



















Preview text:
Vợ nhặt Kim Lân I. Giới thiệu chung 1.Tác giả
- Kim Lân là một trong những nhà văn
xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Mặc dù số lượng tác phẩm không nhiều
nhưng giá trị lại rất lớn. Sáng tác của
ông theo xu hướng "quý hồ tinh bất quý
hồ đa". Chỉ với ba tác phẩm: Làng, Vợ
nhặt, Con chó xấu xí, Kim Lân vinh dự
ngồi vào hàng chiếu trên của các nhà văn xuất sắc.
- Đặc điểm phong cách nghệ thuật
+ Chuyên viết về truyện ngắn
+ Thường viết về nông thôn và người dân
quê. Kim Lân có những trang viết đặc sắc
về phong tục tập quán, thú chơi tao nhã của
đồng quê, đặc biệt ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ. Ông có những trang viết xúc động về
người dân quê: thật thà, chất phác nhưng
thông minh, hóm hỉnh, tài hoa; nghèo khổ
nhưng lạc quan yêu đời; đặc biệt là lòng
yêu nước và tinh thần cách mạng.
-> Nhà văn Nguyên Hồng từng nhận xét:
Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với với
đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy.
+ Tài năng trong phân tích tâm lí nhân vật 2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh ra đời
Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành
công, Kim Lân viết tiểu thuyết "Xóm ngụ
cư", nhưng sau đó dang dở và thất lạc bản
thảo. Sau khi hòa bình lập lại vào năm
1954, nhà văn dựa vào cốt truyện cũ để
viết lại thành truyện ngắn "Vợ nhặt"
- Xuất xứ: được in trong tập "Con chó xấu xí".
- Nội dung: lấy bối cảnh hiện thực nạn đói
kinh hoàng năm 1945. Truyện thông qua
tình huống nhặt vợ, và các nhân vật Tràng,
bà cụ Tứ, người vợ nhặt, đã phơi bày cuộc
sống đói khát, tăm tối, thê thảm, chết chóc,
con người bị dồn đẩy đến bờ tử huyệt.
-> Qua đó, Kim Lân ca ngợi vẻ đẹp tâm
hồn, phẩm chất con người: nhân hậu, giàu
tình yêu thương; có khát vọng sống, khát
vọng hạnh phúc mãnh liệt; có niềm tin
tưởng lạc quan vào tương lai; có khả năng cách mạng.
=> Tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. II. Đọc hiểu 1.Tình huống truyện
*Nhà văn đã sáng tạo nên tình huống
truyện độc đáo, éo le, bi hài lẫn lộn. Đó là
tình huống nhặt vợ. Anh cu Tràng vốn dĩ
là một người nghèo, dân ngụ cư, xấu trai,
dở hơi, ế vợ. .lại nhặt được vợ quá đơn
giản, dễ dàng, chóng vánh chỉ qua hai lần
gặp gỡ, mấy câu nói đùa và 4 bát bánh đúc
trong bối cảnh nạn đói kinh hoàng.
* Tái hiện tình huống - Bối cảnh nạn đói.
+ Không gian: xóm ngụ cư - lòng chảo,
cái rốn của nạn đói. Nơi đây, dòng người
từ Nam Định, Thái Bình lũ lượt bồng bế,
dắt díu nhau về nằm ngổn ngang khắp lều
chợ. Hai bên dãy phố úp súp không nhà
nào có ánh đèn ánh lửa. .
-> Khung cảnh u ám, tối tăm vì đói khát
+ Hình ảnh con người trong nạn đói
. Người chết như ngả rạ. Sáng nào đi làm
đồng cũng gặp ba bốn cái thây nằm còng queo
-> thần chết gõ cửa từng nhà, rượt đuổi họ,
dồn đẩy con người xuống tử huyệt.
. Người sống: xanh xám như những bóng
ma, bóng người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. .
-> Sống không khác gì đã chết
+ Mùi tử khí, mùi gây xác người
+ Âm thanh: quạ kêu gào thê thiết, tiếng
khóc hờ từ những gia đình có người chết
=> tử khí bao trùm, sinh khí cạn kiệt, cõi
dương mà như cõi âm, xóm làng đã trở thành nghĩa địa.
