Phân tích tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành | Văn mẫu lớp 12

Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành gồm 15 bài văn mẫu siêu hay kèm theo 2 gợi ý cách viết chi tiết. Qua phân tích tác phẩm Rừng xà nu các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.

Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Dàn ý phân tích Rừng xà nu
Dàn ý số 1
I. Mở bài
- Nguyễn Trung thành nhà văn duyên với vùng đất Tây Nguyên, ông nhiều
tác phẩm viết về mảnh đất này (tiểu thuyết Đất nước đứng lên, truyện ngắn Rừng
nu, ...).
- Rừng nu thiên sử thi Tây Nguyên thời chống Mĩ, tái hiện con đường đấu
tranh giành tự do của con người Tây Nguyên anh dũng.
II. Thân bài
1. Hình tượng cây xà nu
- loài cây sự gắn sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên: gắn với sinh hoạt hằng
ngày, gắn với sự kiện trọng đại của dân làng: lửa nu cháy trong bếp, đuốc nu
cháy sáng để mài vũ khí, lửa xà nu soi rõ xác 10 thằng giặc, ....
- Loài cây chịu sự tàn phá dữ dội của chiến tranh: đạn đại bác rơi vào ngọn đồi nu,
cả rừng nu không cây nào không bị thương. ợn nỗi đau của cây nu để nói về
nỗi đau của dân làng Xô Man.
- Loài cây sức sống mãnh liệt: sinh sôi nhanh chóng “bên cạnh một cây nu ngã
gục đã 4,5 cây con mọc lên” (đầu tác phẩm), “cây mẹ ngã đã cây con mọc lên”.
Đó nh ảnh biểu ợng cho sức sống mạnh mẽ sự nối tiếp của các thế hệ con
người Tây Nguyên.
- Loài cây ham ánh ng, như những người dân Tây Nguyên u tự do, khát vọng
sống mãnh liệt.
2. Các thế hệ anh hùng Tây Nguyên
a. Nhân vật cụ Mết
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
- Ngoại hình: quắc thước: “râu dài đến ngực vẫn đen bóng”, “vết sẹo phải”,
cụ người đã trải qua nhiều thăng trầm, khỏe mạnh với “đôi bàn tay nặng trịch như
kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, ...mang dáng dấp của anh hùng trong sử
thi Tây Nguyên.
- Giọng nói “ồ dội vang trong lồng ngực ”, mỗi câu nói như một chân “không
gì mạnh bằng cây xà nu...”, “cán bộ là Đảng, ... nước này còn”, “chúng nó cầm súng ...
cầm giáo”.
- Tích cách, phẩm chất: quả quyết, gan dạ, sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, luôn yêu
thương, che chở cho dân làng. Cụ Mết biểu ợng thế hệ anh ng đi trước, hội t
vẻ đẹp con người Tây Nguyên.
b. Nhân vật Tnú
- Từ nhỏ đã mang những nét tính cách phi thường: xung phong đi nuôi giấu cán bộ, từ
nhỏ đã giác ngộ ởng cách mạng, đi rừng rất tháo vát, nhanh nhẹn, bị giặc bắt
không run sợ, chỉ tay và bụng “cộng sản đây này”.
- Khi trưởng thành, Tnú trở thành cán bộ cách mạng:
Có trái tim tràn đầy tình yêu thương: không chịu đựng được cảnh vợ con bị bắt
giết, Tnú lao ra cứu nhưng bị bọn giặc bắt.
Là người cộng sản kiên cường, dũng cảm: giặc đốt 10 đầu ngón tay anh không
kêu van “người cộng sản không hề kêu van”, “trợn mắt nhìn thằng Dục” dùng
đôi bàn tay của mình để cầm súng giết giặc, ...
- Nhận xét: Tnú người con ưu của núi rừng Tây Nguyên, nòng cốt của cuộc
kháng chiến, biết nén đau thương cá nhân vì lợi ích của cộng đồng.
c. Nhân vật Dít
- người con gái gan dạ, dũng cảm, sức chịu đựng phi thường, biết nén đau
thương để nung nấu ý chí trả thù: đem gạo vào rừng cho dân làng, giặc bắn súng dọa
vẫn không khai, chị mất nhưng không khóc, ...
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
d. Nhân vật bé Heng
- Bé Heng dù nhỏ tuổi nhưng đã làm nhiệm vụ: thông thuộc từng hố chông, từng chiến
điểm để dẫn đường cho cán bộ cách mạng, cho khách đến làng.
- “là lứa nu mới mọc nhưng đã nhọ hoắt như lưỡi lê”, hứa hẹn một sự vươn lên
vững chắc.
- Nhận xét chung: họ một tập thể anh hùng luôn nối tiếp những truyền thống tốt
đẹp: giàu tình yêu thương, căm thù giặc sâu sắc, trung thành với cách mạng. Qua ho
có thể thấy được phẩm chất và con đường cách mạng của người dân Tây Nguyên.
III. Kết bài
- Khái quát nghệ thuật: với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc
sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, ...
- Rừng nu một khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng
của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.
Dàn ý số 2
I. Mở bài
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Rừng nu được Nguyễn Trung Thành sáng tác
năm 1965, đúng lúc quân Mĩ ào ạt đổ bộ vào Chu Lai, Quảng Ngãi.
- Dẫn đề và chuyển mạch.
II. Thân bài
A. Phân tích
1. Cốt truyện và lời kể mang tính sử thi anh hùng
- Câu chuyện kể về anh Tnú tham gia cách mạng. Giặc bắt vợ anh và đứa con nhỏ đem
đánh đập man cho đến chết. Tnú xông ra, bị giặc bắt, đốt mười đầu ngón tay anh.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Dân làng Man đã vùng lên giết giặc cứu Tnú. Rồi anh gia nhập lực lượng quân
giải phóng. Ba năm sau, Tnú về thăm quê hương.
- Câu chuyện được tác giả kể trên bối cảnh cuộc đồng khởi của nhân dân Tây Nguyên.
Chuyện cuộc đời Tnú được kể lại qua một nhân vật trong truyện cụ Mết. Cách kể,
giọng kể đã góp phần xây dựng tác phẩm như một bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu
của nhân dân Tây Nguyên chống Mĩ.
2. Nhóm nhân vật
(1) Nhân vật trung tâm Tnú
- Gắn bó với cách mạng.
- Tha thiết thương yêu bản làng, vợ con.
- Càng đau thương, càng căm thù giặc
- Yêu thương, căm thù biến thành hành động: gia nhập lực lượng quân giải phóng để
tiêu diệt kẻ thù, giải phóng quê hương.
(2) Cụ Mết, già làng:
- Tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man.
- Thủy chung với cách mạng.
- Là linh hồn của làng Xô Man trong cuộc đồng khởi của dân làng Xô Man.
(3) Dít
- Kiên cường, dũng cảm.
- Căm thù giặc trên sở nhận thức bản chất tàn bạo của kẻ thù, tiếp tục lãnh đạo dân
làng xô Man chiến đấu giải phóng bản làng.
(4) Bé Heng
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
- Đóng góp công sức xây dựng làng chiến đấu.
- Ngày càng trưởng thành về ý thức trách nhiệm, ý chí chiến đấu cao.
Tất cả các nhân vật trên đều toát lên vẻ đẹp hào hùng trên bối cảnh hùng của rừng
xà nu, của làng xô Man.
B. Đánh giá
1. Nội dung tư tưởng
Rừng nu ca ngợi tinh thần bất khuất, ng lên chiến đấu giải phóng quê hương của
các dân tộc Tây Nguyên. Tác phẩm xứng đáng được coi một bức tranh sinh động,
chân thực về hai cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp và chống Mĩ.
2. Nghệ thuật xây dựng truyện
Rừng nu một truyện ngắn nhưng sức chứa lớn như một bản trường ca về chủ
nghĩa anh hùng của nhân dân Tây Nguyên. Các yếu tố truyện càng lúc càng mở rộng,
tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
(1) Một câu chuyện của cụ già Mết với dân làng về cuộc đời Tnú. Câu chuyện đời Tnú
cũng chuyện của con làng Man. Chuyện làng Man ng chuyện của
Tây Nguyên.
(2) Một nhân vật trung tâm - Tnú - mra một loạt quan hệ với cụ gMết, Mai, Dít,
bé Heng... đằng sau cả dân làng Man, làng Man với bạt ngàn những rừng
xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
(3) Một thời gian ngắn ngủi, một đêm về phép sống và bản làng của Tnú và một quãng
đường dài của nhân dân, của cách mạng từ quá khứ đến tương lai, từ những đau
thương đến một cuộc đồng khởi đại: suốt đêm nghe cả rừng Man ào ào rung
động. Và lửa cháy khắp rừng...
III. Kết bài
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
- Rừng nu một bức tranh sinh động về cuộc chiến tranh nhân dân chống cứu
nước.
- Tác phẩm đã ca ngợi tinh thần bất khuất, vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương
của các dân tộc Tây Nguyên.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 1
Mỗi nhà văn, dường như đều một vùng quê sáng tác. Đối với Nguyên Ngọc, Tây
Nguyên hùng núi non. Tây Nguyên bất khuất kiên ờng với những người bộc trực
kiên trung một lòng đi theo cách mạng chính là vùng đất mà ông gắn bó, trăn trở trong
sáng tác của mình. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông bám trụ Tây Nguyên
để rồi viết nên tiểu thuyết Đất nước đứng lên.
Những năm đánh Mĩ, Nguyên Ngọc lại trở về với vùng gian khổ này từ đầu những
năm sáu mươi, ngay sau những ngày đồng khởi cách mạng miền Nam. Cuộc chiến đấu
anh hùng của nhân n Tây Nguyên khơi ng cảm hứng cho ông viết truyện ngắn
Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.
Rừng xu nu chỉ một truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực của lớn lao. Đó
bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự
trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí kiên
cường.
Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng nu quanh ng Man của người Strá. Một
rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù để tiếp nhận ánh
nắng mặt trời duy trì ssống của mình, rừng nu tràn trề sức sống cho đại bác
của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm xế chiều, hoặc đứng
bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm trở gáy” dồn dập chết chóc đau thương vào
nó.
“Cả rừng nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương. những cây bị
chặt đứt ngang nửa thân mình. những vết thương, nhựa a ra, tràn trề, thơm ngào
ngạt long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại. đặc quệnh thành từng cục máu
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
lớn. những cây con vừa lớn ngang ngực lại bị đại bác chặt đứt làm đôi, năm mười
hôm thì cây chết.
Nhưng cũng những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành xum xuê như
những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đại bác không giết nổi chúng, những vết
thương của chúng chóng lành như một thân thể cường tráng. Chúng vươn rất nhanh,
thay thế những cày đã ngã. Cứ thể hai ba năm nay rừng nu ưỡn tấm ngực lớn của
mình ra, che chở cho làng...”.
Nguyên Ngọc miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và
tinh tế một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong pcho
người đọc. Hình ảnh rừng nu đây vừa hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh
sáng mặt trời”, vừa hình ảnh nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau
thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ.
Bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó.
Rừng nu hiện lên nmột người bạn trung thành che chở cho dân làng Man,
như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng
về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.
Tái hiện chân thực cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những
ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy
truyền thống anh hùng của cha ông qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành
của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc
Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó Tnú Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền
với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.
Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng đùm bọc, nuôi dạy khôn lớn. Cậu T
đến với cách mạng ngay từ những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi Diệm đang
ngày đêm khủng bố ch mạng khắp mọi nơi. Chính Tđã chứng kiến cảnh đau
thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết Nhan,
chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán
bộ cách mạng.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Ngày Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống đời qua sự chỉ bảo của
anh cán bộ Quyết. Dũng cảm, mưu trí, lanh lợi phẩm chất tốt đẹp của Tnú, “nó liên
lạc cho anh Quyết từ xã lên huyện. Không bao giờ nó đi đường mòn. Giặc vây các ngả
đường leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xẻ rừng đi, lọt tất cả vòng
vây. Qua sông không thích lội chỗ ớc êm, cứ lựa chỗ thác mạnh i ngang,
vượt trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”.
Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn em về làng, tra tấn đủ
mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo,
chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi của kẻ thù: Cộng sản ở đây này”. Đó
không phải câu trả lời một lời thách thức, dũng cảm ! Với lời thách thức ấy,
Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.
Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách.
Anh hiểu nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở
thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Man. Anh thực hiện ngay lời
dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná… " chuẩn bị mọi thứ cần thiết
cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó.
Mai, bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh. Lại một thử
thách nữa đến với Tnú: bọn giặc đồn Dác xuống làng Man truy bắt anh, vợ
con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú
đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường
của anh càng ng n bao gi hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh,
“Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc", răng cắn chặt môi, không một
tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giận vào kẻ thù.
thể nói Tnú hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ
thù đã lên tới tột đỉnhnhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó.
Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang n, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu
dân làng cầm khí đứng lên, cả làng Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân
người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh...
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải
phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn. Điều này
thế thấy qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực lượng”. Anh kể
rằng anh giết thằng Dục, tên chi huy đồn giặc Đắk Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ
gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng là thằng Dục cả”.
ràng, với anh chiến giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của
đất nước cũng mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó một nhận thức sâu
sắc, nhận thức Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng của đất
nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.
Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng
Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dit “còn là mộtbé không có áo mặc, đêm lạnh
không ngủ...". Vậy mà, khi Tnú trở về, ấy đã đảm trách những công việc trọng
yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên
quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ.
Dít một đứa lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt Chúng để con đứng
giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt
qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách lượt từng mảng.
khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, chùi nước mắt, từ đó im bặt.
đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của giật lên
một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”.
Không chgan góc Dít còn một cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương
của chị Mai, Dít “lầm không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già,
đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Man. Trở thành
người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ người bản lĩnh,
sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với
“đôi mắt mở to bình thản trong suốt”.
Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí giấy không?”, khi
tuyên bố dứt khoát “không giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” sau khi
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về một đêm thôi”. Con người Dít như
vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề
ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.
Tnú Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Man, từ lòng căm thù của họ đến
với cuộc chiến đấu của dân tộcchính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự
trưởng thành của họ có cội nguồn của một mặt do họ tự ợt mình qua những
thử thách lớn lao, mặt khác do sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt s
trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền
thông anh hùng của người Strá.
Cụ Mết chính đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Man. Cụ pho
sử sống, chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quắc thước như
xưa... ngực cũng như một tấm nu lớn... tiếng nói vẫn vang trong lồng ngực”,
vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. lẽ cuộc đời cụ đã nếm
trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn
luôn nhắc nhở con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương.
Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn
man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu: Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn
tay trắng, chvới bàn tay không” tkhông thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm
khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe chưa,
các con, chưa, nhớ lấy, ghi lấy. San này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho
con cháu. Chúng cầm súng, mình phải cầm giáo’’. Lời crành rẽ vang lên trong
ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.
Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt
đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò
của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống,
với lịch sử quê hương, vừa người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu
hiện tại. Chính một thế hệ cha ông như cụ Mết thế hệ của Tnú, của Dít... có
sự trưởng thành lớn lao.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
không chỉ lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như Heng, cũng lớn lên, lớn lên
cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Man. Với nhân vật Heng, Nguyên
Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng
sâu sắc cho người đọc.
Tuổi của Heng, lẽ ra, tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi
vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, cũng còn nhỏ, Heng đã dáng vẻ của “một
người lính thật sự, đội chiếc sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc
vào một chiếc áo ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”. Hơn
thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú m
xưa. Thật là từ hào tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên,
trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.
Đọc Rừng nu cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người
với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến giải
phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi
ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tưởng của
Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ.
Những mảnh đời quá khứ, những mảnh đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ cho nhau để
cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Man trong
cuộc chiến đấu với kẻ thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng và nỗi đau
chung, Tnú làng Man phải cầm khí để tự cứu lấy mình, để giải phóng dân
tộc cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng đáng
với cha ông.
Chính cái ởng y đã chi phối kết cấu của Rừng nu. Hệ thống sự kiện trong
truyện, chủ yếu được tchức theo sự phát triển tâm tính cách nhân vật trung tâm,
chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn
điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân
vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù hai lần Tnú thể hiện phẩm chất kiên ờng
của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện mỗi lần khác nhau sự phát triển.
Sa vào tay giặc khi còn một cậu bé, Tnú tỏ đức kiên trung qucảm của mình.
Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo
của kẻ thù.
Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc sở trường trong việc lựa chọn những
chi tiết tiêu biểu ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất
thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh tụ Mết với những nét khắc
chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài nh của tác
giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn.
cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai
giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm ng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết
thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng nu không ch
rung cảm người đọc sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ còn những xúc
động, những tình cảm thầm kín nơi họ.
Trên những trang viết của mình. Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của
ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng nu đằm thắm chất trữ
tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc
động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tưởng
về người thân, theo dòng suy ởng về quê ơng của Tnú... lời n của Rừng nu
giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óngợt như ngôn ngữ của
một bài thơ (ví dụ: đoạn mở đầu tác phẩm). Chính cái vẻ của lời n đã p phần tạo
nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Rừng nu chuyện của con người nhưng qua đó ta thấy số phận của một dân tộc.
Từ câu chuyện của Tcủa làng Man, tác giả nói tới sự trưởng thành của cách
mạng miền Nam trong những ngày trước và sau đồng khởi. Đọc Rừng xà nu hôm nay,
vẫn thấy âm vang cái hào hùng của một thời chống Mĩ, một thời những con người
đẹp như cụ Mết, như Tnú, như Dít, như Mai.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Phân tích Rừng xà nu -Mẫu 2
Đất nước ta được hòa bình độc lập như ngày hôm nay biết bao máu xương của
thế hệ cha ông đi trước. Trên khắp mảnh đất hình chữ S, ta đã chứng kiến bao tấm
gương hi sinh anh dũng chiến đấu kiên cường độc lập. Các nhà thơ, nhà văn-
những người nghệ sĩ, chiến sĩ đã giúp cho các thế hệ hiểu hơn về đau thương, mất mát
của cha ông. Một trong số tác phẩm bạn đọc không thể bỏ qua khi đi tìm hiểu về văn
chương kháng chiến là Rừng xà nu của Nguyên Ngọc.
Nguyên Ngọc được biết đến với tên khai sinh Nguyễn Trung Thành. Ông nhà văn
trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp chống Mĩ. Và đặc biệt gắn
với mảnh đất, con người Tây Nguyên. Đó cũng điều kiện tiền đề cho sự thành công
của tác phẩm Đất nước đứng lên và Rừng xà nu.
Rừng xà nu được viết năm 1965, khi đế quốc Mĩ bắt đầu dồn quân ồ ạt vào miền Nam,
các chiến dịch càn quét được tổ chức với quy rầm rộ hơn. Tác phẩm ra đời như
một biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói
riêng và dân tộc ta nói chung.
Trong đời thực, nu một loài cây họ thông, mọc khỏe có nhiều ở mảnh đất Tây
Nguyên. Đến với xứ sở cao nguyên y đến với những cánh rừng nu bạt ngàn.
Và đối với người dân Tây Nguyên, đây là loài cây rất quen thuộc, gắn bó mật thiết với
cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Nguyên.
Rừng nu đã trở thành không gian thực, bối cảnh thực của câu chuyện, được xuất
hiện trở đi trở lại rất nhiều lần trong tác phẩm, tham gia vào sự phát triển của câu
chuyện, trong mối quan hệ gắn mật thiết với các nhân vật. Đó hình ảnh những
cánh rừng nu bao bọc quanh làng man. Từ đồi nu- nơi bắt nguồn của con
nước dẫn vào làng.. đến những công dụng của như củi nu cháy trong mỗi bếp,
đuốc nu soi sáng rừng đêm, nhựa nu cháy rực trên mười đầu ngón tay Tnú.
Rừng nu đã chứng kiến bao buồn vui của con người trở thành những thành viên
có mối quan hệ khăng khít với con người Xô man.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Hình tượng cây nu trong tác phẩm không chỉ được hiện lên với những chi tiết miêu
tả chân thực, sống động còn bằng những hình ảnh nhân hóa, những liên tưởng độc
đáo, mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bởi vật mà những cây xà
nu rừng nu được hiện lên như thực thể sống, phẩm chất, số phận như con
người thực sự.
Câu chuyện được mở đầu bằng nỗi đau thương của những cây nu trong cảnh ác liệt
của chiến tranh: “Chúng nó bắn đã thành lệ,… hầu hết đạn đại bác rơi vào ngọn đồi xà
nu cạnh con nước lớn”. Rừng nu đã trở thành đối ợng hủy diệt tàn phá của quân
xâm lược, phải hứng chịu bao đau thương, mất mát. Trước hết, đó nỗi đau thương
chung của một rừng cây: “Cả rừng nu hàng vạn cây không cây nào không bị
thương”. Trong đó lại những nỗi đau thương riêng của từng thể: “Có những cây
bị chặt đứt ngang ngửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chvết thương, nhựa
ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần bầm lại, đen đặc
quyện thành từng cục máu lớn”. Rồi những cây còn non “vừ lớn ngang tầm ngực
người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi… năm mười hôm thì cây chết”.
Những trận mưa bom bão đạn của kẻ thù dội xuống những cánh rừng nu nhằm hủy
diệt sự sống của thiên nhiên và con người nơi đây. Rừng xà nu phải hứng chịu bao tổn
thương, mang trên mình đầy thương tích. Nhưng trong đau thương, trong chiến tranh
bom đạn khắc nghiệt, cây nu, rừng nu vẫn hiện lên với bao vẻ đẹp tráng lệ, hào
hùng.
Đó loài cây sinh sôi nảy nở rất khỏe. Cứ một cây ngã xuống đã bốn, năm cây
con mọc lên. Đó loài cây “ham ánh sáng mặt trời”, nhưng không phải ánh sáng
yếu ớt dưới tầng thấp đó những luồng sáng lớn thẳng tắp rọi xuống từ bầu trời
cao, rộng. Chính bản năng sinh tồn mạnh mẽ cùng với khát vọng ánh sáng của bầu trời
tự do đã tạo cho cây xà nu ngay từ nhỏ một vóc dáng ngay thẳng, kiên cường, một sức
mạnh bất tử không một trở lực nào thể ngăn cản được: “ngọn xanh rờn, hình
mũi tên lao thẳng lên bầu trời.. phóng n rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng…” Cây
xà nu còn có một sức chịu đựng phi thường, sức sống nội tại bất diệt. Bởi vậy mà “đạn
đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
thân thể cường tráng”. Đối mặt với bom đạn hủy diệt của kthù, rừng nu vẫn hiện
ra với thế hào hùng, hiên ngang, bất khuất như chàng dũng khổng lồ, ngày ngày
“ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.
Chiến tranh năm tháng, kẻ thù đã dội xuống những cánh rừng nu biết bao nhiêu
bom đạn, ra sức tàn phá hủy diệt sự sống của thiên nhiên con người Tây Nguyên.
Những đồi nu, rừng nu vẫn nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Với kết cấu theo
kiểu vòng tròn, câu văn kết thúc u văn mở đầu được lặp lại gần như nguyên vẹn,
chỉ thay thế từ “đồi” bằng từ “rừng”, chữ “hết” bằng chữ “hút”. Minh chứng cho sự
trường tồn bất tử, sức sống bất diệt của thiên nhiên nơi đây không một sức mạnh
tàn bạo nào có thể ngăn cản và hủy diệt được.
Khi xây dựng hình tượng rừng nu, Nguyên Ngọc không chỉ tái hiện một bức tranh
thiên nhiên tráng lệ, hào hùng của mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ, mà rừng xà nu còn
mang ý nghĩa biểu ợng, ẩn dụ cho con người nơi đây. Trong c hai cuộc kháng
chiến chống Pháp chống Mĩ, nhà văn đều gắn u nặng với mảnh đất Tây
Nguyên. Nỗi đau thương của rừng nu cũng chính nỗi đau thương của dân làng
Xô man. Biết bao máu nước mắt, biết bao nỗi đau khổ thể xác và tinh thần đau đớn
nhưng cũng giống ncây nu, dân làng man luôn nêu cao tinh thần bất khuất,
quật cường với thế không bao giờ cúi đầu. Những lứa cây nối tiếp nhau trong rừng
nu biểu tượng cho các thế hệ nối tiếp nhau của dân làng man, luôn nêu cao
truyền thống anh hùng, bất khuất từ quá khứ đến hiện tại.
Tnú nhân vật trung tâm của truyện ngắn Rừng nu, linh hồn của tác phẩm.
Nhân vật được nhà văn khắc họa bằng ngòi bút mang đậm chất sử thi. Tnú tiêu biểu
cho số phận, phẩm chất của dân làng man, của nhân dân Tây Nguyên. Thời đại
lịch sử cùng với truyền thống đấu tranh anh dũng của dân làng đã góp phần hình thành
nên một con người đặc điểm chung của cộng đồng nhưng cũng nét riêng về số
phận và phẩm chất.
Trong nỗi đau thương của dân làng man, cuộc đời Tnú đã phải gánh chịu nhiều
đau thương, mất mát. Anh mồ côi cha mẹ từ bé, sống nhờ vào sự đùm bọc của dân
làng. Khi m liên lạc Cách mạng cho anh Quyết, Tnú đã bị giặc bắt, chịu đày và bị
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
tra tấn man với những vết dao chém lằn ngang, lằn dọc lưng. Sau khi vượt ngục
về làng, Tnú lấy vợ, sinh con nhưng đau thương vẫn tiếp tục ập đến với cuộc đời anh.
Người vợ trẻ cùng đứa con thơ chưa đầy tháng đã bị giặc đánh đập đến chết bằng
những trận mưa gậy sắt. đau đớn hơn, tận mắt Tnú phải chứng kiến cảnh vợ con
mình bị đánh đập cho tới chết bất lực. n bản thân anh thì bị bắt, bọn giặc dùng
nhựa xà nu đốt cụt mười đầu ngón tay. Có thể nói, cuộc đời Tnú đã phải chịu đựng nỗi
đau đớn tận cùng cả về thể xác lẫn tinh thần.
Mồ côi cha mẹ từ bé, lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của dân làng man, nên
Tnú rất nặng tình với mảnh đất con người Tây Nguyên. Xa quê hương, Tnú không
ngừng nhớ về quê nhà với tiếng chày giã gạo của người phụ nữ Strá, của Mai… Anh
đã vượt cả quãng đường dài trong cảnh khói lửa của chiến tranh chỉ đề trlại thăm
làng được một đêm anh chẳng còn người thân nào cả. thời gian trôi qua đã
ba năm nhưng anh vẫn nhớ từng nét mặt, hình dáng, giọng nói của mỗi người
nhận ra cả sự thay đổi của họ. Nỗi xúc động dâng trào của Tnú cũng niềm vui
sướng tình cảm của nồng hậu của con khi chào đón anh trở về đã thhiện tình
cảm yêu thương, gắn bó sâu nặng của Tnú với dân làng như máu thịt, ruột già.
Tình yêu thương Tnú dành cho vợ con ng rất chân thành, cảm động. Ngày Mai
sinh con, Tnú đã đi bộ cả ngày đường để kiếm vải về cho Mai địu con. Trong đêm
giặc kéo đến vây làng, khi tận mắt chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn, Tnú đau
đớn căm phẫn đến tột cùng: “Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ hai cục lửa lớn”.
Anh đã ng ra cứu vợ con trong sự liều nh tuyệt vọng, bất chấp sự nguy hiểm
đến tính mạng mình.
Nhưng tình yêu thương gia đình rất đỗi đời thường ấy đã góp phần xây đắp lên một
tình yêu lớn lao, cao cả hơn trong Tnú nh yêu đất nước, yêu Đảng, yêu Cách
mạng. Tnú lớn lên trong thời đại máu lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ý
thức và khát vọng về độc lập tự do đã thấm nhuần trong tâm hồn của mỗi người, được
lưu truyền qua các thế hệ của cộng đồng. Bởi vật ngay khi còn nhỏ, Tnú đã khắc
ghi lời dạy của Cụ Mết: “Đảng còn, núi nước này còn”. Tnú đã một lòng theo Đảng,
theo Cách mạng, cống hiến trọn đời mình vì độc lập, tự do của quê hương.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Không chỉ làm một con người trái tim tha thiết yêu thương, Tnú còn mang những
phẩm chất tinh thần vô cùng cao quý. Sinh ra lớn lên giữa đại ngàn, trong hoàn
cảnh của những cuộc chiến tranh ác liệt hào hùng. Tnú dường như được thừa
hưởng toàn bộ sức mạnh của Tây Nguyên hoang truyền thống quật cường của
dân làng Xô man. Bởi vậy, bên trong thân hình cường tráng với hai cánh tay rộng như
hai cánh lim chắc là dòng máu kiên trung bất và không bao giờ vơi cạn.
Ngay từ khi còn nhỏ tuổi, trong những năm tháng đau thương, đen tối nhất của Cách
mạng với sự tàn sát cùng man rợ nhưng Tcùng với Mai vẫn dũng cảm vào rừng
nuôi giấu cán bộ. Hai người trở thành liên lạc viên cho anh Quyết. Cậu Tnú luôn
bộc lộ sự gan dạ, thông minh. Đi rừng, Tnú không chọn lối đường mòn dễ đi tìm
những lối tắt rừng đi. Khi vượt sông, vượt suối, Tnú không lựa chọn những chỗ
nước êm chọn những quãng sông thác ghềnh chảy xiết. Bị giặc bắt tra tấn
man, Tnú vẫn cương quyết không khai nửa lời. Khi giặc hỏi cộng sản đâu, Tnú lấy
tay chỉ vào bụng nói “Cộng sản ở đây”. Vượt ngục quay về làng với những vết thương
bên mình, tuy đau đớn nhưng Tnú đã ngay lập tức cùng cụ Mết lãnh đạo thanh niên
trai tráng trong lành o rừng sâu mài giáo, mác để chuẩn bị cho ngày chiến đấu. Kẻ
thù man rợ đã hành hạ đến chết vợ con anh, đốt cụt mười đầu ngón tay anh. Bao đau
thương cả về thể xác lẫn tinh thần ập đến tưởng chừng làm Tnú gục ngã nhưng không,
anh vẫn kiên ờng vượt lên trên nỗi đau thương của số phận, tựa như một cây nu
trưởng thành với sức sống bất diệt “đạn đại bác không thể giết nổi chúng”. Anh đã
tham gia lực lượng quân giải phóng, chiến đấu anh dũng để trả thù nhà, đền nợ ớc.
trong một trận đấu giáp cà, anh đã giết chết tên giặc to béo như thằng Dực( tiểu
đội trưởng lính ngụy năm xưa).
