Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà hay nhất | Văn mẫu lớp 12

Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân gồm 8 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo 2 gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo.

Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Dàn ý phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Dàn ý số 1
1. Mở bài
Nguyễn Tuân một nhà văn suốt đời đi săn tìm cái đẹp. Trước cách mạng, ông
quan niệm cái đẹp chỉ trong quá khứ Vang bóng một thời tài hoa nghệ chỉ
những con người xuất chúng của thời trước còn vương sót lại. Còn sau cách
mạng, ông không đổi lập quá khứ với hiện tại, đặc biệt phẩm chất tải hoa thể
tìm thấy ở nhân dân đại chúng. Tùy bút Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà
Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ hào hứng tới miền
Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng mười của
thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” tâm hồn của những người lao
động. hình ảnh ông lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà lả một minh
chứng sống động cho sự thay đổi quan niệm nghệ thuật ấy.
2. Thân bài
a) Khái quát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
- Nguyễn Tuân một trong những nhà văn tài hoa, uyên bác bậc nhất của văn học
Việt Nam hiện đại. Cuộc đời sáng tác của ông đi sân tìm cái đẹp. Cho nên, ưng
con mắt của tác giả, mọi đối tượng thiên nhiên con người đều tồn tại trên
phương diện thẩm mỹ, lấy cái đẹp làm tiêu chuẩn.
- Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân chia ra làm hai thời lớn: trước sau
cách mạng.
- Những năm trước cách mạng, Nguyễn Tuân còn đam chủ nghĩa lãng mạn,
ông chối từ hiện tại, tìm về với vẻ đẹp cội nguồn của vần học sùng cổ, hoàn toàn xa
lạ với cuộc cách mạng của chúng ta. Nhưng từ sau năm 1945, một lớp văn nghệ
như Nguyễn Tuân cố sự giác ngộ tưởng, họ tìm được đến với Ánh sáng, phố
của cách mạng. Nguyễn Tuân cũng hồ hởi với công việc này nhưng ông không lấy
văn chương làm công cụ tuyên truyền cách mạng ông thể hiện tinh thần yêu
nước phương diện khác. Đó sự đam mê, khám phá vẻ đẹp của non sông, đất
nước. Trong đó có dòng sông Đà, đảo Cô Tô, đảo Bạch Long Vĩ,...
+ Với đòi hỏi của thời cuộc, Nguyễn Tuân cũng lao mình vào thực tại đhòa nhập
vào công cuộc xây dựng kinh tế sau chiến tranh, để hàn gắn vết thương kháng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
chiến chống Pháp để lại. Nguyễn Tuân cùng các đồng nghiệp của mình không quản
khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến với miền Tây Bắc để tìm cho ra, cho thật
nhiều: “Cái thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc nhất cái thứ vàng mười
mang sẵn trong tâm trí của những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn với
công việc, xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui bền vững’*. (Nguyễn
Tuân). vậy, cảm hứng chủ đạo trong tùy bút này ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi
nhân dân, những con người thầm lặng, vô danh mà vĩ đại.
- “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” tâm hồn của những người lao động: để chỉ vẻ
đẹp tâm hồn của những con người lao động chiến đấu trên vùng sông núi hùng
và thơ mộng. Họ những con người bình dị, đời thường nhưng khát khao
chinh phục và làm chủ thiên nhiên, gắn với thiên nhiên, góp phần nhỏ của
mình vào công cuộc xây dựng kinh đất nước, vẻ đẹp “qua thử lửa” chính
những khó khăn, gian khổ họ đã trải qua trong công cuộc chinh phục thiên
nhiên, vẻ đẹp đó sáng ngời như một thứ “vàng mười” của thiên nhiên Tây Bắc.
b) Khái quát về tác phẩm:
- “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập kí “Sông Đà”, đây là một tác phẩm tùy
bút giá trị rất sâu sắc cả về văn học và xã hội. Tác phẩm này là kết quả của một
cuộc hành trình lớn Nguyễn Tuân tìm đến Tây Bắc để tìm kiếm “thứ vàng
mười của thiên nhiên thứ vàng mười của con người lao động đã qua thử lửa”.
Tác phẩm này còn đặt nền móng cho nhiều dự án mang tính lịch sử - chính trị-xã
hội sâu sắc nhưng hơn hết được mệnh danh một tác phẩm văn chương gần như
đạt đến sự hoàn mỹ.
- Tập “Sông Đà” ra đời năm 1960, trong công cuộc xây dựng vùng Tây Bắc sau
chiến tranh. Mỗi nhà văn, nhà thơ lại mang đến cảm hứng riêng của mình cho đề
tài này. Chế Lan Viên hồ hởi với chuyến tàu lên Tây Bắc, còn Nguyên Khải lại
thấy sự đổi thay trong con người. Cũng trong đề tài đỏ, Nguyễn Tuân khám phá và
phát hiện vẻ đẹp của thiên nhiên con người Tây Bắc như bàn thể của núi rừng.
Nó chính là thủ vàng mười mà nhà văn đang tìm kiếm.
c) Hình tượng người lái đò sông Đà:
- Hình ảnh người lái đò trong tác phẩm không được miêu tả chi tiết về hình ảnh và
tính phần lớn được gợi lên thông qua vẻ đẹp của con người lao động trí tuệ
và tài hoa.
- Trong tác phẩm, nhà văn xây dựng hai nhân vật đó là con sông Đà và người lái đò
trên dòng sông ấy. Đỏ một dụng ý nghệ thuật cao tay của bậc tu từ tài hoa. Bức
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
tranh thiên nhiên dữ dội, con quái vật hiểm ác, kthù số 1 kia chỉ phông nền đ
tác giả vẽ, ngợi ca, tôn vinh sức mạnh kì của con người. thế, hình tượng
người lái đò sông Đà được nhà vãn xây dựng như một dũng tướng tài ba, một
nghệ sĩ lão luyện trong nghề chèo đò vượt thác.
- Vốn xuất thân từ núi rừng nên ông lái gắn chặt chẽ với cuộc sống nơi đây.
Ông sinh ra trên bờ sông Đà, dòng sông thác đó nguồn nuôi sống chữ ông
ngay từ khi còn đchỏm. Cho đến cuộc sống sau này, cuộc đời Ông vẫn những
hành trình leo thác, vượt sông, hình như con người và thiên nhiên gắn mật thiết
cho nên khi đã nghỉ đò mà ông vẫn nhớ về thác lũ và trận địa đá trên sông.
