Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà hay nhất - Ngữ Văn 12
Xin gửi tới quý thày cô và bạn đọc bài văn mẫu "Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà". Đây là tài liệu không thể thiếu đối với các bạn học sinh chuẩn bị thi cuối học kì 2 lớp 12 và thi THPT Quốc gia môn NGỮ VĂN. Hy vọng tài liệu trên giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà Ngữ văn 12
Dàn ý Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà I. Mở bài
- Tác giả Nguyễn Tuân: có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính,
một nhà văn tài hoa uyên bác, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ.
- Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, với nội dung ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc. II. Thân bài 1. Lời đề từ
- Lời đề từ “Đẹp vậy thay ...”: thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của
dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, thấy được cảm hứng chủ đạo là ngợi ca.
- Lời đề từ tiếp: “Chúng thủy ...”: thể hiện cá tính độc đáo của của con sông Đà.
2. Hình tượng dòng sông Đà
a. Dòng sông “hung bạo”
- “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách
thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”.
- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn
độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.
- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”,
chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”.
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “oán trách”, “van
xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng
bùng” (lấy lửa tả nước).
+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “”hất hàm”, “oai phong”, có
những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh
khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.
+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:
- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng
thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người.
b. Sông Đà trữ tình
- Từ trên cao nhìn xuống như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”,
mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ.
- Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, có ánh
sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, ...
- Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”, ...
3. Hình tượng người lái đò sông Đà
- Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao - người anh hùng trong quan niệm của
Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.
- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu
nghêu ... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.
- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.. - Tài năng và tâm hồn:
+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà
ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, ...
+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ
“nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo ...”, “nắm chắc binh pháp của
thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng,
phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...”
+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích
lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. III. Kết bài
- Tổng kết nghệ thuật đặc sắc: ngôn ngữ điêu luyện, tưởng tượng độc đáo, vận
dụng tri thức nhiều ngành nghệ thuật, xây dựng thành công hình tượng sông Đà và ông lái đò.
- Khái quát nội dung: tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động, vẻ đẹp thiên nhiên đất nước.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 1
Tác phẩm Người lái đò sông Đà là bút ký đầy sáng tạo, tiêu biểu cho phong
cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám: Uyên bác, tài hoa,
không quản gian lao vất vả đ có được những dòng bút ký, đậm cảm giác chân
thực, sức liên tưởng phong phú đem đến cho người đọc người nghe cảm nhận
về một tâm hồn khao khát hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước của cuộc đời.
Tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình ngược miền Tây Bắc giai đoạn năm
1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả, được in lần đầu trong tập Sông
Đà (1960). Sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các triền núi, dòng nước chảy
xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm đó đã tạo cho Đà giang một vẻ đẹp kỳ thú,
rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo mà trữ tình đã làm nổi
bật lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của ông lái đò ông lái đò trên dòng Đà giang.
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những
thành tựu to lớn trong cả hai thời kỳ trước và sau năm 1945. Trước 1945, ông
có tập “Vang bóng một thời” gồm mười một truyện rất đặc sắc, có giá trị vô
cùng to lớn. Hoà chung với không khí thời đại trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ của dân tộc, phong cách Nguyễn Tuân vẫn luôn giữ được nét sáng
tạo, riêng biệt. Ông là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở
bình diện văn hoá và thẩm mỹ. Nguyễn Tuân miêu tả con người trong vẻ đẹp
tài hoa nghệ sĩ. Thiên nhiên hiện lên trong văn chương của ông cũng trở thành
những công trình nghệ thuật kỳ vĩ, độc đáo. Người lái đò sông Đà là đoạn trích
được rút ra từ tập tuỳ bút Sông Đà được ông viết năm 1960, trong một chuyến
đi gian nan nhưng đầy hứng khởi về miền Tây Bắc hiểm trở. Chuyến đi thoả
mãn cái khát khao “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi ấy ông đã không
quên tìm kiếm “chất vàng” của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, rất hiểm trở nguy
hiểm nhưng cũng mang vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng say đắm lòng người. Vẻ đẹp
của con người nơi đây được ông ví như “chất vàng mười đã qua thử lửa” họ là
người dân lao động có trí tuệ, có lòng dũng cảm và sức mạnh chế ngự thiên nhiên.
Hai hình tượng bao trùm, xuyên suốt tác phẩm là hình tượng con sông Đà và
hình tượng người lái đò trên dòng sông quanh năm dữ tợn thách thức với con
người. Với ngòi bút tài hoa của mình ông đã tạo nên hình tượng Đà giang mang
hai sắc thái, hai bình diện tương phản vừa hùng vĩ, hung bạo những cũng cũng
không kém phần trữ tình, thơ mộng.
Nguyễn Tuân dẫn dụ người đọc cuốn theo cảm giác vừa sợ hãi tột cùng vừa
như đam mê, thích thú. Bằng sức tưởng tưởng phong phú của mình, lối hành
văn nhạy bén độc đáo của mình con sông Đà hung bạo hiện lên trong lòng
người đọc với niềm đam mê hãi hùng và thích thú vô cùng. Cái hung bạo được
nhà văn miêu tả mở đầu bằng cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, nghệ thuật
ẩn dụ những khối đá bờ sông được Nguyễn Tuân ví như những thành trì kiên
cố, vũng chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe doạ trực chờ. Nhà văn miêu tả,
mặt sông lúc ấy “đúng ngọ” mới có mặt trời, có vách đá “chẹt lòng sông như
một cái yết hầu”, có quãng tưởng như con hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ
kia. Các liên tưởng tưởng chừng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại chứa
đựng đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỗ sông phải đến tận giữa trưa, khi
mặt trời lên cao nhất mới có ánh nắng chiếu vào, động từ mạnh “chẹt” rất biểu
cảm xen lẫn với nghệ thuật so sánh “như một cái yết hầu”, hai bên bờ con hươu
con nai có thể nhảy qua được. Những hình ảnh độc đáo được tác giả khéo léo
lồng vào, đã tạo cho người đọc được độ cao của vách đá, độ hẹp của lòng sông.
Ngồi trong khoang thuyền đi qua khúc sông ấy “mùa hè cũng thấy lạnh”, tác
giả miêu tả thông qua cảm giác, mùa hè nóng nực oi bức nhưng khi qua đây,
chính cái khung cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ, chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ
hãi và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên.
Cảnh hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát Loóng. Hàng
ngàn cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Một loạt thanh sắc xuất
hiện tạo cho ta cảm giác sóng gió ngày càng mạnh mẽ và cao dần. Nghệ thuật
điệp từ, điệp cấu trúc nối tiếp nhau, động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần.
Sức mạnh của thiên nhiên rất khủng khiếp, rất lạnh lùng, nó “gùn ghè”, hầm hè
như một con thú hoang hung dữ, lì lợm, sẵn sàng thách thức với con người nơi đây.
Những cái “hút nước” khủng lồ trên quãng sông Tà Mường Vát. Xoáy nước
“như những cái giếng bê-tông” được thả xuống làm móng cầu, nước ở đây “thở
và kêu như một cái cống bị sặc”. Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của
Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết.
Khúc sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần,
nếu không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.
Hình tượng hung bạo, dữ dội của con sông được tác giả khắc hoạ rõ nét nhất
chính là ở khúc thác sông Đà. Tác giả miêu tả con sông bằng những hình ảnh
hết sức biểu cảm, bằng những âm thanh dữ dội nhiều sắc thái, còn xa lắm mới
tới thác mà đã nghe thấy tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”, tiếng nước
nghe như “oán trách”, như “van xin”, như là “khiêu khích”, nó rống lên từng
hồi ghê rợn như tiếng của “một ngàn con trâu mộng” gầm thét, vật lộn trong
lúc rừng cháy, ngọn lửa đỏ rực bốc lên ngùn ngụt.
Những hòn đá sông Đà nhiều vô kể, tất cả chúng hợp lại thành cả một “chân
trời đá” rộng lớn. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ khác nhau, nhưng hòn hòn
nấy mặt trông cũng rất “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, ở đây tác giả
dùng nhiều tính từ chỉ con người để miêu tả qua đó người đọc cảm nhận được
sự dữ tợn, sự bất cần, bướng bỉnh của hòn đá, chúng như những vật thể sống và
là đứa con của mẹ thiên nhiên tạo ra. Sông Đà dường như đã giao nhiệm vụ cho
từng hòn đá để bày ra “thạch trận” tuyên chiến, thách thức với con người. Vòng
thứ nhất “thạch trận” có năm cửa trận, có “bốn cửa tử”, “một cửa sinh” nằm lập
lờ nơi tả ngạn con sông. Vòng thứ hai, thác sông Đà đã bộc lộ vẻ gian manh cái
sự háo thắng của nó, lần này có bày ra nhiều cửa tử hơn để đánh lạc hướng con
thuyền đi vào chỗ chết, một cửa sinh được bố trí lệch về phía hữa ngạn. Vòng
thứ ba, vòng quyết định thắng thua cuối cùng, thác sông Đà bày ít cửa hơn
nhưng trái phải đều là “luồng chết”, cửa sống duy nhất lại nằm ngay giữa bọn
đá hậu vệ đang canh gác. Qua phong cách miêu tả độc đáo, sinh động, giàu
tưởng tượng của Nguyễn Tuân con sông Đà hiện lên thật hung bão, dữ tợn, nó
như một “loài thuỷ quái khổng lồ” tâm địa vừa độc ác, vừa nguy hiểm, là kẻ
thù số một của con người trong cuộc chiến không cân sức.
Tuy nhiên cũng có lúc con sông Đà trở về với vẻ dịu dàng, trữ tình thơ mộng
của nó. Vẻ đẹp Đà giang được miêu tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều góc cạnh,
không gian và thời gian khác nhau. Từ trên cao nhìn xuống, con sông Đà uốn
lượn, mềm mại như áng tóc của người con gái Tây Bắc kiều diễm, xinh đẹp.