Khi xây dựng hình ảnh nhân vật Tnú, nhà văn đã rất nhiều lần nhắc đến hình ảnh đôi
bàn tay của Tnú. Đôi bàn tay đó khi lành lặn đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình. Đôi
bàn tay đó cầm phấn học chữ anh Quyết dạy, từng tiếp tế lương thực cho cán btrong
rừng. Từng lấy đá đập vào đầu mình cho chảy máu để tự trừng phạt bản thân học
chữ thua Mai. Khi Tnú bị giặc bắt, chúng đã tẩm nhựa xà nu để đốt cụt mười đầu ngón
tay Tnú. ời đầu ngón tay trở thành mười ngọn đuốc. Lúc này, anh nghe lửa cháy
trong lồng ngực, cháy bụng. Máu anh mặn chát đầu lưỡi nhưng anh tuyệt không
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
kêu rên, cắn răng quyết không kêu than.Mười đầu ngón tay bị cụt đốt là bằng chứng tố
cáo tội ác man rợ của giặc. Đồng thời đã thổi bùng lên ngọn lửa của lòng căm hận với
kẻ thù xâm lược. Đôi bàn tay Tnú tàn nhưng không phế. Anh vẫn tiếp tục cầm súng
tham gia Cách mạng lập công lao. thể nói, số phận phẩm chất của người anh
hùng Tnú được khắc họa qua hình ảnh đôi bàn tay bị cụt đốt đôi bàn tay đau
thương, bàn tay căm thù và bàn tay chiến thắng.
Nguyên Ngọc đã viết lên câu chuyện về những con người kháng chiến với tất cả trân
trọng tự hào. Tác giả rất linh hoạt trong những tình huống truyện để đẩy câu
chuyện đến cao trào hoặc đưa ra những suy ngẫm trong độc giả. Từ việc xây dựng
hình tượng nghệ thuật rừng nu, đến câu chuyện về cuộc đời Tnú, về dân làng
man. Tất cả đều thấm đẫm nỗi đau nhưng rất đáng tự hào, ngợi ca về con người anh
hùng trong kháng chiến. Chính họ là những người làm nên chiến thắng.
Trong cuộc sống xô bồ, khi độc lập tự do đã ngay trước mắt thì mỗi lần đọc những
trang viết về năm tháng chiến tranh khiến ta không khỏi bùi ngùi c động. Những tác
phẩm văn học kháng chiến ra đời không chỉ kết tinh của một tài năng nghệ thuật
hay tái hiện con người thời đại một cách đơn thuần. Những tác phẩm như Rừng
nu đã và đang làm nhiệm vụ dựng xây, bồi đắp lòng yêu nước, lòng tự hào đến các thế
hệ con cháu Việt Nam hôm nay.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 3
Truyện ngắn “Rừng nu” được tác giả Nguyễn Trung Thành ng tác vào năm 1965
khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, đặc biệt chiến trường Tây
Nguyên Mỹ đang đổ quân vào để khủng bố giết chóc. Ra đời trong hoàn cảnh đó,
tác phẩm mang ý nghĩa quan trọng như nguồn cổ động viên lớn lao dành cho
con người Việt Nam, là động lực để quân dân ta kiên cường trong chiến tranh gian
khổ.
Trong truyện ngắn “Rừng nu” tác giả đã xây dựng hai hình ảnh lớn mang ý nghĩa
tượng trưng sâu sắc đó hình ảnh y nu hình ảnh những con người anh hùng
đại diện cho sức mạnh vẻ đẹp của người dân làng Man. Hình ảnh cây nu
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
được xuất hiện xuyên suốt tác phẩm. Cây xà nu là một loài cây đặc trưng của vùng đất
Tây Nguyên, gắn bó với cuộc sống sinh hoạt của người dân làng Man: lửa nu
trong mỗi bếp, trong đống lửa nhà ưng,... cây nu còn chứng kiến quá trình đấu
tranh của dân làng Man “đuốc nu được thắp lên trong những đêm người n
mài vũ khí” …. Dưới tầm bắn của đại bác rừng xà nu đã ưỡn tấm thân lớn của mình ra
che chở cho làng, gánh chịu đau thương để rồi “cả rừng hàng vạn cây không cây
nào không bị thương”. Cây nu còn nhân chứng trong cuộc nổi dậy của dân làng
trong đêm Tnú bị tra tấn, cây nu đã kề vai sát cánh cùng con người chiến đấu. Cây
nu còn mang những vẻ đẹp biểu tượng cho phẩm chất, tâm hồn ý chí của người
dân Tây Nguyên nói chung dân làng Man nói riêng. Loài cây này sức sinh
sôi nảy nở rất khoẻ, lớn rất nhanh để thay thế những cây đã ngã, vẻ đẹp ấy tượng
trưng cho sức sống bất diệt của người dân làng Xô Man, bên cạnh đó xà nu lại rất ham
ánh sáng mặt trời nên thường vươn cao, thẳng tắp giống như tinh thần yêu cách mạng,
quý tự do của người dân làng Man, từ người già đến trẻ nhỏ đều một lòng tin vào
lời dạy của cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Cây xà nu thường
mọc thành rừng biểu tượng cho tinh thần đoàn kết của dân làng Xô Man, trong mọi
hoàn cảnh gian khổ, đau thương mất mát các thế hệ người dân làng Man luôn
kề vai sát cánh bên nhau, trên dưới đồng lòng tuyệt đối trung thành với lời của cụ
Mết.
Dưới tán rừng nu ấy nơi những con người anh hùng với những phẩm chất tốt
đẹp, đại diện cho vẻ đẹp những con người dân làng Man nói riêng người dân
Tây Nguyên nói chung. Nổi bật nhất hình tượng nhân vật Tnú, đời thường Tnú
một chàng trai chung thuỷ tình yêu sâu sắc với Mai, bên cạnh đó anh cũng yêu
quê hương tha thiết, trước khi một người anh hùng, Tnú một người con ưu của
làng Man. Tnú nổi bật với tinh thần bất khuất gan góc, dũng cảm trung thành
với cách mạng. Khi còn nhỏ Tnú đã bộc lộ bản lĩnh cách mạng kiên cường, đóng
góp lớn cho sự nghiệp chung như tham gia phong trào nuôi giấu cán bộ trong rừng,
quyết tâm học chữ để làm cán bộ giỏi, rồi làm liên lạc cho anh Quyết để đưa thư. Khi
lớn lên Tnú cùng dân làng nung nấu ý chí đánh giặc bằng cách mài vũ khí giấu ở trong
rừng, khi giặc khủng bố giết chóc Tnú tận mắt nhìn thấy vợ con bị giết nhưng vẫn
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
phải nén nỗi đau riêng, quyết không phản bội lại cách mạnh. Ngay cả khi bị giặc tra
tấn “một ngón tay… răng anh đã cắn nát môi anh rồi”, bản lĩnh cách mạng giúp Tnú
có sức chịu đựng phi thường.
Tnú chính thế htiếp bước con đường của cha anh, người anh hùng tiêu biểu cho
truyền thống của làng Man. Bên cạnh nhân vật Tnú, cụ Mết người vai trò
quan trọng đối với dân làng Man, người già làng cụ luôn tinh thần giáo dục
truyền thống, dẫn dắt dân làng đi lên, cụ dạy dân làng “chúng súng mình phải
cầm giáo mác”, rồi cụ định hướng cho dân làng “đánh thằng Mphải đánh dài”, cũng
chính cụ thường xuyên kể chuyện về Tnú cho dân làng các thế hệ con cháu nghe.
Như vậy cụ Mết người vai trò quan trọng trong cuộc nổi dậy của người dân làng
Man, cụ đã giáo dục, định hướng dẫn dắt để dân làng đi lên, cụ Mết biểu
tượng cho sức chiến đấu kiên ờng, bất khuất. Dít người con gái đầy bản lĩnh,
ngay từ nhỏ đã bộc lộ bản chất gan góc tinh thần trung thành với cách mạng: lẻn
vào rừng tiếp tế lương thực cho du kích, khi bị giặc bắt và khủng bố tinh thần Dít nhìn
bọn giặc bằng ánh mắt bình thản, lạnh lùng. Khi lớn lên đảm nhiệm nhiều chức vụ
quan trọng Dít làm việc rất nghiêm túc, biết kìm nén tình cảm riêng đặt nhiệm vụ
chung lên trên hết. Dít Heng giống như thế hệ cây xanh mới mọc lớn rất
nhanh, bé Heng trông nhỏ con nhưng thuộc hết những vị trí hầm chông, hố châm, biết
tham gia công cuộc chung của dân ng, tỏ ra mình một người lính thực sự. N
văn đã xây dựng hệ thống nhân vật với ba thế hệ, tầng lớp cha anh (cụ Mết), tầng lớp
thanh niên (Tnú), tầng lớp măng non (Dít Heng), tất cả họ đều mang những
phẩm chất đại diện cho phẩm chất của cộng đồng, những con người mang tầm vóc
lịch sử.
Truyện ngắn “Rừng nu” với sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi cảm hứng
lãng mạn đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về hình tượng cây
nu những con người “anh hùng dân tộc” của làng Man trong thời chiến tranh
chống Mỹ. đậm truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của dân tộc ta đồng
thời cổ vũ và ca ngợi thế hệ con em noi gương cha anh tiếp bước gìn giữ non sông.
Phân tích Rng xà nu - Mu 4
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
th coi Rng nu kết tinh ngh thut ca Nguyễn Trung Thành khi tài năng
ca ông độ viên n, tròn đầy nht. Bi vậy, đây cũng th coi mt trong
nhng tác phm thành công nht trong s nghiệp văn chương cả ông. Rng nu
mt bn anh hùng ca v con người rng núi Tây Nguyên đó tập th anh hùng,
tp th đứng lên giành t do, độc lp cho chính mình.
Truyện được m đầu bng mt khung cnh hết sc khc liệt, nhưng lại được tác gi
trn thut bng giọng điệu rất đi bình thn: “Làng trong tầm đại bác của đồn gic.
Chúng bắn đã thành lệ, mi ngày hai ln, hoc bui sáng sm và xế chiu, hoc
đứng bóng sm ti, hoc na đêm tr gáy. Hu hết đạn đại bác đều rơi vào
ngọn đồi nu, cạnh con c lớn.” Chỉ bng một câu văn hết sc ngn gọn nhưng
tác gi đã khái quát đưc không khí chiến tranh cùng khc lit, s sng luôn b đe
da hy dit bởi bom đn khói la chiến tranh. Để làm rõ s tàn phá khng khiếp
ca chiến tranh đối vi thiên nhiên, Nguyễn Trung Thành đã rất k công, dùng tng
con ch đậm cht tạo hình để to lên nhng hình khối đầy sc ám ảnh: “Ở ch vết
thương, nhựa a ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nng gay gt, ri dn dn
bm lại, đen đặc qun thành tng cc máu lớn”. “Rọi t trên cao xung tng lung
thng tp, lóng lánh vô s hnh bi vàng t nha cây bay ra, thơm mơ màng” “c rng
nu hàng vn cây không cây nào không b thương” . Nhưng bị tàn phá, hy
diệt như vậy, nhưng làng cũng như nhng y nu không bao gi b hy dit,
chúng b cắt làm đôi đi chẳng na. Cnh nhng cây b đốn đổ “đã bốn năm
cây con mc lên, ngn xanh rn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bu trời”. Sự vươn
lên mnh m đó không ch đơn thuần bản năng sinh tồn còn khao khát mãnh
liệt vươn lên ánh sáng, mà không có bt c thế lc nào có th ngăn cản đưc.
th thy rằng trong đoạn văn miêu tả cây nu tác gi s dng ch yếu bin pháp
nhân hóa, để làm ni bt v đẹp và sc sống kiên cưng của loài cây này. Nhưng đng
thời đằng sau hình nh nhng cây xa nu ta còn thấy đưc bóng ng ca nhng con
người nơi đây, những con người đang ngày đêm sốngi tầm đại bác ca giặc, cũng
mang trong mình đầy thương tích nhưng h chưa bao giờ khut phc hay chu gc ngã.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Sau những trang văn miêu t v rng nu, theo dòng k ca c Mết, mt trang lch
s cùng hào hùng ca dân làng Man dn dn hin lên. Nhng trang s đấu
tranh hào ng của nhân dân Man cũng như những cây nu kia không th o
dp tt. Trưc có c Mết, anh Xút, bà Nhan. Tiếp ni có thế h của Tnú, Mai… Cứ thế
các thế h ni tiếp nhau, kế tc truyn thng v vang ca buôn làng. Trong s nhng
nhân vật đó, nổi bt nht là nhân vt chính Tnú.
Trưc khi tr thành mt chiến cách mạng, ngay t nh Tnú đã bc l mình mt
người kiên định, có ng cách mng. Để tr thành mt chiến cách mạng trung
kiên, điềm tĩnh nào ai biết rằng, Tnú đã phải tri qua biết bao th thách. Trước khi
tr thành một người đàn ông trưởng thành Tnu đã một cu hết sc nóng gin,
không nh đưc mt ch cu sẵn sàng đập v bng, lấy đá ghè đầu. Nhưng lại cũng
rt cu tiến, ng hôm sau gọi Mai phía sau để hi v những bài đã học. Nhng hành
động y cho thy s ngoan ng, bn b ngay t tm ca chàng trai này. gia
hai con người đó đã nảy sinh mối tình cùng đẹp đẽ, kết tinh tình yêu ca h chính
đứa b bm, khe mnh. Những ng rng cuc sng ca h s viên mãn hnh
phúc. Nhưng chính lúc y hàng lot biến c, khiến cuộc đời Tnú chuyn sang mt
hướng khác.
Trong mt trn càn ca giặc Tnú đã không bo v đưc m con Mai, tình yêu, tình
mu t chi trong một đêm đã hoàn toàn biến mt. Biến Tnú t k tt c tr thành
trng tay. Không ch vy, chính bản thân Tnú cũng bị thương. Mười đầu ngón tay anh
tr thành mt ngọn đuốc ln, rng rc cháy sáng. Mai chết đi, đứa con đưc Mai
c gng bo v nhưng cuối cùng vn không thoát khi cái chết. Lòng căm phn trào
dâng, đến lúc này Tnú không th c mãi np trong bóng tối, “hai con mắt anh bây gi
hai cc la lớn” anh xông vào k thù bng sc mnh cùng lớn. “Anh không biết
đã làm gì. Chỉ thy thng lính gic to béo nm nga ra gia sân, thng gic tháo chy
vào nhà ưng”. Nhưng kết cục cũng vẫn không cứu được Mai. Ging c Mết đến đây
trm xuống, như càng khắc sâu thêm o tâm khm Tnú nỗi đau bị mất gia đình, để
anh không bao gi quên mi thù với người tàn ác. Sau khi gia đình mt, Tnú tiếp
tục đi lực lượng, tr thành mt chiến cách mạng kiên trinh chính anh đã s dng
bàn tay b thương của mình để giết k thù. Bi vy hình nh bàn tay hình nh ngh
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
thuật đầy sc ám nh trong tác phm. Bàn tay y biu hin ng nht cho ti ác
ca k thù. Đôi bàn tay y còn th hin s kiên định trách nhim ca một ngưi chiến
cách mạng. Đôi bàn tay yêu thương, dựng xây gia đình cùng Mai, gia đình sn
sàng xông vào ch chết. Hơn cả đôi bàn tay ấy còn tượng trưng cho ý chí ngh lc
kiên cường, dù b khuyết thiếu vn có th tiêu dit k thù.
Tnú th coi kết tinh sc mnh s phn của dân làng Man cũng như ca
nhân dân Vit Nam. Anh va mang nỗi đau, mất mát , cũng như s anh dũng chung
ca dân tộc. Nhưng đồng thi lại cũng những nét hết sc khu bit s hôn hu
nng thắm đậm cht Tây Nguyên. Những nét chung riêng đó khiến cho tính cht
biểu tượng ca nhân vt càng đưc th hiện rõ nét hơn.
Ngoài nhân vật Tnú, ta cũng không th không nhắc đến tp th anh hùng dân làng
Man. C Mết ngưi trc tiếp ch huy mọi người đấu tranh. C con chim đầu
đàn ngưi gi la truyn la cho thế h tương lai. C chính kho s thi sng
động, bồi đắp ng yêu nước lòng căm thù giặc cho nhng thế h tiếp c. Hai
nhân vt Dít Heng tuy ch xut hin rất ít, nhưng đó chính những cây nu non,
sinh sôi mnh m , tiếp bước thế truyn thng v vang ca cha anh.
Bng ngh thut xây dựng hình tượng ngh thuật đặc sc, Nguyễn Trung Thành đã
dng lên bức tranh ngưi cảnh đẹp đẽ, anh dũng về nhân nhân Man núi rng
Tây Nguyên. Đây th coi khúc tráng ca ca ngi v đẹp thiên nhiên con ngưi
nơi đây.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 5
Tác phẩm “Rừng nu” được Nguyễn Trung Thành viết năm 1965 được in trong
tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Ngay nhan đề của truyện ngắn,
ta có thể hình dung về những cảnh rừng nu xanh bạt ngàn sức sống mãnh liệt
như những người dân của buôn làng Xô Man.
Hình ảnh rừng nu ngay phần đầu tác phẩm. nu loại cây họ thông, mọc
nhiều khu vực Tây Nguyên. Trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành, “rừng nu
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
nối tiếp chạy đến chân trời”. Cây mọc thành khu rừng rộng lớn trở thành loài cây
đặc trưng của mảnh đất Tây Nguyên anh dũng.
Ngay từ những câu mở đầu tác phẩm, rừng xà nu được tác giả miêu tả là bao quanh
che chở cho buôn làng Xô Man tránh khỏi những trận đại bác của quân địch. Nhưng vì
sự khốc liệt của chiến tranh, cả cánh rừng ng vạn cây xà nu đều bị thương, thậm chí
“có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.
Người dân nơi đây yêu rừng xà nu vì đây là loài cây gắn bó với dân làng, là người bạn
đồng hành từ khi họ sinh ra, lớn lên, già đi và đến khi về với đất mẹ. Dưới tán cây
nu những nét đẹp văn hóa của những buổi sinh hoạt cộng đồng của đồng bào Tây
Nguyên và còn là nơi hò hẹn của trai gái trong buôn làng.
hơn thế, nu còn đồng đội của n làng, khi ngọn đuốc nu sáng rực trong
đêm cùng dân làng nổi dậy chống kẻ thù. Khói xà nu thì xông bảng nứa đen kịt để anh
Quyết dùng làm công cụ dạy Tnú Mai học bài. Rồi lửa nu còn soi sáng “xác
mười tên lính giặc ngổn ngang” chứng minh cho sự kiên cường, anh dũng của buôn
làng Xô Man.
Bên cạnh ý nghĩa tả thực, cây nu còn biểu tượng cho số phận phẩm chất cao
đẹp của những người con Tây Nguyên. Hình ảnh rừng nu chịu bao trận đại bác của
địch gợi những đau thương mà nhân dân phải gánh chịu. Nhưng khâm phục thay, bom
đạn của kẻ tkhông thể ngăn được sự sinh sôi, sự lớn mạnh của cây nu. “Cạnh
một cây nu mới ngục, đã bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình
nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. chịu nhiều tổn thương, những lứa cây
mới sẽ nhanh chóng mọc lên và “đạn đại bác không giết nổi chúng”.
Bởi vậy, trong suốt cuộc chiến, “rừng nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở
cho làng”. Hình ảnh “anh hùngấy của rừng nu biểu ợng cho sức mạnh quật
cường, bất diệt cho những thế người con Tây Nguyên. thế hệ trước ngã xuống sẽ
thế hệ sau tiếp nối. nu còn loài cây ham ánh mặt trời, như Tnú dân làng
Xô Man luôn hướng mình theo ánh sáng của cách mạng.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Qua việc phân tích rừng nu, đặc biệt là hình ảnh rừng nu thể thấy, đây một
sáng tạo độc đáo của nvăn Nguyễn Trung Thành. Rừng nu khi được nhìn từ
xa, có khi được miêu tả rất gần. nu không chỉ là một hình ảnh thực còn mang ý
nghĩa biểu tượng, tượng trưng cho khí chất, cho dáng dấp của những con người anh
hùng Tây Nguyên.
Mặc dù rừng xà nu là hình ảnh đầu tiên được nhắc đến cũng là nh ảnh biểu tượng
được tác giả dùng để đặt nhan đề tác phẩm, nhưng thực chất con người Tây Nguyên là
những nhân vật mà Nguyễn Trung Thành muốn khắc họa hơn cả.
Và tiêu biểu cho những con người ấy Tnú, người chiến sĩ trẻ kiên cường, bất khuất.
Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi cán bộ. Khi Tnú học chữ thua Mai, Tnú
lấy đá tự đập vào đầu. Nhưng được anh Quyết khuyên “Tnú phải làm cán bộ thay
anh”, Tnú đã quyết tâm học chữ.
Khi đi liên lạc, Tnú “xé rừng đi”, “lựa chthác mạnh bơi ngang, ợt lên trên
mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Tnú cũng là người nhanh trí,
khi bị giặc bắt thì liền nuốt thư vào bụng.
Khi Tnú lớn lên, anh cùng dân làng mài khí để chiến đấu. Khi thằng Dục biết được
tin này, m cách bắt Tnú. Anh bị tra tấn bằng cách quấn giẻ đã tẩm dầu nu lên
hai bàn tay rồi đốt. Tnú không thcứu được mẹ con Mai còn chứng kiến mẹ con
chết trước mắt mình. Nỗi đau mất vợ và đứa con chưa còn chưa chào đời cùng nỗi đau
bị tra tấn đã biến thành nỗi căm hờn, uất hận trong Tnú.
Lúc này, đau đớn Tnú không kêu lên một tiếng, chỉ trợn mắt nhìn thằng Dục.
Sự căm thù, tinh thần kiên cường khiến anh “không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay
nữa”, anh nghe lửa như đang cháy trong lồng ngực, cháy bụng. “Máu anh mặn
chát đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Phân tích rừng nu thể thấy,
Tnú không chỉ người mang phẩm chất anh hùng còn người sâu nặng nghĩa
tình. Tnú cũng là người chồng, người cha yêu thương vợ con.
Bên cạnh nhân vật Tnú, truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành còn khắc
họa thành công các nhân vật khác như cụ Mết, anh Quyết, Mai, Dít, Heng… Qua các
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
nhân vật này, tác giả đã làm nổi bật những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau một lòng yêu
nước, một lòng đi theo lý tưởng của Đảng.
Anh Quyết n bộ cách mạng, người dạy chữ cho Mai Tnú. anh cũng
người vai trò nhen “lửa yêu nước” “lửa đấu tranh” cho người dân Tây Nguyên.
Anh như người khai sáng, người giáo dục tinh thần cách mạng cho những người trẻ.
Bằng tấm lòng, bằng tình yêu ớc anh đã khơi gợi Tnú tinh thần chiến đấu
tưởng cách mạng, tin theo Đảng và bác Hồ.
bài phân tích rừng nu sẽ không trọn vẹn nếu ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ
già làng, người anh hùng thuộc thế hệ trước, người lãnh đạo buôn làng nổi dậy
chiến đấu. Cụ cũng người kể chuyện cho các thế hệ thanh niên trong lòng về cuộc
đời người anh ng Tnú. Cụ cũng được trao cho sứ mệnh truyền đạt khẳng định
con đường cách mạng nhân dân ta phải đi, đó là” “Chúng đã cầm súng, mình
phải cầm giáo”. Nghĩa chúng ta không thể chịu áp bức mãi được, chúng ta phải
đứng dậy, phải cầm giáo đấu tranh cho chính nghĩa.
Những thế hệ sau của cụ Mết, của Tnú Dít Heng, chúng sẽ người nối tiếp con
được của thế hệ đi trước. Sau này Dít lớn lên trở thành chính trị viên đội, thư
chi bộ. Nhưng ngay từ khi còn nhỏ, Dít đã thật gan dạ nhờ vào sự giáo dục về lí tưởng
cách mạng của thế hệ đi trước. chỉ một bé, Dít đã rất bản lĩnh không run
sợ trước súng đạn của quân địch.
Còn cậu Heng, ngày Tnú ra đi, “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa
biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy”, nhưng khi Tnú về
thăm làng, Heng đã trở thành một người lính kiên cường. Heng thể dẫn Tnú đi qua
những con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn
thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gãy đôi ống
quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. vẫn còn một đứa
trẻ, cậu đã thật dũng cảm, mảnh ghép không thể thiếu của một tập thể anh hùng
trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Qua phân tích tác phẩm Rừng nu thể thấy, tác phẩm thấm đẫm chất sử thi hùng
tráng. Điều này thể hiện ngay từ chủ đề tác phẩm, đến nhân vật, giọng điệu. Thông
qua tác phẩm Rừng nu”, tác giả đã tái hiện một không khí hào hùng một thời
chống Mỹ của buôn làng Xô Man nói riêng và cả dân tộc ta nói chung.
Như đã phân tích xuyên suốt tác phẩm, ta thể thấy điểm nổi bật của “Rừng nu”
không chỉ là hình ảnh rừng nu phần đầu còn tuyến nhân vật là những người
anh hùng, kiên cường, bất khuất giữa Tây Nguyên đại ngàn. Phân tích rừng nu ta
như đang hát một khúc ca chiến đầu hào sảng, được hòa mình vào khí thế đấu tranh
của những người dân buôn làng Man chân chất anh dũng. Đồng thời, kết cấu
của tác phẩm được xây dựng theo hình thức truyền lồng trong truyện thực đã mang lại
sự hấp dẫn cho tác phẩm của Nguyễn Trung Thành.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 6
Trong nền văn học nước nhà, thể loại văn xuôi được biết đến một trong những thế
loại đạt được nhiều thành tựu đáng kể, trong các tác phẩm không thkhông nhắc đến
bài “rừng nu” của Nguyễn Trung Thành, một bài sử thi đậm chất Tây Nguyên.
Trong đó tác giả khắc họa thành công hình tượng cây nu, làm cho ta cảm thấy hào
hùng, sự chiến đấu của con người Tây Nguyên.
Tác giả Nguyễn Trung Thành nhà n của Tây Nguyên, ông còn hoạt động chiến
trường miền Nam thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là tác phẩm
tiêu biểu của tác phẩm, hình tượng “cây nu” hình ảnh trung tâm trong bài văn.
nu được biết đến loài cây phổ biến i rừng Tây Nguyên, dẻo dai, kiên cường
bất khuất như người dân Tây Nguyên, sống trong một i trường khắc nghiệt nhưng
nó vẫn bền bỉ.
Hình ảnh cây nu được như những con người Tây Nguyên không chịu đầu hàng
với số phận, với thời tiết, không chịu đầu ng, luôn hướng về phía trước để bảo vệ
độc lập, tự do của bản mình, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những cây nu
vươn mình bảo vệ dân làng khỏi bão táp, khỏi sự săn đuổi, giúp cán bộ cách mạng
thực hiện được chiến lược của mình.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Cây nu gắn liền với đời sống hàng ngày với người dân Tây Nguyên, sự trưởng
thành từng của các thế hệ dân làng Man, đó từ Tnú, chị Mai, cụ Mết, Heng,
đó những người thế hệ từ đời này sang đời khác, mỗi thế hệ đều cố gắng lớn lên,
thay nhau bảo vệ ngôi nhà Tây Nguyên của mình, cây nu vẫn gắn bó, trải qua
bao bom đạn với dân làng nơi đây.
thể nói “cây nu”chính linh hồn của Tây Nguyên, nó đã lớn lên, ăn sâu trong
mỗi tiềm thức con người Tây Nguyên, khi nhắc đến loài cây này, dường như ta cảm
thấy sự hào hùng, cây mọc thẳng, vươn vai, cao lớn, hướng tới ánh sáng cũng như
người dân Xô Man hướng tới hạnh phúc, sự độc lập dân tộc.
Trong lịch sử kháng chiến của dân làng Tây Nguyên, cây nu chính người bạn
chiến đấu, t cánh ng người dân, chính biểu tượng tinh thần ý chí quật
cường, mặc bị thiêu rụi thì cây nu vẫn kiên ờng bảo vệ âm dòng nhựa để
cho cây non mọc lên, cũng như Tnú từ một cậu dần dần được cách mạng nuôi
dưỡng, bảo vệ lớn dần khi trưởng thành chiến đấu, bị đốt mười ngón tay những
vẫn cầm súng chiến đấu.
Tác giả đã miêu tả hình tượng cây nu ẩn dụ, miêu tả cây bằng nghệ thuật nhân hóa
như những con người Tây Nguyên, nói lên sự hi sinh, cũng miêu tả cảnh bị áp
bức bóc lột đến tàn bạo bọn thực dân đối với dân làng Man, cây nu bị thiêu
rụi, cũng chính sự mất mát, đau thương cứ chồng chất khiến cho lầm than cứ nối
tiếp. Hình ảnh Mai Tnú bị tra tấn nhưng họ vẫn chịu đựng, gắng ợng đến phút
cuối cùng.
Mối quan hệ giữa người dân với cây nu một sợi dây gắn kết rất bền chặt,
khăng khít không ai thể tách rời, cây nu chính người bạn từ thuở ấu thơ, trải
qua bao thăng trầm lịch sử với dân làng, chúng chính là hàng rào bảo vệ kiên cố, dù bị
thiêu rụi vẫn cố gắng đứng lên như con người Man, tuy không thể nói, không thể
biểu hiện cảm xúc nhưng những cây nu lại làm ta cảm thấy thêm niềm tin, sức
mạnh chiến đấu đến cùng.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Cứ thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau lại đứng lên nối tiếp nhau, phát huy hết sức mạnh
chiến đấu, cũng như cây nu già chết lại trên thân cây đó cây nu con mọc lên
vươn vai để bảo vệ người dân Man, từ thế hệ lão làng như cụ Mết, rồi đến Tnú
cuối cùng là bé Heng, ở họ đều có sự khao khát cháy bỏng về một tương lai tươi đẹp
phía trước đang chờ đợi họ.
Trong tác phẩm rừng nu chắc chắn hình ảnh Tnú và cây xà nu được ví như hai hình
ảnh song song nhau, nhiều mối tương đồng, hỗ trợ lẫn nhau, làm nổi bật được ý chí
và tinh thần chiến đấu của nhau, một cây nu to, chắc, vươn rộng vai mình bao trùm
dân làng cũng như Tnú một chàng thanh niên khỏe mạnh cùng cán bộ,cùng các già
làng đấu tranh đuổi bọn giặc Mỹ ra khỏi làng, để người dân một cuộc sống êm
đềm, không còn sống trong sợ hãi, hi sinh bản thân vì độc lập, tự do.
