






Preview text:
I. Mở bài:
Tô Hoài đã từng tâm sự: “Đất nước và con người miền Tây đã để thương
để nhớ cho tôi nhiều quá”. Tình yêu tha thiết với miền Tây, đã chắp bút cho Tô
Hoài sáng tác “Vợ chồng A phủ”, để đồng cảm , xót thương và trân trọng, ngợi ca
những con người TB “trung thực, chí tình”. Linh hồn của tác phẩm hội tụ trong
hình tượng nhân vật Mị - bông hoa của núi rừng TB với sức sống tiềm tàng, mãnh
liệt. Đoạn trích sau đã thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt KV sống của Mị trong đêm
đông khi Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ: (trích đoạn trích). Qua đó, chúng ta thấy
được sự tài hoa của TH trong nghệ thuật miêu tả tâm lý NV: II. Thân bài
1. Giới thiêu chung về tác giả, tác phẩm a. Tác giả
Tô Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Ông có vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc, đặc biệt là những nét lạ trong
phong tục, tập quán ở nhiều vùng khác nhau của đất nước và trên thế giới. Đây là
một thế mạnh khiến ông được mệnh danh là nhà văn của đề tài Hà Nội, đề tài miền núi…
Ông là nhà văn hấp dẫn người đọc ở lối trần thuật hóm hỉnh, cách miêu tả giàu
chất tạo hình, ngôn ngữ phong phú, đậm tính khẩu ngữ. b. tác phẩm
- XX: Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện được rút trong tập Truyện Tây Bắc – tp
đạt giải Nhất, giải thưởng của Hội văn học VN giai đoạn 1954-1955.
- Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1952, Tô Hoài đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc.
Trong chuyến đi dài tám tháng, nhà văn đã sống với đồng bào các dân tộc Mông,
Dao, Thái, Mường. Chuyến đi này đã để lại cho nhà văn những kỉ niệm, tình cảm
thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc : “Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng
cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi”. “VCAP” là
món nợ lòng TH gửi tặng TB yêu thương.
- Tác phẩm phản ánh bức tranh bi thảm của người dân ngheo miền núi dưới ách áp bức,
bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, ve đep, về sức sống
mãnh liệt của người lao động. -> Nội dung chủ đạo này được kết tinh qua hình tượng nhân vật chính là Mị.
- Đoạn trích nằm ở cuối tp. Đây là đoạn đặc sắc và hay nhất của câu chuyện, thể hiện sự trỗi
dậy mãnh liệt của KV sống trong Mị. Mị cởi trói cho A Phủ, cũng là cởi trói cho chính
mình khỏi những đọa đày đau khổ của kiếp làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. 2. Phân tích.
a. Giới thiệu sơ lược về Mị và A Phủ.
- Mị là cô gái xinh đep, tài hoa, hiếu thảo. Vì món nợ truyền kiếp, Mị đã bị bắt làm con
dâu gạt nợ, thực chất là nô lệ nhà thống lí.
- A Phủ là một chàng trai mồ côi, lớn lên giữa núi rừng Tây Bắc, tuy cuộc sống
ngheo khổ, lam lũ nhưng vô tư, yêu đời, yêu lẽ phải. Vì bất bình, đánh A Sử mà bị
phạt vạ, trở thành ke ở trừ nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Do đánh mất bò vì mải mê
bẫy nhím mà A Phủ bị phạt trói đứng giữa những ngày đông lạnh giá, và đang có
nguy cơ sẽ chết đói, chết khát.
→ Giữa Mị và A Phủ có nhiều điểm tương đồng. Họ đều là những con người giàu
nghị lực, khát khao tự do; đều là nạn nhân của cường quyền và thần quyền; đều
phải chịu những đọa đày khổ ải về tinh thần và thể xác. Sự đồng cảm, từ thương
mình chuyển sang thương người đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ.
b. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của Mị…
* Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ.
- Sau cuộc nổi loạn trong đêm tình mùa xuân, Mị trở về với cuộc sống đọa đày khổ
cực, có phần khắc nghiệt hơn trước.
- Thời gian đọa đày khiến Mị vốn lặng câm lại càng lặng câm hơn trước. Mị vô
cảm trước cuộc đời, cứ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
- Những đêm đầu khi A Phủ bị phạt trói đứng, Mị ra thổi lửa hơ tay, tâm hồn Mị
như tê dại trước mọi chuyện. Bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản
nhiên ra sưởi lửa như đêm trước.
- Trong lòng, Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn.
- Lúc đầu khi nhìn thấy A Phủ bị trói, M vẫn thản nhiên hơ lửa vì phải chăng đây là
cảnh quá quen thuộc, diễn ra hàng ngày trong nhà thống lý và Mị cũng chỉ là một
nạn nhân bất lực mà thôi. Hơn nữa Mị vẫn đang chìm trong trạng thái sống gần
như vô cảm: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy,
sưởi lửa, chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa”.