Dòng sông Đà được nhà văn bằng những hình ảnh rất biểu cảm, gây ấn tượng
sâu sắc, “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo
đốt nương xuân”. Màu nước sông Đà biến đổi theo từng mùa khác nhau, mỗi
mùa mang một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt: Mùa xuân dòng sông “xanh ngọc
bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Con sông như người thiếu nữ xinh đẹp, mơ
mộng đang tuổi xuân thì tràn đầy niềm kiêu hãnh nên tính cách đôi phần khó
hiểu, thay đổi thất thường.
Sông Đà dịu dàng “như một cố nhân”, cảnh sắc bên bờ thật êm đềm tươi đẹp.
Sau chuyến đi dài ngày, ông nhìn ngắm sông Đà thật gợi cảm, thơ mộng như
“màu nắng tháng ba Đường thi”, bờ sông đầy những chuồn chuồn bươm bướm.
Người cố nhân ấy giờ đây yên ả lạ thường như đang lặng nghe âm thanh của
thời gian, thưởng thức cảnh sắc hai bên bờ sông. Bờ sông Đà hoang sơ như
nhuộm màu cổ tích vừa trù phú tràn trề nhựa sống của phù sa bồi đắp. Những
nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, ngọn cỏ “đang ra những nõn
búp”, xa xa là vài con hươu nhai cỏ. Sông Đà lúc này như bờ tiền sử mang bên
mình những nỗi niềm cổ tích xa xưa, hoài niệm.
Dòng sông Đà được tác giả khắc hoạ rất rõ nét bằng nhiều vận dụng nghệ thuật
độc đáo: So sánh, ẩn dụ, nhân hoá, động từ mạnh…, cùng khả năng liên tưởng,
sáng tạo mới mẻ, ông đã viết lên những câu văn thật giàu nhịp điệu, sống động.
Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, Đà giang không còn là một con sông
vô tri mà nó là một sinh thể có suy nghĩ, có tâm hồn.
Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân làm sao có thể thiếu đi bóng dáng con người.
Thiên nhiên càng rộng lớn, hùng vĩ, dữ dội bao nhiêu thì càng làm nổi bật lên
vẻ đẹp trí tuệ tài hoa của con người lao động. Trong bài văn, tác giả đã sáng tạo
ra hình tượng “ông lái đò” đây là hình ảnh biểu trưng cho người lao động cần
cù chăm chỉ nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, cam đảm khi sẵn sàng đối
đầu với thiên nhiên hung tợn trong một cuộc chiến không cân sức. Con sông
Đà bỗng chốc trở thành kẻ thù số một, người lái đò thật nhỏ bé giữa thiên nhiên.
Tuy nhiên họ vẫn bộc lộ được sự mưu trí, tài hoa nghệ sĩ của mình.
Phẩm chất anh dũng, tài hoa, trí tuệ của người lái đò được thể hiện qua cảnh
vượt thác sông đà. Tại đây, con sông mưu mô, xảo quyệt bày ra một “thạch
trận” với ba vòng thách đấu như muốn tiêu diệt những con thuyền đi qua.
Những người anh hùng vẫn không chút sợ hãi, vẫn rất điềm tĩnh bằng trí tuệ
của mình ông lái đò đã lần lượt chinh phục từng cửa ải. Vòng thứ nhất, với năm
cửa trận, bốn cửa từ, chỉ có một cửa sinh duy nhất nằm lập lờ bên bờ tả ngạn.
Thuyền vừa tới, “phối hợp với đá, nước reo hò làm thanh viện cho đá” những
hòn đá ngỗ nghịch, bệ vệ. Có hòn đá nhìn nghiêng thì như “hất hàm” đòi cái
thuyền phải “xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, có hòn thì như thách thức ông
đò “có giỏi thì tiến vào đây”. Ông đò không chút nao núng tay vẫn “giữ lấy mái
chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặt nước hò reo vang dội, ùa vào như bẻ gãy cán
thuyền, sóng nước như “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và
hông thuyền”. Nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa người lái đò ra. Sóng
nước đánh đến món đòn “hiểm độc nhất”, luồng nước ấy bóp chặt lấy hạ bộ
ông đò. Ông đò đã bị thương “mặt méo bệch đi” nhưng không hề đầu hàng
trước kẻ thù, ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái”, tiếng
chỉ huy của ông vẫn vang lên ngắn gọn, tỉnh táo. Vậy là phá xong cái “trùng vi
thạch trận thứ nhất”.
Không cần nghỉ tay, nghỉ mắt một phút giây nào phải phá luôn vòng vây thứ
hai, lần này ông đò đã đổi chiến thuật. Ông đò đã nắm chắc “binh phát của thần
sông Đà”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Con
sông Đà đã lộc rõ sự gian trá, độc ác của mình khi lần này nó bày ra nhiều cửa
tử hơn, cửa sinh nằm lệch sang một phía hữu ngạn con sông. Tác giả sử dụng
nghệ thuật so sánh cưỡi lên con sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Nắm được cái bờm sóng đúng luồn rồi, không phút nao núng, ông đò “ghì cặt
cương lái”, bám chặt lấy luồng nước cố sức phóng nhanh vào phía cửa sinh,
“lái miết một đường chéo về phía cửa ấy”, bỏ lại sau lưng những cửa tử và
những hòn đá vẫn “không ngừng khiêu khích”.
Trùng vây thạch trận cuối rồi, lần này ít cửa ải hơn, “bên phải bên trái đều là
luồng chết”, luồng sinh nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Con sông
Đà dường như chưa từ bỏ tham vọng của nó, sự hiếu thắng, nó muốn nuốt trọn
con thuyền trong lần giao chiến quyết định cuối cùng này. Nhưng người lái đò
bao lần vượt thác ghềnh, ông đã tích luỹ biết bao kinh nghiệm, ông cho thuyền
phóng thẳng “cứ thế chọc thủng cửa giữa đó”, thuyền như một mũi tên tre nhọn
hoắt, cứ thế lao nhanh “vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Cuối cùng
bằng sự gan dạ, tài trí, kinh nghiệm của mình ông đò đã vượt hết dòng thác một
cách an toàn, giành chiến thắng trong cuộc chiến không khoan nhượng với kẻ thù hung bạo.
Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò sông Đà bằng nhiều
nghệ thuật đặc sắc. Tác giả sử dụng từ ngữ của nhiều lĩnh vực: Binh pháp, võ
thuật, thể thao, âm nhạc…, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá cùng với nhịp
điệu câu văn hài hoà sinh động. Ông đã khắc hoạ thành công hình ảnh người lái
đò sông Đà trí tuệ, tài hoa và bản lĩnh, qua đó ca ngợi con người lao động Tây
Bắc mang vẻ đẹp và những phẩm chất cao quý.
Đoạn trích người lái đò Sông Đà của Nguyên Tuân là một bài tuỳ bút có giá trị
vô cùng to lớn, tác giả đã thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng,
khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên cùng với con người miền Tây bắc
xa xôi. Đồng thời thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng, sự gắn bó tha thiết,
sâu nặng của Nguyễn Tuân đối với quê hương, đất nước, con người Việt Nam.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 2
Tây Bắc là một mảnh đất có nhiều duyên nợ với nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi
nhà văn, nhà thơ lại tái hiện và khắc họa hình ảnh Tây Bắc ở những góc độ
khác nhau. Trong đó, Nguyễn Tuân đã khám phá được vẻ đẹp thiên nhiên nơi
đây, nhận thấy được “chất vàng 10” trong tâm hồn con người nơi đây. Tùy bút
“Người lái đò sông Đà” chính là món quà đầy ý nghĩa mà ông dành cho mảnh đất Tây Bắc.
Qua tài năng của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên không còn là một con
sông vô tri vô giác nữa mà trở thành một sinh thể có hồn, một nhân vật có tính
cách, tâm trạng và là tuyệt mĩ của tạo hóa.
Trước hết, con sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo đáng sợ. Đá bờ sông
“dựng vách thành”, “có chỗ vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”,
“ngồi trong khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Bờ sông Đà
thật hùng vĩ, hiểm trở, lòng sông hẹp kéo theo dòng nước chảy xiết. Những
ghềnh sóng hiện lên với sự dữ dội, hung hãn “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió”. Tác giả sử dụng câu văn có sự trùng điệp nhịp văn ngắn để diễn tả sự
hung dữ của ghềnh sông. Nó giống như một mụ phù thủy quái ác “gùn ghè suốt
năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào qua quãng ấy”. Đáng
sợ hơn là những cái hút nước của sông Đà. Những hút nước này có độ xoáy rất
sâu và lớn như cái giếng bê tông thả xuống sông để làm móng cầu “xoáy tít
đáy”. Nơi đây tiềm ẩn sự nguy hiểm và là nơi trú ngụ của tử thần. Có những
chiếc thuyền bị lôi xuống, ”thuyền đi ngâm dưới lòng sông đến mươi phút sau
mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”. Tác giả đã sử dụng những tri thức điện
ảnh để đem đến cho người đọc sự hình dung rõ hơn về những cái hút nước.
Sự hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở thác nước và trận địa danh của
Đà giang. Thác nước ở đây nó thật khủng khiếp “nó rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa…. da
cháy bùng bùng”. Câu vă của Nguyễn Tuân đã tác động mạnh mẽ vào thị giác
và thính giác của người đọc, lột tả sự giận dữ, ghê gớm của những con thác ở
sông Đà. Tác giả tiếp tục chi tiết của những trận địa con sông Đà. Đặc biệt là
cuộc chiến với ông lái đò. Đà giang hiện lên không khác gì một con thủy quái
dữ tợn và khát máu. Nó đưa ra mọi thủ đoạn sử dụng mọi chiêu thức sử dụng
mọi đòn đánh để hạ gục ông lái đò. Thông qua sự khắc họa của Nguyễn Tuân,
người đọc có dịp chứng kiến được sự hung bạo, nghỗ nghịch bất trị của bà mẹ thiên nhiên.