Sự khát vọng hòa bình, sự bình yên cho cả nước, những ước mong người dân luôn
khao khát từng ngày, bằng tình yêu bao la của mình đối với Tây Nguyên, câu văn
miêu tác giả dùng những tả qua hình ảnh cây nu, làm tăng thêm giá trị nghệ thuật,
sự kiên cường của từng con người Man, sự quan sát một cách tinh tế, Nguyễn
Trung Thành đã khiến cho người đọc cảm nhận được sự mất mát đau thương
người dân nơi đây phải chịu thông qua hình nh cây nu, một trái tim đồng cảm
và chua xót cho con người Tây Nguyên.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 7
Nguyễn Trung Thành còn bút danh khác nhà văn Nguyên Ngọc ông viết truyện
ngắn "Rừng nu" sau những ngày đi tìm kiếm thực tế sáng tác tại núi rừng Tây
Nguyên hoang sơ. Truyện ngắn "Rừng nu" nhằm ca ngợi những người dân Tây
Nguyên kiên ờng, trung thành, bất khuất trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm
lược.
"Rừng xà nu" một truyện ngắn chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn, tình cảm lòng
yêu nước cùng to lớn của những người dân vùng núi đại ngàn. Tác phẩm chính
một bản hùng ca bi tráng mang đậm tính sử thi viết về những người dân Tây Nguyên
gan dạ, mưu trí, yêu nước hơn yêu cả mạng sống của mình. Nhờ có tinh thần bất khuất
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
kiên cường đó toàn dân ta mới chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại hai
kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm chính hình ảnh những cánh rừng nu. Một rừng
nu bạt ngàn xanh tươi, trải dài tới hút tầm mắt. Một rừng nu mà không cây nào
không bị thương, bởi mỗi khi kẻ thù muốn đánh người dân nơi đây chúng đều thả rất
nhiều bom đạn trút xuống cánh rừng nu. Nên việc nu bị thương điều cùng
dễ hiểu. Nhưng bị thương hay vết thương khiến cho nhựa y chảy ra thật nhiều
thì những cây xà nu kia cũng không bao giờ chết. Chỗ vết thương theo thời gian sẽ tạo
thành một vết sẹo thôi. Không có một loài cây nào ham sống như cây nu, nếu
một cây to bị gục xuống thì ngay dưới chân lại vài cây con mọc lên. Những
cánh rừng xà nu cứ vì thế mà xanh tươi mãi mãi.
Hình ảnh những cây nu kia chính biểu ợng của người dân Tây Nguyên, những
con người luôn trung thành với Đảng với ch mạng Bác Hồ. Những con người
Tây Nguyên từ người già như cụ Mết, cho tới Tnú, Mai, Dít Heng đều có tinh
thần yêu nước. Những người dân của làng Strá ít nhiều lớn cũng luôn
một lòng hướng về quê hương của mình, có lòng căm thù giặc sâu sắc.
Nhân vật chính trung tâm song song với nh tượng cây xà nu chính anh Tnú một
người anh hùng. Một chiến cách mạng kiên trung trải qua nhiều đau khổ khó
khăn trong tình cảm riêng nhưng Tnú càng thêm kiên cường căm thù giặc sâu
sắc. Tnú vốn một cậu chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống ba mẹ anh qua đời
trong một trận càn quét của giặc. Tnú được cụ Mết người dân trong làng Man
nuôi dưỡng nên người. Ngay từ nhỏ Tnú đã tỏ tinh thần anh ng, kiên cường của
mình, Tnú làm liên lạc việc đưa thư cho các chiến cách mạng, để tránh sự truy đuổi
của kẻ thù Tnú thường đi đường mới không đi những con đường mòn dễ đi. Rất nhiều
nhiệm vụ khó đã được Tnú hoàn thành. Có lần Tnú bị giặc bắt được chúng tra tấn Tnú
nhưng anh vẫn kiên ờng không khai âm thầm nuốt thư vào bụng của mình để
bảo đảm an toàn của bức thư.
Ngày còn nhTnú Mai bạn thanh mai trúc mã, cả hai được cán bộ Quyết dạy
chữ. Mai thông minh học đâu nhớ đó, còn Tnú thì cứ quên hoài nên anh đã lấy viên đá
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
đập vào tay của mình để nhắc nhở mình phải ghi nhớ. Khi lớn lên Mai Tnú kết hôn
họ đã thêm em kết quả tình yêu của hai người. Nhưng Mai bị bọn tay sai bắt
đi tra tấn dã man khiến cho Mai và em bé trong bụng tử vong. Tnú đau đớn ôm xác vợ
con. Anh bị bọn chúng tra tấn man đốt cháy mười ngón tay, nhưng Tnú không
hề cảm thấy đau đớn nỗi đau trong lòng anh còn lớn hơn nỗi đau thể xác. Tnú như một
cây nu trưởng thành bị giặc bắn phá bị thương, nhưng vẫn luôn kiên cường vươn
lên và không bao giờ gục ngã.
Truyện ngắn "Rừng nu" của nhà văn Nguyễn Trung Thành một truyện ngắn
cùng thành công của nhà văn viết về đề tài những người dân Tây Nguyên trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh những cây nu anh dũng hiên
ngang tựa như những người dân làng Xô Man bất khuất trung hậu, quả cảm.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 8
Nguyễn Trung Thành là nhà văn sinh ra ở vùng đất Thăng Bình, Quảng Nam, tên khai
sinh của ông Nguyên Ngọc. Sinh ra lớn lên trong cảnh đất nước lầm than khi
phải trải qua hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc, hơn ai hết, ông trân quý khâm
phục những con người hy sinh hết mình cho cách mạng, cho Tổ quốc thân yêu.
Đặc biệt đối với vùng đất Tây Nguyên anh dũng cùng những con người bộc trực, dũng
cảm, kiên trung một lòng gắn cách mạng được ông ưu ái dành nhiều niềm
thương yêu. Bởi vậy bao nhiêu cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh
hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để ông viết nên tác phẩm Rừng nu đầy
thành công, trở thành một kiệt tác gắn bó với tên tuổi của mình.
Rừng nu được viết vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt. Tác
phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương
những anh hùng Điện Ngọc”. Đây bài ca ca ngợi bản lĩnh, ý chí sắt đá, bất khuất
kiên cường của đồng bào Tây Nguyên.
Rừng nu quanh làng man được tác giả giới thiệu trong đoạn đầu tác phẩm đầy
độc đáo. Một rừng cây luôn "nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", bị súng đạn bắn
phá liên tục, sự hủy diệt cùng tàn bạo của quân giặc trước sức sống của thiên nhiên
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
- " Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn". Một cảnh tượng đầy
đau thương hiện ra trước mắt, bao nhiêu cây nu không cây o không bị trúng
đạn, cây nào cũng bị vết thương loang lổ, loét mãi ra rồi chết.
Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên, cây
vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào. Song, rừng nu ấy vẫn không chịu khuất phục,
những cây ờng tráng nhanh chóng tự chữa lành vết thương. Chúng vẫn tiếp tục sức
sống mạnh mẽ của mình để dang rộng vòng tay che chở cho ngôi làng thân yêu.
Cây nọ tiếp y kia vẫn sinh sôi nảy nở, sự sống vẫn đâm chồi trước sự tàn phá của
quân thù “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên".
Cây xà nu tự mình đứng lên, trường tồn và phát triển, dũng cảm hiên ngang trước bom
đạn kẻ t"hai ba m nay rừng nu ưỡn tấm ngực lớn của nh ra, che chở cho
làng". Hình ảnh rừng nu hiện lên thật đẹp, thật đáng tự hào biết bao. Cây nu
chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, đại diện tiêu biểu cho con người Tây
Nguyên, hình ảnh n dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên từ trước
đến nay. Trong đau thương vẫn ánh dũng kiên cường, trong áp bức vẫn tràn trề hy
vọng, vẫn mang ý chí đấu tranh, nguyện theo gương cách mạng, sự sống bất diệt
của buôn làng Xô man.
Sau hình ảnh nu, tác giả tiếp tục tái hiện chân thực cuộc sống chiến đấu của
người dân nơi đây. Họ những thế hệ giàu lòng yêu nước, niềm tin lớn lao vào
cách mạng, những gương anh hùng sáng chói với non sông, Tquốc. Đó một Cụ
Mết đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh giàu
lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu.
một người nhìn xa, thấu hiểu dân làng, một chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của
làng Xôman.
Với cụ "Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn". Chân lý “Chúng nó dùng súng,
mình phải cầm giáo" của cụ như một lời tuyên ngôn trong cuộc chiến của dân tộc. Đó
còn một Tnú với những phẩm chất anh hùng. Khi còn nhỏ, anh sớm đã giác ngộ
cách mạng, phấn đấu để trở thành những người như anh Quyết lãnh đạo cách mạng.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Một cậu gan góc đầy dũng cảm, giữa bao chiến trận đầy súng đạn của giặc, cậu
bé giao liên vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Khi bị bắt, Tnú vẫn một lòng trung thành bị tra tấn đầy ác độc, nhưng vẫn nhất
quyết giữ bí mật. Sau khi vượt ngục, những tưởng được hạnh phúc bên vợ con thì giặc
tiến vào diệt phong trào nổi dậy, một lần nữa Tnú phải chịu đau thương trước sự tra
tấn khổ đau khi vợ con bị giết không làm được. Càng trong đau thương,
phẩm chất anh hùng càng ngời sáng trong Tnú, càng trong áp bức càng kiên cường
đứng lên trả mối thù lớn cho vợ con, cho chính mình cho dân làng man yêu
dấu.
Tiếng thét m hờn tiếng căm phẫn, lòng giữa cuộc chiến, tiếng hiệu triệu
người người đứng lên giết chết quân thù, cướp nước. Bàn tay bị đốt ời ngón
nhưng không thiêu rụi được ý chí của người con Tây Nguyên. Cuối cùng, Tnú cũng đã
giết chết được thằng Dục, kẻ đã thẳng tay giết người thân của anh, trả mối thù sâu
nặng bấy lâu. Tnú tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong cách mạng, tình
yêu và đem hết sức mình phục vụ quân giải phóng.
Đó còn những Dít, Heng,... thế hệ tiếp nối bao chiến công cha anh để cùng nhau
chung sức đưa thắng lợi đi đến cuối cùng. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, ngày càng
trưởng thành, kiên ờng chiến đấu xứng đáng với hi sinh của cha anh. Dường như,
trong cuộc chiến khốc liệt, con người Tây Nguyên càng khẳng định được chính mình.
Trong lầm than, đen tối, họ lại càng kiên dũng, ngời sáng tuyệt vời.
Rừng nu nhân dân làng man như hai một, đều chịu nhiều đau thương,
đều vươn mình mạnh mẽ. Đó là sức sống bất diệt, là tinh thần bất khuất của con người
Tây Nguyên nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.
Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh ớng sử thi cảm hứng ng mạn, Nguyễn
Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Nguyên
qua đó còn đặt ra một vấn đề mang nh thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự do
cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 9
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
“Rừng nu” một trong những tác phẩm để lại ấn tượng về dấu ấn nhân nhất
trong phong cách viết văn của nhà n Nguyễn Trung Thành. Bên cạnh đó,”Rừng
nu” còn là một tác phẩm có vị trí quan trọng trong văn học kháng chiến chống Mỹ. Đó
một bài hịch đanh thép hùng hồn cổ mọi người đứng lên chiến đấu giành độc
lập.
Nhan đề “rừng numở ra hình tượng trung tâm tác phẩm. Đó một loài cây đặc
trưng của vùng Tây Nguyên. Qua đó, góp phần tạo nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ,
tráng lệ, tạo ra không gian nghệ thuật rộng lớn. gợi dậy hương sắc Tây Nguyên,
sức sống và hơi thở Tây Nguyên. Từ đó soi sáng tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.
Rừng nu hình ảnh mở đầu cũng hình ảnh xuyên suốt kết thúc tác phẩm.
vậy thể nói đây hình ảnh bao trùm truyện ngắn một vai trò quan trọng
trong việc thể hiện tưởng, chủ đề tác phẩm. trở đi trlại như một ám ảnh của
nhà văn cũng như bạn đọc. Đây hình ảnh khơi nguồn cảm xúc để nhà văn sáng tạo,
suy ngẫm, mạch thẩm để dẫn dắt nhà văn miêu tả, kể chuyện đúng với những
tâm sự của ông.
Cây nu hiện lên với những vẻ đẹp tự nhiên gắn liền với năm tháng kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của người dân Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành sử dụng những
câu văn ngắn tạo nên nơi người đọc ấn ợng khá mạnh mẽ vbối cảnh lịch sử, thời
đại. Qua đó, nhà văn thể hiện giá trtố cáo mạnh mẽ bản chất độc ác, man của kẻ
thù cũng như sức hủy diệt vô cùng của bom đạn, chiến tranh.
Hầu hết tác giả u lên một cách trực tiếp bom đạn không chỉ hủy diệt con người
còn hủy diệt cả thiên nhiên. Để rừng nu, cây nu hiện lên trong hoàn cảnh đặc
biệt giúp nhà văn làm nổi bật sức sống dẻo dai, mãnh liệt. Thiên nhiên đây không
chỉ bức tranh lệ còn nạn nhân, một chứng nhân lịch sử đồng thời cũng
tham gia vào bản hùng ca của buôn làng, của cộng đồng.
Cùng với bức tranh thiên nhiên cây nu đại diện cho vẻ đẹp thiên nhiên Tây
Nguyên thì nhà văn n xây dựng hình tượng tập thể dân làng Man qua nhiều thế
hệ. Trong đó, cụ Mết đi vào tác phẩm một già làng, kết tinh đẹp đẽ nhất phẩm chất
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
tốt đẹp, khát vọng của cả cộng đồng. Cụ cũng người chỉ huy cao nhất điểm tựa
tinh thần cũng là linh hồn của cuộc đấu tranh giải phóng quê hương.
Cụ Mết là người phát ngôn câu nói giản dị nhưng chắc nịch nêu cao kinh nghiệm sống
chiến đấu của dân làng Man. Cụ hiện lên như một pho tượng sự sống tượng
trưng cho lịch sử, cội nguồn, sức sống bền bỉ cùng với truyền thống hiên ngang bất
khuất của cả dân làng. Cụ Mết được y dựng với bút pháp sử thi tưởng hóa
khiến người đọc liên tưởng tới các tù trưởng trong tác phẩm sử thi cổ đại.
Nếu cụ Mết đại diện cho thế hệ đi trước với tinh thần chiến đấu lòng yêu nước
dũng cảm thì Tnú thế hệ đi sau. Qua lời văn của Nguyễn Trung Thành Tnú mồ côi
cha mẹ, lớn lên trong sự cưu mang của dân làng Man. Tnú sự gan góc, táo
bạo của con người sinh sinh ra lớn lên i núi rừng. cái vừa mạnh mẽ, hiện
đại vừa kiên cường bất khuất không hề nhụt chí, nản lòng trước những khó khăn, hiểm
nguy hay trước những lời đe dọa nào.
Tnú còn sự nhanh nhẹn, thông minh rất bản lĩnh tuyệt đối trung thành với
cách mạng. Đặc biệt là hình ảnh bàn tay Tnú bị thiêu đốt gây ấn tượng mạnh nơi
người đọc. Qua đó, đậm tính cách, số phận cuộc đời của Tnú. Nhân vật Tnú đi
vào tác phẩm là nhân vật chính, có mối quan hệ gắn bó máu thịt với dân làng Xô Man.
Tính cách, số phận cuộc đời của Tnú tiêu biểu cho số phận cuộc đời của người
dân Tây Nguyên. Anh chính người kế tục xuất sắc, phát huy xuất sắc nhất tinh thần
cách mạng của quê hương.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 10
Khi nhắc đến cuộc sống chiến đấu của người dân Nam bộ, người đọc không thể
nhắc đến nhà văn Nguyễn Thi với các tác phẩm: Mẹ vắng nhà, Người mẹ cầm súng,
Những đứa con trong gia đình. Khi nhắc đến cuộc sống người dân Tây Bắc, người đọc
lại không thể không nhắc đến nhà văn Hoài với Vợ chồng A Phủ. Còn khi nhắc
đến đồng bào y Nguyên thì ta càng phải nhtới nhà văn Nguyễn Trung Thành với
Đất nước đứng lên và Rừng xà nu.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Rừng xà nu câu chuyện về cuộc đời cách mạng của Tnú, của cả buôn làng Man.
Câu chuyện tên Rừng nu bởi đây loài cây đặc trưng của xứ này. Những
cánh rừng nu xanh ngút ngàn trải dài suốt tầm mắt hình ảnh trđi trở lại nhiều
lần trong tác phẩm. Những cây nu được tác giả miêu tả từ cụ thể chi tiết cho đến
toàn cảnh. Nó hiện lên với đầy đủ dáng dấp tính cách và ý chí kiên cường.
Đạn địch không thể đốn ngã những cây xà nu cũng như chiến tranh không thể phá hủy
được nó. Những cây nu vẫn vươn lên xanh tốt, cây này ngã xuống những cây mới
lại mọc lên, nhựa nu chảy như những dòng máu nóng trong một thể sục sôi tinh
thần dân tộc. Rừng nu được miêu tả cụ thể, mang đầy dáng dấp sthi càng làm
nổi bật tính cách, số phận của những người con buôn làng Xô Man.
Những người ấy Tnú, Mai, cụ Mết, Dít Heng. Mỗi một nhân vật lại
những phẩm chất tính cách riêng nhưng đều hội chung lại những con người dũng
cảm, quật cường, một tình u bờ bến đối với đất nước, với cách mạng. Tnú
một chàng trai gan dạ, lợm, hội tụ những phẩm chất của một người anh hùng cách
mạng. Anh được giác ngộ cách mạng ngay từ nhỏ, được nuôi dưỡng bằng tình cảm
với cách mạng và sự căm thù đối với quân địch.
Từ Tnú đã là một chú giao liên dũng cảm, nuôi giấu cán bộ trong rừng, luôn
xông o làm những nhiệm vụ nguy hiểm, khi bị giặt bắt tra tấn thì một chút cũng
không khai, trái lại n thẳng thừng thừa nhận, cách mạng đã ăn sâu vào trong con
người mình.
Tnú cũng một người yêu thương gia đình yêu thương bản làng sâu sắc. Chứng kiến
vợ con bị sát hại, tra tấn anh xông tới tay không đối với địch, ánh mắt anh hằn lên vẻ
căm thù, anh chịu đựng tra tấn, bị giặc đốt hai bàn tay quyết không khuất phục.
Anh cũng gắn bó với người dân trong làng, luôn về thăm hỏi mọi người mỗi khi được
nghỉ phép.
Mai, Dít những người con gái cũng can đảm không kém Tnú. Họ giống như chị
Chiến trong Những đứa con trong gia đình, sớm giác ngộ cách mạng đi theo cách
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
mạng. phận gái yếu đuối nhưng sự thật tinh thần hành động của họ lại quả
cảm hơn bất kỳ ai.
Mai cùng Tnú nuôi giấu cán bộ trong rừng, bị giặc tra tấn, sát hại quyết không
khai nửa lời, Dít dù còn bé nhưng đã lì lợm, đứng trong làn đạn của giặc mà vẫn im re,
mắt nhìn trâng tráo không khai một câu. Họ là thế hệ người phụ nữ “Giặc đến nhà
đàn bà cũng đánh” đáng ngợi ca của dân tộc.
Cụ Mết là người tuổi cao, nhiều trải nghiệm nhất, cụ nhìn thấu mọi việc bằng con mắt
của một người dày dạn, một người trải qua nhiều thăng trầm đã trở nên vững vàng
bình ổn. Cụ ngọn cờ đầu, người chhuy của cả buôn ng. Cụ đứng lên kêu gọi
dân làng xông tới khi chứng kiến Tnú bị tra tấn, clãnh đạo người dân trong làng
chiến đấu, cụ kể chuyện cho những thế hệ sau của buôn làng nghe những câu chuyện
về cuộc đời Tnú. Cụ Mết chính người gilửa cách mạng cho những thế hệ khác
nhau của buôn làng Xô Man.
Mỗi một con người trong Rừng nu lại những tính cách số phận khác nhau
nhưng họ lại cùng đoàn kết, rất yêu thương nhau và cùng chung nhau mối thù giặc
Mỹ.
Rừng nu được nhận xét câu chuyện của một đời được kể trong một đêm. Cuộc
đời ấy cuộc đời của Tnú, một con người từ lúc sinh ra cho đến khi lớn lên đều
cống hiến mình cho cách mạng, anh đại diện cho dân làng, sự tiếp nối, phát huy
đầy bản lĩnh của thế hệ trước tấm gương sáng chói cho những thế hệ sau. Con
người Tnú đại diện cho những thế hệ anh hùng kiên cường dũng mãnh trong kháng
chiến.
Câu chuyện của anh đại diện cho một thế hệ trẻ đầy hoài o ước sức
sống, dám hết mình tưởng của cách mạng. Đó cũng chính ý nghĩa sử thi
các nhân vật, hay chính rừng xà nu mang lại.
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu - Mẫu 11
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Tây Nguyên hùng núi non, Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những con người
bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng. Chính vùng đất sản sinh ra số
những anh hùng dân tộc đi vào sử sách thì i đây cũng chính vùng đất mang đến
cảm hứng sáng tác cho tác giả Nguyễn Trung Thành. Trong những năm tháng của
mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây
Nguyên khơi nguồn cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng nu, một truyện ngắn
xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.
Rừng xu nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên
với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí
kiên cường. chỉ truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực to lớn giá trị lịch
sử khẳng định.
"Rừng nu" viết về những anh hùng làng Man của người Strá trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi cảm hứng
lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân
vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ gắn với hình tượng cây xà nu
của Tây Nguyên. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng một loại cây họ thông,
gỗ nhựa đều rất quý, sức sống mãnh liệt dẻo dai rất gần gũi với đời sống
người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất
của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.
Và đặc biệt đó ng một rừng nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo
để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng nu tràn trề sức sống
cho đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm xế
chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm trở gáydồn dập chết
chóc đau thương vào nó. Truyện được mở đầu kết thúc bằng hình ảnh rừng nu
đều mang dụng ý của tác giả Nguyên Ngọc.
Suốt trong quá trình kchuyện, hình ảnh rừng nu được nhắc đi nhắc lại tạo cảm
giác như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng nu, cây nu, nhựa
nu, ngọn nu, đồi nu, khói nu, lửa nu, dầu nu. Mọi thứ dường như đều
xoay quanh một loại cây đặc biệt này. Ngược đọc không khó nhận ra ý nghĩa của rừng
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
nu để nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Man, của Tây
Nguyên bất khuất.
Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu
thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều
lần như vậy, nhất các hình nh "đồi nu" (4 lần), "rừng nu" (5 lần), với "hàng
vạn cây" "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng".
Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện như cách mở đầu của bức tranh đấu tranh quyết liệt
của dân làng và nó cũng là một hình ảnh mang tính dự báo. Bằng nghệ thuật nhân hoá,
tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man tố cáo tội ác của
kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man
ngã xuống.
Tác giả Nguyễn Trung thành đã dụng ý miêu tả rừng nu bằng một thứ ngôn ngữ
rất giàu chất thơ, chắt lọc tinh tế một thứ ngôn ngữ vừa tvừa gợi, mở ra những
liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng nu đây vừa hình ảnh thực
một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa hình ảnh nghĩa tượng trưng cho con
người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi
chống Mĩ. Kết hợp bút pháp đặc tả phối hợp với thpháp nhân hóa đã phát huy tối đa
hiệu lực cua nó. Rừng nu hiện lên như một người bạn trung thành che chcho dân
làng Man, như những con người đẹp của buôn làng. th nói rừng nu
chính biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người
Việt Nam.
Truyện ngắn hiện lên như một bức tranh tái hiện chân thực toàn bộ cuộc chiến đấu đầy
gian khó nhưng không thiếu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày
đánh Mĩ, nhà n tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy
truyền thống anh hùng của cha ông qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành
của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc
Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó Tnú Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền
với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Tnú nhân vật chính của Rừng Xà Nu đã mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người con của núi rừng
Tây Nguyên ấy lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng , nuôi dạy khôn lớn. Đó
người anh hùng dân tộc lớn lên, trưởng thành kiên cường bất khuất từ trong lòng
của nhân dân, của dân tộc.
Tnú đến với cách mạng ngay từ khi còn rất nhất vào thời điểm của những ngày gian
khổ, ác liệt nhất khi Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng khắp mọi
nơi. Chính Tnú đã chứng kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh
Xút lên cây vả đầu làng, giết Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ h
những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng.
Khi Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống qua sự chỉ bảo của anh cán
bộ Quyết. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn về làng, tra
tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai
báo, chỉ điềm nh chỏ bụng mình để trả lời câu hỏi của kẻ thù: "Cộng sản đây
này”. Câu trả lời ấy đâu chỉ đơn giảnmột câu trả lờiđó là cả một lời thách thức,
sự dũng cảm! Và chính lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.
Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách.
Anh hiểu nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở
thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Man. Anh thực hiện ngay lời
dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná… " chuẩn bị mọi thứ cần thiết
cho cuộc chiến đấu sắp tới. hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai,
bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh.
Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc đồn Rác xuống làng Man truy
bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ
con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. trong cuộc đối đầu này, phẩm chất
kiên ờng của anh ng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón
tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc", răng cắn chặt môi, không
một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giậm vào kẻ thù.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
thể nói Tnú hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ
thù đã lên tới tột đỉnhnhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó.
Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang n, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu
dân làng cầm khí đứng lên, cả làng Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân
người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh… Sự vùng dậy của dân làng đã
cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân n, giải
phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn.
Điều này thế thấy qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực
lượng”. Anh kể rằng anh giết thằng Dục, tên chi huy đồn giặc ở Đắc Hà, kẻ đã giết vợ
con anh, kẻ gieo đau thương cho làng Man theo anh thằng giặc nào “cũng
thằng Dục cả”. Rõ ràng, với anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây
Nguyên, của đất nước cũng mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó một
nhận thức sâu sắc, nhận thức Tnú t ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn
làng của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.
Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng
Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dít “còn là mộtbé không có áo mặc, đêm lạnh
không ngủ…". Vậy mà, khi Tnú trở về, ấy đã đảm trách những công việc trọng
yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên
quá trình rèn luyện ợt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa lanh lợi, rất gan
dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xong rồi từ từ
bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, m tóc, cày đất quanh hai
bàn chân nhỏ của Dít. Váy rách từng mảng. khóc thét lên nhưng rồi đến viên
thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên
đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của giật lên một cái nhưng đôi mắt vẫn nhìn bọn
giặc bình thản lạ lùng”.
Không chgan góc Dít còn một cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương
của chị Mai, Dít “lầm không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già,
đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Man. Trở thành
người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ người bản lĩnh,
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với
“đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh
khi hỏi “đồng chí giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không giấy thì không
được, ủy ban phải bắt thôi” sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về
một đêm thôi”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần
tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.
Tnú Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Man, từ lòng căm thù của họ đến
với cuộc chiến đấu của dân tộcchính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự
trưởng thành của họ có cội nguồn của một mặt do họ tự ợt mình qua những
thử thách lớn lao, mặt khác do sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt s
trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền
thông anh hùng của người Strá. Cụ Mết chính đại diện cho thế hệ cách mạng đi
trước của làng Xô Man.
Cụ pho sử sống, chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quăc
thước như xưa ngực cũng như một tấm nu lớn tiếng i vẫn vang trong lồng
ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. lẽ cuộc đời cụ
đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên
cụ luôn luôn nhắc nhở con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương.
Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn
man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu: Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn
tay trắng, chvới bàn tay không” tkhông thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm
khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe chưa,
các con, chưa, nhớ lấy, ghi lấy. San này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho
con cháu. Chúng cầm súng, mình phải cầm giáo’’. Lời crành rẽ vang lên trong
ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.
Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt
đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò
của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống,
với lịch sử quê hương, vừa người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
hiện tại. Chính một thế hệ cha ông như cụ Mết thế hệ của Tnú, của Dít
sự trưởng thành lớn lao.
không chỉ lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như Heng, cũng lớn lên, lớn lên
cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Man. Với nhân vật Heng, Nguyên
Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng
sâu sắc cho người đọc.
Tuổi của Heng, lẽ ra, tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi
vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, cũng còn nhỏ, Heng đã dáng vẻ của “một
người lính thật sự, đội chiếc sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc
vào một chiếc áo ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”. Hơn
thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú m
xưa. Thật là từ hào tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên,
trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.
Đọc Rừng nu cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người
với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến giải
phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi
ngược dòng thời gian trở về quá khứ.
Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tướng của Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời
kể của cụ Những mảnh đời quá khứ, những mảnh đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ
cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng
Man trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng
nỗi đau chung, Tnú làng Man phải cầm khí để tự cứu lấy mình, để giải
phóng dân tộc cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ kế tục
xứng đáng với cha ông.
Chính cái ởng y đã chi phối kết cấu của Rừng nu. Hệ thống sự kiện trong
truyện, chủ yếu được tchức theo sự phát triển tâm tính cách nhân vật trung tâm,
chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân
vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm.
Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù hai lần Tnú thể hiện phẩm chất kiên ờng
của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện mỗi lần khác nhau sự phát triển.
Sa vào tay giặc khi còn một cậu bé, Tnú tỏ đức kiên trung qucảm của mình.
Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo
của kẻ thù.
Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc sở trường trong việc lựa chọn những
chi tiết tiêu biểu ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất
thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh cụ Mết với những nét khắc
chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài nh của tác
giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn.
cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai
giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm ng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết
thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng nu không ch
rung cảm người đọc sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ còn những xúc
động, những tình cảm thầm kín nơi họ.
Trên những trang viết của mình. Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của
ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng nu đằm thắm chất trữ
tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc
động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tưởng
về người thân, theo dòng suy ởng về quê hương của Tnú… lời n của Rừng nu
giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óngợt như ngôn ngữ của
một bài thơ (ví dụ: đoạn mở đầu tác phẩm). Chính cái vẻ của lời n đã p phần tạo
nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Man trong cuộc kháng chiến chống lại
lấy tên "Rừng nu"… Hình tượng cây nu một sáng tạo nghệ thuật độc đáo
của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, ởng chủ đề của truyện
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
"Rừng nu" thêm sâu sắc. Chính nhờ hình ợng cây nu những nhân vật anh
hùng thêm bất tử.
