho ta cm thy s
hãi và nh bé gia gia thiên nhiên.
Cnh hung bo ca sông Đà còn được th hin mt ghnh Hát Loóng. Hàng
ngàn cây s “nước xô đá, đá sóng, sóng gió”. Một lot thanh sc xut
hin to cho ta cm giác sóng gió ngày càng mnh m cao dn. Ngh thut
điệp t, điệp cu trúc ni tiếp nhau, động t mạnh “xô” đưc lp li nhiu ln.
Sc mnh ca thiên nhiên rt khng khiếp, rt lnh lùng, “gùn ghè”, hm
như một con thú hoang hung d, lm, sn sàng thách thc với con người nơi
đây.
Những cái “hút nước” khủng l trên quãng sông ờng Vát. Xoáy c
“như những cái giếng bê-tông” được th xung làm móng cu, nưc đây “thở
kêu như mt cái cng b sặc”. Nghệ thut nhân hoá kết hp so sánh ca
Nguyn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh đng, hp dẫn hơn bao giờ hết.
Khúc sông này nguy hiểm đến mc không mt con thuyn nào dám tiến li gn,
nếu không s b hút vào trong, b dìm xung lòng sông biến mt mt cách
đáng sợ.
Hình tượng hung bo, d di của con ng đưc tác gi khc ho nét nht
chính khúc thác sông Đà. Tác giả miêu t con sông bng nhng hình nh
hết sc biu cm, bng nhng âm thanh d di nhiu sc thái, còn xa lm mi
tới thác đã nghe thy tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”, tiếng nước
nghe như “oán trách”, như “van xin”, như “khiêu khích”, rng lên tng
hi ghê rợn như tiếng của “một ngàn con trâu mộnggầm thét, vt ln trong
lúc rng cháy, ngn la đ rc bc lên ngùn ngt.
Những hòn đá sông Đà nhiu k, tt c chúng hp li thành c một “chân
trời đá” rộng ln. Mỗi hòn đá mang một dáng v khác nhau, nhưng hòn hòn
ny mặt trông ng rất “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, đây tác giả
dùng nhiu tính t ch con người để miêu t qua đó người đọc cm nhận đưc
s d tn, s bt cần, bướng bnh của hòn đá, chúng như nhng vt th sng và
là đa con ca m thiên nhiên tạo ra. Sông Đà dường như đã giao nhim v cho
từng hòn đá để y ra “thạch trận” tuyên chiến, thách thc với con người. Vòng
th nhất “thạch trận” có năm ca trận, có “bốn ca t”, “một ca sinh” nằm lp
l nơi tả ngn con sông. Vòng th hai, thác sông Đà đã bc l v gian manh cái
s háo thng ca nó, ln này bày ra nhiu ca t hơn để đánh lạc ng con
thuyền đi vào chỗ chết, mt cửa sinh đưc b trí lch v phía ha ngn. Vòng
th ba, vòng quyết định thng thua cuối cùng, thác sông Đà bày ít cửa hơn
nhưng trái phải đều “luồng chết”, cửa sng duy nht li nm ngay gia bn
đá hậu v đang canh gác. Qua phong cách miêu tả độc đáo, sinh động, giàu
ởng tượng ca Nguyễn Tuân con sông Đà hin lên tht hung bão, d tn,
như một “loài thuỷ quái khng lồ” tâm địa vừa độc ác, va nguy him, k
thù s mt của con ngưi trong cuc chiến không cân sc.
Tuy nhiên cũng lúc con sông Đà tr v vi v du dàng, tr tình thơ mng
ca nó. V đẹp Đà giang đưc miêu t qua nhiều điểm nhìn, nhiu góc cnh,
không gian thi gian khác nhau. T trên cao nhìn xuống, con sông Đà uốn
n, mm mại như áng tóc của ngưi con gái Tây Bc kiu diễm, xinh đẹp.
Dòng sông Đà được nvăn bằng nhng hình nh rt biu cm, y ấn tượng
sâu sắc, “tuôn dài như một áng tóc tr tình, đầu tóc chân tóc n hin trong mây
tri Tây Bc bung n hoa ban, hoa go tháng hai cun cun khói núi Mèo
đốt nương xuân”. Màu ớc sông Đà biến đổi theo tng mùa khác nhau, mi
mùa mang mt v đẹp độc đáo, riêng biệt: Mùa xuân dòng ng “xanh ngc
bích”, mùa thu “lừ l chín đỏ”. Con sông như người thiếu n xinh đẹp,
mộng đang tuổi xuân thì tràn đầy niềm kiêu hãnh nên tính cách đôi phần khó
hiểu, thay đổi thất thưng.
Sông Đà dịu dàng “như một c nhân”, cảnh sc bên b thật êm đềm tươi đẹp.
Sau chuyến đi dài ngày, ông nhìn ngắm sông Đà thật gi cảm, thơ mộng như
“màu nắng tháng ba Đường thi”, bờ sông đầy nhng chun chuồn bươm bướm.
Ngưi c nhân y gi đây yên l thường nđang lặng nghe âm thanh ca
thời gian, thưng thc cnh sc hai bên b sông. B sông Đà hoang như
nhum màu c tích va trù phú tràn tr nha sng ca phù sa bồi đắp. Nhng
nương ngô “nhú lên mấy ngô non đầu mùa”, ngọn c “đang ra những nõn
búp”, xa xa vài con hươu nhai cỏ. Sông Đà lúc này như bờ tin s mang bên
mình nhng ni nim c tích xa xưa, hoài nim.
Dòng sông Đà đưc tác gi khc ho rt rõ nét bng nhiu vn dng ngh thut
độc đáo: So sánh, n dụ, nhân hoá, đng t mạnh…, cùng khả năng liên tưởng,
sáng to mi mẻ, ông đã viết lên những câu văn tht giàu nhịp điệu, sống động.
i ngòi bút tài hoa của người ngh sĩ, Đà giang không còn mt con sông
vô tri mà nó là mt sinh th có suy nghĩ, có tâm hồn.
Trong tác phm ca Nguyn Tuân làm sao th thiếu đi bóng dáng con ngưi.
Thiên nhiên càng rng lớn, hùng vĩ, dữ di bao nhiêu thì càng làm ni bt lên
v đẹp trí tu tài hoa ca con người lao động. Trong bài văn, tác giả đã sáng tạo
ra hình tượng “ông lái đò” đây hình nh biểu trưng cho người lao động cn
chăm chỉ nhưng cũng không kém phần mnh mẽ, cam đảm khi sn sàng đối
đầu vi thiên nhiên hung tn trong mt cuc chiến không cân sc. Con sông
Đà bỗng chc tr thành k thù s một, người lái đò thật nhgia thiên nhiên.
Tuy nhiên h vn bc l được s mưu trí, tài hoa nghệ sĩ ca mình.
Phm cht anh dũng, tài hoa, trí tu của người lái đò được th hin qua cnh
vượt thác sông đà. Tại đây, con sông mưu mô, xảo quyt bày ra một “thạch
trận” với ba vòng thách đấu như muốn tiêu dit nhng con thuyền đi qua.
Những người anh hùng vn không chút s hãi, vn rất điềm tĩnh bằng trí tu
của mình ông lái đò đã lần lưt chinh phc tng ca i. Vòng th nht, với năm
ca trn, bn ca t, ch mt ca sinh duy nht nm lp l bên b t ngn.
Thuyn va tới, “phối hp với đá, nước reo hò làm thanh viện cho đá” những
hòn đá ngỗ nghch, b v. hòn đá nhìn nghiêng thì như “hất hàm” đòi cái
thuyn phải “xưng tên tui trưc khi giao chiến”, có hòn thì như thách thức ông
đò “có giỏi thì tiến vào đây”. Ông đò không chút nao núng tay vẫn “giữ ly mái
chèo cho khi b hất lên”. Mặt c reo vang dội, ùa vào như bẻ gãy cán
thuyền, sóng nước như “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gi vào bng
hông thuyền”. Nưc bám lấy như “đô vật” muốn vt nga người lái đò ra. Sóng
nước đánh đến món đòn “hiểm độc nhất”, luồng nước y bóp cht ly h b
ông đò. Ông đò đã bị thương “mặt méo bệch đi” nhưng không hề đầu hàng
trưc k thù, ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kp cht buồng lái”, tiếng
ch huy ca ông vn vang lên ngn gn, tnh táo. Vậy phá xong cái “trùng vi
thch trn th nht”.
Không cn ngh tay, ngh mt mt phút giây nào phi phá luôn vòng vây th
hai, lần này ông đò đã đi chiến thuật. Ông đò đã nm chắc “binh phát của thn
sông Đà”, “thuộc quy lut phc kích của đá nơi ải nước him tr này”. Con
sông Đà đã lộc s gian trá, đc ác ca nh khi ln này bày ra nhiu ca
t hơn, cửa sinh nm lch sang mt phía hu ngn con sông. Tác gi s dng
ngh thuật so sánh cưỡi lên con sông Đà phải “cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”.
Nắm được cái bờm ng đúng luồn rồi, không phút nao núng, ông đò “ghì ct
cương lái”, bám chặt ly luồng nước c sc phóng nhanh vào phía ca sinh,
“lái miết một đường chéo v phía ca ấy”, bỏ lại sau lưng những ca t
những hòn đá vẫn “không ngừng khiêu khích”.
Trùng vây thch trn cui ri, ln này ít ca ải hơn, “bên phải bên trái đều
lung chết”, luồng sinh nm ngay gia bọn đá hậu v ca con thác. Con sông
Đà dường như chưa từ b tham vng ca nó, s hiếu thng, nó mun nut trn
con thuyn trong ln giao chiến quyết định cuối cùng này. Nhưng người lái đò
bao lần vượt thác ghềnh, ông đã tích lu biết bao kinh nghim, ông cho thuyn
phóng thẳng “cứ thế chc thng ca giữa đó”, thuyền như một mũi tên tre nhọn
hot, c thế lao nhanh “vừa xuyên va t động lái được lượn được”. Cuối cùng
bng s gan d, tài trí, kinh nghim của mình ông đò đã vượt hết dòng thác mt
cách an toàn, giành chiến thng trong cuc chiến không khoan nhượng vi k
thù hung bo.
Nguyn Tuân xây dng hình ng nhân vật người lái đò sông Đà bằng nhiu
ngh thuật đặc sc. Tác gi s dng t ng ca nhiều lĩnh vực: Binh pháp,
thut, th thao, âm nhc…, các biện pháp tu t so sánh, nhân hoá cùng vi nhp
điệu câu văn hài hoà sinh động. Ông đã khắc ho thành công hình nh ngưi lái
đò sông Đà trí tuệ, tài hoa bn lĩnh, qua đó ca ngợi con người lao động Tây
Bc mang v đẹp và nhng phm cht cao quý.
Đoạn trích người lái đò Sông Đà của Nguyên Tuân mt bài tu t giá tr
cùng to ln, tác gi đã thành công trong nghệ thut xây dng hình tượng,
khẳng định và ngi ca v đẹp ca thiên nhiên cùng với con người min Tây bc
xa xôi. Đồng thi th hin tình cm u mến, trân trng, s gn tha thiết,
sâu nng ca Nguyn Tuân đối vi quê hương, đt nước, con người Vit Nam.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mu 2
Tây Bc mt mảnh đất nhiu duyên n vi nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi
nhà văn, nhà thơ lại tái hin khc ha hình nh Tây Bc những góc độ
khác nhau. Trong đó, Nguyễn Tuân đã khám phá đưc v đẹp thiên nhiên i
đây, nhận thấy được “chất vàng 10” trong tâm hồn con người nơi đây. Tùy bút
“Người lái đò sông Đàchính món quà đầy ý nghĩa ông dành cho mảnh
đất Tây Bc.
Qua tài năng của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên không còn là mt con
sông tri giác na tr thành mt sinh th hn, mt nhân vt tính
cách, tâm trng và là tuyt mĩ ca to hóa.
Trưc hết, con sông Đà hin lên là mt con sông hung bạo đáng sợ. Đá bờ sông
“dựng vách thành”, “có ch vách đá chẹt lòng sông Đà như mt cái yết hầu”,
“ngồi trong khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Bờ sông Đà
thật hùng vĩ, hiểm tr, lòng sông hp kéo theo dòng nước chy xiết. Nhng
ghnh sóng hin lên vi s d dội, hung hãn “nước đá, đá sóng, sóng
gió”. Tác giả s dụng câu văn sự trùng điệp nhịp văn ngắn để din t s
hung d ca ghnh sông. Nó giống như một m phù thủy quái ác “gùn ghè sut
năm như lúc nào cũng đòi n xuýt bt c người lái đò nào qua quãng ấy”. Đáng
s n những cái hút nước của sông Đà. Những hút nước này độ xoáy rt
sâu lớn như cái giếng tông th xuống sông để làm móng cầu “xoáy tít
đáy”. Nơi đây tim n s nguy hiểm nơi trú ngụ ca t thn. nhng
chiếc thuyn b lôi xuống, ”thuyền đi ngâm dưới lòng sông đến mươi phút sau
mi thy tan xác khuỷu sông dưới”. Tác giả đã sử dng nhng tri thức điện
ảnh để đem đến cho người đc s hình dung rõ hơn về những cái hút nước.
S hung bo của sông Đà còn được th hin thác nước trận địa danh ca
Đà giang. Thác nước đây thật khng khiếp “nó rống lên như tiếng mt
ngàn con trâu mộng đang lng ln gia rng vu, rng tre na n la…. da
cháy bùng bùng”. Câu của Nguyễn Tuân đã tác động mnh m vào th giác
thính giác của người đọc, lt t s gin d, ghê gm ca nhng con thác
sông Đà. Tác giả tiếp tc chi tiết ca nhng trận địa con sông Đà. Đặc bit
cuc chiến với ông lái đò. Đà giang hin lên không khác mt con thy quái
d tợn khát máu. đưa ra mọi th đoạn s dng mi chiêu thc s dng
mọi đòn đánh để h gục ông lái đò. Thông qua s khc ha ca Nguyn Tuân,
người đọc dp chng kiến đưc s hung bo, ngh nghch bt tr ca m
thiên nhiên.
Trái vi v hung bo d tợn thì cũng lúc con sông sông Đà hin lên tht
tr tình. Con thy quái ấy đã mình vt b s gm ghiếc để tr thành mt
thiếu n kiu dim. Nét tr tình của con sông Đà được th hin hình dáng
con sông. Dòng sông Đà mềm mại “từng t trải ra trên đại dương đá lờ đờ
bóng y”. Dòng sông Đà được Nguyn Tuân với mái tóc thướt tha ca
người con gái đang đ thanh xuân. “Con sông Đa tuôn dài, tuôn dài…đt
nương xuân”. Đó mt v đẹp đầy sc sống mang nét nên thơ, mờ o gi
mây tri khói núi. Màu sắc sông Đà thay đi theo mùa mi mùa mang mt
v đẹp riêng.
V đẹp con sông Đà còn được điểm bi cnh ven sông và cnh trên ng.
Khung cảnh thiên nhiên ven sông Đà thật giàu chất thơ. “Cảnh ven sông đây
lng tờ”, “một lương ngô…”, Thật mt bc tranh dt dào ngun nha sng,
lam đắm hồn người.” Bờ ng hoang dại…cỏ tích tuổi xưa”. Vi hình nh
so sánh tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc tr v thu bình
yên của sông Đà từ ngàn năm trước.
Nói tóm li, Nguyễn Tuân đã khc ha rất thành công hình tượng con sông Đà
vi hai tính cách: hung bạo đến đáng s tr tình đến tuyệt mĩ. Nhà văn đã
cho chúng ta thấy được s tài hoa trong trí tưởng tượng phong phú, trong
những liên tưởng táo bo, bt ng, nhng so sánh mang du n cá nhân ca
Nguyn Tuân trên những trang văn.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mu 3
Đến vi tác phm ca Nguyn Tuân mỗi người s tìm cho bn thân mình
nhng xúc cm riêng, là s ngưỡng m, khám phá ch mong. Dường như dưới
đôi bàn tay tài hoa ngh sĩ, ông đã khiến người đọc như chìm đắm, như được
sng nhng phút giây thc s vi thiên nhiên khung cảnh nơi đó. Đây chính
cái tài s dng ngôn ng của ông. Đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đò sông
Đà” tài năng đó càng đưc bc l rõ nét hơn.
C cuộc đời ca Nguyn Tuân chăng được gói gn trong ch “độc đáo”.
Bản thân là người độc đáo, khác thường nên đối tượng ngh thut ca ông cũng
phi một không hai. i bút lc di dào ca mình Nguyễn Tuân đã phô
din cho bạn đọc thy hình nh ca một dòng sông Đà vừa hung bạo, nhưng
cũng rất đỗi tr tình. Bên cạnh đó vẻ đẹp ni bt của người lao đng, chinh
phc và làm ch thiên nhiên.
Trưc hết cái độc đáo của sông Đà được Nguyn Tuân khai thác trên hai
phương diện: hung bo tr tình. Cht hung bạo chính điểm ni bật đầu
tiên ca Nguyễn Tuân đề cập đến. V đẹp hung d, bo tàn ca con sông
những đon thác dốc như một sc mạnh hình thu hút ông. Đây cũng lãnh
địa tạo cho ông hội tha sức tung hoành tởng tượng ca bn thân. Ông
cc phn khích khi chun b đến thác cui, khi chun b được tn mt chng
kiến s hung bo của sông Đà: “… Còn xa lắm mới đến cái thác ới. Nhưng
đã thấy tiếng c réo gn mãi li to mãi lên. Tiếng ớc thác nghe như
oán trách gì, ri lại như là van xin, rồi lại nhưkhiêu khích, ging gn mà chế
nho. Th ri giống lên như tiếng mt ngàn con trâu mộng đang lồng ln
gia rng vu, rng tre na n la, đáng phá tuông rừng ma, rng la cùng
gm thét với đàn trâu da đen cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi”. thể thy
trong đoạn văn giọng điệu hào hng, h hởi cũng như giác quan cùng thính
nhy ca Nguyn Tuân. Ông nm bt tng chuyển động của thiên nhiên để
th cm nhận được v đẹp hung bo ca t phía xa. Đặc bit nh nh so
sánh thác nước như nhng con trâu lng ln, rống lên cũng cực kì đc sc, din
t tiếng thác nước m ào chy, va hứng thú, kích thích nhưng cũng đy lo lng,
s hãi.
đến đoạn thác nước, bút lc ca ông mi thc s được phát l hết. Bao
nhiêu hào hng ông dn c vào đoạn văn miêu tả s hung bo của sông Đà.
Nhng thch trn liên tiếp được bày ra, d con thuyền đến đ nut gn vào
lòng: “Thạch trn dàn bày va xong thì cái thuyn vt ti. Phi hp với đá,
nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ v, oai phong lm lit.
Mi hòn ấy trông nghiêng thì y như đang hất hàm hi cái thuyn phải xưng
tên tuổi trước khi giao chiến. Mt hòn khác lùi li mt chút thách thc cái
thuyn gii thì tiến gán vào”. Với th pháp nhân hóa, cùng trí ởng tượng
phong phú Nguyễn Tuân đã khiến cho những hòn đá tri gương mt, tâm
trng thân phận riêng. Nhưng tựu chung li th thy chúng s ngông
ngo, t ph, thế chèn ép người khác, đặc bit là vào thế him ca thng
đá tướng.
Nhưng sự t ph ca chúng chẳng đưc bao lâu, bới dưới s uy dũng, kinh
nghim của người lái đò ông đã nhanh chóng ợt qua chúng. Đoạn này ngòi
bút lãng mn của ông càng được phát huy cao độ hơn nữa. Con sông ương
bướng, bày ra thch trn ba vòng, vi nhng lắt léo khác nhau cũng không th
cản ớc ông lão đò. Ông i lên tng con sóng, tng đọt nước vượt qua:
“Dòng thác hùm beo đang hng hc tế mạnh trên sông đá. Nắm cht lấy được
cái ờm song đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, m chc ly luồng nước
đúng phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo v phía cửa đá
y. Bốn năm bọn thy quân ca ải nước bên b trái liền ra định níu thuyn
lôi vào tập đoàn cửa t. Ông đò vẫn nh mt bọn này, đứa thì ông tránh mà ro
bởi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mở đưng tiến. Nhng lung
t đã b hết li sâu thuyền”. Những câu văn kia miêu tả ông lái đò mới sng
khoái sung sướng biết bao khi con người đã vươn lên m chủ thiên nhiên.
Đồng thi nhng li miêu t chân thực, sinh động đó cũng cho thy tài ngh lái
thuyn tài ba, s dày dn kinh nghiệm, dũng cảm nhng yếu t giúp ông
lái đò ca th vượt qua mi ca t để đi đến được mt ca sinh duy nht.
Không ch nim say mê, hng thú đặc bit vi những nơi đầy nguy him
đôi mắt tinh tế ca Nguyn Tuần còn đầy tình t, phát hin v đẹp mộng,
tr tình của con sông Đà. Vẻ đẹp tr tình ca sông Đà quả như đi cc vi
s hung bo ca chúng. Nếu như bên trên con sông Đà bo lit, hung hãn bao
nhiêu, thì đến đây lại mộng, hin hòa by nhiều. Đoạn văn thấm đẫm màu
sc văn chương và hi ha.
i ngòi bút ca Nguyn Tuân hay qua thc cnh sắc sông Đà, chẳng ai
th biết được, nhưng nó toát lên vẻ đẹp ca s tr tình, mơ mộng quá đi. Sông
Đà giờ đây không còn hoang dại, ta như một gái sơn cước min Tây
Bc vô cùng yểu điệu, thc n, lại đôi nét m màng: “Con sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc tr tình, đầu tóc chân tóc n hin trong mây tri
Tây Bc bung n hoa ban hoa go tháng hai cun cuộn khói mèo đất
nương xuân”. Đọc câu văn ng như ta đang đọc một câu thơ ca Nguyn
Tuân vy. Cht tr tình thm trong cnh vt, ngập đầy trong tng u ch. Ch
trong một đoạn văn không quá dài, nhưng trưc v đẹp tr tình ca con sông
Nguyễn Tuân đã hai lần phi thốt lên “chao ôi”. được chiêm ngưng
cảnh đẹp, được gp lại người bn nhân bao ngày xa ch. Đó s vui
mng, cung quýt thp thỏm, đầy hạnh phúc. Sông Đà chính c nhân ca
Nguyn Tun. Chính tâm trạng vui sướng đó đã khiến công một đoạn văn
đầy xúc cm: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chun chuồn bươm bướm trên sng
Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thy nắng giòn tan sau a dm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày ri li bắt ra sông Đà, đúng
thế, đằm đằm m ấm như gặp li c nhân”. Không ch cm nhận sông Đà
người bạn, người c nhn gp li sau nhiu ngày xa cách mà ông còn cm nhn
được cái không khí c xưa, như bờ tin s hoang di sông Đà. Qu thc,
l ch Nguyn Tuân vi nhng xúc cm tinh tế ca mình mi th cm
nhn trn vẹn được v đẹp của sông Đà mi chiu kích không gian thi
gian như vậy.