Trái với vẻ hung bạo và dữ tợn thì cũng có lúc con sông sông Đà hiện lên thật
trữ tình. Con thủy quái ấy đã rũ mình và vứt bỏ sự gớm ghiếc để trở thành một
thiếu nữ kiều diễm. Nét trữ tình của con sông Đà được thể hiện ở hình dáng
con sông. Dòng sông Đà mềm mại “từng nét trải ra trên đại dương đá lờ đờ
bóng mây”. Dòng sông Đà được Nguyễn Tuân ví với mái tóc thướt tha của
người con gái đang độ thanh xuân. “Con sông Đa tuôn dài, tuôn dài…đốt
nương xuân”. Đó là một vẻ đẹp đầy sức sống và mang nét nên thơ, mờ ảo giữ
mây trời khói núi. Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa và mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng.
Vẻ đẹp con sông Đà còn được tô điểm bởi cảnh ven sông và cảnh trên sông.
Khung cảnh thiên nhiên ven sông Đà thật giàu chất thơ. “Cảnh ven sông ở đây
lặng tờ”, “một lương ngô…”, Thật là một bức tranh dạt dào nguồn nhựa sống,
lam mê đắm hồn người.” Bờ sông hoang dại…cỏ tích tuổi xưa”. Với hình ảnh
so sánh tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc trở về thuở bình
yên của sông Đà từ ngàn năm trước.
Nói tóm lại, Nguyễn Tuân đã khắc họa rất thành công hình tượng con sông Đà
với hai tính cách: hung bạo đến đáng sợ và trữ tình đến tuyệt mĩ. Nhà văn đã
cho chúng ta thấy được sự tài hoa trong trí tưởng tượng phong phú, trong
những liên tưởng táo bạo, bất ngờ, những so sánh mang dấu ấn cá nhân của
Nguyễn Tuân trên những trang văn.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 3
Đến với tác phẩm của Nguyễn Tuân mỗi người sẽ tìm cho bản thân mình
những xúc cảm riêng, là sự ngưỡng mộ, khám phá chờ mong. Dường như dưới
đôi bàn tay tài hoa nghệ sĩ, ông đã khiến người đọc như chìm đắm, như được
sống những phút giây thực sự với thiên nhiên khung cảnh nơi đó. Đây chính là
cái tài sử dụng ngôn ngữ của ông. Đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đò sông
Đà” tài năng đó càng được bộc lộ rõ nét hơn.
Cả cuộc đời của Nguyễn Tuân có chăng được gói gọn trong chữ “độc đáo”.
Bản thân là người độc đáo, khác thường nên đối tượng nghệ thuật của ông cũng
phải là có một không hai. Dưới bút lực dồi dào của mình Nguyễn Tuân đã phô
diễn cho bạn đọc thấy hình ảnh của một dòng sông Đà vừa hung bạo, nhưng
cũng rất đỗi trữ tình. Bên cạnh đó là vẻ đẹp nổi bật của người lao động, chinh
phục và làm chủ thiên nhiên.
Trước hết cái độc đáo của sông Đà được Nguyễn Tuân khai thác trên hai
phương diện: hung bạo và trữ tình. Chất hung bạo chính là điểm nổi bật đầu
tiên của Nguyễn Tuân đề cập đến. Vẻ đẹp hung dữ, bạo tàn của con sông ở
những đoạn thác dốc như một sức mạnh vô hình thu hút ông. Đây cũng là lãnh
địa tạo cho ông cơ hội thỏa sức tung hoành trí tưởng tượng của bản thân. Ông
cực kì phấn khích khi chuẩn bị đến thác cuối, khi chuẩn bị được tận mắt chứng
kiến sự hung bạo của sông Đà: “… Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng
đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại ró to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là
oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. Thể rồi nó giống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đáng phá tuông rừng mửa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da đen cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi”. Có thể thấy
trong đoạn văn giọng điệu hào hứng, hồ hởi cũng như giác quan vô cùng thính
nhạy của Nguyễn Tuân. Ông nắm bắt từng chuyển động của thiên nhiên để có
thể cảm nhận được vẻ đẹp hung bạo của nó từ phía xa. Đặc biệt hình ảnh so
sánh thác nước như những con trâu lồng lộn, rống lên cũng cực kì đặc sắc, diễn
tả tiếng thác nước ầm ào chảy, vừa hứng thú, kích thích nhưng cũng đầy lo lắng, sợ hãi.
Và đến đoạn thác nước, bút lực của ông mới thực sự được phát lộ hết. Bao
nhiêu hào hứng ông dồn cả vào đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà.
Những thạch trận liên tiếp được bày ra, dụ con thuyền đến để nuốt gọn vào
lòng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá,
nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt.
Mỗi hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng
tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái
thuyền có giỏi thì tiến gán vào”. Với thủ pháp nhân hóa, cùng trí tưởng tượng
phong phú Nguyễn Tuân đã khiến cho những hòn đá vô tri có gương mặt, tâm
trạng và thân phận riêng. Nhưng tựu chung lại có thể thấy ở chúng sự ngông
ngạo, tự phụ, ỷ thế mà chèn ép người khác, đặc biệt là ỷ vào thế hiểm của thằng đá tướng.
Nhưng sự tự phụ của chúng chẳng được bao lâu, bới dưới sự uy dũng, kinh
nghiệm của người lái đò ông đã nhanh chóng vượt qua chúng. Đoạn này ngòi
bút lãng mạn của ông càng được phát huy cao độ hơn nữa. Con sông ương
bướng, bày ra thạch trận ba vòng, với những lắt léo khác nhau cũng không thể
cản bước ông lão đò. Ông cưỡi lên từng con sóng, từng đọt nước mà vượt qua:
“Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được
cái bườm song đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước
đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, là lái miết một đường chéo về phía cửa đá
ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền
lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo
bởi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi mở đường tiến. Những luồng
tử đã bỏ hết lại sâu thuyền”. Những câu văn kia miêu tả ông lái đò mới sảng
khoái và sung sướng biết bao khi con người đã vươn lên làm chủ thiên nhiên.
Đồng thời những lời miêu tả chân thực, sinh động đó cũng cho thấy tài nghệ lái
thuyền tài ba, sự dày dặn kinh nghiệm, và dũng cảm là những yếu tố giúp ông
lái đò của thể vượt qua mọi cửa tử để đi đến được một cửa sinh duy nhất.
Không chỉ có niềm say mê, hứng thú đặc biệt với những nơi đầy nguy hiểm mà
đôi mắt tinh tế của Nguyễn Tuần còn đầy tình tứ, phát hiện vẻ đẹp mơ mộng,
trữ tình của con sông Đà. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà quả như là đối cực với
sự hung bạo của chúng. Nếu như bên trên con sông Đà bạo liệt, hung hãn bao
nhiêu, thì đến đây lại mơ mộng, hiền hòa bấy nhiều. Đoạn văn thấm đẫm màu
sắc văn chương và hội họa.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hay qua thực cảnh sắc sông Đà, chẳng ai có
thể biết được, nhưng nó toát lên vẻ đẹp của sự trữ tình, mơ mộng quá đỗi. Sông
Đà giờ đây không còn hoang dại, mà tựa như một cô gái sơn cước miền Tây
Bắc vô cùng yểu điệu, thục nữ, lại có đôi nét mờ màng: “Con sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đất
nương xuân”. Đọc câu văn mà ngỡ như ta đang đọc một câu thơ của Nguyễn
Tuân vậy. Chất trữ tình thẫm trong cảnh vật, ngập đầy trong từng câu chữ. Chỉ
trong một đoạn văn không quá dài, nhưng trước vẻ đẹp trữ tình của con sông
mà Nguyễn Tuân đã hai lần phải thốt lên “chao ôi”. Vì được chiêm ngưỡng
cảnh đẹp, vì được gặp lại người bạn có nhân bao ngày xa cách. Đó là sự vui
mừng, cuống quýt thấp thỏm, đầy hạnh phúc. Sông Đà chính là cố nhân của
Nguyễn Tuần. Chính tâm trạng vui sướng đó đã khiến công có một đoạn văn
đầy xúc cảm: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống
Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng
thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Không chỉ cảm nhận sông Đà là
người bạn, người cố nhận gặp lại sau nhiều ngày xa cách mà ông còn cảm nhận
được cái không khí cổ xưa, như bờ tiền sử hoang dại ở sông Đà. Quả thực, có
lẽ chỉ có Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh tế của mình mới có thể cảm
nhận trọn vẹn được vẻ đẹp của sông Đà ở mọi chiều kích không gian và thời gian như vậy.
Với bài bút kí Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng ta không
chỉ thấy được vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài năng, với bút lực dồi dào. Mà
bên cạnh đó còn thấy được tấm long của một con người yêu nước, dành trọn
cuộc đời mình khám phá, tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao
động trong cuộc sống mới.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 4
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, là kết quả của
chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập
bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in
đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
Trong những ngày tháng cả nước rộn rang lên đường theo tiếng gọi của “tâm
hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn,
nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những
nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân - cây độc huyền cầm của nền văn học
Việt Nam, người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân
đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò sông Đà - một tác phẩm thể hiện rõ
nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi
vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày
hôm nay giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính
vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích
cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ.
Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều
miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với
cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng
xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở,
muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói
đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc sông núi Tây Bắc, và
nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày
nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa
tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi
nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú
của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…
Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những trang văn
của ông thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố.
Nhưng không vì thế mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút
Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó
mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, có thể cướp đi mạng sống của
bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…”Nước sông Đà reo như đun sôi lên
một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông” và khi
thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng cái
hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Miêu tả
con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm
mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc chiến
đấu “một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí
dũng tuyệt vời của ông lái. Người lái đò sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ
thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không
ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…
Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái
đối lập của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù,
vừa là “cố nhân”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận
động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động
mạnh vào giác quan người đọc. Ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách
sinh động, rõ nét và sắc sảo… Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết
phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn
của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút Nguyễn
Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ.
Nét đẹp sông Đà là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng
vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người
thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà
cũng thế. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt người bầm đi vì rượi bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không
chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi
nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại sông Đà,
tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân. “Chao ôi,
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 5
Nguyễn Tuân - người được mệnh danh là “Người đi tìm cái đẹp, cái thật trong
đời” không chỉ là một trí thức yêu nước mà ông còn là một nhà văn tài hoa,
uyên bác. Ông đã để lại nhiều tác phẩm lớn, nổi bật hơn cả là tùy bút “ Người
lái đò sông Đà” (1960). Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông
đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc. Tác phẩm
tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng 8.