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu - Mẫu 12
Truyện ngắn Rừng nu được viết vào giữa năm 1965, lúc cuộc chiến tranh giải
phóng miền Nam o một ớc ngoặt chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”; ng chục vạn quân viễn chinh ạt đổ vào
miền Nam, lực lượng cách mạng phải đương đầu với những thách thức to lớn, nhưng
vẫn kiên trì mục tiêu ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nguyễn Trung thành lúc ấy đang hoạt động báo chí trong lực lượng quân giải phóng
miền Trung Trung Bộ đã kịp thời viết i tùy bút nổi tiếng Đường chúng ta đi, được
xem như một bài hịch của thời đánh đế quốc Mĩ. Tiếp đó, theo yêu cầu của tạp chí
Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ, bằng vốn hiểu biết nh cảm sâu nặng
với Tây Nguyên, nhà văn đã viết rất nhanh truyện Rừng nu cùng với tưởng
bản khẳng định con đường duy nhất để giải phóng của nhân dân miền Nam đứng
lên cầm vũ khí chiến đấu, dung bạo lực cách mạng để chống lại sự tàn bạo của kẻ thù.
Rừng nu là truyện về cuộc ồng khởi" của làng Man Tây Nguyên, cũng
câu chuyện bi tráng về cuộc đời của Tnú. Hai câu chuyện ấy lồng o nhau truyện
về Tnú diễn ra trên nền cảnh lịch sử cuộc "đồng khởi" của làng. tưởng chủ đề
của truyện đã được phát ngôn qua lời của cụ Mết, đoạn cao trào của xung đột giữa
nhân dân ng Man với kẻ thù, qua lời của một già làng ; tưởng ấy được ghi
khắc như một chân lịch sử : "Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống
phải nói lại cho con cháu : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !...". Cố nhiên,
giá trị tác phẩm không phải chỉ ở sự minh hoạ tưởng ấy, những tưởng ấy điểm
quy tụ mọi cảm hứng nghệ thuật của tác giả soi chiếu lên mọi chi tiết nghệ thuật
của tác phẩm.
Truyện Rừng nu mang đậm chất sử thi. Chất sử thi toát lên từ chủ để, cốt truyện
đến nhân vật cả nh ảnh thiên nhiên, các chi tiết nghệ thuật giọng điệu, ngôn
ngữ của tác phẩm. Hãy chú ý đến cách trần thuật của truyện : Câu chuyện về lịch sử
cuộc nổi dậy của một làng cuộc đời của Tnú được kể lại trong một đêm, cái đêm
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
anh về thăm làng, qua lời của cụ Mết. Chuyện được kể qua lời của một già làng, bên
bếp lửa bập bùng suốt đêm, cho cả dân làng nghe : giọng kể trang trọng như truyền
cho các thế hệ con cháu những trang lịch sử bi thương anh hùng của cộng đồng :
Người già chưa quên, người chết quên rồi thì để cái nhớ lại cho người sống... "Người
Strá ai cái tai, ai cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng nghe, nhớ.
Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe !...".
Cách trần thuật như vậy gợi nhớ tới cách kể khan (trường ca) của nhiều dân tộc Tây
Nguyên. Bên bếp lửa chung của làng, các i khan được kể như hát suốt nhiều đêm,
những trường ca đầy chất sử thi kể về lịch sử mang màu sắc huyền thoại của btộc,
về những người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh khát vọng của cộng đồng (như
các trường ca Đăm San, Xinh Nhã, Đăm -ri,...). Trong Rừng nu, câu chuyện cụ
Mết kể cho dân làng nghe câu chuyện của thời hiện tại, nhưng đã được kể như
một câu chuyện lịch sử với giọng điệu ngôn ngữ trang trọng sử thi, với thái độ
"chiêm ngưỡng" qua một "khoảng cách sử thi" những con người sự kiện được kể
lại.
Truyện ngắn này đã xây dựng cả một hệ thống nhân vật, thể hiện sự tiếp nối của các
thế hệ cách mạng của làng Xô Man ở Tây Nguyên : Cụ Mết là gạch nối giữa lịch sử
hiện tại, thế hệ chiến đấu từ thời chống thực dân Pháp ; anh Quyết cán bộ cách
mạng, người đã "gieo mầm" cách mạng trong đồng bào Tây Nguyên ; rồi Tnú, Mai
tiếp đó Dít, cả thằng bé Heng - các thế hệ nhân dân Tây Nguyên tiếp nối cuộc chiến
đấu, càng sau càng trưởng thành mau lẹ. Nhân vật trung tâm - Tnú - được tác giả tập
trung khắc hoạ cả tính cách sphận. Cuộc đời số phận của Tnú mang ý nghĩa
tiêu biểu cho số phận con đường giải phóng của nhân dân Tây Nguyên. Tnú,
nhiêu chi tiết được miêu tả nhằm làm nổi bật những nét tính cách đẹp đẽ được bộc
lộ ngay từ lúc còn một cậu : gan góc táo bạo, dũng cảm trung thực, gắn
trung thành với cách mạng, tình thương yêu vợ con dân làng, quê hương. Câu
chuyện tình của Tnú Mai lúc còn nhỏ thì hồn nhiên thơ mộng, tuổi trưởng
thành thật đẹp thắm thiết nghĩa tình, nhưng rồi thành cùng bi thương bởi sự tàn
bạo tột cùng của kẻ thù, ngay giữa lúc hai người đang ngập tràn hạnh phúc. Nhưng
lẽ ở nhân vật Tnú, hình ảnh đôi n tay y được ấn tượng sâu sắc đậm nét hơn cả.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Qua bàn tay hiện lên cả cuộc đời tính cách nhân vật. Bàn tay Tnú lúc còn lành
lặn là bàn tay trung thực, tình nghĩa : bàn tay cầm phấn viết cái chữ do anh Quyết dạy
cho, bàn tay dám cầm đá đập vào đầu mình "Cộng sản đây này !" khi giặc tra hỏi,
khi Tnú thoát ngục Kom Tum trở về, gặp Mai đầu làng, Mai cầm đôi bàn tay ấy
giàn giụa nước mắt.
Với đôi bàn tay không, Tnú xông ra giữa bọn giặc, quật ngã tên lính to béo đang nện
những cây gậy sắt lên mẹ con Mai. Nhưng với hai bàn tay trắng, Tđã không cứu
nổi vợ con anh. Hai bàn tay Tnú, mười ngón bị bọn giặc quấn giẻ tẩm dầu nu rồi
đốt. Mười ngón tay đã thành ời ngọn đuốc. Ngọn lửa từ mười đầu ngón tay - nơi
thần kinh bén nhạy nhất - đã thiêu đốt cả gan ruột, cả hệ thần kinh của Tnú : "Anh
không cảm thấy lửa mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực,
cháy bụng. Máu anh mặn chát đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi". Mười
ngọn đuốc ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của làng Man : trong
ánh đuốc lửa nu, cụ Mết cùng đám thanh niên với giáo mác trong tay xông ra giết
sạch cả tiểu đội lính địch, khởi đầu cho cuộc chiến đấu trang giải phóng của làng.
Bàn tay Tnú đã được dập lửa, nhưng mỗi ngón chỉ còn hai đốt. Đốt ngón tay cháy cụt
không thể mọc lại. n tay mười ngón cháy cụt còn đó như chứng tích căm hờn
Tnú mang theo suốt cuộc đời, nhắc nhở anh cả làng Man về tội ác man rợ
của kẻ thù.
Nhưng bàn tay mỗi ngón còn hai đốt ấy vẫn cầm giáo, cầm súng được. Tnú đã lên
đường, cầm súng đi m những thằng Dục để đòi trả món nợ máu... Đến cuối truyện,
bàn tay Tnú lại một lần nữa xuất hiện trong một cảnh được miêu tả tỉ mỉ như quay cận
cảnh của điện ảnh. Nhưng lần này trong một thế, một tương quan hoàn toàn
khác với kthù. Bằng đôi bàn tay cụt mười đốt ngón tay ấy, Tnú đã bóp chết tên chỉ
huy đồn địch ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó, trong ánh đèn pin soi vào mặt
cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo đang siết vào cổ họng những thằng
Dục (với Tnú, chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục).
Một hình tượng nổi bật xuyên suốt trong truyện ngắn này hình ợng cây nu.
Hình ảnh này không chỉ khung cảnh thiên nhiên làm nền cho u chuyện còn
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
mang một ý nghĩa biểu tượng rộng lớn. Mở đầu kết thúc truyện đều hình ảnh
cánh rừng nu : "đến hết tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những đồi nu
nối tiếp tới chân trời" (câu này được nhắc lại gần nguyên vẹn đoạn kết, như một
thanh láy lại, gây ấn tượng nổi bật, tạo một dư ảnh và dư âm đọng lại trong tâm trí độc
giả sau khi câu chuyện đã khép lại).
Nhưng xà nu không chỉ có mật trong đoạn mở đầu đoạn kết, còn hiện diện trong
suốt câu chuyện về Tnú làng Man của anh. nu gắn với cuộc sống, sinh
hoạt hằng ngày như đã từ ngàn đời nay thân thuộc với dân làng : ngọn lửa nu cháy
bập bùng trong đống lửa nhà ưng tập hợp cả dân làng ; khói nu đen nhẻm trên
thân mình trẻ ; khói nu còn làm cho tấm bảng nứa đen kịt để anh Quyết dạy Mai
Tnú học chữ,... nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống
làng Xô Man : ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết cả dân làng đi rừng sâu
lấy giáo, mác, dụ, rựa đà giấu kĩ về chuẩn bị cho cuộc nổi dậy ; đêm đêm cả làng thức
mài khí dưới ánh đuốc nu ; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa nu ;
rồi ngọn lửa từ các đuốc nu soi sáng rực cả làng cái đêm nổi dậy, soi xác mười
tên lính bị giết nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu lớn giữa sân nhà ưng của làng.
nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống phẩm chất của dân làng Man, của
nhân dân Tây Nguyên. Chúng ta hiểu sao truyện ngắn này n Rừng nu.
Tác giả cũng đã nói vai trò của hình ợng nu trong sự tổ chức các chi tiết nghệ
thuật quy tụ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Có thể nói hình tượng nu là một
típ chủ đạo trong tác phẩm, không tìm được hình tượng này, tác giả cũng không
thể viết được truyện ngắn Rừng nu. Nguyên Ngọc kể lại : "Bắt đầu như thế nào ?
Không, quả thực bắt đầu tôi chưa hề có câu chuyện, cốt truyện nào cả. Bắt đầu đến với
ngòi bút, gần như không hề tính trước, là một khu rừng xà nu, những cây xà nu.
Hồi tháng 5 - 1962, hành quân từ miền Bắc vào, tôi cùng đi với anh Nguyễn Thi.
Nguyễn Thi về Nam Bộ, tôi rẽ xuống khu Năm. Cùng đi dọc Trường Sơn từ Bắc vào,
đến điểm chia tay mỗi người về chiến trường của mình, khu rừng bát ngát phía tây
Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xà nu tít tắp tận chân trời.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Tôi yêu say cây rừng nu từ ngày đó [...], Nguyễn Thi tôi đã sống với nhau
một ngày một đêm chia tay cuối cùng trong khu rừng tuyệt vời ấy [...]
Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy, ngồi viết, rừng xà nu lại bỗng đột ngột đến với tôi,
chảy ra dưới ngòi bút tôi ! .
nhớ Nguyễn Thi chăng ? Từ ngày vào chiến trường chúng tôi bặt tin nhau. bấy
giờ, bước vào cuộc giáp mặt trực tiếp với rồi đây, cả cuộc đời mình - tôi đã
cùng Nguyễn Thi ôn lại, điểm lại ngày nọ dưới rừng nu Tây Thừa Thiên - chợt
sống dậy chăng ? Hay cái không khí "Hịch tướng sĩ" đánh đế quốc hừng hực
bấy giờ rất tráng ca, rất "xà nu" chăng ?,... Tôi không nhớ và biết rõ.
Nhưng vậy đấy, rừng nu chợt đến. lập tức tôi biết tôi đã tạo được không khí,
không gian ba chiều. cũng lập tức đã nhập được vào không khí, không gian
ấy”.
Chính nu mang ý nghĩa một biểu tượng nên sự miêu tả vloài cây đây luôn
luôn được đặt trong sự ứng chiếu với con người gợi ra những liên tưởng về đời sống
số phận cùng phẩm cách của con người - dân làng Man. Cây nu ham ánh
sáng khí trời, "nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng". Cũng như Tnú, n
dân làng Man yêu tự do. Rừng nu cũng như làng Man chịu nhiều đau
thương bởi sự tàn phá hằng ngày của giặc : "Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây
nào không bị thương". Nhưng nu sức sống mãnh liệt không tàn phá nổi :
"Cạnh một cây nu mới ngục, đã bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn,
hình nhọn mũi n lao thẳng n bầu trời", ng như c thế hệ làng Man, lớp này
tiếp lớp khác đứng lên, tiếp tục cuộc chiến đấu. Anh Quyết hi sinh thì Tnú, Mai ;
Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống như cây nu bị chặt đứt
ngay giữa thân mình, thì Dít lớn lên nhanh đến không ngờ, trở thành thư chi bộ,
chính trị viên đội, rồi những Heng thế hệ tiếp theo của Dít, cũng đang lớn lên
tiếp bước các lớp cha anh.
Thủ pháp "ứng chiếu" giữa thiên nhiên con người cũng còn được thể hiện ngay khi
miêu tả nước, tác giả thường dùng cách so nh với cây nu. Cụ Mết thì "ngực căng
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
như một cây nu lớn" ; vết thương trên lưng Tnú do dao giặc chém thì "ứa một giọt
máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thẫm như nhựa xà nu".
Thủ pháp nghệ thuật "ứng chiếu" này trong miêu tả tạo nên một sự chuyển hoá, hoà
nhập giữa hình tượng thiên nhiên con người, một bản hợp ca đầy chất thơ hào
hùng, tráng lệ về sức sống bất diệt cuộc chiến đấu bất khuất của nhân dân giành tự
do.
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu - Mẫu 13
Mảnh đất Tây Nguyên cùng với những người con bất khuất đã trở thành đề tài hấp dẫn
đối với các nghệ trong đó nhà văn Nguyễn Trung Thành. Ông nổi tiếng với
truyện ngắn “Rừng nu”. Đây truyện ngắn đã góp phần tạo nên sự thành công
trong sự nghiệp sáng tác của tác giả.
Nguyễn Trung Thành viết “Rừng nu” năm 1965 tác phẩm này được in trong tập
“Trên quê hương những anh ng Điện Ngọc”. Nhan đề của truyện đã gợi lên hình
ảnh những nh rừng nu bạt ngàn sức sống mãnh liệt của cũng như sức sống
mãnh liệt của buôn làng Xô Man.
Nổi bật trong tác phẩm hình ảnh những rừng nu nối tiếp chạy đến chân trời”.
nu loại cây thuộc họ thông, mọc rất nhiều vùng y Nguyên. thường mọc
thành rừng rộng lớn đặc trưng riêng của mảnh đất anh dũng này. Mở đầu tác
phẩm là hình ảnh rừng xà nu bao xung quanh, che chở cho buôn làng tránh những trận
đại bác của quân địch. Sự khốc liệt của chiến tranh đã khiến “cả rừng nu hàng vạn
cây không cây nào không bị thương”, “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân
mình, đổ ào ào như một trận bão”.
Đây loài cây gắn mật thiết như một người bạn đồng hành với dân làng. Cuộc
sống của họ từ khi sinh ra, lớn lên khi về với đất mẹ cũng đều gắn liền với cây
nu. Dưới tán nu những hoạt động sinh hoạt của cộng đồng, những buổi hẹn
của tình yêu đôi lứa.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Ngọn lửa nu cháy trong mỗi bếp, ngọn đuốc nu sáng rực trong đêm nổi dậy
chống kẻ thù của dân làng Man và khói xà nu xông bảng nứa đen kịt để anh Quyết
dạy Tnú Mai học bài đã chứng tỏ công dụng, vai trò to lớn của cây nu đối với
người dân Tây Nguyên. Lửa nu còn soi sáng “xác mười tên lính giặc ngổn ngang
để thể hiện sức mạnh, ý chí kiên cường cùng lòng dũng cảm của buôn làng Xô Man.
Không chỉ mang ý nghĩa tả thực, cây nu còn mang ý nghĩa biểu tượng cho số phận
phẩm chất cao đẹp của những con người Tây Nguyên. Rừng nu phải gánh chịu
biết bao trận đại bác của địch khiến chúng “đổ ào ào như một trận bão” khi “bị chặt
đứt ngang nửa thân mình”.
Những vết thương đó không lành được “cứ loét mãi ra” gợi cho chúng ta thấy
được bao đau thương, mất mát nhân dân nơi đây phải gánh chịu. Nhưng đạn bom
của kẻ thù không thể ngăn được sự sinh sôi, nảy nở của cây nu: Cạnh một cây
nu mới ngã gục, đã bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, nh nhọn mũi tên
lao thẳng lên bầu trời”. Chúng lớn rất nhanh, “đạn đại bác không giết nổi chúng”.
thế “hai ba m nay rừng nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho
làng”. Hình ảnh ấy biểu tượng cho sức mạnh quật cường, bất diệt của những thế hệ
người con Tây Nguyên. Thế hệ trước ngã xuống đã thế hệ sau đứng lên tiếp nối.
Đây còn loài cây ham ánh sáng mặt trời: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh
nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lóng lánh số hạt bụi
vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Điều đó cũng giống như việc Tnú dân
làng Xô Man đi theo ánh sáng của cách mạng.
Hình ảnh cây nu, rừng nu là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Ông đã
sử dụng cái nhìn điện ảnh để tái hiện lại khung cảnh một cách sinh động. khi ông
nhìn từ xa để thấy toàn bộ những cánh rừng nu, khi thì sát lại gần để thấy cận cảnh
những cây nu con đang vươn lên một ch đầy kiêu hùng. không phải là một
loài cây bình thường loài cây mang dáng dấp anh hùng của con người Tây
Nguyên.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Đại diện tiêu biểu cho những con người ấy Tnú, người chiến kiên cường, bất
khuất. Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi giấu cán bộ. Khi học chữ thua Mai,
Tnú đã cầm một hòn đá rồi tự đập vào đầu mình. Nhờ có anh Quyết khuyên nhủ: “Tnú
phải làm cán bthay anh. Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi” nên Tnú quyết
tâm học chữ.
Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn vì có giặc vây bắt, anh “xé rừng mà đi”, “lựa
chỗ thác mạnh bơi ngang, ợt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một
con kình”. Sự nhanh trí của anh còn được thể hiện qua hành động “nuốt luôn cái
thư” khi bị địch bắt. Anh thật hiên ngang trả lời câu hỏi cán bộ đâu của địch bằng
cách để tay lên bụng và nói “Ở đây này”.
Lớn lên, Tnú cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Tin này đến tai thằng Dục, nó đã
tìm cách để bắt Tnú. bắt Mai con trai Tnú nhằm mục đích: “Bắt được con cọp
cái cọp con, tất sẽ dụ được cọp đực trở về”. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con
Mai trong tay anh không khí. Anh bị bọn thằng Dục bắt tra tấn bằng cách
quấn giẻ đã tẩm dầu nu lên mười đầu ngón tay rồi đốt. Nỗi đau mất vợ đứa con
trai đầu lòng cùng nỗi đau về thể xác dường như quyện hòa vào nhau trở thành nỗi
căm hờn, uất hận.
Nhưng Tnú “không kêu lên một tiếng nào” “trợn mắt nhìn thằng Dục”. Dường
như, ý chí tinh thần quật cường đã khiến: “Anh không cảm thấy lửa ời đầu
ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy bụng. Máu anh mặn chát
đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Tnú không chỉ người mang phẩm chất
anh hùng anh còn con người u nặng nghĩa tình. Tnú một người chồng,
người cha hết mực yêu thương vợ con.
Phải chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị giặc tra tấn, anh “đã bứt đứt hàng chục trái vả mà
không hay”, chỗ hai con mắt anh bây giờ hai cục lửa lớn”. Anh lao ra cứu mẹ
con Mai không sợ hiểm nguy. Anh đã quên đi cả sinh mạng của mình để cứu lấy
vợ con, cứu lấy những người anh yêu thương nhất.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Tnú lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng nên anh yêu quê hương sâu nặng. Khi
được nghỉ phép, anh đã về thăm làng, “xúc động để vòi nước của làng mình giội n
khắp người như ngày trước”. Anh yêu tha thiết quê hương mình, yêu cả tiếng giã gạo
của buôn làng thổn thức trong lòng anh bao nhiêu năm nay. Nếu không phải một
người gắn bó sâu nặng với quê hương thì Tnú sẽ không có những cảm nhận tinh tế đến
như vậy.
Bên cạnh nhân vật Tnú, nhà văn còn khắc họa các nhân vật anh Quyết, cụ Mết, Mai,
Dít, Heng,…để làm nổi bật lên những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau đứng lên chống
giặc. Anh Quyết n bộ cách mạng, người đã dạy chữ cho Tnú Mai. Đồng
thời, anh cũng người nhen nhóm tinh thần đấu tranh cho người dân Tây Nguyên.
Anh giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục tinh thần cách mạng cho thế hệ trẻ.
Bằng những lời i thủ thỉ, tâm tình, anh đã khơi dậy được lòng yêu ớc, lòng quyết
tâm chiến đấu vì lí tưởng cách mạng của Tnú.
Sẽ một thiếu sót lớn nếu chúng ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ già làng, người
anh hùng thuộc thế hệ trước lãnh đạo buôn làng nổi dậy chiến đấu. Cụ cũng người
kể cho thanh niên trong làng nghe về cuộc đời của Tnú. Cụ Mết đã khẳng định con
đường cách mạng nhân dân phải đi: “Chúng đã cầm súng, mình phải cầm
giáo”. Đó một chân đúng đắn để nhân dân ta tin tưởng làm theo. Nhân dân ta
không thể chịu áp bức mãi được, vậy phải cầm giáo đứng lên đấu tranh cho chính
nghĩa.
Những thế hệ nối tiếp con đường của cụ Mết, Tnú là Dít Heng. Dít lớn lên chính
trị viên xã đội, bí thư chi bộ nhưng từ khi còn nhỏ, Dít đã là một cô bé gan dạ. Cứ sẩm
tối, Dít lại “bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú thanh niên”. Bị
giặc bắt, chúng bắn từng viên một “sượt qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ
của Dít” khiến “nó khóc thét lên” nhưng đến viên thứ mười chùi nước mắt, từ đó
im bặt” nhìn bọn giặc “bình thản lạ lùng”. Tuy chỉ một nhưng Dít đã
bản lĩnh, nghị lực phi thường, không run sợ trước súng đạn kẻ địch.
Ngay cả cậu bé Heng, ngày Tnú ra đi “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa biết
mang củi, chỉ mới đeo cái lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy” thì khi Tnú trở v
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
thăm làng cậu ấy đã “mang một khẩu súng trường Mát” ra vẻ một người lính thực
sự.
Heng dẫn Tnú đi qua các con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút
lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn
gãy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Chú bé ấy dũng
cảm ấy đã góp phần tạo nên một tập thể anh hùng trong những ngày chống đế quốc Mĩ
ác liệt của dân làng Tây Nguyên.
Xuyên suốt câu chuyện là chất sử thi hùng tráng được thể hiện qua đề tài, chủ đề, nhân
vật, giọng điệu của tác giả. “Rừng nu” đã tái hiện không khí hào hùng, sục sôi của
cuộc đấu tranh chống đế quốc của dân làng Man nói riêng của dân tộc Việt
Nam nói chung.
Hệ thống nhân vật cũng được khắc họa những con người anh hùng, bất khuất xuất
hiện trên nền không gian rộng lớn. Ngoài ra, tác giả còn sáng tạo hình tượng cây xà nu
mang đậm tính biểu tượng cho những con người Tây Nguyên. Giọng văn ngợi ca hào
hùng, khí thế như không khí cuộc chiến đấu chống kẻ thù.
Nhà văn xây dựng nên hai tuyến nhân vật mang tính đối lập giữa bọn thằng Dục tàn ác
những thế hệ anh hùng để làm nổi bật lên tinh thần, ý chí đấu tranh của dân làng.
Kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện đã mang lại sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Bên cạnh câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man còn là câu chuyện về cuộc
đời người anh hùng Tnú. Tất cả những yếu tố đó đã làm thiên truyện sống mãi trong
lòng độc giả. Nhớ đến Tây Nguyên chúng ta nhớ đến những cánh rừng nu bạt
ngàn và các thế hệ anh hùng nối tiếp nhau chống giặc.
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu - Mẫu 14
Nguyễn Trung Thành, một trong những gương mặt tiêu biểu của n học Việt Nam.
Ông sáng tác trên nhiều mảng, truyện ngắn, kí,… mảng nào cũng những tác
phẩm xuất sắc. Nhắc đến ông ta không thể không nhắc đến truyện Rừng nu, một
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
tác phẩm mang khuynh hướng sử thi cảm hứng lãng mạn, in đậm dấu ấn phong
cách của ông.
Mở đầu tác phẩm, cũng như xuyên suốt u chuyện này hình ợng cây nu.
Những đồi nu, nối tiếp nhau đến tận chân trời, mở ra một không gian mênh mông,
tận đầy sức sống, bạt ngàn, mạnh mẽ. Bằng hình tượng cây nu, tác giả đã tái
hiện vẻ đẹp đặc trưng, kỳ thú của mảnh đất Tây Nguyên. Đồng thời cây nu cũng
chính là biểu tượng cho dân làng Xô Man.
Cây nu gắn mật thiết với dân làng, trong đời sống hàng ngày cho đến cả những
sự kiện trọng đại. Kẻ thù tra tấn dữ dội Tnú, bằng cách tẩm dầu nu đốt mười đầu
ngón tay của anh, nu đã trở thành vật dụng bị kẻ thù lợi dụng để hủy hoại dân
Man.
Nhưng cây nu còn cho thấy sự thay đổi của dân làng Man, từ chỗ không dám
cầm khí đến dám cầm khí đứng lên chống lại quân giặc. trong đêm Tnú về
thăm làng: đuốc nu dẫn người dân làng Xô Man trên khắp nẻo đường dồn về tập
trung tại nhà Ưng, họ cầm ngọn lửa của mình để ném vào đống lửa giữa nhà, mọi
người quây quần quanh đống lửa lớn để nghe cụ Mết kể về cuộc đời của anh Tnú.
Không chỉ vậy, hình ảnh cây nu còn biểu tượng cho số phận, phẩm chất của
người dân Tây Nguyên. Hình ảnh cả cánh rừng nu đầy thương tích, mỗi ngày giặc
bắn đại bác hai lần, rừng nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng, hàng ngàn cây xa
nu không cây nào không bị thương.
những cây chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, chỗ vết
thương nhựa ứa ra... bầm lại đen, quyện thành cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn
ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi,Hình ảnh cây nu bị
thương cũng chính là biểu tượng cho những đau thương mất mát dân làng Xô Man
phải gánh chịu. Dân ng đem cả tính mạng mình nuôi giấu cán bộ, chịu bao hi sinh,
nhưng vẫn đồng lòng bảo vệ cách mạng.
Và rừngnu chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất tốt đẹp của dân làng
Man. Không loài cây nào khao khát ánh sáng như nu, chúng sức vươn lên
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
mạnh mẽ, giống như sức sống tiềm tàng của người dân Tây Nguyên. Không chỉ vậy,
chúng còn sức sống bất diệt, không thể tiêu diệt được. Xây dựng hình ợng
cây nu tác giả đã gián tiếp nói lên những phẩm chất anh hùng, cốt cách đẹp đẽ của
con người Tây Nguyên, đồng thời cũng mở cánh cửa bước vào thế giới khám
phá con người nơi đây.
Nổi bật nhất trong tác phẩm nhân vật Tnú hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của con người Tây
Nguyên. Ngay từ bé, Tđã tỏ ra một cậu hết sức dũng cảm, cậu nuôi giấu cán
bộ, sẵn sàng cầm đá đập vào đầu khi không học được. Khi làm nhiệm vụ cậu không đi
đường bằng phẳng tìm những con đường rừng, lội qua thác mạnh, để địch không
bắt được.
Khi trưởng thành, đã một chiến cách mạng, sự gan góc, dũng cảm càng được bộc
lộ rõ hơn. Bị bắt giam, Tnú vượt ngục trở về, khi vợ con bị đe dọa tính mạng, Tnú sẵn
sàng xông vào cứu vợ con. Và bị giặc tra tấn, Tnú không hề van xin, chịu đựng
đau đớn cho đến cùng.
Không chỉ vậy, Tnú còn một người tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với
cách mạng. Ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã tình yêu niềm tin với cách mạng, cậu
nuôi giấu cán bộ mang trong mình mong muốn được trở thành chiến cách mạng
để giải phóng bản làng. Tính kỉ luật của Tnú còn được thhiện trong việc tuân thủ
mệnh lệnh cấp trên, được nghỉ phép cậu chỉ về thăm làng đúng một đêm, sau đó ra đi
ngay, dù trong lòng còn biết bao lưu luyến, bịn rịn.
Nhưng bên trong một con người có vẻ bề ngoài sắt đá, tính kỉ luật cao như vậy
lại người trái tim yêu thương nồng nàn. Tình yêu đó được thể hiện trước hết với
buôn làng, Tnú lớn lên trong sự săn sóc của dân làng, bởi vậy Tnú coi mọi người như
người thân của mình. Cũng chính vậy, thời gian nghỉ phép cùng ngắn ngủi
Tnú vẫn háo hức trvề, xúc động khi được gặp lại mọi người được trong vòng
tay thân thương của những người cùng bản làng.
Trái tim yêu thương đó càng được thể hiện hơn với vợ con của anh. Khi Mai sinh
con, anh không thể đi mua vải được anh đã xé đôi tấm đồ của mình ra làm tấm choàng
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
cho Mai địu con. Và trong khoảnh khắc, nhìn thấy vợ con bị tra tấn dã man, không th
xông vào cứu, Tđau đớn đến tột cùng. Nhưng cuối cùng tình yêu thương vợ con
vượt lên trên tất cả, nh cảm đã lấn át trí, Tnú đã lao o cứu vợ con biết chắc
mình có thể sẽ phải hi sinh. Bởi anh hiểu rằng, khi ấy vợ con cần anh biết nhường nào.
Tình yêu thương càng nồng nàn thì lòng căm thù giặc càng sục sôi, sâu sắc. Tnú mang
trong mình ba mối thú lớn: mối thù đầu tiên với bản thân, sau lần bị giặc tra tấn,
mỗi ngón tay đều cụt một đốt, lòng căm thù giặc trong Tnú càng trở nên sâu sắc hơn.
Nhưng mối thù của bản thân vẫn không bằng mối thù của gia đình, vợ con anh
những người anh yêu thương nhất đã bị giặc tra tấn man chết, điều đó sẽ ám
ảnh trong tâm can anh đến hết cuộc đời, khiến cho lòng căm thù giặc càng sục sôi hơn.
cuối cùng mối thù chung với dân làng, dân làng bị tàn sát man. Từ khối thù
chung và riêng ấy đã thức tỉnh tinh thần chiến đấu trong Tnú.