Với bài bút Sông Đà nói chung Người lái đò sông Đà nói riêng ta không
ch thấy được v đẹp ca một người ngh sĩ tài năng, vi bút lc di dào.
bên cạnh đó còn thấy được tm long ca một con người yêu nước, dành trn
cuộc đời mình khám phá, tôn vinh v đẹp thiên nhiên, v đẹp của con người lao
động trong cuc sng mi.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mu 4
Người lái đò sông Đà ca Nguyễn Tuân bút đặc sc, kết qu ca
chuyến thâm nhp thc tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập
bút Sông Đà. Cảm hng gn vi mảnh đất con người Tây Bắc đã in
đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ con sông Đà vừa hùng vừa nên
thơ.
Khi lòng ta đã hóa nhng con tàu
Khi T quc bn b lên tiếng hát
Tâm hn ta là Tây Bc ch còn đâu.”
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
Trong nhng ngày tháng c nước rộn rang lên đưng theo tiếng gi của “tâm
hn Tây Bắc” để xây dng li mt min quê ca T quc, biết bao nhà văn,
nhà thơ đã thực hin quá trình lột xác để đến vi cách mng. Mt trong nhng
nhà ngh yêu nưc y Nguyn Tuân - cây độc huyn cm ca nền văn học
Việt Nam, người đã mang li nhng t hoa thơm thảo cho đời. Nguyn Tuân
đến vi Tây Bc qua tùy bút Người lái đò ng Đà - mt tác phm th hin
nét và sâu sc phong cách ngh thut độc đáo ca ông.
Đến vi ngh thut, đối vi Nguyn Tuân đến vi s tìm tòi ng to, bi
“nhà văn người sáng to li thế giới”. Nguyễn Tuân s mình ca ngày
hôm nay ging vi mình ca ngày hôm qua, s s trùng lp tầm thưng. Chính
thế, ông đã lấy “chủ nghĩa” dịch “làm đ tài cho tác phm, làm mục đích
cho cuc đi mình. Sng là để đi, để tìm hiu những điều mi l.
Trưc cách mng, mt mình vi chiếc vali, Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều
miền quê đất ớc nhưng với tâm trng ca k “thiếu quê ơng”, bt mãn vi
cuộc đời. Đó cũng tâm trng chung ca thời đại. Sau cách mng, ông cũng
xuôi ngược nhiều nơi nhưng vi tinh thn của người yêu quê hương x s,
mun góp phn vào công cuc xây dng T quốc. Chính nhà văn đã từng nói
đến Tây Bắc để “đi tìm cái thứ vàng mười ca màu sc sông núi Tây Bc,
nht cái th vàng i mang sn trong tâm trí tt c những con người ngày
nay đang nhiệt tình gnvi công cuc xây dng cho Tây Bc thêm sáng sa
tươi vui bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nng bu nhit huyết sôi
ni y, Nguyễn Tuân đã s dng uyn chuyn, tinh vi vn ngôn ng phong p
của mình để viết nên nhng t hoa thơm thảo v con ngưi thiên nhiên ca
miền sông núi này…
Tác gi hay đi tìm cm giác mnh cho các giác quan. vy, nhng trang văn
của ông thường mang theo âm điệu ca nhng trn cung phong, bão t.
Nhưng không thế chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút
Nguyễn Tuân, sông Đà hin lên va hung bạo nhưng cũng vừa tr tình.
mang tâm địa xo quyt ca th k thù s mt, th ớp đi mạng sng ca
bt c k nào l sa chân vào “thạch trận”…”Nước sông Đà reo như đun sôi lên
một trăm độ…đá đây từ ngàn m vẫn mai phc hết trong lòng sông” khi
thy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhm c dy đ v lấy”… Nhưng cái
hung hãn d tn y vn không làm mất đi đưc nét tr tình sông Đà. Miêu tả
con sông những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyn Tuân bng tr nên mm
mi, uyn chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như mt áng tóc
tr tình, đầu tóc, chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban, hoa
go tháng hai và cun cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hin, d dội và phi thường. Trong cuc chiến
đấu “một mt, một cònvới thác c, tác gi cho ta thấy đưc cái tài hoa, trí
dũng tuyệt vi của ông lái. Người lái đò sông Đà hiện thân ca tác gi, ch
thích lao vào nhng cuc chiến đấu nguy him với thác nước d di không
ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…
Giọng văn Nguyễn Tuân tht t nhiên phóng túng khi miêu t hai trng thái
đối lp ca cùng mt s vật. Sông Đà vừa tr tình va hung bo, vừa là “kẻ thù,
vừa “cố nhân”. i ngòi bút tác gi, con sông không chết cng vn
động mt cách mnh m, sôi ni bng nhng t ng gi hình ảnh, tác động
mạnh vào giác quan người đọc. Ông lái đò cũng thế cũng xut hin mt cách
sinh động, nét sc sảo… Đối vi Nguyễn Tuân, “đã văn thì trưc hết
phải văn”. Văn phải đẹp, phi trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn
ca tác gi trên toàn b tác phẩm. Con người s vt, qua ngòi bút Nguyn
Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa ngh .
Nét đẹp sông Đà là một công trình dày công sáng to ca to hóa. va hùng
vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp t dáng dấp đến màu sc. Cái áng tóc tr tình của ngưi
thiếu n y ngun cm hng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. c sông Đà
cũng thế. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà l l chín
đỏ như da mặt người bầm đi rượi ba”. Con sông ấy đối vi tác gi không
ch đơn thuần mt cảnh đẹp thiên nhiên tht gi cm. gây nên ni
nh da diết cho những ai đã từng mt ln gp g ri lại đi xa. Gặp lại sông Đà,
tác gi cm thy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gp li c nhân. “Chao ôi,
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau a dầm, vui như nối li
chiêm bao đứt quãng”.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mu 5
Nguyn Tuân - người được mệnh danh “Người đi tìm cái đẹp, cái tht trong
đời” không chỉ mt trí thức yêu c ông còn một nhà văn tài hoa,
uyên bác. Ông đã để li nhiu tác phm ln, ni bật hơn cả tùy bút Ngưi
lái đò sông Đà” (1960). Tác phẩm thành qu của nhà văn trong chuyến ông
đi tới Tây Bc tìm kiếm cht ng th la ca thiên nhiên y Bc. Tác phm
tiêu biu cho phong cách ngh thut của nhà văn sau cách mạng tháng 8.
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” lấy ông lái đò làm nhân vật trung tâm nhưng
thc chất mượn hình ảnh ông lái đò để miêu t v đẹp hùng vĩ, tráng lệ, d
dội thơ mng của con sông Đà. Tất c hiện lên dưới ngòi bút ca Nguyn
Tuân va chân thc, va sống động.
Trưc hết, Nguyn Tuân khc ha v đẹp của con sông Đà được nhân hóa như
con ngưi, nó mang linh hồn độc đáo vừa có ngun gc, lai lch rõ ràng, li va
mang tính cách hung bo, tr tình. Con sông được gii thiu:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang đc Bắc lưu”
Ý nói mọi con sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ sông Đà chảy theo
hướng Bắc. Đây mt cách gii thiu ấn ợng, đập thng vào nhãn quan
người đọc sông Đà hiện lên như một th rt hồn. Sông Đà khai sinh
huyn Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam. Nó mang hai tính cách. Đu tiên là tính cách
hung bo tr tình, đưc th hin khía cnh: Nguyn Tuân miêu t cảnh đá
b sông “đá dựng vách thành ng sông hẹp, quãng con hươu con nai còn
nhy vt t b bên này sang b bên kia, nhìn t dưới lên như nhìn lên cái tòa
nhà cao va tt phụt đèn điện”. Đặc bit đọan mt ghnh dài hàng ngàn cây
s thì “nước đá, đá sóng, sóng gió cun cun lung gió gùn ghè sut
năm như đòi nợ suýt bt c ai đi qua quãng ấy”. Thật nguy him, rung rợn. Đâu
ch vậy, Cái hút nước giống như cái giếng tông, nước th kêu như cái
cng cái b sặc, ởng ng mt anh quay phim táo bo ngi thuyn thúng
cm máy quay cùng chìm xung cái xoáy ấy”. Hay đến thác nước vi nhng
âm thanh d dội như càng xóay vào lòng ngưi nhiu hiểm ngay đang rình rp
ch ch chc sn con mồi “tiếng nước réo”, “tiếng nước thác nghe như oán
trách… van xin khiêu khích, ging gn chế nhạo… rống lên như
tiếng mt ngàn con trâu mộng…”. Nước như một đội quân hùng mnh, d tn.
Đáng sợ hơn tất c hình ảnh đá lòng như nđang bày binh bố trận địa thác
đá với 3 trùng vi. Trùng vi thch trn th 1: “mở ra năm cửa trn, có bn ca t
mt ca sinh, ca sinh nm lp l phía t ngạn”. Sang đến trùng vi thách trân
th 2 đã tăng thêm nhiu ca t để đánh la con thuyn vào, ca sinh li b
trí qua phía b hu ngn. trùng vi trch trn th 3 c bên trái ln bên phi
đều lung chết c. Cái lung sng chng ba này li ngay gia bọn đá hậu
v.. Vic bày binh b trn va theo mt quy lut trt t nhất định để ngăn cản
nhng ng viên rn chc chèo chng v phía đích. Họ như những cu th
chuyên nghip trên sân c đang lao mình ra để bo v cu môn, không cho
quân địch hay k ngoài này le lói gn khung thành. Bng li viết tài hoa, mt
kiến thc sâu rng uyên bác, Nguyễn Tuân đã viết nên những câu văn theo kiu
móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, s dng xen k biện pháp t nhân hóa, so
sánh rệt để làm ni bt hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, như muốn mình
vua ca c thế gii. Con sông y hung bo, him tr, k thù s 1 ca con
người.
Trái vi v ngoài d tn ấy, sông Đà còn hin lên mt v tr tình đm thm
dưới ngòi bút bc thy lão luyn ca Nguyễn Tuân. Đi từ thưng nguồn đến h
nguồn, ta đều bt gp hình dáng con sông rất thơ mộng như một cô thiếu n đôi
mươi kiều dim, tr trung, duyên dáng: “tuôn dài tuôn dài như mt áng tóc tr
tình”, “Sông Đà như một áng tóc mun, dài ngàn ngàn vn vn sải”. Màu nước
sông Đà cũng thay đổi theo mùa rất đẹp quyến rũ, mùa xuân, dòng xanh
ngọc bích, mùa thu ớc sông Đà lừ l chín đỏ như da mt người bầm đi vì
u ba. S thay đổi sc màu tạo cho sông Đà mang một v đẹp huyn bí, quý
phái. Nhà văn còn miêu tả hai bên b sông Đà cũng tươi mới không kém. “Bờ
sông hoang dại như mt b tin s”. ng Đà, con sông chng kiến biết bao
nhiêu thăng trầm ca lch s, chng nhân lch s đại cũng một con
sông đẹp kiu diễm mà nên thơ. Con sông y gợi trong lòng nhà văn nhiều cm
xúc, như một “cố nhân”.
Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đưa người đọc khám phá mt con sông
Đà mang nhiều trng thái cung bc, khi thì d di, khi lại nên thơ trữ tình. Con
sông ấy dưới ngòi bút điêu luyện của ông được coi như mt khám phá ln,
mt công trình ngh thut vĩ đi mà to hóa ban tng cho Tây Bc.
Song song với hình ợng con sông Đà nh ảnh người lái đò ng Đà - mt
tay lái ra hoa với trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân đã miêu t ngoi hình ca
ông rất độc đáo: “tay lêu nghêu như cái sào, chân khùynh khùynh”. Ông quê
ngã sông, người tng tri, ông làm ngh lái đò đã được mười năm liền.
Ông với con sông Đà gắn mt thiết với nhau, như người bn tri k ca mình.
Vi kinh nghim chinh chiến trên con sông ấy đã nhiều năm, ông nm chc
tng luông lch, tng ngọn thác đặc bit, ông nm rt vng quy lut ca
“thn sông thần đá” trên con sông Đà. Vì ông am hiu con sông y mt cách
ng tn, thấu đáo nên ông rất thích vượt thác, đối mt vi con sông y. Ch
vi vài nét khc họa đơn gin, Nguyn Tuân đã phác họa được một người lái
đò yêu nghề, yêu thiên nhiên, thích hòa mình rưt đui cùng thiên nhiên.
V đẹp của ông lái đò được nhà văn miêu tả rt chi tiết qua nhng ln ông vượt
thác. Tay lái ra hoa y càng khiến người đọc thêm khâm phc phn nào v tài
năng, bản lĩnh dám đương đu vi th thách. Trên con sông hùng nguy hiểm
ấy, ông lái đò hiện lên với thế hiên ngang ca một dũng tướng ch huy chiến
trn. Ông ch huy con thuyn mình lun lách tới đích vượt qua các chưng ngi
vt vi phong thái ca mt ngh tài hoa. vòng vây th nht, ông hai tay
gi mái chèo khi b ht lên khi sóng trận đa phóng thng vào mình. Hai
chân ông vn kp cht ly cuống lái. Đến ng vây th hai, không mt phút
ngh tay ngh mt, phi phá luôn vòng vây th hai đổi luôn chiến thut. Ông
ỡi lên thác ng Đà, nắm bờm sóng, ghì cương lái, bám lấy lung nước đúng
phòng nhanh vào ca sinh. vòng cui, ông phóng thng thuyn, chc
thng ca gia. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, va
xuyên va t động lái được lượn được. Cuộc vượt thác thành công. Mc
lúc ông gặp khó khăn bị thương nhưng ông vẫn bình tình, dũng cảm đối mt
sau cùng nếm v ngt thành quả: “đốt lửa trong hang đá, bàn tán về cá anh vũ”.
Cuc chiến khc lit kết thúc thng li v vang.
Qua đây, ta mới thấy được ông lái đò người rt am hiu binh pháp ca thn
sông, thần đá, một hình tượng nhân vt mi Nguyễn Tuân đang hướng
ti - mt bức chân dung người lao đng va hiên ngang, khí phách, ngang tàng
li rt gin d.
Tóm lại, “Người lái đò sông Đà” một tác phm tiêu biu cho phong cách
ngh thut ca Nguyn Tuân. Bằng tài năng, ngòi bút uyên thâm cùng kiến
thc tng hợp phong phú, ông đã rt thành công khi xây dựng đưc nhân vt
người lái đò hùng dũng, hiên ngang hình ảnh con sông Đà với hai tính cách
trái ngược nhưng rt đi đẹp đẽ. Tùy bút” Người lái đò sông Đà” luôn sng mãi
trong lòng ngưi đọc và trưng tn theo thi gian.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mu 6
Nguyễn Tuân ngưi ngh suốt một đời đi tìm cái đẹp trăn tr v cái đẹp.
Nếu như trước cách mng ông thoát li thc tại, tìm cái đẹp thi còn vang
bóng, thì sau cách mng ct cách y vẫn duy trì nhưng ông tìm thấy cái đẹp
trong cuc sng này, những con người lao động hết sc bình dị. Người lái đò
sông Đà được trích t tập bút Sông Đà những nét v chân thc v v đẹp
hùng của thiên nhiên Tây Bc, v đẹp hào hùng của con ngưi trong lao
động.
Tập tùy bút Sông Đà nói chung kết qu chuyến đi thực tế ca nhà văn
Nguyn Tuân lên mảnh đất Tây Bc vào những năm 1958-1960. Đây là thi k
min Bc sau ngày giải phóng đang tiến lên ch nghĩa hội. Theo tiếng gi
của Đảng min Bắc đang đy lên phong trào tình nguyện đến nhng vùng xa
xôi ca T quc đ khôi phc kinh tế và hàn gn vết thương chiến tranh.
Như chúng ta biết rng, mi lời đề t xut hiện, thường s tập trung ng
ca tác phm, chìa khóa m cánh ca vào tác phm, l tưởng, ch đề,
cm hng ch đạo. Người lái đò sông Đà sử dng hai lời đề t: Lời đề t th
nhất: “Đẹp vy thay, tiếng hát trên dòng sông”, đây là câu thơ nổi tiếng ca nhà
thơ cách mạng Ba Lan mang cu trúc cảm thán. Câu thơ thể câu hát ca
những người chèo đò, kéo thuyền t thác vi tâm hn lc quan, yêu thiên
nhiên, yêu lao động, cũng thể s ngơi ca của chính nhà văn trước thế
làm ch thiên nhiên của con ngưi trong cuc sng mới. u thơ thứ hai,
Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông
tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã m cho người đọc thy, mi dòng
sông đều chy v hướng đông, duy sông Đà chảy theo hướng Bắc. Câu thơ
đã khẳng định s độc đáo của Đà giang đồng thi l tính ngh thut ca
Nguyn Tuân - nhà văn của nhng phong cnh tuyt mĩ, cm giác mãnh lit.
Trưc hết v hình tượng con sông Đà đưc Nguyn Tuân miêu t trên nhiu
phương din, va mang v đẹp hung bạo nhưng đng thời cũng hết sức nên thơ,
tr tình. V đẹp hung bo của dòng sông được Nguyn Tuân th hin cảnh đá
b sông dng vách thành. Lúc ấy “mặt sông ch y ch lúc đúng ngọ mi
mt trời” đã gợi ra được độ cao din t đưc cái lnh lo, âm u ca khúc
sông. Không ch vậy “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như mt cái yết hu”
đã diễn t s nh hp ca dòng chy gợi ra lưu tốc rt ln nhất là vào mùa nưc
với bao nhiêu nguy him rình rp. Với trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn
Tuân tiếp tc khc họa đậm nét hơn nữa v những vách đá lnh lẽo, tăm tối,
khúc sông nh hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa
cũng thấy lnh, cm thấy mình như đứng mt cái ngõ ngóng vng lên
mt khung ca s nào trên cái tng nhà th my nào va tt phụt đèn điện”.
Không ch vy s hung bo n th hin quãng mt ghềnh Hát Loóng”,
đoạn này, Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông như một sinh th người, đó
k đi đòi nợ thuê, với gương mặt d dn, tàn bạo. Câu văn vi nhp điệu dn
dập, điệp từ, điệp cấu trúc được vn dng liên tiếp (nước đá, đá sóng,
sóng gió) kết hp vi các thanh trc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng d di,
nhịp điệu khẩn trương, dồn dp như vừa đy, va hp sc ca sóng, gió
đá khiến cho c ghềnh sông như sôi lên, cun chy d dn, to nên mt mối đe
da thc s đối vi bấtngười lái đò nào “quãng nàykhinh sut tay lái thì
cũng d lt nga bng thuyền ra”.
S hung bạo còn đưc th hin những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc
trên khắp khúc sông, như trc ly mng của con người bt c lúc nào. Để i
hin s khng khiếp ca nhng cái t nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay
nhiu chiều kích khác nhau, cho người đọc mt cái nhìn toàn diện, đầy đủ nht.
Khi nhìn t trên xung mặt ớc sông “giống như cái giếng tông th xung
sông để chun b làm móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành
giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve mt áng thy tinh khối đúc dày, khối
pha lê xanh như sắp v tan ụp vào…”.để giúp người đc cm nhận được rõ
hơn, tác giả còn đưa ra những v thế cm nhn khác nhau, với người quay phim
thì như “ngồi vào mt cái thuyn thúng tròn vành ri cho c thuyn c mình c
máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với người xem phim li thấy “thấy
mình đang lấy gân ngi gi cht ghế như ghì lấy mép mt chiếc rng b vt
vào mt cái cốc pha c khng l va rút lên cái gậy đánh phèn…”. Vi
nhng tri nghim góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho người đọc cm
nhận đầy đủ mức độ nguy him tt ng của dòng sông Đà đây những
cái hút nưc.
Cui cùng s hung bo của sông Đà đưc khc ha các trùng vi thch trn
khác nhau. Vi trùng vi thách trn th nhật “cả mt chân trời đá”, “mt hòn
đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn c cái mt
nước ch này”. Đá còn bày binh b trn, như cố tình nhn chìm con thuyn.
Trùng vi thch trn th hai tiếp tục tăng thêm th thách, ca t nhiều hơn để
đánh lừa con thuyn ch duy nht mt ca sinh. Ca sinh y li không
kém phn nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến cửa vào”, phối hp vi
đá là ng thác như hùm beo như chc v nhn mình con thuyn xuống đáy
song. trùng vi thch trn cui cùng ít ca ra vào, “bên phải bên trái đều
lung chết cả”, chỉ mt lung sng lại “ở ngay gia bọn đá hậu v ca con
thác”. Tất c các trùng vi, thch trận đều cùng him ác, vi mc đích duy
nht là làm cho con thuyn mt sc, b mng.
Bên cnh v đẹp hung bạo, sông Đà lại hin lên mt v đẹp rt khác, hoàn toàn
đối lập, đó chính v đẹp tr tình. T trên cao nhìn xung, dòng chy un
n ca con sông giống như “cái dây thng ngoằn ngoèo dưới chân mình”,
đặc bit giống nmái tóc của người thiếu n “con sông Đà tuôn dài tuôn
dài như một áng tóc tr tình, đầu tóc chân c n hin trong mây tri Tây Bc
bung n hoa ban hoa go tháng hai cun cuộn khói núi Mèo đốt nương
xuân”. Dòng sông nmột người thiếu n, vi mái tóc tuôn dài, tuôn dài, tha
thưt, uyn chuyn không ng. V đẹp ca dòng sông hài hòa vi núi rng Tây
Bắc, được núi rừng điểm thêm cho nhan sắc miu. Không ch vy
nhng thời điểm khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng: Mùa xuân, c
Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lp lánh; Mùa thu,
nước Sông Đà lại “lừ l chín đỏ như da mặt một người bầm đi u ba, l
l cái màu đỏ gin d một người bt mãn bc bi mỗi đ thu về”. Không
ch vy, v đẹp sông Đà con như được bước ra t min c tích xa xôi, vi
nhng bãi b hoang dại như thời tin s: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn
chuồn ơm bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cm nhận được cái chất “đằm
đằm m ấm” thân thuộc khi gp li sau mt thời gian “ở rng đi núi đã hơi
lâu”.
