phân tích tác phẩm vợ chồng A phủ- Trường Đại học Ngoại ngữ- Đại học Quốc gia Hà Nội

-  Tác phẩm cho ta thấy cuộc sống cơ cực, bị đè nén, áp bức nặng nề của người dân miền núi

Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến miền núi trước cách mạng tháng Tám.

-  Thấy được bộ mặt tàn bạo và những hủ tục thối nát của chế độ lang đạo, phong kiến miềnnúi trước cách mạng tháng Tám.

Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem

lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
CHUYÊN ĐỀ: TÁC PHẨM VỢ CHỒNG A PHỦ CỦA TÔ HOÀI.
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Tác giả
Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Ông có gần hai trăm đầu sáchnhiều thể loại khác nhau. Ông am hiểu nhiều về đời sống và
phong tục. Lối kể chuyện tự nhiên, miêu tả giàu chất tạo hình, vốn từ vựng phong phú, đa
dạng.
Tớc cách mạng, Tô Hoài viết chủ yếu ở hai đề tài là loài vật và đời sống của thợ thủ công
nghèo. Sau cách mạng, ông từng giữ những chức vụ quan trọng của Hội nhà văn Việt Nam,
sáng tác kịp thời phục vụ cuộc sống lao động và xây dựng của nhân dân. Quan niệm sáng tác
của Tô Hoài Viết văn quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. đã là sự thật thì không tầm
thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc’’
Đến với con đường nghệ thuật từ cuối những năm ba mươi cho đến nay, Tô Hoài đã sáng tác
được một số lượng tác phẩm đồ sộ (hơn một trăm năm mươi đầu sách) ở nhiều thể loại khác
nhau như : tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu luận kinh nghiệm ng tác. Với những đóng
góp to lớn cho nền văn học nước nhà, vào năm 1996 ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ
Chí Minh.
* Tác phẩm của Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám :
Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), O chuột (1942),… *
Tác phẩm chính của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám :
- Truyện ngắn : Truyện Tây Bắc -1953, (Giải nhất giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam
1954- 1955)
- Tiểu thuyết : Mười năm (1957), Miền Tây (1967, Giải thưởng Bông sen vàng năm 1970 của
Hội Nhà văn Á Phi), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971),
- Kí: Nhật vùng cao (1969), Trái đất tên người (1978), Hoa hồng vàng song cửa (1981).
Cát bụi chân ai (1992).
- Truyện thiếu nhi : Tuyển tập Văn học thiếu nhi, tập I & II (1999)
- Tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác : Một số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959), Người bạn
đọc ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và phương pháp viết văn (1997). Tô Hoài
có nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, đặc biệt Dế mèn phiêu lưu được dịch ra
nhiều thứ tiếng nhất. B. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm.
- Vợ chồng A Phủ (1952) một trong ba tác phẩm in trong tập Truyện Tây Bắc, tác phẩm
được giải nhất, giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 1955. Tác phẩm kết quả của
chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế dài tám tháng
sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới
giải phóng của nhà văn. Tô Hoài đã cùng ăn, cùng với những người dân Tây Bắc để thấu
hiểu những cực vẻ đẹp tâm hồn của những người dân lao động nghèo nơi đây ới ách
áp bức của thực dân phong khhiến. Sau khi rời xa Tây Bắc, Hoài chia sẻ: Đất người
miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá… Tôi không tham vọng đi sâu vào văn
hóa Mèo. Ý tưởng của tôi là làm hồi sinh nơi con người.
C. Tóm tắt cốt truyện.
Vợ chồng A Phủ” kể về cuộc đời của hai thanh niên người Mông: MịA Phủ.
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
- Mị món nợ truyền kiếp, bị A Sử (con trai thống Tra) bắt về làm vợ, làm dâu
gạt nợnhà hắn, nhưng thực chất là làm lệ nhà thống lý Pá Tra: bị bóc lột, làm việc quần
quật, bị áp bức sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
- Một đêm mùa xuân, tiếng sáo của thanh niên đánh thức trong Mị niềm khao khát tự
do,hạnh phúc. Mị uống rượu, khêu ngọn đèn, sửa soạn đi chơi nhưng A Sử đã trói đứng Mị
suốt đêm, Mị sống trong sự giằng xé giữa khao khát tự do và thực tại nghiệt ngã.
- A Phủ một thanh niên khỏe mạnh, gan góc, vì đánh nhau với A Sử nên bị bắt, bị phạt
vạvà trở thành kẻ chăn gạt nợ. Bị hổ bắt một con bò, A Phủ bị phạt trói đứng suốt mấy
ngày đêm.
- Cảm thương người ng cảnh ngộ, Mị cắt dây trói cho A Phủ, cùng chạy trốn khỏi
HồngNgài. Đến Phiềng Sa, họ trở thành vợ chồng, gặp cán bộ cách mạng A Châu được
giác ngộ cách mạng, Họ trở thành những chiến sĩ du kích D. Về các nhân vật trong truyện :
Mị và A Phủ là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi
I. Nhân vật Mị.
1- Mị là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi.
- Sự xuất hiện của nhân vật Mị.
Mị xuất hiện ngay từ trang đầu của truyện «Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí thường trông
thấy một i ngồi quay sợ bên tảng đá, trước cửa, cạnh tàu ngựa... ấy cũng cúi mặt,
mặt buồn rười rượi ». Hình ảnh tảng đá, tàu ngựa, đôi mắt đã gợi sự liên tưởng cho người đọc.
Tảng đá là hiện thân nỗi đau khổ đè nặng lên cuộc đời Mị. Cuộc đời Mị cũng chẳng khác nào
con trâu, con ngựa. Khuôn mặt, đôi mắt là hiện diện của tâm hồn lúc nào cũng chỉ thấy buồn.
Cách miêu tả ấy như dự báo trước cho người đọc, người nghe về số phận bất hạnh của Mị.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra.
- Mị một gái xinh đẹp, nết na, hiếu thảo đời sống tâm hồn phong phú. Nếu
khôngxinh đẹp nết na làm sao Mị có sức hấp dẫn đến vậy với tra bản trong những đêm tình
mùa xuân “ Trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”. Không hiếu thảo và tin vào bàn
tay lao động của mình và không có tâm hồn phóng khoáng, tự do sao Mị có thể từ chối làm
dâu nhà giàu có để cuốc nương, làm ngô, giả nợ thay cho bố”. Không một tâm hồn trong
sáng, tiếng o của Mị đâu đủ sức cuốn hút để bao nhiêu người tiếng sáo đi theo
Mị hết núi này đến núi khác”. Với những vẻ đẹp của phẩm chất lẫn tâm hồn, Mị xứng đáng
được hưởng hạnh phúc, được trân trọng, nâng niu. Cuộc sống tủi nhục trong nhà thống lí
Pá Tra
- Nhưng Mị không lấy được người mình yêu. Mị trở thành nạn nhân của hủ tục, của thầnquyền
và đặc biệt là món nợ truyền kiếp của người nghèo. Cha mẹ Mị lấy nhau không có tiền cưới
nên phải vay nhà thống lí, mỗi năm trả nợ một nương ngô cho đến khi mẹ Mị đã chết, cha
Mị đã già nợ vẫn còn đeo đẳng. Mị liền bị bắt làm dâu gạt nthực là kiếp con không
công.
- Có đến mấy tháng «đêm nào Mị cũng khóc’’. Nước mắt của đời đắng cay mặn chát, của nỗi
uất nghẹn dồn tụ. Đã có lúc Mị nghĩ tới cái chết, nhưng lòng hiếu thảo đã ngăn Mị lại.
- Kiếp sống nô lệ làm cho Mị không còn nghĩ về tương lai «Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ
rồi bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa ». Mị không còn ý niệm về thời gian
suốt ngày « lùi lũi như con rùa nuôi trong cửa ». Mị chỉ còn biết với công việc « Mỗi năm,
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
mỗi mùa, mỗi tháng... thành sợi’’. Mị chỉ thứ công cụ. Đau đớn biết nhường nào. Căn
buồng Mị ở «kín mít ... không biết sương hay nắng» gợi người ta liên ởng tới một thứ
ngục thất tinh thần, nó đày đọa Mị trong ngột ngạt, tù túng, tối tăm, mất tự do. Mị còn phải
sống trong đơn, lạnh lẽo, không tình yêu, hạnh phúc. Kiếp sống của người vợ trừ nợ
không được Tô Hoài tập trung miêu tả nhưng chỉ vài chi tiết thoáng qua trong thiên truyện
cũng đã để người đọc hình dung thật rõ ràng cụ thể.
2- Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị .
a. Sức sống tiềm tàng và mãnh liệt trong tâm hồn nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân.
Đã bao đêm tình mùa xuân trôi qua trong vô cảm, hồn nhưng đêm tết năm nay, cái tâm
hồn tưởng như đã chết lịm từ lâu của Mị bỗng bị lay thức dữ dội. Trời đất rạo rực vào xuân
trong giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió rét rất dữ dội”. Cảnh trai gái đánh
pao, đánh quay và trẻ con cười ầm trên sân chơi trước nhà thổi lòng Mị một sức sống mới và
đặc biệt hình ảnh “ những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mổm đá xòe như con bướm sặc
sỡđã tác động mạnh vào tâm hồn Mđể khơi lên bao niềm khát khao, hạnh phúc, tự do.
Cùng với sức sống mùa xuân, âm thanh tiếng sáo bạn yêu cùng cất lên làm hồi sinh tâm hồn
Mị. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi... Mị ngồi nhẩm bài hát người đang thổi’:
« Mày có con trai, con gái
Mày đi làm nương
Tao không có con trai, con gái
Tao đi tìm người yêu’’.
Mị từ nghe đến nhẩm lời bài hát người đang thổi. Khát vọng hạnh phúc như ngọn lửa đang
nhen nhóm len trong lòng gái tội nghiệp. «Mị lén lấy rượu... theo Mị». Men rượu hay
men đời đã khiến Mị sống với qua khứ. Tiếng sáo gọi bạn cũng là tình yêu thuở xa đang trỗi
dậy trong lòng Mị.
Mạch kể không rẽ sang chi tiết nào đi u vào tâm trạng Mị. “Đã từ nãy, Mị thấy phơi
phới trở lại ...Huống chi A Sử với Mị không lòng với nhau mà vẫn phải với nhau’’. Người
con gái ấy như nhìn thấy, cảm thấy sức sống dào dạt của tuổi thanh xuân. Lúc này Mị không
hề mặc cảm. Mị như một thứ cây từ bùn lầy vươn lên ánh sáng. Mị không yêu A Sử, không
bằng lòng lấy A Sử thì tại sao Mị cứ phải sống cam chịu mãi đến bao giờ. Sức sống đã khẳng
định. Giữa lúc ấy tiếng gọi của tình yêu, hạnh phúc cứ lửng bay ngoài đường Anh ném
pao/Em không bắt/ Em không yêu quả pao rơi rồi/ Em yêu người nào/Em bắt pao nào”. Tiếng
gọi ấy như giục glòng Mị, chuyển từ tâm trạng sang cử chỉ, hành động: “Mxắn một miếng
mỡ bỏ thêm vào đèn cho sáng”. Căn buồng vốn dĩ tối tăm sáng hẳn lên, cho mở mày, mở mặt,
cho chút hi vọng loé sáng. Mị quyết định đi chơi. Trong đầu Mị “đang rập rờn tiếng o”.
Những cử chỉ “Quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách...
Mị rút thêm cái áo”những cử chỉ lạ, nó chuẩn bị cho một sự bùng phát.
Nhưng A Sử không cho Mị đi chơi, nó trói đứng Mị vào trong buồng tối. Trong hoàn cảnh
cực kì đau khổ bi đát ấy, lòng yêu đời ham sống của Mị càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao gi
hết « Mị vẫn nghe tiếng sáo của trai gái Mèo đi chơi Tết, tiếng sáo đưa Mị đi theo những
cuộc chơi, những đám chơi…”. Con người vật chất của Mị thì bị giam cầm trói buộc nhưng
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
con người tinh thần của Mị đã chủ động thoát ra khỏi hoàn cảnh hiện tại để sống với thế giới
tự do ở bên ngoài.
Chỉ trong một đoạn văn ngắn 5 lần nhà văn nói đến tiếng sáo « Mị nghe tiếng sáo vọng
lại tha thiết bồi hồi » «trong đầu Mị dập dờn tiếng sáo..tiếng sáo gọi bạn u vẫn lửng
bay ngoài đường… tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi những đám chơi…Tai Mị văng
vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng». Tiếng sáo đã trở thành một chi tiết nghệ thuật quan trọng
để Tô Hoài thể hiện lòng yêu đời ham sống của Mị- sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm
tình mùa xuân đã đến.
b. Sức sống của Mị thể hiện ở hành động cứu A Phủ.
- Lúc đầu Mị dửng dưng thờ ơ với việc A Phbị trói « Mị vẫn thản nhiên thổi lửa
tay. Nếu A Phủ cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi ». Sở như vậy Mị A Phủ
chưa hề quen biết nhau, hơn nữa Mị đã quen sống trong âm thầm nhẫn nhục. Mị không để
ý đến công việc của người khác. Ở gia đình thống lí Tra việc bắt người, đánh người, trói
người ( trói đến chết) cũng chỉ chuyện cơm bữa. Nhưng rồi Mị không thể dửng dưng được
mãi đêm nào Mị cũng phải đốt lửa để sưởi cảnh A Phủ bị trói cây cọ trong sân bếp
cứ đập vào mắt Mị.
- Trong một lần nhìn thấy tình cảnh tuyệt vọng của A Phủ một dòng nước mắt lấp
lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị chợt nhớ lại trước đây Mị cũng bị trói đứng
như vậy. Thế từ chỗ dửng ng, Mị thương A Phủ người vô tội, người cùng cảnh ngộ,
căm thù cha con thống lí Pá Tra «chúng nó thật độc ác…cơ chừng chỉ đêm mai là người kia
chết. Chết đau, chết đói, chết rét, phải chết » Rồi Mị sợ phải bị trói thay vào đấy sẽ chết trên
cái cọc ấy nếu A Phủ trốn thoát. Nỗi lo sợ ấy của Mị hoàn toàn sở bởi chỉ có một mình
Mị đêm nào cũng trở dậy đốt lửa để sưởi và nthế bố con thống sẽ bảo Mị cởi trói cho
A Phủ. Tất cả những diễn biến tâm trạng ấy đã dẫn Mị đến hành động quyết định, Mị cởi
trói cho A Phủ, sau đó cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài sang Phiềng Sa. Khi Mị cắt đứt sợi
dây trói cứu A Phủ thì cũng chính lúc Mị cắt đứt sợi dây oan nghiệt của số phận đã trói
buộc cuộc đời Mị bao năm nay. Mị cứu A Phủ nhưng cũng lại cứu mình. Hành động đó của
Mị tuy còn mang tính tự phát nhưng phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật, phù hợp với
quy luật đấu tranh của xã hội là có áp bức có đấu tranh. Từ đây cuộc đời Mị bước sang một
trang mới. Mị A Phủ nên vợ nên chồng, được giác ngộ cách mạng trở thành du kích
trưởng thành trong đấu tranh.
Nhân vật Mị và A Phủ có phần giống nhau về hoàn cảnh sống đều là người nô lệ dưới chế độ
phong kiến miền núi. Nhưng có tính cách khác nhau. Mị được miêu tả qua suy nghĩ, tâm
trạng. A Phủ gan góc, bộc trực, táo bạo được thể hiện ở hành động.
II. Nhân vật A Phủ
A Phủ mồ côi cả cha mẹ. Anh, em A Phủ vì bệnh dịch chết. Có người làng đói bụng
đã bắt A Phủ bán cho người Thái dưới núi. A Phủ trốn lên núi cao, u lạc đến Hồng Ngài
sống bằng nghề làm mướn.