Nhưng một đêm, Mị k ngủ được, Mị trở dậy thổi lửa. Sau khi thức tỉnh, Mị cảm
thấy cô đơn, Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. M vẫn cảm thấy cái
lạnh về thể xác, nhưng đêm nay dường như Mị còn cảm thấy cái lạnh, cái cô đơn,
trống trải của tâm hồn. Phải chăng M hơ lửa để sưởi ấm cho trái tim mình? Sưởi
lửa là chi tiết có ý nghĩa biểu tượng, hé lộ tinh thần phản kháng trong Mị.
* Thương người cùng cảnh ngộ.
“ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa
mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại ”. Chính
dòng nước mắt ấy của A Phủ, dòng nước mắt tuyệt vọng, đau đớn của người trai
Mông gan góc, quả cảm đã đánh thức đời sống ý thức và tình cảm ở Mị. Mị bừng
tỉnh, thoát khỏi tình trạng vô cảm, mà dấu hiệu đầu tiên của sự thức tỉnh ấy cũng
lại là sự hồi tưởng. Kí ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng
vào cột “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi
được”. Mị ý thức một lần nữa về KG sống trong nhà thống lý – cái địa ngục trần
gian, mà bao người đã bị tra tấn đến chết: “Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này
chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết ”. Câu văn
ngắn gọn, đanh thép vang lên như một tiếng thét căm thù trỗi dậy trong lòng Mị.
Trong lòng M trào dâng sự xót thương người đồng cảnh ngộ và căm thù cái ác.
- Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho
A Phủ không đáng phải chết. Trông người Mị ngẫm đến mình, từ thương người
chuyển sang thương mình. Và tình thương và sự đồng cảm với người cùng cảnh
ngộ đã chiến thắng mọi sự sợ hãi. Từ tình cảm và ý nghĩ ấy, ắt dẫn tới hành động
quyết định của Mị: cắt dây trói cứu A Phủ. Đây là hành động có ý nghĩa biểu
tượng. Mị đã cắt cái vòng dây trói vật chất là sợi mây cuốn quanh A Phủ, đồng thời
cũng cắt đứt luôn vòng dây trói của thần quyền, của những tập tục lạc hậu, của sự
sợ hãi vẫn trói M vào nhà Pá Tra. Khi ấy Mị cũng đã cắt sợi dây trói buộc đời mình
với nhà thống lý. Đây là hành động quyết liệt, táo bạo và vẫn mang đậm chất nữ tính.
- Giả định: A Phủ trốn, Mị bị trói đứng vào thế chỗ, phải chết trên cái cọc ấy Mị
cũng không sợ. Lòng thương A Phủ còn lớn hơn nỗi thương mình và vượt lên trên
nỗi sợ hãi. Lòng vị tha đã chiến thắng vị kỉ.
→ Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ.
* Từ cứu người đến cứu mình.
- Sau khi cứu A Phủ, Mị đứng lặng → nội tâm giằng xé giữa một bên là ý thức về
thân phận, một bên là khát vọng sống, khát vọng giải thoát.
- Khi nỗi sợ hãi tìm về đúng lúc lòng thương mình chưa mất đi, ý thức về cuộc
sống không ra sống còn hiện hữu, Mị vùng lên chạy theo A Phủ.
Hành động này diễn ra rất tự nhiên. Mị không còn sợ con ma nhà thống lí, khát
vọng sống đã chiến thắng và bùng lên thành ngọn lửa. Hành động này đã thể hiện
sự bùng phát về sức sống trong tâm hồn cô. “A Phủ cho tôi đi” . .“Đi với tôi”, vậy
là một sợi dây vô hình vừa bị chặt đứt nay lại xuất hiện, không phải để níu giữ họ
với cuộc đời nô lệ mà là để buộc chặt họ với nhau, bén lên một thứ duyên lành.
Sức sống bền bỉ của Mị cộng hưởng với sức sống mạnh mẽ của A Phủ, tạo thành
sức phản kháng phi thường, hai người vùng thoát chạy khỏi nhà thống lí Pá Tra,
kết thúc cuộc đời nô lệ cùng cực, mở ra trang đời mới tự do cho Mị.
- Hành động tự cứu mình của Mị là hành động có tính chất tự phát, nhưng cội
nguồn sâu sa của nó là khát vọng sống mãnh liệt. Nó làm thay đổi vị thế hai con
người, từ nô lệ, cam chịu đến tự do, nổi loạn.