Người lái đò sông Đà không ch ni bt hình tượng con sông Đà, để điểm
tô, hoàn thin v đẹp sông Đà cần có s xut hin của con ngưi, và tht đẹp đẽ,
chân dung người lái đò đã đưc Nguyn Tuân th hiện tài nh, nét. Người
lái đò không mt tên gi c th, ch được gọi tên người lái đò Lai
Châu. Để làm bt v đẹp người lái đò, chân dung ông luôn được tái hiện tương
quan với dòng sông Đà. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bt mt cuc chiến
không cân sc: mt n là thiên nhiên bo lit, hung tàn, sc mnh song vi
sóng c, vi thch tinh nham him, một bên con ngưi nh trên chiếc
thuyền con én đơn độc khí trong tay ch nhng chiếc cán chèo. Nhưng
sông Đà gian ngoan, xo quyệt bao nhiêu thì người lái đò lại kiên cường
bám tr bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khi b ht lên khi sóng trận địa
phóng thẳng vào mình”. Đc bit trong lần vượt trùng vi thch trn th ba, ông
lái đò đã thể hin tài ngh ca mình. Ông c “phóng thẳng thuyn, chc
thng ca giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, ca trong, li ca
trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, va xuyên
va t động lái được lượn được”… để ri chiến thắng vinh quang. Câu văn
“thế hết thác” như một tiếng th phào nh nhõm khi ông lái đã bỏ li hết
nhng thác ghnh phía sau ng. Chiến thng của ông trước hết xut phát t
s ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm t qua nhng th thách
khc lit ca cuc sống. Đây đông thời cũng chiến thng ca tài trí con
người, ca s am hiểu đến tường tn tính nết ca sông Đà.
Đặc biệt, cũng như những nhân vt khác của mình, người lái đò còn được
Nguyn Tuân khc ha v đẹp tài hoa, ngh sĩ. Tài hoa khi con người đạt
tới trình độ điêu luyện, thun thc trong công vic của nh, đến độ th
sáng tạo đưc, th vươn ti t do. Chính vy, Nguyễn Tuân đã tập trung
bút lc ca ngi hình nh ông lái băng băng trên dòng thác sông Đà một cách
ung dung, bình tĩnh, t ti trong cuc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào
hùng. phong thái ngh của ông lái đò th hin trong cách ông nhìn nhn
v công vic ca mình, bình thản đến độ l lùng. Khi dòng sông vn mình hết
thác cũng khonh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò
dừng chèo, đt lửa ng ống cơm lam, bàn v anh vũ, dầm xanh, “về
nhng cái hm hang mùa khô n nhng tiếng to như mìn bc phá ri
túa ra tràn đy ruộng”.
Bng ngòi bút cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên nhng trang
văn đẹp c v hình thức tưởng. Tác phẩm được to nên t tình yêu quê
hương đất nước sâu nng, tha thiết. Không ch ngi ca v đẹp hùng của quê
hương đất nước mà còn khẳng định s ln lao, sc mạnh phi thưng ca nhng
con người bình thường trong hành trình chinh phc thiên nhiên.
Bài văn mu 7
Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987một nhà ngh lớn ca dân tc
Vit Nam. Vn một người tri thức giàu lòng yêu nước li am hiu sâu rng
nền văn hoá dân tc, ông viết nên nhng tác phm rt mc uyên bác và giàu giá
tr. Nếu như trưc cách mạng, văn hc ca Nguyn Tuân chạm đến lòng ngưi
bi v đẹp tài hoa ca những con ngưi "mt thời vang bóng" như Hun Cao
thì sau cách mng, Nguyn Tuân khiến người đọc rung cm bi s tinh tế và tài
năng trong việc v nên những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị vi
thiên nhiên đời sống con người. Tu bút "Người lái đò sông Đà" một
thành công tiêu biu cho phong cách văn học y.
Trong tu t, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, d di li vừa xinh đẹp,
dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông trên nhiều góc độ,
nhiều phương diện nhìn trên phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thy yêu.
Không tĩnh lặng soi bóng hàng tre mỗi trưa hè, cũng không mang nét lự
trong từng hơi th khi màn đêm buông xuống sông Đà hiện n cùng
sống động, d di mãnh liệt. như được xem "k thù s mt ca con
người".
Nhng con thác ln d di, nhng gạn nước t Vn Yên v xuôi tht mênh
mang. Hai b sông dng đá thành những ch him tr khôn cùng. Nước
sóng chồng lên nhau như đang thi nhau pbày tt c v d tn, oai hùng
của mình: "Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên
này b nh tay ném hòn đá qua bên kia vách. quãng con nai con h đã
ln vt t b này sang b kia”.
Mt sông khi nhìn t trên cao xung vàn những hút nước như những tr
tông. Dòng nước kêu lên thành nhng tiếng ghê rợn, khi thì kêu lên như
nhng cái giếng đang bị sặc c, khi li ng ặc như tiếng dầu sôi”. Tất c
dựng lên trước mt ta thế him tr đầy ry nhng thách thc, nguy him
ai đi qua cũng phải đi mt. Sông với thế hùng dũng phần bạo ngược
ca mình sn sàng nhn chìm bt k ai không vững vàng tay lái trưc tng con
con sông, không làm ch trên chiến trn chinh phc dòng sông.
Bi vy khiến bao con thuyền đi qua phải chng, hong s, c tránh
nhng cm bẫy sông Đà bố trí sẵn: “Không thuyn o m men gn
những cái hút nước y, thuyền nào cũng chèo nhanh để ớt quãng sông”, biết
bao nhiêu g đã phi chu trận trước nhng hút sâu khng l, biết bao nhiêu
con thuyn nghênh ngác phi tan xác dưi lòng sông.
Vn am hiu sâu sc cùng s tri nghim ca mình Nguyn Tuân dùng nhng
ngôn t mi lạ, lĩnh hoạt, độc đáo để miêu t một dòng sông Đà. Sông Đà cũng
mang dáng dấp đẹp đẽ, dịu dàng thơ mộng, uyn chuyển như v đẹp ca
người thiếu n chn núi rng Tây Bc vậy. Sông Đà lúc này thật thơ
mộng, tình yêu như đang tràn với bao cm c nng nàn khó tả: “Con sông Đà
tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc tr tình...cun cuộn khói i Mèo đt
nương xuân".
V đẹp ca dòng ng thật n bình, khơi gi s yêu thương, đưa lòng ngưi
đến vi nhng rung cm trong tâm hn mình, mt sc hp dn tuyt vi quá
đỗi. Đôi lúc, sông Đà cũng những cảm xúc, cũng nhớ, cũng thương như bao
người vy. V đẹp tr tình của dòng sông còn được th hin gia thiên nhiên,
mây tri to nên nét riêng bit không trn ln, bi vy bt c lúc nào
cũng khiến người thưng thc b thu hút: "Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu nhìn xung
dòng nước sông Đà”.
Không ch vậy, sông Đà còn khiến người ta thích thú bi sắc nước đổi thay
theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, ch nước Sông Đà không xanh
màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thuớc Sông Đà lừ l chín
đỏ như da mặt một người bầm đi u ba, l l cái màu đỏ gin d mt
người bt mãn bc bi gì mi đ thu v".
B sông Đà cũng thật đẹp, tht ngt ngào bởi hương vị ca hoa, của bướm, ca
chun chun, ca nhng bãi ngô non đầu mùa hay nhng giành vàng nõn
búp. Đó đây những đàn hươu đang thong thả gm nhng bãi c non ướt đẫm
sương đêm, mọi vật như đang hoà mình trong nét tuyt diu ca dòng sông,
điểm nên mt v đẹp gi mi khiến lòng ngưi thn thc: "Con hươu thơ ngộ
ngẩng đầu nhung khi áng c sương, chăm chăm nhìn tôi lừ l trôi trên mt
mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chp mắt như hỏi tôi bng cái nói
riêng ca con vật nh: “Hỡi ông khách Sông Đà, phải ông cũng vừa nghe
thy mt tiếng còi sương?”.
Sông Đà như một " ngưi c nhân" lại như một" người ngh sĩ tài hoa". Qua
cách miêu t thật độc đáo với nhng cm xúc chân thành, s trân trng, nâng
niu t nhng điều bình d, nh nht, Nguyễn Tuân như khc ho n mt bc
tranh thy mc của sông Đà say đắm lòng ngưi vi v tuyt vời, thân thương.
Cùng với hình tượng sông Đà tính, đến vi tác phm ta còn cm nhận được
hình ảnh người i đò tài hoa, nghệ sĩ, điêu luyện trên dòng sông. Người lái đò
y không phi mt chàng thanh niên trai tráng vi thân hình vm v
một ông già đã gần bảy mươi tuổi: “Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngưc
hơn một trăm lần ri, chính tay gi lái độ sáu chc ln". Phải chăng những kinh
nghim qua bao cuc hành trình suốt ời năm làm việc đã giúp ông trở nên
thun thc, bản nh kiên trường đến như vậy: "Ông nh t m như đóng
đanh vào lòng đất tt c nhng luồng nước ca tt c nhng con thác him tr".
Người lái đò như một th "vàng mười" đã qua th lửa: Cái đầu bc quắc thước
ấy đặt trên mt thân nh cao to gọn quánh như chất sng, cht mùn", con
người ông con ngưi ca chốn sông ớc hùng vĩ, trên ngực ông nhng
"c khoai nâu" in du nhng trn chiến vt vã với con sông Đà dữ di, vi tác
gi dường như đó nhng tấm huy chương cao quý mình chng cho sc lao
động của con người trong công vic ca mình.
Đứng trưc những đợt sóng kinh hoàng, nhng thch trn him nguy, ông
không h s st mà trái li càng bản lĩnh thích thú hơn: "Ngoặt khúc sông lưn,
thy sóng bọt đã trắng xoá c mt chân trời đá...Và một mình mt thuyn ông
đã giao chiến nmột v dũng đy tài ba. Tri qua ba thch trn bằng dũng
cảm, mưu trí cả mình, người lái đò đã chiến thng , tr v vi cảnh lao động
cuc sng bình yên: "Thế hết thác...Sông c lại thành bình. Đêm y nhà
đò đốt lửa trong hàng đá, nướng ống cơm lam..." .
Nguyễn Tuân đã mang đến cho nền văn học c nhà mt kiệt tác cùng độc
đáo, một phong cách ngh thut riêng bit, uyên bác, tài hoa. Khép li nhng
trang n của tùy bút “Người lái đò sông Đà”, em vn không nguôi cm xúc
lâng lâng trong tâm hồn mình, chăng, đó những điều đẹp đẽ nhất văn
học đã mang lại, khơi gi trong lòng mình nhng cm xúc thm m cùng
ln. Tht cảm ơn Nguyn Tuân, một người ngh suốt đời đi tìm cái đẹp để
nâng niu nhng giá tr vng bn ca đi sống lao động và ca dân tc.
Bài văn mu 8
Nói đến Nguyễn Tuân người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm
cái đẹp. Cái đẹp trong các tác phm ca ông phải cái đẹp đạt đến độ hoàn
thin, hoàn m. S nghip cm bút ca Nguyễn Tuân đạt được rt nhiu thành
tu k c trưc sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ tp tu bút
“Sông Đà” là một trong nhng sáng c tiêu biu ca Nguyn Tuân sau cách
mng tháng Tám.
Tác phm kết qu ca chuyến đi Tây Bc ca Nguyễn Tuân đ kiếm tìm
“cht vàng th la ca thiên nhiên Tây Bắc” “chất vàng mười đã qua thử
la” ca con người nơi đây.
Ngay nhng câu văn đu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hin rt s hung bo
của sông Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng
b sông “dựng vách thành”, cao t, dựng đứng. Quãng sông thì hẹp đến
nỗi “con nai, con h có ln vt t b sông này sang b kia”. “Mặt sông ch y
ch đúng ngọ mi mt trời”, “đang a đi đò qua quãng y cũng cm
thy lạnh”, cái lnh ca tng lp da tht, ca s s hãi trước thiên nhiên nơi đây.
Khi đi qua quãng này, ngưi ta cảm tưởng như mình “đang đứng mt cái ngõ
nào ngóng vng lên cái ca s trên cái tng nhà th my nào va tt pht
đèn điện”. Bằng mt lot hình nh miêu t, Nguyễn Tuân đã đẩy người đọc t
ph đô thị v khung cảnh hoang đến đáng s của thiên nhiên sông nước.
Ngưi ta thy hiện ra trước mt một khúc sông Đà vừa sâu, va hp, va ti,
va lạnh đủ để bt k ai đến đây cũng phải rùng mình s hãi.
Đi qua bảy mươi ba cái ghnh, có th k tên đến năm mươi cái ghềnh nhưng s
hãi nht ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá sóng, sóng xô
gió, cun cun lung gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng đip, nhịp n
nhanh mnh khiến người đọc không khỏi hãi hùng trước nhng âm thanh ca
sóng, gió, nước, đá. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hi âm thanh ghê
rn va gi nhng hình nh khng khiếp của nơi đây. Sông Đà được miêu t
như nhng k sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những người trên sông. th gây ra
rt nhiu nguy him mà con người không th nào lường trước đưc.
Nhiêu đó vẫn chưa kể hết nhng s đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã s
dng mt lot th pháp ngh thut khác nhau để lt t hết cái v hung bo ca
hút nước sông Đà. Nhìn từ xa nhng cái xoáy nước trên sông giống như cái
lúm đồng tiền trên gái nhưng li không h duyên ng, d thương,
thay vào đó thể lôi tut mt i thuyn xuống đáy sông đánh cho tan
xác. Không ch vy, Nguyn Tuân còn so sánh những cái hút c vi nhng
cái giếng tông th xuống sông để chun b làm móng cu. Hình nh so sánh
này va gợi độ sâu hun hút ca những cái xoáy nước va khiến người đọc
khiếp s khi hình dung ra nó. Càng s hãi hơn khi đọc những câu văn miêu tả
âm thanh ca những cái hút nước. “Nưc đây thở kêu như ca cng cái b
sặc”. Nưc không ch dn v nhiu nhanh còn c ặc lên như mi rót du
sôi vào. T láy “ặc ặcgợi cảm giác sông Đà giống như một loài thu quái b
bóp cht yết hầu đang quằn qui giãy gia. S hung bo này khiến nhà văn liên
ởng đến hình nh mt anh quay phim táo tợn nào đó mang y quay ngi
trên thuyn thúng xung tận i hút sông Đà ri t đó lia ngược ng kính để
ghi li cảnh ng ghê s: mt cái giếng như xanh toàn bng thu tinh như sắp
v tan đổ p xung c ngưi, c máy quay phim. Con thuyn xoáy tít, nhng
thước phim màu cũng quay tít. Ngòi bút sắc so ca Nguyn Tuân khiến người
đọc cm giác như đang được xem mt b phim hành động hp dn nhưng cũng
vô cùng đáng sợ.
S hung bo của sông Đà còn đưc miêu t qua những cái thác ớc. Nhà văn
hướng người đọc chú ý vào âm thanh ca chúng miêu t lần lượt theo trình
t t xa đến gần. “Còn xa lm mới đến cái thác” nhưng tâm đa din mo
th “k thù s mt của con người” đã dần hin ra. Chúng vng ti bng âm
thanh “réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Tiếng thác nghe như “oán trách”,
nghe n “van xin”, “khiêu khích”, ging gằn “chế nhạo”. ch kết hp
khéo léo giữa so sánh nhân hoá này đã khiến sông Đà hiện lên vi mt tâm
địa phc tạp. “Thế ri rống lên”, âm thanh được phóng to hết c giống như
đang đỉnh điểm ca một cơn phấn khích man di. Nguyn Tuân còn so sánh
tiếng thác sông Đà giống như tiếng ca mt ngàn con trâu mộng đang lồng ln
để phá tuông s ba vây ca rng la.
để tăng thêm sự hung d của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút
ca mình vào miêu t đá sông. Hình nh n d “c mt chân trời đá” gợi cm
giác đá sông Đà nhiều k. Nhng tảng Đá sông Đà đã đưc Nguyn Tuân
thi hồn vào đó với tng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn
nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng còn vây thành mt thch trn giống như mt trn
đồ bát quái trên sông Đà.
Qua ngòi bút ca Nguyn Tuân, con ng hung bo y chng khác k thù
s mt của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi s hung bo trôi qua, li
hin lên vi c v tr nh, thơ mộng đến khó tin.
T trên máy bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
tr tình, đu tóc, chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa
go tháng hai cun cuộn khói núi mèo đốt nương xuân”. Vi vic so
sánh sông Đà như một áng tóc tr tình”, nhà văn đã khiến dòng sông hin lên
vi cái v kiu dim ca một người ph n. Thông thường người ta s thy ch
“áng” hay được dùng đ ch nhng tác phm ngh thut, vy đây Nguyễn
Tuân đã dùng để ch sông Đà. thể thấy trong suy nghĩ ca tác gi, sông Đà
giống như một tác phm ngh thut mà to hoá đã tạo ra.
Sông Đà không ch đẹp ng hình còn đẹp màu nước. Tác gi đã quan
sát dòng sông nhng không gian thi gian khác nhau. Mùa xuân dòng
xanh ngc bích, va trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sông chín đ như
da mặt ngưi bầm đi rượu ba. Bng vic miêu t chi tiết, c th cùng nhng
so sánh độc đáo sông Đà hiện lên va đp, va đa dạng và qua đây ta cũng thy
được s hiu biết sâu rộng cũng như kh năng quan sát tinh tế của nhà văn.
B bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “b sông Đà, bãi sông Đà, chuồn
chuồn bươm bướm sông Đà”. Câu văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo nên nhp
văn hối h, mau l. Ri khi nhìn t trên thuyn xuống, sông Đà mang dáng vẻ
“lng tờ”, tĩnh lặng tuyệt đối. S tĩnh lặng ca dòng sông n chứa trong đó
mt sc sng dạt dào. Nhà văn còn dùng những so sánh cùng gi cm khi
miêu t dòng sông “b sông hoang dại như một b tin s”, “bờ sông hn
nhiên như mt ni nim c tích tuổi xưa”. Nhà văn đã s dng nhng khái
nim trừu tượng để miêu t v đẹp c th của sông Đà khiến sông Đà hin ra
không ch dòng không ca không gian còn dòng sông ca thi gian.
Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gi ra cái v tĩnh lặng ca sông Đà
s thanh thn trong tâm hồn con người. Gia cái khung cảnh thơ mộng y
nhà văn nghe thấy mt tiếng còi sương - tiếng còi xúp ca mt chuyến tàu
đường st Phú Th - Yên Bái - Lai Châu, đó âm thanh ca mt cuc sng
hiện đại, đ đầy.
th thy nhng câu văn miêu t v tr tình, thơ mộng của sông Đà đã to
nên một đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm
hồn con người.
Bng vn hiu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sc so ca nh, Nguyn
Tuân đã đưa người đọc đi hết t s hãi này đến bt ng khác khi miêu t hai v
đẹp hung bo và tr tình của sông Đà.
Đọc “Người lái đò sông Đà” ngưi ta càng hiểu hơn do sao cái đẹp trong
văn của Nguyễn Tuân được gọi cái đẹp đạt đến độ hoàn thin, hoàn m. Tác
phm mt ln na khng định tài năng bc thy ca Nguyn Tuân trong vic s
dng ngôn t vừa giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước
ông gi gm trong các tác phm ca mình.
Bài văn mu 9
“Người lái đò sông Đà” thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của
Nguyễn Tuân. Đây thành quả ngh thuật đẹp đẽ Nguyễn Tuân đã thu
hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi
này, tác gi đã hội sng vi nhng khonh khc thân thuc nht, hào
hng nht của người ngh s trong ông. Ông cm nhn được “thứ vàng mười
đã qua thử la” của nhng người lao động nh d trên miền sông ớc hùng vĩ
thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút bài ca v v đẹp ca
người lao động trong công cuc xây dng ch nghĩa hội”, điển hình,
dưới ngòi bút tài hoa ca Nguyễn Tuân, hình tượng người lái đó vừa
người anh hùng, va là người ngh s tài ba trong ngh ca mình.
Trong các tác phm ca mình viết trưc hay sau cách mng tháng Tám
thì các nhân vật chính luôn đưc ông xây dng thành những con người đặc bit,
tài hoa ngh s. Hình ảnh ông lái đò cũng không phi mt ngoi lệ. Khi đọc
tác phm, ta s n tượng ngay đầu tiên vi ngoi hình của ông: “Tay ông lêu
nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khunh khunh lại như kp ly mt
cái cuống lái ởng ng. Giọng ông ào ào như tiếng ớc trước mt ghnh
sông, nhn gii ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó
trong sương mù…”. Sc vóc ông khe mnh chng khác thanh niên trai
tráng mười tám đôi ơi: “Gn bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt
trên mt thân hình cao to gọn quánh như chất sng, chất mun… ông giơ tay
lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá bịt cái đu bc hói đi. Không ai không lầm tưng
mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính b sông”
Những dòng này được nhà văn viết ra không ch để gii thiu ngoi hình ca
một con người còn để ca ngi s gn bó, yêu quý ngh chính con người
đó. Chỉ yêu quý ngh, gắn sâu đậm vi ngh, nhiều năm mt nng hai
sương dong duổi ch khách trên con sông Đà hùng thì ngoại hình mi mang
đậm du n ngh nghiệp như vậy. Đây chính phong cách viết độc đáo của
Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu văn ca mình nhiều điều mun nói, “Hàm
ợng thông tin” đó không bao giờ ch mt tng hin ngôn, ch khi chuyên
chú đọc ta mới khám phá ra được nhiu tng n ngôn m cha trong tng câu
văn của tác gi.