- Trên dòng sông Đà, người lái đò xuôi ngược cả trăm lần. Dòng sông với ông
“như một trường thiên anh hùng ca ông đã thuộc đến cả những cái chấm than,
chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu được quy luật của các dòng nước,
đóng đinh vào trí nhớ của mình từng con thác, xoáy nước, luồng xanh luồng dữ,
cửa sinh, cửa tử; thông minh, gan dạ, hoạt bát, tự tin như một dũng tướng trong
trận đồ bát quái, đua người hàng vượt qua 73 con thác đến đích an toàn. Con
người ấy được ví như “thứ vàng mười” nhưng lại một tay nhà đò nghèo khổ, tay
lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy cái cuống lái
tưởng tượng, giọng ồn ào như tiếng thác nước mặt ghềnh sóng, nhỡn giới vòi vọi
như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Thân hình cao to
gọn quánh như chất sừng chất mun, khuôn mặt khắc khổ in hằn dấu vết của
công việc đầy gian nan, nguy hiểm. Ông một nhân vật không tên, ông đại
diện cho bao nhiêu con người trên đất nước Việt Nam ngày đêm âm thầm, cần mẫn
trong lao động, không ngừng phải đối diện với thiên tai địch họa đgiành lấy sự
sống và bảo vệ quê hương đất nước. Nhờ đó mà hình tượng trở nên lớn lao, kì vĩ.
- Người lái đò là người rất mực trí dũng và bàn lĩnh .Để làm nổi bật phẩm chất này,
Nguyễn Tuân đã dụng ý nghệ thuật sâu xa để cho người lái đò xuất hiện trên
một hoàn cảnh đầy thử thách, khốc liệt. Nguyễn Tuân khẳng định “Ông muôn ghi
cái đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đỏ trên chiến trường
sông Đà, trên một quãng thủy chiến mặt trận sông Đà”. Nhà văn đã tả một
cách chân thật vừa trân trọng, vừa yêu thương, vừa cảm phục nhân vật ông lái đò
cùng hiên ngang, trí dũng trong cuộc chiến đấu với những con sóng, con thác
đầy hung dữ, nguy hiểm. Cuộc vượt thác, thủy chiến dữ dội nhiều hồi, nhiều
đợt, mỗi đợt lại những thử thách ác liệt khác nhau, dòng sông bày ra những
thạch trận hiểm hóc khác nhau: “Đá đây từ ngàn năm vẫn mai phục trong lòng
sông...để vồ lấy con thuyền. Đá bày ra thạch trận trên sông với những boongke
chìm và pháo đài nổi, phối hợp với đá, nước thác reo làm thanh viện cho đá
phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”. Kho từ vựng giàu có
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
và vốn kiến thức văn hóa khoa học phong phú, uyên bác như quân sự, võ thuật, thể
dục thể thao, điện ảnh...của Nguyễn Tuân được dịp huy động để miêu tả cuộc thủy
chiến ác liệt giữa người lái đò sóng thác sông Đà: “Sóng nước thúc gối vào
bụng hông thuyền... lúc chúng đội thuyền lên... sóng thác đã đánh đến
miếng đòn hiểm độc nhất”. lúc tưởng như ông lái đò sẽ bị con thủy quái sông
Đà cùng hung bạo ấy ngấu nghiến nuốt chửng. Trước sức mạnh của kẻ thù số
một của con người, ông lái đò vẫn không hề nao núng, trái lại vẫn bình tĩnh chủ
động chiến đấu một cách dũng cảm đầy mưu trí như một vị chỉ huy tài trí tuyệt vời,
điều khiển con thuyên lần lượt vượt qua các thác ghềnh như “Phá cái trận đồ bát
quái của dòng sông hung bạo”... “Dòng nước hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên
sông Đà”. Những người lái đò vẫn "Cười lên thác sông Đà.. .đến cùng như cưỡi
hổ”.
- Người lái đò tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò còn người rất mực tài hoa, phong
thái ung dung, pha chút nghệ sĩ. Sóng, thác sông Đà rất khắc nghiệt, chỉ cần người
lái đò một phút thiếu chính xác, khỉnh suất, nhỡ tay, hoa mắt thể phải trả giá
bằng cả chính sinh mạng của mình. Nhung sóng, thác sông Đà đù cớ hung dữ đến
đâu, cũng bị khuất phục trước người lái đò trí dũng đó. Bởi người lái đò một
nghệ nghệ chở đò kỳ diệu. Nghệ thuật ấy được biểu hiện nhất khả
năng nắm chắc quy luật tất yếu của sông Đà, nhờ thế người lái đò thế chủ
động, tự do, người chiến thắng. Ông lái đò đã nắm chắc mọi quy luật của dòng
sông. Lúc thì “ông cưỡi thác nắm lấy bờm sóng phóng nhanh qua cửa tử” lúc
lại “Ghì cương đè sấn lên chặt đôi con thác để mở đường tiến”. Bằng những
động tác thuần nhuyễn trong nghề nghiệp của mình, ông lái đò đã lái con thuyền
“như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước”, xuyên qua biết bao ghềnh thác hiểm
nghèo của dòng sông hung bạo này. Nguyễn Tuân gọi người lái đò của mình
“tay lái ra hoa” như vậy. Người lái đò trở thành một người nghệ sĩ, một người
anh hùng chiến thắng thiên nhiên.
- Ông lái đò còn hiện lên với vẻ đẹp của người lao động bình dị: Khác với cảm xúc
của tác giả, thì việc vượt sông của ông lão chi công việc lao động bình thường,
ông đã quên ngay khi hành trình kết thúc. Con sông Đà hung dữ như vậy nhưng
ông chỉ coi như chiếc thu. Ông đến với như người lắm chứng nhiều tật
nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó và lắng nghe âm vang của nó, thủy
chung với nó. Quà mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm lại tan biến: “Sóng thác xèo
xèo tan trong trí nhớ”. Hộ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về anh vũ,
dầm xanh, như không hề chuyện xảy ra, cho ngày nào họ cũng phải vật
lộn, đối mặt. Đó vẻ đẹp bình dị của những con người lao động trên miền thiên
nhiên Tây Bắc hùng vĩ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Tiểu kết: Với tính sáng tạo độc đáo, Nguyễn Tuân luôn những phát hiện mới
lạ nơi con người sự vật. Nhà văn mang đến cho người đọc một cảm nhận thú v
về vẻ đẹp của con người lao động, chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ những nơi
chiến trường, hiện hình ngay trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân ta phải
lao động, vật lộn với miếng cơm, manh áo cho những điều lớn lao hơn thế. Trí
dũng, tài hoa không phải tìm ở đâu xa mà nỏ hiện hữu ngay trong những con người
bình thường, giản dị nhưng luôn ánh lên “chất vàng mười” cùng quý giá. Cuộc
đời ông lái đò danh nơi ngọn thác hoang vu một khúc thanh tuyệt vời của
núi rừng Tây Bắc, là ngọn nguồn sáng tạo nghệ thuật chân chính của người nghệ sĩ.
lẽ đó, tác phẩm đã trở thành một tuyệt phẩm vinh danh sự tìm tòi sáng tạo
không ngừng trong cuộc đời lao động nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Ông xứng
đáng “ông vua” của thể loại tùy bút - một bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam
hiện đại
d) Những nét đặc sắc trong nghệ thuật kí của Nguyễn Tuân
- Thiên tùy bút mang đậm tính sáng tạo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa,
uyên bác ở cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương diện thẩm mĩ, văn
hóa: dòng sông được miêu tả như một công trình thuật tuyệt vời của Tạo hóa;
người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng, tài hoa, nghệ sĩ.