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” lấy ông lái đò làm nhân vật trung tâm nhưng
thực chất là mượn hình ảnh ông lái đò để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ, dữ
dội và thơ mộng của con sông Đà. Tất cả hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn
Tuân vừa chân thực, vừa sống động.
Trước hết, Nguyễn Tuân khắc họa vẻ đẹp của con sông Đà được nhân hóa như
con người, nó mang linh hồn độc đáo vừa có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng, lại vừa
mang tính cách hung bạo, trữ tình. Con sông được giới thiệu:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”
Ý nói mọi con sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo
hướng Bắc. Đây là một cách giới thiệu ấn tượng, đập thẳng vào nhãn quan
người đọc sông Đà hiện lên như một cá thể rất có hồn. Sông Đà khai sinh ở
huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam. Nó mang hai tính cách. Đầu tiên là tính cách
hung bạo và trữ tình, được thể hiện ở khía cạnh: Nguyễn Tuân miêu tả cảnh đá
ở bờ sông “đá dựng vách thành lòng sông hẹp, có quãng con hươu con nai còn
nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tòa
nhà cao vừa tắt phụt đèn điện”. Đặc biệt ở đọan mặt ghềnh dài hàng ngàn cây
số thì “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy”. Thật nguy hiểm, rung rợn. Đâu
chỉ có vậy, Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái
cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà
cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy”. Hay đến thác nước với những
âm thanh dữ dội như càng xóay vào lòng người nhiều hiểm ngay đang rình rập
chỉ chờ chực sẵn con mồi “tiếng nước “ réo”, “tiếng nước thác nghe như là oán
trách… van xin … khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… nó rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng…”. Nước như một đội quân hùng mạnh, dữ tợn.
Đáng sợ hơn tất cả hình ảnh đá ở lòng như như đang bày binh bố trận địa thác
đá với 3 trùng vi. Trùng vi thạch trận thứ 1: “mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử
một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn”. Sang đến trùng vi thách trân
thứ 2 đã tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố
trí qua phía bờ hữu ngạn. Và trùng vi trạch trận thứ 3 cả bên trái lẫn bên phải
đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ngay giữa bọn đá hậu
vệ.. Việc bày binh bố trận vừa theo một quy luật trật tự nhất định để ngăn cản
những ứng viên rắn chắc chèo chống về phía đích. Họ như những cầu thủ
chuyên nghiệp trên sân cỏ đang lao mình ra để bảo vệ cầu môn, không cho
quân địch hay kẻ ngoài này le lói gần khung thành. Bằng lối viết tài hoa, một
kiến thức sâu rộng uyên bác, Nguyễn Tuân đã viết nên những câu văn theo kiểu
móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, sử dụng xen kẽ biện pháp tư từ nhân hóa, so
sánh rõ rệt để làm nổi bật hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, như muốn mình là
vua của cả thế giới. Con sông ấy hung bạo, hiểm trở, là kẻ thù số 1 của con người.
Trái với vẻ ngoài dữ tợn ấy, sông Đà còn hiện lên một vẻ trữ tình đằm thắm
dưới ngòi bút bậc thầy lão luyện của Nguyễn Tuân. Đi từ thượng nguồn đến hạ
nguồn, ta đều bắt gặp hình dáng con sông rất thơ mộng như một cô thiếu nữ đôi
mươi kiều diễm, trẻ trung, duyên dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình”, “Sông Đà như một áng tóc mun, dài ngàn ngàn vạn vạn sải”. Màu nước
sông Đà cũng thay đổi theo mùa rất đẹp và quyến rũ, mùa xuân, dòng xanh
ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì
rượu bữa. Sự thay đổi sắc màu tạo cho sông Đà mang một vẻ đẹp huyền bí, quý
phái. Nhà văn còn miêu tả hai bên bờ sông Đà cũng tươi mới không kém. “Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Sông Đà, con sông chứng kiến biết bao
nhiêu thăng trầm của lịch sử, nó là chứng nhân lịch sử vĩ đại cũng là một con
sông đẹp kiều diễm mà nên thơ. Con sông ấy gợi trong lòng nhà văn nhiều cảm
xúc, như một “cố nhân”.
Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đưa người đọc khám phá một con sông
Đà mang nhiều trạng thái cung bậc, khi thì dữ dội, khi lại nên thơ trữ tình. Con
sông ấy dưới ngòi bút điêu luyện của ông được coi như là một khám phá lớn,
một công trình nghệ thuật vĩ đại mà tạo hóa ban tặng cho Tây Bắc.
Song song với hình tượng con sông Đà là hình ảnh người lái đò sông Đà - một
tay lái ra hoa với trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân đã miêu tả ngoại hình của
ông rất độc đáo: “tay lêu nghêu như cái sào, chân khùynh khùynh”. Ông quê ở
ngã tư sông, là người từng trải, ông làm nghề lái đò đã được mười năm liền.
Ông với con sông Đà gắn bó mật thiết với nhau, như người bạn tri kỉ của mình.
Với kinh nghiệm chinh chiến trên con sông ấy đã nhiều năm, ông nắm chắc
từng luông lạch, từng ngọn thác và đặc biệt, ông nắm rất vững quy luật của
“thần sông thần đá” trên con sông Đà. Vì ông am hiểu con sông ấy một cách
tường tận, thấu đáo nên ông rất thích vượt thác, đối mặt với con sông ấy. Chỉ
với vài nét khắc họa đơn giản, Nguyễn Tuân đã phác họa được một người lái
đò yêu nghề, yêu thiên nhiên, thích hòa mình rượt đuổi cùng thiên nhiên.
Vẻ đẹp của ông lái đò được nhà văn miêu tả rất chi tiết qua những lần ông vượt
thác. Tay lái ra hoa ấy càng khiến người đọc thêm khâm phục phần nào về tài
năng, bản lĩnh dám đương đầu với thử thách. Trên con sông hùng vĩ nguy hiểm
ấy, ông lái đò hiện lên với tư thế hiên ngang của một dũng tướng chỉ huy chiến
trận. Ông chỉ huy con thuyền mình luồn lách tới đích vượt qua các chướng ngại
vật với phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Ở vòng vây thứ nhất, ông hai tay
giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Hai
chân ông vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. Đến vòng vây thứ hai, không một phút
nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông
cưỡi lên thác sông Đà, nắm bờm sóng, ghì cương lái, bám lấy luồng nước đúng
mà phòng nhanh vào cửa sinh. Và ở vòng cuối, ông phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Cuộc vượt thác thành công. Mặc dù có
lúc ông gặp khó khăn bị thương nhưng ông vẫn bình tình, dũng cảm đối mặt
sau cùng nếm vị ngọt thành quả: “đốt lửa trong hang đá, bàn tán về cá anh vũ”.
Cuộc chiến khốc liệt kết thúc thắng lợi vẻ vang.
Qua đây, ta mới thấy được ông lái đò là người rất am hiểu binh pháp của thần
sông, thần đá, là một hình tượng nhân vật mới mà Nguyễn Tuân đang hướng
tới - một bức chân dung người lao động vừa hiên ngang, khí phách, ngang tàng lại rất giản dị.
Tóm lại, “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Bằng tài năng, ngòi bút uyên thâm cùng kiến
thức tổng hợp phong phú, ông đã rất thành công khi xây dựng được nhân vật
người lái đò hùng dũng, hiên ngang và hình ảnh con sông Đà với hai tính cách
trái ngược nhưng rất đỗi đẹp đẽ. Tùy bút” Người lái đò sông Đà” luôn sống mãi
trong lòng người đọc và trường tồn theo thời gian.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông đà mẫu 6
Nguyễn Tuân người nghệ sĩ suốt một đời đi tìm cái đẹp và trăn trở về cái đẹp.
Nếu như trước cách mạng ông thoát li thực tại, tìm cái đẹp ở thời còn vang
bóng, thì sau cách mạng cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ông tìm thấy cái đẹp
trong cuộc sống này, ở những con người lao động hết sức bình dị. Người lái đò
sông Đà được trích từ tập bút kí Sông Đà là những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp
hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, và vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.
Tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn
Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ
miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi
của Đảng miền Bắc đang đấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa
xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung tư tưởng
của tác phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ tư tưởng, chủ đề,
cảm hứng chủ đạo. Người lái đò sông Đà sử dụng hai lời đề từ: Lời đề từ thứ
nhất: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà
thơ cách mạng Ba Lan mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ có thể là câu hát của
những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên
nhiên, yêu lao động, cũng có thể là sự ngơi ca của chính nhà văn trước tư thế
làm chủ thiên nhiên của con người trong cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai,
Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông
tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé mở cho người đọc thấy, mọi dòng
sông đều chảy về hướng đông, duy có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Câu thơ
đã khẳng định sự độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của
Nguyễn Tuân - nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.
Trước hết về hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả trên nhiều
phương diện, vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ,
trữ tình. Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông được Nguyễn Tuân thể hiện ở cảnh đá
bờ sông dựng vách thành. Lúc ấy “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có
mặt trời” đã gợi ra được độ cao và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc
sông. Không chỉ vậy “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”
đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa nước
lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn
Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những vách đá lạnh lẽo, tăm tối, ở
khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Không chỉ vậy sự hung bạo còn thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở
đoạn này, Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông như một sinh thể người, đó là
kẻ đi đòi nợ thuê, với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn
dập, điệp từ, điệp cấu trúc được vận dụng liên tiếp (nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió) kết hợp với các thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội,
nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và
đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên một mối đe
dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái thì
cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Sự hung bạo còn được thể hiện ở những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc
trên khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái
hiện sự khủng khiếp của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở
nhiều chiều kích khác nhau, cho người đọc một cái nhìn toàn diện, đầy đủ nhất.