Nhưng chỉ nhng nét miêu t ngoại hình thôi thì chưa đ. Trong ông lái
đò còn n cha rt nhiều điều tuyt vời đặc bit ca một người tng tri tho
ngh. Ông mt linh hn muôn thu của sông ớc này. “Trên sông Đà, ông
xuôi, ông ngược hơn một trăm lần ri, chính tay gi lái đò sáu mươi lần cho
nhng chuyến thuyền then đuôi én sau chèo”. Sự tng tri ấy còn được th hin
qua trí nh siêu phàm ca ông. Trí nh ấy đưc rèn luyện cao độ bng cách ly
mt nh t m 73 con thác, như đóng đanh vào lòng tt c nhng lung
nước ca con thác him trở. Hơn thế nữa, ng Đà đối với ông lái đò như một
bản trưng thiên anh hùng ca ông thuộc lòng đến c nhng cái du chm
than chm câu c những đoạn xuống dòng. Khi đưc tác gi hi chuyn,
người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm ngh đó dọc mười năm liền đã ngh m
ngh đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như không h
suy chuyn. Ông vn rt t tin rằng: “Tôi bỏ ngh đã lâu rồi nhưng nay cho
lên thác xung ghềnh tôi dám thi đua vi bạn đò khp mấy châu đa gii
loang ra b sông Đà, cũng còn cái linh lợi đ tr mng một phái đoàn trung
ương vừa lên va xung thăm khảo sát toàn b sông Đà cho đến biên gii
Trung Quc”.
Nhưng trên hết tt cả, hình tượng ông lão lái đò được khc ha nét nht
qua trn thy chiến vi sông Đà. V đẹp sc mnh của ông lái đò được khc
họa trong tương quan vi v đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ tng
trải thôi thì chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ng được đòi hỏi phi
lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhn c s quyết đoán nữa. Nguyn
Tuân đã đưa nhân vt ca mình vào ngay hoàn cnh khc lit đó, tất c
nhng phm cht y được bc l, nếu không phi tr giá bng chính mng sng
của mình. Đây chính là dng ý ca tác gi khi viết v hình tượng ông lái đò,
phm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường ch đưc bc l nht khi nhn vt
đối mt với khó khăn, nguy hiểm. Gi s đặt ông lái đò trong khung cnh thi v,
tr tình của sông Đà thì hình ng li phát trin theo một hướng khác, tr
thành mt ngh s đa tình lẫn vào thế gii nhân vt ca Nguyễn Tuân trước
Cách mng. Còn đây, ông lái đò trở thành người anh hùng ngh s trong
thiên s thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy him
chết người, din ra nhiu hi, nhiều đợt như một trận đánh đối phương đã
hin ra ngay din mạo tâm địa độc ác ca k thù s mt, lực lượng đá hậu,
đá tương, đá tiền v vi nhiu th đon nham him to thành mt lực lượng
hùng hậu, đông đảo, d dn và nham him.
Sông Đà đã giao vic cho mỗi hòn chúng giăng sn trận đồt quái vi ba
trùng vi. Trùng vi mt 4 ca t 1 ca sinh. Sóng trận địa phóng thng,
mặt nước la vang dy vào b gãy cán chèo khí của ông lái đò nhưng
ông vn hai tay gi chc mái chèo khi b ht lên. thế sóng c li càng
da dm, sn s, hiếu chiến như thể quân liu mạng. Nưc bám ly thuyền như
đồ vt túm ly thắt lưng ông lái đò lt nga mình gia trận nước. Khi sông Đà
tung ra miếng đòn hiểm độc nht nốc ao đối phương, ông lái đò cũng chẳng run
tay, c nén vết thương, hai chân vẫn kp cht ly cung lái, mt móc bch. Ông
ch huy hết sc ngn gn tỉnh táo, đầy u trí như một v ch huy, lái con
thuyền vượt qua trùng vi mt him tr. Phá xong trùng vi thch trn th nht
ông lái đò phá luôn vòng vây th hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều ca t để
đánh lừa con thuyn vào, ca sinh lại được b trí lch qua b hu ngn tht
nham him và xo quyt, thiên nhiên hùng mnh như thú dữ.
Bốn, năm bọn thy quân ca ải nước bên b trái liền ra định nh
thuyn vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp ca
thn sông, thần đá, không một chút ngh tay ngh mắt, ông lái đò nm cht ly
cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc ly luồng nước đúng
phóng nhanh vào ca sinh lái miết một đường chéo v phía ca đá. Thật điêu
luyện. Đến vòng th ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều lung chết c,
lung sông nm ngay gia bọn đá hậu v. Một ông lái đò sáu tay trèo,
ng chừng như con ngưi hết sc nh bé, ít i, cn kit sc lc gia mt
thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một v ng lão luyn dày dn kinh
nghim, trn mc, ông lão phóng thng thuyn trc thng ca gia. Thuyn vt
qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, ca ngoài, ca trong li ca trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi c, va xuyên,
va t động lái được. Thế là kết thúc.
Tác gi đã rất y công khi miêu t trn thy chiến với con sông Đà của
ông lão lái đò. Một loi những hành động nhanh mnh: Phóng nhanh, phóng
thng, lái miết một đưng, chc thủng, xuyên nhanh,… Kết hp vi nhịp văn
gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dp gi nên mt cuc giao tranh giáp
mt sng, mt chết. Hơn nữa thư pháp nghệ thut tương phản được s
dng triệt để rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lp:
mt bên thiên nhiên hung tàn, bo lit vi một bên là con ngưi nh
nhưng đầy bản lĩnh, sự qu cm kh năng chinh phc thiên nhiên k diu.
Ông lái đò trong tay ch một mái chèo “Như cái que giữa bt ngàn sóng
thác” như mt v ng bách chiến bách thắng, phá thành vượt i.
Vi ngòi bút tài hoa s uyên bác, am hiu v mọi lĩnh vực như thể
thao, thut, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyn bình
thưng thành bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành mt
anh hùng, mt ngh s lái đò trong nghệ thut leo ghềnh vượt thác. Ông va
dũng sĩ, vừa ngh s tay lái ra hoa, ông tiêu biu cho hình ảnh con người
lao động trong công cuc xây dng hôi ch nghĩa. Không chỉ Đào
trong truyn ngắn “Mùa lạc” của Nguyn Khi, tình nguyện lên Điện Biên xây
dng nông thôn mi, không ch tng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi
hướng đời đã thấy/ xa xôi biết mấy cũng lên đường”, cùng với h, ông
lái đò sông Đà đã góp phn làm ni bt, tôn lên v đẹp, phm cht của người
lao động trong giai đon xây dng ch nghĩa xã hi những năm 55 – 60.
Qu tht, v đẹp "chất vàng mười đã qua thử la" trong tâm hn ca con
người Tây Bắc đã được Nguyễn Tuân dày công khám phá trên dòng Đà giang
khut no. Nếu như thiên sông Đà trong tác phm ca Nguyễn Tuân “Kẻ thù
s mt của con người”, thì cũng chính thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn
nơi đã tôn vinh gtr con người lao động. Qu tht sâu sắc khi nói “Thiên tùy
bút bài ca v v đẹp của con người lao đng trong công cuc xây dng ch
nghĩa xã hội”. Tác phm s mãi là bản trường ca hào hùng đi cùng năm tháng.
Bài văn mu 10
Nguyn Tuân bc thy v ngôn ng trong nền văn học hiện đại Vit
Nam. Nhng tác phm ca ông viết bằng cái “ngông” và bng tình yêu tha thiết.
“Người lái đò sông Đà” bài tùy bút ly cm hng t chuyến đi thực tế. Hình
ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính m hn ngh với nhiu v đẹp
khác nhau mang li ấn tượng độc đáo đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất
thành công khi xây dựng hình tượng sông Đà bằng cht liu ngôn ng tình
cm phong phú.
Qua cái nhìn ca Nguyễn Tuân, sông Đà “lắm bnh lm chng, chc du
dàng đấy, ri chc li bn tính gt gỏng thác ngay đấy”. Có th nói phi
tht tinh tế và khéo léo mi có th nhn ra s chuyển đổi của sông đà như vậy.
Sông đà hiện lên dòng sông hung bo, lm thác ghnh, ng ngưc,
không chy theo khuôn kh. V đẹp him tr, nguy him của sông đà đưc tác
gi viết “đá bờ sông, dng vách thành, mt sông ch y ch lúc đúng giờ ng
mi có mt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đng
bên này b nh tay ném hòn đá qua bên kia vách. quãng con nai con h đã
ln vt t b này sang b kia”. Ch vi vài chi tiết phác họa con sông đà
hin lên vi nhiu phc tạp, khó khăn, nguy hiểm khôn lường. Tác gi đã diễn
t cảm xúc khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang
mùa cũng thấy lnh, cm thấy mình như đng mt cái ngõ
ngóng vng lên mt khung ca s nào trên cái tng nth mt va vt tt
điện”. Một lối so sánh độc đáo, đầy táo bạo cũng không kém phn tinh tế.
Sông Đà đẹp, nhưng đẹp v đẹp hùng vĩ, hoang di và nguy him.
Chưa dừng li đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc bt ng n nữa
khi miêu t s hùng , hung dữ đó “quãng mặt ghnh hát loong, dài hàng cây
s ớc xô đá, đá xô sóng, sóng gió, cun cun lung gió gùn ghè suốt m
như lúc nào cũng đòi n xuýt bt c người lái đò nào tóm đưc qua quãng ấy”.
Sông Đà hiện lên như mt k bt chp hết, có th lấy đi tính mạng ca nhng ai
vô tình đi qua đây. Tht táo bo, mãnh lit và mnh m.
Khi Nguyn Tuân miêu t tiếng thác réo, người đọc cảm ởng như
đang đứng trước sông đà hùng chiêm ngưỡng v đẹp khó cưỡng đó “Như
oán trách gì, ri lại như là van xin, rồi lại nhưkhiêu khích, ging gn mà chế
nho. tiếng thác rống như tiếng mt ngàn con trâu mộng đang lng ln gia
rng vu rng tre na n lửa, đang phá tuông rừng la, rng la cùng gm thét
với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Những câu văn với giọng điệu dn dp, gay
cấn, đầy cm xúc. Mt cảnh tượng hùng vĩ, nguy him vô cùng. Mt cách so
sánh, tuyt vi, hiếm thấy trong văn học. Nguyn Tuân thc s bc thy ca
ngôn ng, ông thi hn vào nhng con ch, khiến con ch như biết nói, biết
rung đng.
Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành ba trn chiến, người lái đò mun
vượt qua dòng chy y thì phải vượt qua ba trn chiến him tr, o bo này.
Vi ging văn dồn dp, tác gi kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái
đò. Trận th nhất “mặt nước la vang dy quanh mình, ùa vào b gãy cán
chèo. Sóng nước như th quân liu mạng vào sát nách…” Sang đến trn th hai
“tăng thêm nhiu ca t để đánh lừa con thuyn vào, và ca sinh li b trí lch
qua bên phía b hu ngạn”. Sang đến trn th ba ờng như ít cửa hơn nhưng
li quyết lit mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên không khác nào mt con thy
quái đang đòi nuốt chửng người lái đò chiếc thuyn bt c lúc nào th.
Con sống chính “kẻ thù s một” của người lái đò, với tt c đặc tính nham
hiểm, thâm độc nht.
Tuy nhiên bên cnh v đẹp hùng vĩ, hiểm tr, nguy him, sông Đà còn
hin lên thật nên thơ trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế ca
Nguyễn Tuân “sông đà tuôn dài như mt áng tóc tr tình, đầu tóc chân tóc n
hin trong mây tri tây bc bung n hoa ban hoa go tháng hai cun cun
mù khói mèo đốt nương xuân”. Thật tài hoa tht tr tĩnh, một hình nh tuyt
đẹp hin lên gia rng núi him tr Tây bắc. Đặc bit khi tác gi miêu t nước
ca dòng sông mi tht tuyt vi thi v biết bao “Mùa xuân dòng xanh ngc
bích, ch ớc sông đà không xanh màu canh hến ca ng Gâm sông lô. a
thu nước sông đà l l chín đỏ như da mặt một người bầm đi u, l l i
màu đỏ gin gi một người bt mãn bc bi gì mỗi độ thu về”. Những t ng
ợt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm ca một dòng sông tưởng chng
ch có gin di và hung d.
Sông Đà những lúc buồn mênh mang hoang đến l k “B sông
hoang dại như một b tin s. B sông hồn như như mt ni nim c tích xưa”.
Tht là mt v đẹp nh nhàng, chân chất và tươi mới biết bao nhiêu.
Bài văn mu 11
Người lái đò Sông Đà kết qu ca nhiu dịp đến vi Tây Bc ca nhà
văn, đặc bit chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là mt trong s 15 bài tùy bút
ca Nguyn Tuân in trong tập Sông Đà xuất bản năm 1960. Lần xut bản đầu
tiên, bài này tên là Sông Đà, m 1982 khi cho in li trong tp 2 b Tuyn
tp Nguyn Tuân, tác gi có sa đổi tên bài thành Người lái đò Sông Đà.
Viết v ng Đà, Nguyn Tuân nhiu phát hin. Hai nét tiêu biu nht
của sông Đà hung bo tr tình. Để làm ni bt tính cht hung bo tr
tình ca con sông, tác gi đã vận dng kết hp nhiu th pháp ngh thut.
Trưc hết phi k đến bin pháp ngh thuật nhân hóa. Đá trên thác sông
Đà mai phục, hung d bày thch trận đ tiêu dit bt c con thuyn nào dám
vượt thác. Nước cũng vy, chúng th, kêu rng lên. Nước cũng vào hùa với đá
để đánh những miếng đòn “hiểm độc nhất”. Nguyễn Tuân n s dng th
pháp so sánh, tưởng tượng, huy động vn hiu biết phong phú v lch sử, địa lí,
quân sự, điện ảnh,… đ miêu t sông Đà.
Hình tượng người lái đò sông Đà một người lao động, nhưng ngh
trong lao động, hơn na một dũng tướng trong cuc thy chiến thưng
xuyên với thác nước sông Đà. Đó một con người bình thường, hin lành vi
nhng nét phác họa: “cái đầu bạc… cái đầu quắc thưc ấy đặt trên mt thân
hình cao to gọn quánh như chất sng chất mun”, “tay ông lêu nghêu n
một cái o, chân ông lúc nào cũng khunh khunh lại…”. Đó mt con
người dũng cảm, say sông nước, say nhng cm giác mnh. Ông luôn
bình tĩnh, ung dung đối đầu vi nhng khó khăn nguy hiểm. Ông khôn ngoan
vượt qua mi cm by ca thác ghềnh đưa con thuyn v đích an toàn. Khi
ch đò, ông nghệ sĩ, dũng ng tài ba. Kết thúc công vic, ông li mt
người bình thưng, làm công việc bình thường là ch đò trên sông.
Đặc điểm ni bt ca tùy bút Nguyễn Tuân uyên bác tài hoa. Đ nói
v con sông Đà, Nguyễn Tuân dẫn thơ cổ, dẫn thơ Bạch, thơ B--ni-ép-xki
(Ba Lan). Ông vn dng kiến thc lch sử, đa lý, hi họa, điện nh, quân s,
th thao để viết v con sông hung d thơ mộng. Ông luôn cm hứng đặc
biệt trưc nhng hiện tượng phi thường, gây cm giác mnh. Bao gi ông cũng
say khám phá thưng thức cái đẹp. V đẹp hung d thơ mng ca
sông Đà, vẻ đẹp của ông lái đò bình dị nhưng khi vượt thác thì như mt viên
ớng tài ba, điêu luyện đã đem cảm hng ng to cho Nguyn Tuân. Đúng
nhà văn nhìn cảnh vật và con người thiên v phương diện mĩ thuật và tài hoa.
Bài văn mu 12
Nguyn Tuân một nvăn lớn, mt cây bút vai trò to ln trong nn
văn học Vit Nam hiện đại, mt ngh khái niệm thm m khác bit
suốt đời đi tìm cái đp. Mt trong nhng c phm tùy bút xut sc ca ông
chính Người lái đò sông Đà được in trong tập Sông Đà (1960) trong chuyến
đi thực tế ti min Tây Bc rng ln ca T quc. Tác phm cho ta thy mt
Nguyn Tuân vi din mo mi m, khát khao hòa nhập vào đt tri thiên
nhiên, th hiện tình u đất nước cuộc đời. Nguyn Tuân mun qua hình
ảnh con sông Đà dữ dn, hung bo tr tình, thơ mộng, người lái đò bình dị,
giản đơn trí dũng i hoa đ ca ngi v đẹp của thiên và con người Tây Bc
ca T quc. Bài thơ cũng chất cha trn vẹn phong cách thơ tài hoa, uyên bác
rt đc đáo ca Nguyn Tuân.
Hai hình tượng chính đi xuyên suốt tác phm hình tượng sông Đà
hình ợng người lái đò. Một thiên nhiên một con người tưởng chng
như chẳng hp y vy to nên v đẹp đến bt ngờ. Trưc nht hình
ợng sông Đà, không phải vt tri giác rt hn, rt có tính,
dòng sông này được Nguyn Tuân miêu t nmột nhân vt hai tính cách
trái ngưc va hung bo d dn va tr tình thơ mộng
Mà biểu tượng v sc mnh và v đẹp hùng của thiên nhiên Tây Bc li
cái s hung bo, d dằn kia. Đá cùng hiểm trở, đá dựng vách thành, cht
lòng sông như cái yết hu làm cho mt sông ch y va hp, va ti li va rt
lnh ch đúng ngọ mi mt tri. C mt trời đá, mặt hòn nào trông cũng
ng ngược, nhăn nhúm, méo đá mai phục dưới lòng sông hàng ngàn năm
được nhân hóa, ni hình nổi tướng b v, oai phong lm lit, nhm dy, v ly
thuyền,… khung cảnh choáng ngp, k vĩ, cht hẹp đã làm cho ta cm thy s
hãi, lnh lo và nh bé gia gia thiên nhiên dù là mùa hè oi bc, nóng ny.
Sóng, nước cung n. Quãng mt ghnh t Loóng, nước đá, đá
sóng, sóng gió… kéo dài hàng cây số cun cuộn… như thể đòi nợ xuýt
người lái đò nào đi qua quãng ấy. Điệp cu trúc ni tiếp nhau kết hợp động t
mạnh “xô” được lp li nhiu lần như nhấn mnh sc mnh ca thiên nhiên rt
khng khiếp đầy lnh lo. Những hút nước ghê rn giống như cái giếng
tông th xuống sông đ chun b làm móng cầu… c đây thở kêu như
ca cng cái b sc sn sàng nhấn chìm đập tan chiếc thuyn nào lt vào.
Ngh thut nhân hóa và so sánh khiến hình nh tr nên sinh đng tính hp
dẫn n diễn t nhng chiếc thuyn b hút xung, hút thành trồng ngược cây
chui, b dày hành xác vt biến đi, đến mươi phút sau mới thy cái xác
tan tành khuỷnh sông dưới.
Thác như đang gin d gm rng d tn. Tác gi miêu t con sông vi
t ng tính gi cm, âm thanh tiếng thác t xa nghe như van xin, oán trách,
rồi như khiêu khích, giọng gn chế nho. Âm thanh đến gần được như
nhng con trâu rng lên lng lộn… ghê rợn và khng khiếp. Sông Đà đặc bit
hung bo khi nhng yếu t trên kết hp vi nhau to ra nhng thch trn,
phòng tuyến vi nhiu ca t, nhiu chiến thuật đánh khác nhau, nhiều đón
đánh thâm hiểm, như mt loài thy quái khng l, nham him mang din
mạo và tâm địa như mt th k thù s mt ca con ngưi.
Sông Đà chỉ thc s tr tình thơ mộng khi chy qua ch B để li
những hòn thác xa xôi trên thượng nguồn. Tuôn dài như một áng tócn hin
trong mây tri Tây Bắc…, ng chng dòng chy của sông Đà nmái tóc
của ngưi thiếu n, là thiếu n Tây Bắc dưới bu tri Tây Bắc. Màu nước sông
Đà biến đổi theo mùa, mi mùa li mt v đẹp riêng. Mùa xuân thì c
màu xanh ngc ch, mỗi độ thu v lại chín đỏ như da mặt mt người bm
đi rượu bữa… Sông Đà v đẹp rt gi cm, thân thiết như ngưi tình, khi
gp lại dòng sông như gp li c nhân cm thy mng vui, xa thì li nh
nhung dòng sông gi v đẹp ca một ánh thơ Đưng bi u nng tháng
ba… yên hoa tam quyệt. Cnh vt hai b sông vừa hoang nhuốm màu c
tích trong nhng câu chuyn hoàng t công chúa ca những đứa tr thơ lại va
trù phú, tràn tr nha sng, t do, t ti ca mt chế độ mới. Qua hình ng
sông Đà, Nguyễn Tuân đã th hin tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên đất
nước. Với ông thiên nhiên cũng tác phm ngh thut song ca to hóa.
Cm nhn miêu t sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng t cách nhìn khác bit
ca bn thân: hài hoa, uyên bác lịch lãm. Sông Đà một phông nn ni bt
đầy, đẹp đẽ nhưng không h làm lu m đi còn làm bật lên v đẹp người lao
động trong chế độ mi.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra đoạn văn tràn đầy không khí trn mạc, tưởng
ng ra cuc chiến đấu ác lit của ông lái đò vi by thủy quái sông Đà, để t
đó làm nổi bt hình ảnh người lái đò, một người lao động mi mang v đẹp
khác thường. Ông như một v ng ch huy dày dn kinh nghim, tài trí: biết
bọn đá mai phục bày thch trận… Ông nm chc binh pháp ca thn sông
thần đá, thuộc quy lut phc kích ca chúng nên linh hoạt thay đổi chiến thut
để lần lượt t qua tng phòng tuyến k thù. Người lái đò người tng tri,
giàu kinh nghim hiu biết sâu sc v luồn lách sông Đà cũng ng cảm đối
đầu trong cuc chiến không cân sc với sông Đà. Sông Đà thiên nhiên ln
lao, d di hiểm đc vi sc mạnh đưc nâng lên hàng thn thánh sóng
nước reo quyết vt nga mình thuyền, đá ngàn năm mai phc, bày thch
trn trên sông, thác gm rng, reo hò làm thanh viện cho đó, sóng nước như thể
quân liu mạng đánh những đòn hiểm độc… Ông đò ch một con người
nhỏ, không phép màu, khí chỉ chiếc cán chèo thô trên một cái
thuyền đơn độc hết ch lùi, nhưng vẫn sẵn sàng đối mt vi thác d, chinh
phc mi ca t, cửa sinh, vượt qua trn thy chiến đầy ác lit với đá nổi đá
chìm vi nhng trùng vi thch trn nhng phòng tuyến đầy nguy hiểm để
chiến thắng thiên nhiên. Hình tượng người lái đò lúc này là một người lao động
trí dũng.