- Tình huống nhặt vợ: trong bối cảnh thê
thảm, tăm tối của nạn đói, anh cu Tràng
đã nhặt được vợ thật dễ dàng, đơn giản
qua hai lần gặp gỡ, mấy câu nói đùa và bốn bát bánh đúc:
+ Lần 1: khi hắn đang gò lưng kéo xe bò
thóc lên dốc tỉnh thì gặp mấy ả con gái
ngồi vêu ra. Hắn hò một câu cho đỡ nhọc:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì
-> hắn chẳng có ý chòng ghẹo cô nào.
Nhưng mấy cô gái cứ đẩy người vợ nhặt ra.
Thị cong cớn, ton ton chạy lại đẩy xe cho
Tràng và liếc mắt cười tít. Tràng thích chí
lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ tới giờ chưa
có ai cười với hắn tình tứ như thế.
+ Lần 2: vừa trả hàng xong, Tràng ngồi
uống nước ngoài cổng chợ. Thị (người vợ
nhặt) sầm sập chạy đến, đứng trước mặt
hắn sưng sỉa trách móc và gợi ý để được ăn.
Sau 4 bốn bánh đúc, cùng một câu nói đùa,
người vợ nhặt theo không Tràng về.
*Tình huống độc đáo, éo le, bi hài lẫn lộn bởi:
- Chuyện dựng vợ gả chồng là điều hệ
trọng trong đời con người, song ở đây lại
diễn ra quá sơ sài, chóng vánh.
- Một người như Tràng mà lại lấy được vợ
một cách dễ dàng như nhặt món đồ.
- Trong nạn đói, không ai sẽ nghĩ mình có
thể sống sót, không nghĩ đến chuyện dựng
vợ gả chồng. Thế nhưng, bất chấp tất cả, Tràng đã dám lấy vợ.
*Chính tình huống này đã làm xáo trộn
tâm lí mọi người, khiến các nhân vật vui buồn lẫn lộn: + Dân xóm ngụ cư:
.Ban đầu thấy Tràng dắt người vợ nhặt về, họ ngạc nhiên.
. Hình như họ hiểu đôi phần, và họ mừng
cho hạnh phúc của Tràng: những khuôn
mặt hốc hác, u tối bỗng rạng rỡ hẳn lên.
. Sau đó, họ thở dài, than thở, lo lắng cho
tương lai của Tràng vì có nuôi nổi nhau sống qua thì đói khát. + Bà cụ Tứ:
. Ngạc nhiên, không hiểu.
. Khi hiểu sự việc, bà xót xa, buồn tủi; cố
nén nỗi buồn để mừng cho con; rồi bà lại lo lắng. + Tràng: . Lo lắng . Vui sướng, hạnh phúc.
*Ý nghĩa tình huống truyện
- Phơi bày thực trạng nạn đói và cảnh ngộ
bi thảm của con người, cũng như tội ác của
thực dân Pháp và phát xít Nhật.
- Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của người
dân lao động: nhân hậu, giàu tình yêu
thương; có khát vọng sống, khát vọng hạnh
phúc mãnh liệt; có niềm tin tưởng lạc quan
vào tương lai; có khả năng cách mạng.
- Tập trung thể hiện tư tưởng chủ đề của
tác phẩm: giá trị hiện thực và nhân đạo. 2. Nhân vật Tràng
Tràng là nhân vật chính tập trung thể
hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Có ý
kiến cho rằng: tác phẩm chân chính là sự
tôn vinh con người qua những hình thức
nghệ thuật độc đáo. "Vợ nhặt" của Kim
Lân là một sáng tác như thế. Thông qua
tình huống nhặt vợ, qua nhân vật Tràng,
nhà văn vừa phản ánh số phận bi thảm
vừa ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn
của người dân lao động trong hoàn cảnh
khốn cùng của nạn đói.
a. Hoàn cảnh, số phận: bất hạnh, khốn khổ.