Khi nhìn từ trên xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông thả xuống
sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành
giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”. Và để giúp người đọc cảm nhận được rõ
hơn, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm nhận khác nhau, với người quay phim
thì như “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả
máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với người xem phim lại thấy “thấy
mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt
vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”. Với
những trải nghiệm và góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm
nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng của dòng sông Đà mà ở đây là những cái hút nước.
Cuối cùng sự hung bạo của sông Đà được khắc họa ở các trùng vi thạch trận
khác nhau. Với trùng vi thách trận thứ nhật là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn
đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt
nước chỗ này”. Đá còn bày binh bố trận, như cố tình nhấn chìm con thuyền.
Trùng vi thạch trận thứ hai tiếp tục tăng thêm thử thách, cửa tử nhiều hơn để
đánh lừa con thuyền và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không
kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”, phối hợp với
đá là dòng thác như hùm beo như chực vồ và nhấn mình con thuyền xuống đáy
song. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là
luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con
thác”. Tất cả các trùng vi, thạch trận đều vô cùng hiểm ác, với mục đích duy
nhất là làm cho con thuyền mất sức, bỏ mạng.
Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hoàn toàn
đối lập, đó chính là vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn
lượn của con sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”,
đặc biệt là giống như mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân”. Dòng sông như một người thiếu nữ, với mái tóc tuôn dài, tuôn dài, tha
thướt, uyển chuyển không ngờ. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây
Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều. Không chỉ vậy ở
những thời điểm khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng: Mùa xuân, nước
Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh; Mùa thu,
nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ
lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Không
chỉ vậy, vẻ đẹp sông Đà con như được bước ra từ miền cổ tích xa xôi, với
những bãi bờ hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn
chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm
đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.
Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật ở hình tượng con sông Đà, mà để điểm
tô, hoàn thiện vẻ đẹp sông Đà cần có sự xuất hiện của con người, và thật đẹp đẽ,
chân dung người lái đò đã được Nguyễn Tuân thể hiện tài tình, rõ nét. Người
lái đò không có một tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là người lái đò Lai
Châu. Để làm bật vẻ đẹp người lái đò, chân dung ông luôn được tái hiện tương
quan với dòng sông Đà. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến
không cân sức: một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với
sóng nước, với thạch tinh nham hiểm, một bên là con người bé nhỏ trên chiếc
thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo. Nhưng
dù sông Đà gian ngoan, xảo quyệt bao nhiêu thì người lái đò lại kiên cường
bám trụ bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa
phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận thứ ba, ông
lái đò đã thể hiện rõ tài nghệ của mình. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn
“thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết
những thác ghềnh ở phía sau lưng. Chiến thắng của ông trước hết xuất phát từ
sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách
khốc liệt của cuộc sống. Đây đông thời cũng là chiến thắng của tài trí con
người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.
Đặc biệt, cũng như những nhân vật khác của mình, người lái đò còn được
Nguyễn Tuân khắc họa ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Tài hoa là khi con người đạt
tới trình độ điêu luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ có thể
sáng tạo được, có thể vươn tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung
bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái băng băng trên dòng thác sông Đà một cách
ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào
hùng. Và phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện trong cách ông nhìn nhận
về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi dòng sông vặn mình hết
thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò
dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về
những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá
túa ra tràn đầy ruộng”.
Bằng ngòi bút vô cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang
văn đẹp cả về hình thức và tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê
hương đất nước sâu nặng, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê
hương đất nước mà còn khẳng định sự lớn lao, sức mạnh phi thường của những
con người bình thường trong hành trình chinh phục thiên nhiên. Bài văn mẫu 7
Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 là một nhà nghệ sĩ lớn của dân tộc
Việt Nam. Vốn là một người tri thức giàu lòng yêu nước lại am hiểu sâu rộng
nền văn hoá dân tộc, ông viết nên những tác phẩm rất mực uyên bác và giàu giá
trị. Nếu như trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người
bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người "một thời vang bóng" như Huấn Cao
thì sau cách mạng, Nguyễn Tuân khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài
năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị với
thiên nhiên và đời sống con người. Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" là một
thành công tiêu biểu cho phong cách văn học ấy.
Trong tuỳ bút, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội lại vừa xinh đẹp,
dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông trên nhiều góc độ,
nhiều phương diện mà nhìn trên phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thấy yêu.
Không tĩnh lặng soi bóng hàng tre mỗi trưa hè, cũng không mang nét tư lự
trong từng hơi thể khi màn đêm buông xuống mà sông Đà hiện lên vô cùng
sống động, dữ dội và mãnh liệt. Nó như được xem là "kẻ thù số một của con người".
Những con thác lớn dữ dội, những gạn nước từ Vạn Yên về xuôi thật mênh
mang. Hai bờ sông dựng đá thành những vách hiểm trở khôn cùng. Nước và
sóng xô chồng lên nhau như đang thi nhau phô bày tất cả vẻ dữ tợn, oai hùng
của mình: "Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có
lần vọt từ bờ này sang bờ kia”.
Mặt sông khi nhìn từ trên cao xuống là vô vàn những hút nước như những trụ
bê tông. Dòng nước kêu lên thành những tiếng ghê rợn, khi thì kêu lên như
những cái giếng đang bị sặc nước, khi lại ằng ặc như tiếng dầu sôi”. Tất cả
dựng lên trước mắt ta thế hiểm trở và đầy rẫy những thách thức, nguy hiểm mà
ai đi qua cũng phải đối mặt. Sông với tư thế hùng dũng và có phần bạo ngược
của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái trước từng con
con sông, không làm chủ trên chiến trận chinh phục dòng sông.
Bởi vậy mà nó khiến bao con thuyền đi qua phải dè chừng, hoảng sợ, cố tránh
né những cạm bẫy mà sông Đà bố trí sẵn: “Không thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt quãng sông”, biết
bao nhiêu bè gỗ đã phải chịu trận trước những hút sâu khổng lồ, biết bao nhiêu
con thuyền nghênh ngác phải tan xác dưới lòng sông.
Vốn am hiểu sâu sắc cùng sự trải nghiệm của mình Nguyễn Tuân dùng những
ngôn từ mới lạ, lĩnh hoạt, độc đáo để miêu tả một dòng sông Đà. Sông Đà cũng
mang dáng dấp đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của
người thiếu nữ chốn núi rừng Tây Bắc vậy. Sông Đà lúc này thật thơ và mơ
mộng, tình yêu như đang tràn với bao cảm xúc nồng nàn khó tả: “Con sông Đà
tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình...cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
Vẻ đẹp của dòng sông thật yên bình, khơi gợi sự yêu thương, đưa lòng người
đến với những rung cảm trong tâm hồn mình, một sức hấp dẫn tuyệt vời quá
đỗi. Đôi lúc, sông Đà cũng có những cảm xúc, cũng nhớ, cũng thương như bao
người vậy. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông còn được thể hiện giữa thiên nhiên,
mây trời tạo nên nét riêng biệt không trộn lẫn, bởi vậy dù bất cứ lúc nào nó
cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: "Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”.
Không chỉ vậy, sông Đà còn khiến người ta thích thú bởi sắc nước đổi thay
theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh
màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
Bờ sông Đà cũng thật đẹp, thật ngọt ngào bởi hương vị của hoa, của bướm, của
chuồn chuồn, của những bãi ngô non đầu mùa hay những cô giành vàng nõn
búp. Đó đây những đàn hươu đang thong thả gặm những bãi cỏ non tơ ướt đẫm
sương đêm, mọi vật như đang hoà mình trong nét tuyệt diệu của dòng sông, tô
điểm nên một vẻ đẹp gọi mời khiến lòng người thổn thức: "Con hươu thơ ngộ
ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một
mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói
riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe
thấy một tiếng còi sương?”.
Sông Đà như một " người cố nhân" lại như một" người nghệ sĩ tài hoa". Qua
cách miêu tả thật độc đáo với những cảm xúc chân thành, sự trân trọng, nâng
niu từ những điều bình dị, nhỏ nhặt, Nguyễn Tuân như khắc hoạ nên một bức
tranh thủy mặc của sông Đà say đắm lòng người với vẻ tuyệt vời, thân thương.
Cùng với hình tượng sông Đà cá tính, đến với tác phẩm ta còn cảm nhận được
hình ảnh người lái đò tài hoa, nghệ sĩ, điêu luyện trên dòng sông. Người lái đò
ấy không phải là một chàng thanh niên trai tráng với thân hình vạm vỡ mà là
một ông già đã gần bảy mươi tuổi: “Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược
hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần". Phải chăng những kinh
nghiệm qua bao cuộc hành trình suốt mười năm làm việc đã giúp ông trở nên
thuần thục, bản lĩnh và kiên trường đến như vậy: "Ông nhớ tỉ mỉ như đóng
đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở".
Người lái đò như một thứ "vàng mười" đã qua thử lửa: Cái đầu bạc quắc thước
ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mùn", con
người ông là con người của chốn sông nước hùng vĩ, trên ngực ông là những
"củ khoai nâu" in dấu những trận chiến vật vã với con sông Đà dữ dội, với tác
giả dường như đó là những tấm huy chương cao quý mình chứng cho sức lao
động của con người trong công việc của mình.
Đứng trước những đợt sóng kinh hoàng, những thạch trận hiểm nguy, ông
không hề sợ sệt mà trái lại càng bản lĩnh thích thú hơn: "Ngoặt khúc sông lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá...Và một mình một thuyền ông
đã giao chiến như một vị dũng sĩ đầy tài ba. Trải qua ba thạch trận bằng dũng
cảm, mưu trí cả mình, người lái đò đã chiến thắng , trở về với cảnh lao động và
cuộc sống bình yên: "Thế là hết thác...Sông nước lại thành bình. Đêm ấy nhà
đò đốt lửa trong hàng đá, nướng ống cơm lam..." .