Ngưi ngh tài hoa hình tượng của người lái đò đưc hin lên tiếp
theo. Để vượt thác, m tình phi thc s bình tĩnh, chỉ mt chút thiếu chính
hay lơ là thì phi tr giá bng chính tính mng ca mình. y vậy mà, ông lái đò
đã đối đầu vi ghnh thác cung bo bng s t tin, ung dung của người ngh
sĩ; đã bình tĩnh vượt thác mt cách tài tình, khôn ngoan. Với “tay lái hoa” ông
đã điều khin con thuyền vượt qua ba trùng vi thch trận sông Đà. Sông Đà
trùng vi thch trn th nhất năm cửa trn, trong đó tận bn ca t
nhưng chỉ có mt ca sinh nm lp l chng rõ phía t ngn. Bọn đá đứa thì ht
hàm, đứa thì thách thc, khiêu chiến, nước thác reo m thanh viện cho đá,
mặt nước hò la ùa vào b gãy cán chè, sóng nước đá trái, thúc gối vào bng vào
hông thuyền, đánh những đòn hiểm độc vào ông lái đò. Ông lái đò đã bị thương
nhng vn c nén chu nỗi đau thể xác, hai chân vn kp cht cung lái, mt
méo bệch nhưng tiếng ch huy vn ngn gn, tỉnh táo đưa thuyền vưt qua khi
nguy him. trùng vi thch trn th hai, ca t lại tăng thêm nhưng cửa sinh
vn ch mt nm phía hu ngn. Dòng thác thì hng hc tế lên như
hùm beo hòng nut xung con thuyn. Ông lão ch động đổi chiến thut: nm
ly bờm sóng… ỡi lên thác sông Đà như i h. Bọn đá ra, đnh lôi con
thuyn vào tp đoàn cửa tử, nhưng ông nhớ mt bn này, ch thì ông bơi, ch
đè rồi sn ti, ch chặt đôi ra để m đường tiến. Bọn đá chỉ còn biết tht vng,
tiu nghiu cái mặt xanh nhìn ông lão đưa con thuyền lt vào ca sinh an toàn.
trùng vi thch trn th ba, sông Đà bên phải, bên trái đều lung chết,
lung sng duy nht nm gia lòng sông do bọn đá hậu v trn gi. Ông lái
kiên cường không mảy may là, quyết đoán giữ vng tinh thần, như hòa với
con thuyn làm mt, phóng thẳng đến ca sinh an toàn, vượt qua mi vòng vây .
Thếhết. Thánh thn thiên nhiên cuối cùng cũng không ngăn đưc s tiến lên
của con ngưi, s hung bo của dòng sông cũng không ngăn đưc chiếc thuyn
độc mc ông lão. S ngoan cường, s quyết tâm cùng s dũng cảm chính
yếu t quyết định cho s chiến thắng đặc bit kinh nghim vùng sông
nước của ông lái đò.
Sau khi đọ trí, thi tài với con sông, vưt qua ba trùng vi thch trận đầy khó
khăn, nguy hiểm, ông lại ung dung đt lửa trong hang đá, nướng ng cơm lam
say sưa nói v các loài không h bàn thêm mt li nào v chuyn
vượt thác. Dường như chuyện ợt qua thác nước chẳng động li trong ông
mt cái gi s hãi hay lo lng, ng vn c mặc đời k người lc quan,
thư thái thật gin d, lãng mn. Nguyn Tuân tìm thy mt hình nh ca mt
con ngưi mới, con người đáng được ca ngi, trân trng không phi anh
hùng đánh gic trn chmột con người lao động bình thường con người
Tây Bc.
Ch một người lái đò một thác nước, Nguyn Tuân li viết n như
th một thước phim hành động điện nh cn cnh. Hi hp có, kch tính có,
kích thích có, v có, âm thanh đc sắc, hành động đp mt. Đ viết được
như vậy phải trí tưởng tượng tht phong phú, mt cách nhìn khác bit,
cm nhận đa chiều… cũng đủ thy Nguyn Tuân vn tri thc rng ln thế
nào, suy nghĩ độc đáo thế nào mt ngh sĩ tài hoa như thế nào. Qua đây, nhà
văn còn muốn phát biu quan niệm, người anh hùng không ch trong chiến
đấu con trong cuc sống lao động thường ngày, d như người lái đò
kia.
Bài văn mu 13
Nguyn Tuân mt trong những gương mặt tiêu biu ca nền n học
Vit Nam hiện đại. Mi tác phm ca ông mt bài ca v cái đp ca con
người, ca cuc sng với tưởng, tình cm gắn quê hương. Nguyễn Tuân
được người đọc đc bit chú ý v phong cách ngh thut rt riêng rất độc
đáo của ông. "Người lái đò Sông Đà", đó một bài tùy bút, cũng một bài
thơ bằng văn xuôi th hin rõ nht nhng nét tiêu biu v phong cách đó.
"Người lái đò sông Đà" trước hết mt tác phm viết v một con người
con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hng thú tài hoa ca ông thì mi
cnh vật thiên nhiên đu tr thành nhng công trình mĩ thuật, con ngưi đu tr
thành nhng ngh sĩ điêu luyện ca mình.
Bng s quan sát t m kh năng tả cùng vi mt kho ch nghĩa
cùng phong phú chun xác ca Nguyễn Tuân đã dựng lên nhng bc tranh
hết sc sống động, những hình tượng giàu sức hp dn trong thiên tùy bút
rt độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà đưc Nguyễn Tuân nói đến trong tác phm
mt ông già 70 tuổi đã dành một phn lớn đời mình cho ngh lái đò dọc sông
Đà. Đó một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông
ngược hơn một trăm lần ri chnh tay gi lái độ sáu chc lần...” trong thời gian
hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy him và gian kh này.
Đây là một con người tng tri, hiu biết, rt thành tho trong ngh lái đò,
và đã đạt đến trình độ “bng cách ly mt nh t m như đóng đanh vào lòng
đất tt c nhng luồng nước ca tt c nhng con thác him trở”. Nguyn Tuân
tiếp tc bày t s khâm phc của mình đi với con người này: “Sông Đà, vi
ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến c nhng
du chm than, chm câu c những đon xuống dòng”. Tht mt cách so
sánh “rất văn chương” đầy thú v và cũng “rất là Nguyễn Tuân”.
Hình ợng người i đò với “cái đầu bc quc thưc ấy đặt trên mt thân
hình cao to gọn quánh như chất sng, chất n” và nhng cánh tay vn là cánh
tay ca một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một th
“vàng mưi”. Ồng đã đứng trước nhng thách thc của con sông Đà với thế lc
ca nhng bãi đá ghê gm, nhng cm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông n,
thy sóng bọt đã trắng xóa ca mt chân trời đá. Đá đây từ ngàn năm vẫn mai
phc hết trong ng sông, hình như mỗi ln chiếc thuyn nào xut hin
qung m m qunh hiu này, mi ln chiếc nào nh vào đường ngot
sóng là mt s hòn bèn nhm c dy để v ly thuyền”.
Mt mình mt thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: "... hai tay giữ
mái chèo khi b ht lên khi sóng trận địa phóng thng vào mình. Mt nưc hò
la vang dy quanh nh, ùa vào b gãy cán chèo, khí trên cánh tay
mình”, sóng ớc “thúc vào gối bng hông thuyền. lúc chúng đội c
thuyền lên. Nước bám ly thuyền như đô vt túm thắt ng ông đò đòi lật nga
mình ra gia trận nưc vang tri thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò
b nhấn chìm dưới dòng sông... Các miêu t chân thc táo bo này cho thy
sc mnh ghê gm ca dòng thác hung d đối với con người, ch cn lóa mt,
l tay mt chút là phi tr giá bng sinh mng ca mình.
Nhưng chỉ dũng cm và gan d chưa đ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ
của người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện ngh thut. Tác gi đã
so sánh người lái đò sông Đà với ngưi lái xe lao xung dốc đèo tuy rất nguy
hiểm nhưng ngưi lái xe còn phanh chân, phanh tay, tiến lên, lùi lại “còn
như cái thuyền mà lao xung thác thì ch có cái phanh nào c, ch lao đi chứ
không lùi li, không lao trúng tim luồng nước thì thuyn quay ngang p,
ch không lùi cả...” vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với nhng
hình nh rt táo bo, tác gi đã tả sông Đà thiên biến vn hóa, mi ch như
mt cái by nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải mt ch ng phó
riêng. Có ch thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ mun ht tung c
mt cái thuyền đang phải đóng vào một cái np ấm nước đang sôi khng lồ”.
“Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại những “hút nước" xoáy sâu
như lòng giếng “cái hút lút xung, thuyn trng ngay cây chuối ngưc ri
vt biến đi”...
Tht một dòng ng Đà đy him trở, đầy gian nan cho con ngưi. Thế
nhưng, “ông lái đò c nén vết thương, hai chân vẫn kp cht ly cái cung
lái.. ”. Mặc mặt “méo bệch đi” những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyn
sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng ch huy ngn gn tnh táo ca ngưi cm lái”.
ràng qua cách miêu t đến tt cùng s d di ca con sông, Nguyn
Tuân nhắm đến mt mục đích lớn: ca ngi s dũng cảm, tài trí của con người,
ca ngi s chiến thắng đại của ông lái đò, đã t bao thác ghnh, sóng to
gió c đưa con đò v đến bến bình yên, không phi ch mt lần, hàng trăm
ln, suốt 15 năm làm người lái thuyn vượt sông Đà. Cuộc đọ sc gia con
người đã chiến thng; tr v cuc sống thanh bình: “thế hết thác. Dòng sông
vn mình vào mt cái bến cát có hang lạnh (...). Sông nước li thanh bình. Đêm
ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...”
Cm hng lãng mn đậm đà trong sáng, lan ta trong từng câu văn tả thc,
tạo cho đoạn văn một sc lôi cun không th ng nổi. Đó một bài ca v
lao đng, v con người lao động.
Sau mười năm làm nghề lái đò, k c sau khi đã thôi nghề vài chc năm,
trên ngực người lái đò vẫn còn “bầm t” một “củ khoai nâu”, vi Nguyn Tuân,
đó cũng là cái hình nh quý giá ca mt th huân chương lao động siêu hạng”.
| 1/33

Preview text:

Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà Ngữ văn 12
Dàn ý Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà I. Mở bài
- Tác giả Nguyễn Tuân: có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính,
một nhà văn tài hoa uyên bác, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ.
- Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, với nội dung ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc. II. Thân bài 1. Lời đề từ
- Lời đề từ “Đẹp vậy thay ...”: thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của
dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, thấy được cảm hứng chủ đạo là ngợi ca.
- Lời đề từ tiếp: “Chúng thủy ...”: thể hiện cá tính độc đáo của của con sông Đà.
2. Hình tượng dòng sông Đà
a. Dòng sông “hung bạo”
- “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách
thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”.
- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn
độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.
- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”,
chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”.
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “oán trách”, “van
xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng
bùng” (lấy lửa tả nước).
+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “”hất hàm”, “oai phong”, có
những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh
khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.
+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:
- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng
thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người.
b. Sông Đà trữ tình
- Từ trên cao nhìn xuống như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”,
mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ.
- Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, có ánh
sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, ...
- Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”, ...
3. Hình tượng người lái đò sông Đà
- Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao - người anh hùng trong quan niệm của
Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.
- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu
nghêu ... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.
- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.. - Tài năng và tâm hồn:
+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà
ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, ...
+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ
“nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo ...”, “nắm chắc binh pháp của
thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng,
phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...”
+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích
lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. III. Kết bài
- Tổng kết nghệ thuật đặc sắc: ngôn ngữ điêu luyện, tưởng tượng độc đáo, vận
dụng tri thức nhiều ngành nghệ thuật, xây dựng thành công hình tượng sông Đà và ông lái đò.
- Khái quát nội dung: tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động, vẻ đẹp thiên nhiên đất nước.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 1
Tác phẩm Người lái đò sông Đà là bút ký đầy sáng tạo, tiêu biểu cho phong
cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám: Uyên bác, tài hoa,
không quản gian lao vất vả đ có được những dòng bút ký, đậm cảm giác chân
thực, sức liên tưởng phong phú đem đến cho người đọc người nghe cảm nhận
về một tâm hồn khao khát hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước của cuộc đời.
Tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình ngược miền Tây Bắc giai đoạn năm
1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả, được in lần đầu trong tập Sông
Đà (1960). Sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các triền núi, dòng nước chảy
xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm đó đã tạo cho Đà giang một vẻ đẹp kỳ thú,
rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo mà trữ tình đã làm nổi
bật lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của ông lái đò ông lái đò trên dòng Đà giang.
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những
thành tựu to lớn trong cả hai thời kỳ trước và sau năm 1945. Trước 1945, ông
có tập “Vang bóng một thời” gồm mười một truyện rất đặc sắc, có giá trị vô
cùng to lớn. Hoà chung với không khí thời đại trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ của dân tộc, phong cách Nguyễn Tuân vẫn luôn giữ được nét sáng
tạo, riêng biệt. Ông là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở
bình diện văn hoá và thẩm mỹ. Nguyễn Tuân miêu tả con người trong vẻ đẹp
tài hoa nghệ sĩ. Thiên nhiên hiện lên trong văn chương của ông cũng trở thành
những công trình nghệ thuật kỳ vĩ, độc đáo. Người lái đò sông Đà là đoạn trích
được rút ra từ tập tuỳ bút Sông Đà được ông viết năm 1960, trong một chuyến
đi gian nan nhưng đầy hứng khởi về miền Tây Bắc hiểm trở. Chuyến đi thoả
mãn cái khát khao “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi ấy ông đã không
quên tìm kiếm “chất vàng” của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, rất hiểm trở nguy
hiểm nhưng cũng mang vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng say đắm lòng người. Vẻ đẹp
của con người nơi đây được ông ví như “chất vàng mười đã qua thử lửa” họ là
người dân lao động có trí tuệ, có lòng dũng cảm và sức mạnh chế ngự thiên nhiên.
Hai hình tượng bao trùm, xuyên suốt tác phẩm là hình tượng con sông Đà và
hình tượng người lái đò trên dòng sông quanh năm dữ tợn thách thức với con
người. Với ngòi bút tài hoa của mình ông đã tạo nên hình tượng Đà giang mang
hai sắc thái, hai bình diện tương phản vừa hùng vĩ, hung bạo những cũng cũng
không kém phần trữ tình, thơ mộng.
Nguyễn Tuân dẫn dụ người đọc cuốn theo cảm giác vừa sợ hãi tột cùng vừa
như đam mê, thích thú. Bằng sức tưởng tưởng phong phú của mình, lối hành
văn nhạy bén độc đáo của mình con sông Đà hung bạo hiện lên trong lòng
người đọc với niềm đam mê hãi hùng và thích thú vô cùng. Cái hung bạo được
nhà văn miêu tả mở đầu bằng cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, nghệ thuật
ẩn dụ những khối đá bờ sông được Nguyễn Tuân ví như những thành trì kiên
cố, vũng chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe doạ trực chờ. Nhà văn miêu tả,
mặt sông lúc ấy “đúng ngọ” mới có mặt trời, có vách đá “chẹt lòng sông như
một cái yết hầu”, có quãng tưởng như con hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ
kia. Các liên tưởng tưởng chừng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại chứa
đựng đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỗ sông phải đến tận giữa trưa, khi
mặt trời lên cao nhất mới có ánh nắng chiếu vào, động từ mạnh “chẹt” rất biểu
cảm xen lẫn với nghệ thuật so sánh “như một cái yết hầu”, hai bên bờ con hươu
con nai có thể nhảy qua được. Những hình ảnh độc đáo được tác giả khéo léo
lồng vào, đã tạo cho người đọc được độ cao của vách đá, độ hẹp của lòng sông.
Ngồi trong khoang thuyền đi qua khúc sông ấy “mùa hè cũng thấy lạnh”, tác
giả miêu tả thông qua cảm giác, mùa hè nóng nực oi bức nhưng khi qua đây,
chính cái khung cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ, chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ
hãi và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên.
Cảnh hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát Loóng. Hàng
ngàn cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Một loạt thanh sắc xuất
hiện tạo cho ta cảm giác sóng gió ngày càng mạnh mẽ và cao dần. Nghệ thuật
điệp từ, điệp cấu trúc nối tiếp nhau, động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần.
Sức mạnh của thiên nhiên rất khủng khiếp, rất lạnh lùng, nó “gùn ghè”, hầm hè
như một con thú hoang hung dữ, lì lợm, sẵn sàng thách thức với con người nơi đây.
Những cái “hút nước” khủng lồ trên quãng sông Tà Mường Vát. Xoáy nước
“như những cái giếng bê-tông” được thả xuống làm móng cầu, nước ở đây “thở
và kêu như một cái cống bị sặc”. Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của
Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết.
Khúc sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần,
nếu không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.
Hình tượng hung bạo, dữ dội của con sông được tác giả khắc hoạ rõ nét nhất
chính là ở khúc thác sông Đà. Tác giả miêu tả con sông bằng những hình ảnh
hết sức biểu cảm, bằng những âm thanh dữ dội nhiều sắc thái, còn xa lắm mới
tới thác mà đã nghe thấy tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”, tiếng nước
nghe như “oán trách”, như “van xin”, như là “khiêu khích”, nó rống lên từng
hồi ghê rợn như tiếng của “một ngàn con trâu mộng” gầm thét, vật lộn trong
lúc rừng cháy, ngọn lửa đỏ rực bốc lên ngùn ngụt.
Những hòn đá sông Đà nhiều vô kể, tất cả chúng hợp lại thành cả một “chân
trời đá” rộng lớn. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ khác nhau, nhưng hòn hòn
nấy mặt trông cũng rất “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, ở đây tác giả
dùng nhiều tính từ chỉ con người để miêu tả qua đó người đọc cảm nhận được
sự dữ tợn, sự bất cần, bướng bỉnh của hòn đá, chúng như những vật thể sống và
là đứa con của mẹ thiên nhiên tạo ra. Sông Đà dường như đã giao nhiệm vụ cho
từng hòn đá để bày ra “thạch trận” tuyên chiến, thách thức với con người. Vòng
thứ nhất “thạch trận” có năm cửa trận, có “bốn cửa tử”, “một cửa sinh” nằm lập
lờ nơi tả ngạn con sông. Vòng thứ hai, thác sông Đà đã bộc lộ vẻ gian manh cái
sự háo thắng của nó, lần này có bày ra nhiều cửa tử hơn để đánh lạc hướng con
thuyền đi vào chỗ chết, một cửa sinh được bố trí lệch về phía hữa ngạn. Vòng
thứ ba, vòng quyết định thắng thua cuối cùng, thác sông Đà bày ít cửa hơn
nhưng trái phải đều là “luồng chết”, cửa sống duy nhất lại nằm ngay giữa bọn
đá hậu vệ đang canh gác. Qua phong cách miêu tả độc đáo, sinh động, giàu
tưởng tượng của Nguyễn Tuân con sông Đà hiện lên thật hung bão, dữ tợn, nó
như một “loài thuỷ quái khổng lồ” tâm địa vừa độc ác, vừa nguy hiểm, là kẻ
thù số một của con người trong cuộc chiến không cân sức.
Tuy nhiên cũng có lúc con sông Đà trở về với vẻ dịu dàng, trữ tình thơ mộng
của nó. Vẻ đẹp Đà giang được miêu tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều góc cạnh,
không gian và thời gian khác nhau. Từ trên cao nhìn xuống, con sông Đà uốn
lượn, mềm mại như áng tóc của người con gái Tây Bắc kiều diễm, xinh đẹp.
Dòng sông Đà được nhà văn bằng những hình ảnh rất biểu cảm, gây ấn tượng
sâu sắc, “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo
đốt nương xuân”. Màu nước sông Đà biến đổi theo từng mùa khác nhau, mỗi
mùa mang một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt: Mùa xuân dòng sông “xanh ngọc
bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Con sông như người thiếu nữ xinh đẹp, mơ
mộng đang tuổi xuân thì tràn đầy niềm kiêu hãnh nên tính cách đôi phần khó
hiểu, thay đổi thất thường.
Sông Đà dịu dàng “như một cố nhân”, cảnh sắc bên bờ thật êm đềm tươi đẹp.
Sau chuyến đi dài ngày, ông nhìn ngắm sông Đà thật gợi cảm, thơ mộng như
“màu nắng tháng ba Đường thi”, bờ sông đầy những chuồn chuồn bươm bướm.
Người cố nhân ấy giờ đây yên ả lạ thường như đang lặng nghe âm thanh của
thời gian, thưởng thức cảnh sắc hai bên bờ sông. Bờ sông Đà hoang sơ như
nhuộm màu cổ tích vừa trù phú tràn trề nhựa sống của phù sa bồi đắp. Những
nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, ngọn cỏ “đang ra những nõn
búp”, xa xa là vài con hươu nhai cỏ. Sông Đà lúc này như bờ tiền sử mang bên
mình những nỗi niềm cổ tích xa xưa, hoài niệm.
Dòng sông Đà được tác giả khắc hoạ rất rõ nét bằng nhiều vận dụng nghệ thuật
độc đáo: So sánh, ẩn dụ, nhân hoá, động từ mạnh…, cùng khả năng liên tưởng,
sáng tạo mới mẻ, ông đã viết lên những câu văn thật giàu nhịp điệu, sống động.
Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, Đà giang không còn là một con sông
vô tri mà nó là một sinh thể có suy nghĩ, có tâm hồn.
Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân làm sao có thể thiếu đi bóng dáng con người.
Thiên nhiên càng rộng lớn, hùng vĩ, dữ dội bao nhiêu thì càng làm nổi bật lên
vẻ đẹp trí tuệ tài hoa của con người lao động. Trong bài văn, tác giả đã sáng tạo
ra hình tượng “ông lái đò” đây là hình ảnh biểu trưng cho người lao động cần
cù chăm chỉ nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, cam đảm khi sẵn sàng đối
đầu với thiên nhiên hung tợn trong một cuộc chiến không cân sức. Con sông
Đà bỗng chốc trở thành kẻ thù số một, người lái đò thật nhỏ bé giữa thiên nhiên.
Tuy nhiên họ vẫn bộc lộ được sự mưu trí, tài hoa nghệ sĩ của mình.