- Vận dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như hội
họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,., .huy động kiến thức của nhiều lĩnh vực: địa lý,
lịch sử, võ thuật, thể thao, quân sự để xây dựng hình tượng.
- Sử dụng hình ảnh mới lạ, độc đáo, hấp dẫn.
- Sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân a, liên tưởng, tưởng tượng làm cho
đối tượng miêu tả trở nên sống động và hấp dẫn hơn.
- Tất cả những kết tinh nghệ thuật như trẽn đều nhằm làm nổi bật vẻ đẹp của dòng
sông Đà hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình; vẻ đẹp của người
lao động trên sông nước rất đỗi bình dị, kỳ vĩ mà lớn lao.
3. Kết bài
Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào khâm phục
trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người nhà
văn gọi “chất vàng mười" quý gcủa Tổ quốc. Sáng tạo nên hình tượng này,
Nguyên Tuân đã mang đến một thông điệp: chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm
đâu xa, trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
những người bình dị trí dũng tài ba, họ thể tạo hình tạo mẫu cho nghệ thuật
văn chương.
Dàn ý số 2
I. Mở bài:
Giới thiệu được hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác tùy bút sông đà của Nguyễn
Tuân.
Giới thiệu vấn đề nghị luận: “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái
đò.
II. Thân bài:
- Giải thích một cách ngắn gọn ý của cụm từ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” từ
dùng của Nguyễn Tuân để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động
chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng.
- Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của ông lái đò sông Đà:
Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của nhân dân (không
tên, tuổi, quê quán).
Đó là một người lao động rất đỗi bình thường hoạt động trong một môi
trường lao động khắc nghiệt, dữ dội.
Ông am hiểu đối tượng mà mình đang chinh phục.
* Sự từng trải:
- Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự người từng
trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết : người lái đò còn là một
linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên
sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu
chục lần… Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười
ba con thác nhưng ông đã lấy mắt nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả
những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với
ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca ông thuộc lòng đến cả những
cái chấm than chấm câu cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà
nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời
gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn
bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng,
ngọn thác hung dữ ở sông Đà.
- Ông mưu trí dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong cuộc
sống lao động hàng ngày:
- Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt đó, tất
cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống
của mình. Nhà văn gọi đây cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến
trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến mặt trận sông Đà. Đó chính cuộc
vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận
đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.
- Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá đây
ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào
xuất hiện quãng ầm ầm quạnh hiu này, mỗi lần chiếc nào nhô vào đường
ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đất nào trông
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây bày thạch trận trên
sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền,
một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp
đá dàn trận địa sẵn.
- Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng
trận địa phóng thẳng vào mình. Khi ng Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất
nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy
mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị
thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái,
mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào
chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng
vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng
thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ
động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua
cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền
như một i tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được
lượn được. Thế là kết thúc.
+ Nghệ sĩ tài hoa :
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
- Nổi bật nhất, độc đáo nhất người lái đò sông Đà phong thái của một nghệ
tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ trong sáng tác của Nguyễn Tuân nghĩa rộng,
không cứ những người làm thơ, viết văn cả những người làm nghề chẳng
mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến
trình độ tinh vi siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây
dựng một hình tượng người lái đò nghệ nhà văn trân trọng gọi tay lái ra
hoa. Nghệ thuật đây nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà làm chủ
được nó nên có tự do.
- Song, quy luật trên con sông Đà thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu
bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả gbằng mạng sống.
ngay những khúc sông không thác dễ dại tay dại chân buồn ngủ như
người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy
lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật
của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá.
Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba
+ Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện đại mới:
giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí.Đó là những
con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
III. Kết bài:
Khái quát lại vấn đề: Nhận xét chung về vẻ đẹp của ông lái đò, đánh giá nghệ
thuật miêu tả của Nguyễn Tuân: đặt nhân vật vào tình huống đầy cam go, thử thách
để nhân vật bộc lộ tính cách phẩm chất; phối hợp những thủ pháp tiêu biểu của các
ngành nghệ thuật khác để miêu tả và kể chuyện…
Rút ra bài học cho bản thân.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà cc hay - Mu 1
Trong nền văn học hin đại Vit Nam, nếu hi ai là người được hết li ca ngi bit
tài “điu khin ch nghĩa”? Ai là “ngưi th kim hoàn rèn chữ”, là “bc thy ca ngôn
từ”? Ai một tính ch “trn không lẫn”? Ai lại vai trò như một “hòn đá tảng”
trong “cái nền còn mi m của văn xuôi tiếng Việt ta”? T câu trả li chc chn
không th nào khác ngoài Nguyn Tuân. Ông nhiu tác phm, tp truyn, tp
ni tiếng mt trong s đó “Người lái đò sông Đà”. Trong tác phẩm, nhà văn
Nguyễn Tuân đã khắc ha cht vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
la” tâm hn ca những người lao động. Đc bit gây ấn tượng trong tác phm
hình tượng người lái đò, đại diện cho “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ấy.
“Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút đưc in trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyn
Tuân. “Sông Đà” thành quả ngh thuật đẹp đ Nguyễn Tuân đã thu hoạch được
trong chuyến đi gian khổhào hng ti min Tây Bc rng ln, xa xôi (1958) không
ch để tho n cái thú tìm đến nhng miền đất l cho tha niềm khát khao “xê dch",
ch yếu để m kiếm cht vàng của thiên nhiên cùng “th vàng mười đã qua thử
la" tâm hn ca những con người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng
thơ mộng đó. thế, “Sông Đà” i chung bài tu bút “Người lái đò sông Đà”
nói riêng cho ta nhn ra din mo ca mt nhà văn Nguyễn Tuân mi m, khát khao
được hòa nhp với đất nước cuộc đời này. Không ging vi Nguyễn Tuân trước
Cách mạng tháng Tám, con ngưi ch mun dch cho khuây cm giác "thiếu quê
hương”. “Sông Đà” nói chung Người lái đò sông Đà” nói riêng còn tiêu biểu cho
phong cách ngh thuật độc đáo của Nguyn Tuân: uyên bác, tài hoa, không qun nhc
nhằn để c gng khai thác kho cảm giác liên tưởng phong phú, bn b, nhm tìm
cho ra nhng ch nghĩa xác đáng nhất, kh năng làm lay động người đọc nhiu
nht.