-> Tiểu kết
Khát vọng sống trong lòng Mị giống như mầm non luôn vận động, hướng về
ánh sáng mặc cho gió dập sóng vùi, dù bão táp mưa sa. Có thể nói lần đầu tiên
trong văn học, chân dung và tâm hồn những con người vùng cao được trân trọng và
yêu mến đến nhường vậy. Lách ngòi bút vào tận sâu tiềm thức mơ hồ, gạt phủi đi
lớp tro bụi tối tăm và tinh tế hơn cả là chăng lên một thứ tơ cảm xúc, tô Hoài như
đang đặt tất cả niềm tin yêu, hy vọng chân thành với những con người “ mặc bộ đồ
tôi tớ, nhưng tâm hồn không tôi tớ” (Vích to Huygô)
Nếu như ở "Vợ nhặt", Kim Lân đã không tô vẽ, lý tưởng hóa các nhân vật, mà
phản ánh hiện thực một cách trần trụi, thì với "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã đưa
vào "một không gian vời vợi cho đất nước và con người bay bổng lên hơn nữa, rồi
bỏ được cái ám ảnh, tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật và nhỏ bé vấn
đề đi". Tuy cùng viết về số phận đau khổ của con người, nhưng ngòi bút đậm chất
thơ của Tô Hoài đã làm sống dậy ve đep của loài hoa ban nơi núi rừng Tây Bắc
qua hình tượng Mị, còn người "vợ nhặt" lại hiện lên chân chất, mộc mạc như một
loài hoa dại dưới ngòi bút của Kim Lân. Tuy khác nhau, nhưng hai loài hoa ấy đều
điểm tô cho vườn hoa văn học nước nhà hai mùi hương, hai sắc màu riêng biệt. Và
ẩn sau làn hương thầm kín ấy, là sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật của các nhà văn.
-> Đánh giá về tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài: ty thương tha thiết với những người lao động
ngheo khổ trên reo núi cao Tây Bắc: “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết là để làm
công việc như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc
số phận đen đủi dồn đến chân tường (…) để bênh vực cho những con người không
còn có ai để bênh vực”. -> TH qua VCAP đã bênh vực cho những con người TB
“trung thực, chí tình”.
3. Đánh giá: Nội dung, nghệ thuật
4.Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm
a) Giá trị hiên thực
- Những trang viết chân thực về cuộc sống bi thảm của người dân miền núi.
- Bộ mặt của chế độ phong kiến miền núi: khắc nghiệt, tàn ác với những cảnh
tượng hãi hùng như địa ngục giữa trần gian.
- Thấy được quy luật phát triển tất yếu của cuộc sống: có áp bức có đấu tranh,
quy luật phát triển của cách mạng,. .
- Đặc biệt, qua nhân vật Mị nhà văn đã làm sống dậy linh hồn của Tây Bắc với
những phong tục cổ truyền: bắt vợ, xử kiện,. . với ngày hội mùa xuân mang đậm
bản sắc văn hóa riêng của đồng bào miền núi. TP là một thành công có ý nghĩa
khai phá của Tô Hoài ở đề tài miền núi.
-> Riêng của TH: Phản ánh hiện thực qua lăng kính văn hóa.
b. Tác phẩm thể hiện tư tưởng nhân đạo tích cực, mang ý thức giai cấp
- Chỉ rõ nguyên nhân của những đau khổ bất hạnh trong cuộc đời Mị và A Phủ : đó
là do thế lực đồng tiền, cường quyền, thần quyền.
- Cảm thông, thương xót cho số phận của những người nông dân ngheo miền núi bị
chà đạp, bị áp bức nặng nề.
- Đề cao, trân trọng những phẩm chất tốt đep và những khát vọng của họ
- Chỉ rõ con đường tự giải phóng của người nông dân miền núi : con đường đi theo
cách mạng.-> Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản (So sánh với các tác phẩm trước Cách
mạng tháng Tám như CP, Lhac, Tắt đen,… để làm nổi bật kết thúc lạc quan của tác phẩm) . III. Kết bài
- Có thể kết bài bằng câu của Nguyễn Văn Siêu: “Văn chương có loại đáng thờ
và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại
đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”.
- Hoặc Sêđrin: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó
không thừa nhận cái chết.”
… Cho mấy câu nhận định hay hay để nâng tầm giá trị bài viết.
Document Outline
- I.Mở bài:
- a.Tác giả
- b.tác phẩm
- 2.Phân tích.
- b.Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của Mị…
- *Thương người cùng cảnh ngộ.
- *Từ cứu người đến cứu mình.
- -> Tiểu kết
- 3.Đánh giá: Nội dung, nghệ thuật
- a) Giá trị hiện thực
- b. Tác phẩm thể hiện tư tưởng nhân đạo tích cực, m
- III.Kết bài