Phẩm chất anh dũng, tài hoa, trí tuệ của người lái đò được thể hiện qua cảnh
vượt thác sông đà. Tại đây, con sông mưu mô, xảo quyệt bày ra một “thạch
trận” với ba vòng thách đấu như muốn tiêu diệt những con thuyền đi qua.
Những người anh hùng vẫn không chút sợ hãi, vẫn rất điềm tĩnh bằng trí tuệ
của mình ông lái đò đã lần lượt chinh phục từng cửa ải. Vòng thứ nhất, với năm
cửa trận, bốn cửa từ, chỉ có một cửa sinh duy nhất nằm lập lờ bên bờ tả ngạn.
Thuyền vừa tới, “phối hợp với đá, nước reo hò làm thanh viện cho đá” những
hòn đá ngỗ nghịch, bệ vệ. Có hòn đá nhìn nghiêng thì như “hất hàm” đòi cái
thuyền phải “xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, có hòn thì như thách thức ông
đò “có giỏi thì tiến vào đây”. Ông đò không chút nao núng tay vẫn “giữ lấy mái
chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặt nước hò reo vang dội, ùa vào như bẻ gãy cán
thuyền, sóng nước như “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và
hông thuyền”. Nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa người lái đò ra. Sóng
nước đánh đến món đòn “hiểm độc nhất”, luồng nước ấy bóp chặt lấy hạ bộ
ông đò. Ông đò đã bị thương “mặt méo bệch đi” nhưng không hề đầu hàng
trước kẻ thù, ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái”, tiếng
chỉ huy của ông vẫn vang lên ngắn gọn, tỉnh táo. Vậy là phá xong cái “trùng vi
thạch trận thứ nhất”.
Không cần nghỉ tay, nghỉ mắt một phút giây nào phải phá luôn vòng vây thứ
hai, lần này ông đò đã đổi chiến thuật. Ông đò đã nắm chắc “binh phát của thần
sông Đà”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Con
sông Đà đã lộc rõ sự gian trá, độc ác của mình khi lần này nó bày ra nhiều cửa
tử hơn, cửa sinh nằm lệch sang một phía hữu ngạn con sông. Tác giả sử dụng
nghệ thuật so sánh cưỡi lên con sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Nắm được cái bờm sóng đúng luồn rồi, không phút nao núng, ông đò “ghì cặt
cương lái”, bám chặt lấy luồng nước cố sức phóng nhanh vào phía cửa sinh,
“lái miết một đường chéo về phía cửa ấy”, bỏ lại sau lưng những cửa tử và
những hòn đá vẫn “không ngừng khiêu khích”.
Trùng vây thạch trận cuối rồi, lần này ít cửa ải hơn, “bên phải bên trái đều là
luồng chết”, luồng sinh nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Con sông
Đà dường như chưa từ bỏ tham vọng của nó, sự hiếu thắng, nó muốn nuốt trọn
con thuyền trong lần giao chiến quyết định cuối cùng này. Nhưng người lái đò
bao lần vượt thác ghềnh, ông đã tích luỹ biết bao kinh nghiệm, ông cho thuyền
phóng thẳng “cứ thế chọc thủng cửa giữa đó”, thuyền như một mũi tên tre nhọn
hoắt, cứ thế lao nhanh “vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Cuối cùng
bằng sự gan dạ, tài trí, kinh nghiệm của mình ông đò đã vượt hết dòng thác một
cách an toàn, giành chiến thắng trong cuộc chiến không khoan nhượng với kẻ thù hung bạo.
Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò sông Đà bằng nhiều
nghệ thuật đặc sắc. Tác giả sử dụng từ ngữ của nhiều lĩnh vực: Binh pháp, võ
thuật, thể thao, âm nhạc…, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá cùng với nhịp
điệu câu văn hài hoà sinh động. Ông đã khắc hoạ thành công hình ảnh người lái
đò sông Đà trí tuệ, tài hoa và bản lĩnh, qua đó ca ngợi con người lao động Tây
Bắc mang vẻ đẹp và những phẩm chất cao quý.
Đoạn trích người lái đò Sông Đà của Nguyên Tuân là một bài tuỳ bút có giá trị
vô cùng to lớn, tác giả đã thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng,
khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên cùng với con người miền Tây bắc
xa xôi. Đồng thời thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng, sự gắn bó tha thiết,
sâu nặng của Nguyễn Tuân đối với quê hương, đất nước, con người Việt Nam.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 2
Tây Bắc là một mảnh đất có nhiều duyên nợ với nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi
nhà văn, nhà thơ lại tái hiện và khắc họa hình ảnh Tây Bắc ở những góc độ
khác nhau. Trong đó, Nguyễn Tuân đã khám phá được vẻ đẹp thiên nhiên nơi
đây, nhận thấy được “chất vàng 10” trong tâm hồn con người nơi đây. Tùy bút
“Người lái đò sông Đà” chính là món quà đầy ý nghĩa mà ông dành cho mảnh đất Tây Bắc.
Qua tài năng của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên không còn là một con
sông vô tri vô giác nữa mà trở thành một sinh thể có hồn, một nhân vật có tính
cách, tâm trạng và là tuyệt mĩ của tạo hóa.
Trước hết, con sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo đáng sợ. Đá bờ sông
“dựng vách thành”, “có chỗ vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”,
“ngồi trong khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Bờ sông Đà
thật hùng vĩ, hiểm trở, lòng sông hẹp kéo theo dòng nước chảy xiết. Những
ghềnh sóng hiện lên với sự dữ dội, hung hãn “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió”. Tác giả sử dụng câu văn có sự trùng điệp nhịp văn ngắn để diễn tả sự
hung dữ của ghềnh sông. Nó giống như một mụ phù thủy quái ác “gùn ghè suốt
năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào qua quãng ấy”. Đáng
sợ hơn là những cái hút nước của sông Đà. Những hút nước này có độ xoáy rất
sâu và lớn như cái giếng bê tông thả xuống sông để làm móng cầu “xoáy tít
đáy”. Nơi đây tiềm ẩn sự nguy hiểm và là nơi trú ngụ của tử thần. Có những
chiếc thuyền bị lôi xuống, ”thuyền đi ngâm dưới lòng sông đến mươi phút sau
mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”. Tác giả đã sử dụng những tri thức điện
ảnh để đem đến cho người đọc sự hình dung rõ hơn về những cái hút nước.
Sự hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở thác nước và trận địa danh của
Đà giang. Thác nước ở đây nó thật khủng khiếp “nó rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa…. da
cháy bùng bùng”. Câu vă của Nguyễn Tuân đã tác động mạnh mẽ vào thị giác
và thính giác của người đọc, lột tả sự giận dữ, ghê gớm của những con thác ở
sông Đà. Tác giả tiếp tục chi tiết của những trận địa con sông Đà. Đặc biệt là
cuộc chiến với ông lái đò. Đà giang hiện lên không khác gì một con thủy quái
dữ tợn và khát máu. Nó đưa ra mọi thủ đoạn sử dụng mọi chiêu thức sử dụng
mọi đòn đánh để hạ gục ông lái đò. Thông qua sự khắc họa của Nguyễn Tuân,
người đọc có dịp chứng kiến được sự hung bạo, nghỗ nghịch bất trị của bà mẹ thiên nhiên.
Trái với vẻ hung bạo và dữ tợn thì cũng có lúc con sông sông Đà hiện lên thật
trữ tình. Con thủy quái ấy đã rũ mình và vứt bỏ sự gớm ghiếc để trở thành một
thiếu nữ kiều diễm. Nét trữ tình của con sông Đà được thể hiện ở hình dáng
con sông. Dòng sông Đà mềm mại “từng nét trải ra trên đại dương đá lờ đờ
bóng mây”. Dòng sông Đà được Nguyễn Tuân ví với mái tóc thướt tha của
người con gái đang độ thanh xuân. “Con sông Đa tuôn dài, tuôn dài…đốt
nương xuân”. Đó là một vẻ đẹp đầy sức sống và mang nét nên thơ, mờ ảo giữ
mây trời khói núi. Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa và mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng.
Vẻ đẹp con sông Đà còn được tô điểm bởi cảnh ven sông và cảnh trên sông.
Khung cảnh thiên nhiên ven sông Đà thật giàu chất thơ. “Cảnh ven sông ở đây
lặng tờ”, “một lương ngô…”, Thật là một bức tranh dạt dào nguồn nhựa sống,
lam mê đắm hồn người.” Bờ sông hoang dại…cỏ tích tuổi xưa”. Với hình ảnh
so sánh tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc trở về thuở bình
yên của sông Đà từ ngàn năm trước.
Nói tóm lại, Nguyễn Tuân đã khắc họa rất thành công hình tượng con sông Đà
với hai tính cách: hung bạo đến đáng sợ và trữ tình đến tuyệt mĩ. Nhà văn đã
cho chúng ta thấy được sự tài hoa trong trí tưởng tượng phong phú, trong
những liên tưởng táo bạo, bất ngờ, những so sánh mang dấu ấn cá nhân của
Nguyễn Tuân trên những trang văn.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 3
Đến với tác phẩm của Nguyễn Tuân mỗi người sẽ tìm cho bản thân mình
những xúc cảm riêng, là sự ngưỡng mộ, khám phá chờ mong. Dường như dưới
đôi bàn tay tài hoa nghệ sĩ, ông đã khiến người đọc như chìm đắm, như được
sống những phút giây thực sự với thiên nhiên khung cảnh nơi đó. Đây chính là
cái tài sử dụng ngôn ngữ của ông. Đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đò sông
Đà” tài năng đó càng được bộc lộ rõ nét hơn.
Cả cuộc đời của Nguyễn Tuân có chăng được gói gọn trong chữ “độc đáo”.
Bản thân là người độc đáo, khác thường nên đối tượng nghệ thuật của ông cũng
phải là có một không hai. Dưới bút lực dồi dào của mình Nguyễn Tuân đã phô
diễn cho bạn đọc thấy hình ảnh của một dòng sông Đà vừa hung bạo, nhưng
cũng rất đỗi trữ tình. Bên cạnh đó là vẻ đẹp nổi bật của người lao động, chinh
phục và làm chủ thiên nhiên.
Trước hết cái độc đáo của sông Đà được Nguyễn Tuân khai thác trên hai
phương diện: hung bạo và trữ tình. Chất hung bạo chính là điểm nổi bật đầu
tiên của Nguyễn Tuân đề cập đến. Vẻ đẹp hung dữ, bạo tàn của con sông ở
những đoạn thác dốc như một sức mạnh vô hình thu hút ông. Đây cũng là lãnh
địa tạo cho ông cơ hội thỏa sức tung hoành trí tưởng tượng của bản thân. Ông
cực kì phấn khích khi chuẩn bị đến thác cuối, khi chuẩn bị được tận mắt chứng
kiến sự hung bạo của sông Đà: “… Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng
đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại ró to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là
oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. Thể rồi nó giống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đáng phá tuông rừng mửa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da đen cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi”. Có thể thấy
trong đoạn văn giọng điệu hào hứng, hồ hởi cũng như giác quan vô cùng thính
nhạy của Nguyễn Tuân. Ông nắm bắt từng chuyển động của thiên nhiên để có
thể cảm nhận được vẻ đẹp hung bạo của nó từ phía xa. Đặc biệt hình ảnh so
sánh thác nước như những con trâu lồng lộn, rống lên cũng cực kì đặc sắc, diễn
tả tiếng thác nước ầm ào chảy, vừa hứng thú, kích thích nhưng cũng đầy lo lắng, sợ hãi.
Và đến đoạn thác nước, bút lực của ông mới thực sự được phát lộ hết. Bao
nhiêu hào hứng ông dồn cả vào đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà.
Những thạch trận liên tiếp được bày ra, dụ con thuyền đến để nuốt gọn vào
lòng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá,
nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt.
Mỗi hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng
tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái
thuyền có giỏi thì tiến gán vào”. Với thủ pháp nhân hóa, cùng trí tưởng tượng
phong phú Nguyễn Tuân đã khiến cho những hòn đá vô tri có gương mặt, tâm
trạng và thân phận riêng. Nhưng tựu chung lại có thể thấy ở chúng sự ngông
ngạo, tự phụ, ỷ thế mà chèn ép người khác, đặc biệt là ỷ vào thế hiểm của thằng đá tướng.
Nhưng sự tự phụ của chúng chẳng được bao lâu, bới dưới sự uy dũng, kinh
nghiệm của người lái đò ông đã nhanh chóng vượt qua chúng. Đoạn này ngòi
bút lãng mạn của ông càng được phát huy cao độ hơn nữa. Con sông ương
bướng, bày ra thạch trận ba vòng, với những lắt léo khác nhau cũng không thể
cản bước ông lão đò. Ông cưỡi lên từng con sóng, từng đọt nước mà vượt qua:
“Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được
cái bườm song đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước
đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, là lái miết một đường chéo về phía cửa đá
ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền
lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo
bởi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi mở đường tiến. Những luồng
tử đã bỏ hết lại sâu thuyền”. Những câu văn kia miêu tả ông lái đò mới sảng
khoái và sung sướng biết bao khi con người đã vươn lên làm chủ thiên nhiên.
Đồng thời những lời miêu tả chân thực, sinh động đó cũng cho thấy tài nghệ lái
thuyền tài ba, sự dày dặn kinh nghiệm, và dũng cảm là những yếu tố giúp ông
lái đò của thể vượt qua mọi cửa tử để đi đến được một cửa sinh duy nhất.
Không chỉ có niềm say mê, hứng thú đặc biệt với những nơi đầy nguy hiểm mà
đôi mắt tinh tế của Nguyễn Tuần còn đầy tình tứ, phát hiện vẻ đẹp mơ mộng,
trữ tình của con sông Đà. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà quả như là đối cực với
sự hung bạo của chúng. Nếu như bên trên con sông Đà bạo liệt, hung hãn bao
nhiêu, thì đến đây lại mơ mộng, hiền hòa bấy nhiều. Đoạn văn thấm đẫm màu
sắc văn chương và hội họa.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hay qua thực cảnh sắc sông Đà, chẳng ai có
thể biết được, nhưng nó toát lên vẻ đẹp của sự trữ tình, mơ mộng quá đỗi. Sông
Đà giờ đây không còn hoang dại, mà tựa như một cô gái sơn cước miền Tây
Bắc vô cùng yểu điệu, thục nữ, lại có đôi nét mờ màng: “Con sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đất
nương xuân”. Đọc câu văn mà ngỡ như ta đang đọc một câu thơ của Nguyễn
Tuân vậy. Chất trữ tình thẫm trong cảnh vật, ngập đầy trong từng câu chữ. Chỉ
trong một đoạn văn không quá dài, nhưng trước vẻ đẹp trữ tình của con sông
mà Nguyễn Tuân đã hai lần phải thốt lên “chao ôi”. Vì được chiêm ngưỡng
cảnh đẹp, vì được gặp lại người bạn có nhân bao ngày xa cách. Đó là sự vui
mừng, cuống quýt thấp thỏm, đầy hạnh phúc. Sông Đà chính là cố nhân của
Nguyễn Tuần. Chính tâm trạng vui sướng đó đã khiến công có một đoạn văn
đầy xúc cảm: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống
Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng
thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Không chỉ cảm nhận sông Đà là
người bạn, người cố nhận gặp lại sau nhiều ngày xa cách mà ông còn cảm nhận
được cái không khí cổ xưa, như bờ tiền sử hoang dại ở sông Đà. Quả thực, có
lẽ chỉ có Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh tế của mình mới có thể cảm
nhận trọn vẹn được vẻ đẹp của sông Đà ở mọi chiều kích không gian và thời gian như vậy.
Với bài bút kí Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng ta không
chỉ thấy được vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài năng, với bút lực dồi dào. Mà
bên cạnh đó còn thấy được tấm long của một con người yêu nước, dành trọn
cuộc đời mình khám phá, tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao
động trong cuộc sống mới.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 4
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, là kết quả của
chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập
bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in
đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
Trong những ngày tháng cả nước rộn rang lên đường theo tiếng gọi của “tâm
hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn,
nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những
nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân - cây độc huyền cầm của nền văn học
Việt Nam, người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân
đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò sông Đà - một tác phẩm thể hiện rõ
nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi
vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày
hôm nay giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính
vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích
cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ.
Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều
miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với
cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng
xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở,
muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói
đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc sông núi Tây Bắc, và
nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày
nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa
tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi
nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú
của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…
Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những trang văn
của ông thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố.
Nhưng không vì thế mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút
Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó
mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, có thể cướp đi mạng sống của
bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…”Nước sông Đà reo như đun sôi lên
một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông” và khi
thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng cái
hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Miêu tả
con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm
mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc chiến
đấu “một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí
dũng tuyệt vời của ông lái. Người lái đò sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ
thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không
ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…
Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái
đối lập của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù,
vừa là “cố nhân”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận
động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động
mạnh vào giác quan người đọc. Ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách
sinh động, rõ nét và sắc sảo… Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết
phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn
của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút Nguyễn
Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ.
Nét đẹp sông Đà là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng
vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người
thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà
cũng thế. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt người bầm đi vì rượi bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không
chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi
nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại sông Đà,
tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân. “Chao ôi,
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 5
Nguyễn Tuân - người được mệnh danh là “Người đi tìm cái đẹp, cái thật trong
đời” không chỉ là một trí thức yêu nước mà ông còn là một nhà văn tài hoa,
uyên bác. Ông đã để lại nhiều tác phẩm lớn, nổi bật hơn cả là tùy bút “ Người
lái đò sông Đà” (1960). Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông
đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc. Tác phẩm
tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng 8.
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” lấy ông lái đò làm nhân vật trung tâm nhưng
thực chất là mượn hình ảnh ông lái đò để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ, dữ
dội và thơ mộng của con sông Đà. Tất cả hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn
Tuân vừa chân thực, vừa sống động.
Trước hết, Nguyễn Tuân khắc họa vẻ đẹp của con sông Đà được nhân hóa như
con người, nó mang linh hồn độc đáo vừa có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng, lại vừa
mang tính cách hung bạo, trữ tình. Con sông được giới thiệu:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”
Ý nói mọi con sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo
hướng Bắc. Đây là một cách giới thiệu ấn tượng, đập thẳng vào nhãn quan
người đọc sông Đà hiện lên như một cá thể rất có hồn. Sông Đà khai sinh ở
huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam. Nó mang hai tính cách. Đầu tiên là tính cách
hung bạo và trữ tình, được thể hiện ở khía cạnh: Nguyễn Tuân miêu tả cảnh đá
ở bờ sông “đá dựng vách thành lòng sông hẹp, có quãng con hươu con nai còn
nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tòa
nhà cao vừa tắt phụt đèn điện”. Đặc biệt ở đọan mặt ghềnh dài hàng ngàn cây
số thì “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy”. Thật nguy hiểm, rung rợn. Đâu
chỉ có vậy, Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái
cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà
cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy”. Hay đến thác nước với những
âm thanh dữ dội như càng xóay vào lòng người nhiều hiểm ngay đang rình rập
chỉ chờ chực sẵn con mồi “tiếng nước “ réo”, “tiếng nước thác nghe như là oán
trách… van xin … khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… nó rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng…”. Nước như một đội quân hùng mạnh, dữ tợn.
Đáng sợ hơn tất cả hình ảnh đá ở lòng như như đang bày binh bố trận địa thác
đá với 3 trùng vi. Trùng vi thạch trận thứ 1: “mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử
một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn”. Sang đến trùng vi thách trân
thứ 2 đã tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố
trí qua phía bờ hữu ngạn. Và trùng vi trạch trận thứ 3 cả bên trái lẫn bên phải
đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ngay giữa bọn đá hậu
vệ.. Việc bày binh bố trận vừa theo một quy luật trật tự nhất định để ngăn cản
những ứng viên rắn chắc chèo chống về phía đích. Họ như những cầu thủ
chuyên nghiệp trên sân cỏ đang lao mình ra để bảo vệ cầu môn, không cho
quân địch hay kẻ ngoài này le lói gần khung thành. Bằng lối viết tài hoa, một
kiến thức sâu rộng uyên bác, Nguyễn Tuân đã viết nên những câu văn theo kiểu
móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, sử dụng xen kẽ biện pháp tư từ nhân hóa, so
sánh rõ rệt để làm nổi bật hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, như muốn mình là
vua của cả thế giới. Con sông ấy hung bạo, hiểm trở, là kẻ thù số 1 của con người.
Trái với vẻ ngoài dữ tợn ấy, sông Đà còn hiện lên một vẻ trữ tình đằm thắm
dưới ngòi bút bậc thầy lão luyện của Nguyễn Tuân. Đi từ thượng nguồn đến hạ
nguồn, ta đều bắt gặp hình dáng con sông rất thơ mộng như một cô thiếu nữ đôi
mươi kiều diễm, trẻ trung, duyên dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình”, “Sông Đà như một áng tóc mun, dài ngàn ngàn vạn vạn sải”. Màu nước
sông Đà cũng thay đổi theo mùa rất đẹp và quyến rũ, mùa xuân, dòng xanh
ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì
rượu bữa. Sự thay đổi sắc màu tạo cho sông Đà mang một vẻ đẹp huyền bí, quý
phái. Nhà văn còn miêu tả hai bên bờ sông Đà cũng tươi mới không kém. “Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Sông Đà, con sông chứng kiến biết bao
nhiêu thăng trầm của lịch sử, nó là chứng nhân lịch sử vĩ đại cũng là một con
sông đẹp kiều diễm mà nên thơ. Con sông ấy gợi trong lòng nhà văn nhiều cảm
xúc, như một “cố nhân”.
Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đưa người đọc khám phá một con sông
Đà mang nhiều trạng thái cung bậc, khi thì dữ dội, khi lại nên thơ trữ tình. Con
sông ấy dưới ngòi bút điêu luyện của ông được coi như là một khám phá lớn,
một công trình nghệ thuật vĩ đại mà tạo hóa ban tặng cho Tây Bắc.
Song song với hình tượng con sông Đà là hình ảnh người lái đò sông Đà - một
tay lái ra hoa với trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân đã miêu tả ngoại hình của
ông rất độc đáo: “tay lêu nghêu như cái sào, chân khùynh khùynh”. Ông quê ở
ngã tư sông, là người từng trải, ông làm nghề lái đò đã được mười năm liền.
Ông với con sông Đà gắn bó mật thiết với nhau, như người bạn tri kỉ của mình.