A Phủ biết làm nhiều việc, đúc lưỡi cày, đục cuốc, săn bò tót giỏi. Con gái trong làng nhiều
người mê, nhiều người nói “Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà,
chẳng mấy lúc mà giàu”. Nhưng A Phủ không có ruộng, có nương, không có nhà cửa, A Phủ
không lấy nổi vợ’.
A Phủ khao khát hạnh phúc Ngày tết A Phủ... trong vùng’. A Phủ sức sống mạnh mẽ,
khao khát tự do, biết sống tự lập, lao động giỏi, được nhiều người yêu quý. Nhưng A Phủ chỉ
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
biết kiếm sống bằng bán rẻ sức lao động của mình. A Phủ khao khát tự do, ai đụng chạm đến,
A Phủ không chịu được. Vì vậy đã dẫn đến sự va chạm với A Sử. Anh đã dám đánh con quan
làng. A Phủ thật gan góc. Người ta chỉ thấy con quan làng đánh người, chứ chưa thấy người
dân đánh lại con quan bao giờ.
A Phủ phải quỳ giữa nchịu đòn A Phủ ra quỳ giữa nhà ... càng hút’. Một trận đòn phũ
phàng, A Phủ phải gánh chịu luôn cả sự luận tội Thằng A Phủ đánh người ... tao mới thôi”.
Từ đấy A Phủ là người đi ở không công hết đời này đến đời khác. Quanh năm một thân, một
mình, đốt rừng, cày nương, săn t,...rong ruổi ngoài gò. A Phủ không thoát khỏi cảnh áp
bức của chúa đất.
E. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.
* Giá trị hiện thực.
- Tác phẩm cho ta thấy cuộc sống cơ cực, bị đè nén, áp bức nặng nề của người dân miền núi
Tây Bắc ới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến miền núi trước cách mạng tháng m.
- Thấy được bộ mặt n bạo những hủ tục thối nát của chế độ lang đạo, phong kiến miềnnúi
trước cách mạng tháng Tám.
- Sự đổi đời của vợ chồng A Phủ dưới ánh sáng của cách mạng: A Phủ và Mị tham gia dukích,
sống cuộc sống của những con người tự do.
* Giá trị nhân đạo.
- Tập trung tố cáo, vạch trần tội ác tàn bạo của những thế lực đã chà đạp lên quyền sống
củacon người.
- Nhìn thấy những phẩm chất tốt đẹp của con người tập trung biểu dương những
phẩmchất ấy.
- Tác giả thấu hiểu cảm thông sâu sắc tâm tình cảm cũng như ước, nguyện
vọngcủa con người bị chà đạp.
- Tiềm ng vươn lên, thoát khỏi cuộc sống tủi nhục của người dân dưới ánh sáng
cáchmạng.
F. Đặc sắc nghệ thuật của truyện.
1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc sắc.
2. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán của người dân miền núi.
3. Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên
ấntượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
4. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình thấm đẫm
chấtthơ,...
G. Chủ đề.
Tái hiện cuộc đời Mị A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã bày tỏ lòng cảm thông, xót xa trước cuộc
sống cơ cực của đồng bào dân tộc thiểu số trước ách thống trị của bọn chúa đất và thực dân,
đồng thời ca ngợi sức sống quật cường của họ. Tác giả cũng đặt ra vấn đề số phận con người
những người bị áp bức giải quyết vấn đề số phận con người bằng việc thức tỉnh họ đến
với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.
NHỮNG DẪN CHỨNG CẦN GHI NHỚ VỀ NHÂN VẬT MỊ
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
Giới thiệu nhân vật: “Ai ở xa về thường trông thấy một cô gái…lúc nào cô ấy cũng cúi mặt, mặt
buồn rười rượi”.
- Trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”; “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này đến
núi khác”.
Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô,còn sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố, bố đừng bán con
cho nhà giàu
- “Mị cầm nắm lá ngón ném xuống đất. Mị không đành lòng chết. Mị chết, bố Mị còn khổ hơn bây
giờ”
“Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp,
dù lúc hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng có sẵn trong tay ...”
“mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại...”; “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó
còn được gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày“ở lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”; “Cái căn buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ
vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là
nắng”; “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
- Đến khi bố Mị chết, Mị “không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa* Đêm tình mùa
xuân.
- Hoàn cảnh nảy sinh tâm trạng:
+ “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mổm đá xòe như con bướm sặc sỡ”
+ Âm thanh tiếng sáo:
“Ngoài đầu núi có tiếng ai thổi sáo”
“Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”
“Mà tiếng sáo vẫn lửng lơ bay ngoài đường” - Diễn biến tâm trạng.
+“lòng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”; “Mị
trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ” + “Mị muốn đi chơi”
“Mị với A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau; nếu có nắm lá ngón trong tay lúc
này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra mà tiếng
sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”.
- Hành động: lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng; Mị muốn đi chơi. Mị
sắp đi chơi”; “Mị với tay lấy cái váy hoa. Cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.
“Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.
- Ban đầu khi thấy A Phủ bị trói.
“thổi lửa, hơ tay, hơ lửa không biết bao nhiêu lần; Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay,
“nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”.
- Diễn biến tâm trạng.
+“Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ
+ Năm xưa Mị đã từng bị A Sử trói: “nhiều lần nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết
lau đi được”; người đàn bà ngày trước “cũng bị bắt trói đến chết ở cái nhà này
Chúng nó thật độc ác”.; chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”;
“Ta là thân đàn bà nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây
thôi. Người kia việc gì phải chết thế...A Phủ”.
+ “Đám than đã vạc dần hẳn lửa; “Mị sẽ phải chết trên cái cọc ấy. Mị cũng không thấy sợ”; Mị
rút con dao nhỏ cắt lúa cắt đứt dây mâycởi trói cho A Phủ.
PHẦN II. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG ĐỀ BÀI.
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
Đề 1. Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” của Tô
Hoài.
MB.
- Hoài nhà văn được nhiều người biết đến cũng tác giả nổi tiếng trong nền văn
họcViệt Nam, công giúp văn học Việt Nam khai phá mảnh đất hoang vốn bị quên lãng: Tây
Bắc.
- Vợ chồng A Phủ” in trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài ; đây là truyện ngắn đặc sắc
nhất, tác phẩm bức tranh chân thực về cuộc sống số phận khổ đau của người dân nghèo
miền núi dưới ách thống trị của thực dân và chúa đất đồng thời tác phẩm bài ca về sức sống
và khát vọng tự do của con người, tiêu biểu là nhân vật Mị.
- Cuộc đời, số phận của Mị cuộc đời số phận bi thảm của biết bao phụ nữ nghèo khổ
dướiách thống trị của bọn quan lại miền núi. Thân phận Mị là thân phận nô lệ bị tước đoạt sức
lao động, tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm người.
TB.
Luận điểm 1. Giới thiệu nhân vật.
Ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm, hằn in nơi người đọc đã là hình ảnh người thiếu phụ
buồn với dáng ngồi cúi mặt “lúc nào ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mới chỉ vài
nét phác họa nhưng tác giả đã hé mở một số phận bất hạnh, nhiều đau khổ. Đặt Mị trên nền cảnh
nhà thống lí Pá Tra giàu có và quyền thế, Tô Hoài còn hé mở số phận éo le trong thân phận kiếp
con dâu gạt nợ của Mị. Cách giới thiệu nhân vật của nhà văn Hoài đã khơi lên bao tò mò nơi
người đọc, những câu hỏi thắc mắc, băn khoăn khiến thiên truyện thêm phần hấp dẫn.
Luận điểm 2. Mị là điển hình cho số phận bất hạnh của người phụ nữ lao động nghèo
miền núi và là điển hình cho cả lớp người lao động Việt Nam.
Bằng những chi tiết thoáng qua trong tác phẩm, thể thấy Mị một gái xinh đẹp, nết na,
hiếu thảo và có đời sống tâm hồn phong phú. Nếu không xinh đẹp nết na làm soa Mị sức hấp
dẫn đến vậy với tra bản trong những đêm nh mùa xuân Trai đến đứng nhẵn chân vách đầu
buồng Mị”. Không hiếu thảo và tin vào bàn tay lao động của mình và không có tâm hồn phóng
khoáng, tự do sao Mị thể từ chối làm dâu nhà giàu có để cuốc nương, làm ngô, giả nợ thay
cho bố”. Không có một tâm hồn trong sáng, tiếng sáo của Mị đâu đủ sức cuốn hút để bao nhiêu
người mê tiếng sáo mà “đi theo Mị hết núi này đến núi khác”. Với những vẻ đẹp của phẩm chất
lẫn tâm hồn, Mị xứng đáng được hưởng hạnh phúc, được trân trọng, nâng niu.
Nhưng Mị lại phải chịu một số phận với bao bất hạnh.
Mị trở thành nạn nhân của hủ tục, của thần quyền đặc biệt món nợ truyền kiếp của người
nghèo. Cha mẹ Mị lấy nhau không tiền cưới nên phải vay nhà thống lí, mỗi năm trả nmột
nương ngô cho đến khi mẹ Mị đã chết, cha Mị đã già nợ vẫn còn đeo đẳng. Mị liền bbắt làm
dâu gạt nợ mà kì thực là kiếp con ở không công.
Khi bị bắt cóc về làm vợ A Sử, Mị hết sức đau khổ mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng
khócnhiều lần Mị đã tự so sánh cảm thấy mình không bằng con trâu con ngựa “Mị
thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”
Mị còn định tự tử bằng lá ngón nhưng thương cha Mị không đành lòng chết. Tất cả những
việc làm đó của Mị tuy còn mang tính tự phát tiêu cực nhưng đã chứng tỏ Mị ý thức được cuộc
sống danh dự và nhân phẩm của mình. Mị không chấp nhận thân phận nô lệ.
Trong kiếp người ở không công, Mị bị đọa đày trong những công việc triền miên, đeo đẳng Tết
xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, dù
lúc hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng có sẵn trong tay ...” . Nghệ thuật liệt kê gây ấn tượng về
những công việc triền miên, đeo đẳng Mị trong năm suốt tháng, suốt cả đời. Công việc đã trở
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
thành một nỗi ám ảnh trong ức của Mị khi mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm
lại...”. Chuỗi dài triền miên sự bóc lột đến kiệt cùng sức lao động của giai cấp thống trị đã
đảy Mị vào cuộc sống đơn điệu, buồn, vô nghĩa, mòn mỏi.
Trong địa ngục trần gian nhà thống lí, giữa đòn roi, cường quyền và sự đè nén, áp bức, nỗi
khổ tinh thần trong Mị chất chồng như núi đến nỗi “ ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Nhà
thống lí- thứ ngục thất tinh thần, đày đọa Mị trong ngột ngạt, tù túng, tối tăm, mất tự do. Mị còn
phải sống trong đơn, lạnh lẽo, không tình yêu, hạnh phúc. Mị bị liệt cả ý thức, tinh thần.
Mị trở thành “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Luận điểm 3. Mị trong đêm tình mùa xuân.
Thế nhưng bên trong con người Mị vẫn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng. Tô Hoài đã miêu tả,
thể hiện sức sống tiềm tàng của Mị một cách chân thật sinh động hợp lí trong hoàn cảnh điển
hình nhằm làm nổi bật phẩm chất tính cách của con người Mị.
Đã bao đêm tình mùa xuân trôi qua trong cảm, hồn nhưng đêm tết năm nay, cái tâm hồn
tưởng như đã chết lịm từ lâu của Mị bỗng bị lay thức dữ dội. Trời đất rạo rực vào xuân trong
giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”. Cảnh trai gái đánh pao, đánh
quay và trẻ con cười ầm trên sân chơi trước nhà thổi lòng Mị một sức sống mới và đặc biệt hình
ảnh “ những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mổm đá xòe như con bướm sặc sỡ” đã tác động
mạnh vào tâm hồn Mị để khơi lên bao niềm khát khao, hạnh phúc, tự do. Cùng với tiếng sáo
men rượu nồng nàn cũng đưa Mị từ cõi quên trở về thành cõi nhớ. Tất cả đều góp phần lay động
thức tỉnh một tâm hồn từ lâu đã ngủ quên, đã chai cứng và chết lịm.
Mị nghe tiếng sáo của trai gái Mèo đi chơi Tết, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang
thổi”:
“ Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu »
Đối với Mị lúc đó, tiếng sáo là âm thanh vui tươi của ngày Tết, là tiếng gọi của tự do, là tiếng
nói của người yêu, tình yêu. Và tiếng sáo ấy làm sống lại quá khứ tươi đẹp và thời trẻ trung
xuân sắc của Mị « Mị thấy phới phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm
tết ngày trước ». Mị đã ý thức được giá trị của cuộc sống của chính bản thân mình « Mị trẻ
lắm. Mị vẫn còn trẻ » nhưng nghĩ tới cuộc sống của mình với A Sử «không có lòng với nhau
mà vẫn phải ở với nhau » Mị lại đau khổ uất ức, lại muốn chết « nếu có nắm lá ngón trong
tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa »… Nhưng tiếng sáo gọi bạn
yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường làm cho Mị như bừng tỉnh dẫn Mị đến hành động quả
quyết : « Mị bước vào buồng… lấy ống mỡ, xắn thêm một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng…
Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt trong vách ».
Nhưng A Sử không cho Mị đi chơi, nó trói đứng Mị vào trong buồng tối. Trong hoàn cảnh cực
kì đau khổ bi đát ấy, lòng yêu đời ham sống của Mị càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết «
Mị vẫn nghe tiếng sáo của trai gái Mèo đi chơi Tết, tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,
những đám chơi…”. Con người vật chất của Mị thì bị giam cầm trói buộc nhưng con người
tinh thần của Mị đã chủ động thoát ra khỏi hoàn cảnh hiện tại để sống với thế giới tự do ở bên
ngoài.
Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà 5 lần nhà văn nói đến tiếng sáo «Mị nghe tiếng sáo vọng lại
tha thiết bồi hồi » «trong đầu Mị dập dờn tiếng sáo..tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng bay
ngoài đường… tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi những đám chơi…Tai Mị văng vẳng
tiếng sáo gọi bạn đầu làng ». Tiếng sáo đã trở thành một chi tiết nghệ thuật quan trọng để Tô
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
Hoài thể hiện lòng yêu đời ham sống của Mị- sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa
xuân đã đến.
Luận điểm 4. Mị trong đêm cởi trói cứu A Phủ.
Không chỉ có lòng yêu đời ham sống mãnh liệt, ở Mị, ta còn thấy tinh thần đấu tranh chống
cường quyền áp bức, là sự cảm thông chia sẻ với những con người đau khổ bất hạnh. Chính vì
thế Mị đã cởi trói cho A Phủ đã cùng A Phủ trốn khỏi nhà thống lí Tra. Hoài đã miêu
tả, thể hiệnmột cách chân thật hợp lí những diễn biến tâm trạng của Mị để dẫn đến những hành
động có tính chất quyết định đó. Lúc đầu Mị dửng dưng thờ ơ với việc A Phủ bị trói « Mị vẫn
thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi ». Sở dĩ như vậy
Mị A Phủ chưa hề quen biết nhau, hơn nữa Mị đã quen sống trong âm thầm nhẫn nhục.