Hình tượng nhân vật Tđiển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người
dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ chân thời đại: “chúng đã cầm súng, mình phải cầm
giáo” chủ động đánh giặc, muốn giành được độc lập chỉ con đường duy nhất
đấu tranh trang. Không chỉ vậy Tnú còn tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh của con
người Tây Nguyên trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Ngoài hình tượng nhân vật Tnú, tác phẩm còn nổi bật với tập thể anh hùng làng
Man. Mỗi người một chiến sĩ, mang trong mình niềm tin với Đảng, với cách mạng
lòng trung thành với cách mạng. Nhưng bên cạnh những đặc điểm chung đó, mỗi
người lại những nét đẹp riêng. Trước hết nhân vật cụ Mết, cụ hiện thân của vẻ
đẹp núi rừng và con người Tây Nguyên.
Cụ Mết là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến của dân làng Xô Man, cụ lãnh đạo
nhân dân, xây dựng làng Xô Man thành làng kháng chiến để đấu tranh lâu dài với giặc
Mĩ. Không chỉ vậy, cụ còn giáo dục lòng yêu nước thế hệ sau, truyền nhiệt huyết
quyết tâm giết giặc cho thế hệ trẻ. Dít Heng thể coi thế hệ trẻ tiêu biểu của
làng Man. Dít mang trong mình sự gai góc, quyết đoán, sẽ thế hệ tiếp bước cha
ông xuất sắc.
Văn mu lp 12: Phân tích tác phm Rng xà nu
Tác phẩm mang tính sử thi Tây Nguyên đậm nét. Nghệ thuật xây dựng hình tượng đặc
sắc, mỗi nhân vật số phận và tính cách riêng, nhưng họ đều ngời sáng lòng yêu
nước dũng cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn : tác giả sử dụng kết cấu truyện lồng trong
chuyện: câu chuyện cuộc đời anh Tnú và chuyện của dân làng Xô Man. Ngôn ngữ trần
thuật đậm chất Tây Nguyên, đem lại dấu ấn riêng cho tác phẩm.
Tác phẩm bài ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ, anh hùng. Không
chỉ vậy Rừng xà nu còn là khúc tráng ca ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất anh hùng, bất khuất
của người dân Tây Nguyên. Kết hợp với ngôn ngữ lối kể chuyện hấp dẫn đã góp
phần tạo nên thành công của tác phẩm.
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu - Mẫu 15
| 1/58

Preview text:

Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Dàn ý phân tích Rừng xà nu Dàn ý số 1 I. Mở bài
- Nguyễn Trung thành là nhà văn có duyên với vùng đất Tây Nguyên, ông có nhiều
tác phẩm viết về mảnh đất này (tiểu thuyết Đất nước đứng lên, truyện ngắn Rừng xà nu, ...).
- Rừng xà nu – thiên sử thi Tây Nguyên thời kì chống Mĩ, tái hiện con đường đấu
tranh giành tự do của con người Tây Nguyên anh dũng. II. Thân bài
1. Hình tượng cây xà nu
- Là loài cây có sự gắn bó sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên: gắn với sinh hoạt hằng
ngày, gắn với sự kiện trọng đại của dân làng: lửa xà nu cháy trong bếp, đuốc xà nu
cháy sáng để mài vũ khí, lửa xà nu soi rõ xác 10 thằng giặc, ....
- Loài cây chịu sự tàn phá dữ dội của chiến tranh: đạn đại bác rơi vào ngọn đồi xà nu,
cả rừng xà nu không cây nào không bị thương. Mượn nỗi đau của cây xà nu để nói về
nỗi đau của dân làng Xô Man.
- Loài cây có sức sống mãnh liệt: sinh sôi nhanh chóng “bên cạnh một cây xà nu ngã
gục đã có 4,5 cây con mọc lên” (đầu tác phẩm), “cây mẹ ngã đã có cây con mọc lên”.
Đó là hình ảnh biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ và sự nối tiếp của các thế hệ con người Tây Nguyên.
- Loài cây ham ánh sáng, như những người dân Tây Nguyên yêu tự do, có khát vọng sống mãnh liệt.
2. Các thế hệ anh hùng Tây Nguyên
a. Nhân vật cụ Mết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
- Ngoại hình: quắc thước: “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải”,
cụ là người đã trải qua nhiều thăng trầm, khỏe mạnh với “đôi bàn tay nặng trịch như
kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, ...mang dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên.
- Giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”, mỗi câu nói như một chân lí “không có
gì mạnh bằng cây xà nu...”, “cán bộ là Đảng, ... nước này còn”, “chúng nó cầm súng ... cầm giáo”.
- Tích cách, phẩm chất: quả quyết, gan dạ, sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, luôn yêu
thương, che chở cho dân làng. Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hội tụ
vẻ đẹp con người Tây Nguyên. b. Nhân vật Tnú
- Từ nhỏ đã mang những nét tính cách phi thường: xung phong đi nuôi giấu cán bộ, từ
nhỏ đã giác ngộ lí tưởng cách mạng, đi rừng rất tháo vát, nhanh nhẹn, bị giặc bắt mà
không run sợ, chỉ tay và bụng “cộng sản đây này”.
- Khi trưởng thành, Tnú trở thành cán bộ cách mạng:
● Có trái tim tràn đầy tình yêu thương: không chịu đựng được cảnh vợ con bị bắt
giết, Tnú lao ra cứu nhưng bị bọn giặc bắt.
● Là người cộng sản kiên cường, dũng cảm: giặc đốt 10 đầu ngón tay anh không
kêu van “người cộng sản không hề kêu van”, “trợn mắt nhìn thằng Dục” dùng
đôi bàn tay của mình để cầm súng giết giặc, ...
- Nhận xét: Tnú là người con ưu tú của núi rừng Tây Nguyên, là nòng cốt của cuộc
kháng chiến, biết nén đau thương cá nhân vì lợi ích của cộng đồng. c. Nhân vật Dít
- Là người con gái gan dạ, dũng cảm, có sức chịu đựng phi thường, biết nén đau
thương để nung nấu ý chí trả thù: đem gạo vào rừng cho dân làng, giặc bắn súng dọa
vẫn không khai, chị mất nhưng không khóc, ...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
d. Nhân vật bé Heng
- Bé Heng dù nhỏ tuổi nhưng đã làm nhiệm vụ: thông thuộc từng hố chông, từng chiến
điểm để dẫn đường cho cán bộ cách mạng, cho khách đến làng.
- “là lứa xà nu mới mọc nhưng đã nhọ hoắt như lưỡi lê”, hứa hẹn một sự vươn lên vững chắc.
- Nhận xét chung: họ là một tập thể anh hùng luôn nối tiếp những truyền thống tốt
đẹp: giàu tình yêu thương, căm thù giặc sâu sắc, trung thành với cách mạng. Qua ho
có thể thấy được phẩm chất và con đường cách mạng của người dân Tây Nguyên. III. Kết bài
- Khái quát nghệ thuật: với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc
sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, ...
- Rừng xà nu là một khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng
của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên. Dàn ý số 2 I. Mở bài
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành sáng tác
năm 1965, đúng lúc quân Mĩ ào ạt đổ bộ vào Chu Lai, Quảng Ngãi.
- Dẫn đề và chuyển mạch. II. Thân bài A. Phân tích
1. Cốt truyện và lời kể mang tính sử thi anh hùng
- Câu chuyện kể về anh Tnú tham gia cách mạng. Giặc bắt vợ anh và đứa con nhỏ đem
đánh đập dã man cho đến chết. Tnú xông ra, bị giặc bắt, đốt mười đầu ngón tay anh.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Dân làng Xô Man đã vùng lên giết giặc cứu Tnú. Rồi anh gia nhập lực lượng quân
giải phóng. Ba năm sau, Tnú về thăm quê hương.
- Câu chuyện được tác giả kể trên bối cảnh cuộc đồng khởi của nhân dân Tây Nguyên.
Chuyện cuộc đời Tnú được kể lại qua một nhân vật trong truyện là cụ Mết. Cách kể,
giọng kể đã góp phần xây dựng tác phẩm như một bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu
của nhân dân Tây Nguyên chống Mĩ. 2. Nhóm nhân vật
(1) Nhân vật trung tâm Tnú
- Gắn bó với cách mạng.
- Tha thiết thương yêu bản làng, vợ con.
- Càng đau thương, càng căm thù giặc
- Yêu thương, căm thù biến thành hành động: gia nhập lực lượng quân giải phóng để
tiêu diệt kẻ thù, giải phóng quê hương.
(2) Cụ Mết, già làng:
- Tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man.
- Thủy chung với cách mạng.
- Là linh hồn của làng Xô Man trong cuộc đồng khởi của dân làng Xô Man. (3) Dít
- Kiên cường, dũng cảm.
- Căm thù giặc trên cơ sở nhận thức bản chất tàn bạo của kẻ thù, tiếp tục lãnh đạo dân
làng xô Man chiến đấu giải phóng bản làng. (4) Bé Heng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
- Đóng góp công sức xây dựng làng chiến đấu.
- Ngày càng trưởng thành về ý thức trách nhiệm, ý chí chiến đấu cao.
Tất cả các nhân vật trên đều toát lên vẻ đẹp hào hùng trên bối cảnh hùng vĩ của rừng xà nu, của làng xô Man. B. Đánh giá
1. Nội dung tư tưởng
Rừng xà nu ca ngợi tinh thần bất khuất, vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương của
các dân tộc Tây Nguyên. Tác phẩm xứng đáng được coi là một bức tranh sinh động,
chân thực về hai cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp và chống Mĩ.
2. Nghệ thuật xây dựng truyện
Rừng xà nu là một truyện ngắn nhưng có sức chứa lớn như một bản trường ca về chủ
nghĩa anh hùng của nhân dân Tây Nguyên. Các yếu tố truyện càng lúc càng mở rộng,
tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
(1) Một câu chuyện của cụ già Mết với dân làng về cuộc đời Tnú. Câu chuyện đời Tnú
cũng là chuyện của bà con làng Xô Man. Chuyện làng Xô Man cũng là chuyện của Tây Nguyên.
(2) Một nhân vật trung tâm - Tnú - mở ra một loạt quan hệ với cụ già Mết, Mai, Dít,
bé Heng... và đằng sau là cả dân làng Xô Man, làng Xô Man với bạt ngàn những rừng
xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
(3) Một thời gian ngắn ngủi, một đêm về phép sống và bản làng của Tnú và một quãng
đường dài của nhân dân, của cách mạng từ quá khứ đến tương lai, từ những đau
thương đến một cuộc đồng khởi vĩ đại: suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung
động. Và lửa cháy khắp rừng... III. Kết bài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
- Rừng xà nu là một bức tranh sinh động về cuộc chiến tranh nhân dân chống Mĩ cứu nước.
- Tác phẩm đã ca ngợi tinh thần bất khuất, vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương
của các dân tộc Tây Nguyên.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 1
Mỗi nhà văn, dường như đều có một vùng quê sáng tác. Đối với Nguyên Ngọc, Tây
Nguyên hùng vĩ núi non. Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những người bộc trực
kiên trung một lòng đi theo cách mạng chính là vùng đất mà ông gắn bó, trăn trở trong
sáng tác của mình. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông bám trụ ở Tây Nguyên
để rồi viết nên tiểu thuyết Đất nước đứng lên.
Những năm đánh Mĩ, Nguyên Ngọc lại trở về với vùng gian khổ này từ đầu những
năm sáu mươi, ngay sau những ngày đồng khởi cách mạng miền Nam. Cuộc chiến đấu
anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi lòng cảm hứng cho ông viết truyện ngắn
Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.
Rừng xu nu chỉ là một truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực của nó là lớn lao. Đó
là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự
trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường.
Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà nu quanh làng Xô Man của người Strá. Một
rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù để tiếp nhận ánh
nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác
của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng
bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó.
“Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị
chặt đứt ngang nửa thân mình. Ở những vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào
ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại. và đặc quệnh thành từng cục máu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
lớn. Có những cây con vừa lớn ngang ngực lại bị đại bác chặt đứt làm đôi, năm mười hôm thì cây chết.
Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như
những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đại bác không giết nổi chúng, những vết
thương của chúng chóng lành như một thân thể cường tráng. Chúng vươn rất nhanh,
thay thế những cày đã ngã. Cứ thể hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của
mình ra, che chở cho làng...”.
Nguyên Ngọc miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và
tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho
người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh
sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau
thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ.
Bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó.
Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man,
như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng
về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.
Tái hiện chân thực cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những
ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy
truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành
của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc
Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền
với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.
Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng đùm bọc, nuôi dạy khôn lớn. Cậu bé Tnú
đến với cách mạng ngay từ những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang
ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chứng kiến cảnh đau
thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan,
chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Ngày Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống ở đời qua sự chỉ bảo của
anh cán bộ Quyết. Dũng cảm, mưu trí, lanh lợi là phẩm chất tốt đẹp của Tnú, “nó liên
lạc cho anh Quyết từ xã lên huyện. Không bao giờ nó đi đường mòn. Giặc vây các ngả
đường nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xẻ rừng mà đi, lọt tất cả vòng
vây. Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang,
vượt trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”.
Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn em về làng, tra tấn đủ
mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo,
chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi của kẻ thù: Cộng sản ở đây này”. Đó
không phải là câu trả lời mà là một lời thách thức, dũng cảm ! Với lời thách thức ấy,
Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.
Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách.
Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở
thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời
dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná… " chuẩn bị mọi thứ cần thiết
cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó.
Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh. Lại một thử
thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Dác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ
con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú
đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường
của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh,
“Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc", răng cắn chặt môi, không một
tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giận vào kẻ thù.
Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ
thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó.
Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu
dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân
người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải
phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn. Điều này có
thế thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực lượng”. Anh kể
rằng anh giết thằng Dục, tên chi huy đồn giặc ở Đắk Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ dã
gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng là thằng Dục cả”.
Rõ ràng, với anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của
đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu
sắc, nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng của đất
nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.
Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô
Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dit “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh
không ngủ...". Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng
yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là
quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ.
Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng
giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt
qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách lượt từng mảng.
Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó
đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên
một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”.
Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương
của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già,
đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành
người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có
sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với
“đôi mắt mở to bình thản trong suốt”.
Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi
tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dít như
vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề
ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.
Tnú và Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến
với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự
trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những
thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt sự
trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền
thông anh hùng của người Strá.
Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man. Cụ là pho
sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quắc thước như
xưa... ngực cũng như một tấm xà nu lớn... tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”,
vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm
trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn
luôn nhắc nhở con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương.
Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã
man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu: Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn
tay trắng, chỉ với bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm
vũ khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe rõ chưa,
các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. San này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho
con cháu. Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo’’. Lời cụ rành rẽ vang lên trong
ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.
Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt
đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò
của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống,
với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu
hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít... có
sự trưởng thành lớn lao.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Và không chỉ có lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như bé Heng, cũng lớn lên, lớn lên
cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Với nhân vật bé Heng, Nguyên
Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng
sâu sắc cho người đọc.
Tuổi của bé Heng, lẽ ra, là tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi
vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng đã có dáng vẻ của “một
người lính thật sự, đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc
vào một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”. Hơn
thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm
xưa. Thật là từ hào và tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên,
trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.
Đọc Rừng xà nu có cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người
với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến sĩ giải
phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi
ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tưởng của
Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ.
Những mảnh đời quá khứ, những mảnh đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ cho nhau để
cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô Man trong
cuộc chiến đấu với kẻ thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng và nỗi đau
chung, Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu lấy mình, để giải phóng dân
tộc và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng đáng với cha ông.
Chính cái tư tưởng này đã chi phối kết cấu của Rừng xà nu. Hệ thống sự kiện trong
truyện, chủ yếu được tố chức theo sự phát triển tâm lí tính cách nhân vật trung tâm,
chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn
có điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân
vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù là hai lần Tnú thể hiện rõ phẩm chất kiên cường
của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện ở mỗi lần có khác nhau và có sự phát triển.
Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú tỏ rõ đức kiên trung quả cảm của mình.
Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo của kẻ thù.
Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc có sở trường trong việc lựa chọn những
chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất
thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh tụ Mết với những nét khắc
chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác
giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn.
Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai
giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết
thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng xà nu không chỉ
rung cảm người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc
động, những tình cảm thầm kín nơi họ.
Trên những trang viết của mình. Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của
ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng xà nu đằm thắm chất trữ
tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc
động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tưởng
về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú... lời văn của Rừng xà nu
giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óng mượt như ngôn ngữ của
một bài thơ (ví dụ: đoạn mở đầu tác phẩm). Chính cái vẻ của lời văn đã góp phần tạo
nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Rừng xà nu là chuyện của con người nhưng qua đó ta thấy số phận của một dân tộc.
Từ câu chuyện của Tnú và của làng Xô Man, tác giả nói tới sự trưởng thành của cách
mạng miền Nam trong những ngày trước và sau đồng khởi. Đọc Rừng xà nu hôm nay,
vẫn thấy âm vang cái hào hùng của một thời chống Mĩ, một thời có những con người
đẹp như cụ Mết, như Tnú, như Dít, như Mai.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Phân tích Rừng xà nu -Mẫu 2
Đất nước ta có được hòa bình độc lập như ngày hôm nay là biết bao máu xương của
thế hệ cha ông đi trước. Trên khắp mảnh đất hình chữ S, ta đã chứng kiến bao tấm
gương hi sinh anh dũng và chiến đấu kiên cường vì độc lập. Các nhà thơ, nhà văn-
những người nghệ sĩ, chiến sĩ đã giúp cho các thế hệ hiểu hơn về đau thương, mất mát
của cha ông. Một trong số tác phẩm bạn đọc không thể bỏ qua khi đi tìm hiểu về văn
chương kháng chiến là Rừng xà nu của Nguyên Ngọc.
Nguyên Ngọc được biết đến với tên khai sinh Nguyễn Trung Thành. Ông là nhà văn
trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Và đặc biệt gắn bó
với mảnh đất, con người Tây Nguyên. Đó cũng là điều kiện tiền đề cho sự thành công
của tác phẩm Đất nước đứng lên và Rừng xà nu.
Rừng xà nu được viết năm 1965, khi đế quốc Mĩ bắt đầu dồn quân ồ ạt vào miền Nam,
các chiến dịch càn quét được tổ chức với quy mô rầm rộ hơn. Tác phẩm ra đời như
một biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói
riêng và dân tộc ta nói chung.
Trong đời thực, xà nu là một loài cây họ thông, mọc khỏe và có nhiều ở mảnh đất Tây
Nguyên. Đến với xứ sở cao nguyên này là đến với những cánh rừng xà nu bạt ngàn.
Và đối với người dân Tây Nguyên, đây là loài cây rất quen thuộc, gắn bó mật thiết với
cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Nguyên.
Rừng xà nu đã trở thành không gian thực, bối cảnh thực của câu chuyện, được xuất
hiện trở đi trở lại rất nhiều lần trong tác phẩm, tham gia vào sự phát triển của câu
chuyện, trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với các nhân vật. Đó là hình ảnh những
cánh rừng xà nu bao bọc quanh làng Xô man. Từ đồi xà nu- nơi bắt nguồn của con
nước dẫn vào làng.. đến những công dụng của nó như củi xà nu cháy trong mỗi bếp,
đuốc xà nu soi sáng rừng đêm, nhựa xà nu cháy rực trên mười đầu ngón tay Tnú.
Rừng xà nu đã chứng kiến bao buồn vui của con người và trở thành những thành viên
có mối quan hệ khăng khít với con người Xô man.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm không chỉ được hiện lên với những chi tiết miêu
tả chân thực, sống động mà còn bằng những hình ảnh nhân hóa, những liên tưởng độc
đáo, mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bởi vật mà những cây xà
nu và rừng xà nu được hiện lên như thực thể sống, có phẩm chất, số phận như con người thực sự.
Câu chuyện được mở đầu bằng nỗi đau thương của những cây xà nu trong cảnh ác liệt
của chiến tranh: “Chúng nó bắn đã thành lệ,… hầu hết đạn đại bác rơi vào ngọn đồi xà
nu cạnh con nước lớn”. Rừng xà nu đã trở thành đối tượng hủy diệt tàn phá của quân
xâm lược, phải hứng chịu bao đau thương, mất mát. Trước hết, đó là nỗi đau thương
chung của một rừng cây: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị
thương”. Trong đó lại có những nỗi đau thương riêng của từng cá thể: “Có những cây
bị chặt đứt ngang ngửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa
ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần bầm lại, đen và đặc
quyện thành từng cục máu lớn”. Rồi có những cây còn non “vừ lớn ngang tầm ngực
người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi… năm mười hôm thì cây chết”.
Những trận mưa bom bão đạn của kẻ thù dội xuống những cánh rừng xà nu nhằm hủy
diệt sự sống của thiên nhiên và con người nơi đây. Rừng xà nu phải hứng chịu bao tổn
thương, mang trên mình đầy thương tích. Nhưng trong đau thương, trong chiến tranh
bom đạn khắc nghiệt, cây xà nu, rừng xà nu vẫn hiện lên với bao vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng.
Đó là loài cây sinh sôi nảy nở rất khỏe. Cứ một cây ngã xuống là đã có bốn, năm cây
con mọc lên. Đó là loài cây “ham ánh sáng mặt trời”, nhưng không phải là ánh sáng
yếu ớt dưới tầng thấp mà đó là những luồng sáng lớn thẳng tắp rọi xuống từ bầu trời
cao, rộng. Chính bản năng sinh tồn mạnh mẽ cùng với khát vọng ánh sáng của bầu trời
tự do đã tạo cho cây xà nu ngay từ nhỏ một vóc dáng ngay thẳng, kiên cường, một sức
mạnh bất tử mà không một trở lực nào có thể ngăn cản được: “ngọn xanh rờn, hình
mũi tên lao thẳng lên bầu trời.. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng…” Cây
xà nu còn có một sức chịu đựng phi thường, sức sống nội tại bất diệt. Bởi vậy mà “đạn
đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
thân thể cường tráng”. Đối mặt với bom đạn hủy diệt của kẻ thù, rừng xà nu vẫn hiện
ra với tư thế hào hùng, hiên ngang, bất khuất như chàng dũng sĩ khổng lồ, ngày ngày
“ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.
Chiến tranh và năm tháng, kẻ thù đã dội xuống những cánh rừng xà nu biết bao nhiêu
bom đạn, ra sức tàn phá hủy diệt sự sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên.
Những đồi xà nu, rừng xà nu vẫn nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Với kết cấu theo
kiểu vòng tròn, câu văn kết thúc và câu văn mở đầu được lặp lại gần như nguyên vẹn,
chỉ thay thế từ “đồi” bằng từ “rừng”, chữ “hết” bằng chữ “hút”. Minh chứng cho sự
trường tồn bất tử, sức sống bất diệt của thiên nhiên nơi đây mà không một sức mạnh
tàn bạo nào có thể ngăn cản và hủy diệt được.
Khi xây dựng hình tượng rừng xà nu, Nguyên Ngọc không chỉ tái hiện một bức tranh
thiên nhiên tráng lệ, hào hùng của mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ, mà rừng xà nu còn
mang ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ cho con người nơi đây. Trong cả hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ, nhà văn đều gắn bó sâu nặng với mảnh đất Tây
Nguyên. Nỗi đau thương của rừng xà nu cũng chính là nỗi đau thương của dân làng
Xô man. Biết bao máu và nước mắt, biết bao nỗi đau khổ thể xác và tinh thần đau đớn
nhưng cũng giống như cây xà nu, dân làng Xô man luôn nêu cao tinh thần bất khuất,
quật cường với tư thế không bao giờ cúi đầu. Những lứa cây nối tiếp nhau trong rừng
xà nu là biểu tượng cho các thế hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô man, luôn nêu cao
truyền thống anh hùng, bất khuất từ quá khứ đến hiện tại.
Tnú là nhân vật trung tâm của truyện ngắn Rừng xà nu, là linh hồn của tác phẩm.
Nhân vật được nhà văn khắc họa bằng ngòi bút mang đậm chất sử thi. Tnú tiêu biểu
cho số phận, phẩm chất của dân làng Xô man, của nhân dân Tây Nguyên. Thời đại
lịch sử cùng với truyền thống đấu tranh anh dũng của dân làng đã góp phần hình thành
nên một con người có đặc điểm chung của cộng đồng nhưng cũng có nét riêng về số phận và phẩm chất.
Trong nỗi đau thương của dân làng Xô man, cuộc đời Tnú đã phải gánh chịu nhiều
đau thương, mất mát. Anh mồ côi cha mẹ từ bé, sống nhờ vào sự đùm bọc của dân
làng. Khi làm liên lạc Cách mạng cho anh Quyết, Tnú đã bị giặc bắt, chịu tù đày và bị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
tra tấn dã man với những vết dao chém lằn ngang, lằn dọc ở lưng. Sau khi vượt ngục
về làng, Tnú lấy vợ, sinh con nhưng đau thương vẫn tiếp tục ập đến với cuộc đời anh.
Người vợ trẻ cùng đứa con thơ chưa đầy tháng đã bị giặc đánh đập đến chết bằng
những trận mưa gậy sắt. Và đau đớn hơn, tận mắt Tnú phải chứng kiến cảnh vợ con
mình bị đánh đập cho tới chết mà bất lực. Còn bản thân anh thì bị bắt, bọn giặc dùng
nhựa xà nu đốt cụt mười đầu ngón tay. Có thể nói, cuộc đời Tnú đã phải chịu đựng nỗi
đau đớn tận cùng cả về thể xác lẫn tinh thần.
Mồ côi cha mẹ từ bé, lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của dân làng Xô man, nên
Tnú rất nặng tình với mảnh đất và con người Tây Nguyên. Xa quê hương, Tnú không
ngừng nhớ về quê nhà với tiếng chày giã gạo của người phụ nữ Strá, của Mai… Anh
đã vượt cả quãng đường dài trong cảnh khói lửa của chiến tranh chỉ đề trở lại thăm
làng được có một đêm và anh chẳng còn người thân nào cả. Dù thời gian trôi qua đã
ba năm nhưng anh vẫn nhớ rõ từng nét mặt, hình dáng, giọng nói của mỗi người và
nhận ra cả sự thay đổi của họ. Nỗi xúc động dâng trào của Tnú cũng là niềm vui
sướng và tình cảm của nồng hậu của bà con khi chào đón anh trở về đã thể hiện tình
cảm yêu thương, gắn bó sâu nặng của Tnú với dân làng như máu thịt, ruột già.
Tình yêu thương mà Tnú dành cho vợ con cũng rất chân thành, cảm động. Ngày Mai
sinh con, Tnú đã đi bộ cả ngày đường để kiếm vải về cho Mai địu con. Trong đêm
giặc kéo đến vây làng, khi tận mắt chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn, Tnú đau
đớn và căm phẫn đến tột cùng: “Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”.
Anh đã xông ra cứu vợ con trong sự liều lĩnh và tuyệt vọng, bất chấp sự nguy hiểm đến tính mạng mình.
Nhưng tình yêu thương gia đình rất đỗi đời thường ấy đã góp phần xây đắp lên một
tình yêu lớn lao, cao cả hơn trong Tnú là tình yêu đất nước, yêu Đảng, yêu Cách
mạng. Tnú lớn lên trong thời đại máu lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ý
thức và khát vọng về độc lập tự do đã thấm nhuần trong tâm hồn của mỗi người, được
lưu truyền qua các thế hệ của cộng đồng. Bởi vật mà ngay khi còn nhỏ, Tnú đã khắc
ghi lời dạy của Cụ Mết: “Đảng còn, núi nước này còn”. Tnú đã một lòng theo Đảng,
theo Cách mạng, cống hiến trọn đời mình vì độc lập, tự do của quê hương.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Không chỉ làm một con người có trái tim tha thiết yêu thương, Tnú còn mang những
phẩm chất tinh thần vô cùng cao quý. Sinh ra và lớn lên giữa đại ngàn, trong hoàn
cảnh của những cuộc chiến tranh ác liệt mà hào hùng. Tnú dường như được thừa
hưởng toàn bộ sức mạnh của Tây Nguyên hoang dã và truyền thống quật cường của
dân làng Xô man. Bởi vậy, bên trong thân hình cường tráng với hai cánh tay rộng như
hai cánh lim chắc là dòng máu kiên trung bất và không bao giờ vơi cạn.
Ngay từ khi còn nhỏ tuổi, trong những năm tháng đau thương, đen tối nhất của Cách
mạng với sự tàn sát vô cùng man rợ nhưng Tnú cùng với Mai vẫn dũng cảm vào rừng
nuôi giấu cán bộ. Hai người trở thành liên lạc viên cho anh Quyết. Cậu bé Tnú luôn
bộc lộ sự gan dạ, thông minh. Đi rừng, Tnú không chọn lối đường mòn dễ đi mà tìm
những lối tắt xé rừng mà đi. Khi vượt sông, vượt suối, Tnú không lựa chọn những chỗ
nước êm mà chọn những quãng sông thác ghềnh chảy xiết. Bị giặc bắt và tra tấn dã
man, Tnú vẫn cương quyết không khai nửa lời. Khi giặc hỏi cộng sản ở đâu, Tnú lấy
tay chỉ vào bụng nói “Cộng sản ở đây”. Vượt ngục quay về làng với những vết thương
bên mình, tuy đau đớn nhưng Tnú đã ngay lập tức cùng cụ Mết lãnh đạo thanh niên
trai tráng trong lành vào rừng sâu mài giáo, mác để chuẩn bị cho ngày chiến đấu. Kẻ
thù man rợ đã hành hạ đến chết vợ con anh, đốt cụt mười đầu ngón tay anh. Bao đau
thương cả về thể xác lẫn tinh thần ập đến tưởng chừng làm Tnú gục ngã nhưng không,
anh vẫn kiên cường vượt lên trên nỗi đau thương của số phận, tựa như một cây xà nu
trưởng thành với sức sống bất diệt mà “đạn đại bác không thể giết nổi chúng”. Anh đã
tham gia lực lượng quân giải phóng, chiến đấu anh dũng để trả thù nhà, đền nợ nước.
Và trong một trận đấu giáp lá cà, anh đã giết chết tên giặc to béo như thằng Dực( tiểu
đội trưởng lính ngụy năm xưa).