Nói đến Nguyn Tuân nói đến một nhà văn ưa cảm giác mnh. Với ngưi ngh
này, đã đẹp phải đẹp tuyt mĩ, đã dữ di phi d dội đến khác thường, đến tt
đỉnh. Ông không thích nhng gì tm thường. Người lái đò đáp ng được yêu cu
thưng thc ngh thut đc biệt đó ca Nguyn Tuân vì người lái đò vừa là một người
ngh tài hoa, một người đã đt tới trình độ điêu luyện trong ngh nghiệp đời
sng tâm hồn đậm cht ngh sĩ. Song ông lái đò cũng đơn thun ch một người lao
động bình thường, thm lng và vô danh, không tên tuổi như biết bao con người khác.
Chất vàng ời đã qua thử la ch y, bởi con người lao động bình thường nh
tôi rèn đã thành th tài sn quý giá ca đất nước.
Ông lái đò hiện lên một ông lão đã 70 tuổi vi ngoi hình thật đặc bit: Tay ông lêu
nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khunh khunh, lại như kẹp ly mt
cuống lái ởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trưc mt ghnh sông, nhn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
gii ông vòi vọi như lúc nào cũng mong mt cái bến xa nào đó trong sương mù.
Nguyn Tuân ch bằng vài nét ng cũng đ để để chm khc vào tim thc ca bn
đọc v mt hình ảnh người lái đò gần gũi, một con người sinh ra và lao động trên sông
nước, một con người suốt đời chiến đấu với thác, đá, sóng, c của sông Đà đ tn
tn ti xây dựng quê hương Tây Bắc. Gia khung cảnh thiên nhiên sông Đà hùng
vĩ, đầy nguy him và hung bo y, Nguyễn Tuân đã tô đậm v đẹp tài hoa trí dũng của
ông lái đò qua cuộc vượt thác đầy nguy him, mt trn chiến d di gia con ngưi và
thiên nhiên. Người lái đò nhỏ cùng chiếc thuyn mỏng manh đối chi vi thiên
nhiên sông nước hung bo, mt cuc chiến không cân sức nhưng con người trí dũng
ngoan cường, tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo đã th đưa con thuyền an toàn t
qua nhng trùng vi thch trn trên dòng sông mt cách đy ngon mc.
vòng vây th nht, con sông Đà bày ra thch trn vi bn ca tmt ca sinh.
đây nước phi hp với đá reo làm thanh viện; nhng hòn đá b v, oai phong lm
lit; mt hòn ấy trông như đang ht hàm hi cái thuyn phải xưng tên tuổi trước khi
giao chiến thách thc cái thuyn gii thì tiến gần o. Khi “thạch trn dàn bày
vừa xong thì cũng lúc con thuyn tới”. Người lái đò không hề run s, tiến đề vi
trùng vi thch trn th nht vi m thế sn sàng nhất. Con sông Đà khôn ngoan,
không đánh trực din với người lái đò đánh bng ngh thut tâm chiến. Trước
đó, dùng âm thanh của thác để khiêu khích “giọng gn chế nhạo”, còn giờ đây
nó li nh đến “nưc thác làm thanh vin cho đá”. Sông Đà quả thc him ác, nó xông
tới “ùa vào bẻ gãy cán chèo”, “liu mạng vào sát nách đá trái”, “thúc gi vào
bng và hông thuyền”, lúc lại “đội c thuyền lên”. Sông Đà khôn ngoan hiểm ác
thế, nhưng ông lái đò không hề hong s ông đò hai tay giữ mái chèo khi b ht
tung lên khỏi sóng”. Lúc này con sông Đà lại chuyn thế bám ly thuyn s dng
đòn vật “túm lấy thắtng ông lái đò đòi lt nga thuyền ra”. Không đ cho ông đò
hội xoay x, sông Đà lại chuyn thế đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái lung
nước vô s bt chí y bóp cht ly h b người lái đò”. Khi sóng thác đánh miếng đòn
độc him nhất, ông đò mặt “méo bch” đi.
Khuôn mt y của ông lái đò hin ra không ch gương mặt biến dng, trng bch
đau đớn còn nht nht phi dầm lâu trong c lnh. S đau đớn của ông đò
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
còn được gián tiếp miêu t trong mt cm nhn ca th giác xúc giác “mặt sông
trong tích tắc lòa sáng như mt ca b đom đóm rừng ùa xung châm lửa vào đầu
sóng”. Đó là mt trn chiến không cân sức, con sông Đà hùng vĩ và hung bạo vô cùng,
người lái đò hin lên nh bé, vi chiếc mái chèo nhưng với sc mnh tht ln lao. Qua
cách miêu t tiếng ch huy ngn gn, tnh táo của ngưi cm i, Nguyễn Tuân đã
không giấu được lòng ngưỡng m và cm phục trưc bản lĩnh kiên ng, s dũng
mãnh, bình thn ca người lái đò.
Ti vòng vây th hai ca thch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn
th hin s thông minh ca một người lái đò dày dặn kinh nghim ngưi nm chc
binh pháp ca thn sông thần đá, người đã thuộc quy luật” của ng sông, thác đá.
Đến với trùng vi này, con sông Đà tăng thêm nhiều ca t hơn, cửa sinh li b trí lch
qua b phía hu ngn. trận đánh này ông đò đánh phủ đầu vi kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh. Ông đò “nắm chắc đưc cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông ghì cương
lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”, tốc độ nhanh cùng. Nhưng sông Đà nào đâu
phi dng va, chúng ra, níu chiếc thuyn vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh
giác sẵn “đứa thì ông tránh ro bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để m
đường tiến lên”. Nguyn Tuân qu thc bc thy ca ngôn ngữ, ông huy động hàng
loạt các động t, reo theo tng nhp lái chèo của ông lão lái đò: nắm, ghì, phóng,
lái, rảo, đè,... Ông lái đò như một dũng tướng tài ba điều khin thun phc con nga
bt kham của sóng thác sông Đà. Chính bng s mưu trí tài năng ca mình, ông lão
đã vượt qua hết các ca t, làm cho bọn đá thua cuc phi bày b mặt “tiu nghỉu, xanh
tht vọng”. Thiên nhiên, thác đá sông Đà hung bo hiểm đc thế cũng không thể
chiến thắng được sc mạnh phi thường của ông lái đò - mt tay lái ra hoa, trí tu, mt
ớng lĩnh thực th đã chiến thng c thn sông, thần đá.
l tt c s him ác nht của con sông Đà tp trung hết c trùng vi cui cùng.
