





Preview text:
“Một chiếc linh hồn nhỏ Mang mang thiên cổ sầu”
Huy Cận - một tiếng thơ man mác nỗi sầu, một tâm hồn hoang hoải,
nhạy cảm với từng biến chuyển tinh tế của thiên nhiên. Nhắc đến Huy Cận là
nhắc đến thời kì Thơ mới trước năm 1945 - khi cái tôi của mỗi cá thể được coi
là những vật thể tinh tú nhất, thơ ông luôn thể hiện tinh thần và điểm nhìn
cá nhân độc đáo khó hòa lẫn. Trong "Tràng giang"(xuất bản năm 1940) từng
câu chữ đều được Huy Cận phủ lên nỗi buồn da diết, mênh mông bể sở. Cái
nỗi buồn khó nắm bắt, khó định hình của một tâm hồn dễ rung động trước
cảnh vật, của trái tim khao khát được yêu thương, được hòa quyện.
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Thơ mới được coi như "tập sách gối đầu
giường" của các nam thanh nữ tú đương thời, viết về tình yêu, về nỗi băn
khoăn, trắc trở trong tình cảm đôi lứa. Chính vì thế, tinh thần chủ đạo trong
những bài thơ của thời kì này là nỗi buồn, sự cô tịch, quạnh hiu. "Tràng
giang" là một lời tự thuật về cái khắc khoải, buồn đau của một cái tôi nhỏ
nhoi giữa mênh mông trời đất. Rút ra trong tập "Lửa thiêng", tác phẩm được
coi là tác phẩm đưa Huy Cận lên bậc lão làng trong phong trào Thơ mới.
Nhan đề bài thơ gợi lên không khí cổ kính bởi hai từ Hán Việt gợi hình ảnh
một dòng sông dài rộng mênh mông. Không chỉ vậy âm “ang” gợi âm hưởng
mênh mang như tiếng sóng vỗ vào lòng ta biết bao nỗi niềm. Và nỗi niềm ấy
còn lắng đọng hơn da diết hơn bởi câu đề từ mang cảm xúc chủ đạo cho toàn bài:
“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Gợi ra một không gian "rộng", "dài" của trời và sông, tác giả muốn
nhấn mạnh sự cô quạnh của chủ thể con người, bơ vơ giữa đất trời bao la.
Trời tuy rộng nhưng lại buồn thương, mênh mang, sông tuy dài nhưng lại
quạnh hiu đến thê lương. Phải chăng, thời gian lúc ấy đang là buổi xế tà ảm
đạm, con người một thân một mình bâng khuâng giữa không gian rộng mở
của cả trời và đất. Nỗi niềm nhà thơ trôi cùng dòng nước lặng lờ dưới sông,
cùng đám mây chùng chình trên khoảng không vời vợi.
Mang nỗi buồn ấy vào trong từng nhịp thở, mở đầu bài thơ là những
nét chấm phá mộc mạc về thiên nhiên:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
"Tràng giang" là con sông dài, con sông bất tận với những gợn sóng lăn
tăn. Nhịp thơ 4/3 mang âm hưởng chậm rãi, đìu hiu với từ láy "điệp điệp" tả
nỗi buồn. Không gian vừa mở ra về chiều rộng, vừa vươn theo chiều dài. Con
sông như trải rộng ra theo tầm nhìn của tác giả và nó không đơn thuần chỉ
mang dòng nước, mà còn mang cả nỗi u buồn của nhân vật trữ tình. Trong
cái không gian cao vời vợi của trời mây, cái miên man của những con sóng,
chiếc thuyền trở nên đơn côi đến lạ lùng. Thuyền xuôi theo dòng nước,
thuyền vô định để mặc sóng xô đi. Không chỉ là "tràng giang", con sông dài,
mà còn là "song song", những luồng nước nối đuôi nhau rong ruổi mãi mãi
tận chân trời. Hai từ láy "điệp điệp" và "song song" tạo âm hưởng vang vọng
như âm thanh dội lại giữa núi rừng, khiến câu thơ dài hơn, trầm hơn, dội vào
lòng người đọc một nỗi buồn tha thiết.
Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi buồn qua hai câu thơ tiếp theo:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Lấy nỗi sầu làm tinh thần chủ đạo, Huy Cận luôn mượn thiên nhiên, nói
thiên nhiên sầu hay là nói ra chính cái sầu trong tâm hồn. Thuyền và nước
vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà
Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại",
nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu
trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào
câu thơ nỗi buồn vô hạn. Tâm trạng của nhân vật trữ tình được bộc lộ sâu
sắc trong câu thơ thứ hai. Huy Cận đã khéo léo dùng phép đảo ngữ kết hợp
với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la.
"Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống,
"lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên
nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh
giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Nếu trong khổ mở đầu, tác giả vẽ lên không gian sông nước mênh
mông thì đến với khổ thứ hai, tác giả bắt đầu những nét chấm phá về cây
cối, cảnh vật bên bờ sông:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”
Liên tiếp những từ láy "lơ thơ", "đìu hiu" để tả những cồn cát nhỏ rải
rác bên sông. Những từ ngữ được tác giả lựa chọn rất khéo léo và đắt giá,
làm nổi bật cái trống trải, ít ỏi và thưa thớt của cảnh vật. Những cồn cát đã
nhỏ bé lại còn "lơ thơ", từng cơn gió "đìu hiu" mang cảm giác cô liêu, đáng
thương. Dưới tầm nhìn của một tâm hồn thi sĩ, vạn vật đều trở nên tĩnh mịch
và hoang vắng giữa trời rộng sông dài. Tả cảnh ven sông, tác giả không hề
nhắc đến những bãi đất phù sa màu mỡ, cũng chẳng có bóng người sinh
sống. Trong cái nhìn của ông chỉ có những cồn cát, những cơn gió thinh
không, một cành củi khô lạc dòng,... Cảnh vật đan xen với nhau, hòa trong
nỗi buồn của nhà thơ. Thỉnh thoảng, âm thanh "tiếng làng xa vãn chợ chiều"
xuất hiện. Từ "đâu" gợi sự như có như không, vô hướng không rõ ràng. Thanh
sắc cuộc sống mờ nhạt, xa xăm. Tưởng như cảnh vật đã đủ sầu, đủ thảm, thì
ngay cả cuộc sống sinh hoạt của con người nơi đây cũng chẳng hề hoạt náo,
rộn ràng. Trong bức tranh hoàng hôn bên triền sông màu mỡ, thời điểm đáng
ra là giờ khói cơm với những làn khói đụn lên từng hồi thì ở nơi đây, thời gian
và cảnh vật chỉ mang một nỗi buồn. Buồn của lòng người đượm vào thiên
nhiên, buồn của đợt nắng sắp tắt.
"Nắng xuống", nắng tắt hẳn, thay thế cho những sự chống chọi yếu ớt
của mặt trời là màn trời kĩu kịt, nặng nề. Nỗi buồn lên đến "chót vót" rồi lại
tràn trề ra cả "sông dài trời rộng". Sự vô biên được nới rộng cả về chiều dài,
bề ngang. "Nắng xuống trời lên", động từ đối lập "lên" và "xuống" mang lại
chuyển động, không gian như đước kéo giãn. Tác giả không dùng "cao chót
vót" như thường lệ, mà lại là "sâu chót vót". Điểm nhìn của thi sĩ không chỉ
dừng lại ở độ sâu, độ cao, mà còn là cái nhìn hun hút vào bầu trời để tìm
thấy đáy giữa màn trời đang từng bước xâm chiếm không gian. Dường như
ánh mắt của chủ thể trữ tình đi tới đâu, bầu trời sẽ rộng hơn, sâu hơn tới đó.