Mị không để ý đến công việc của người khác. Ở gia đình thống lí Pá Tra việc bắt người, đánh
người, trói người ( trói đến chết) cũng chỉ chuyện cơm bữa. Nhưng rồi Mị không thể dửng
dưng được mãi vì đêm nào Mị cũng phải đốt lửa để sưởi và cảnh A Phủ bị trói ở cây cọ trong
sân bếp cứ đập vào mắt Mị. Trong một lần nhìn thấy tình cảnh tuyệt vọng của A Phủ, Mị chợt
nhớ lại trước đây Mị cũng bị trói đứng như vậy. Thế từ chỗ dửng dưng, Mị thương A Ph
người tội, người cùng cảnh ngộ, căm thù cha con thống Tra «chúng thật độc
ác…cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết. Chết đau, chết đói, chết rét, phải chết » Rồi Mị
sợ phải bị trói thay vào đấy sẽ chết trên cái cọc ấy nếu A Phủ trốn thoát. Nỗi lo sợ ấy của Mị
hoàn toàn sở bởi chỉ một mình Mị đêm nào cũng trở dậy đốt lửa để sưởi như thế
bố con thống sẽ bảo Mị cởi trói cho A Phủ. Tất cả những diễn biến tâm trạng ấy đã dẫn Mị
đến hành động quyết định, Mị cởi trói cho A Phủ, sau đó cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài
sang Phiềng Sa. Khi Mị cắt đứt sợi dây trói cứu A Phủ thì cũng chính là lúc Mị cắt đứt sợi dây
oan nghiệt của số phận đã trói buộc cuộc đời Mị bao năm nay. Mị cứu A Phủ nhưng cũng lại
cứu mình. Hành động đó của Mị tuy còn mang tính tự phát nhưng phù hợp với diễn biến tâm
của nhân vật, phù hợp với quy luật đấu tranh của hội áp bức đấu tranh. Từ đây
cuộc đời Mị ớc sang một trang mới. Mị và A Phủ nên vợ nên chồng, được giác ngcách
mạng trở thành du kích và trưởng thành trong đấu tranh.
3. KB.
- Xây dựng hình tượng nhân vật, Hoài tỏ ra một biệt tài nghệ thuật phân tích diễn tả
tâm nhân vật. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, Mị điển hình cho số phận người phụ nữ lao động
nghèo miền núi cũng như sức sống mãnh liệt và con đường đi lên để đổi đời của họ. Có thể nhìn
thấy trong Mị hình ảnh của ng triệu người lao động Việt Nam của cải dân tộc Việt Nam.
Trong hình tượng nhân vật Mị biểu tượng hiện thực hội Việt Nam cả trái tim nhân
ái của nhà văn trái tim biết đau nỗi đau của con người nhưng cũng biết trân trọng tin tưởng
vào phẩm chất của con người.
Đề 2: Phân tích nhân vật Mị và A Phủ giai đoạn ở Hồng Ngài trong Vợ chồng A Phủ để
làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
MB.
Truyện Tây Bắc là tập truyện ngắn của Tô Hoài được nhận Giải thưởng của Hội Văn học
Nghệ thuật 1954 – 1955. Trong tập Truyện Tây Bắc, Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc
hơn cả. Thông qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ, nhà văn dựng lại quãng đời tăm tối,
đau khổ của người dân miền núi trước Cách mạng, nêu cao khát vọng sống và vạch ra con
đường giải phóng cho họ. Đó chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. TB.
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
Luận điểm 1. Giới thiệu khái quát
Cuộc đời của Mị và A Phủ có hai giai đoạn gắn với hai cảnh đời sáng tối đối chọi nhau.
Giai đoạn đầu khi ở Hồng Ngài, Mị và A Phủ đều là nô lệ cho nhà thông lí Pá Tra. Đó là quãng
đời tăm tối, bị đối xử như con trâu, con ngựa. Giai đoạn sau, khi ở Phiềng Sa là một cuộc sống
khác hẳn, Mị và A Phủ đã đổi đời, đứng lên chiến đấu để bảo vệ mình, bảo vệ đất nước. Như
vậy, khi phản ánh hiện thực, tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã chọn hai đề tài chính: đề tài về cuộc
sống bị áp bức, tủi nhục của người dân miền núi dưới chế độ nô lệ thực dân và cùng với nó là
bộ mặt tàn bạo của bọn “thổ ti lang đạo; cuối cùng là đề tài về sự thức tỉnh cùa đồng bào các
dân tộc vùng cao Tây Bắc vùng dậy chiến đấu để giải phóng và tự giải phóng. Luận điểm 2.
Giá trị hiện thực
- Tớc hết, Vợ chồng A Phủ là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân
nghèo miền núi dưới ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến thực dân được phản ánh qua
cuộc đời Mị và A Phủ.
Mị là một có gái trẻ đẹp, giàu lòng yêu đời, chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đã từng được yêu và
có những đêm tình mùa xuân hạnh phúc. Nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị b
cướp về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Mị bị biến thành nông nô, bị chà đạp cả
về nhân phẩm lẫn thể xác. Quãng đời sống trong nhà thống lí là một quảng đời đau thương,
tăm tối. Ách áp bức nặng nề đã biến một cô gái hồn nhiên, đa cảm thành hiện thân của nhẫn
nhục, cam chịu. Mị sống câm lặng lầm lũi, quanh năm vùi đầu vào những công việc khổ sai.
Mị còn bị ràng buộc bởi mê tín thần quyền. Một khi đã đem ra “cúng trình ma” thì người đàn
bà phải tuân theo sự trói buộc vô hình suốt cả một đời. Cho nên, biết khổ, biết nhục, biết mình
bị đày đọa nhưng không dám phản kháng chống lại sự đày đọa khổ nhục ấy. Hơn nữa, những
con người như Mị thật bé nhỏ trước thế lực tàn bạo của cường quyền.
Bị giam hãm trong “địa ngục trần gian'’ của nhà thống lí Pá Tra, Mị chết dần, chết mòn
theo ngày tháng, Mị “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, “lũi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa”. Bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, Mị không còn nhớ đến cả tuổi của mình
nữa, Mị đang bị tê liệt dần cả về cảm giác lẫn ý thức, tâm hồn, tình cảm. Cái ác của bọn thống
trị là không những bóc lột, đày đọa con người về vật chất, thể xác mà còn giết chết dần ở con
người những giá trị nhân bản tốt đẹp. Con người bị biến thành công cụ, thành những con vật
chịu sự sai khiến.
Mị và A Phủ đều là nô lệ trong nhà thống lí. Nhưng con đường đến nhà thống lí thì mỗi
người một kiểu. Mị vì món nợ truyền kiếp mà phải thành nô lệ còn A Phủ vốn không nợ nần gì
nhà thống lí nhưng cũng không thoát được, vẫn rơi vào cảnh nô lệ.
A Phủ là một thanh niên nghèo suốt đời làm thuê, làm mướn. Cha mẹ chết trong một trận
dịch đậu mùa. Chính cuộc sống cùng khổ ấy dã hun đúc A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng
ham chuộng tự do và một tính cách gan góc cùng năng lao động đáng quý. A Phủ là đứa con
của núi rừng, hồn nhiên, trung thực. Chỉ vì dám đánh con quan mà bị bắt, bị đánh đập tàn
nhẫn, bị phạt và trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Cuộc đời A Phủ và cảnh xử kiện quái đản, lạ
lùng đã mở ra một khía cạnh khác trong giá trị hiện thực của tác phẩm: xã hội phong kiến miền
núi trước Cách mạng, chân lí, lẽ phải bao giờ thuộc về “con quan”, thuộc về kẻ giàu, kẻ mạnh;
kẻ thống trị. Người nghèo kháng lại sự bất công thì bị đánh đập, bị tước quyền tự do, bị biến
thành nô lê, không chỉ suốt đời mà đời con đời cháu cũng không thoát được. Hơn nữa, những
hủ tục nặng nề ngàn đời là hiện thân ách áp bức kiểu trung cổ miền núi. Những hủ tục đó đã
đẩy biết bao người nghèo vào thảm cảnh cùa sự cùng cực đói khổ. Những hủ tục ấy vừa tiếp
tay vừa là công cụ cho bọn phong kiến thống trị đầy ải người dân, chà đạp lên nhân phẩm của
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
họ. Việc A Phủ bị bắt làm nô lệ nhà thống lí Pá Tra càng tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm.
Hết ngày này qua ngày khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt đàn bò, ngựa đông hàng
mấy chục con. Chẳng may một con bò bị hổ ăn thịt, A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết. Trong
tay bọn thống trị, tính mạng con người thật không bằng một con vật.
Cuộc đời nô lệ khổ đau của Mị và A Phủ là điển hình cho thân phận người nghèo miền núi
dưới chế độ cũ: Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân phẩm, đối xử với con người không
bằng con vật, đó là bản chất của chế độ “thổ ti lang đạo”.
- Giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện trong những nội dung miêu tả bộ mặt tàn bạo
của bọn chúa đất phong kiến và bè lũ thực dân. Điều này được tác giả thể hiện sâu sắc qua
hình ảnh cha con thống lí Pá Tra trong mối quan Mị và A Phủ.
Nhà Pá Tra giàu có, nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện. Hắn làm giàu bằng bóc lột
sức lao động, bằng chế độ lao dịch, bằng cho vay lãi nặng bắt người ta làm nô lệ để trừ nợ.
Cha con thống lí còn rất nhẫn tâm. Tô Hoài đã nhiều lần nói đến cảnh đánh người, trói người
của Pá Tra và A Sử những chi tiết rất thực: “A Sử lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà, tóc Mị xõa
xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột rồi y tắt đèn, đóng cửa lại”. Cái kĩ càng, rành rẽ trong từng
động tác biểu hiện sự tàn ác đến thản nhiên của A Sử. Mị phải thức suốt đêm xoa thuốc dấu
cho A Sử, mỗi lần buồn ngủ quá thiếp đi, “A Sử bèn đạp chân vào mặt Mị”, thống lí Pá Tra thì
quyết định trói A Phủ đến chết, mà trói như thế nào? A Phủ phải tự tay mang dây, chôn cọc cho
thống lí quấn dây trói từ chân lên đầu. Không chỉ tàn ác thản nhiên, chúng còn phản dân, hại
nước, chúng cấu kết với thực dân để làm giàu, đế bóc lột, áp bức người dân. Dưới thời phong
kiến thực dân, bọn lang đạo, chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa, làm gió.
Phản ánh hiện thực khốn khổ của nhân dân Tây Bắc, Tô Hoài không tô vẽ, không nói quá
sự thật. Tất cả đều được hiện lên như một bức tranh chân thực sống động. Tài năng và cũng là
đóng góp của Tô Hoài là đã làm cho bức tranh hiện thực về miền núi cao Tây Bắc trở nên hết
sức phong phú với những chi tiết sinh động về cuộc sống con người. Đó là nhờ Tô Hoài có
một thời gian thực tế, cùng ăn cùng sống với nhân dân nên mới có được một vốn thực đáng
quý như thế.
Luận điểm 3. Giá trị nhân đạo
- Khi viết về đồng bào Tây Bắc, ngòi bút Tô Hoài thể hiện một tinh thần nhân đạo rõ rệt.
Nhà văn cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của những kiếp người ngựa như Mị và A Phủ, đứng về
phía họ để phản ánh, đấu tranh.
- Nhưng sâu hơn cả là nhà văn đã phát hiện được những phẩm chất quý giá – đó là sức
sống, làkhát vọng tự do vẫn còn tiềm tàng trong đáy sâu tâm hồn của những con người nô lệ
như Mị. Cái sức sống tiềm tàng ấy cùng với khát vọng mãnh liệt khi có cơ hội sẽ bùng lên.
Cách nhìn của Tô Hoài trong tác phẩm hết sức nhân bản. Tác giả đã dồn bút lực tập trung khắc
họa diễn biến tâm lí hồi sinh của Mị. Đó là vào một đêm tình mùa xuân, “Mị lén lấy hũ rượu
uống ừng ực từng bát một”. Mị sống với quá khứ tuổi xuân của mình. “Trong đầu Mị rập rờn
tiếng sáo dìu Mị đi theo những cuộc chơi”. “Mị thấy phơi phới trở lại”. “Mị còn trẻ. Mị còn
trẻ lắm, Mị muốn đi chơi”. Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt nhất, A Sử đã phũ phàng
dập tắt. Nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh để dẫn tới hành động cắt dây
trói cứu A Phủ ở đoạn sau đó.
Tớc cảnh A Phủ bị trói, bắt gặp “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám
đen", Mị thốt lên trong lòng: “Trời ơi! Nó bắt trói người ta đến chết. Chúng nó thật độc ác”.
Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã đánh thức tỉnh tình thương trắc ẩn trong Mị, cùng với
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
sự phản kháng âm ỉ đã dẫn Mị đến hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ rồi sau đó, vùng
chạy theo A Phủ. Đây là hành động cứu người và tự cứu mình của Mị.
Nhà văn đã rất thấu hiếu nỗi khổ cực của người dân miền núi, từ đó thấy được sự thức
tỉnh, sự vùng dậy của họ, trước tiên là thoát khỏi dây trói của cường quyền và thần quyền, rồi
họ dừng lại ở Phiềng Sa, thành vợ chồng đi theo cách mạng.
- Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với
Đảng, đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi Tây Bắc. Tô Hoài khi
tái hiện bức tranh hiện thực với những nét bản chất của nó, không thể không miêu tả quá trình
vận động mang tính quy luật của cuộc sống. Đây cũng là giá trị nhân đạo sâu sắc và tiến bộ
của Vợ chồng A Phủ.
KB. Mỗi trang văn của Tô Hoài đều là một trăng văn đầy nước mắt của cuộc đời con người.
Tô Hoài chắc hẳn phải gắn bó và am hiểu sâu sắc lắm về số phận của họ, để từ đó vạch trần
bản chất xấu xa của xã hội phong kiến miền núi và gửi gắm một niềm trăn trở thương yêu đối
với con người. Càng căm phẫn với cái ác bao nhiêu thì lại càng xót xa cho số kiếp con người
bấy nhiêu, mà càng xót xa thì lại càng cảm thông chia sẻ và bùng cháy lên khát vọng hạnh
phúc. Đây chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm. Đồng thời qua cách xây dựng nhân vật Mị
A Phủ, Tô Hoài cũng thể hiện rõ đặc điểm văn phong của mình. Đó là ngòi bút của Tô Hoài
luôn có sự nâng niu, trân trọng đối với những nhân vật của mình. Nhà văn lấy tình yêu thương
con người là cơ sở để vạch trần cái xấu, cái ác.
Đề 3. Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
MB.
Truyện ngắn Vchồng A Phủ” tác phẩm xuất sắc trong tập truyện Tây Bắc của Hoài năm
1953. Thành công lớn nhất của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nghệ thuật xây dựng nhân vật,
trong đó nhân vật A Phủ. Xây dựng nhân vật A Phủ, nhà văn muốn đậm thêm bức tranh
hiện thực về đời sống cực, tăm tối của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách
thống trị của bọn thực dân, chúa đất. chính họ cũng người giác ngộ cách mạng, tự đứng
lên đấu tranh giải phóng đời mình.
Thân bài.
Luận điểm 1. Khái quát về con người và số phận A Phủ.
- A Phủ xuất hiện khá đột ngột gây ấn tượng mạnh cho người đọc, đó là cảnh A Phủ đánh A
Sử.Người đọc tưởng đây là nhân vật có máu mặt trong bản làng nhưng không, thân phận của A
Phủ chẳng khác Mị là mấy.
+ A Phủ cũng như Mị, họ đều là những người dân nghèo, bị gia đình thống lí Tra áp bức, bóc
lột và trở thành con nợ nô lệ. Song họ đều có tình yêu và khát vọng giải phóng.
+ A Phủ khác Mị. Nếu Mị là người con gái thùy mị nết na thì A Phủ là một chàng trai mạnh mẽ.
Thời thơ ấu Mị còn cha, mẹ, gia đình để được yêu thương, đùm bọc thì A Phủ khi mưới
tuổi đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ trong một trận dịch khủng khiếp. A Phủ trở thành đưá trẻ
bị người làng bán đổi lấy thóc dưới vùng thấp. A Phủ không chịu đã trốn lên vùng cao làm
thuê, làm mướn kiếm sống và lưu lạc đến Hồng Ngài.
- Lớn lên giữa rừng núi hoang dã, A Phủ trở thành chàng trai H mông khỏe mạnh chạy
nhanhnhư ngựa” mọi công việc cứ làmphăng phăng”.
- Vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ rất hồn nhiêm, yêu đời, yêu cuộc sống thanh
bình,chính nghĩa. Ngày Tết dù chẳng có quần áo đẹp như nhiều chàng trai khác, trên cổ vẫn lằn
một chiếc vòng vía đeo từ nhỏ nhưng A Phủ vẫn hòa cùng đám bạn thổi kèn thổi sáo cùng bạn
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
tìm người yêu. A Phủ trở thành niềm ước của bao gái Mèo. Hkháo nhau Đứa nào
được A Phủ cũng như trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc giàu”. Nhưng với tập tục khắc
nghiệt của hội phong kiến miền núi thì A Phủ mãi chỉ người làm thuê, không nhà, không
bạc, không ruộng, tứ cố vô thân mà thôi, làm sao lấy được vợ.
Luận điểm 2. nh cách A Phủ.
- Ngay từ nhỏ A Phủ đã tình rất đặc biệt: gan góc, ý thức phản kháng mỗi khi
khôngchịu nổi điều gì.
+ Mười tuổi, A Phủ bị người làng bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. APhủ gan
bướng không chịu ở dưới vùng thấp, trốn về vùng cao tự kiếm sống.
+ A Sử phá đám chơi của A Phủ và bạn bè, A Phủ đánh. Tác giả miêu tả “ Một người to lớn chạy
vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt A Phủ...
A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp.
Với những hành động nhanh, mạnh, dứt khoát, táo bạo của A Phủ, A Sử đã bị thương nặng, mặc
A Phủ biết đó là con quan- “ con trời”, không ai dám động tới, nhưng A Phủ vẫn đánh vì
đứa phá đám cuộc chơi, cần phải đánh, thế thôi. Thật đơn giản nhưng đó là ý thức phản kháng
chống lại thói cậy quyền thế phá phách.
- A Phủ đã phải trả giá đắt, bị bắt, trói, đánh đập rất man trong cuộc xử kiện tại nhà thống
lí.Nhưng A Phủ tỏ ra rất gan lì.
+ Bị đánh đập, chửi bới, A Phủ chỉ quỳ chịu trận trong làn mưa roi làn khói thuốc phiện,
không được nói, không được thanh minh.
+ Suốt chiều suốt đêm quỳ chịu đòn nhưng vẫn im như tượng đá.
+ Cảnh xử kiện kết thúc và phải chịu làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lí Tra để trả nợ, A Phủ
vẫn lẫm lũi chấp nhận.
- A Phủ lại như Mị, ngày ngày làm việc cực nhọc; cày ruộng, săn tót, bẫy hổ, chăn
ngựa,một mình cô độc rong ruổi ngoài bãi cỏ, nương rừng.
- Bị đày đọa triền miên khiến cho tính gan góc tinh thần phản kháng của A Phnhư
consóng ngầm ngày càng mạnh mẽ.
+ A Phủ dám cãi lại thống lí cho mình đi bắt con hổ đền vào con bò bị mất.
+ Bị thống lí trói đứng vào cột, A Phủ không kêu van, không cần cứu. Đêm xuống, cúi nhay đứt
hai vòng dây trói. Được Mị cứu, A Phủ quật sức vùng lên chạy thoát. Đó chính ý thức làm
người, tinh thần phản kháng dù tự phát nhưng nó là cơ sở tốt để sau này A Phủ làm du kích.
- Nếu Mị được nhà văn xây dựng theo kiểu nhân vật tâm trạng đầy ntính thì A Phủ được
xâydựng theo kiểu nhân vật hành động đầy nam tính, khát vọng tự do, công bằng được biểu hiện
A Phủ âm thầm mãnh liệt, hồn nhiên, đơn giản dữ dội khôn lường. Tính cách A phủ
mang phẩm chất tiêu biểu của người đàn ông Hmông.
Luận điểm 3. Sự thống nhất hai tính cách trong con người A Phủ: Phản kháng và cam
chịu.
A Phủ có tính cách tự do, ngang bướng luôn phản kháng mỗi khi không chịu nổi.
- Sau khi bị đánh đạp, xtội phải nợ cho nhà thống lí, A Phủ vẫn tcầm dao bước
chântập tễnh của mình đi giết lợn phục dịch chính những kẻ đã hành hạ, đánh đập mình, biến
mình thành con nợ.
- Khi để hổ vồ mất một con bò, A phủ cãi lại thống Tra nhưng vẫn tự trói mình vào
cột,phải vác cọc, đóng cọc, mang dây mây đến để cho tên ác bá trói mình vào đó.
Những chi tiết ấy mâu thuẫn với tính ch của một con người vốn mãnh liệt can trường.
Nhà văn Hoài quả là một tay bút già dặn, ông đã nhìn hai mặt đối lập ấy trong một con
người: mâu thuẫn mà thống nhất. Một con người cường tráng, bất khuất và một con người thân
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
phận tôi đòi đều có trong A phủ. A Phủ đánh con quan vì không chịu điều vô lí, A Phủ phải giết
lợn cho kẻ áp bức mình ăn, phải đóng cọ lấy dây trói cho chính mình thân thế không
thể nào khác được. A Phủ không tự mình bỏ trốn khi chỉ một mình rong ruổi cùng đàn trâu
ngựa ngoài nương, gò bãi vì cam phận. Cũng như Mị, sau khi bố chết, Mị thể ăn ngón để
giải thoát nhưng lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. ai trong cái nhà này sống trên đất
Hồng Ngài này cũng thế cả thôi. Đó là sự cam chịu, cam phận của người nông dân trên các vùng
núi cao khi ánh sáng của Đảng chưa đến với họ. Họ chưa được giác ngộ, chưanhững người
cùng khổ kết lại thành sức mạnh chống lại ờng quyền. thế ý kiến cho rằng: A Phủ
nhân vật được xây dựng trên bước “ tìm đường, nhận đường” để sau này sang Phiềng Sa gặp A
Châu, trở thành du kích về giải phóng quê hương.
KB. Qua cuộc đời và số phận của A Phủ, Tô Hoài đã tố cáo tội ác dẫmn của giai cấp thống trị ở
miền núi, tiêu biểu cha con thống Tra đã đẩy con người hiền lành, chất phác vào tình
trạng thảm hại, bị cướp đoạt sức lao động, quyền làm người, trở thành nô lệ. Viết về họ nhà văn
luôn thể hiện lòng thương cảm với những đau khổ bất hạnh của họ. Ông đồng tình với sự phản
kháng và mở ra cho họ một lối thoát.
Đề 4:
Bàn về kết thúc đoạn trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (SGK Ngữ văn 12, tập 2), có ý kiến
cho rằng: hành động cắt nút dây mây cởi trói cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ của nhân vật Mị
thật bất ngờ, đột ngột, không thể dự đoán trước; lại có người khẳng định: Đó là một kết thúc
tự nhiên, tất yếu.
Bằng hiểu biết về tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, anh chị hãy bình luận các ý kiến trên.
- Triển khai theo các bước sau: MB: Giới thiệu vấn đề (trích ý kiến)
TB.
1.Giải thích ý kiến
- Ý kiến thứ nhất: hành động cắt nút dây mây cởi trói cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ của
nhân vật Mị thật bất ngờ, đột ngột, không thể dự đoán trước: Đánh giá kết thúc của truyện Vợ
chồng A Phủ là bất ngờ với mạch truyện, tâm trạng nhân vật Mị và cả người đọc.
- Ý kiến thứ hai: Đó là là một kết thúc tự nhiên, tất yếu: ý kiến này nhìn nhận, đánh giá kết
thúc của tác phẩm trong mối quan hệ với lô gíc diễn biến tâm trạng nhân vật Mị và mạch vận
động tất yếu của đời sống con người: khi bị dồn đẩy đến bước đường cùng, con người sẽ vùng
lên tìm ánh sáng cho mình. 2. Phân tích, chứng minh:
- Hành động cắt nút dây mây cởi trói cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ của nhân vật Mị thật
bất ngờ, đột ngột, không thể dự đoán trước: trong tác phẩm, Mị A Phủ cùng là nô lệ trong
nhà thống lí Pá Tra, song họ không có quan hệ tình cảm gì cụ thể, thậm chí là Mị đã gần như tê
liệt hoàn toàn về ý thức, chỉ còn như con trâu, con ngựa. Trong hoàn cảnh A Phủ bị trói đứng
đến gần chết, Mị vẫn thờ ơ đến mức như vô cảm trước nỗi khổ của A Phủ. Không ai có thể ngờ
rằng, người con dâu bất hạnh và câm lặng ấy lại đột ngột cắt nút dây mây cởi trói cho A Phủ
rồi chạy trốn theo anh. Đây là hành động hoàn toàn không hề có sự chuẩn bị, tính toán từ
trước.
- Đó là là một kết thúc tự nhiên, tất yếu: Đặt trong sự phát triển tính cách của hình tượng
Mị thì đây lại là một hành động tự nhiên, tất yếu. Bởi lẽ, Mị là cô gái ham sống, yêu đời, yêu
tự do, khát khao hạnh phúc. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở Mị dù có bị vùi dập đến kiệt cùng
vẫn không lụi tắt. Đêm tình mùa xuân là minh chứng rõ nét cho sức sống ấy. Mặt khác, Mị vốn
là cô gái giàu tình thương, vị tha, biết nghĩ, biết hi sinh cho người khác. Hành động của Mị là
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
kết quả tất yếu của sự bóc lột, đàn áp tàn nhẫn của cha con thống lí nói riêng, tầng lớp phong
kiến miền núi cao Tây Bắc nói chung đối với những người lao động nghèo. Hành động ấy
chứng tỏ sức phản kháng mãnh liệt, khả năng hướng về cách mạng một cách tự nhiên của
người dân Tây Bắc.
3. Bình luận, đánh giá chung:
Cả hai ý kiến đều đúng, không đối lập mà bổ sung cho nhau, giúp người đọc hiểu rõ hơn về tài
năng kể chuyện, miêu tả nội tâm nhân vật của nhà văn Tô Hoài. Đồng thời, ta càng trân trọng
hơn tấm lòng yêu thương, đồng cảm của tác giả đối với người dân nơi đây. KB. Khái quát lại
vấn đề.
Đề 5: Tiếng sáo được miêu tả nhiêu lần , nhiều cung bậc : lúc thiết tha bổi hổi, lúc văng vẳng,
khi lơ lửng rập rờn… Vậy tiếng sáo có vai trò như thế nào trong việc khắc họa tâm lí nhân vật
Mị?
- Tiếng sáo vai trò đặc biệt trong đời sống văn hoá tinh thần đặc biệt đời sống tình cảm
của trai gái người Mèo nói chung và của Mị nói riêng.
-Tiếng sáo chìa khóa mở cửa tâm hồn Mị sau bao nhiêu năm sống kiếp làm dâu gạt nợ.
Hoài đã miêu tả 7 lần trạng thái, cung bậc của tiếng sáo khác nhau. Tiếng sáo lấp đầu núi
tiếng sao ngoại cảnh nhưng rồi tiếng sáo đã trở thành yếu tố nối kết những cảm xúc những khát
khao trong lòng Mị, đưa Mị theo những cuộc chơi , những đám chơi đã trở thành tiếng sáo trong
tâm cảnh. Mị đã tìm được tự do ngoài dây trói, A Sử chỉ thể trói Mị giữa mùa xuân chứ không
thể trói được mùa xuân trong lòng Mị. Bởi vậy tiếng sáo là chất xúc tác kì diệu nhất để đẩy đưa
khát vọng hạnh phúc, làm bật lên sức sống tiềm tàng trong lòng cô gái trẻ này.
NHỮNG DẪN CHỨNG CẦN GHI NHỚ VỀ NHÂN VẬT MỊ
Luận Dẫn chứng điểm
Mở VCAP được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953. bài
Thân Giới thiệu nhân vật: “Ai ở xa về thường trông thấy một cô gái…lúc nào cô ấy cũng bài
cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Luận - Trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”; “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết
điểm núi này đến núi khác”.
2. Mị Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô,còn sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố, bố
điển đừng bán con cho nhà giàu
hình - “Mị cầm nắm lá ngón ném xuống đất. Mị không đành lòng chết. Mị chết, bố Mị còn
cho số khổ hơn bây giờ”
phận “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi bất
nương bẻ bắp, dù lúc hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng có sẵn trong tay ...” hạnh
“mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại...”; “con trâu con ngựa làm còn có của
lúc, đêm nó còn được gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm người
cả đêm cả ngày
phụ nữ “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”; “Cái căn buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc
cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không
biết là sương hay là nắng”; “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
- Đến khi bố Mị chết, Mị “không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa
Luận * Đêm tình mùa xuân.
điểm - Hoàn cảnh nảy sinh tâm trạng:
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
3: Sức + “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mổm đá xòe như con bướm sặc
sỡ” sống + Âm thanh tiếng sáo: tiềm “Ngoài đầu núi có tiếng ai thổi sáo”
tàng và “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của
người mãnh đang thổi”
liệt “Mà tiếng sáo vẫn lửng lơ bay ngoài đường” trong - Diễn biến tâm trạng. tâm
+“lòng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày hồn
trước”; “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”
nhân + “Mị muốn đi chơi”
vật Mị. “Mị với A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau; nếu có nắm lá
ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy
nước mắt ứa ra mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. * Đêm - Hành
động: lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng; Mị muốn tình đi
chơi. Mị sắp đi chơi”; “Mị với tay lấy cái váy hoa. Cái váy hoa vắt ở phía trong mùa
vách”. xuân. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.
* Đêm - Ban đầu khi thấy A Phủ bị trói.
cởi “thổi lửa, hơ tay, hơ lửa không biết bao nhiêu lần; Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ
trói tay, cho A “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”.
Phủ. - Diễn biến tâm trạng.
+“Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ” +
Năm xưa Mị đã từng bị A Sử trói: “nhiều lần nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ
không biết lau đi được”; người đàn bà ngày trước “cũng bị bắt trói đến chết ở cái
nhà này
Chúng nó thật độc ác”.; chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét,
phải chết”; “Ta là thân đàn bà nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây thôi. Người kia việc gì phải chết thế...A Phủ”.
+ “Đám than đã vạc dần hẳn lửa; “Mị sẽ phải chết trên cái cọc ấy. Mị cũng không
thấy sợ”; Mị rút con dao nhỏ cắt lúa cắt đứt dây mây” cởi trói cho A Phủ.
NHÂN VẬT A PHỦ.
- Ngay từ nhỏ A Phủ đã mô côi cha mẹ, có cá tình rất đặc biệt: gan góc
+ Mười tuổi, A Phủ bị người làng bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. APhủ gan
bướng không chịu ở dưới vùng thấp, trốn về vùng cao tự kiếm sống.
+ A Sử phá đám chơi của A Phủ bạn bè, A Phủ đánh A Sử Một người to lớn chạy vụt ra vung
tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt A Phủ... A Phủ đã
xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp.
- A Phủ đã phải trả giá đắt, bị bắt, trói, đánh đập rất man trong cuộc xử kiện tại nhà thống
lí.Nhưng A Phủ tỏ ra rất gan lì.
+ Bị đánh đập, chửi bới, A Phủ chỉ quỳ chịu trận trong làn mưa roi làn khói thuốc phiện,
không được nói, không được thanh minh.
+ Suốt chiều suốt đêm quỳ chịu đòn nhưng vẫn im như tượng đá.
+ Cảnh xử kiện kết thúc và phải chịu làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lí Tra để trả nợ, A Phủ
vẫn lẫm lũi chấp nhận.
lOMoARcPSD| 47882337
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)
- A Phủ ngày ngày làm việc cực nhọc; cày ruộng, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa, một mình côđộc
rong ruổi ngoài bãi cỏ, nương rừng.
+ A Phủ xin thống lí cho mình đi bắt con hổ đền vào con bò bị mất.
+ Bị thống lí trói đứng vào cột, A Phủ không kêu van, không cần cứu. Đêm xuống, cúi nhay đứt
hai vòng dây trói.