Nguyễn Tuân đã mang đến cho nền văn học nước nhà một kiệt tác vô cùng độc
đáo, một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác, tài hoa. Khép lại những
trang văn của tùy bút “Người lái đò sông Đà”, em vẫn không nguôi cảm xúc
lâng lâng trong tâm hồn mình, có chăng, đó là những điều đẹp đẽ nhất mà văn
học đã mang lại, khơi gợi trong lòng mình những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng
lớn. Thật cảm ơn Nguyễn Tuân, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp để
nâng niu những giá trị vững bền của đời sống lao động và của dân tộc. Bài văn mẫu 8
Nói đến Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm
cái đẹp. Cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn
thiện, hoàn mỹ. Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành
tựu kể cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tuỳ bút
“Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm
“chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử
lửa” của con người nơi đây.
Ngay ở những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ sự hung bạo
của sông Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng
mà bờ sông “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Quãng sông thì hẹp đến
nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy
chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm
thấy lạnh”, cái lạnh của từng lớp da thịt, của sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây.
Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ
nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt
đèn điện”. Bằng một loạt hình ảnh miêu tả, Nguyễn Tuân đã đẩy người đọc từ
phố xá đô thị về khung cảnh hoang sơ đến đáng sợ của thiên nhiên sông nước.
Người ta thấy hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối,
vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.
Đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, có thể kể tên đến năm mươi cái ghềnh nhưng sợ
hãi nhất là ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp, nhịp văn
nhanh mạnh khiến người đọc không khỏi hãi hùng trước những âm thanh của
sóng, gió, nước, đá. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê
rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây. Sông Đà được miêu tả
như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những người trên sông. Nó có thể gây ra
rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.
Nhiêu đó vẫn chưa kể hết những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử
dụng một loạt thủ pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết cái vẻ hung bạo của
hút nước sông Đà. Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái
lúm đồng tiền trên má cô gái nhưng nó lại không hề duyên dáng, dễ thương,
thay vào đó nó có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan
xác. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn so sánh những cái hút nước với những
cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh
này vừa gợi độ sâu hun hút của những cái xoáy nước vừa khiến người đọc
khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng sợ hãi hơn khi đọc những câu văn miêu tả
âm thanh của những cái hút nước. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị
sặc”. Nước không chỉ dồn về nhiều và nhanh mà còn ặc ặc lên như mới rót dầu
sôi vào. Từ láy “ặc ặc” gợi cảm giác sông Đà giống như một loài thuỷ quái bị
bóp chặt yết hầu đang quằn quại giãy giụa. Sự hung bạo này khiến nhà văn liên
tưởng đến hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào đó mang máy quay ngồi
trên thuyền thúng xuống tận cái hút sông Đà rồi từ đó lia ngược ống kính để
ghi lại cảnh tượng ghê sợ: một cái giếng như xanh toàn bằng thuỷ tinh như sắp
vỡ tan đổ ụp xuống cả người, cả máy quay phim. Con thuyền xoáy tít, những
thước phim màu cũng quay tít. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người
đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.
Sự hung bạo của sông Đà còn được miêu tả qua những cái thác nước. Nhà văn
hướng người đọc chú ý vào âm thanh của chúng và miêu tả lần lượt theo trình
tự từ xa đến gần. “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng tâm địa và diện mạo
thứ “kẻ thù số một của con người” đã dần hiện ra. Chúng vẳng tới bằng âm
thanh “réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Tiếng thác nghe như là “oán trách”,
nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”. Cách kết hợp
khéo léo giữa so sánh và nhân hoá này đã khiến sông Đà hiện lên với một tâm
địa phức tạp. “Thế rồi nó rống lên”, âm thanh được phóng to hết cỡ giống như
đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại. Nguyễn Tuân còn so sánh
tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
Và để tăng thêm sự hung dữ của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút
của mình vào miêu tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi cảm
giác đá sông Đà nhiều vô kể. Những tảng Đá sông Đà đã được Nguyễn Tuân
thổi hồn vào đó với từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn
nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận
đồ bát quái trên sông Đà.
Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông hung bạo này chẳng khác gì kẻ thù
số một của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung bạo trôi qua, nó lại
hiện lên với cả vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin.
Từ trên máy bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Với việc so
sánh sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến dòng sông hiện lên
với cái vẻ kiều diễm của một người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ thấy chữ
“áng” hay được dùng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn
Tuân đã dùng để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà
giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.
Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước. Tác giả đã quan
sát dòng sông ở những không gian và thời gian khác nhau. Mùa xuân dòng
xanh ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sông chín đỏ như
da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng những
so sánh độc đáo sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đây ta cũng thấy
được sự hiểu biết sâu rộng cũng như khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.
Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn
chuồn bươm bướm sông Đà”. Câu văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo nên nhịp
văn hối hả, mau lẹ. Rồi khi nhìn từ trên thuyền xuống, sông Đà mang dáng vẻ
“lặng tờ”, tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng của dòng sông ẩn chứa trong đó là
một sức sống dạt dào. Nhà văn còn dùng những so sánh vô cùng gợi cảm khi
miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã sử dụng những khái
niệm trừu tượng để miêu tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà khiến sông Đà hiện ra
không chỉ là dòng không của không gian mà còn là dòng sông của thời gian.
Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gợi ra cái vẻ tĩnh lặng của sông Đà
và sự thanh thản trong tâm hồn con người. Giữa cái khung cảnh thơ mộng ấy
nhà văn nghe thấy một tiếng còi sương - tiếng còi xúp lê của một chuyến tàu
đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu, đó là âm thanh của một cuộc sống hiện đại, đủ đầy.
Có thể thấy những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo
nên một đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cảnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm hồn con người.
Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo của mình, Nguyễn
Tuân đã đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ
đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.
Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong
văn của Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác
phẩm một lần nữa khẳng định tài năng bậc thầy của Nguyễn Tuân trong việc sử
dụng ngôn từ vừa giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước mà
ông gửi gắm trong các tác phẩm của mình. Bài văn mẫu 9
“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của
Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu
hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi
này, tác giả đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào
hứng nhất của người nghệ sỹ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười
đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ
và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của
người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình,
dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đó vừa là
người anh hùng, vừa là người nghệ sỹ tài ba trong nghề của mình.
Trong các tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mạng tháng Tám
thì các nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt,
tài hoa nghệ sỹ. Hình ảnh ông lái đò cũng không phải là một ngoại lệ. Khi đọc
tác phẩm, ta sẽ ấn tượng ngay đầu tiên với ngoại hình của ông: “Tay ông lêu
nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một
cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh
sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó
trong sương mù…”. Sức vóc ông khỏe mạnh chẳng khác gì thanh niên trai
tráng mười tám đôi mươi: “Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt
trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun… ông giơ tay
lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai không lầm tưởng
mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”
Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của
một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người
đó. Chỉ có yêu quý nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai
sương dong duổi chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang
đậm dấu ấn nghề nghiệp như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của
Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “Hàm
lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên
chú đọc ta mới khám phá ra được nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.
Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái
đò còn ẩn chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo
nghề. Ông là một linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông
xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho
những chuyến thuyền then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện
qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy
mắt mà nhớ tỷ mỉ 73 con thác, như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng
nước của con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một
bản trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái dấu chấm
than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện,
người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền và đã nghỉ làm
nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như không hề
suy chuyển. Ông vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho
lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới
loang ra bờ sông Đà, cũng còn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung
ương vừa lên vừa xuống thăm dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho đến biên giới Trung Quốc”.
Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất
qua trận thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc
họa trong tương quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng
trải thôi thì chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có
lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn
Tuân đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả
những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống
của mình. Đây chính là dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng ông lái đò,
phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường chỉ được bộc lộ rõ nhất khi nhận vật
đối mặt với khó khăn, nguy hiểm. Giả sử đặt ông lái đò trong khung cảnh thi vị,
trữ tình của sông Đà thì hình tượng lại phát triển theo một hướng khác, trở
thành một nghệ sỹ đa tình lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước
Cách mạng. Còn ở đây, ông lái đò trở thành người anh hùng nghệ sỹ trong
thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm
chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã
hiện ra ngay diện mạo và tâm địa độc ác của kẻ thù số một, lực lượng đá hậu,
đá tương, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm tạo thành một lực lượng
hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm.
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba
trùng vi. Trùng vi một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng,
mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng
ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng
dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như
đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà
tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao đối phương, ông lái đò cũng chẳng run
tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt móc bệch. Ông
chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con
thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất
ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều cửa tử để
đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật
nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.
Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định nhử
thuyền vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của
thần sông, thần đá, không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy
cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà
phóng nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu
luyện. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả,
luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một ông lái đò và sáu tay trèo,
tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một
thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh
nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền trọc thủng cửa giữa. Thuyền vụt
qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên,
vừa tự động lái được. Thế là kết thúc.
Tác giả đã rất dày công khi miêu tả trận thủy chiến với con sông Đà của
ông lão lái đò. Một loại những hành động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng
thẳng, lái miết một đường, chọc thủng, xuyên nhanh,… Kết hợp với nhịp văn
gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp
lá cà một sống, một chết. Hơn nữa thư pháp nghệ thuật tương phản được sử
dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập:
một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con người nhỏ bé
nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu.
Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng
thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.
Với ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể
thao, võ thuật, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình
thường thành bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một
anh hùng, một nghệ sỹ lái đò trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa là
dũng sĩ, vừa là nghệ sỹ – tay lái ra hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người
lao động trong công cuộc xây dựng xã hôi chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào
trong truyện ngắn “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, tình nguyện lên Điện Biên xây
dựng nông thôn mới, không chỉ là tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi
hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy cũng lên đường”, mà cùng với họ, ông
lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người
lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.
Quả thật, vẻ đẹp "chất vàng mười đã qua thử lửa" trong tâm hồn của con
người Tây Bắc đã được Nguyễn Tuân dày công khám phá trên dòng Đà giang
khuất nẻo. Nếu như thiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “Kẻ thù
số một của con người”, thì cũng chính thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn là
nơi đã tôn vinh giá trị con người lao động. Quả thật sâu sắc khi nói “Thiên tùy
bút là bài ca về vẻ đẹp của con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội”. Tác phẩm sẽ mãi là bản trường ca hào hùng đi cùng năm tháng. Bài văn mẫu 10
Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại Việt
Nam. Những tác phẩm của ông viết bằng cái “ngông” và bằng tình yêu tha thiết.
“Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình
ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp
khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất
thành công khi xây dựng hình tượng sông Đà bằng chất liệu ngôn ngữ và tình cảm phong phú.
Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu
dàng đấy, rồi chốc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Có thể nói phải
thật tinh tế và khéo léo mới có thể nhận ra sự chuyển đổi của sông đà như vậy.
Sông đà hiện lên là dòng sông hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược,
không chảy theo khuôn khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông đà được tác
giả viết “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ
mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng
bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã
có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Chỉ với vài chi tiết phác họa con sông đà
hiện lên với nhiều phức tạp, khó khăn, nguy hiểm khôn lường. Tác giả đã diễn
tả cảm xúc khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang
mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà
ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mất vừa vụt tắt
điện”. Một lối so sánh độc đáo, đầy táo bạo và cũng không kém phần tinh tế.
Sông Đà đẹp, nhưng đẹp vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.
Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc bất ngờ hơn nữa
khi miêu tả sự hùng vĩ, hung dữ đó “quãng mặt ghềnh hát loong, dài hàng cây
số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”.
Sông Đà hiện lên như một kẻ bất chấp hết, có thể lấy đi tính mạng của những ai
vô tình đi qua đây. Thật táo bạo, mãnh liệt và mạnh mẽ.
Khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng thác réo, người đọc có cảm tưởng như
đang đứng trước sông đà hùng vĩ chiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng đó “Như là
oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét
với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Những câu văn với giọng điệu dồn dập, gay
cấn, đầy cảm xúc. Một cảnh tượng hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Một cách so
sánh, tuyệt vời, hiếm thấy trong văn học. Nguyễn Tuân thực sự là bậc thầy của
ngôn ngữ, ông thổi hồn vào những con chữ, khiến con chữ như biết nói, biết rung động.
Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành ba trận chiến, người lái đò muốn
vượt qua dòng chảy này thì phải vượt qua ba trận chiến hiểm trở, táo bạo này.
Với giọng văn dồn dập, tác giả kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái
đò. Trận thứ nhất “mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách…” Sang đến trận thứ hai
“tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch
qua bên phía bờ hữu ngạn”. Sang đến trận thứ ba dường như ít cửa hơn nhưng
lại quyết liệt và mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên không khác nào một con thủy
quái đang đòi nuốt chửng người lái đò và chiếc thuyền bất cứ lúc nào có thể.
Con sống chính là “kẻ thù số một” của người lái đò, với tất cả đặc tính nham hiểm, thâm độc nhất.
Tuy nhiên bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sông Đà còn
hiện lên thật nên thơ và trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế của
Nguyễn Tuân “sông đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời tây bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn
mù khói mèo đốt nương xuân”. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh, một hình ảnh tuyệt
đẹp hiện lên giữa rừng núi hiểm trở Tây bắc. Đặc biệt khi tác giả miêu tả nước
của dòng sông mới thật tuyệt vời và thi vị biết bao “Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, chứ nước sông đà không xanh màu canh hến của sông Gâm sông lô. Mùa
thu nước sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu, lừ lừ cái
màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Những từ ngữ
mượt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm có của một dòng sông tưởng chừng
chỉ có giận dỗi và hung dữ.
Sông Đà có những lúc buồn mênh mang và hoang sơ đến lạ kỳ “Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích xưa”.
Thật là một vẻ đẹp nhẹ nhàng, chân chất và tươi mới biết bao nhiêu. Bài văn mẫu 11
Người lái đò Sông Đà là kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà
văn, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 bài tùy bút
của Nguyễn Tuân in trong tập Sông Đà xuất bản năm 1960. Lần xuất bản đầu
tiên, bài này có tên là Sông Đà, năm 1982 khi cho in lại trong tập 2 bộ Tuyển
tập Nguyễn Tuân, tác giả có sửa đổi tên bài thành Người lái đò Sông Đà.
Viết về sông Đà, Nguyễn Tuân có nhiều phát hiện. Hai nét tiêu biểu nhất
của sông Đà là hung bạo và trữ tình. Để làm nổi bật tính chất hung bạo và trữ
tình của con sông, tác giả đã vận dụng kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật.
Trước hết phải kể đến biện pháp nghệ thuật nhân hóa. Đá trên thác sông
Đà mai phục, hung dữ bày thạch trận để tiêu diệt bất cứ con thuyền nào dám
vượt thác. Nước cũng vậy, chúng thở, kêu rống lên. Nước cũng vào hùa với đá
để đánh những miếng đòn “hiểm độc nhất”. Nguyễn Tuân còn sử dụng thủ
pháp so sánh, tưởng tượng, huy động vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, địa lí,
quân sự, điện ảnh,… để miêu tả sông Đà.
Hình tượng người lái đò sông Đà là một người lao động, nhưng là nghệ sĩ
trong lao động, hơn nữa là một dũng tướng trong cuộc thủy chiến thường
xuyên với thác nước sông Đà. Đó là một con người bình thường, hiền lành với
những nét phác họa: “cái đầu bạc… cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân
hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun”, “tay ông lêu nghêu như
một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại…”. Đó là một con
người dũng cảm, say mê sông nước, say mê những cảm giác mạnh. Ông luôn
bình tĩnh, ung dung đối đầu với những khó khăn nguy hiểm. Ông khôn ngoan
vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa con thuyền về đích an toàn. Khi
chở đò, ông là nghệ sĩ, là dũng tướng tài ba. Kết thúc công việc, ông lại là một
người bình thường, làm công việc bình thường là chở đò trên sông.
Đặc điểm nổi bật của tùy bút Nguyễn Tuân là uyên bác và tài hoa. Để nói
về con sông Đà, Nguyễn Tuân dẫn thơ cổ, dẫn thơ Lý Bạch, thơ B-rô-ni-ép-xki
(Ba Lan). Ông vận dụng kiến thức lịch sử, địa lý, hội họa, điện ảnh, quân sự,
thể thao để viết về con sông hung dữ và thơ mộng. Ông luôn có cảm hứng đặc
biệt trước những hiện tượng phi thường, gây cảm giác mạnh. Bao giờ ông cũng
say mê khám phá và thưởng thức cái đẹp. Vẻ đẹp hung dữ và thơ mộng của
sông Đà, vẻ đẹp của ông lái đò bình dị nhưng khi vượt thác thì như một viên
tướng tài ba, điêu luyện đã đem cảm hứng sáng tạo cho Nguyễn Tuân. Đúng là
nhà văn nhìn cảnh vật và con người thiên về phương diện mĩ thuật và tài hoa. Bài văn mẫu 12
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một cây bút có vai trò to lớn trong nền
văn học Việt Nam hiện đại, một nghệ sĩ có khái niệm thẩm mỹ khác biệt và
suốt đời đi tìm cái đẹp. Một trong những tác phẩm tùy bút xuất sắc của ông
chính là Người lái đò sông Đà được in trong tập Sông Đà (1960) trong chuyến
đi thực tế tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Tác phẩm cho ta thấy một
Nguyễn Tuân với diện mạo mới mẻ, khát khao hòa nhập vào đất trời thiên
nhiên, thể hiện tình yêu đất nước và cuộc đời. Nguyễn Tuân muốn qua hình
ảnh con sông Đà dữ dằn, hung bạo mà trữ tình, thơ mộng, người lái đò bình dị,
giản đơn mà trí dũng tài hoa để ca ngợi vẻ đẹp của thiên và con người Tây Bắc
của Tổ quốc. Bài thơ cũng chất chứa trọn vẹn phong cách thơ tài hoa, uyên bác
rất độc đáo của Nguyễn Tuân.
Hai hình tượng chính đi xuyên suốt tác phẩm là hình tượng sông Đà và
hình tượng người lái đò. Một là thiên nhiên và một là con người tưởng chừng
như chẳng hợp ấy vậy mà là tạo nên vẻ đẹp đến bất ngờ. Trước nhất là hình
tượng sông Đà, không phải là vật vô tri vô giác mà là rất có hồn, rất có cá tính,
dòng sông này được Nguyễn Tuân miêu tả như một nhân vật có hai tính cách
trái ngược vừa hung bạo dữ dằn vừa trữ tình thơ mộng
Mà biểu tượng về sức mạnh và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc lại
là cái sự hung bạo, dữ dằn kia. Đá vô cùng hiểm trở, đá dựng vách thành, chẹt
lòng sông như cái yết hầu làm cho mặt sông chỗ ấy vừa hẹp, vừa tối lại vừa rất
lạnh chỉ vì đúng ngọ mới có mặt trời. Cả một trời đá, mặt hòn nào trông cũng
ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó đá mai phục dưới lòng sông hàng ngàn năm
được nhân hóa, nổi hình nổi tướng bệ vệ, oai phong lẫm liệt, nhổm dậy, vồ lấy
thuyền,… khung cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ, chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ
hãi, lạnh lẽo và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên dù là mùa hè oi bức, nóng nảy.
Sóng, nước cuồng nộ. Quãng mặt ghềnh Hát Loóng, nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió… kéo dài hàng cây số cuồn cuộn… như thể đòi nợ xuýt
người lái đò nào đi qua quãng ấy. Điệp cấu trúc nối tiếp nhau kết hợp động từ
mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần như nhấn mạnh sức mạnh của thiên nhiên rất
khủng khiếp và đầy lạnh lẽo. Những hút nước ghê rợn giống như cái giếng bê
tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu… Nước ở đây thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào.
Nghệ thuật nhân hóa và so sánh khiến hình ảnh trở nên sinh động và tính hấp
dẫn hơn diễn tả những chiếc thuyền bị hút xuống, hút thành trồng ngược cây
chuối, bị dày vò hành xác mà vụt biến đi, đến mươi phút sau mới thấy cái xác
tan tành ở khuỷnh sông dưới.