Chính vì vậy mà cảm "cô liêu" lẻ bóng mới ngày càng trở nên sâu đậm. Giữa
sông dài, trời rộng, chỉ có bến là lưng chừng ở giữa, quạnh hiu không một
bóng người. Tâm hồn rung cảm của thi sĩ cũng cảm thấy chơi vơi, buồn bã
bởi sự vắng vẻ của bến bờ. Hình ảnh bến đò trước giờ vẫn là biểu tượng của
kẻ đi người ở, của sự xa lìa chia cắt. Đứng giữa màu trời chiều này, sự thê
lương lại càng được tô đậm thêm rõ nét.
Hướng tầm mắt ra xa xuôi dọc theo con sông dài, những gì thu được
vẫn chỉ là sự thưa thớt của tạo hóa:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Từng hình ảnh hiện ra theo trình tự quan sát, nhìn từ điểm gần trước
mắt cho đến tầm nhìn xa bao quát cả dòng sông. Những cụm bèo "hàng nối
hàng" gợi sự chen chúc, nhưng lại "dạt về đâu", trôi vô định, mất phương
hướng. Từ "dạt" cũng bày tỏ sự lênh đênh, chìm nổi. Ngay cả những phương
tiện để di chuyển trên con sông dài thường ngày nay cũng chẳng hề xuất
hiện. "Không một chuyến đò ngang", "không cầu", không có sự kết nối nào
với thế giới từ vị trí của tác giả. Cuộc sống dường biệt lập, tách lìa hoàn toàn
nơi nhà thơ đang đứng. Phải chăng, hình ảnh bèo trôi dạt chính là thân phận
của nhà thơ trong xã hội đương thời, số phận của một trí thức yêu thiên
nhiên, yêu cái đẹp nhưng chẳng thể xác định được bản thân muốn gì, cần gì.
Sông nước dài rộng, "bờ xanh tiếp bãi vàng" lại càng làm không gian dài
dằng dặc, hun hút. Người đọc hình dung về hai luồng suy nghĩ trong thâm
tâm tác giả, rằng Huy Cận khao khát một sự liên lạc với con người, khao khát
một chuyến đò, một cây cầu để được giao tiếp, được tìm kiếm tri âm, hay
chính ông đã từ bó cái náo nhiệt ngoài xã hội kia để về với nơi cồn cát đồng
không mông quạnh này, nhìn chuyến đò dần dần biến mất mà tiếc nuối, níu
kéo. Tất cả đã tạo nên một âm hưởng buồn thương, đìu hiu, bao trùm lên cả sự vật.
Viết theo trình tự quan sát sự vật, sau trời, nước, sau những bãi bồi,
nhà thơ đặt hồn vào những sự vật đang di chuyển trên tầm trời cao:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa.”
Hình ảnh lớp lớp mây cao chập chờn trôi trên bầu trời, từ láy "lớp lớp"
hô ứng với "điệp điệp" tạo cảm giác chồng chất. Thời gian đã ngả từ xế trưa
sang chiều, rồi cuối cùng là "bóng chiều sa" theo cánh chim vội vàng tìm nơi
trú ẩn. Hoạt động của một ngày thường nhật đang chạy đua với thời gian.