+ “Một sòng nước mắt lấ lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ”. Được Mị cứu,
A Phủ quật sức vùng lên chạy thoát.
| 1/17

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47882337
CHUYÊN ĐỀ: TÁC PHẨM VỢ CHỒNG A PHỦ CỦA TÔ HOÀI. KIẾN THỨC CƠ BẢN A. Tác giả
Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Ông có gần hai trăm đầu sách ở nhiều thể loại khác nhau. Ông am hiểu nhiều về đời sống và
phong tục. Lối kể chuyện tự nhiên, miêu tả giàu chất tạo hình, vốn từ vựng phong phú, đa dạng.
Trước cách mạng, Tô Hoài viết chủ yếu ở hai đề tài là loài vật và đời sống của thợ thủ công
nghèo. Sau cách mạng, ông từng giữ những chức vụ quan trọng của Hội nhà văn Việt Nam,
sáng tác kịp thời phục vụ cuộc sống lao động và xây dựng của nhân dân. Quan niệm sáng tác
của Tô Hoài “Viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. đã là sự thật thì không tầm
thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc’’

Đến với con đường nghệ thuật từ cuối những năm ba mươi cho đến nay, Tô Hoài đã sáng tác
được một số lượng tác phẩm đồ sộ (hơn một trăm năm mươi đầu sách) ở nhiều thể loại khác
nhau như : tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Với những đóng
góp to lớn cho nền văn học nước nhà, vào năm 1996 ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
* Tác phẩm của Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám :
Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), O chuột (1942),… *
Tác phẩm chính của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám :
- Truyện ngắn : Truyện Tây Bắc -1953, (Giải nhất giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam 1954- 1955)
- Tiểu thuyết : Mười năm (1957), Miền Tây (1967, Giải thưởng Bông sen vàng năm 1970 của
Hội Nhà văn Á Phi), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971),
- Kí: Nhật kí vùng cao (1969), Trái đất tên người (1978), Hoa hồng vàng song cửa (1981).
Cát bụi chân ai (1992).
- Truyện thiếu nhi : Tuyển tập Văn học thiếu nhi, tập I & II (1999)
- Tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác : Một số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959), Người bạn
đọc ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và phương pháp viết văn (1997). Tô Hoài
có nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, đặc biệt Dế mèn phiêu lưu kí được dịch ra
nhiều thứ tiếng nhất. B. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm.
- Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong ba tác phẩm in trong tập Truyện Tây Bắc, tác phẩm
được giải nhất, giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tác phẩm là kết quả của
chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế dài tám tháng
sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới
giải phóng của nhà văn. Tô Hoài đã cùng ăn, cùng ở với những người dân Tây Bắc để thấu
hiểu những cơ cực và vẻ đẹp tâm hồn của những người dân lao động nghèo nơi đây dưới ách
áp bức của thực dân và phong khhiến. Sau khi rời xa Tây Bắc, Tô Hoài chia sẻ: Đất và người
miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá… Tôi không có tham vọng đi sâu vào văn
hóa Mèo. Ý tưởng của tôi là làm hồi sinh nơi con người.

C. Tóm tắt cốt truyện.
Vợ chồng A Phủ” kể về cuộc đời của hai thanh niên người Mông: Mị và A Phủ.
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337 -
Mị vì món nợ truyền kiếp, bị A Sử (con trai thống lý Pá Tra) bắt về làm vợ, làm dâu
gạt nợnhà hắn, nhưng thực chất là làm nô lệ ở nhà thống lý Pá Tra: bị bóc lột, làm việc quần
quật, bị áp bức sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. -
Một đêm mùa xuân, tiếng sáo của thanh niên đánh thức trong Mị niềm khao khát tự
do,hạnh phúc. Mị uống rượu, khêu ngọn đèn, sửa soạn đi chơi nhưng A Sử đã trói đứng Mị
suốt đêm, Mị sống trong sự giằng xé giữa khao khát tự do và thực tại nghiệt ngã. -
A Phủ là một thanh niên khỏe mạnh, gan góc, vì đánh nhau với A Sử nên bị bắt, bị phạt
vạvà trở thành kẻ chăn bò gạt nợ. Bị hổ bắt một con bò, A Phủ bị phạt trói đứng suốt mấy ngày đêm. -
Cảm thương người cùng cảnh ngộ, Mị cắt dây trói cho A Phủ, cùng chạy trốn khỏi
HồngNgài. Đến Phiềng Sa, họ trở thành vợ chồng, gặp cán bộ cách mạng A Châu và được
giác ngộ cách mạng, Họ trở thành những chiến sĩ du kích D. Về các nhân vật trong truyện :
Mị và A Phủ là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi I. Nhân vật Mị.
1- Mị là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi.
- Sự xuất hiện của nhân vật Mị.
Mị xuất hiện ngay từ trang đầu của truyện «Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí thường trông
thấy một cô gái ngồi quay sợ bên tảng đá, trước cửa, cạnh tàu ngựa... cô ấy cũng cúi mặt,
mặt buồn rười rượi »
. Hình ảnh tảng đá, tàu ngựa, đôi mắt đã gợi sự liên tưởng cho người đọc.
Tảng đá là hiện thân nỗi đau khổ đè nặng lên cuộc đời Mị. Cuộc đời Mị cũng chẳng khác nào
con trâu, con ngựa. Khuôn mặt, đôi mắt là hiện diện của tâm hồn lúc nào cũng chỉ thấy buồn.
Cách miêu tả ấy như dự báo trước cho người đọc, người nghe về số phận bất hạnh của Mị.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra.
- Mị là một cô gái xinh đẹp, nết na, hiếu thảo và có đời sống tâm hồn phong phú. Nếu
khôngxinh đẹp nết na làm sao Mị có sức hấp dẫn đến vậy với tra bản trong những đêm tình
mùa xuân “ Trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”. Không hiếu thảo và tin vào bàn
tay lao động của mình và không có tâm hồn phóng khoáng, tự do sao Mị có thể từ chối làm
dâu nhà giàu có để “cuốc nương, làm ngô, giả nợ thay cho bố”. Không có một tâm hồn trong
sáng, tiếng sáo của Mị đâu đủ sức cuốn hút để bao nhiêu người mê tiếng sáo mà “ đi theo
Mị hết núi này đến núi khác
”. Với những vẻ đẹp của phẩm chất lẫn tâm hồn, Mị xứng đáng
được hưởng hạnh phúc, được trân trọng, nâng niu. Cuộc sống tủi nhục trong nhà thống lí Pá Tra
- Nhưng Mị không lấy được người mình yêu. Mị trở thành nạn nhân của hủ tục, của thầnquyền
và đặc biệt là món nợ truyền kiếp của người nghèo. Cha mẹ Mị lấy nhau không có tiền cưới
nên phải vay nhà thống lí, mỗi năm trả nợ một nương ngô cho đến khi mẹ Mị đã chết, cha
Mị đã già nợ vẫn còn đeo đẳng. Mị liền bị bắt làm dâu gạt nợ mà kì thực là kiếp con ở không công.
- Có đến mấy tháng «đêm nào Mị cũng khóc’’. Nước mắt của đời đắng cay mặn chát, của nỗi
uất nghẹn dồn tụ. Đã có lúc Mị nghĩ tới cái chết, nhưng lòng hiếu thảo đã ngăn Mị lại.
- Kiếp sống nô lệ làm cho Mị không còn nghĩ về tương lai «Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ
rồi bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa ». Mị không còn ý niệm về thời gian
suốt ngày « lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ». Mị chỉ còn biết với công việc « Mỗi năm,
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
mỗi mùa, mỗi tháng... thành sợi’’. Mị chỉ là thứ công cụ. Đau đớn biết nhường nào. Căn
buồng Mị ở «kín mít ... không biết là sương hay là nắng» gợi người ta liên tưởng tới một thứ
ngục thất tinh thần, nó đày đọa Mị trong ngột ngạt, tù túng, tối tăm, mất tự do. Mị còn phải
sống trong cô đơn, lạnh lẽo, không tình yêu, hạnh phúc. Kiếp sống của người vợ trừ nợ
không được Tô Hoài tập trung miêu tả nhưng chỉ vài chi tiết thoáng qua trong thiên truyện
cũng đã để người đọc hình dung thật rõ ràng cụ thể.
2- Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị .
a. Sức sống tiềm tàng và mãnh liệt trong tâm hồn nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.
Đã bao đêm tình mùa xuân trôi qua trong vô cảm, vô hồn nhưng đêm tết năm nay, cái tâm
hồn tưởng như đã chết lịm từ lâu của Mị bỗng bị lay thức dữ dội. Trời đất rạo rực vào xuân
trong “ giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”. Cảnh “ trai gái đánh
pao, đánh quay và trẻ con cười ầm trên sân chơi trước nhà thổi lòng Mị một sức sống mới và
đặc biệt hình ảnh “ những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mổm đá xòe như con bướm sặc
sỡ
” đã tác động mạnh vào tâm hồn Mị để khơi lên bao niềm khát khao, hạnh phúc, tự do.
Cùng với sức sống mùa xuân, âm thanh tiếng sáo bạn yêu cùng cất lên làm hồi sinh tâm hồn
Mị. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi... Mị ngồi nhẩm bài hát người đang thổi’’:
« Mày có con trai, con gái Mày đi làm nương
Tao không có con trai, con gái
Tao đi tìm người yêu’’.
Mị từ nghe đến nhẩm lời bài hát người đang thổi. Khát vọng hạnh phúc như ngọn lửa đang
nhen nhóm len trong lòng cô gái tội nghiệp. «Mị lén lấy hũ rượu... theo Mị». Men rượu hay
men đời đã khiến Mị sống với qua khứ. Tiếng sáo gọi bạn cũng là tình yêu thuở xa đang trỗi dậy trong lòng Mị.
Mạch kể không rẽ sang chi tiết nào mà đi sâu vào tâm trạng Mị. “Đã từ nãy, Mị thấy phơi
phới trở lại ...Huống chi A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau’’. Người
con gái ấy như nhìn thấy, cảm thấy sức sống dào dạt của tuổi thanh xuân. Lúc này Mị không
hề mặc cảm. Mị như một thứ cây từ bùn lầy vươn lên ánh sáng. Mị không yêu A Sử, không
bằng lòng lấy A Sử thì tại sao Mị cứ phải sống cam chịu mãi đến bao giờ. Sức sống đã khẳng
định. Giữa lúc ấy tiếng gọi của tình yêu, hạnh phúc cứ lơ lửng bay ở ngoài đường “Anh ném
pao/Em không bắt/ Em không yêu quả pao rơi rồi/ Em yêu người nào/Em bắt pao nào”
. Tiếng
gọi ấy như giục giã lòng Mị, chuyển từ tâm trạng sang cử chỉ, hành động: “Mị xắn một miếng
mỡ bỏ thêm vào đèn cho sáng”. Căn buồng vốn dĩ tối tăm sáng hẳn lên, cho mở mày, mở mặt,
cho chút hi vọng loé sáng. Mị quyết định đi chơi. Trong đầu Mị “đang rập rờn tiếng sáo”.
Những cử chỉ “Quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách...
Mị rút thêm cái áo” là những cử chỉ lạ, nó chuẩn bị cho một sự bùng phát.
Nhưng A Sử không cho Mị đi chơi, nó trói đứng Mị vào trong buồng tối. Trong hoàn cảnh
cực kì đau khổ bi đát ấy, lòng yêu đời ham sống của Mị càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ
hết « Mị vẫn nghe tiếng sáo của trai gái Mèo đi chơi Tết, tiếng sáo đưa Mị đi theo những
cuộc chơi, những đám chơi
…”. Con người vật chất của Mị thì bị giam cầm trói buộc nhưng
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
con người tinh thần của Mị đã chủ động thoát ra khỏi hoàn cảnh hiện tại để sống với thế giới tự do ở bên ngoài.
Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà 5 lần nhà văn nói đến tiếng sáo « Mị nghe tiếng sáo vọng
lại tha thiết bồi hồi » «trong đầu Mị dập dờn tiếng sáo..tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ
bay ngoài đường… tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi những đám chơi…Tai Mị văng
vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng
». Tiếng sáo đã trở thành một chi tiết nghệ thuật quan trọng
để Tô Hoài thể hiện lòng yêu đời ham sống của Mị- sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân đã đến.
b. Sức sống của Mị thể hiện ở hành động cứu A Phủ. -
Lúc đầu Mị dửng dưng thờ ơ với việc A Phủ bị trói « Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ
tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi ». Sở dĩ như vậy là vì Mị và A Phủ
chưa hề quen biết nhau, hơn nữa Mị đã quen sống trong âm thầm nhẫn nhục. Mị không để
ý đến công việc của người khác. Ở gia đình thống lí Pá Tra việc bắt người, đánh người, trói
người ( trói đến chết) cũng chỉ là chuyện cơm bữa. Nhưng rồi Mị không thể dửng dưng được
mãi vì đêm nào Mị cũng phải đốt lửa để sưởi và cảnh A Phủ bị trói ở cây cọ trong sân bếp cứ đập vào mắt Mị. -
Trong một lần nhìn thấy tình cảnh tuyệt vọng của A Phủ “một dòng nước mắt lấp
lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị chợt nhớ lại trước đây Mị cũng bị trói đứng
như vậy. Thế là từ chỗ dửng dưng, Mị thương A Phủ là người vô tội, là người cùng cảnh ngộ,
căm thù cha con thống lí Pá Tra «chúng nó thật độc ác…cơ chừng chỉ đêm mai là người kia
chết. Chết đau, chết đói, chết rét, phải chết
» Rồi Mị sợ phải bị trói thay vào đấy sẽ chết trên
cái cọc ấy nếu A Phủ trốn thoát. Nỗi lo sợ ấy của Mị hoàn toàn có cơ sở bởi chỉ có một mình
Mị đêm nào cũng trở dậy đốt lửa để sưởi và như thế bố con thống lí sẽ bảo Mị cởi trói cho
A Phủ. Tất cả những diễn biến tâm trạng ấy đã dẫn Mị đến hành động quyết định, Mị cởi
trói cho A Phủ, sau đó cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài sang Phiềng Sa. Khi Mị cắt đứt sợi
dây trói cứu A Phủ thì cũng chính là lúc Mị cắt đứt sợi dây oan nghiệt của số phận đã trói
buộc cuộc đời Mị bao năm nay. Mị cứu A Phủ nhưng cũng lại cứu mình. Hành động đó của
Mị tuy còn mang tính tự phát nhưng phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật, phù hợp với
quy luật đấu tranh của xã hội là có áp bức có đấu tranh. Từ đây cuộc đời Mị bước sang một
trang mới. Mị và A Phủ nên vợ nên chồng, được giác ngộ cách mạng trở thành du kích và
trưởng thành trong đấu tranh.
Nhân vật Mị và A Phủ có phần giống nhau về hoàn cảnh sống đều là người nô lệ dưới chế độ
phong kiến miền núi. Nhưng có tính cách khác nhau. Mị được miêu tả qua suy nghĩ, tâm
trạng. A Phủ gan góc, bộc trực, táo bạo được thể hiện ở hành động.
II. Nhân vật A Phủ
A Phủ mồ côi cả cha và mẹ. Anh, em A Phủ vì bệnh dịch mà chết. Có người làng đói bụng
đã bắt A Phủ bán cho người Thái ở dưới núi. A Phủ trốn lên núi cao, lưu lạc đến Hồng Ngài
sống bằng nghề làm mướn.
A Phủ biết làm nhiều việc, đúc lưỡi cày, đục cuốc, săn bò tót giỏi. Con gái trong làng nhiều
người mê, nhiều người nói “Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà,
chẳng mấy lúc mà giàu
”. Nhưng A Phủ không có ruộng, có nương, không có nhà cửa, A Phủ
không lấy nổi vợ’’.