- Nghèo hèn: dân ngụ cư, làm nghề bấp
bênh là kéo xe bò thuê, sống cảnh mẹ góa
con côi, ở trong ngôi nhà rúm ró. .
- Ngoại hình xấu, thô kệch: quai hàm bạnh
ra, hai con mắt ti hí, khuôn mặt nhìn dữ tợn. .
- Dở hơi: có tật vừa đi vừa đi nhảm một mình - Ế vợ
=> Số phận bất hạnh của Tràng lại đặt
trong bối cảnh nạn đói nên càng thê thảm,
tội nghiệp. Cái đói, sự chết chóc cũng đang bám riết lấy Tràng.
b. Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất
- Nhà văn Kim Lân, khi nói về các nhân
vật trong truyện ngắn "Vợ nhặt", từng
phát biểu: Trong hoàn cảnh khốn cùng,
dù cận kề bên cái chết nhưng những con
người ấy không nghĩ đến cái chết mà
hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng
vào tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.
-> Tràng là một nhân vật có vẻ đẹp như
vậy mà tác giả ngợi ca.
- Bằng ngòi bút tài hoa và tình cảm nhân
đạo của mình, Kim Lân đã đặt nhân vật
vào tình huống truyện độc đáo, éo le, đi
sâu vào nội tâm nhân vật để miêu tả tâm
lí. Từ đó, nhà văn tập trung họa, tô đậm
vẻ đẹp phẩm chất đáng trân trọng của
Tràng: nhân hậu, giàu tình yêu thương
và lòng trắc ẩn; có khát vọng sống, khát
vọng hạnh phúc mãnh liệt, có niềm tin
tưởng lạc quan vào tương lai. Đồng thời,
qua đó, Kim Lân cũng dự báo khả năng
cách mạng của Tràng.
b1. Tràng là người nhân hậu, giàu tình
yêu thương; có khát vọng sống, khát vọng
hạnh phúc mãnh liệt; có niềm tin tưởng
lạc quan vào tương lai
*Vẻ đẹp phẩm chất đó trước hết được thể
hiện ở tình huống Tràng nhặt vợ
- Lần 1 khi Tràng kéo xe bò đến dốc tỉnh,
hò một câu cho đỡ mệt, người vợ nhặt ton
ton chạy lại đẩy xe cho Tràng và liếc mắt
cười tít. Tràng thích chí lắm bởi từ khi cha
sinh mẹ đẻ tới giờ, chưa có người con gái
nào cười với hắn tình tứ như thê.
-> Lúc này rất vui và sung sướng. Niềm
vui đó cho thấy trong sâu thẳm trái tim
của chàng trai khốn khổ, bất hạnh ấy vẫn
ẩn chứa khát khao hạnh phúc và tình yêu
đôi lứa, mặc dù trước mắt là cảnh đói
khát tăm tối hoành hành. - Lần 2:
+ Lúc này Tràng vừa trả hàng xong đang
ngồi uống nước ở cổng chợ thì người vợ
nhặt sầm sập chạy đến, sưng sỉa đứng
trước mắt trách móc, sau đó gợi ý để được
ăn. Trước bộ dạng nhếch nhác, thảm hại
của thị: áo quần rách như tổ đỉa, thị gầy
sọp, khuôn mặt xám xịt chỉ còn hai con
mắt; trước cái đói khát của thị, Tràng đã
hào phóng mời thị ăn. Hắn vỗ vào túi "rích
bố cu", rồi bảo "muốn ăn gì thì ăn"
-> Thực ra Tràng không có nhiều tiền,
ngược lại hắn rất nghèo, lại ở trong bối
cảnh nạn đói. Thế nhưng, thấy cảnh ngộ
thê thảm của người vợ nhặt, Tràng đã mở
lòng để chia sẻ miếng ăn. Sự hào phóng đó
xuất phát từ tấm lòng nhân hậu, vị tha. Anh
cu Tràng thô kệch, dở hơi, nghèo hèn lại là
chàng trai giàu tình yêu thương. Đó cũng là
vẻ đẹp của tình người trong nạn đói.