Không nhng ít cửa hơn bên trái bên phải đều lung chết c, lung sng thì li
nm ngay gia bọn đá hu v. Bốn năm bọn thu quân ca ải c bên b trái liên
ra cnh níu thuyn lôi vào tập đoàn cửa tử. Con sông ngày càng mưu mẹo vào him ác,
mun dồn con người đến ch chết. S him ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả
trong hình nh n di hoa v cổng đá cánh mở cánh khép đó là c mt mt trận đá
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
trùng điệp trong đó bức tường phòng ng vng chc của đá hậu v kết hp vi
những mũi tấn công ào t, ti tp không ngng ngh ca sóng d. Nhim v ca ông
đò phải phóng thng thuyn, chc thng mt lung sinh duy nht ngay gia ca
bọn đá hậu v trn gi, trong khonh khắc cánh “cổng đá” m gia những đợt sóng
thác d di. l ngay lúc này đây, tay lái chèo của ông lái đò thc s mt tay lái
ra hoa. Không bng quá nhiu t ng, câu văn, hình nh con thuyn lao vút qua khe
hẹp được miêu t trong những câu văn ngắn bn thân cách ngt câu, s kết hp
những đng t danh t ni tiếp: vút, ca ngoài, ca trong, li cửa trong cùng… đã
th hin s điêu luyn khéo léo sc mnh của ông đò. Tốc đ phi thưng ca con
thuyền dưới bàn tay va lái, va xuyên, vừa lượn của ông đò không ch như một mũi
tên tre còn đưc gi t tinh tế qua làn hơi nước con thuyn xuyên qua, con
thuyền không còn lướt trên mặt nước đã thực s bay trong làn hơi nước trên mt
sóng. i năng của ông đò khi y đã bao hàm cả ttu, s tri nghim, sc mnh th
lực, trình độ điêu luyện bản lĩnh kiên cường tt c đều đạt ti mc phi phàm,
diu. Vy cui cùng, bng tt c tài hoa, trí lc s dũng mãnh ca mình, ông lái
đò đã chiến thắng con sông Đà hiểm đc.
Cảnh vượt thác sông Đà có l chính là mt trong nhng kit tác ngh thut trong cuc
đời sáng tác ca Nguyễn Tuân. Ông lái đò trí dũng, tài hoa đã chiến thng con sông
Đà hung bạo, him ác mt cách ngon mc. Khung cnh vượt thác sông Đà l đã
quá quen thuc trong sut hàng chục năm hành nghề của ông lái đò, nhưng dưới ngòi
bút tài hoa ca Nguyn Tuân đã thực s tr thành biểu tượng đẹp đẽ nhất nơi i
rng Tây Bc. Tng câu, tng ch đều đưc Nguyễn Tuân chăm chút từng tí một, đến
nỗi tưởng đầu người đọc đang được trên chính chuyến đò ấy, đưc tn mt chng kiến
từng hành động, từng nước đi tài hoa của ông lái đò.
Viết v con người bình thưng trong cuc sống đời thường nhưng không hề tm
thưng.
Nguyễn Tuân luôn tìm đến và khc ha nhng v đẹp y bng ngòi bút tài hoa ngh
nht. Khung cảnh vượt thác của ông lái đò - mt nhp sống thường niên trong sut
cuộc đời ông lái đò, qua ngòi t ca Nguyn Tuân c sao lại đẹp đẽ tuyệt
đến vậy. Người ngh tài hoa ấy đã chạm đến tuyệt đích của i đẹp, đã thực s
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
thành công trên con đường đi tìm cái đẹp y. Không giống như “Chữ người t tù”,
trong câu chuyn của Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân không đi tìm cái đp ca
mt thời đã qua nữa cái đẹp ông khám phá ngay trước mt, trong chính cuc
sống đời thưng nhất, đúng như cái nghệ danh mà người đời đặt cho ông - “Một người
ngh sĩ sut đời đi săn tìm cái đẹp”.
Nguyễn Tuân đã vẽ lên mt khung cnh cảnh vượt thác đầy gay cn khc lit. Nếu
coi người lái đò người ngh điều khin con thuyền đầy điêu luyện thì Nguyn
Tuân đích thực người ngh chèo lái con thuyền ngôn t đầy tài hoa. Ch qua mt
mt khung cảnh vượt thác thôi, nhưng Nguyễn Tuân đã điều động c một đội quân t
ng để din t s cung n của sông Đà c s tài hoa của người lái đò. Nguyn
Tuân đưa người đọc đi từ cm xúc này sang cm xúc khác, t hi hộp, căng thẳng đến
th phào nh nhõm. C t trùng vi thch trận này đến trùng vi thch trận khác, người
đọc chưa khi th phào li phi tiếp tục đến vi mt cuc chiến mi gay cn khc
lit cùng. Trong công cuộc đi tìm “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con ngưi
Tây Bắc nói riêng người lao động Vit Nam nói chung trong thi k mi, Nguyn
Tuân đã khai thác khám phá một cách t m nht, bng con mt trái tim yêu
thương nhất ca ngưi ngh sĩ yêu thương và khát khao khám phá cái đp đời.
Khép li trang viết ca Nguyễn Tuân, ờng như vùng đất Tây Bắc đã để li trong
chúng ta tht nhiều thương nhớ. Ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”
mt th vàng mười n Nguyễn Tuân khẳng định “đã qua thử lửa”. Cũng từ đây,
Nguyễn Tuân đã cho thấy mt ch nghĩa anh hùng mới trong công cuc xây dng ch
nghĩa xã. Càng khám phá văn chương Nguyễn Tuân nói chung, Người lái đò sông
Đà” nói riêng ta càng thấm thían lời nhn định ca tác gi Anh Đc v người ngh
tài năng này: “Không biết chng nào mi li một nhà văn như thế, một nhà văn
khi ta gi mt bc thy ca ngôn t ta không h thy ngi ming, một nhà văn
độc đáo song mỗi dòng, mi ch tuôn ra đầu ngọn bút đều như đóng một
du triện riêng”.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 2
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Nguyễn Tuân một trong những nhà văn tài hoa, uyên bác bậc nhất của văn học
Việt Nam hiện đại. Ông có phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Nguyễn Tuân có sở
trường về thể loại tùy bút. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” một trong những tác
phẩm đặc sắc kết tinh được phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, được in
trong tập “Sông Đà” (1960). Tác phẩm này là kết quả của một cuộc hành trình lớn
Nguyễn Tuân tìm đến y Bắc đtìm kiếm “thứ vàng mười đã qua thử lửa”
của thiên nhiên thứ vàng mười của con người lao động. tùy bút này, ngoài
hình tượng dòng sông Đà, hình tượng ông lái đò cũng một hình tượng đặc sắc
mang dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân.