Khi xây dựng hình ảnh nhân vật Tnú, nhà văn đã rất nhiều lần nhắc đến hình ảnh đôi
bàn tay của Tnú. Đôi bàn tay đó khi lành lặn là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình. Đôi
bàn tay đó cầm phấn học chữ anh Quyết dạy, từng tiếp tế lương thực cho cán bộ trong
rừng. Từng lấy đá đập vào đầu mình cho chảy máu để tự trừng phạt bản thân vì học
chữ thua Mai. Khi Tnú bị giặc bắt, chúng đã tẩm nhựa xà nu để đốt cụt mười đầu ngón
tay Tnú. Mười đầu ngón tay trở thành mười ngọn đuốc. Lúc này, anh nghe lửa cháy
trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi nhưng anh tuyệt không
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
kêu rên, cắn răng quyết không kêu than.Mười đầu ngón tay bị cụt đốt là bằng chứng tố
cáo tội ác man rợ của giặc. Đồng thời đã thổi bùng lên ngọn lửa của lòng căm hận với
kẻ thù xâm lược. Đôi bàn tay Tnú tàn nhưng không phế. Anh vẫn tiếp tục cầm súng
tham gia Cách mạng và lập công lao. Có thể nói, số phận và phẩm chất của người anh
hùng Tnú được khắc họa qua hình ảnh đôi bàn tay bị cụt đốt là đôi bàn tay đau
thương, bàn tay căm thù và bàn tay chiến thắng.
Nguyên Ngọc đã viết lên câu chuyện về những con người kháng chiến với tất cả trân
trọng và tự hào. Tác giả rất linh hoạt trong những tình huống truyện để đẩy câu
chuyện đến cao trào hoặc đưa ra những suy ngẫm trong độc giả. Từ việc xây dựng
hình tượng nghệ thuật rừng xà nu, đến câu chuyện về cuộc đời Tnú, về dân làng Xô
man. Tất cả đều thấm đẫm nỗi đau nhưng rất đáng tự hào, ngợi ca về con người anh
hùng trong kháng chiến. Chính họ là những người làm nên chiến thắng.
Trong cuộc sống xô bồ, khi độc lập tự do đã ở ngay trước mắt thì mỗi lần đọc những
trang viết về năm tháng chiến tranh khiến ta không khỏi bùi ngùi xúc động. Những tác
phẩm văn học kháng chiến ra đời không chỉ là kết tinh của một tài năng nghệ thuật
hay tái hiện con người và thời đại một cách đơn thuần. Những tác phẩm như Rừng xà
nu đã và đang làm nhiệm vụ dựng xây, bồi đắp lòng yêu nước, lòng tự hào đến các thế
hệ con cháu Việt Nam hôm nay.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 3
Truyện ngắn “Rừng xà nu” được tác giả Nguyễn Trung Thành sáng tác vào năm 1965
khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, đặc biệt là ở chiến trường Tây
Nguyên Mỹ đang đổ quân vào để khủng bố và giết chóc. Ra đời trong hoàn cảnh đó,
tác phẩm mang ý nghĩa quan trọng như nguồn cổ vũ và động viên lớn lao dành cho
con người Việt Nam, là động lực để quân và dân ta kiên cường trong chiến tranh gian khổ.
Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” tác giả đã xây dựng hai hình ảnh lớn mang ý nghĩa
tượng trưng sâu sắc đó là hình ảnh cây xà nu và hình ảnh những con người anh hùng
đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp của người dân làng Xô Man. Hình ảnh cây xà nu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
được xuất hiện xuyên suốt tác phẩm. Cây xà nu là một loài cây đặc trưng của vùng đất
Tây Nguyên, gắn bó với cuộc sống sinh hoạt của người dân làng Xô Man: lửa xà nu
trong mỗi bếp, trong đống lửa nhà ưng,... cây xà nu còn chứng kiến quá trình đấu
tranh của dân làng Xô Man “đuốc xà nu được thắp lên trong những đêm người dân
mài vũ khí” …. Dưới tầm bắn của đại bác rừng xà nu đã ưỡn tấm thân lớn của mình ra
che chở cho làng, gánh chịu đau thương để rồi “cả rừng hàng vạn cây không có cây
nào không bị thương”. Cây xà nu còn là nhân chứng trong cuộc nổi dậy của dân làng
trong đêm Tnú bị tra tấn, cây xà nu đã kề vai sát cánh cùng con người chiến đấu. Cây
xà nu còn mang những vẻ đẹp biểu tượng cho phẩm chất, tâm hồn và ý chí của người
dân Tây Nguyên nói chung và dân làng Xô Man nói riêng. Loài cây này có sức sinh
sôi nảy nở rất khoẻ, lớn rất nhanh để thay thế những cây đã ngã, vẻ đẹp ấy tượng
trưng cho sức sống bất diệt của người dân làng Xô Man, bên cạnh đó xà nu lại rất ham
ánh sáng mặt trời nên thường vươn cao, thẳng tắp giống như tinh thần yêu cách mạng,
quý tự do của người dân làng Xô Man, từ người già đến trẻ nhỏ đều một lòng tin vào
lời dạy của cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Cây xà nu thường
mọc thành rừng biểu tượng cho tinh thần đoàn kết của dân làng Xô Man, trong mọi
hoàn cảnh gian khổ, đau thương và mất mát các thế hệ người dân làng Xô Man luôn
kề vai sát cánh bên nhau, trên dưới đồng lòng và tuyệt đối trung thành với lời của cụ Mết.
Dưới tán rừng xà nu ấy là nơi có những con người anh hùng với những phẩm chất tốt
đẹp, đại diện cho vẻ đẹp những con người dân làng Xô Man nói riêng và người dân
Tây Nguyên nói chung. Nổi bật nhất là hình tượng nhân vật Tnú, đời thường Tnú là
một chàng trai chung thuỷ và có tình yêu sâu sắc với Mai, bên cạnh đó anh cũng yêu
quê hương tha thiết, trước khi là một người anh hùng, Tnú là một người con ưu tú của
làng Xô Man. Tnú nổi bật với tinh thần bất khuất gan góc, dũng cảm và trung thành
với cách mạng. Khi còn nhỏ Tnú đã bộc lộ bản lĩnh cách mạng kiên cường, có đóng
góp lớn cho sự nghiệp chung như tham gia phong trào nuôi giấu cán bộ trong rừng,
quyết tâm học chữ để làm cán bộ giỏi, rồi làm liên lạc cho anh Quyết để đưa thư. Khi
lớn lên Tnú cùng dân làng nung nấu ý chí đánh giặc bằng cách mài vũ khí giấu ở trong
rừng, khi giặc khủng bố giết chóc Tnú tận mắt nhìn thấy vợ và con bị giết nhưng vẫn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
phải nén nỗi đau riêng, quyết không phản bội lại cách mạnh. Ngay cả khi bị giặc tra
tấn “một ngón tay… răng anh đã cắn nát môi anh rồi”, bản lĩnh cách mạng giúp Tnú
có sức chịu đựng phi thường.
Tnú chính là thế hệ tiếp bước con đường của cha anh, người anh hùng tiêu biểu cho
truyền thống của làng Xô Man. Bên cạnh nhân vật Tnú, cụ Mết là người có vai trò
quan trọng đối với dân làng Xô Man, là người già làng cụ luôn có tinh thần giáo dục
truyền thống, dẫn dắt dân làng đi lên, cụ dạy dân làng “chúng nó có súng mình phải
cầm giáo mác”, rồi cụ định hướng cho dân làng “đánh thằng Mỹ phải đánh dài”, cũng
chính cụ thường xuyên kể chuyện về Tnú cho dân làng và các thế hệ con cháu nghe.
Như vậy cụ Mết là người có vai trò quan trọng trong cuộc nổi dậy của người dân làng
Xô Man, cụ đã giáo dục, định hướng và dẫn dắt để dân làng đi lên, cụ Mết là biểu
tượng cho sức chiến đấu kiên cường, bất khuất. Dít là người con gái đầy bản lĩnh,
ngay từ nhỏ đã bộc lộ bản chất gan góc và tinh thần trung thành với cách mạng: lẻn
vào rừng tiếp tế lương thực cho du kích, khi bị giặc bắt và khủng bố tinh thần Dít nhìn
bọn giặc bằng ánh mắt bình thản, lạnh lùng. Khi lớn lên đảm nhiệm nhiều chức vụ
quan trọng Dít làm việc rất nghiêm túc, biết kìm nén tình cảm riêng và đặt nhiệm vụ
chung lên trên hết. Dít và bé Heng giống như thế hệ cây xanh mới mọc và lớn rất
nhanh, bé Heng trông nhỏ con nhưng thuộc hết những vị trí hầm chông, hố châm, biết
tham gia và công cuộc chung của dân làng, tỏ ra mình là một người lính thực sự. Nhà
văn đã xây dựng hệ thống nhân vật với ba thế hệ, tầng lớp cha anh (cụ Mết), tầng lớp
thanh niên (Tnú), tầng lớp măng non (Dít và bé Heng), tất cả họ đều mang những
phẩm chất đại diện cho phẩm chất của cộng đồng, là những con người mang tầm vóc lịch sử.
Truyện ngắn “Rừng xà nu” với sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về hình tượng cây xà
nu và những con người “anh hùng dân tộc” của làng Xô Man trong thời chiến tranh
chống Mỹ. Tô đậm truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của dân tộc ta đồng
thời cổ vũ và ca ngợi thế hệ con em noi gương cha anh tiếp bước gìn giữ non sông.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 4
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Có thể coi Rừng xà nu là kết tinh nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành khi tài năng
của ông ở độ viên mãn, tròn đầy nhất. Bởi vậy, đây cũng có thể coi là một trong
những tác phẩm thành công nhất trong sự nghiệp văn chương cả ông. Rừng xà nu là
một bản anh hùng ca về con người và rừng núi Tây Nguyên – đó là tập thể anh hùng,
tập thể đứng lên giành tự do, độc lập cho chính mình.
Truyện được mở đầu bằng một khung cảnh hết sức khốc liệt, nhưng lại được tác giả
trần thuật bằng giọng điệu rất đỗi bình thản: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc.
Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc
đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào
ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn.” Chỉ bằng một câu văn hết sức ngắn gọn nhưng
tác giả đã khái quát được không khí chiến tranh vô cùng khốc liệt, sự sống luôn bị đe
dọa hủy diệt bởi bom đạn và khói lửa chiến tranh. Để làm rõ sự tàn phá khủng khiếp
của chiến tranh đối với thiên nhiên, Nguyễn Trung Thành đã rất kỳ công, dùng từng
con chữ đậm chất tạo hình để tạo lên những hình khối đầy sức ám ảnh: “Ở chỗ vết
thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần
bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. “Rọi từ trên cao xuống từng luồng
thẳng tắp, lóng lánh vô số hạnh bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mơ màng” “cả rừng
xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” . Nhưng dù bị tàn phá, hủy
diệt như vậy, nhưng làng cũng như những cây xà nu không bao giờ bị hủy diệt, dù
chúng có bị cắt làm đôi đi chẳng nữa. Cạnh những cây bị đốn đổ là “đã có bốn năm
cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Sự vươn
lên mạnh mẽ đó không chỉ đơn thuần là bản năng sinh tồn mà còn là khao khát mãnh
liệt vươn lên ánh sáng, mà không có bất cứ thế lực nào có thể ngăn cản được.
Có thể thấy rằng trong đoạn văn miêu tả cây xà nu tác giả sử dụng chủ yếu biện pháp
nhân hóa, để làm nổi bật vẻ đẹp và sức sống kiên cường của loài cây này. Nhưng đồng
thời đằng sau hình ảnh những cây xa nu ta còn thấy được bóng dáng của những con
người nơi đây, những con người đang ngày đêm sống dưới tầm đại bác của giặc, cũng
mang trong mình đầy thương tích nhưng họ chưa bao giờ khuất phục hay chịu gục ngã.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Sau những trang văn miêu tả về rừng xà nu, theo dòng kể của cụ Mết, một trang lịch
sử vô cùng hào hùng của dân làng Xô Man dần dần hiện lên. Những trang sử đấu
tranh hào hùng của nhân dân Xô Man cũng như những cây xà nu kia không thể nào
dập tắt. Trước có cụ Mết, anh Xút, bà Nhan. Tiếp nối có thế hệ của Tnú, Mai… Cứ thế
các thế hệ nối tiếp nhau, kế tục truyền thống vẻ vang của buôn làng. Trong số những
nhân vật đó, nổi bật nhất là nhân vật chính – Tnú.
Trước khi trở thành một chiến sĩ cách mạng, ngay từ nhỏ Tnú đã bộc lộ mình là một
người kiên định, có lí tưởng cách mạng. Để trở thành một chiến sĩ cách mạng trung
kiên, điềm tĩnh nào ai có biết rằng, Tnú đã phải trải qua biết bao thử thách. Trước khi
trở thành một người đàn ông trưởng thành Tnu đã là một cậu bé hết sức nóng giận,
không nhớ được mặt chữ cậu sẵn sàng đập vỡ bảng, lấy đá ghè đầu. Nhưng lại cũng
rất cầu tiến, sáng hôm sau gọi Mai phía sau để hỏi về những bài đã học. Những hành
động ấy cho thấy sự ngoan cường, bền bỉ ngay từ tấm bé của chàng trai này. Và giữa
hai con người đó đã nảy sinh mối tình vô cùng đẹp đẽ, kết tinh tình yêu của họ chính
là đứa bé bụ bẫm, khỏe mạnh. Những tưởng rằng cuộc sống của họ sẽ viên mãn hạnh
phúc. Nhưng chính lúc ấy hàng loạt biến cố, khiến cuộc đời Tnú chuyển sang một hướng khác.
Trong một trận càn của giặc Tnú đã không bảo vệ được mẹ con Mai, tình yêu, tình
mẫu tử chi trong một đêm đã hoàn toàn biến mất. Biến Tnú từ kẻ có tất cả trở thành
trắng tay. Không chỉ vậy, chính bản thân Tnú cũng bị thương. Mười đầu ngón tay anh
trở thành một ngọn đuốc lớn, rừng rực cháy sáng. Mai chết đi, đứa con dù được Mai
cố gắng bảo vệ nhưng cuối cùng vẫn không thoát khỏi cái chết. Lòng căm phẫn trào
dâng, đến lúc này Tnú không thể cứ mãi nấp trong bóng tối, “hai con mắt anh bây giờ
là hai cục lửa lớn” anh xông vào kẻ thù bằng sức mạnh vô cùng lớn. “Anh không biết
đã làm gì. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng giặc tháo chạy
vào nhà ưng”. Nhưng kết cục cũng vẫn không cứu được Mai. Giọng cụ Mết đến đây
trầm xuống, như càng khắc sâu thêm vào tâm khảm Tnú nỗi đau bị mất gia đình, để
anh không bao giờ quên mối thù với lũ người tàn ác. Sau khi gia đình mất, Tnú tiếp
tục đi lực lượng, trở thành một chiến sĩ cách mạng kiên trinh và chính anh đã sử dụng
bàn tay bị thương của mình để giết kẻ thù. Bởi vậy hình ảnh bàn tay là hình ảnh nghệ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
thuật đầy sức ám ảnh trong tác phẩm. Bàn tay ấy là biểu hiện rõ ràng nhất cho tội ác
của kẻ thù. Đôi bàn tay ấy còn thể hiện sự kiên định trách nhiệm của một người chiến
sĩ cách mạng. Đôi bàn tay yêu thương, dựng xây gia đình cùng Mai, vì gia đình sẵn
sàng xông vào chỗ chết. Hơn cả đôi bàn tay ấy còn tượng trưng cho ý chí nghị lực
kiên cường, dù bị khuyết thiếu vẫn có thể tiêu diệt kẻ thù.
Tnú có thể coi là kết tinh sức mạnh và số phận của dân làng Xô Man cũng như của
nhân dân Việt Nam. Anh vừa mang nỗi đau, mất mát , cũng như sự anh dũng chung
của dân tộc. Nhưng đồng thời lại cũng có những nét hết sức khu biệt ở sự hôn hậu
nồng thắm đậm chất Tây Nguyên. Những nét chung và riêng đó khiến cho tính chất
biểu tượng của nhân vật càng được thể hiện rõ nét hơn.
Ngoài nhân vật Tnú, ta cũng không thể không nhắc đến tập thể anh hùng – dân làng
Xô Man. Cụ Mết là người trực tiếp chỉ huy mọi người đấu tranh. Cụ là con chim đầu
đàn là người giữ lửa và truyền lửa cho thế hệ tương lai. Cụ chính là kho sử thi sống
động, bồi đắp lòng yêu nước và lòng căm thù giặc cho những thế hệ tiếp bước. Hai
nhân vật Dít và Heng tuy chỉ xuất hiện rất ít, nhưng đó chính là những cây xà nu non,
sinh sôi mạnh mẽ , tiếp bước thế truyền thống vẻ vang của cha anh.
Bằng nghệ thuật xây dựng hình tượng nghệ thuật đặc sắc, Nguyễn Trung Thành đã
dựng lên bức tranh người cảnh đẹp đẽ, anh dũng về nhân nhân Xô Man và núi rừng
Tây Nguyên. Đây có thể coi là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi đây.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 5
Tác phẩm “Rừng xà nu” được Nguyễn Trung Thành viết năm 1965 và được in trong
tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Ngay ở nhan đề của truyện ngắn,
ta có thể hình dung về những cảnh rừng xà nu xanh bạt ngàn và có sức sống mãnh liệt
như những người dân của buôn làng Xô Man.
Hình ảnh rừng xà nu ở ngay phần đầu tác phẩm. Xà nu là loại cây họ thông, mọc
nhiều ở khu vực Tây Nguyên. Trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành, “rừng xà nu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
nối tiếp chạy đến chân trời”. Cây mọc thành khu rừng rộng lớn và trở thành loài cây
đặc trưng của mảnh đất Tây Nguyên anh dũng.
Ngay từ những câu mở đầu tác phẩm, rừng xà nu được tác giả miêu tả là bao quanh và
che chở cho buôn làng Xô Man tránh khỏi những trận đại bác của quân địch. Nhưng vì
sự khốc liệt của chiến tranh, cả cánh rừng hàng vạn cây xà nu đều bị thương, thậm chí
“có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.
Người dân nơi đây yêu rừng xà nu vì đây là loài cây gắn bó với dân làng, là người bạn
đồng hành từ khi họ sinh ra, lớn lên, già đi và đến khi về với đất mẹ. Dưới tán cây xà
nu là những nét đẹp văn hóa của những buổi sinh hoạt cộng đồng của đồng bào Tây
Nguyên và còn là nơi hò hẹn của trai gái trong buôn làng.
Và hơn thế, xà nu còn là đồng đội của dân làng, khi ngọn đuốc xà nu sáng rực trong
đêm cùng dân làng nổi dậy chống kẻ thù. Khói xà nu thì xông bảng nứa đen kịt để anh
Quyết dùng làm công cụ dạy Tnú và Mai học bài. Rồi lửa xà nu còn soi sáng “xác
mười tên lính giặc ngổn ngang” chứng minh cho sự kiên cường, anh dũng của buôn làng Xô Man.
Bên cạnh ý nghĩa tả thực, cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận và phẩm chất cao
đẹp của những người con Tây Nguyên. Hình ảnh rừng xà nu chịu bao trận đại bác của
địch gợi những đau thương mà nhân dân phải gánh chịu. Nhưng khâm phục thay, bom
đạn của kẻ thù không thể ngăn được sự sinh sôi, sự lớn mạnh của cây xà nu. “Cạnh
một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình
nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Và dù có chịu nhiều tổn thương, những lứa cây
mới sẽ nhanh chóng mọc lên và “đạn đại bác không giết nổi chúng”.
Bởi vậy, trong suốt cuộc chiến, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở
cho làng”. Hình ảnh “anh hùng” ấy của rừng xà nu là biểu tượng cho sức mạnh quật
cường, bất diệt cho những thế người con Tây Nguyên. Là thế hệ trước ngã xuống sẽ
có thế hệ sau tiếp nối. Xà nu còn là loài cây ham ánh mặt trời, như Tnú và dân làng
Xô Man luôn hướng mình theo ánh sáng của cách mạng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Qua việc phân tích rừng xà nu, đặc biệt là hình ảnh rừng xà nu có thể thấy, đây là một
sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Rừng xà nu có khi được nhìn từ
xa, có khi được miêu tả rất gần. Xà nu không chỉ là một hình ảnh thực mà còn mang ý
nghĩa biểu tượng, tượng trưng cho khí chất, cho dáng dấp của những con người anh hùng Tây Nguyên.
Mặc dù rừng xà nu là hình ảnh đầu tiên được nhắc đến và cũng là hình ảnh biểu tượng
được tác giả dùng để đặt nhan đề tác phẩm, nhưng thực chất con người Tây Nguyên là
những nhân vật mà Nguyễn Trung Thành muốn khắc họa hơn cả.
Và tiêu biểu cho những con người ấy là Tnú, người chiến sĩ trẻ kiên cường, bất khuất.
Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi cán bộ. Khi Tnú học chữ thua Mai, Tnú
lấy đá tự đập vào đầu. Nhưng được anh Quyết khuyên “Tnú phải làm cán bộ thay
anh”, Tnú đã quyết tâm học chữ.
Khi đi liên lạc, Tnú “xé rừng mà đi”, “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên
mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Tnú cũng là người nhanh trí,
khi bị giặc bắt thì liền nuốt thư vào bụng.
Khi Tnú lớn lên, anh cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Khi thằng Dục biết được
tin này, nó tìm cách bắt Tnú. Anh bị tra tấn bằng cách quấn giẻ đã tẩm dầu xà nu lên
hai bàn tay rồi đốt. Tnú không thể cứu được mẹ con Mai và còn chứng kiến mẹ con
chết trước mắt mình. Nỗi đau mất vợ và đứa con chưa còn chưa chào đời cùng nỗi đau
bị tra tấn đã biến thành nỗi căm hờn, uất hận trong Tnú.
Lúc này, dù đau đớn Tnú không kêu lên một tiếng, mà chỉ trợn mắt nhìn thằng Dục.
Sự căm thù, tinh thần kiên cường khiến anh “không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay
nữa”, mà anh nghe lửa như đang cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. “Máu anh mặn
chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Phân tích rừng xà nu có thể thấy,
Tnú không chỉ là người mang phẩm chất anh hùng mà còn là người sâu nặng nghĩa
tình. Tnú cũng là người chồng, người cha yêu thương vợ con.
Bên cạnh nhân vật Tnú, truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành còn khắc
họa thành công các nhân vật khác như cụ Mết, anh Quyết, Mai, Dít, Heng… Qua các
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
nhân vật này, tác giả đã làm nổi bật những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau một lòng yêu
nước, một lòng đi theo lý tưởng của Đảng.
Anh Quyết là cán bộ cách mạng, người dạy chữ cho Mai và Tnú. Và anh cũng là
người có vai trò nhen “lửa yêu nước” “lửa đấu tranh” cho người dân Tây Nguyên.
Anh như người khai sáng, người giáo dục tinh thần cách mạng cho những người trẻ.
Bằng tấm lòng, bằng tình yêu nước anh đã khơi gợi ở Tnú tinh thần chiến đấu vì lí
tưởng cách mạng, tin theo Đảng và bác Hồ.
Và bài phân tích rừng xà nu sẽ không trọn vẹn nếu ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ là
già làng, là người anh hùng thuộc thế hệ trước, là người lãnh đạo buôn làng nổi dậy
chiến đấu. Cụ cũng là người kể chuyện cho các thế hệ thanh niên trong lòng về cuộc
đời người anh hùng Tnú. Cụ cũng được trao cho sứ mệnh truyền đạt và khẳng định
con đường cách mạng mà nhân dân ta phải đi, đó là” “Chúng nó đã cầm súng, mình
phải cầm giáo”. Nghĩa là chúng ta không thể chịu áp bức mãi được, chúng ta phải
đứng dậy, phải cầm giáo đấu tranh cho chính nghĩa.
Những thế hệ sau của cụ Mết, của Tnú là Dít và Heng, chúng sẽ là người nối tiếp con
được của thế hệ đi trước. Sau này Dít lớn lên và trở thành chính trị viên xã đội, bí thư
chi bộ. Nhưng ngay từ khi còn nhỏ, Dít đã thật gan dạ nhờ vào sự giáo dục về lí tưởng
cách mạng của thế hệ đi trước. Dù chỉ là một cô bé, Dít đã rất bản lĩnh mà không run
sợ trước súng đạn của quân địch.
Còn cậu bé Heng, ngày mà Tnú ra đi, “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa
biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy”, nhưng khi Tnú về
thăm làng, Heng đã trở thành một người lính kiên cường. Heng có thể dẫn Tnú đi qua
những con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn
thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gãy đôi ống
quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Và dù vẫn còn là một đứa
trẻ, cậu bé đã thật dũng cảm, là mảnh ghép không thể thiếu của một tập thể anh hùng
trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Qua phân tích tác phẩm Rừng xà nu có thể thấy, tác phẩm thấm đẫm chất sử thi hùng
tráng. Điều này thể hiện ngay từ chủ đề tác phẩm, đến nhân vật, giọng điệu. Thông
qua tác phẩm “Rừng xà nu”, tác giả đã tái hiện một không khí hào hùng một thời
chống Mỹ của buôn làng Xô Man nói riêng và cả dân tộc ta nói chung.
Như đã phân tích xuyên suốt tác phẩm, ta có thể thấy điểm nổi bật của “Rừng xà nu”
không chỉ là hình ảnh rừng xà nu ở phần đầu mà còn ở tuyến nhân vật là những người
anh hùng, kiên cường, bất khuất giữa Tây Nguyên đại ngàn. Phân tích rừng xà nu ta
như đang hát một khúc ca chiến đầu hào sảng, được hòa mình vào khí thế đấu tranh
của những người dân buôn làng Xô Man chân chất và anh dũng. Đồng thời, kết cấu
của tác phẩm được xây dựng theo hình thức truyền lồng trong truyện thực đã mang lại
sự hấp dẫn cho tác phẩm của Nguyễn Trung Thành.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 6
Trong nền văn học nước nhà, thể loại văn xuôi được biết đến là một trong những thế
loại đạt được nhiều thành tựu đáng kể, trong các tác phẩm không thể không nhắc đến
bài “rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, một bài sử thi đậm chất Tây Nguyên.
Trong đó tác giả khắc họa thành công hình tượng cây xà nu, làm cho ta cảm thấy hào
hùng, sự chiến đấu của con người Tây Nguyên.
Tác giả Nguyễn Trung Thành là nhà văn của Tây Nguyên, ông còn hoạt động chiến
trường miền Nam thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là tác phẩm
tiêu biểu của tác phẩm, hình tượng “cây xà nu” là hình ảnh trung tâm trong bài văn.
Xà nu được biết đến là loài cây phổ biến ở núi rừng Tây Nguyên, dẻo dai, kiên cường
bất khuất như người dân Tây Nguyên, sống trong một môi trường khắc nghiệt nhưng nó vẫn bền bỉ.
Hình ảnh cây xà nu được ví như những con người Tây Nguyên không chịu đầu hàng
với số phận, với thời tiết, không chịu đầu hàng, luôn hướng về phía trước để bảo vệ
độc lập, tự do của bản mình, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những cây xà nu
vươn mình bảo vệ dân làng khỏi bão táp, khỏi sự săn đuổi, giúp cán bộ cách mạng
thực hiện được chiến lược của mình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Cây xà nu gắn liền với đời sống hàng ngày với người dân Tây Nguyên, sự trưởng
thành từng của các thế hệ dân làng Xô Man, đó là từ Tnú, chị Mai, cụ Mết, bé Heng,
đó là những người thế hệ từ đời này sang đời khác, mỗi thế hệ đều cố gắng lớn lên,
thay nhau bảo vệ ngôi nhà Tây Nguyên của mình, mà cây xà nu vẫn gắn bó, trải qua
bao bom đạn với dân làng nơi đây.
Có thể nói “cây xà nu”chính là linh hồn của Tây Nguyên, nó đã lớn lên, ăn sâu trong
mỗi tiềm thức con người Tây Nguyên, khi nhắc đến loài cây này, dường như ta cảm
thấy sự hào hùng, cây mọc thẳng, vươn vai, cao lớn, hướng tới ánh sáng cũng như
người dân Xô Man hướng tới hạnh phúc, sự độc lập dân tộc.
Trong lịch sử kháng chiến của dân làng Tây Nguyên, cây xà nu chính là người bạn
chiến đấu, sát cánh cùng người dân, nó chính là biểu tượng tinh thần và ý chí quật
cường, mặc dù bị thiêu rụi thì cây xà nu vẫn kiên cường bảo vệ âm ỷ dòng nhựa để
cho cây non mọc lên, cũng như Tnú từ một cậu bé dần dần được cách mạng nuôi
dưỡng, bảo vệ và lớn dần khi trưởng thành chiến đấu, dù bị đốt mười ngón tay những
vẫn cầm súng chiến đấu.
Tác giả đã miêu tả hình tượng cây xà nu ẩn dụ, miêu tả cây bằng nghệ thuật nhân hóa
như những con người Tây Nguyên, nói lên sự hi sinh, và cũng miêu tả lê cảnh bị áp
bức bóc lột đến tàn bạo mà bọn thực dân đối với dân làng Xô Man, cây xà nu bị thiêu
rụi, cũng chính là sự mất mát, đau thương cứ chồng chất khiến cho lầm than cứ nối
tiếp. Hình ảnh Mai và Tnú bị tra tấn nhưng họ vẫn chịu đựng, gắng gượng đến phút cuối cùng.
Mối quan hệ giữa người dân với cây xà nu có một sợi dây gắn kết rất bền chặt, và
khăng khít không ai có thể tách rời, cây xà nu chính là người bạn từ thuở ấu thơ, trải
qua bao thăng trầm lịch sử với dân làng, chúng chính là hàng rào bảo vệ kiên cố, dù bị
thiêu rụi vẫn cố gắng đứng lên như con người Xô Man, tuy không thể nói, không thể
biểu hiện cảm xúc nhưng những cây xà nu lại làm ta cảm thấy thêm niềm tin, sức
mạnh chiến đấu đến cùng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Cứ thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau lại đứng lên nối tiếp nhau, phát huy hết sức mạnh
chiến đấu, cũng như cây xà nu già chết lại trên thân cây đó có cây xà nu con mọc lên
vươn vai để bảo vệ người dân Xô Man, từ thế hệ lão làng như cụ Mết, rồi đến Tnú và
cuối cùng là bé Heng, ở họ đều có sự khao khát cháy bỏng về một tương lai tươi đẹp ở
phía trước đang chờ đợi họ.
Trong tác phẩm rừng xà nu chắc chắn hình ảnh Tnú và cây xà nu được ví như hai hình
ảnh song song nhau, có nhiều mối tương đồng, hỗ trợ lẫn nhau, làm nổi bật được ý chí
và tinh thần chiến đấu của nhau, một cây xà nu to, chắc, vươn rộng vai mình bao trùm
dân làng cũng như Tnú một chàng thanh niên khỏe mạnh cùng cán bộ,cùng các già
làng đấu tranh đuổi bọn giặc Mỹ ra khỏi làng, để người dân có một cuộc sống êm
đềm, không còn sống trong sợ hãi, hi sinh bản thân vì độc lập, tự do.