"Núi bạc" là núi bạc vì sương khói, vì những đám mây trung thấp xuống che
phủ đỉnh núi cao. Như một bức tranh thủy mặc, có mây, có núi, có sông
nước, điểm xuyết vài cánh chim nhỏ hối hả trốn màn đêm, bao phủ là sự cô
đơn, ảm đạm. Một từ rất đắt trong câu thơ tả cảnh, "đùn núi bạc", từ "đùn"
thể hiện sự vận động với tốc độ nhanh chóng. Từng đợt mây bay nhanh,
những đám mây khổng lồ xếp chồng, đùn đẩy nhau tạo nên một bức màn
bạc mờ ảo. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch ấy, lòng người thi sĩ không khỏi
thốt lên một tiếng đời:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Dòng sông miên man với những con sóng chạy đua, chạy đua đến cùng
trời cuối đất để rồi lắng tai nhận ra một tiếng sóng khác biệt, tiếng sóng của
làng quê. Hay chính lòng quê cũng đang xao xuyến dâng lên để thành một
dòng tràng giang của tâm hồn mà nhập vào tràng giang của trời đất? Thả
hồn mình vào thiên nhiên, để cho tâm hồn được dạo chơi với vũ trụ, cuối
cùng, Huy Cận cũng gom lòng mình lại, quay trở về với thực tại trong thời
khắc giao thoa giữa ngày đêm. Dòng sông dài, "tràng giang" của đất trời hay
chính là tràng giang của lòng người, tiếng thôn quê mộc mạc giản đơn rốt
cuộc cũng là cái để người ta mơ, người ta nhớ khi một mình một thân phận
bé nhỏ. Dòng sông giống như biểu tượng của sự trường tồn và vĩnh cửu, là
chất điểm đạm, hiền hòa hàng ngàn năm vẫn thế. Tổ hợp từ láy từ "điệp
điệp", "song song", "lớp lớp" và cuối cùng là "dợn dợn" gợi sự triền miên,
dòng sông vẫn chảy như thế, con nước vẫn một đi không bao giờ trở lại, chỉ
còn nhà thơ ở đây, lòng khôn nguôi nỗi khắc khoải thương nhớ quê nhà.
"Khói hoàng hôn" chính là khói bếp, là bữa cơm của bà, của mẹ, là những
ngày tháng tuổi thơ rong chơi ngơ ngẩn, chỉ mong đến giờ chiều về nghi ngút
khói bếp, lấm lem nhọ nồi. Tâm trạng của một người con xa quê hiện rõ mồn
một trong tâm trí tác giả, buổi chiều, cái chiều tàn buồn bã khiến tâm hồn ấy
không tránh khỏi nhớ nhung. Giống như lời tâm sự trữ tình, sự vấn vương,
tình cảm da diết cho quê hương được Huy Cận gửi gắm vào tác phẩm. Thì ra,
từ đầu đến giờ, nỗi buồn bao trùm vạn vật ấy tựu chung lại chính là nỗi nhớ
quê hương của một người con xa xứ mang tâm hồn nhạy cảm, để rồi trong
một buổi chiều tà đứng bên bờ sông Hồng, nỗi nhớ quê hương lại nồng cháy trong lòng.
Tràng giang là bài thơ tiêu biểu thể hiện rõ nhất phong cách nghệ
thuật của nhà thơ Huy Cận. Bài thơ mang nét cổ điển, tạo được những âm
hưởng kì lạ, ngân vang, mang đậm phong vị Đường thi. Chất Đường thi thấm
đượm từ thi đề, thi tứ đến thi liệu và cả những thủ pháp nghệ thuật: sử dụng
từ láy, phép đối, tổ chức ngôn từ,... Huy Cận rất nhạy cảm trước những cảnh
tượng thiên nhiên bát ngát, trước không gian vô tận, trước thời gian vĩnh
hằng, tìm về cảnh xưa để khơi dậy mạch sầu nghìn năm, để khẳng định cái
tôi bé nhỏ. Vì vậy, bài thơ cũng mang đậm hơi thở hiện đại.
Với hồn thơ trữ tình lãng mạn cùng cái tôi nhạy cảm, thuần khiết, Huy
Cận đã tạo nên một tác phẩm nghệ thuật, trong thơ có họa, trong thơ có tình.
Mượn cảnh hoàng hôn bên bờ sông với đất trời mênh mang, tác giả gửi vào
đó những rung động của một kẻ si tình. Bài thơ mang đến cho người đọc một
cảm giác thê lương, cô quạnh đến nao lòng. Tràng Giang là lời tâm sự, giãi
bày của một người con tha hương xa quê, trước cảnh đẹp động lòng của
thiên nhiên xế chiều mà tức cảnh sinh tình, xuất khẩu thành thơ. Giữa cái
mênh mông, rộng lớn tột cùng của thiên nhiên là một trái tim khao khát được
cảm, được yêu thương, một cái tôi cô tịch, nhạy cảm, mỏng manh.