A Phủ khao khát hạnh phúc “Ngày tết A Phủ... trong vùng’’. A Phủ có sức sống mạnh mẽ,
khao khát tự do, biết sống tự lập, lao động giỏi, được nhiều người yêu quý. Nhưng A Phủ chỉ
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
biết kiếm sống bằng bán rẻ sức lao động của mình. A Phủ khao khát tự do, ai đụng chạm đến,
A Phủ không chịu được. Vì vậy đã dẫn đến sự va chạm với A Sử. Anh đã dám đánh con quan
làng. A Phủ thật gan góc. Người ta chỉ thấy con quan làng đánh người, chứ chưa thấy người
dân đánh lại con quan bao giờ.
A Phủ phải quỳ giữa nhà chịu đòn “A Phủ ra quỳ giữa nhà ... càng hút’’. Một trận đòn phũ
phàng, A Phủ phải gánh chịu luôn cả sự luận tội “Thằng A Phủ đánh người ... tao mới thôi”.
Từ đấy A Phủ là người đi ở không công hết đời này đến đời khác. Quanh năm một thân, một
mình, đốt rừng, cày nương, săn bò tót,...rong ruổi ngoài gò. A Phủ không thoát khỏi cảnh áp bức của chúa đất.
E. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. * Giá trị hiện thực.
- Tác phẩm cho ta thấy cuộc sống cơ cực, bị đè nén, áp bức nặng nề của người dân miền núi
Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến miền núi trước cách mạng tháng Tám.
- Thấy được bộ mặt tàn bạo và những hủ tục thối nát của chế độ lang đạo, phong kiến miềnnúi
trước cách mạng tháng Tám.
- Sự đổi đời của vợ chồng A Phủ dưới ánh sáng của cách mạng: A Phủ và Mị tham gia dukích,
sống cuộc sống của những con người tự do. * Giá trị nhân đạo. -
Tập trung tố cáo, vạch trần tội ác tàn bạo của những thế lực đã chà đạp lên quyền sống củacon người. -
Nhìn thấy những phẩm chất tốt đẹp của con người và tập trung biểu dương những phẩmchất ấy. -
Tác giả thấu hiểu và cảm thông sâu sắc tâm tư tình cảm cũng như mơ ước, nguyện
vọngcủa con người bị chà đạp. -
Tiềm năng vươn lên, thoát khỏi cuộc sống tủi nhục của người dân dưới ánh sáng cáchmạng.
F. Đặc sắc nghệ thuật của truyện.
1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc sắc.
2. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán của người dân miền núi.
3. Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà
ấntượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
4. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chấtthơ,... G. Chủ đề.
Tái hiện cuộc đời Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã bày tỏ lòng cảm thông, xót xa trước cuộc
sống cơ cực của đồng bào dân tộc thiểu số trước ách thống trị của bọn chúa đất và thực dân,
đồng thời ca ngợi sức sống quật cường của họ. Tác giả cũng đặt ra vấn đề số phận con người
– những người bị áp bức và giải quyết vấn đề số phận con người bằng việc thức tỉnh họ đến
với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.
NHỮNG DẪN CHỨNG CẦN GHI NHỚ VỀ NHÂN VẬT MỊ
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
Giới thiệu nhân vật: “Ai ở xa về thường trông thấy một cô gái…lúc nào cô ấy cũng cúi mặt, mặt
buồn rười rượi”.
- “ Trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”; “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này đến núi khác”.
Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô,còn sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố, bố đừng bán con cho nhà giàu
- “Mị cầm nắm lá ngón ném xuống đất. Mị không đành lòng chết. Mị chết, bố Mị còn khổ hơn bây giờ”
“Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp,
dù lúc hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng có sẵn trong tay ...”
“mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại...”; “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó
còn được gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày“ở lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi
”; “Cái căn buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ
vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là
nắng
”; “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
- Đến khi bố Mị chết, Mị “không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa* Đêm tình mùa xuân.
- Hoàn cảnh nảy sinh tâm trạng:
+ “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mổm đá xòe như con bướm sặc sỡ” + Âm thanh tiếng sáo:
“Ngoài đầu núi có tiếng ai thổi sáo”
“Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”
“Mà tiếng sáo vẫn lửng lơ bay ngoài đường” - Diễn biến tâm trạng.
+“lòng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”; “Mị
trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ” + “Mị muốn đi chơi”
“Mị với A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”; “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc
này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra mà tiếng
sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường
”.
- Hành động: lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng; Mị muốn đi chơi. Mị
sắp đi chơi”; “Mị với tay lấy cái váy hoa. Cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.
“Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.
- Ban đầu khi thấy A Phủ bị trói.
“thổi lửa, hơ tay, hơ lửa không biết bao nhiêu lần; Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay,
“nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”.
- Diễn biến tâm trạng.
+“Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ
+ Năm xưa Mị đã từng bị A Sử trói: “nhiều lần nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết
lau đi được”; người đàn bà ngày trước “cũng bị bắt trói đến chết ở cái nhà này
Chúng nó thật độc ác”.; “chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”;
“Ta là thân đàn bà nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây
thôi. Người kia việc gì phải chết thế...A Phủ
”.
+ “Đám than đã vạc dần hẳn lửa”; “Mị sẽ phải chết trên cái cọc ấy. Mị cũng không thấy sợ”; Mị
rút con dao nhỏ cắt lúa cắt đứt dây mây” cởi trói cho A Phủ.
PHẦN II. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG ĐỀ BÀI.
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
Đề 1. Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. MB. -
Tô Hoài là nhà văn được nhiều người biết đến cũng là tác giả nổi tiếng trong nền văn
họcViệt Nam, có công giúp văn học Việt Nam khai phá mảnh đất hoang vốn bị quên lãng: Tây Bắc. -
Vợ chồng A Phủ” in trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài ; đây là truyện ngắn đặc sắc
nhất, tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận khổ đau của người dân nghèo
miền núi dưới ách thống trị của thực dân và chúa đất đồng thời tác phẩm là bài ca về sức sống
và khát vọng tự do của con người, tiêu biểu là nhân vật Mị. -
Cuộc đời, số phận của Mị là cuộc đời số phận bi thảm của biết bao phụ nữ nghèo khổ
dướiách thống trị của bọn quan lại ở miền núi. Thân phận Mị là thân phận nô lệ bị tước đoạt sức
lao động, tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm người. TB.
Luận điểm 1. Giới thiệu nhân vật.
Ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm, hằn in nơi người đọc đã là hình ảnh người thiếu phụ
buồn với dáng ngồi cúi mặt “lúc nào cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mới chỉ là vài
nét phác họa nhưng tác giả đã hé mở một số phận bất hạnh, nhiều đau khổ. Đặt Mị trên nền cảnh
nhà thống lí Pá Tra giàu có và quyền thế, Tô Hoài còn hé mở số phận éo le trong thân phận kiếp
con dâu gạt nợ của Mị. Cách giới thiệu nhân vật của nhà văn Tô Hoài đã khơi lên bao tò mò nơi
người đọc, những câu hỏi thắc mắc, băn khoăn khiến thiên truyện thêm phần hấp dẫn.
Luận điểm 2. Mị là điển hình cho số phận bất hạnh của người phụ nữ lao động nghèo
miền núi và là điển hình cho cả lớp người lao động Việt Nam.
Bằng những chi tiết thoáng qua trong tác phẩm, có thể thấy Mị là một cô gái xinh đẹp, nết na,
hiếu thảo và có đời sống tâm hồn phong phú. Nếu không xinh đẹp nết na làm soa Mị có sức hấp
dẫn đến vậy với tra bản trong những đêm tình mùa xuân “Trai đến đứng nhẵn chân vách đầu
buồng Mị
”. Không hiếu thảo và tin vào bàn tay lao động của mình và không có tâm hồn phóng
khoáng, tự do sao Mị có thể từ chối làm dâu nhà giàu có để “cuốc nương, làm ngô, giả nợ thay
cho bố
”. Không có một tâm hồn trong sáng, tiếng sáo của Mị đâu đủ sức cuốn hút để bao nhiêu
người mê tiếng sáo mà “đi theo Mị hết núi này đến núi khác”. Với những vẻ đẹp của phẩm chất
lẫn tâm hồn, Mị xứng đáng được hưởng hạnh phúc, được trân trọng, nâng niu.
Nhưng Mị lại phải chịu một số phận với bao bất hạnh.
Mị trở thành nạn nhân của hủ tục, của thần quyền và đặc biệt là món nợ truyền kiếp của người
nghèo. Cha mẹ Mị lấy nhau không có tiền cưới nên phải vay nhà thống lí, mỗi năm trả nợ một
nương ngô cho đến khi mẹ Mị đã chết, cha Mị đã già nợ vẫn còn đeo đẳng. Mị liền bị bắt làm
dâu gạt nợ mà kì thực là kiếp con ở không công.
Khi bị bắt cóc về làm vợ A Sử, Mị hết sức đau khổ “có mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng
khóc” và nhiều lần Mị đã tự so sánh và cảm thấy mình không bằng con trâu con ngựa “Mị
thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”

Mị còn định tự tử bằng lá ngón nhưng vì thương cha Mị không đành lòng chết. Tất cả những
việc làm đó của Mị tuy còn mang tính tự phát tiêu cực nhưng đã chứng tỏ Mị ý thức được cuộc
sống danh dự và nhân phẩm của mình. Mị không chấp nhận thân phận nô lệ.
Trong kiếp người ở không công, Mị bị đọa đày trong những công việc triền miên, đeo đẳng “ Tết
xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, dù
lúc hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng có sẵn trong tay ...”
. Nghệ thuật liệt kê gây ấn tượng về
những công việc triền miên, đeo đẳng Mị trong năm suốt tháng, suốt cả đời. Công việc đã trở
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
thành một nỗi ám ảnh trong kí ức của Mị khi “ mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm
lại...”.
Chuỗi dài triền miên và sự bóc lột đến kiệt cùng sức lao động của giai cấp thống trị đã
đảy Mị vào cuộc sống đơn điệu, buồn, vô nghĩa, mòn mỏi.
Trong địa ngục trần gian nhà thống lí, giữa đòn roi, cường quyền và sự đè nén, áp bức, nỗi
khổ tinh thần trong Mị chất chồng như núi đến nỗi “ ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Nhà
thống lí- thứ ngục thất tinh thần, đày đọa Mị trong ngột ngạt, tù túng, tối tăm, mất tự do. Mị còn
phải sống trong cô đơn, lạnh lẽo, không tình yêu, hạnh phúc. Mị bị tê liệt cả ý thức, tinh thần.
Mị trở thành “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Luận điểm 3. Mị trong đêm tình mùa xuân.
Thế nhưng bên trong con người Mị vẫn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng. Tô Hoài đã miêu tả,
thể hiện sức sống tiềm tàng của Mị một cách chân thật sinh động hợp lí trong hoàn cảnh điển
hình nhằm làm nổi bật phẩm chất tính cách của con người Mị.
Đã bao đêm tình mùa xuân trôi qua trong vô cảm, vô hồn nhưng đêm tết năm nay, cái tâm hồn
tưởng như đã chết lịm từ lâu của Mị bỗng bị lay thức dữ dội. Trời đất rạo rực vào xuân trong
giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”. Cảnh “ trai gái đánh pao, đánh
quay và trẻ con cười ầm trên sân chơi trước nhà thổi lòng Mị một sức sống mới và đặc biệt hình
ảnh “ những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mổm đá xòe như con bướm sặc sỡ” đã tác động
mạnh vào tâm hồn Mị để khơi lên bao niềm khát khao, hạnh phúc, tự do. Cùng với tiếng sáo là
men rượu nồng nàn cũng đưa Mị từ cõi quên trở về thành cõi nhớ. Tất cả đều góp phần lay động
thức tỉnh một tâm hồn từ lâu đã ngủ quên, đã chai cứng và chết lịm.
Mị nghe tiếng sáo của trai gái Mèo đi chơi Tết, “Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”:
“ Mày có con trai con gái Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu »
Đối với Mị lúc đó, tiếng sáo là âm thanh vui tươi của ngày Tết, là tiếng gọi của tự do, là tiếng
nói của người yêu, tình yêu. Và tiếng sáo ấy làm sống lại quá khứ tươi đẹp và thời trẻ trung
xuân sắc của Mị « Mị thấy phới phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm
tết ngày trước
». Mị đã ý thức được giá trị của cuộc sống của chính bản thân mình « Mị trẻ
lắm. Mị vẫn còn trẻ
» nhưng nghĩ tới cuộc sống của mình với A Sử «không có lòng với nhau
mà vẫn phải ở với nhau
» Mị lại đau khổ uất ức, lại muốn chết « nếu có nắm lá ngón trong
tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa
»… Nhưng tiếng sáo gọi bạn
yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường làm cho Mị như bừng tỉnh dẫn Mị đến hành động quả
quyết : « Mị bước vào buồng… lấy ống mỡ, xắn thêm một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng…
Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt trong vách
».
Nhưng A Sử không cho Mị đi chơi, nó trói đứng Mị vào trong buồng tối. Trong hoàn cảnh cực
kì đau khổ bi đát ấy, lòng yêu đời ham sống của Mị càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết «
Mị vẫn nghe tiếng sáo của trai gái Mèo đi chơi Tết, tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,
những đám chơi
…”. Con người vật chất của Mị thì bị giam cầm trói buộc nhưng con người
tinh thần của Mị đã chủ động thoát ra khỏi hoàn cảnh hiện tại để sống với thế giới tự do ở bên ngoài.
Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà 5 lần nhà văn nói đến tiếng sáo «Mị nghe tiếng sáo vọng lại
tha thiết bồi hồi » «trong đầu Mị dập dờn tiếng sáo..tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay
ngoài đường… tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi những đám chơi…Tai Mị văng vẳng
tiếng sáo gọi bạn đầu làng
». Tiếng sáo đã trở thành một chi tiết nghệ thuật quan trọng để Tô
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
Hoài thể hiện lòng yêu đời ham sống của Mị- sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân đã đến.
Luận điểm 4. Mị trong đêm cởi trói cứu A Phủ.
Không chỉ có lòng yêu đời ham sống mãnh liệt, ở Mị, ta còn thấy tinh thần đấu tranh chống
cường quyền áp bức, là sự cảm thông chia sẻ với những con người đau khổ bất hạnh. Chính vì
thế Mị đã cởi trói cho A Phủ và đã cùng A Phủ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Tô Hoài đã miêu
tả, thể hiệnmột cách chân thật hợp lí những diễn biến tâm trạng của Mị để dẫn đến những hành
động có tính chất quyết định đó. Lúc đầu Mị dửng dưng thờ ơ với việc A Phủ bị trói « Mị vẫn
thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi
». Sở dĩ như vậy
là vì Mị và A Phủ chưa hề quen biết nhau, hơn nữa Mị đã quen sống trong âm thầm nhẫn nhục.
Mị không để ý đến công việc của người khác. Ở gia đình thống lí Pá Tra việc bắt người, đánh
người, trói người ( trói đến chết) cũng chỉ là chuyện cơm bữa. Nhưng rồi Mị không thể dửng
dưng được mãi vì đêm nào Mị cũng phải đốt lửa để sưởi và cảnh A Phủ bị trói ở cây cọ trong
sân bếp cứ đập vào mắt Mị. Trong một lần nhìn thấy tình cảnh tuyệt vọng của A Phủ, Mị chợt
nhớ lại trước đây Mị cũng bị trói đứng như vậy. Thế là từ chỗ dửng dưng, Mị thương A Phủ
là người vô tội, là người cùng cảnh ngộ, căm thù cha con thống lí Pá Tra «chúng nó thật độc
ác…cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết. Chết đau, chết đói, chết rét, phải chết
» Rồi Mị
sợ phải bị trói thay vào đấy sẽ chết trên cái cọc ấy nếu A Phủ trốn thoát. Nỗi lo sợ ấy của Mị
hoàn toàn có cơ sở bởi chỉ có một mình Mị đêm nào cũng trở dậy đốt lửa để sưởi và như thế
bố con thống lí sẽ bảo Mị cởi trói cho A Phủ. Tất cả những diễn biến tâm trạng ấy đã dẫn Mị
đến hành động quyết định, Mị cởi trói cho A Phủ, sau đó cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài
sang Phiềng Sa. Khi Mị cắt đứt sợi dây trói cứu A Phủ thì cũng chính là lúc Mị cắt đứt sợi dây
oan nghiệt của số phận đã trói buộc cuộc đời Mị bao năm nay. Mị cứu A Phủ nhưng cũng lại
cứu mình. Hành động đó của Mị tuy còn mang tính tự phát nhưng phù hợp với diễn biến tâm
lí của nhân vật, phù hợp với quy luật đấu tranh của xã hội là có áp bức có đấu tranh. Từ đây
cuộc đời Mị bước sang một trang mới. Mị và A Phủ nên vợ nên chồng, được giác ngộ cách
mạng trở thành du kích và trưởng thành trong đấu tranh. 3. KB.