Sự khát vọng hòa bình, sự bình yên cho cả nước, những ước mong mà người dân luôn
khao khát từng ngày, bằng tình yêu bao la của mình đối với Tây Nguyên, câu văn
miêu tác giả dùng những tả qua hình ảnh cây xà nu, làm tăng thêm giá trị nghệ thuật,
sự kiên cường của từng con người Xô Man, và sự quan sát một cách tinh tế, Nguyễn
Trung Thành đã khiến cho người đọc cảm nhận được sự mất mát và đau thương mà
người dân nơi đây phải chịu thông qua hình ảnh cây xà nu, có một trái tim đồng cảm
và chua xót cho con người Tây Nguyên.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 7
Nguyễn Trung Thành còn có bút danh khác là nhà văn Nguyên Ngọc ông viết truyện
ngắn "Rừng xà nu" sau những ngày đi tìm kiếm thực tế sáng tác tại núi rừng Tây
Nguyên hoang sơ. Truyện ngắn "Rừng xà nu" nhằm ca ngợi những người dân Tây
Nguyên kiên cường, trung thành, bất khuất trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
"Rừng xà nu" là một truyện ngắn chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn, tình cảm và lòng
yêu nước vô cùng to lớn của những người dân vùng núi đại ngàn. Tác phẩm chính là
một bản hùng ca bi tráng mang đậm tính sử thi viết về những người dân Tây Nguyên
gan dạ, mưu trí, yêu nước hơn yêu cả mạng sống của mình. Nhờ có tinh thần bất khuất
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
kiên cường đó mà toàn dân ta mới chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại hai
kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm chính là hình ảnh những cánh rừng xà nu. Một rừng xà
nu bạt ngàn xanh tươi, trải dài tới hút tầm mắt. Một rừng xà nu mà không cây nào
không bị thương, bởi mỗi khi kẻ thù muốn đánh người dân nơi đây chúng đều thả rất
nhiều bom đạn trút xuống cánh rừng xà nu. Nên việc xà nu bị thương là điều vô cùng
dễ hiểu. Nhưng dù bị thương hay vết thương có khiến cho nhựa cây chảy ra thật nhiều
thì những cây xà nu kia cũng không bao giờ chết. Chỗ vết thương theo thời gian sẽ tạo
thành một vết sẹo mà thôi. Không có một loài cây nào ham sống như cây xà nu, nếu
một cây to bị gục xuống thì ngay dưới chân nó lại có vài cây con mọc lên. Những
cánh rừng xà nu cứ vì thế mà xanh tươi mãi mãi.
Hình ảnh những cây xà nu kia chính là biểu tượng của người dân Tây Nguyên, những
con người luôn trung thành với Đảng với cách mạng và Bác Hồ. Những con người
Tây Nguyên từ người già như cụ Mết, cho tới Tnú, Mai, Dít và bé Heng đều có tinh
thần yêu nước. Những người dân của làng Strá dù ít dù nhiều dù lớn dù bé cũng luôn
một lòng hướng về quê hương của mình, có lòng căm thù giặc sâu sắc.
Nhân vật chính trung tâm song song với hình tượng cây xà nu chính là anh Tnú một
người anh hùng. Một chiến sĩ cách mạng kiên trung dù trải qua nhiều đau khổ khó
khăn trong tình cảm riêng tư nhưng Tnú càng thêm kiên cường và căm thù giặc sâu
sắc. Tnú vốn là một cậu bé chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống ba mẹ anh qua đời
trong một trận càn quét của giặc. Tnú được cụ Mết và người dân trong làng Xô Man
nuôi dưỡng nên người. Ngay từ nhỏ Tnú đã tỏ rõ tinh thần anh dũng, kiên cường của
mình, Tnú làm liên lạc việc đưa thư cho các chiến sĩ cách mạng, để tránh sự truy đuổi
của kẻ thù Tnú thường đi đường mới không đi những con đường mòn dễ đi. Rất nhiều
nhiệm vụ khó đã được Tnú hoàn thành. Có lần Tnú bị giặc bắt được chúng tra tấn Tnú
nhưng anh vẫn kiên cường không khai mà âm thầm nuốt lá thư vào bụng của mình để
bảo đảm an toàn của bức thư.
Ngày còn nhỏ Tnú và Mai là bạn thanh mai trúc mã, cả hai được cán bộ Quyết dạy
chữ. Mai thông minh học đâu nhớ đó, còn Tnú thì cứ quên hoài nên anh đã lấy viên đá
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
đập vào tay của mình để nhắc nhở mình phải ghi nhớ. Khi lớn lên Mai và Tnú kết hôn
họ đã có thêm em bé là kết quả tình yêu của hai người. Nhưng Mai bị bọn tay sai bắt
đi tra tấn dã man khiến cho Mai và em bé trong bụng tử vong. Tnú đau đớn ôm xác vợ
con. Anh bị bọn chúng tra tấn dã man và đốt cháy mười ngón tay, nhưng Tnú không
hề cảm thấy đau đớn nỗi đau trong lòng anh còn lớn hơn nỗi đau thể xác. Tnú như một
cây xà nu trưởng thành bị giặc bắn phá bị thương, nhưng vẫn luôn kiên cường vươn
lên và không bao giờ gục ngã.
Truyện ngắn "Rừng xà nu" của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn vô
cùng thành công của nhà văn viết về đề tài những người dân Tây Nguyên trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh những cây xà nu anh dũng hiên
ngang tựa như những người dân làng Xô Man bất khuất trung hậu, quả cảm.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 8
Nguyễn Trung Thành là nhà văn sinh ra ở vùng đất Thăng Bình, Quảng Nam, tên khai
sinh của ông là Nguyên Ngọc. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước lầm than khi
phải trải qua hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc, hơn ai hết, ông trân quý và khâm
phục những con người hy sinh hết mình cho cách mạng, cho Tổ quốc thân yêu.
Đặc biệt đối với vùng đất Tây Nguyên anh dũng cùng những con người bộc trực, dũng
cảm, kiên trung một lòng gắn bó cách mạng được ông ưu ái và dành nhiều niềm
thương yêu. Bởi vậy mà bao nhiêu cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh
hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để ông viết nên tác phẩm Rừng xà nu đầy
thành công, trở thành một kiệt tác gắn bó với tên tuổi của mình.
Rừng xà nu được viết vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt. Tác
phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương
những anh hùng Điện Ngọc”. Đây là bài ca ca ngợi bản lĩnh, ý chí sắt đá, bất khuất
kiên cường của đồng bào Tây Nguyên.
Rừng xà nu quanh làng Xô man được tác giả giới thiệu trong đoạn đầu tác phẩm đầy
độc đáo. Một rừng cây luôn "nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", bị súng đạn bắn
phá liên tục, sự hủy diệt vô cùng tàn bạo của quân giặc trước sức sống của thiên nhiên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
- " Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn". Một cảnh tượng đầy
đau thương hiện ra trước mắt, bao nhiêu cây xà nu không cây nào là không bị trúng
đạn, cây nào cũng bị vết thương loang lổ, loét mãi ra rồi chết.
Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên, cây
vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào. Song, rừng xà nu ấy vẫn không chịu khuất phục,
những cây cường tráng nhanh chóng tự chữa lành vết thương. Chúng vẫn tiếp tục sức
sống mạnh mẽ của mình để dang rộng vòng tay mà che chở cho ngôi làng thân yêu.
Cây nọ tiếp cây kia vẫn sinh sôi nảy nở, sự sống vẫn đâm chồi trước sự tàn phá của
quân thù “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên".
Cây xà nu tự mình đứng lên, trường tồn và phát triển, dũng cảm hiên ngang trước bom
đạn kẻ thù "hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho
làng". Hình ảnh rừng xà nu hiện lên thật đẹp, thật đáng tự hào biết bao. Cây xà nu
chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, là đại diện tiêu biểu cho con người Tây
Nguyên, là hình ảnh ẩn dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên từ trước
đến nay. Trong đau thương vẫn ánh dũng kiên cường, trong áp bức vẫn tràn trề hy
vọng, vẫn mang ý chí đấu tranh, nguyện theo gương cách mạng, là sự sống bất diệt của buôn làng Xô man.
Sau hình ảnh xà nu, tác giả tiếp tục tái hiện chân thực cuộc sống và chiến đấu của
người dân nơi đây. Họ là những thế hệ giàu lòng yêu nước, có niềm tin lớn lao vào
cách mạng, là những gương anh hùng sáng chói với non sông, Tổ quốc. Đó là một Cụ
Mết đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh và giàu
lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu. Là
một người nhìn xa, thấu hiểu dân làng, là một chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của làng Xôman.
Với cụ "Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn". Chân lý “Chúng nó dùng súng,
mình phải cầm giáo" của cụ như một lời tuyên ngôn trong cuộc chiến của dân tộc. Đó
còn là một Tnú với những phẩm chất anh hùng. Khi còn nhỏ, anh sớm đã giác ngộ
cách mạng, phấn đấu để trở thành những người như anh Quyết lãnh đạo cách mạng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Một cậu bé gan góc và đầy dũng cảm, giữa bao chiến trận đầy súng đạn của giặc, cậu
bé giao liên vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Khi bị bắt, Tnú vẫn một lòng trung thành dù bị tra tấn đầy ác độc, nhưng vẫn nhất
quyết giữ bí mật. Sau khi vượt ngục, những tưởng được hạnh phúc bên vợ con thì giặc
tiến vào diệt phong trào nổi dậy, một lần nữa Tnú phải chịu đau thương trước sự tra
tấn và khổ đau khi vợ con bị giết mà không làm gì được. Càng trong đau thương,
phẩm chất anh hùng càng ngời sáng trong Tnú, càng trong áp bức càng kiên cường
đứng lên trả mối thù lớn cho vợ con, cho chính mình và cho dân làng Xô man yêu dấu.
Tiếng thét căm hờn là tiếng căm phẫn, xé lòng giữa cuộc chiến, là tiếng hiệu triệu
người người đứng lên giết chết quân thù, bè lũ cướp nước. Bàn tay bị đốt mười ngón
nhưng không thiêu rụi được ý chí của người con Tây Nguyên. Cuối cùng, Tnú cũng đã
giết chết được thằng Dục, kẻ đã thẳng tay giết người thân của anh, trả mối thù sâu
nặng bấy lâu. Tnú tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong cách mạng, tình
yêu và đem hết sức mình phục vụ quân giải phóng.
Đó còn là những Dít, bé Heng,... thế hệ tiếp nối bao chiến công cha anh để cùng nhau
chung sức đưa thắng lợi đi đến cuối cùng. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, ngày càng
trưởng thành, kiên cường chiến đấu xứng đáng với hi sinh của cha anh. Dường như,
trong cuộc chiến khốc liệt, con người Tây Nguyên càng khẳng định được chính mình.
Trong lầm than, đen tối, họ lại càng kiên dũng, ngời sáng tuyệt vời.
Rừng xà nu và nhân dân làng Xô man như hai mà một, đều chịu nhiều đau thương,
đều vươn mình mạnh mẽ. Đó là sức sống bất diệt, là tinh thần bất khuất của con người
Tây Nguyên nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.
Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Nguyễn
Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Nguyên
mà qua đó còn đặt ra một vấn đề mang tính thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự do
cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 9
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
“Rừng xà nu” là một trong những tác phẩm để lại ấn tượng về dấu ấn cá nhân nhất
trong phong cách viết văn của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Bên cạnh đó,”Rừng xà
nu” còn là một tác phẩm có vị trí quan trọng trong văn học kháng chiến chống Mỹ. Đó
là một bài hịch đanh thép hùng hồn cổ vũ mọi người đứng lên chiến đấu giành độc lập.
Nhan đề “rừng xà nu” mở ra hình tượng trung tâm tác phẩm. Đó là một loài cây đặc
trưng của vùng Tây Nguyên. Qua đó, góp phần tạo nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ,
tráng lệ, tạo ra không gian nghệ thuật rộng lớn. Nó gợi dậy hương sắc Tây Nguyên,
sức sống và hơi thở Tây Nguyên. Từ đó soi sáng tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.
Rừng xà nu là hình ảnh mở đầu cũng là hình ảnh xuyên suốt và kết thúc tác phẩm. Vì
vậy có thể nói đây là hình ảnh bao trùm truyện ngắn và có một vai trò quan trọng
trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Nó trở đi trở lại như một ám ảnh của
nhà văn cũng như bạn đọc. Đây là hình ảnh khơi nguồn cảm xúc để nhà văn sáng tạo,
suy ngẫm, là mạch thẩm mĩ để dẫn dắt nhà văn miêu tả, kể chuyện đúng với những tâm sự của ông.
Cây xà nu hiện lên với những vẻ đẹp tự nhiên gắn liền với năm tháng kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của người dân Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành sử dụng những
câu văn ngắn tạo nên nơi người đọc ấn tượng khá mạnh mẽ về bối cảnh lịch sử, thời
đại. Qua đó, nhà văn thể hiện giá trị tố cáo mạnh mẽ bản chất độc ác, dã man của kẻ
thù cũng như sức hủy diệt vô cùng của bom đạn, chiến tranh.
Hầu hết tác giả nêu lên một cách trực tiếp bom đạn không chỉ hủy diệt con người mà
còn hủy diệt cả thiên nhiên. Để rừng xà nu, cây xà nu hiện lên trong hoàn cảnh đặc
biệt giúp nhà văn làm nổi bật sức sống dẻo dai, mãnh liệt. Thiên nhiên ở đây không
chỉ là bức tranh mĩ lệ mà còn là nạn nhân, một chứng nhân lịch sử và đồng thời cũng
tham gia vào bản hùng ca của buôn làng, của cộng đồng.
Cùng với bức tranh thiên nhiên mà cây xà nu đại diện cho vẻ đẹp thiên nhiên Tây
Nguyên thì nhà văn còn xây dựng hình tượng tập thể dân làng Xô Man qua nhiều thế
hệ. Trong đó, cụ Mết đi vào tác phẩm là một già làng, kết tinh đẹp đẽ nhất phẩm chất
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
tốt đẹp, khát vọng của cả cộng đồng. Cụ cũng là người chỉ huy cao nhất là điểm tựa
tinh thần cũng là linh hồn của cuộc đấu tranh giải phóng quê hương.
Cụ Mết là người phát ngôn câu nói giản dị nhưng chắc nịch nêu cao kinh nghiệm sống
và chiến đấu của dân làng Xô Man. Cụ hiện lên như một pho tượng sự sống tượng
trưng cho lịch sử, cội nguồn, sức sống bền bỉ cùng với truyền thống hiên ngang bất
khuất của cả dân làng. Cụ Mết được xây dựng với bút pháp sử thi và lí tưởng hóa
khiến người đọc liên tưởng tới các tù trưởng trong tác phẩm sử thi cổ đại.
Nếu cụ Mết đại diện cho thế hệ đi trước với tinh thần chiến đấu và lòng yêu nước
dũng cảm thì Tnú là thế hệ đi sau. Qua lời văn của Nguyễn Trung Thành Tnú mồ côi
cha mẹ, lớn lên trong sự cưu mang của dân làng Xô Man. Ở Tnú là sự gan góc, táo
bạo của con người sinh sinh ra và lớn lên nơi núi rừng. Có cái gì vừa mạnh mẽ, hiện
đại vừa kiên cường bất khuất không hề nhụt chí, nản lòng trước những khó khăn, hiểm
nguy hay trước những lời đe dọa nào.
Ở Tnú còn là sự nhanh nhẹn, thông minh và rất bản lĩnh và tuyệt đối trung thành với
cách mạng. Đặc biệt là hình ảnh bàn tay Tnú bị thiêu đốt gây ấn tượng mạnh nơi
người đọc. Qua đó, tô đậm tính cách, số phận và cuộc đời của Tnú. Nhân vật Tnú đi
vào tác phẩm là nhân vật chính, có mối quan hệ gắn bó máu thịt với dân làng Xô Man.
Tính cách, số phận và cuộc đời của Tnú tiêu biểu cho số phận và cuộc đời của người
dân Tây Nguyên. Anh chính là người kế tục xuất sắc, phát huy xuất sắc nhất tinh thần
cách mạng của quê hương.
Phân tích Rừng xà nu - Mẫu 10
Khi nhắc đến cuộc sống và chiến đấu của người dân Nam bộ, người đọc không thể
nhắc đến nhà văn Nguyễn Thi với các tác phẩm: Mẹ vắng nhà, Người mẹ cầm súng,
Những đứa con trong gia đình. Khi nhắc đến cuộc sống người dân Tây Bắc, người đọc
lại không thể không nhắc đến nhà văn Tô Hoài với Vợ chồng A Phủ. Còn khi nhắc
đến đồng bào Tây Nguyên thì ta càng phải nhớ tới nhà văn Nguyễn Trung Thành với
Đất nước đứng lên và Rừng xà nu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Rừng xà nu là câu chuyện về cuộc đời cách mạng của Tnú, của cả buôn làng Xô Man.
Câu chuyện có tên là Rừng xà nu bởi đây là loài cây đặc trưng của xứ này. Những
cánh rừng xà nu xanh ngút ngàn trải dài suốt tầm mắt là hình ảnh trở đi trở lại nhiều
lần trong tác phẩm. Những cây xà nu được tác giả miêu tả từ cụ thể chi tiết cho đến
toàn cảnh. Nó hiện lên với đầy đủ dáng dấp tính cách và ý chí kiên cường.
Đạn địch không thể đốn ngã những cây xà nu cũng như chiến tranh không thể phá hủy
được nó. Những cây xà nu vẫn vươn lên xanh tốt, cây này ngã xuống những cây mới
lại mọc lên, nhựa xà nu chảy như những dòng máu nóng trong một cơ thể sục sôi tinh
thần dân tộc. Rừng xà nu được miêu tả cụ thể, mang đầy dáng dấp sử thi và càng làm
nổi bật tính cách, số phận của những người con buôn làng Xô Man.
Những người ấy là Tnú, là Mai, cụ Mết, là Dít là bé Heng. Mỗi một nhân vật lại có
những phẩm chất tính cách riêng nhưng đều hội chung lại là những con người dũng
cảm, quật cường, có một tình yêu vô bờ bến đối với đất nước, với cách mạng. Tnú là
một chàng trai gan dạ, lì lợm, hội tụ những phẩm chất của một người anh hùng cách
mạng. Anh được giác ngộ cách mạng ngay từ nhỏ, được nuôi dưỡng bằng tình cảm
với cách mạng và sự căm thù đối với quân địch.
Từ bé Tnú đã là một chú bé giao liên dũng cảm, nuôi giấu cán bộ trong rừng, luôn
xông xáo làm những nhiệm vụ nguy hiểm, khi bị giặt bắt và tra tấn thì một chút cũng
không khai, trái lại còn thẳng thừng thừa nhận, cách mạng đã ăn sâu vào trong con người mình.
Tnú cũng là một người yêu thương gia đình yêu thương bản làng sâu sắc. Chứng kiến
vợ con bị sát hại, tra tấn anh xông tới tay không đối với địch, ánh mắt anh hằn lên vẻ
căm thù, anh chịu đựng tra tấn, bị giặc đốt hai bàn tay mà quyết không khuất phục.
Anh cũng gắn bó với người dân trong làng, luôn về thăm hỏi mọi người mỗi khi được nghỉ phép.
Mai, Dít là những người con gái cũng can đảm không kém Tnú. Họ giống như chị
Chiến trong Những đứa con trong gia đình, sớm giác ngộ cách mạng và đi theo cách
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
mạng. Dù là phận gái yếu đuối nhưng sự thật tinh thần và hành động của họ lại quả cảm hơn bất kỳ ai.
Mai cùng Tnú nuôi giấu cán bộ trong rừng, bị giặc tra tấn, sát hại mà quyết không
khai nửa lời, Dít dù còn bé nhưng đã lì lợm, đứng trong làn đạn của giặc mà vẫn im re,
mắt nhìn trâng tráo không khai một câu. Họ là thế hệ người phụ nữ mà “Giặc đến nhà
đàn bà cũng đánh” đáng ngợi ca của dân tộc.
Cụ Mết là người tuổi cao, nhiều trải nghiệm nhất, cụ nhìn thấu mọi việc bằng con mắt
của một người dày dạn, một người trải qua nhiều thăng trầm đã trở nên vững vàng và
bình ổn. Cụ là ngọn cờ đầu, là người chỉ huy của cả buôn làng. Cụ đứng lên kêu gọi
dân làng xông tới khi chứng kiến Tnú bị tra tấn, cụ lãnh đạo người dân trong làng
chiến đấu, cụ kể chuyện cho những thế hệ sau của buôn làng nghe những câu chuyện
về cuộc đời Tnú. Cụ Mết chính là người giữ lửa cách mạng cho những thế hệ khác
nhau của buôn làng Xô Man.
Mỗi một con người trong Rừng xà nu lại có những tính cách và số phận khác nhau
nhưng họ lại vô cùng đoàn kết, rất yêu thương nhau và cùng chung nhau mối thù giặc Mỹ.
Rừng xà nu được nhận xét là câu chuyện của một đời được kể trong một đêm. Cuộc
đời ấy là cuộc đời của Tnú, một con người mà từ lúc sinh ra cho đến khi lớn lên đều
cống hiến mình cho cách mạng, anh là đại diện cho dân làng, là sự tiếp nối, phát huy
đầy bản lĩnh của thế hệ trước và là tấm gương sáng chói cho những thế hệ sau. Con
người Tnú là đại diện cho những thế hệ anh hùng kiên cường dũng mãnh trong kháng chiến.
Câu chuyện của anh là đại diện cho một thế hệ trẻ mà đầy hoài bão ước mơ và sức
sống, dám hết mình vì lý tưởng của cách mạng. Đó cũng chính là ý nghĩa sử thi mà
các nhân vật, hay chính rừng xà nu mang lại.
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu - Mẫu 11
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Tây Nguyên hùng vĩ núi non, Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những con người
bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng. Chính vùng đất sản sinh ra vô số
những anh hùng dân tộc đi vào sử sách thì nơi đây cũng chính là vùng đất mang đến
cảm hứng sáng tác cho tác giả Nguyễn Trung Thành. Trong những năm tháng của
mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây
Nguyên khơi nguồn cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn
xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.
Rừng xu nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên
với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và
kiên cường. Nó chỉ là truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực to lớn mà giá trị lịch sử khẳng định.
"Rừng xà nu" viết về những anh hùng ở làng Xô Man của người Strá trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân
vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ gắn với hình tượng cây xà nu
của Tây Nguyên. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà – một loại cây họ thông,
gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống
người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất
của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.
Và đặc biệt đó cũng là một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo
để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống
cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế
chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết
chóc đau thương vào nó. Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu
đều mang dụng ý của tác giả Nguyên Ngọc.
Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại tạo cảm
giác như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà
nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu. Mọi thứ dường như đều
xoay quanh một loại cây đặc biệt này. Ngược đọc không khó nhận ra ý nghĩa của rừng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
xà nu là để nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất.
Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu
thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều
lần như vậy, nhất là các hình ảnh "đồi xà nu" (4 lần), "rừng xà nu" (5 lần), với "hàng
vạn cây" "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng".
Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện như cách mở đầu của bức tranh đấu tranh quyết liệt
của dân làng và nó cũng là một hình ảnh mang tính dự báo. Bằng nghệ thuật nhân hoá,
tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của
kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống.
Tác giả Nguyễn Trung thành đã có dụng ý miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ
rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những
liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực
một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con
người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi
chống Mĩ. Kết hợp bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa
hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân
làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu
chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.
Truyện ngắn hiện lên như một bức tranh tái hiện chân thực toàn bộ cuộc chiến đấu đầy
gian khó nhưng không thiếu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày
đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy
truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành
của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc
Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền
với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Tnú nhân vật chính của Rừng Xà Nu đã mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người con của núi rừng
Tây Nguyên ấy lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng , nuôi dạy khôn lớn. Đó là
người anh hùng dân tộc lớn lên, trưởng thành và kiên cường bất khuất từ trong lòng
của nhân dân, của dân tộc.
Tnú đến với cách mạng ngay từ khi còn rất nhất vào thời điểm của những ngày gian
khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi
nơi. Chính Tnú đã chứng kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh
Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là
những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng.
Khi Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống qua sự chỉ bảo của anh cán
bộ Quyết. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn về làng, tra
tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai
báo, chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi của kẻ thù: "Cộng sản ở đây
này”. Câu trả lời ấy đâu chỉ đơn giản là một câu trả lời mà đó là cả một lời thách thức,
sự dũng cảm! Và chính lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.
Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách.
Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở
thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời
dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná… " chuẩn bị mọi thứ cần thiết
cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô
bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh.
Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Rác Hà xuống làng Xô Man truy
bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ
con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất
kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón
tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc", răng cắn chặt môi, không
một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giậm vào kẻ thù.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ
thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó.
Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu
dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân
người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh… Sự vùng dậy của dân làng đã
cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải
phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn.
Điều này có thế thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực
lượng”. Anh kể rằng anh giết thằng Dục, tên chi huy đồn giặc ở Đắc Hà, kẻ đã giết vợ
con anh, kẻ dã gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng là
thằng Dục cả”. Rõ ràng, với anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây
Nguyên, của đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một
nhận thức sâu sắc, nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn
làng của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.
Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô
Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dít “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh
không ngủ…". Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng
yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là
quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan
dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xong rồi từ từ
bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai
bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên
thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên
đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn
giặc bình thản lạ lùng”.
Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương
của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già,
đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành
người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với
“đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh
khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không
được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về
có một đêm thôi”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần
tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.
Tnú và Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến
với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự
trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những
thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt sự
trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền
thông anh hùng của người Strá. Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man.
Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quăc
thước như xưa ngực cũng như một tấm xà nu lớn tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng
ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ
đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên
cụ luôn luôn nhắc nhở con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương.
Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã
man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu: Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn
tay trắng, chỉ với bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm
vũ khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe rõ chưa,
các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. San này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho
con cháu. Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo’’. Lời cụ rành rẽ vang lên trong
ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.
Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt
đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò
của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống,
với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có
sự trưởng thành lớn lao.
Và không chỉ có lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như bé Heng, cũng lớn lên, lớn lên
cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Với nhân vật bé Heng, Nguyên
Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng
sâu sắc cho người đọc.
Tuổi của bé Heng, lẽ ra, là tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi
vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng đã có dáng vẻ của “một
người lính thật sự, đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc
vào một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”. Hơn
thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm
xưa. Thật là từ hào và tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên,
trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.
Đọc Rừng xà nu có cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người
với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến sĩ giải
phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi
ngược dòng thời gian trở về quá khứ.
Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tướng của Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời
kể của cụ Những mảnh đời quá khứ, những mảnh đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ
cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô
Man trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng
và nỗi đau chung, Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu lấy mình, để giải
phóng dân tộc và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng đáng với cha ông.
Chính cái tư tưởng này đã chi phối kết cấu của Rừng xà nu. Hệ thống sự kiện trong
truyện, chủ yếu được tổ chức theo sự phát triển tâm lí tính cách nhân vật trung tâm,
chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
có điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân
vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm.
Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù là hai lần Tnú thể hiện rõ phẩm chất kiên cường
của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện ở mỗi lần có khác nhau và có sự phát triển.
Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú tỏ rõ đức kiên trung quả cảm của mình.
Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo của kẻ thù.
Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc có sở trường trong việc lựa chọn những
chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất
thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh cụ Mết với những nét khắc
chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác
giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn.
Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai
giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết
thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng xà nu không chỉ
rung cảm người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc
động, những tình cảm thầm kín nơi họ.
Trên những trang viết của mình. Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của
ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng xà nu đằm thắm chất trữ
tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc
động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tưởng
về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú… lời văn của Rừng xà nu
giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óng mượt như ngôn ngữ của
một bài thơ (ví dụ: đoạn mở đầu tác phẩm). Chính cái vẻ của lời văn đã góp phần tạo
nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại
lấy tên là "Rừng xà nu"… Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo
của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
"Rừng xà nu" thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu - Mẫu 12
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết vào giữa năm 1965, lúc cuộc chiến tranh giải
phóng miền Nam ở vào một bước ngoặt chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”; hàng chục vạn quân viễn chinh Mĩ ồ ạt đổ vào
miền Nam, lực lượng cách mạng phải đương đầu với những thách thức to lớn, nhưng
vẫn kiên trì mục tiêu và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nguyễn Trung thành lúc ấy đang hoạt động báo chí trong lực lượng quân giải phóng
miền Trung Trung Bộ đã kịp thời viết bài tùy bút nổi tiếng Đường chúng ta đi, được
xem như một bài hịch của thời đánh đế quốc Mĩ. Tiếp đó, theo yêu cầu của tạp chí
Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ, bằng vốn hiểu biết và tình cảm sâu nặng
với Tây Nguyên, nhà văn đã viết rất nhanh truyện Rừng xà nu cùng với tư tưởng cơ
bản là khẳng định con đường duy nhất để giải phóng của nhân dân miền Nam là đứng
lên cầm vũ khí chiến đấu, dung bạo lực cách mạng để chống lại sự tàn bạo của kẻ thù.
Rừng xà nu là truyện về cuộc "đồng khởi" của làng Xô Man ở Tây Nguyên, cũng là
câu chuyện bi tráng về cuộc đời của Tnú. Hai câu chuyện ấy lồng vào nhau mà truyện
về Tnú diễn ra trên nền cảnh lịch sử là cuộc "đồng khởi" của làng. Tư tưởng chủ đề
của truyện đã được phát ngôn qua lời của cụ Mết, ở đoạn cao trào của xung đột giữa
nhân dân làng Xô Man với kẻ thù, qua lời của một già làng ; tư tưởng ấy được ghi
khắc như một chân lí lịch sử : "Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống
phải nói lại cho con cháu : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !...". Cố nhiên,
giá trị tác phẩm không phải chỉ ở sự minh hoạ tư tưởng ấy, những tư tưởng ấy là điểm
quy tụ mọi cảm hứng nghệ thuật của tác giả và soi chiếu lên mọi chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.
Truyện Rừng xù nu mang đậm chất sử thi. Chất sử thi toát lên từ chủ để, cốt truyện
đến nhân vật và cả hình ảnh thiên nhiên, các chi tiết nghệ thuật và giọng điệu, ngôn
ngữ của tác phẩm. Hãy chú ý đến cách trần thuật của truyện : Câu chuyện về lịch sử
cuộc nổi dậy của một làng và cuộc đời của Tnú được kể lại trong một đêm, cái đêm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
anh về thăm làng, qua lời của cụ Mết. Chuyện được kể qua lời của một già làng, bên
bếp lửa bập bùng suốt đêm, cho cả dân làng nghe : giọng kể trang trọng như truyền
cho các thế hệ con cháu những trang lịch sử bi thương và anh hùng của cộng đồng :
Người già chưa quên, người chết quên rồi thì để cái nhớ lại cho người sống... "Người
Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ.
Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe !...".
Cách trần thuật như vậy gợi nhớ tới cách kể khan (trường ca) của nhiều dân tộc ở Tây
Nguyên. Bên bếp lửa chung của làng, các bài khan được kể như hát suốt nhiều đêm,
những trường ca đầy chất sử thi kể về lịch sử mang màu sắc huyền thoại của bộ tộc,
về những người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh và khát vọng của cộng đồng (như
các trường ca Đăm San, Xinh Nhã, Đăm Bơ-ri,...). Trong Rừng xà nu, câu chuyện cụ
Mết kể cho dân làng nghe là câu chuyện của thời hiện tại, nhưng đã được kể như là
một câu chuyện lịch sử với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng sử thi, với thái độ
"chiêm ngưỡng" qua một "khoảng cách sử thi" những con người và sự kiện được kể lại.
Truyện ngắn này đã xây dựng cả một hệ thống nhân vật, thể hiện sự tiếp nối của các
thế hệ cách mạng của làng Xô Man ở Tây Nguyên : Cụ Mết là gạch nối giữa lịch sử và
hiện tại, là thế hệ chiến đấu từ thời chống thực dân Pháp ; anh Quyết là cán bộ cách
mạng, người đã "gieo mầm" cách mạng trong đồng bào Tây Nguyên ; rồi Tnú, Mai và
tiếp đó là Dít, cả thằng bé Heng - các thế hệ nhân dân Tây Nguyên tiếp nối cuộc chiến
đấu, càng sau càng trưởng thành mau lẹ. Nhân vật trung tâm - Tnú - được tác giả tập
trung khắc hoạ cả tính cách và số phận. Cuộc đời và số phận của Tnú mang ý nghĩa
tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của nhân dân Tây Nguyên. Ở Tnú,
nhiêu chi tiết được miêu tả nhằm làm nổi bật những nét tính cách đẹp đẽ và được bộc
lộ ngay từ lúc còn là một cậu bé : gan góc và táo bạo, dũng cảm và trung thực, gắn bó
và trung thành với cách mạng, tình thương yêu vợ con và dân làng, quê hương. Câu
chuyện tình của Tnú và Mai lúc còn nhỏ thì hồn nhiên và thơ mộng, ở tuổi trưởng
thành thật đẹp và thắm thiết nghĩa tình, nhưng rồi thành vô cùng bi thương bởi sự tàn
bạo tột cùng của kẻ thù, ngay giữa lúc hai người đang ngập tràn hạnh phúc. Nhưng có
lẽ ở nhân vật Tnú, hình ảnh đôi bàn tay gây được ấn tượng sâu sắc và đậm nét hơn cả.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Qua bàn tay mà hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật. Bàn tay Tnú lúc còn lành
lặn là bàn tay trung thực, tình nghĩa : bàn tay cầm phấn viết cái chữ do anh Quyết dạy
cho, bàn tay dám cầm đá đập vào đầu mình "Cộng sản ở đây này !" khi giặc tra hỏi,
khi Tnú thoát ngục Kom Tum trở về, gặp Mai ở đầu làng, Mai cầm đôi bàn tay ấy mà giàn giụa nước mắt.
Với đôi bàn tay không, Tnú xông ra giữa bọn giặc, quật ngã tên lính to béo đang nện
những cây gậy sắt lên mẹ con Mai. Nhưng với hai bàn tay trắng, Tnú đã không cứu
nổi vợ con anh. Hai bàn tay Tnú, mười ngón bị bọn giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu rồi
đốt. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Ngọn lửa từ mười đầu ngón tay - nơi
thần kinh bén nhạy nhất - đã thiêu đốt cả gan ruột, cả hệ thần kinh của Tnú : "Anh
không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực,
cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi". Mười
ngọn đuốc ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của làng Xô Man : trong
ánh đuốc lửa xà nu, cụ Mết cùng đám thanh niên với giáo mác trong tay xông ra giết
sạch cả tiểu đội lính địch, khởi đầu cho cuộc chiến đấu vũ trang giải phóng của làng.
Bàn tay Tnú đã được dập lửa, nhưng mỗi ngón chỉ còn hai đốt. Đốt ngón tay cháy cụt
không thể mọc lại. Bàn tay mười ngón cháy cụt còn đó như chứng tích căm hờn mà
Tnú mang theo suốt cuộc đời, nó nhắc nhở anh và cả làng Xô Man về tội ác man rợ của kẻ thù.
Nhưng bàn tay mỗi ngón còn hai đốt ấy vẫn cầm giáo, cầm súng được. Và Tnú đã lên
đường, cầm súng đi tìm những thằng Dục để đòi trả món nợ máu... Đến cuối truyện,
bàn tay Tnú lại một lần nữa xuất hiện trong một cảnh được miêu tả tỉ mỉ như quay cận
cảnh của điện ảnh. Nhưng lần này nó ở trong một tư thế, một tương quan hoàn toàn
khác với kẻ thù. Bằng đôi bàn tay cụt mười đốt ngón tay ấy, Tnú đã bóp chết tên chỉ
huy đồn địch ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó, trong ánh đèn pin soi vào mặt nó
cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo đang siết vào cổ họng những thằng
Dục (với Tnú, chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục).
Một hình tượng nổi bật và xuyên suốt trong truyện ngắn này là hình tượng cây xà nu.
Hình ảnh này không chỉ là khung cảnh thiên nhiên làm nền cho câu chuyện mà còn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
mang một ý nghĩa biểu tượng rộng lớn. Mở đầu và kết thúc truyện đều là hình ảnh
cánh rừng xà nu : "đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu
nối tiếp tới chân trời" (câu này được nhắc lại gần nguyên vẹn ở đoạn kết, như một vĩ
thanh láy lại, gây ấn tượng nổi bật, tạo một dư ảnh và dư âm đọng lại trong tâm trí độc
giả sau khi câu chuyện đã khép lại).
Nhưng xà nu không chỉ có mật trong đoạn mở đầu và đoạn kết, nó còn hiện diện trong
suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu gắn bó với cuộc sống, sinh
hoạt hằng ngày như đã từ ngàn đời nay thân thuộc với dân làng : ngọn lửa xà nu cháy
bập bùng trong đống lửa ở nhà ưng tập hợp cả dân làng ; khói xà nu đen nhẻm trên
thân mình lũ trẻ ; khói xà nu còn làm cho tấm bảng nứa đen kịt để anh Quyết dạy Mai
và Tnú học chữ,... Xà nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống
làng Xô Man : ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết và cả dân làng đi rừng sâu
lấy giáo, mác, dụ, rựa đà giấu kĩ về chuẩn bị cho cuộc nổi dậy ; đêm đêm cả làng thức
mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu ; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu ;
rồi ngọn lửa từ các đuốc xà nu soi sáng rực cả làng cái đêm nổi dậy, soi rõ xác mười
tên lính bị giết nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu lớn giữa sân nhà ưng của làng.
Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man, của
nhân dân Tây Nguyên. Chúng ta hiểu vì sao truyện ngắn này có tên là Rừng xà nu.
Tác giả cũng đã nói rõ vai trò của hình tượng xà nu trong sự tổ chức các chi tiết nghệ
thuật và quy tụ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Có thể nói hình tượng xà nu là một
mô típ chủ đạo trong tác phẩm, không tìm được hình tượng này, tác giả cũng không
thể viết được truyện ngắn Rừng xà nu. Nguyên Ngọc kể lại : "Bắt đầu như thế nào ?
Không, quả thực bắt đầu tôi chưa hề có câu chuyện, cốt truyện nào cả. Bắt đầu đến với
ngòi bút, gần như không hề tính trước, là một khu rừng xà nu, những cây xà nu.
Hồi tháng 5 - 1962, hành quân từ miền Bắc vào, tôi cùng đi với anh Nguyễn Thi.
Nguyễn Thi về Nam Bộ, tôi rẽ xuống khu Năm. Cùng đi dọc Trường Sơn từ Bắc vào,
đến điểm chia tay mỗi người về chiến trường của mình, là khu rừng bát ngát phía tây
Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xà nu tít tắp tận chân trời.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó [...], Nguyễn Thi và tôi đã sống với nhau
một ngày một đêm chia tay cuối cùng trong khu rừng tuyệt vời ấy [...]
Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy, ngồi viết, rừng xà nu lại bỗng đột ngột đến với tôi,
chảy ra dưới ngòi bút tôi ! .
Vì nhớ Nguyễn Thi chăng ? Từ ngày vào chiến trường chúng tôi bặt tin nhau. Vì bấy
giờ, bước vào cuộc giáp mặt trực tiếp với Mĩ rồi đây, cả cuộc đời mình - mà tôi đã
cùng Nguyễn Thi ôn lại, điểm lại ngày nọ dưới rừng xà nu Tây Thừa Thiên - chợt
sống dậy chăng ? Hay vì cái không khí "Hịch tướng sĩ" đánh đế quốc Mĩ hừng hực
bấy giờ rất tráng ca, rất "xà nu" chăng ?,... Tôi không nhớ và biết rõ.
Nhưng vậy đấy, rừng xà nu chợt đến. Và lập tức tôi biết tôi đã tạo được không khí, dã
có không gian ba chiều. Và cũng lập tức đã nhập được vào không khí, và không gian ấy”.
Chính vì xà nu mang ý nghĩa một biểu tượng nên sự miêu tả về loài cây ở đây luôn
luôn được đặt trong sự ứng chiếu với con người gợi ra những liên tưởng về đời sống
và số phận cùng phẩm cách của con người - dân làng Xô Man. Cây xà nu ham ánh
sáng và khí trời, "nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng". Cũng như Tnú, như
dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng xà nu cũng như làng Xô Man chịu nhiều đau
thương bởi sự tàn phá hằng ngày của giặc : "Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây
nào không bị thương". Nhưng xà nu có sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi :
"Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn,
hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời", cũng như các thế hệ làng Xô Man, lớp này
tiếp lớp khác đứng lên, tiếp tục cuộc chiến đấu. Anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai ;
Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống như cây xà nu bị chặt đứt
ngay giữa thân mình, thì Dít lớn lên nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ,
chính trị viên xã đội, rồi những bé Heng thế hệ tiếp theo của Dít, cũng đang lớn lên
tiếp bước các lớp cha anh.
Thủ pháp "ứng chiếu" giữa thiên nhiên và con người cũng còn được thể hiện ngay khi
miêu tả nước, tác giả thường dùng cách so sánh với cây xà nu. Cụ Mết thì "ngực căng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
như một cây xà nu lớn" ; vết thương trên lưng Tnú do dao giặc chém thì "ứa một giọt
máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thẫm như nhựa xà nu".
Thủ pháp nghệ thuật "ứng chiếu" này trong miêu tả tạo nên một sự chuyển hoá, hoà
nhập giữa hình tượng thiên nhiên và con người, một bản hợp ca đầy chất thơ hào
hùng, tráng lệ về sức sống bất diệt và cuộc chiến đấu bất khuất của nhân dân giành tự do.
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu - Mẫu 13
Mảnh đất Tây Nguyên cùng với những người con bất khuất đã trở thành đề tài hấp dẫn
đối với các nghệ sĩ trong đó có nhà văn Nguyễn Trung Thành. Ông nổi tiếng với
truyện ngắn “Rừng xà nu”. Đây là truyện ngắn đã góp phần tạo nên sự thành công
trong sự nghiệp sáng tác của tác giả.
Nguyễn Trung Thành viết “Rừng xà nu” năm 1965 và tác phẩm này được in trong tập
“Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Nhan đề của truyện đã gợi lên hình
ảnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn và sức sống mãnh liệt của nó cũng như sức sống
mãnh liệt của buôn làng Xô Man.
Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh những “rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”.
Xà nu là loại cây thuộc họ thông, mọc rất nhiều ở vùng Tây Nguyên. Nó thường mọc
thành rừng rộng lớn và là đặc trưng riêng của mảnh đất anh dũng này. Mở đầu tác
phẩm là hình ảnh rừng xà nu bao xung quanh, che chở cho buôn làng tránh những trận
đại bác của quân địch. Sự khốc liệt của chiến tranh đã khiến “cả rừng xà nu hàng vạn
cây không có cây nào không bị thương”, “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân
mình, đổ ào ào như một trận bão”.
Đây là loài cây gắn bó mật thiết như một người bạn đồng hành với dân làng. Cuộc
sống của họ từ khi sinh ra, lớn lên và khi về với đất mẹ cũng đều gắn liền với cây xà
nu. Dưới tán xà nu là những hoạt động sinh hoạt của cộng đồng, là những buổi hò hẹn của tình yêu đôi lứa.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Ngọn lửa xà nu cháy trong mỗi bếp, ngọn đuốc xà nu sáng rực trong đêm nổi dậy
chống kẻ thù của dân làng Xô Man và khói xà nu xông bảng nứa đen kịt để anh Quyết
dạy Tnú và Mai học bài đã chứng tỏ công dụng, vai trò to lớn của cây xà nu đối với
người dân Tây Nguyên. Lửa xà nu còn soi sáng “xác mười tên lính giặc ngổn ngang”
để thể hiện sức mạnh, ý chí kiên cường cùng lòng dũng cảm của buôn làng Xô Man.
Không chỉ mang ý nghĩa tả thực, cây xà nu còn mang ý nghĩa biểu tượng cho số phận
và phẩm chất cao đẹp của những con người Tây Nguyên. Rừng xà nu phải gánh chịu
biết bao trận đại bác của địch khiến chúng “đổ ào ào như một trận bão” khi “bị chặt
đứt ngang nửa thân mình”.
Những vết thương đó không lành được mà “cứ loét mãi ra” gợi cho chúng ta thấy
được bao đau thương, mất mát mà nhân dân nơi đây phải gánh chịu. Nhưng đạn bom
của kẻ thù không thể ngăn được sự sinh sôi, nảy nở của cây xà nu: “Cạnh một cây xà
nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên
lao thẳng lên bầu trời”. Chúng lớn rất nhanh, “đạn đại bác không giết nổi chúng”.
Vì thế mà “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho
làng”. Hình ảnh ấy là biểu tượng cho sức mạnh quật cường, bất diệt của những thế hệ
người con Tây Nguyên. Thế hệ trước ngã xuống đã có thế hệ sau đứng lên tiếp nối.
Đây còn là loài cây ham ánh sáng mặt trời: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh
nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi
vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Điều đó cũng giống như việc Tnú và dân
làng Xô Man đi theo ánh sáng của cách mạng.
Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Ông đã
sử dụng cái nhìn điện ảnh để tái hiện lại khung cảnh một cách sinh động. Có khi ông
nhìn từ xa để thấy toàn bộ những cánh rừng xà nu, khi thì sát lại gần để thấy cận cảnh
những cây xà nu con đang vươn lên một cách đầy kiêu hùng. Nó không phải là một
loài cây bình thường mà là loài cây mang dáng dấp anh hùng của con người Tây Nguyên.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Đại diện tiêu biểu cho những con người ấy là Tnú, người chiến sĩ kiên cường, bất
khuất. Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi giấu cán bộ. Khi học chữ thua Mai,
Tnú đã cầm một hòn đá rồi tự đập vào đầu mình. Nhờ có anh Quyết khuyên nhủ: “Tnú
phải làm cán bộ thay anh. Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi” nên Tnú quyết tâm học chữ.
Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn vì có giặc vây bắt, anh “xé rừng mà đi”, “lựa
chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một
con cá kình”. Sự nhanh trí của anh còn được thể hiện qua hành động “nuốt luôn cái
thư” khi bị địch bắt. Anh thật hiên ngang trả lời câu hỏi cán bộ ở đâu của địch bằng
cách để tay lên bụng và nói “Ở đây này”.
Lớn lên, Tnú cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Tin này đến tai thằng Dục, nó đã
tìm cách để bắt Tnú. Nó bắt Mai và con trai Tnú nhằm mục đích: “Bắt được con cọp
cái và cọp con, tất sẽ dụ được cọp đực trở về”. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con
Mai vì trong tay anh không có vũ khí. Anh bị bọn thằng Dục bắt và tra tấn bằng cách
quấn giẻ đã tẩm dầu xà nu lên mười đầu ngón tay rồi đốt. Nỗi đau mất vợ và đứa con
trai đầu lòng cùng nỗi đau về thể xác dường như quyện hòa vào nhau trở thành nỗi căm hờn, uất hận.
Nhưng Tnú “không kêu lên một tiếng nào” mà “trợn mắt nhìn thằng Dục”. Dường
như, ý chí và tinh thần quật cường đã khiến: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu
ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở
đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Tnú không chỉ là người mang phẩm chất
anh hùng mà anh còn là con người sâu nặng nghĩa tình. Tnú là một người chồng,
người cha hết mực yêu thương vợ con.
Phải chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị giặc tra tấn, anh “đã bứt đứt hàng chục trái vả mà
không hay”, “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Anh lao ra cứu mẹ
con Mai mà không sợ hiểm nguy. Anh đã quên đi cả sinh mạng của mình để cứu lấy
vợ con, cứu lấy những người anh yêu thương nhất.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Tnú lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng nên anh yêu quê hương sâu nặng. Khi
được nghỉ phép, anh đã về thăm làng, “xúc động để vòi nước của làng mình giội lên
khắp người như ngày trước”. Anh yêu tha thiết quê hương mình, yêu cả tiếng giã gạo
của buôn làng thổn thức trong lòng anh bao nhiêu năm nay. Nếu không phải một
người gắn bó sâu nặng với quê hương thì Tnú sẽ không có những cảm nhận tinh tế đến như vậy.
Bên cạnh nhân vật Tnú, nhà văn còn khắc họa các nhân vật anh Quyết, cụ Mết, Mai,
Dít, Heng,…để làm nổi bật lên những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau đứng lên chống
giặc. Anh Quyết là cán bộ cách mạng, là người đã dạy chữ cho Tnú và Mai. Đồng
thời, anh cũng là người nhen nhóm tinh thần đấu tranh cho người dân Tây Nguyên.
Anh giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục tinh thần cách mạng cho thế hệ trẻ.
Bằng những lời nói thủ thỉ, tâm tình, anh đã khơi dậy được lòng yêu nước, lòng quyết
tâm chiến đấu vì lí tưởng cách mạng của Tnú.
Sẽ là một thiếu sót lớn nếu chúng ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ là già làng, là người
anh hùng thuộc thế hệ trước lãnh đạo buôn làng nổi dậy chiến đấu. Cụ cũng là người
kể cho thanh niên trong làng nghe về cuộc đời của Tnú. Cụ Mết đã khẳng định con
đường cách mạng mà nhân dân phải đi: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm
giáo”. Đó là một chân lí đúng đắn để nhân dân ta tin tưởng và làm theo. Nhân dân ta
không thể chịu áp bức mãi được, vì vậy phải cầm giáo đứng lên đấu tranh cho chính nghĩa.
Những thế hệ nối tiếp con đường của cụ Mết, Tnú là Dít và Heng. Dít lớn lên là chính
trị viên xã đội, bí thư chi bộ nhưng từ khi còn nhỏ, Dít đã là một cô bé gan dạ. Cứ sẩm
tối, Dít lại “bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên”. Bị
giặc bắt, chúng bắn từng viên một “sượt qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ
của Dít” khiến “nó khóc thét lên” nhưng “đến viên thứ mười nó chùi nước mắt, từ đó
im bặt” và nhìn bọn giặc “bình thản lạ lùng”. Tuy chỉ là một cô bé nhưng Dít đã có
bản lĩnh, nghị lực phi thường, không run sợ trước súng đạn kẻ địch.
Ngay cả cậu bé Heng, ngày Tnú ra đi “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa biết
mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy” thì khi Tnú trở về
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
thăm làng cậu bé ấy đã “mang một khẩu súng trường Mát” ra vẻ một người lính thực sự.
Heng dẫn Tnú đi qua các con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút
lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn
gãy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Chú bé ấy dũng
cảm ấy đã góp phần tạo nên một tập thể anh hùng trong những ngày chống đế quốc Mĩ
ác liệt của dân làng Tây Nguyên.
Xuyên suốt câu chuyện là chất sử thi hùng tráng được thể hiện qua đề tài, chủ đề, nhân
vật, giọng điệu của tác giả. “Rừng xà nu” đã tái hiện không khí hào hùng, sục sôi của
cuộc đấu tranh chống đế quốc của dân làng Xô Man nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung.
Hệ thống nhân vật cũng được khắc họa là những con người anh hùng, bất khuất xuất
hiện trên nền không gian rộng lớn. Ngoài ra, tác giả còn sáng tạo hình tượng cây xà nu
mang đậm tính biểu tượng cho những con người Tây Nguyên. Giọng văn ngợi ca hào
hùng, khí thế như không khí cuộc chiến đấu chống kẻ thù.
Nhà văn xây dựng nên hai tuyến nhân vật mang tính đối lập giữa bọn thằng Dục tàn ác
và những thế hệ anh hùng để làm nổi bật lên tinh thần, ý chí đấu tranh của dân làng.
Kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện đã mang lại sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Bên cạnh câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man còn là câu chuyện về cuộc
đời người anh hùng Tnú. Tất cả những yếu tố đó đã làm thiên truyện sống mãi trong
lòng độc giả. Nhớ đến Tây Nguyên là chúng ta nhớ đến những cánh rừng xà nu bạt
ngàn và các thế hệ anh hùng nối tiếp nhau chống giặc.
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu - Mẫu 14
Nguyễn Trung Thành, một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam.
Ông sáng tác trên nhiều mảng, truyện ngắn, kí,… ở mảng nào cũng có những tác
phẩm xuất sắc. Nhắc đến ông ta không thể không nhắc đến truyện Rừng xà nu, một
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
tác phẩm mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, in đậm dấu ấn phong cách của ông.
Mở đầu tác phẩm, cũng như xuyên suốt câu chuyện này là hình tượng cây xà nu.
Những đồi xà nu, nối tiếp nhau đến tận chân trời, mở ra một không gian mênh mông,
vô tận đầy sức sống, bạt ngàn, mạnh mẽ. Bằng hình tượng cây xà nu, tác giả đã tái
hiện vẻ đẹp đặc trưng, kỳ thú của mảnh đất Tây Nguyên. Đồng thời cây xà nu cũng
chính là biểu tượng cho dân làng Xô Man.
Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng, trong đời sống hàng ngày cho đến cả những
sự kiện trọng đại. Kẻ thù tra tấn dữ dội Tnú, bằng cách tẩm dầu xà nu đốt mười đầu
ngón tay của anh, xà nu đã trở thành vật dụng bị kẻ thù lợi dụng để hủy hoại dân Xô Man.
Nhưng cây xà nu còn cho thấy sự thay đổi của dân làng Xô Man, từ chỗ không dám
cầm vũ khí đến dám cầm vũ khí đứng lên chống lại quân giặc. Và trong đêm Tnú về
thăm làng: đuốc xà nu dẫn người dân làng Xô Man trên khắp nẻo đường dồn về tập
trung tại nhà Ưng, họ cầm ngọn lửa của mình để ném vào đống lửa giữa nhà, mọi
người quây quần quanh đống lửa lớn để nghe cụ Mết kể về cuộc đời của anh Tnú.
Không chỉ vậy, hình ảnh cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận, phẩm chất của
người dân Tây Nguyên. Hình ảnh cả cánh rừng xà nu đầy thương tích, mỗi ngày giặc
bắn đại bác hai lần, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng, hàng ngàn cây xa
nu không cây nào không bị thương.
Có những cây chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết
thương nhựa ứa ra... bầm lại đen, quyện thành cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn
ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi,… Hình ảnh cây xà nu bị
thương cũng chính là biểu tượng cho những đau thương mất mát mà dân làng Xô Man
phải gánh chịu. Dân làng đem cả tính mạng mình nuôi giấu cán bộ, chịu bao hi sinh,
nhưng vẫn đồng lòng bảo vệ cách mạng.
Và rừng xà nu chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất tốt đẹp của dân làng Xô
Man. Không có loài cây nào khao khát ánh sáng như xà nu, chúng có sức vươn lên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
mạnh mẽ, giống như sức sống tiềm tàng của người dân Tây Nguyên. Không chỉ vậy,
chúng còn có sức sống bất diệt, không gì có thể tiêu diệt được. Xây dựng hình tượng
cây xà nu tác giả đã gián tiếp nói lên những phẩm chất anh hùng, cốt cách đẹp đẽ của
con người Tây Nguyên, đồng thời cũng hé mở cánh cửa bước vào thế giới và khám phá con người nơi đây.
Nổi bật nhất trong tác phẩm là nhân vật Tnú hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của con người Tây
Nguyên. Ngay từ bé, Tnú đã tỏ ra là một cậu bé hết sức dũng cảm, cậu nuôi giấu cán
bộ, sẵn sàng cầm đá đập vào đầu khi không học được. Khi làm nhiệm vụ cậu không đi
đường bằng phẳng mà tìm những con đường rừng, lội qua thác mạnh, để địch không bắt được.
Khi trưởng thành, đã là một chiến sĩ cách mạng, sự gan góc, dũng cảm càng được bộc
lộ rõ hơn. Bị bắt giam, Tnú vượt ngục trở về, khi vợ con bị đe dọa tính mạng, Tnú sẵn
sàng xông vào cứu vợ con. Và dù bị giặc tra tấn, Tnú không hề van xin, mà chịu đựng đau đớn cho đến cùng.
Không chỉ vậy, Tnú còn là một người có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với
cách mạng. Ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã có tình yêu và niềm tin với cách mạng, cậu
nuôi giấu cán bộ và mang trong mình mong muốn được trở thành chiến sĩ cách mạng
để giải phóng bản làng. Tính kỉ luật của Tnú còn được thể hiện rõ trong việc tuân thủ
mệnh lệnh cấp trên, được nghỉ phép cậu chỉ về thăm làng đúng một đêm, sau đó ra đi
ngay, dù trong lòng còn biết bao lưu luyến, bịn rịn.
Nhưng bên trong một con người có vẻ bề ngoài sắt đá, có tính kỉ luật cao như vậy là
lại người có trái tim yêu thương nồng nàn. Tình yêu đó được thể hiện trước hết là với
buôn làng, Tnú lớn lên trong sự săn sóc của dân làng, bởi vậy Tnú coi mọi người như
người thân của mình. Cũng chính vì vậy, dù thời gian nghỉ phép vô cùng ngắn ngủi
Tnú vẫn háo hức trở về, xúc động khi được gặp lại mọi người và được ở trong vòng
tay thân thương của những người cùng bản làng.
Trái tim yêu thương đó càng được thể hiện rõ hơn với vợ con của anh. Khi Mai sinh
con, anh không thể đi mua vải được anh đã xé đôi tấm đồ của mình ra làm tấm choàng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
cho Mai địu con. Và trong khoảnh khắc, nhìn thấy vợ con bị tra tấn dã man, không thể
xông vào cứu, Tnú đau đớn đến tột cùng. Nhưng cuối cùng tình yêu thương vợ con
vượt lên trên tất cả, tình cảm đã lấn át lí trí, Tnú đã lao vào cứu vợ con dù biết chắc
mình có thể sẽ phải hi sinh. Bởi anh hiểu rằng, khi ấy vợ con cần anh biết nhường nào.
Tình yêu thương càng nồng nàn thì lòng căm thù giặc càng sục sôi, sâu sắc. Tnú mang
trong mình ba mối thú lớn: mối thù đầu tiên là với bản thân, sau lần bị giặc tra tấn,
mỗi ngón tay đều cụt một đốt, lòng căm thù giặc trong Tnú càng trở nên sâu sắc hơn.
Nhưng mối thù của bản thân vẫn không bằng mối thù của gia đình, vợ con anh –
những người mà anh yêu thương nhất đã bị giặc tra tấn dã man và chết, điều đó sẽ ám
ảnh trong tâm can anh đến hết cuộc đời, khiến cho lòng căm thù giặc càng sục sôi hơn.
Và cuối cùng là mối thù chung với dân làng, dân làng bị tàn sát dã man. Từ khối thù
chung và riêng ấy đã thức tỉnh tinh thần chiến đấu trong Tnú.
Hình tượng nhân vật Tnú là điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người
dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ chân lí thời đại: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm
giáo” – chủ động đánh giặc, muốn giành được độc lập chỉ có con đường duy nhất là
đấu tranh vũ trang. Không chỉ vậy Tnú còn tiêu biểu cho vẻ đẹp và sức mạnh của con
người Tây Nguyên trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Ngoài hình tượng nhân vật Tnú, tác phẩm còn nổi bật với tập thể anh hùng làng Xô
Man. Mỗi người là một chiến sĩ, mang trong mình niềm tin với Đảng, với cách mạng
và lòng trung thành với cách mạng. Nhưng bên cạnh những đặc điểm chung đó, mỗi
người lại có những nét đẹp riêng. Trước hết là nhân vật cụ Mết, cụ là hiện thân của vẻ
đẹp núi rừng và con người Tây Nguyên.
Cụ Mết là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến của dân làng Xô Man, cụ lãnh đạo
nhân dân, xây dựng làng Xô Man thành làng kháng chiến để đấu tranh lâu dài với giặc
Mĩ. Không chỉ vậy, cụ còn giáo dục lòng yêu nước ở thế hệ sau, truyền nhiệt huyết và
quyết tâm giết giặc cho thế hệ trẻ. Dít và Heng có thể coi là thế hệ trẻ tiêu biểu của
làng Xô Man. Dít mang trong mình sự gai góc, quyết đoán, sẽ là thế hệ tiếp bước cha ông xuất sắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Tác phẩm mang tính sử thi Tây Nguyên đậm nét. Nghệ thuật xây dựng hình tượng đặc
sắc, mỗi nhân vật có số phận và tính cách riêng, nhưng ở họ đều ngời sáng lòng yêu
nước và dũng cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn : tác giả sử dụng kết cấu truyện lồng trong
chuyện: câu chuyện cuộc đời anh Tnú và chuyện của dân làng Xô Man. Ngôn ngữ trần
thuật đậm chất Tây Nguyên, đem lại dấu ấn riêng cho tác phẩm.
Tác phẩm là bài ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ, anh hùng. Không
chỉ vậy Rừng xà nu còn là khúc tráng ca ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất anh hùng, bất khuất
của người dân Tây Nguyên. Kết hợp với ngôn ngữ và lối kể chuyện hấp dẫn đã góp
phần tạo nên thành công của tác phẩm.
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu - Mẫu 15