Với kinh nghiệm chinh chiến trên con sông ấy đã nhiều năm, ông nắm chắc
từng luông lạch, từng ngọn thác và đặc biệt, ông nắm rất vững quy luật của
“thần sông thần đá” trên con sông Đà. Vì ông am hiểu con sông ấy một cách
tường tận, thấu đáo nên ông rất thích vượt thác, đối mặt với con sông ấy. Chỉ
với vài nét khắc họa đơn giản, Nguyễn Tuân đã phác họa được một người lái
đò yêu nghề, yêu thiên nhiên, thích hòa mình rượt đuổi cùng thiên nhiên.
Vẻ đẹp của ông lái đò được nhà văn miêu tả rất chi tiết qua những lần ông vượt
thác. Tay lái ra hoa ấy càng khiến người đọc thêm khâm phục phần nào về tài
năng, bản lĩnh dám đương đầu với thử thách. Trên con sông hùng vĩ nguy hiểm
ấy, ông lái đò hiện lên với tư thế hiên ngang của một dũng tướng chỉ huy chiến
trận. Ông chỉ huy con thuyền mình luồn lách tới đích vượt qua các chướng ngại
vật với phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Ở vòng vây thứ nhất, ông hai tay
giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Hai
chân ông vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. Đến vòng vây thứ hai, không một phút
nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông
cưỡi lên thác sông Đà, nắm bờm sóng, ghì cương lái, bám lấy luồng nước đúng
mà phòng nhanh vào cửa sinh. Và ở vòng cuối, ông phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Cuộc vượt thác thành công. Mặc dù có
lúc ông gặp khó khăn bị thương nhưng ông vẫn bình tình, dũng cảm đối mặt
sau cùng nếm vị ngọt thành quả: “đốt lửa trong hang đá, bàn tán về cá anh vũ”.
Cuộc chiến khốc liệt kết thúc thắng lợi vẻ vang.
Qua đây, ta mới thấy được ông lái đò là người rất am hiểu binh pháp của thần
sông, thần đá, là một hình tượng nhân vật mới mà Nguyễn Tuân đang hướng
tới - một bức chân dung người lao động vừa hiên ngang, khí phách, ngang tàng lại rất giản dị.
Tóm lại, “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Bằng tài năng, ngòi bút uyên thâm cùng kiến
thức tổng hợp phong phú, ông đã rất thành công khi xây dựng được nhân vật
người lái đò hùng dũng, hiên ngang và hình ảnh con sông Đà với hai tính cách
trái ngược nhưng rất đỗi đẹp đẽ. Tùy bút” Người lái đò sông Đà” luôn sống mãi
trong lòng người đọc và trường tồn theo thời gian.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 6
Nguyễn Tuân người nghệ sĩ suốt một đời đi tìm cái đẹp và trăn trở về cái đẹp.
Nếu như trước cách mạng ông thoát li thực tại, tìm cái đẹp ở thời còn vang
bóng, thì sau cách mạng cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ông tìm thấy cái đẹp
trong cuộc sống này, ở những con người lao động hết sức bình dị. Người lái đò
sông Đà được trích từ tập bút kí Sông Đà là những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp
hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, và vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.
Tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn
Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ
miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi
của Đảng miền Bắc đang đấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa
xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung tư tưởng
của tác phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ tư tưởng, chủ đề,
cảm hứng chủ đạo. Người lái đò sông Đà sử dụng hai lời đề từ: Lời đề từ thứ
nhất: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà
thơ cách mạng Ba Lan mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ có thể là câu hát của
những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên
nhiên, yêu lao động, cũng có thể là sự ngơi ca của chính nhà văn trước tư thế
làm chủ thiên nhiên của con người trong cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai,
Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông
tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé mở cho người đọc thấy, mọi dòng
sông đều chảy về hướng đông, duy có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Câu thơ
đã khẳng định sự độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của
Nguyễn Tuân - nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.
Trước hết về hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả trên nhiều
phương diện, vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ,
trữ tình. Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông được Nguyễn Tuân thể hiện ở cảnh đá
bờ sông dựng vách thành. Lúc ấy “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có
mặt trời” đã gợi ra được độ cao và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc
sông. Không chỉ vậy “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”
đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa nước
lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn
Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những vách đá lạnh lẽo, tăm tối, ở
khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Không chỉ vậy sự hung bạo còn thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở
đoạn này, Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông như một sinh thể người, đó là
kẻ đi đòi nợ thuê, với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn
dập, điệp từ, điệp cấu trúc được vận dụng liên tiếp (nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió) kết hợp với các thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội,
nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và
đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên một mối đe
dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái thì
cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Sự hung bạo còn được thể hiện ở những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc
trên khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái
hiện sự khủng khiếp của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở
nhiều chiều kích khác nhau, cho người đọc một cái nhìn toàn diện, đầy đủ nhất.
Khi nhìn từ trên xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông thả xuống
sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành
giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”. Và để giúp người đọc cảm nhận được rõ
hơn, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm nhận khác nhau, với người quay phim
thì như “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả
máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với người xem phim lại thấy “thấy
mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt
vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”. Với
những trải nghiệm và góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm
nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng của dòng sông Đà mà ở đây là những cái hút nước.
Cuối cùng sự hung bạo của sông Đà được khắc họa ở các trùng vi thạch trận
khác nhau. Với trùng vi thách trận thứ nhật là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn
đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt
nước chỗ này”. Đá còn bày binh bố trận, như cố tình nhấn chìm con thuyền.
Trùng vi thạch trận thứ hai tiếp tục tăng thêm thử thách, cửa tử nhiều hơn để
đánh lừa con thuyền và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không
kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”, phối hợp với
đá là dòng thác như hùm beo như chực vồ và nhấn mình con thuyền xuống đáy
song. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là
luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con
thác”. Tất cả các trùng vi, thạch trận đều vô cùng hiểm ác, với mục đích duy
nhất là làm cho con thuyền mất sức, bỏ mạng.
Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hoàn toàn
đối lập, đó chính là vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn
lượn của con sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”,
đặc biệt là giống như mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân”. Dòng sông như một người thiếu nữ, với mái tóc tuôn dài, tuôn dài, tha
thướt, uyển chuyển không ngờ. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây
Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều. Không chỉ vậy ở
những thời điểm khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng: Mùa xuân, nước
Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh; Mùa thu,
nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ
lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Không
chỉ vậy, vẻ đẹp sông Đà con như được bước ra từ miền cổ tích xa xôi, với
những bãi bờ hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn
chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm
đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.
Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật ở hình tượng con sông Đà, mà để điểm
tô, hoàn thiện vẻ đẹp sông Đà cần có sự xuất hiện của con người, và thật đẹp đẽ,
chân dung người lái đò đã được Nguyễn Tuân thể hiện tài tình, rõ nét. Người
lái đò không có một tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là người lái đò Lai
Châu. Để làm bật vẻ đẹp người lái đò, chân dung ông luôn được tái hiện tương
quan với dòng sông Đà. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến
không cân sức: một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với
sóng nước, với thạch tinh nham hiểm, một bên là con người bé nhỏ trên chiếc
thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo. Nhưng
dù sông Đà gian ngoan, xảo quyệt bao nhiêu thì người lái đò lại kiên cường
bám trụ bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa
phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận thứ ba, ông
lái đò đã thể hiện rõ tài nghệ của mình. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn
“thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết
những thác ghềnh ở phía sau lưng. Chiến thắng của ông trước hết xuất phát từ
sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách
khốc liệt của cuộc sống. Đây đông thời cũng là chiến thắng của tài trí con
người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.
Đặc biệt, cũng như những nhân vật khác của mình, người lái đò còn được
Nguyễn Tuân khắc họa ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Tài hoa là khi con người đạt
tới trình độ điêu luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ có thể
sáng tạo được, có thể vươn tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung
bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái băng băng trên dòng thác sông Đà một cách
ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào
hùng. Và phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện trong cách ông nhìn nhận
về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi dòng sông vặn mình hết
thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò
dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về
những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá
túa ra tràn đầy ruộng”.
Bằng ngòi bút vô cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang
văn đẹp cả về hình thức và tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê
hương đất nước sâu nặng, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê
hương đất nước mà còn khẳng định sự lớn lao, sức mạnh phi thường của những
con người bình thường trong hành trình chinh phục thiên nhiên. Bài văn mẫu 7
Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 là một nhà nghệ sĩ lớn của dân tộc
Việt Nam. Vốn là một người tri thức giàu lòng yêu nước lại am hiểu sâu rộng
nền văn hoá dân tộc, ông viết nên những tác phẩm rất mực uyên bác và giàu giá
trị. Nếu như trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người
bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người "một thời vang bóng" như Huấn Cao
thì sau cách mạng, Nguyễn Tuân khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài
năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị với
thiên nhiên và đời sống con người. Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" là một
thành công tiêu biểu cho phong cách văn học ấy.
Trong tuỳ bút, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội lại vừa xinh đẹp,
dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông trên nhiều góc độ,
nhiều phương diện mà nhìn trên phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thấy yêu.
Không tĩnh lặng soi bóng hàng tre mỗi trưa hè, cũng không mang nét tư lự
trong từng hơi thể khi màn đêm buông xuống mà sông Đà hiện lên vô cùng
sống động, dữ dội và mãnh liệt. Nó như được xem là "kẻ thù số một của con người".
Những con thác lớn dữ dội, những gạn nước từ Vạn Yên về xuôi thật mênh
mang. Hai bờ sông dựng đá thành những vách hiểm trở khôn cùng. Nước và
sóng xô chồng lên nhau như đang thi nhau phô bày tất cả vẻ dữ tợn, oai hùng
của mình: "Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có
lần vọt từ bờ này sang bờ kia”.
Mặt sông khi nhìn từ trên cao xuống là vô vàn những hút nước như những trụ
bê tông. Dòng nước kêu lên thành những tiếng ghê rợn, khi thì kêu lên như
những cái giếng đang bị sặc nước, khi lại ằng ặc như tiếng dầu sôi”. Tất cả
dựng lên trước mắt ta thế hiểm trở và đầy rẫy những thách thức, nguy hiểm mà
ai đi qua cũng phải đối mặt. Sông với tư thế hùng dũng và có phần bạo ngược
của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái trước từng con
con sông, không làm chủ trên chiến trận chinh phục dòng sông.
Bởi vậy mà nó khiến bao con thuyền đi qua phải dè chừng, hoảng sợ, cố tránh
né những cạm bẫy mà sông Đà bố trí sẵn: “Không thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt quãng sông”, biết
bao nhiêu bè gỗ đã phải chịu trận trước những hút sâu khổng lồ, biết bao nhiêu
con thuyền nghênh ngác phải tan xác dưới lòng sông.
Vốn am hiểu sâu sắc cùng sự trải nghiệm của mình Nguyễn Tuân dùng những
ngôn từ mới lạ, lĩnh hoạt, độc đáo để miêu tả một dòng sông Đà. Sông Đà cũng
mang dáng dấp đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của
người thiếu nữ chốn núi rừng Tây Bắc vậy. Sông Đà lúc này thật thơ và mơ
mộng, tình yêu như đang tràn với bao cảm xúc nồng nàn khó tả: “Con sông Đà
tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình...cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
Vẻ đẹp của dòng sông thật yên bình, khơi gợi sự yêu thương, đưa lòng người
đến với những rung cảm trong tâm hồn mình, một sức hấp dẫn tuyệt vời quá
đỗi. Đôi lúc, sông Đà cũng có những cảm xúc, cũng nhớ, cũng thương như bao
người vậy. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông còn được thể hiện giữa thiên nhiên,
mây trời tạo nên nét riêng biệt không trộn lẫn, bởi vậy dù bất cứ lúc nào nó
cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: "Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”.
Không chỉ vậy, sông Đà còn khiến người ta thích thú bởi sắc nước đổi thay
theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh
màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
Bờ sông Đà cũng thật đẹp, thật ngọt ngào bởi hương vị của hoa, của bướm, của
chuồn chuồn, của những bãi ngô non đầu mùa hay những cô giành vàng nõn
búp. Đó đây những đàn hươu đang thong thả gặm những bãi cỏ non tơ ướt đẫm
sương đêm, mọi vật như đang hoà mình trong nét tuyệt diệu của dòng sông, tô
điểm nên một vẻ đẹp gọi mời khiến lòng người thổn thức: "Con hươu thơ ngộ
ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một
mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói
riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe
thấy một tiếng còi sương?”.
Sông Đà như một " người cố nhân" lại như một" người nghệ sĩ tài hoa". Qua
cách miêu tả thật độc đáo với những cảm xúc chân thành, sự trân trọng, nâng
niu từ những điều bình dị, nhỏ nhặt, Nguyễn Tuân như khắc hoạ nên một bức
tranh thủy mặc của sông Đà say đắm lòng người với vẻ tuyệt vời, thân thương.
Cùng với hình tượng sông Đà cá tính, đến với tác phẩm ta còn cảm nhận được
hình ảnh người lái đò tài hoa, nghệ sĩ, điêu luyện trên dòng sông. Người lái đò
ấy không phải là một chàng thanh niên trai tráng với thân hình vạm vỡ mà là
một ông già đã gần bảy mươi tuổi: “Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược
hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần". Phải chăng những kinh
nghiệm qua bao cuộc hành trình suốt mười năm làm việc đã giúp ông trở nên
thuần thục, bản lĩnh và kiên trường đến như vậy: "Ông nhớ tỉ mỉ như đóng
đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở".
Người lái đò như một thứ "vàng mười" đã qua thử lửa: Cái đầu bạc quắc thước
ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mùn", con
người ông là con người của chốn sông nước hùng vĩ, trên ngực ông là những
"củ khoai nâu" in dấu những trận chiến vật vã với con sông Đà dữ dội, với tác
giả dường như đó là những tấm huy chương cao quý mình chứng cho sức lao
động của con người trong công việc của mình.
Đứng trước những đợt sóng kinh hoàng, những thạch trận hiểm nguy, ông
không hề sợ sệt mà trái lại càng bản lĩnh thích thú hơn: "Ngoặt khúc sông lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá...Và một mình một thuyền ông
đã giao chiến như một vị dũng sĩ đầy tài ba. Trải qua ba thạch trận bằng dũng
cảm, mưu trí cả mình, người lái đò đã chiến thắng , trở về với cảnh lao động và
cuộc sống bình yên: "Thế là hết thác...Sông nước lại thành bình. Đêm ấy nhà
đò đốt lửa trong hàng đá, nướng ống cơm lam..." .
Nguyễn Tuân đã mang đến cho nền văn học nước nhà một kiệt tác vô cùng độc
đáo, một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác, tài hoa. Khép lại những
trang văn của tùy bút “Người lái đò sông Đà”, em vẫn không nguôi cảm xúc
lâng lâng trong tâm hồn mình, có chăng, đó là những điều đẹp đẽ nhất mà văn
học đã mang lại, khơi gợi trong lòng mình những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng
lớn. Thật cảm ơn Nguyễn Tuân, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp để
nâng niu những giá trị vững bền của đời sống lao động và của dân tộc. Bài văn mẫu 8
Nói đến Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm
cái đẹp. Cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn
thiện, hoàn mỹ. Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành
tựu kể cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tuỳ bút
“Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm
“chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử
lửa” của con người nơi đây.
Ngay ở những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ sự hung bạo
của sông Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng
mà bờ sông “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Quãng sông thì hẹp đến
nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy
chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm
thấy lạnh”, cái lạnh của từng lớp da thịt, của sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây.
Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ
nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt
đèn điện”. Bằng một loạt hình ảnh miêu tả, Nguyễn Tuân đã đẩy người đọc từ
phố xá đô thị về khung cảnh hoang sơ đến đáng sợ của thiên nhiên sông nước.
Người ta thấy hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối,
vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.
Đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, có thể kể tên đến năm mươi cái ghềnh nhưng sợ
hãi nhất là ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp, nhịp văn
nhanh mạnh khiến người đọc không khỏi hãi hùng trước những âm thanh của
sóng, gió, nước, đá. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê
rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây. Sông Đà được miêu tả
như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những người trên sông. Nó có thể gây ra
rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.
Nhiêu đó vẫn chưa kể hết những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử
dụng một loạt thủ pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết cái vẻ hung bạo của
hút nước sông Đà. Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái
lúm đồng tiền trên má cô gái nhưng nó lại không hề duyên dáng, dễ thương,
thay vào đó nó có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan
xác. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn so sánh những cái hút nước với những
cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh
này vừa gợi độ sâu hun hút của những cái xoáy nước vừa khiến người đọc
khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng sợ hãi hơn khi đọc những câu văn miêu tả
âm thanh của những cái hút nước. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị
sặc”. Nước không chỉ dồn về nhiều và nhanh mà còn ặc ặc lên như mới rót dầu
sôi vào. Từ láy “ặc ặc” gợi cảm giác sông Đà giống như một loài thuỷ quái bị
bóp chặt yết hầu đang quằn quại giãy giụa. Sự hung bạo này khiến nhà văn liên
tưởng đến hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào đó mang máy quay ngồi
trên thuyền thúng xuống tận cái hút sông Đà rồi từ đó lia ngược ống kính để
ghi lại cảnh tượng ghê sợ: một cái giếng như xanh toàn bằng thuỷ tinh như sắp
vỡ tan đổ ụp xuống cả người, cả máy quay phim. Con thuyền xoáy tít, những
thước phim màu cũng quay tít. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người
đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.
Sự hung bạo của sông Đà còn được miêu tả qua những cái thác nước. Nhà văn
hướng người đọc chú ý vào âm thanh của chúng và miêu tả lần lượt theo trình
tự từ xa đến gần. “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng tâm địa và diện mạo
thứ “kẻ thù số một của con người” đã dần hiện ra. Chúng vẳng tới bằng âm
thanh “réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Tiếng thác nghe như là “oán trách”,
nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”. Cách kết hợp
khéo léo giữa so sánh và nhân hoá này đã khiến sông Đà hiện lên với một tâm
địa phức tạp. “Thế rồi nó rống lên”, âm thanh được phóng to hết cỡ giống như
đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại. Nguyễn Tuân còn so sánh
tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
Và để tăng thêm sự hung dữ của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút
của mình vào miêu tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi cảm
giác đá sông Đà nhiều vô kể. Những tảng Đá sông Đà đã được Nguyễn Tuân
thổi hồn vào đó với từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn
nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận
đồ bát quái trên sông Đà.
Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông hung bạo này chẳng khác gì kẻ thù
số một của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung bạo trôi qua, nó lại
hiện lên với cả vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin.
Từ trên máy bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Với việc so
sánh sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến dòng sông hiện lên
với cái vẻ kiều diễm của một người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ thấy chữ
“áng” hay được dùng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn
Tuân đã dùng để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà
giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.
Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước. Tác giả đã quan
sát dòng sông ở những không gian và thời gian khác nhau. Mùa xuân dòng
xanh ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sông chín đỏ như
da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng những
so sánh độc đáo sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đây ta cũng thấy
được sự hiểu biết sâu rộng cũng như khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.
Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn
chuồn bươm bướm sông Đà”. Câu văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo nên nhịp
văn hối hả, mau lẹ. Rồi khi nhìn từ trên thuyền xuống, sông Đà mang dáng vẻ
“lặng tờ”, tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng của dòng sông ẩn chứa trong đó là
một sức sống dạt dào. Nhà văn còn dùng những so sánh vô cùng gợi cảm khi
miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã sử dụng những khái
niệm trừu tượng để miêu tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà khiến sông Đà hiện ra
không chỉ là dòng không của không gian mà còn là dòng sông của thời gian.
Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gợi ra cái vẻ tĩnh lặng của sông Đà
và sự thanh thản trong tâm hồn con người. Giữa cái khung cảnh thơ mộng ấy
nhà văn nghe thấy một tiếng còi sương - tiếng còi xúp lê của một chuyến tàu
đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu, đó là âm thanh của một cuộc sống hiện đại, đủ đầy.
Có thể thấy những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo
nên một đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cảnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm hồn con người.
Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo của mình, Nguyễn
Tuân đã đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ
đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.
Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong
văn của Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác
phẩm một lần nữa khẳng định tài năng bậc thầy của Nguyễn Tuân trong việc sử
dụng ngôn từ vừa giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước mà
ông gửi gắm trong các tác phẩm của mình. Bài văn mẫu 9
“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của
Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu
hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi
này, tác giả đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào
hứng nhất của người nghệ sỹ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười
đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ
và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của
người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình,
dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đó vừa là
người anh hùng, vừa là người nghệ sỹ tài ba trong nghề của mình.
Trong các tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mạng tháng Tám
thì các nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt,
tài hoa nghệ sỹ. Hình ảnh ông lái đò cũng không phải là một ngoại lệ. Khi đọc
tác phẩm, ta sẽ ấn tượng ngay đầu tiên với ngoại hình của ông: “Tay ông lêu
nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một
cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh
sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó
trong sương mù…”. Sức vóc ông khỏe mạnh chẳng khác gì thanh niên trai
tráng mười tám đôi mươi: “Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt
trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun… ông giơ tay
lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai không lầm tưởng
mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”
Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của
một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người
đó. Chỉ có yêu quý nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai
sương dong duổi chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang
đậm dấu ấn nghề nghiệp như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của
Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “Hàm
lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên
chú đọc ta mới khám phá ra được nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.
Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái
đò còn ẩn chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo
nghề. Ông là một linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông
xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho
những chuyến thuyền then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện
qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy
mắt mà nhớ tỷ mỉ 73 con thác, như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng
nước của con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một
bản trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái dấu chấm
than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện,
người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền và đã nghỉ làm
nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như không hề
suy chuyển. Ông vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho
lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới
loang ra bờ sông Đà, cũng còn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung
ương vừa lên vừa xuống thăm dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho đến biên giới Trung Quốc”.
Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất
qua trận thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc
họa trong tương quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng
trải thôi thì chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có
lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn
Tuân đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả
những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống
của mình. Đây chính là dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng ông lái đò,
phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường chỉ được bộc lộ rõ nhất khi nhận vật
đối mặt với khó khăn, nguy hiểm. Giả sử đặt ông lái đò trong khung cảnh thi vị,
trữ tình của sông Đà thì hình tượng lại phát triển theo một hướng khác, trở
thành một nghệ sỹ đa tình lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước
Cách mạng. Còn ở đây, ông lái đò trở thành người anh hùng nghệ sỹ trong
thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm
chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã
hiện ra ngay diện mạo và tâm địa độc ác của kẻ thù số một, lực lượng đá hậu,
đá tương, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm tạo thành một lực lượng
hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm.