Trước hết, ta phải hiểu chữ “vàng” trong câu nói của nhà văn không ứng với nghĩa
đen. đây, nhà văn muốn mượn của vàng (một thứ quý giá đẹp đẽ) để chỉ vẻ
đẹp tâm hồn của những con người lao động chiến đấu trên vùng sông núi hùng
vĩ và thơ mộng. Nhưng vẻ đẹp và sự quý giá ấy không dễ tìm thấy, mà nó còn đang
náu mình trong những vùng đất xa xôi. Nhà văn phải người tìm kiếm, sàng lọc
để phát hiện ra vẻ đẹp ấy , rồi bằng tài năng của mình bất tử htrong tác
phẩm đ“cống nạp”cho đời thường những “thỏi vàng mười” của thiên nhiên đất
nước con người. kiến khẳng định thành công ca Nguyn Tuân trong vic
khám phá và xây dng v đẹp hình tượng ông lái đò trong cuc sống lao động bình
d.
Thật vậy, trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra“chất
vàng” quý báu của một dòng sông: “ Đà giang độc bắc lưu” là một dòng sông hung
bạo, dòng sông của sức sống mãnh liệt. Tính cách hung bạo của dòng sông được
cảm nhận những đoạn sông đầy đá chìm thác dữ. Nhưng bên cạnh sự hung
bạo ấy ta vẫn thấy sông Đà một biểu tượng về sức mạnh ddội vẻ đẹp hùng
của thiên nhiên đất nước. Cái dữ dội hùng của sông Đà trước hết cảnh
đá bờ sông dựng thành” rồi đến nước xô đá, đá sóng, sóng gió, cuồn cuộn
gùn ghè suốt năm”, rồi những hút nước xoáy tít”….
Đặc biệt, trong vddội, man dại của sông Đà, ta thấy cái quý giá của sức nước,
thấy hiện ra những “tuốc bin thuỷ điện” .Đó chính chất “vàng” quý giá của tài
nguyên thiên nhiên đất nước. Cho nên, cái quý giá đây chính một tiềm năng
lớn lao ngay trong vẻ hoang dại, phóng khoáng sức mạnh bạo liệt của dòng
sông.
Nhưng chất “vàng” của sông nước Tây Bắc không chỉ sự quý giá còn vẻ
đẹp của sông Đà. Đó hình ảnh của một dòng sông thơ mộng, trữ tình với hình
dáng mềm mại “tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, hay như một “áng tóc mun dài
ngàn ngàn vạn vạn sải…”. Cảnh sắc hai bên bờ sông cũng rất đỗi thơ mộng như
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
bờ tiền sử”, “hồn nhiên như nỗi niềm cổ ch tuổi xưa”…Cái hay của nhà văn
cách dùng nghệ thuật so sánh dồn dập đã làm hiện lên một cách sinh động vđẹp
của dòng sông.
Cùng với sự quý giá của thiên nhiên là sự quý giá của người dân lao động Tây Bắc.
Chất “vàng mười”quý gcủa người lao động trong bài tùy bút chính hình ảnh
ông lái đò trên sông. Trong u nói của mình, Nguyễn Tuân dụng ý khi dùng
chữ “vàng” để nói về màu sắc sông núi và chữ “vàng mười” để chỉ vẻ đẹp và giá trị
của con người lao động.Đồng thời, nhà văn cũng ngầm ý rằng :cái quý báu trong
phẩm chất , tài năng của con người phải được tôi luyện trong cuộc sống, giống như
vàng được tôi luyện trong lửa vậy. Vẻ đẹp tài nguyên Tây Bắc thật quý giá.Nhưng
con người Tây Bắc phải đẹp hơn, quý ghơn trong việc chinh phục và cải tạo
thiên nhiên.
Trong tác phẩm, con người mang chất “vàng mười” quý giá ấy lại một con
người lao động bình thường, một người danh nghề lái đò dọc trên sông Đà.
Nhưng con người danh ấy nhờ lao động, nhờ chinh phục , chế ngự thiên nhiên
hung bạo như sông nước Đà giang đã trở nên lớn lao , kỳ vĩ:
Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của người lao động bình
thường: (không tên, tuổi, quê quán. Ông lái đò được xây như một đại diện, một
biểu tượng của nhân dân. Đó một người lao động rất đỗi bình thường hoạt động
trong một môi trường lao động khắc nghiệt, dữ dội.
Ông lái đò người từng trải trong nghề. Ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên
sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu
chục lần…Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự
người từng trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: người lái đò
còn một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm
liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái
độ sáu chục lần…
Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười ba con thác
nhưng ông đã lấy mắt nhớ tỉ mỉ nđóng đinh vào lòng tất cả những luồng
nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy,
như một trường thiên anh hùng ca ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than
chấm câu và cả những đoạn xuống dòng.
Không phải bỗng dưng nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình
tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới
thấy hết sự từng trải, gắn của với nghề đến độ kỳ lạ ông lão lái đò. Đấy cũng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được
sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà
Ông lái đò người mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt
trong cuộc sống lao động hàng ngày. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào
ngay hoàn cảnh khốc liệt đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu
không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Con sông Đà hung hãn tạo ra
một thách thức ghê gớm cho người lái đò.
Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông
Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính cuộc vượt thác đầy
nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh đối
phương đã hiện ra diện mạo tâm địa của kẻ thù số một: Ngoặt khúc sông lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá đây ngàn năm vẫn mai phục hết
trong dòng sông, hình như mỗi lần chiếc thuyền nào xuất hiện quảng ầm ầm
quạnh hiu này, mỗi lần chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông một số hòn
bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đạt nào trông cũng ngỗ ngược, hòn
nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây bày thạch trận trên
sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền,
một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp
đá dàn trận địa sẵn…
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng
trận địa phóng thẳng vào mình. Khi ng Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất
nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy
mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác.
Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt
lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh
đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò
“phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần
đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều luồng chết cả, nhưng
người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó.
Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa
tự động lái được lượn được. Thế là kết thúc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Ông đò đích thực là một nghệ tài hoa. Nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa:
s điêu luyện trong ngh khi lái đò t qua 3 thch trn); trí nh siêu phàm, nắm
chắc các quy luật tất yếu của sông Đà làm chủ được nên tự do; phong
thái ngh sĩ sau cuc chiến đấu với sông Đà.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài
hoa. Khái niệm tài hoa, nghtrong sáng tác của Nguyễn Tuân nghĩa rộng,
không cứ những người làm thơ, viết văn cả những người làm nghề chẳng
mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến
trình độ tinh vi siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây
dựng một hình tượng người lái đò nghệ nhà văn trân trọng gọi tay lái ra
hoa. Nghệ thuật đây nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà làm chủ
được nó nên có tự do.
Song, quy luật trên con sông Đà thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình
tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay
những khúc sông không thác ddại tay dại chân buồn ngủ như người
Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi
nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá
nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. thế,
vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Đó
thực sự là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” đến trăm lần.
Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện đại mới.