+ Sau khi vợ nhặt ăn xong 4 bát bánh đúc,
Tràng đùa: "nói đùa có về với tớ thì ra
khuân hàng lên xe rồi cùng về". Tràng
chỉ nói đùa, ai ngờ thị về thật. Trong tình
huống này, Tràng đã có những phản ứng,
diễn biến tâm lí khác nhau:
. Mới đầu hắn chợn, nghĩ: "thóc gạo này
đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi
nổi không, lại còn đèo bòng".
-> Đây chính là nỗi lo lắng, sợ hãi bởi đói
khát, chết chóc đang bủa vây.
. Tuy nhiên, sau đó, hắn tặc lưỡi "chậc kệ".
. Đây là hành động chấp nhận một cách
liều lĩnh của một chàng trai vốn đơn giản,
ít suy nghĩ bị đặt vào tình thế quá bất ngờ.
. Song, đằng sau cái "tậc lưỡi chậc kệ" ấy
cho thấy khát khao hạnh phúc gia đình, tình yêu đôi lứa.
. Đồng thời, cái chậc kệ đó còn thể hiện
tấm lòng nhân hậu, độ lượng của Tràng khi
sẵn sàng cưu mang, cứu vớt một người phụ
nữ bất hạnh, khốn khổ. Trong hoàn cảnh
nạn đói hoành hành, khi mà thần chết đang
đến gõ cửa từng nhà , việc nhường cơm sẻ
áo cho người khác đồng nghĩa với việc đẩy
mình nhanh hơn với cái chết. Thế nhưng,
Tràng đã không ngần ngại đưa bàn tay của
mình ra để chấp nhận người con gái xa lạ về làm vợ mình.
+ Sau khi "nhặt vợ" một cách chóng vánh,
đơn giản, Tràng đưa thị ra chợ tỉnh, mua
một cái thúng, ra hàng đánh một bữa no nê rồi cùng về
-> Những hành động tưởng chừng đơn
giản, bình thường đó, đặt trong hoàn cảnh
trớ trên này lại vô cùng có ý nghĩa. Nó thể
hiện thái độ trân trọng của Tràng đối vợ
nhặt hay chính là đối với hạnh phúc mình đang có.
*Tâm trạng trên đường về nhà
- Nhà văn đã đặt cuộc rước dâu đặc biệt
này vào phông nền thê thảm, tối tăm vì đói
khát. Hai vợ chồng lủi thủi đi về bến thật
đáng thương, tội nghiệp. Bủa vây xung
quanh Tràng và vợ nhặt là cảnh hai dãy
phố úp súp không ánh đèn ánh lửa, là mùi
tử khí, xác người, tiếng gạo quạ kêu gào. .
- Nhưng đối lập với khung cảnh chết
chóc, đói khát tang thương ấy lại là niềm
vui sướng tràn ngập trong lòng Tràng.
Lúc này, mơ ước của hắn về hạnh phúc gia
đình, khát khao về tình yêu đôi lứa đã
thành hiện thực. Hắn đã có vợ, người vợ
nhặt đang đi bên cạnh cuộc đời của hắn. Vì
thế, giờ đây, quên đi thực tại tăm tối trước
mắt, Tràng sống trong niềm hạnh phúc hân hoan.
- Nhà văn đã đi vào miêu tả ngoại hình,
dùng thủ pháp tâm lí hóa ngoại hình
nhân vật, từ đó khắc họa niềm vui sướng,
hạnh phúc tràn ngập, không thể kìm nén
được nơi tâm hồn của một chàng trai
đang sống trong tình cảm đôi lứa, vợ chồng
+ Kim Lân tập trung miêu tả khuôn mặt
của Tràng: có vẻ phớn phở khác thường,
hắn tủm tỉm cười một mình, hai mắt sáng lên lấp lánh.
. Gương mặt phớn phở diễn tả niềm sung
sướng, hồ hởi, hân hoan, rạo rực trong lòng.
Tình cảm này không thể kìm nén và giấu
được, nó hiện hữu rõ trên khuôn mặt.