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba
trùng vi. Trùng vi một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng,
mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng
ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng
dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như
đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà
tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao đối phương, ông lái đò cũng chẳng run
tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt móc bệch. Ông
chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con
thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất
ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều cửa tử để
đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật
nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.
Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định nhử
thuyền vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của
thần sông, thần đá, không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy
cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà
phóng nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu
luyện. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả,
luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một ông lái đò và sáu tay trèo,
tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một
thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh
nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền trọc thủng cửa giữa. Thuyền vụt
qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên,
vừa tự động lái được. Thế là kết thúc.
Tác giả đã rất dày công khi miêu tả trận thủy chiến với con sông Đà của
ông lão lái đò. Một loại những hành động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng
thẳng, lái miết một đường, chọc thủng, xuyên nhanh,… Kết hợp với nhịp văn
gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp
lá cà một sống, một chết. Hơn nữa thư pháp nghệ thuật tương phản được sử
dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập:
một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con người nhỏ bé
nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu.
Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng
thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.
Với ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể
thao, võ thuật, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình
thường thành bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một
anh hùng, một nghệ sỹ lái đò trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa là
dũng sĩ, vừa là nghệ sỹ – tay lái ra hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người
lao động trong công cuộc xây dựng xã hôi chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào
trong truyện ngắn “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, tình nguyện lên Điện Biên xây
dựng nông thôn mới, không chỉ là tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi
hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy cũng lên đường”, mà cùng với họ, ông
lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người
lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.
Quả thật, vẻ đẹp "chất vàng mười đã qua thử lửa" trong tâm hồn của con
người Tây Bắc đã được Nguyễn Tuân dày công khám phá trên dòng Đà giang
khuất nẻo. Nếu như thiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “Kẻ thù
số một của con người”, thì cũng chính thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn là
nơi đã tôn vinh giá trị con người lao động. Quả thật sâu sắc khi nói “Thiên tùy
bút là bài ca về vẻ đẹp của con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội”. Tác phẩm sẽ mãi là bản trường ca hào hùng đi cùng năm tháng. Bài văn mẫu 10
Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại Việt
Nam. Những tác phẩm của ông viết bằng cái “ngông” và bằng tình yêu tha thiết.
“Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình
ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp
khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất
thành công khi xây dựng hình tượng sông Đà bằng chất liệu ngôn ngữ và tình cảm phong phú.
Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu
dàng đấy, rồi chốc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Có thể nói phải
thật tinh tế và khéo léo mới có thể nhận ra sự chuyển đổi của sông đà như vậy.
Sông đà hiện lên là dòng sông hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược,
không chảy theo khuôn khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông đà được tác
giả viết “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ
mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng
bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã
có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Chỉ với vài chi tiết phác họa con sông đà
hiện lên với nhiều phức tạp, khó khăn, nguy hiểm khôn lường. Tác giả đã diễn
tả cảm xúc khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang
mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà
ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mất vừa vụt tắt
điện”. Một lối so sánh độc đáo, đầy táo bạo và cũng không kém phần tinh tế.
Sông Đà đẹp, nhưng đẹp vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.
Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc bất ngờ hơn nữa
khi miêu tả sự hùng vĩ, hung dữ đó “quãng mặt ghềnh hát loong, dài hàng cây
số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”.
Sông Đà hiện lên như một kẻ bất chấp hết, có thể lấy đi tính mạng của những ai
vô tình đi qua đây. Thật táo bạo, mãnh liệt và mạnh mẽ.
Khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng thác réo, người đọc có cảm tưởng như
đang đứng trước sông đà hùng vĩ chiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng đó “Như là
oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét
với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Những câu văn với giọng điệu dồn dập, gay
cấn, đầy cảm xúc. Một cảnh tượng hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Một cách so
sánh, tuyệt vời, hiếm thấy trong văn học. Nguyễn Tuân thực sự là bậc thầy của
ngôn ngữ, ông thổi hồn vào những con chữ, khiến con chữ như biết nói, biết rung động.
Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành ba trận chiến, người lái đò muốn
vượt qua dòng chảy này thì phải vượt qua ba trận chiến hiểm trở, táo bạo này.
Với giọng văn dồn dập, tác giả kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái
đò. Trận thứ nhất “mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách…” Sang đến trận thứ hai
“tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch
qua bên phía bờ hữu ngạn”. Sang đến trận thứ ba dường như ít cửa hơn nhưng
lại quyết liệt và mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên không khác nào một con thủy
quái đang đòi nuốt chửng người lái đò và chiếc thuyền bất cứ lúc nào có thể.
Con sống chính là “kẻ thù số một” của người lái đò, với tất cả đặc tính nham hiểm, thâm độc nhất.
Tuy nhiên bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sông Đà còn
hiện lên thật nên thơ và trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế của
Nguyễn Tuân “sông đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời tây bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn
mù khói mèo đốt nương xuân”. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh, một hình ảnh tuyệt
đẹp hiện lên giữa rừng núi hiểm trở Tây bắc. Đặc biệt khi tác giả miêu tả nước
của dòng sông mới thật tuyệt vời và thi vị biết bao “Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, chứ nước sông đà không xanh màu canh hến của sông Gâm sông lô. Mùa
thu nước sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu, lừ lừ cái
màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Những từ ngữ
mượt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm có của một dòng sông tưởng chừng
chỉ có giận dỗi và hung dữ.
Sông Đà có những lúc buồn mênh mang và hoang sơ đến lạ kỳ “Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích xưa”.
Thật là một vẻ đẹp nhẹ nhàng, chân chất và tươi mới biết bao nhiêu. Bài văn mẫu 11
Người lái đò Sông Đà là kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà
văn, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 bài tùy bút
của Nguyễn Tuân in trong tập Sông Đà xuất bản năm 1960. Lần xuất bản đầu
tiên, bài này có tên là Sông Đà, năm 1982 khi cho in lại trong tập 2 bộ Tuyển
tập Nguyễn Tuân, tác giả có sửa đổi tên bài thành Người lái đò Sông Đà.
Viết về sông Đà, Nguyễn Tuân có nhiều phát hiện. Hai nét tiêu biểu nhất
của sông Đà là hung bạo và trữ tình. Để làm nổi bật tính chất hung bạo và trữ
tình của con sông, tác giả đã vận dụng kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật.
Trước hết phải kể đến biện pháp nghệ thuật nhân hóa. Đá trên thác sông
Đà mai phục, hung dữ bày thạch trận để tiêu diệt bất cứ con thuyền nào dám
vượt thác. Nước cũng vậy, chúng thở, kêu rống lên. Nước cũng vào hùa với đá
để đánh những miếng đòn “hiểm độc nhất”. Nguyễn Tuân còn sử dụng thủ
pháp so sánh, tưởng tượng, huy động vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, địa lí,
quân sự, điện ảnh,… để miêu tả sông Đà.
Hình tượng người lái đò sông Đà là một người lao động, nhưng là nghệ sĩ
trong lao động, hơn nữa là một dũng tướng trong cuộc thủy chiến thường
xuyên với thác nước sông Đà. Đó là một con người bình thường, hiền lành với
những nét phác họa: “cái đầu bạc… cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân
hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun”, “tay ông lêu nghêu như
một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại…”. Đó là một con
người dũng cảm, say mê sông nước, say mê những cảm giác mạnh. Ông luôn
bình tĩnh, ung dung đối đầu với những khó khăn nguy hiểm. Ông khôn ngoan
vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa con thuyền về đích an toàn. Khi
chở đò, ông là nghệ sĩ, là dũng tướng tài ba. Kết thúc công việc, ông lại là một
người bình thường, làm công việc bình thường là chở đò trên sông.
Đặc điểm nổi bật của tùy bút Nguyễn Tuân là uyên bác và tài hoa. Để nói
về con sông Đà, Nguyễn Tuân dẫn thơ cổ, dẫn thơ Lý Bạch, thơ B-rô-ni-ép-xki
(Ba Lan). Ông vận dụng kiến thức lịch sử, địa lý, hội họa, điện ảnh, quân sự,
thể thao để viết về con sông hung dữ và thơ mộng. Ông luôn có cảm hứng đặc
biệt trước những hiện tượng phi thường, gây cảm giác mạnh. Bao giờ ông cũng
say mê khám phá và thưởng thức cái đẹp. Vẻ đẹp hung dữ và thơ mộng của
sông Đà, vẻ đẹp của ông lái đò bình dị nhưng khi vượt thác thì như một viên
tướng tài ba, điêu luyện đã đem cảm hứng sáng tạo cho Nguyễn Tuân. Đúng là
nhà văn nhìn cảnh vật và con người thiên về phương diện mĩ thuật và tài hoa. Bài văn mẫu 12
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một cây bút có vai trò to lớn trong nền
văn học Việt Nam hiện đại, một nghệ sĩ có khái niệm thẩm mỹ khác biệt và
suốt đời đi tìm cái đẹp. Một trong những tác phẩm tùy bút xuất sắc của ông
chính là Người lái đò sông Đà được in trong tập Sông Đà (1960) trong chuyến
đi thực tế tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Tác phẩm cho ta thấy một
Nguyễn Tuân với diện mạo mới mẻ, khát khao hòa nhập vào đất trời thiên
nhiên, thể hiện tình yêu đất nước và cuộc đời. Nguyễn Tuân muốn qua hình
ảnh con sông Đà dữ dằn, hung bạo mà trữ tình, thơ mộng, người lái đò bình dị,
giản đơn mà trí dũng tài hoa để ca ngợi vẻ đẹp của thiên và con người Tây Bắc
của Tổ quốc. Bài thơ cũng chất chứa trọn vẹn phong cách thơ tài hoa, uyên bác
rất độc đáo của Nguyễn Tuân.
Hai hình tượng chính đi xuyên suốt tác phẩm là hình tượng sông Đà và
hình tượng người lái đò. Một là thiên nhiên và một là con người tưởng chừng
như chẳng hợp ấy vậy mà là tạo nên vẻ đẹp đến bất ngờ. Trước nhất là hình
tượng sông Đà, không phải là vật vô tri vô giác mà là rất có hồn, rất có cá tính,
dòng sông này được Nguyễn Tuân miêu tả như một nhân vật có hai tính cách
trái ngược vừa hung bạo dữ dằn vừa trữ tình thơ mộng
Mà biểu tượng về sức mạnh và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc lại
là cái sự hung bạo, dữ dằn kia. Đá vô cùng hiểm trở, đá dựng vách thành, chẹt
lòng sông như cái yết hầu làm cho mặt sông chỗ ấy vừa hẹp, vừa tối lại vừa rất
lạnh chỉ vì đúng ngọ mới có mặt trời. Cả một trời đá, mặt hòn nào trông cũng
ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó đá mai phục dưới lòng sông hàng ngàn năm
được nhân hóa, nổi hình nổi tướng bệ vệ, oai phong lẫm liệt, nhổm dậy, vồ lấy
thuyền,… khung cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ, chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ
hãi, lạnh lẽo và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên dù là mùa hè oi bức, nóng nảy.
Sóng, nước cuồng nộ. Quãng mặt ghềnh Hát Loóng, nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió… kéo dài hàng cây số cuồn cuộn… như thể đòi nợ xuýt
người lái đò nào đi qua quãng ấy. Điệp cấu trúc nối tiếp nhau kết hợp động từ
mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần như nhấn mạnh sức mạnh của thiên nhiên rất
khủng khiếp và đầy lạnh lẽo. Những hút nước ghê rợn giống như cái giếng bê
tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu… Nước ở đây thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào.
Nghệ thuật nhân hóa và so sánh khiến hình ảnh trở nên sinh động và tính hấp
dẫn hơn diễn tả những chiếc thuyền bị hút xuống, hút thành trồng ngược cây
chuối, bị dày vò hành xác mà vụt biến đi, đến mươi phút sau mới thấy cái xác
tan tành ở khuỷnh sông dưới.
Thác như đang giận dữ mà gầm rống dữ tợn. Tác giả miêu tả con sông với
từ ngữ có tính gợi cảm, âm thanh tiếng thác từ xa nghe như van xin, oán trách,
rồi như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Âm thanh đến gần được ví như
những con trâu rống lên lồng lộn… ghê rợn và khủng khiếp. Sông Đà đặc biệt
hung bạo khi những yếu tố trên kết hợp với nhau tạo ra những thạch trận,
phòng tuyến với nhiều cửa tử, nhiều chiến thuật đánh khác nhau, nhiều đón
đánh thâm hiểm, Nó như một loài thủy quái khổng lồ, nham hiểm mang diện
mạo và tâm địa như một thứ kẻ thù số một của con người.
Sông Đà chỉ thực sự trữ tình thơ mộng khi chảy qua chợ Bờ và để lại
những hòn thác xa xôi trên thượng nguồn. Tuôn dài như một áng tóc … ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc…, tưởng chừng dòng chảy của sông Đà như mái tóc
của người thiếu nữ, là thiếu nữ Tây Bắc dưới bầu trời Tây Bắc. Màu nước sông
Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa lại có một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân thì nước có
màu xanh ngọc bích, mỗi độ thu về nó lại chín đỏ như da mặt một người bầm
đi vì rượu bữa… Sông Đà có vẻ đẹp rất gợi cảm, thân thiết như người tình, khi
gặp lại dòng sông như gặp lại cố nhân mà cảm thấy mừng vui, xa thì lại nhớ
nhung và dòng sông gợi vẻ đẹp của một ánh thơ Đường bởi màu nắng tháng
ba… yên hoa tam quyệt. Cảnh vật hai bờ sông vừa hoang sơ nhuốm màu cổ
tích trong những câu chuyện hoàng tử công chúa của những đứa trẻ thơ lại vừa
trù phú, tràn trề nhựa sống, tự do, tự tại của một chế độ mới. Qua hình tượng
sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên đất
nước. Với ông thiên nhiên cũng là tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa.
Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ cách nhìn khác biệt
của bản thân: hài hoa, uyên bác và lịch lãm. Sông Đà là một phông nền nổi bật
đầy, đẹp đẽ nhưng không hề làm lu mờ đi mà còn làm bật lên vẻ đẹp người lao
động trong chế độ mới.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra đoạn văn tràn đầy không khí trận mạc, tưởng
tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt của ông lái đò với bầy thủy quái sông Đà, để từ
đó làm nổi bật hình ảnh người lái đò, một người lao động mới mang vẻ đẹp
khác thường. Ông như một vị tướng chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí: biết
bọn đá mai phục và bày thạch trận… Ông nắm chắc binh pháp của thần sông
thần đá, thuộc quy luật phục kích của chúng nên linh hoạt thay đổi chiến thuật
để lần lượt vượt qua từng phòng tuyến kẻ thù. Người lái đò là người từng trải,
giàu kinh nghiệm hiểu biết sâu sắc về luồn lách sông Đà và cũng dũng cảm đối
đầu trong cuộc chiến không cân sức với sông Đà. Sông Đà là thiên nhiên lớn
lao, dữ dội và hiểm độc với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh có sóng
nước hò reo quyết vật ngửa mình thuyền, có đá ngàn năm mai phục, bày thạch
trận trên sông, thác gầm rống, reo hò làm thanh viện cho đó, sóng nước như thể
quân liều mạng đánh những đòn hiểm độc… Ông đò chỉ là một con người bé
nhỏ, không có phép màu, vũ khí chỉ là chiếc cán chèo thô sơ trên một cái
thuyền đơn độc hết chỗ lùi, nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh
phục mọi cửa tử, cửa sinh, vượt qua trận thủy chiến đầy ác liệt với đá nổi đá
chìm với những trùng vi thạch trận và những phòng tuyến đầy nguy hiểm để
chiến thắng thiên nhiên. Hình tượng người lái đò lúc này là một người lao động trí dũng.
Người nghệ sĩ tài hoa là hình tượng của người lái đò được hiện lên tiếp
theo. Để vượt thác, tâm tình phải thực sự bình tĩnh, chỉ một chút thiếu chính
hay lơ là thì phải trả giá bằng chính tính mạng của mình. Ấy vậy mà, ông lái đò
đã đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung của người nghệ
sĩ; đã bình tĩnh vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan. Với “tay lái hoa” ông
đã điều khiển con thuyền vượt qua ba trùng vi thạch trận sông Đà. Sông Đà ở
trùng vi thạch trận thứ nhất có năm cửa trận, trong đó có tận bốn cửa tử và
nhưng chỉ có một cửa sinh nằm lập lờ chẳng rõ phía tả ngạn. Bọn đá đứa thì hất
hàm, đứa thì thách thức, khiêu chiến, nước thác hò reo làm thanh viện cho đá,
mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chè, sóng nước đá trái, thúc gối vào bụng vào
hông thuyền, đánh những đòn hiểm độc vào ông lái đò. Ông lái đò đã bị thương
những vẫn cố nén chịu nỗi đau thể xác, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt
méo bệch nhưng tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn, tỉnh táo đưa thuyền vượt qua khỏi
nguy hiểm. Ở trùng vi thạch trận thứ hai, cửa tử lại tăng thêm nhưng cửa sinh
vẫn chỉ có một mà nằm ở phía hữu ngạn. Dòng thác thì hồng hộc tế lên như
hùm beo hòng nuốt xuống con thuyền. Ông lão chủ động đổi chiến thuật: nắm
lấy bờm sóng… cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ. Bọn đá xô ra, định lôi con
thuyền vào tập đoàn cửa tử, nhưng ông nhớ mặt bọn này, chỗ thì ông bơi, chỗ
đè rồi sấn tới, chỗ chặt đôi ra để mở đường tiến. Bọn đá chỉ còn biết thất vọng,
tiu nghiu cái mặt xanh lè nhìn ông lão đưa con thuyền lọt vào cửa sinh an toàn.
Ở trùng vi thạch trận thứ ba, sông Đà bên phải, bên trái đều là luồng chết,
luồng sống duy nhất nằm giữa lòng sông do bọn đá hậu vệ trấn giữ. Ông lái
kiên cường không mảy may lơ là, quyết đoán giữ vững tinh thần, như hòa với
con thuyền làm một, phóng thẳng đến cửa sinh an toàn, vượt qua mọi vòng vây .
Thế là hết. Thánh thần thiên nhiên cuối cùng cũng không ngăn được sự tiến lên
của con người, sự hung bạo của dòng sông cũng không ngăn được chiếc thuyền
độc mộc và ông lão. Sự ngoan cường, sự quyết tâm cùng sự dũng cảm chính là
yếu tố quyết định cho sự chiến thắng và đặc biệt là kinh nghiệm vùng sông nước của ông lái đò.
Sau khi đọ trí, thi tài với con sông, vượt qua ba trùng vi thạch trận đầy khó
khăn, nguy hiểm, ông lại ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam
và say sưa nói về các loài cá mà không hề bàn thêm một lời nào về chuyện
vượt thác. Dường như chuyện vượt qua thác nước chẳng động lại trong ông
một cái gì gọi là sợ hãi hay lo lắng, ổng vẫn cứ mặc đời kệ người mà lạc quan,
thư thái thật giản dị, lãng mạn. Nguyễn Tuân tìm thấy một hình ảnh của một
con người mới, con người đáng được ca ngợi, trân trọng mà không phải là anh
hùng đánh giặc trận mà chỉ là một con người lao động bình thường – con người Tây Bắc.
Chỉ là một người lái đò và một thác nước, Nguyễn Tuân lại viết nên như
thể là một thước phim hành động điện ảnh cận cảnh. Hồi hộp có, kịch tính có,
kích thích có, vỡ oà có, âm thanh đặc sắc, hành động đẹp mắt. Để viết được
như vậy phải có trí tưởng tượng thật phong phú, một cách nhìn khác biệt, có
cảm nhận đa chiều… cũng đủ thấy Nguyễn Tuân có vốn tri thức rộng lớn thế
nào, suy nghĩ độc đáo thế nào và một nghệ sĩ tài hoa như thế nào. Qua đây, nhà
văn còn muốn phát biểu quan niệm, người anh hùng không chỉ có trong chiến
đấu mà con có trong cuộc sống lao động thường ngày, ví dụ như người lái đò kia. Bài văn mẫu 13
Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học
Việt Nam hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con
người, của cuộc sống với tư tưởng, tình cảm gắn bó quê hương. Nguyễn Tuân
được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc
đáo của ông. "Người lái đò Sông Đà", đó là một bài tùy bút, cũng là một bài
thơ bằng văn xuôi thể hiện rõ nhất những nét tiêu biểu về phong cách đó.
"Người lái đò sông Đà" trước hết là một tác phẩm viết về một con người
và con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông thì mọi
cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở
thành những nghệ sĩ điêu luyện của mình.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô
cùng phong phú và chuẩn xác của Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh
hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút rất độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến trong tác phẩm là
một ông già 70 tuổi đã dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc sông
Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông
ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần...” trong thời gian
hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò,
và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng
đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân
tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này: “Sông Đà, với
ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những
dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách so
sánh “rất văn chương” đầy thú vị và cũng “rất là Nguyễn Tuân”.
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân
hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mùn” và những cánh tay vẫn là cánh
tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ
“vàng mười”. Ồng đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực
của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai
phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở
quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt
sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: "... hai tay giữ
mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò
la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay
mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả
thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa
mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò
bị nhấn chìm dưới dòng sông... Các miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy
sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ đối với con người, chỉ cần lóa mắt,
lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng chỉ dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ
của người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã
so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy
hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn
như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ
không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp,
chứ không có lùi gì cả...” vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những
hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có
một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó
riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả
một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”.
“Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có những “hút nước" xoáy sâu
như lòng giếng “cái hút nó lút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”...
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế
nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống
lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền
sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn
Tuân nhắm đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người,
ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to
gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm
lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con
người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “thế là hết thác. Dòng sông
vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (...). Sông nước lại thanh bình. Đêm
ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...”
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực,
tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về
lao động, về con người lao động.
Sau mười năm làm nghề lái đò, kể cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm,
trên ngực người lái đò vẫn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân,
đó cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng”.