- Xây dựng hình tượng nhân vật, Tô Hoài tỏ ra có một biệt tài nghệ thuật phân tích và diễn tả
tâm lí nhân vật. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, Mị là điển hình cho số phận người phụ nữ lao động
nghèo miền núi cũng như sức sống mãnh liệt và con đường đi lên để đổi đời của họ. Có thể nhìn
thấy trong Mị hình ảnh của hàng triệu người lao động Việt Nam và của cải dân tộc Việt Nam.
Trong hình tượng nhân vật Mị có biểu tượng hiện thực xã hội Việt Nam và có cả trái tim nhân
ái của nhà văn trái tim biết đau nỗi đau của con người nhưng cũng biết trân trọng và tin tưởng
vào phẩm chất của con người.
Đề 2: Phân tích nhân vật Mị và A Phủ giai đoạn ở Hồng Ngài trong Vợ chồng A Phủ để
làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. MB.
Truyện Tây Bắc là tập truyện ngắn của Tô Hoài được nhận Giải thưởng của Hội Văn học –
Nghệ thuật 1954 – 1955. Trong tập Truyện Tây Bắc, Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc
hơn cả. Thông qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ, nhà văn dựng lại quãng đời tăm tối,
đau khổ của người dân miền núi trước Cách mạng, nêu cao khát vọng sống và vạch ra con
đường giải phóng cho họ. Đó chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. TB.
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
Luận điểm 1. Giới thiệu khái quát
Cuộc đời của Mị và A Phủ có hai giai đoạn gắn với hai cảnh đời sáng – tối đối chọi nhau.
Giai đoạn đầu khi ở Hồng Ngài, Mị và A Phủ đều là nô lệ cho nhà thông lí Pá Tra. Đó là quãng
đời tăm tối, bị đối xử như con trâu, con ngựa. Giai đoạn sau, khi ở Phiềng Sa là một cuộc sống
khác hẳn, Mị và A Phủ đã đổi đời, đứng lên chiến đấu để bảo vệ mình, bảo vệ đất nước. Như
vậy, khi phản ánh hiện thực, tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã chọn hai đề tài chính: đề tài về cuộc
sống bị áp bức, tủi nhục của người dân miền núi dưới chế độ nô lệ thực dân và cùng với nó là
bộ mặt tàn bạo của bọn “thổ ti lang đạo; cuối cùng là đề tài về sự thức tỉnh cùa đồng bào các
dân tộc vùng cao Tây Bắc vùng dậy chiến đấu để giải phóng và tự giải phóng. Luận điểm 2. Giá trị hiện thực -
Trước hết, Vợ chồng A Phủ là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân
nghèo miền núi dưới ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến thực dân được phản ánh qua
cuộc đời Mị và A Phủ.
Mị là một có gái trẻ đẹp, giàu lòng yêu đời, chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đã từng được yêu và
có những đêm tình mùa xuân hạnh phúc. Nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị bị
cướp về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Mị bị biến thành nông nô, bị chà đạp cả
về nhân phẩm lẫn thể xác. Quãng đời sống trong nhà thống lí là một quảng đời đau thương,
tăm tối. Ách áp bức nặng nề đã biến một cô gái hồn nhiên, đa cảm thành hiện thân của nhẫn
nhục, cam chịu. Mị sống câm lặng lầm lũi, quanh năm vùi đầu vào những công việc khổ sai.
Mị còn bị ràng buộc bởi mê tín thần quyền. Một khi đã đem ra “cúng trình ma” thì người đàn
bà phải tuân theo sự trói buộc vô hình suốt cả một đời. Cho nên, biết khổ, biết nhục, biết mình
bị đày đọa nhưng không dám phản kháng chống lại sự đày đọa khổ nhục ấy. Hơn nữa, những
con người như Mị thật bé nhỏ trước thế lực tàn bạo của cường quyền.
Bị giam hãm trong “địa ngục trần gian'’ của nhà thống lí Pá Tra, Mị chết dần, chết mòn
theo ngày tháng, Mị “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, “lũi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa”. Bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, Mị không còn nhớ đến cả tuổi của mình
nữa, Mị đang bị tê liệt dần cả về cảm giác lẫn ý thức, tâm hồn, tình cảm. Cái ác của bọn thống
trị là không những bóc lột, đày đọa con người về vật chất, thể xác mà còn giết chết dần ở con
người những giá trị nhân bản tốt đẹp. Con người bị biến thành công cụ, thành những con vật chịu sự sai khiến.
Mị và A Phủ đều là nô lệ trong nhà thống lí. Nhưng con đường đến nhà thống lí thì mỗi
người một kiểu. Mị vì món nợ truyền kiếp mà phải thành nô lệ còn A Phủ vốn không nợ nần gì
nhà thống lí nhưng cũng không thoát được, vẫn rơi vào cảnh nô lệ.
A Phủ là một thanh niên nghèo suốt đời làm thuê, làm mướn. Cha mẹ chết trong một trận
dịch đậu mùa. Chính cuộc sống cùng khổ ấy dã hun đúc ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng
ham chuộng tự do và một tính cách gan góc cùng năng lao động đáng quý. A Phủ là đứa con
của núi rừng, hồn nhiên, trung thực. Chỉ vì dám đánh con quan mà bị bắt, bị đánh đập tàn
nhẫn, bị phạt và trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Cuộc đời A Phủ và cảnh xử kiện quái đản, lạ
lùng đã mở ra một khía cạnh khác trong giá trị hiện thực của tác phẩm: xã hội phong kiến miền
núi trước Cách mạng, chân lí, lẽ phải bao giờ thuộc về “con quan”, thuộc về kẻ giàu, kẻ mạnh;
kẻ thống trị. Người nghèo kháng lại sự bất công thì bị đánh đập, bị tước quyền tự do, bị biến
thành nô lê, không chỉ suốt đời mà đời con đời cháu cũng không thoát được. Hơn nữa, những
hủ tục nặng nề ngàn đời là hiện thân ách áp bức kiểu trung cổ miền núi. Những hủ tục đó đã
đẩy biết bao người nghèo vào thảm cảnh cùa sự cùng cực đói khổ. Những hủ tục ấy vừa tiếp
tay vừa là công cụ cho bọn phong kiến thống trị đầy ải người dân, chà đạp lên nhân phẩm của
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
họ. Việc A Phủ bị bắt làm nô lệ nhà thống lí Pá Tra càng tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm.
Hết ngày này qua ngày khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt đàn bò, ngựa đông hàng
mấy chục con. Chẳng may một con bò bị hổ ăn thịt, A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết. Trong
tay bọn thống trị, tính mạng con người thật không bằng một con vật.
Cuộc đời nô lệ khổ đau của Mị và A Phủ là điển hình cho thân phận người nghèo miền núi
dưới chế độ cũ: Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân phẩm, đối xử với con người không
bằng con vật, đó là bản chất của chế độ “thổ ti lang đạo”. -
Giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện trong những nội dung miêu tả bộ mặt tàn bạo
của bọn chúa đất phong kiến và bè lũ thực dân. Điều này được tác giả thể hiện sâu sắc qua
hình ảnh cha con thống lí Pá Tra trong mối quan Mị và A Phủ.
Nhà Pá Tra giàu có, nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện. Hắn làm giàu bằng bóc lột
sức lao động, bằng chế độ lao dịch, bằng cho vay lãi nặng bắt người ta làm nô lệ để trừ nợ.
Cha con thống lí còn rất nhẫn tâm. Tô Hoài đã nhiều lần nói đến cảnh đánh người, trói người
của Pá Tra và A Sử những chi tiết rất thực: “A Sử lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà, tóc Mị xõa
xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột rồi y tắt đèn, đóng cửa lại”. Cái kĩ càng, rành rẽ trong từng
động tác biểu hiện sự tàn ác đến thản nhiên của A Sử. Mị phải thức suốt đêm xoa thuốc dấu
cho A Sử, mỗi lần buồn ngủ quá thiếp đi, “A Sử bèn đạp chân vào mặt Mị”, thống lí Pá Tra thì
quyết định trói A Phủ đến chết, mà trói như thế nào? A Phủ phải tự tay mang dây, chôn cọc cho
thống lí quấn dây trói từ chân lên đầu. Không chỉ tàn ác thản nhiên, chúng còn phản dân, hại
nước, chúng cấu kết với thực dân để làm giàu, đế bóc lột, áp bức người dân. Dưới thời phong
kiến thực dân, bọn lang đạo, chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa, làm gió.
Phản ánh hiện thực khốn khổ của nhân dân Tây Bắc, Tô Hoài không tô vẽ, không nói quá
sự thật. Tất cả đều được hiện lên như một bức tranh chân thực sống động. Tài năng và cũng là
đóng góp của Tô Hoài là đã làm cho bức tranh hiện thực về miền núi cao Tây Bắc trở nên hết
sức phong phú với những chi tiết sinh động về cuộc sống con người. Đó là nhờ Tô Hoài có
một thời gian thực tế, cùng ăn cùng sống với nhân dân nên mới có được một vốn thực đáng quý như thế.
Luận điểm 3. Giá trị nhân đạo -
Khi viết về đồng bào Tây Bắc, ngòi bút Tô Hoài thể hiện một tinh thần nhân đạo rõ rệt.
Nhà văn cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của những kiếp người ngựa như Mị và A Phủ, đứng về
phía họ để phản ánh, đấu tranh. -
Nhưng sâu hơn cả là nhà văn đã phát hiện được những phẩm chất quý giá – đó là sức
sống, làkhát vọng tự do vẫn còn tiềm tàng trong đáy sâu tâm hồn của những con người nô lệ
như Mị. Cái sức sống tiềm tàng ấy cùng với khát vọng mãnh liệt khi có cơ hội sẽ bùng lên.
Cách nhìn của Tô Hoài trong tác phẩm hết sức nhân bản. Tác giả đã dồn bút lực tập trung khắc
họa diễn biến tâm lí hồi sinh của Mị. Đó là vào một đêm tình mùa xuân, “Mị lén lấy hũ rượu
uống ừng ực từng bát một
”. Mị sống với quá khứ tuổi xuân của mình. “Trong đầu Mị rập rờn
tiếng sáo dìu Mị đi theo những cuộc chơi”. “Mị thấy phơi phới trở lại”. “Mị còn trẻ. Mị còn
trẻ lắm, Mị muốn đi chơi
”. Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt nhất, A Sử đã phũ phàng
dập tắt. Nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh để dẫn tới hành động cắt dây
trói cứu A Phủ ở đoạn sau đó.
Trước cảnh A Phủ bị trói, bắt gặp “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám
đen", Mị thốt lên trong lòng: “Trời ơi! Nó bắt trói người ta đến chết. Chúng nó thật độc ác”.
Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã đánh thức tỉnh tình thương trắc ẩn trong Mị, cùng với
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
sự phản kháng âm ỉ đã dẫn Mị đến hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ rồi sau đó, vùng
chạy theo A Phủ. Đây là hành động cứu người và tự cứu mình của Mị.
Nhà văn đã rất thấu hiếu nỗi khổ cực của người dân miền núi, từ đó thấy được sự thức
tỉnh, sự vùng dậy của họ, trước tiên là thoát khỏi dây trói của cường quyền và thần quyền, rồi
họ dừng lại ở Phiềng Sa, thành vợ chồng đi theo cách mạng. -
Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với
Đảng, đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi Tây Bắc. Tô Hoài khi
tái hiện bức tranh hiện thực với những nét bản chất của nó, không thể không miêu tả quá trình
vận động mang tính quy luật của cuộc sống. Đây cũng là giá trị nhân đạo sâu sắc và tiến bộ
của Vợ chồng A Phủ.
KB. Mỗi trang văn của Tô Hoài đều là một trăng văn đầy nước mắt của cuộc đời con người.
Tô Hoài chắc hẳn phải gắn bó và am hiểu sâu sắc lắm về số phận của họ, để từ đó vạch trần
bản chất xấu xa của xã hội phong kiến miền núi và gửi gắm một niềm trăn trở thương yêu đối
với con người. Càng căm phẫn với cái ác bao nhiêu thì lại càng xót xa cho số kiếp con người
bấy nhiêu, mà càng xót xa thì lại càng cảm thông chia sẻ và bùng cháy lên khát vọng hạnh
phúc. Đây chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm. Đồng thời qua cách xây dựng nhân vật Mị
và A Phủ, Tô Hoài cũng thể hiện rõ đặc điểm văn phong của mình. Đó là ngòi bút của Tô Hoài
luôn có sự nâng niu, trân trọng đối với những nhân vật của mình. Nhà văn lấy tình yêu thương
con người là cơ sở để vạch trần cái xấu, cái ác.
Đề 3. Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. MB.
Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm xuất sắc trong tập truyện Tây Bắc của Tô Hoài năm
1953. Thành công lớn nhất của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là nghệ thuật xây dựng nhân vật,
trong đó có nhân vật A Phủ. Xây dựng nhân vật A Phủ, nhà văn muốn tô đậm thêm bức tranh
hiện thực về đời sống cơ cực, tăm tối của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao dưới ách
thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Và chính họ cũng là người giác ngộ cách mạng, tự đứng
lên đấu tranh giải phóng đời mình. Thân bài.
Luận điểm 1. Khái quát về con người và số phận A Phủ. -
A Phủ xuất hiện khá đột ngột gây ấn tượng mạnh cho người đọc, đó là cảnh A Phủ đánh A
Sử.Người đọc tưởng đây là nhân vật có máu mặt trong bản làng nhưng không, thân phận của A
Phủ chẳng khác Mị là mấy.
+ A Phủ cũng như Mị, họ đều là những người dân nghèo, bị gia đình thống lí Pá Tra áp bức, bóc
lột và trở thành con nợ nô lệ. Song họ đều có tình yêu và khát vọng giải phóng.
+ A Phủ khác Mị. Nếu Mị là người con gái thùy mị nết na thì A Phủ là một chàng trai mạnh mẽ.
Thời thơ ấu Mị còn có cha, có mẹ, có gia đình để được yêu thương, đùm bọc thì A Phủ khi mưới
tuổi đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ trong một trận dịch khủng khiếp. A Phủ trở thành đưá trẻ bơ
vơ bị người làng bán đổi lấy thóc dưới vùng thấp. A Phủ không chịu đã trốn lên vùng cao làm
thuê, làm mướn kiếm sống và lưu lạc đến Hồng Ngài. -
Lớn lên giữa rừng núi hoang dã, A Phủ trở thành chàng trai H mông khỏe mạnh “ chạy
nhanhnhư ngựa” mọi công việc cứ làmphăng phăng”. -
Vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ rất hồn nhiêm, yêu đời, yêu cuộc sống thanh
bình,chính nghĩa. Ngày Tết dù chẳng có quần áo đẹp như nhiều chàng trai khác, trên cổ vẫn lằn
một chiếc vòng vía đeo từ nhỏ nhưng A Phủ vẫn hòa cùng đám bạn thổi kèn thổi sáo cùng bạn
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
tìm người yêu. A Phủ trở thành niềm mơ ước của bao cô gái Mèo. Họ kháo nhau “ Đứa nào có
được A Phủ cũng như có trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Nhưng với tập tục khắc
nghiệt của xã hội phong kiến miền núi thì A Phủ mãi chỉ là người làm thuê, không nhà, không
bạc, không ruộng, tứ cố vô thân mà thôi, làm sao lấy được vợ.