Ông rất giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí. Đó
là những con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Vẻ đẹp của người lái đò thể hiện tài nghệ của một “tay lái ra hoa”. Nguyễn Tuân
đã rất thành công khi tung ra một “đạo binh ngôn từ” hùng hậu để miêu tả cho thật
hấp dẫn hùng tráng cuộc thuỷ chiến sông Đà. Trong những cuộc thuỷ chiến ấy,
ông đò đã bằng sự dũng cảm, phi thường, mưu trí đvượt qua hết vòng vi này đến
vòng vi khác.Ông giành thế chủ động bởi ông ông lái đã “nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá”.Ông lái đò đã cưỡi lên thác ghềnh của sông Đà như một lão
tướng dày dạn kinh nghiệm .Hình ảnh ông đò như mang dáng dấp của những anh
hùng trong các thiên anh hùng ca thời cổ đại.
Chất “vàng mười” trong tài trí con người ở đây còn sự dũng cảm , gan dạ, tài ba
của người cầm lái mà đường lái đạt đến độ điêu luyện, siêu phàm: ông “ghì cương
lái miết phong nhanh vút vút cửa ngoài, cửa trong”, “thuyền như một mũi tên
tre”…Ông lái đò nmột nghệ tài ba với một nghệ thuật cao cường đang luồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
tránh, lái lượn trên dòng nước hung bạo của Đà giang.Tài nghệ siêu phàm ấy chính
là thứ “vàng mười”ngời ngời tỏa sáng giữa thiên nhiên hùng vĩ của Tổ quốc.
“Người nghệ phải xâm nhập sâu vào đời sống nhân dân. Anh phải nhập đến một
mức độ nào đó thơ mới hình thành. Thơ chỉ tràn ra khi trong tim anh cuộc sống đã
thật ứ đầy”. Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp thật bình dị
từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói nhưng lại người anh hùng trước mắt
Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dấy chất nghệ tài
hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông
lái hiện lên trong tác phẩm người lao động hăng hái, quên mình công việc.
Ông đích thực “thứ vàng mười đã qua thử lửa”, một chất vàng ròng đáng quý
của miền Tây Bắc hùng vĩ.
Cuộc sống quanh ta vốn rất tầm thường, kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay
gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn người mang lại cho ta một thế giới mới
tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo
lại thế giới. Với tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã mang đến cho
chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của
cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác.
Chất vàng mười đã qua thử lửa - Mẫu 3
một nhà văn theo chủ nghĩa dịch, Nguyễn Tuân dành trọn cả cuộc đời mình
để rong ruổi khắp nơi truy tìm chân – thiện – mỹ. Ở văn chương của Nguyễn Tuân,
ta không chỉ thấy thiên nhiên gắn liền với cái đẹp đến cả con người, vẻ đẹp ấy
cũng ngã vào trang giấy. Nguyễn Tuân nhìn đời bằng ánh nhìn tinh tế, ông đi sâu
khai thác vào vẻ đẹp bên trong bị khuất lấp bởi những dung dị đời thường của
những con người lao động. “Người lái đò sông Đà”, vẻ đẹp của con người được
đẩy lên đến tột cùng khi được von như “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” hay vẻ
đẹp của thiên nhiên được gọi bằng “Chất vàng mười”.
Được trích từ tập tùy bút “Người lái đò sông Đà”, tác phẩm kết quả của chuyến
đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân những ngày đất nước đang trên đà đổi
mới, người dân bắt đầu công cuộc kiến thiết đất nước. Tác phẩm còn đặc trưng cho
phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám nhận thấy
ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn của con người lao động. “Người lái đò sông Đà” minh
chứng cho chủ nghĩa dịch Nguyễn Tuân cũng như vốn từ vựng phong phú
cùng với tài hiểu biết uyên thâm của nhà văn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
“Vàng” mà Nguyễn Tuân sử dụng không theo nghĩa đen mà ở đây ta có thể hiểu đó
cụm từ kết tinh hết những vđẹp, tinh hoa của đất trời Tây Bắc vẻ đẹp tài trí
của con người.
Trong cả thiên nhiên con người Tây Bắc đều tiềm tàng những giá trị quý báu
được thể hiện một cách tinh tế. “Chất vàng mười” ám chỉ những giá trị lớn lao
thiên nhiên nơi đây chất chứa. “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” cũng giống như
con người Tây Bắc đã được tôi luyện qua những thử thách, gian lao. Cách sử dụng
từ “vàng” theo cách của Nguyễn Tuân rất “đắt” cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật.
Sông Đà tự bao đời nay vẫn giữ riêng cho mình một vị trí độc tôn giữa núi rừng
Tây Bắc, dòng sông như biểu tượng cho sức mạnh sự hùng của thiên nhiên.
Hai bên sông Đà “đá dựng thành vách” như những thành trì kiên cố, vững chắc khó
lòng xâm phạm. “Những thác nước gầm réo muôn đời” như tiếng oán than của sinh
vật chốn rừng thiêng chỉ trực chờ tước mạng con người. Khi lại như van xin, lúc lại
như khiêu khích, giọng gằn chế nhạo, con sông lúc này đang điên cuồng, hung
bạo đến tột cùng, như trở thành biểu tượng của sự oai linh. Cùng với những
vách đá và tiếng thác nước gầm réo muôn đời, sự xuất hiện của sóng, của đá và gió
sông Đà tạo thành một bản hùng ca sông nước.
Sông Đà mưu mẹo, hiểm ác khi đã bố trí những tảng đá từ hòn to đến nhỏ phối hợp
với các ghềnh thác tạo thành những thạch trận trên sông. Cửa sinh bao giờ cũng
hiếm hoi hơn cửa cửa tử. Sông Đà luôn trực chờ những mái chèo non tay lái để
nuốt gọn vào lòng. Sự bố trí cửa sinh và cửa tử ở mỗi vòng đều khác nhau để đánh
lừa những con người không tường tận sông nước nơi đây. Sông Đà lúc này mang
hình hài là “kẻ thù số một của người lái đò”.
Thế nhưng bên cạnh những hung bạo của dòng sông “đời đời làm mình làm mẩy
với con người y Bắc” thì sông Đà cũng những lúc trữ tình, e lệ đến lạ. Từ
“thứ kẻ thù số một”, sông Đà lúc này lại được ngắm nhìn như một cố nhân. Nắng
sông Đà như màu “nắng tháng Ba đường Thi”, đầy vẻ thú vị khiến người ta quên
béng đi vẻ hung bạo vốn có. Sông Đà khoác lên vẻ dịu dàng của “một áng tóc trữ
tình” và điển lên áng tóc tuôn dài ấy tạo hóa đã ban tặng cho con người Tây
Bắc là sắc trắng của hoa ban, hoa gạo tháng Hai.
Sông Đà đẹp đến nao lòng người, dòng sông thướt tha bao đời dung hòa với đất
trời Tây Bắc như một nét chấm phá nơi đây. Nước sông Đà không chỉ tẻ nhạt một
màu vĩnh cửu mỗi mùa, nước sông lại biến đổi thành những sắc màu khác
nhau. Là “xanh màu xanh ngọc bích” như hân hoan với đất trời mùa xuân, là “lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” mỗi độ thu về.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Không chỉ dòng sông, hai bên bờ sông cũng được miêu tả nên thơ, trữ tình đến lạ.