(Nếu mấy buổi chiều trước đây, gương mặt
của Tràng mệt mỏi, đăm chiêu, lo lắng vì
đói khát, chết chóc. Song chiều hôm nay,
khi cùng vợ nhặt trở về Tràng đã khác hẳn.
Chỉ còn niềm hạnh phúc trong tình yêu đôi
lứa cất cánh và thăng hoa)
. Tủm tỉm cười một mình -> đong đầy
niềm vui, sự mãn nguyện (nó đối lập với
cái nín lặng, sự âu lo của dân xóm ngụ cư,
đối lập với bối cảnh nạn đói)
. Đôi mắt vốn dĩ nhỏ ti hí, đôi mắt của nỗi
lo âu giờ phút này sáng lên lấp lánh. Từ
lấp lánh cho thấy ánh mắt rạng rỡ, đang
ngời lên niềm hạnh phúc trong cảm xúc của tình yêu đôi lứa.
-> Như vậy, qua đây, ta thấy Tràng là
người có khát vọng hạnh phúc gia đình,
tình yêu đôi lứa vô cùng mãnh liệt mà đói
khát, chết chóc không thể dập tắt, ngăn cản được.
+ Khi thấy lũ trẻ con chạy ra đón, sợ
chúng đùa như ngày trước, Tràng vội
vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng
-> Tình huống nhặt vợ ban đầu vốn là câu
chuyện bông đùa. Nhưng kể từ đây, nó trở
thành điều thiêng liêng, nghiêm túc. Điều
đó chứng tỏ Tràng trân trọng hạnh phúc
mình đang có, trân trọng người vợ nhặt.
+ Khi cả xóm ngụ cư nhìn dồn cả về phía
vợ nhặt, Tràng thích ý, cái mặt vênh lên tự đắc
-> Đối với người phụ nữ có bộ dạng nhếch
nhác, thảm hại, lại theo không mình về
nhưng Tràng không hề xấu hổ, coi thường.
Ngược lại Tràng vô cùng thích chí, tự hào, sung sướng.
=> Trên đường về quên đi cảnh đói khát,
chết chóc trước mặt, trong lòng Tràng chỉ
còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên, chỉ
còn hạnh phúc ngập tràn. *Khi về đến nhà
- Tràng xăm xăm bước vào nhà, nhấc tấm
phên rách, thu dọn niêu bát xống áo, vỗ
xuống giường, đon đả, cười cười. .
-> Thái độ đón tiếp người vợ nhặt rất hồ
hởi, nồng nhiệt, hạnh phúc.
- Sau đó, cả hai cùng ngượng nghịu.
Tràng đứng tây ngây, chợt thấy sờ sợ,
hắn lấm lét bước ra sân , gắt lên chờ mẹ
-> phản ứng tâm lí tất yếu của hai con
người đang hoàn toàn xa lạ với nhau bị đặt
vào tình huống bất ngờ. Đặc biệt Tràng sợ.
Nỗi sợ có thể xuất phát từ nhiều nguyên
nhân: sợ nạn đói, hay sợ người vợ nhặt thất
vọng, hoặc là sợ mẹ không đồng ý. .
+ Nhìn người vợ nhặt ngồi ngay giữa nhà,
hắn tủm tỉm cười một mình, và ngờ ngợ
như không phải thế. Rồi Tràng tự hỏi: hắn
đã có vợ rồi đấy ư? Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ
-> Tràng rất vui sướng, ngạc nhiên bởi tình
huống nhặt vợ diễn ra quá nhanh, hạnh
phúc đến quá bất ngờ, quá lớn khiến hắn
chưa dám tin đó là sự thật.
+ Khi mẹ về, Tràng reo như một đứa trẻ,
lật đật chạy ra đón, rồi dùng lời lẽ đầy trân
trọng, hạnh phúc để giới thiệu vợ nhặt.
-> Trong những câu nói đó thể hiện sự trân
trọng, niềm vui, và hi vọng mẹ sẽ đồng ý.
=> Như thế là, bất chấp đói khát, chết chóc
đang bám riết, đeo đẳng, thì Tràng vẫn
luôn khao khát hạnh phúc gia đình, tình yêu đôi lứa.