Luận điểm 2. Tính cách A Phủ. -
Ngay từ nhỏ A Phủ đã có cá tình rất đặc biệt: gan góc, có ý thức phản kháng mỗi khi
khôngchịu nổi điều gì.
+ Mười tuổi, A Phủ bị người làng bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. APhủ gan
bướng không chịu ở dưới vùng thấp, trốn về vùng cao tự kiếm sống.
+ A Sử phá đám chơi của A Phủ và bạn bè, A Phủ đánh. Tác giả miêu tả “ Một người to lớn chạy
vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt A Phủ...
A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp.
Với những hành động nhanh, mạnh, dứt khoát, táo bạo của A Phủ, A Sử đã bị thương nặng, mặc
dù A Phủ biết đó là con quan- “ con trời”, không ai dám động tới, nhưng A Phủ vẫn đánh vì nó
là đứa phá đám cuộc chơi, cần phải đánh, thế thôi. Thật đơn giản nhưng đó là ý thức phản kháng
chống lại thói cậy quyền thế phá phách. -
A Phủ đã phải trả giá đắt, bị bắt, trói, đánh đập rất dã man trong cuộc xử kiện tại nhà thống
lí.Nhưng A Phủ tỏ ra rất gan lì.
+ Bị đánh đập, chửi bới, A Phủ chỉ quỳ chịu trận trong làn mưa roi và làn khói thuốc phiện,
không được nói, không được thanh minh.
+ Suốt chiều suốt đêm quỳ chịu đòn nhưng vẫn im như tượng đá.
+ Cảnh xử kiện kết thúc và phải chịu làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lí Pá Tra để trả nợ, A Phủ
vẫn lẫm lũi chấp nhận. -
A Phủ lại như Mị, ngày ngày làm việc cực nhọc; cày ruộng, săn bò tót, bẫy hổ, chăn
ngựa,một mình cô độc rong ruổi ngoài bãi cỏ, nương rừng. -
Bị đày đọa triền miên khiến cho cá tính gan góc và tinh thần phản kháng của A Phủ như
consóng ngầm ngày càng mạnh mẽ.
+ A Phủ dám cãi lại thống lí cho mình đi bắt con hổ đền vào con bò bị mất.
+ Bị thống lí trói đứng vào cột, A Phủ không kêu van, không cần cứu. Đêm xuống, cúi nhay đứt
hai vòng dây trói. Được Mị cứu, A Phủ quật sức vùng lên chạy thoát. Đó chính là ý thức làm
người, tinh thần phản kháng dù tự phát nhưng nó là cơ sở tốt để sau này A Phủ làm du kích. -
Nếu Mị được nhà văn xây dựng theo kiểu nhân vật tâm trạng đầy nữ tính thì A Phủ được
xâydựng theo kiểu nhân vật hành động đầy nam tính, khát vọng tự do, công bằng được biểu hiện
ở A Phủ âm thầm mà mãnh liệt, hồn nhiên, đơn giản mà dữ dội khôn lường. Tính cách A phủ
mang phẩm chất tiêu biểu của người đàn ông Hmông.
Luận điểm 3. Sự thống nhất hai tính cách trong con người A Phủ: Phản kháng và cam chịu.
A Phủ có tính cách tự do, ngang bướng luôn phản kháng mỗi khi không chịu nổi. -
Sau khi bị đánh đạp, xử tội phải ở nợ cho nhà thống lí, A Phủ vẫn tự cầm dao lê bước
chântập tễnh của mình đi giết lợn phục dịch chính những kẻ đã hành hạ, đánh đập mình, biến mình thành con nợ. -
Khi để hổ vồ mất một con bò, A phủ cãi lại thống lí Pá Tra nhưng vẫn tự trói mình vào
cột,phải vác cọc, đóng cọc, mang dây mây đến để cho tên ác bá trói mình vào đó.
Những chi tiết ấy có gì mâu thuẫn với tính cách của một con người vốn mãnh liệt can trường.
Nhà văn Tô Hoài quả là một tay bút già dặn, ông đã nhìn rõ hai mặt đối lập ấy trong một con
người: mâu thuẫn mà thống nhất. Một con người cường tráng, bất khuất và một con người thân
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
phận tôi đòi đều có trong A phủ. A Phủ đánh con quan vì không chịu điều vô lí, A Phủ phải giết
lợn cho kẻ áp bức mình ăn, phải đóng cọ lấy dây trói cho chính mình vì thân cô thế cô không
thể nào khác được. A Phủ không tự mình bỏ trốn khi chỉ có một mình rong ruổi cùng đàn trâu
ngựa ngoài nương, gò bãi vì cam phận. Cũng như Mị, sau khi bố chết, Mị có thể ăn lá ngón để
giải thoát nhưng “ ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Vì ai trong cái nhà này sống trên đất
Hồng Ngài này cũng thế cả thôi. Đó là sự cam chịu, cam phận của người nông dân trên các vùng
núi cao khi ánh sáng của Đảng chưa đến với họ. Họ chưa được giác ngộ, chưa có những người
cùng khổ kết lại thành sức mạnh chống lại cường quyền. Vì thế có ý kiến cho rằng: A Phủ là
nhân vật được xây dựng trên bước “ tìm đường, nhận đường” để sau này sang Phiềng Sa gặp A
Châu, trở thành du kích về giải phóng quê hương.
KB. Qua cuộc đời và số phận của A Phủ, Tô Hoài đã tố cáo tội ác dẫmn của giai cấp thống trị ở
miền núi, tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra đã đẩy con người hiền lành, chất phác vào tình
trạng thảm hại, bị cướp đoạt sức lao động, quyền làm người, trở thành nô lệ. Viết về họ nhà văn
luôn thể hiện lòng thương cảm với những đau khổ bất hạnh của họ. Ông đồng tình với sự phản
kháng và mở ra cho họ một lối thoát. Đề 4:
Bàn về kết thúc đoạn trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (SGK Ngữ văn 12, tập 2), có ý kiến
cho rằng: hành động cắt nút dây mây cởi trói cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ của nhân vật Mị
thật bất ngờ, đột ngột, không thể dự đoán trước
; lại có người khẳng định: Đó là một kết thúc tự nhiên, tất yếu.
Bằng hiểu biết về tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, anh chị hãy bình luận các ý kiến trên. -
Triển khai theo các bước sau: MB: Giới thiệu vấn đề (trích ý kiến) TB.
1.Giải thích ý kiến -
Ý kiến thứ nhất: hành động cắt nút dây mây cởi trói cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ của
nhân vật Mị thật bất ngờ, đột ngột, không thể dự đoán trước: Đánh giá kết thúc của truyện Vợ
chồng A Phủ là bất ngờ với mạch truyện, tâm trạng nhân vật Mị và cả người đọc. -
Ý kiến thứ hai: Đó là là một kết thúc tự nhiên, tất yếu: ý kiến này nhìn nhận, đánh giá kết
thúc của tác phẩm trong mối quan hệ với lô gíc diễn biến tâm trạng nhân vật Mị và mạch vận
động tất yếu của đời sống con người: khi bị dồn đẩy đến bước đường cùng, con người sẽ vùng
lên tìm ánh sáng cho mình. 2. Phân tích, chứng minh: -
Hành động cắt nút dây mây cởi trói cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ của nhân vật Mị thật
bất ngờ, đột ngột, không thể dự đoán trước: trong tác phẩm, Mị và A Phủ cùng là nô lệ trong
nhà thống lí Pá Tra, song họ không có quan hệ tình cảm gì cụ thể, thậm chí là Mị đã gần như tê
liệt hoàn toàn về ý thức, chỉ còn như con trâu, con ngựa. Trong hoàn cảnh A Phủ bị trói đứng
đến gần chết, Mị vẫn thờ ơ đến mức như vô cảm trước nỗi khổ của A Phủ. Không ai có thể ngờ
rằng, người con dâu bất hạnh và câm lặng ấy lại đột ngột cắt nút dây mây cởi trói cho A Phủ
rồi chạy trốn theo anh. Đây là hành động hoàn toàn không hề có sự chuẩn bị, tính toán từ trước. -
Đó là là một kết thúc tự nhiên, tất yếu: Đặt trong sự phát triển tính cách của hình tượng
Mị thì đây lại là một hành động tự nhiên, tất yếu. Bởi lẽ, Mị là cô gái ham sống, yêu đời, yêu
tự do, khát khao hạnh phúc. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở Mị dù có bị vùi dập đến kiệt cùng
vẫn không lụi tắt. Đêm tình mùa xuân là minh chứng rõ nét cho sức sống ấy. Mặt khác, Mị vốn
là cô gái giàu tình thương, vị tha, biết nghĩ, biết hi sinh cho người khác. Hành động của Mị là
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
kết quả tất yếu của sự bóc lột, đàn áp tàn nhẫn của cha con thống lí nói riêng, tầng lớp phong
kiến miền núi cao Tây Bắc nói chung đối với những người lao động nghèo. Hành động ấy
chứng tỏ sức phản kháng mãnh liệt, khả năng hướng về cách mạng một cách tự nhiên của người dân Tây Bắc.
3. Bình luận, đánh giá chung:
Cả hai ý kiến đều đúng, không đối lập mà bổ sung cho nhau, giúp người đọc hiểu rõ hơn về tài
năng kể chuyện, miêu tả nội tâm nhân vật của nhà văn Tô Hoài. Đồng thời, ta càng trân trọng
hơn tấm lòng yêu thương, đồng cảm của tác giả đối với người dân nơi đây. KB. Khái quát lại vấn đề.
Đề 5: Tiếng sáo được miêu tả nhiêu lần , nhiều cung bậc : lúc thiết tha bổi hổi, lúc văng vẳng,
khi lơ lửng rập rờn… Vậy tiếng sáo có vai trò như thế nào trong việc khắc họa tâm lí nhân vật Mị?
- Tiếng sáo có vai trò đặc biệt trong đời sống văn hoá tinh thần đặc biệt là đời sống tình cảm
của trai gái người Mèo nói chung và của Mị nói riêng.
-Tiếng sáo là chìa khóa mở cửa tâm hồn Mị sau bao nhiêu năm sống kiếp làm dâu gạt nợ. Tô
Hoài đã miêu tả 7 lần trạng thái, cung bậc của tiếng sáo khác nhau. Tiếng sáo lấp ló đầu núi là
tiếng sao ngoại cảnh nhưng rồi tiếng sáo đã trở thành yếu tố nối kết những cảm xúc những khát
khao trong lòng Mị, đưa Mị theo những cuộc chơi , những đám chơi đã trở thành tiếng sáo trong
tâm cảnh. Mị đã tìm được tự do ngoài dây trói, A Sử chỉ có thể trói Mị giữa mùa xuân chứ không
thể trói được mùa xuân trong lòng Mị. Bởi vậy tiếng sáo là chất xúc tác kì diệu nhất để đẩy đưa
khát vọng hạnh phúc, làm bật lên sức sống tiềm tàng trong lòng cô gái trẻ này.
NHỮNG DẪN CHỨNG CẦN GHI NHỚ VỀ NHÂN VẬT MỊ
Luận Dẫn chứng điểm
Mở VCAP được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953. bài
Thân Giới thiệu nhân vật: “Ai ở xa về thường trông thấy một cô gái…lúc nào cô ấy cũng bài
cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Luận - “ Trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”; “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết
điểm núi này đến núi khác”.
2. Mị “ Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô,còn sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố, bố
điển đừng bán con cho nhà giàu
hình - “Mị cầm nắm lá ngón ném xuống đất. Mị không đành lòng chết. Mị chết, bố Mị còn cho số
khổ hơn bây giờ”
phận “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi bất
nương bẻ bắp, dù lúc hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng có sẵn trong tay ...” hạnh
“mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại...”; “con trâu con ngựa làm còn có của
lúc, đêm nó còn được gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm người
cả đêm cả ngày
phụ nữ “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”; “Cái căn buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc
cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không
biết là sương hay là nắng
”; “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
- Đến khi bố Mị chết, Mị “không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa
Luận * Đêm tình mùa xuân. điểm
- Hoàn cảnh nảy sinh tâm trạng:
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337 3: Sức
+ “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mổm đá xòe như con bướm sặc sỡ” sống
+ Âm thanh tiếng sáo: tiềm
“Ngoài đầu núi có tiếng ai thổi sáo” tàng và
“Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của
người mãnh đang thổi”
liệt “Mà tiếng sáo vẫn lửng lơ bay ngoài đường” trong - Diễn biến tâm trạng. tâm
+“lòng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày hồn
trước”; “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ” nhân
+ “Mị muốn đi chơi” vật Mị.
“Mị với A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”; “nếu có nắm lá
ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy
nước mắt ứa ra mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường
”. * Đêm - Hành
động:
lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng; Mị muốn tình đi
chơi. Mị sắp đi chơi”; “Mị với tay lấy cái váy hoa. Cái váy hoa vắt ở phía trong mùa
vách”. xuân. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.
* Đêm - Ban đầu khi thấy A Phủ bị trói.
cởi “thổi lửa, hơ tay, hơ lửa không biết bao nhiêu lần; Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ
trói tay, cho A “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Phủ.
- Diễn biến tâm trạng.
+“Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ” +
Năm xưa Mị đã từng bị A Sử trói: “nhiều lần nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ
không biết lau đi được”
; người đàn bà ngày trước “cũng bị bắt trói đến chết ở cái nhà này
Chúng nó thật độc ác”.; “chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét,
phải chết”; “Ta là thân đàn bà nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây thôi. Người kia việc gì phải chết thế...A Phủ
”.
+ “Đám than đã vạc dần hẳn lửa”; “Mị sẽ phải chết trên cái cọc ấy. Mị cũng không
thấy sợ”; Mị rút con dao nhỏ cắt lúa cắt đứt dây mây” cởi trói cho A Phủ. NHÂN VẬT A PHỦ.
- Ngay từ nhỏ A Phủ đã mô côi cha mẹ, có cá tình rất đặc biệt: gan góc
+ Mười tuổi, A Phủ bị người làng bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. APhủ gan
bướng không chịu ở dưới vùng thấp, trốn về vùng cao tự kiếm sống.
+ A Sử phá đám chơi của A Phủ và bạn bè, A Phủ đánh A Sử “Một người to lớn chạy vụt ra vung
tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt A Phủ... A Phủ đã
xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp
.
- A Phủ đã phải trả giá đắt, bị bắt, trói, đánh đập rất dã man trong cuộc xử kiện tại nhà thống
lí.Nhưng A Phủ tỏ ra rất gan lì.
+ Bị đánh đập, chửi bới, A Phủ chỉ quỳ chịu trận trong làn mưa roi và làn khói thuốc phiện,
không được nói, không được thanh minh.
+ Suốt chiều suốt đêm quỳ chịu đòn nhưng vẫn im như tượng đá.
+ Cảnh xử kiện kết thúc và phải chịu làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lí Pá Tra để trả nợ, A Phủ
vẫn lẫm lũi chấp nhận.
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47882337
- A Phủ ngày ngày làm việc cực nhọc; cày ruộng, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa, một mình côđộc
rong ruổi ngoài bãi cỏ, nương rừng.
+ A Phủ xin thống lí cho mình đi bắt con hổ đền vào con bò bị mất.
+ Bị thống lí trói đứng vào cột, A Phủ không kêu van, không cần cứu. Đêm xuống, cúi nhay đứt hai vòng dây trói.
+ “Một sòng nước mắt lấ lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ”. Được Mị cứu,
A Phủ quật sức vùng lên chạy thoát.
Downloaded by June Lee (lenhungkttm@gmail.com)