Thác như đang giận dữ mà gầm rống dữ tợn. Tác giả miêu tả con sông với
từ ngữ có tính gợi cảm, âm thanh tiếng thác từ xa nghe như van xin, oán trách,
rồi như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Âm thanh đến gần được ví như
những con trâu rống lên lồng lộn… ghê rợn và khủng khiếp. Sông Đà đặc biệt
hung bạo khi những yếu tố trên kết hợp với nhau tạo ra những thạch trận,
phòng tuyến với nhiều cửa tử, nhiều chiến thuật đánh khác nhau, nhiều đón
đánh thâm hiểm, Nó như một loài thủy quái khổng lồ, nham hiểm mang diện
mạo và tâm địa như một thứ kẻ thù số một của con người.
Sông Đà chỉ thực sự trữ tình thơ mộng khi chảy qua chợ Bờ và để lại
những hòn thác xa xôi trên thượng nguồn. Tuôn dài như một áng tóc … ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc…, tưởng chừng dòng chảy của sông Đà như mái tóc
của người thiếu nữ, là thiếu nữ Tây Bắc dưới bầu trời Tây Bắc. Màu nước sông
Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa lại có một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân thì nước có
màu xanh ngọc bích, mỗi độ thu về nó lại chín đỏ như da mặt một người bầm
đi vì rượu bữa… Sông Đà có vẻ đẹp rất gợi cảm, thân thiết như người tình, khi
gặp lại dòng sông như gặp lại cố nhân mà cảm thấy mừng vui, xa thì lại nhớ
nhung và dòng sông gợi vẻ đẹp của một ánh thơ Đường bởi màu nắng tháng
ba… yên hoa tam quyệt. Cảnh vật hai bờ sông vừa hoang sơ nhuốm màu cổ
tích trong những câu chuyện hoàng tử công chúa của những đứa trẻ thơ lại vừa
trù phú, tràn trề nhựa sống, tự do, tự tại của một chế độ mới. Qua hình tượng
sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên đất
nước. Với ông thiên nhiên cũng là tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa.
Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ cách nhìn khác biệt
của bản thân: hài hoa, uyên bác và lịch lãm. Sông Đà là một phông nền nổi bật
đầy, đẹp đẽ nhưng không hề làm lu mờ đi mà còn làm bật lên vẻ đẹp người lao
động trong chế độ mới.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra đoạn văn tràn đầy không khí trận mạc, tưởng
tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt của ông lái đò với bầy thủy quái sông Đà, để từ
đó làm nổi bật hình ảnh người lái đò, một người lao động mới mang vẻ đẹp
khác thường. Ông như một vị tướng chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí: biết
bọn đá mai phục và bày thạch trận… Ông nắm chắc binh pháp của thần sông
thần đá, thuộc quy luật phục kích của chúng nên linh hoạt thay đổi chiến thuật
để lần lượt vượt qua từng phòng tuyến kẻ thù. Người lái đò là người từng trải,
giàu kinh nghiệm hiểu biết sâu sắc về luồn lách sông Đà và cũng dũng cảm đối
đầu trong cuộc chiến không cân sức với sông Đà. Sông Đà là thiên nhiên lớn
lao, dữ dội và hiểm độc với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh có sóng
nước hò reo quyết vật ngửa mình thuyền, có đá ngàn năm mai phục, bày thạch
trận trên sông, thác gầm rống, reo hò làm thanh viện cho đó, sóng nước như thể
quân liều mạng đánh những đòn hiểm độc… Ông đò chỉ là một con người bé
nhỏ, không có phép màu, vũ khí chỉ là chiếc cán chèo thô sơ trên một cái
thuyền đơn độc hết chỗ lùi, nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh
phục mọi cửa tử, cửa sinh, vượt qua trận thủy chiến đầy ác liệt với đá nổi đá
chìm với những trùng vi thạch trận và những phòng tuyến đầy nguy hiểm để
chiến thắng thiên nhiên. Hình tượng người lái đò lúc này là một người lao động trí dũng.
Người nghệ sĩ tài hoa là hình tượng của người lái đò được hiện lên tiếp
theo. Để vượt thác, tâm tình phải thực sự bình tĩnh, chỉ một chút thiếu chính
hay lơ là thì phải trả giá bằng chính tính mạng của mình. Ấy vậy mà, ông lái đò
đã đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung của người nghệ
sĩ; đã bình tĩnh vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan. Với “tay lái hoa” ông
đã điều khiển con thuyền vượt qua ba trùng vi thạch trận sông Đà. Sông Đà ở
trùng vi thạch trận thứ nhất có năm cửa trận, trong đó có tận bốn cửa tử và
nhưng chỉ có một cửa sinh nằm lập lờ chẳng rõ phía tả ngạn. Bọn đá đứa thì hất
hàm, đứa thì thách thức, khiêu chiến, nước thác hò reo làm thanh viện cho đá,
mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chè, sóng nước đá trái, thúc gối vào bụng vào
hông thuyền, đánh những đòn hiểm độc vào ông lái đò. Ông lái đò đã bị thương
những vẫn cố nén chịu nỗi đau thể xác, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt
méo bệch nhưng tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn, tỉnh táo đưa thuyền vượt qua khỏi
nguy hiểm. Ở trùng vi thạch trận thứ hai, cửa tử lại tăng thêm nhưng cửa sinh
vẫn chỉ có một mà nằm ở phía hữu ngạn. Dòng thác thì hồng hộc tế lên như
hùm beo hòng nuốt xuống con thuyền. Ông lão chủ động đổi chiến thuật: nắm
lấy bờm sóng… cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ. Bọn đá xô ra, định lôi con
thuyền vào tập đoàn cửa tử, nhưng ông nhớ mặt bọn này, chỗ thì ông bơi, chỗ
đè rồi sấn tới, chỗ chặt đôi ra để mở đường tiến. Bọn đá chỉ còn biết thất vọng,
tiu nghiu cái mặt xanh lè nhìn ông lão đưa con thuyền lọt vào cửa sinh an toàn.
Ở trùng vi thạch trận thứ ba, sông Đà bên phải, bên trái đều là luồng chết,
luồng sống duy nhất nằm giữa lòng sông do bọn đá hậu vệ trấn giữ. Ông lái
kiên cường không mảy may lơ là, quyết đoán giữ vững tinh thần, như hòa với
con thuyền làm một, phóng thẳng đến cửa sinh an toàn, vượt qua mọi vòng vây .
Thế là hết. Thánh thần thiên nhiên cuối cùng cũng không ngăn được sự tiến lên
của con người, sự hung bạo của dòng sông cũng không ngăn được chiếc thuyền
độc mộc và ông lão. Sự ngoan cường, sự quyết tâm cùng sự dũng cảm chính là
yếu tố quyết định cho sự chiến thắng và đặc biệt là kinh nghiệm vùng sông nước của ông lái đò.
Sau khi đọ trí, thi tài với con sông, vượt qua ba trùng vi thạch trận đầy khó
khăn, nguy hiểm, ông lại ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam
và say sưa nói về các loài cá mà không hề bàn thêm một lời nào về chuyện
vượt thác. Dường như chuyện vượt qua thác nước chẳng động lại trong ông
một cái gì gọi là sợ hãi hay lo lắng, ổng vẫn cứ mặc đời kệ người mà lạc quan,
thư thái thật giản dị, lãng mạn. Nguyễn Tuân tìm thấy một hình ảnh của một
con người mới, con người đáng được ca ngợi, trân trọng mà không phải là anh
hùng đánh giặc trận mà chỉ là một con người lao động bình thường – con người Tây Bắc.
Chỉ là một người lái đò và một thác nước, Nguyễn Tuân lại viết nên như
thể là một thước phim hành động điện ảnh cận cảnh. Hồi hộp có, kịch tính có,
kích thích có, vỡ oà có, âm thanh đặc sắc, hành động đẹp mắt. Để viết được
như vậy phải có trí tưởng tượng thật phong phú, một cách nhìn khác biệt, có
cảm nhận đa chiều… cũng đủ thấy Nguyễn Tuân có vốn tri thức rộng lớn thế
nào, suy nghĩ độc đáo thế nào và một nghệ sĩ tài hoa như thế nào. Qua đây, nhà
văn còn muốn phát biểu quan niệm, người anh hùng không chỉ có trong chiến
đấu mà con có trong cuộc sống lao động thường ngày, ví dụ như người lái đò kia. Bài văn mẫu 13
Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học
Việt Nam hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con
người, của cuộc sống với tư tưởng, tình cảm gắn bó quê hương. Nguyễn Tuân
được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc
đáo của ông. "Người lái đò Sông Đà", đó là một bài tùy bút, cũng là một bài
thơ bằng văn xuôi thể hiện rõ nhất những nét tiêu biểu về phong cách đó.
"Người lái đò sông Đà" trước hết là một tác phẩm viết về một con người
và con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông thì mọi
cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở
thành những nghệ sĩ điêu luyện của mình.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô
cùng phong phú và chuẩn xác của Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh
hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút rất độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến trong tác phẩm là
một ông già 70 tuổi đã dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc sông
Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông
ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần...” trong thời gian
hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò,
và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng
đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân
tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này: “Sông Đà, với
ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những
dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách so
sánh “rất văn chương” đầy thú vị và cũng “rất là Nguyễn Tuân”.
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân
hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mùn” và những cánh tay vẫn là cánh
tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ
“vàng mười”. Ồng đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực
của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai
phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở
quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt
sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: "... hai tay giữ
mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò
la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay
mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả
thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa
mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò
bị nhấn chìm dưới dòng sông... Các miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy
sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ đối với con người, chỉ cần lóa mắt,
lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng chỉ dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ
của người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã
so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy
hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn
như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ
không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp,
chứ không có lùi gì cả...” vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những
hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có
một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó
riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả
một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”.
“Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có những “hút nước" xoáy sâu
như lòng giếng “cái hút nó lút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”...
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế
nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống
lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền
sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn
Tuân nhắm đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người,
ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to
gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm
lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con
người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “thế là hết thác. Dòng sông
vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (...). Sông nước lại thanh bình. Đêm
ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...”
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực,
tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về
lao động, về con người lao động.
Sau mười năm làm nghề lái đò, kể cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm,
trên ngực người lái đò vẫn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân,
đó cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng”.