“Hai bên bờ sông lặng tờ” ntăng thêm nét huyền bí, cuốn hút cho dòng sông
“chốc dịu dàng đấy, rồi lại bẵng tính gắt gỏng, thác ngay đấy”. “Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử”, chưa sự khai phá, động chạm của con người, bờ
sông lúc này vẫn giữ nguyên nét đẹp tựa buổi hồng hoang. Sự xuất hiện của “đàn
hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” khiến đoạn văn như được thổi
bùng sức sống.
Phân tích thứ vàng mười đã qua thử lửa của con người Tây Bắc qua ông lái đò
sông Đà
Ông lái đò được Nguyễn Tuân miêu tả mang đậm hơi thở của những người con
sông nước, ông ng đại diện cho những thế hnhân dân lao động đang ngày
ngày kiến thiết đất nước. Ông đò không tên, không tuổi, không quê hương, người
ta chỉ biết ông gắn bó mười mấy năm cuộc đời với nghiệp lái đò.
Ngoại hình cao lêu nghêu, chân lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp cái bánh lái tưởng
tượng, giọng nói ông ào ào. Ngay cả trong ngoại hình, Nguyễn Tuân cũng sử dụng
những thi liệu từ ng nước để gợi tả ông đò cho thấy sự gắn với ông đò với
dòng Đà giang. Ông như thổ địa nắm trong tay từng chân tơ, kẽ tóc sông Đà, ông
can đảm, mưu trí, ngày ngày đối mặt với những cơn thịnh nộ từ lòng sông để đò
ông cập bến an toàn.
Ông lái đò một tay lái ra hoa được minh chứng với việc ông chèo chống con đò,
đối mặt với dòng nước ng Đà mỗi ngày để mưu sinh. Ông am hiểu từng hòn đá,
thuộc quy luật của từng luồng nước, điều đó ng góp phần làm nên “chất vàng
mười” của con người Tây Bắc nơi đây.
Ngày ngày, biết bao con người Tây Bắc phải gồng mình đối chọi với thiên nhiên
khắc nghiệt để mưu sinh, thể von những con người ấy “đã qua thử lửa”.
ông đò, ta thấy được phong thái tài ba thực thụ không phải ai hành nghề lái đò
cũng có thể có được. Ông bình thản, chú tâm xuyên suốt cuộc chiến với dòng sông
Đà hung bạo kia.
Ông điêu luyện nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, am hiểu từng mạch
nước của con sông Đà hung tợn. Thạch trận của con sông Đà vòng vây nào
cũng bị ông đò ddàng nắm thóp, ông thuộc tất thảy sự bố trí cửa sinh, cửa tử
sông Đà đã dày công sắp đặt. Đối với mỗi trận, ông đều cho mình những cách
đối mặt riêng, khi thì rảo bơi chèo, khi vượt lên đè nát những hòn đá ngỗ nghịch.
Ông đò như một nhà chỉ huy tài ba chèo lái con đò đến bờ an toàn. Một chút thiếu
bình tĩnh hay lỡ tay cũng trả gbằng sinh mệnh, ấy vậy ông đò đối mặt với
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
chuyện ấy nhẹ tựa lông hồng. Ông đò khỏe khoắn, mưu trí, tài ba như đại diện cho
tầng lớp nhân dân đang ngày ngày làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
“Người lái đò sông Đà” như một bản hùng ca về thiên nhiên kỳ nơi Tây Bắc.
Đồng thời cũng bộc lộ được nghệ thuật tài ba của Nguyễn Tuân trong hành trình đi
tìm cái đẹp, ông đã khai thác xuất sắc vẻ đẹp tài hoa của con người bị khuất lấp sau
vẻ ngoài lao động dung dị, giản đơn. Miêu tả thiên nhiên với hai đặc tính hung bạo
trữ tình để làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của con người lao động trong Cách
mạng cũng như trong thời kì kiến thiết đất nước.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 4
Trong “Trường ca mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm từng viết:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gọi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Non sông gấm vóc Việt Nam được tạo nên từ trăm ngàn con sông lớn nhỏ. Từ
những dòng sông đồng bằng mang đến bao phù sa màu mỡ đến những con sông
miền núi cao với tiềm năng thủy điện, chúng đều những vẻ đẹp riêng. Với
Nguyễn Tuân nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp lại bị cuốn hút bởi một con sông
đặc biệt: sông Đà. Vẻ đẹp của sông Đà được Nguyễn Tuân xem là “thứ vàng mười
của màu sắc núi sông Tây Bắc”.
Vàng mười không chỉ đẹp mà còn rất có giá trị. Và có lẽ vì đó mà nhà văn gọi sông
Đà là “thứ vàng mười”. Sông Đà đẹp, nhưng lại mang một vẻ đẹp rất khác, đầu tiên
nằm hướng chảy của . Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Tuân đã trích hai câu
thơ của Nguyễn Quang Bích:
Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu
Trong khi mọi dòng sông đều rủ nhau chảy vhướng đông thì sông Đà ung dung
ngược về phương bắc, chỉ riêng mình nó chảy về phương Bắc mà thôi. Có lẽ vì vậy
con sông này đến hai nét tính cách riêng biệt: hung bạo nhưng cũng rất đỗi
trữ tình.
Sông Đà trước tiên dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Cái hùng của được
thể hiện qua những tảng đá ven bờ được dựng thành vách. Vách cao đến nỗi “mặt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
sông chỗ ấy chỉ lúc chính ngọ mới mặt trời”. Thậm chí, còn “chẹt lòng sông
như một cái yết hầu”. đây, Nguyễn Tuân đã sử dụng biện pháp liên tưởng, so
sánh rất thành công, tái hiện lại cho người đọc được độ cao của vách đá cũng như
sự âm u đáng sợ của sông Đà. Tiếng gầm thét của con sông nghe cũng thật đáng
sợ, suốt năm suốt tháng cứ gầm ghè gào thét, “nghe như tiếng đòi nxuýt” vậy.
Ghềnh Hát Loóng nước đổ dữ dội “nước đá, đá sóng, sóng gió”. Người
lái đò qua đây phải vô cùng cẩn thận nếu không thuyền sẽ bị lật ngửa lên ngay. Tác
giả đã sử dụng biện pháp điệp từ khiến con sông trở nên dữ dội hơn, dồn dập hơn.
Con sông Đà hung bạo còn bởi những cái hút nước chết người. Chúng như những
cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn blàm móng cầu, khi thì “thở và kêu
như cửa cống cái bị sặc”, khi thì “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hút nước vốn
đã ghê rợn lại được nhà văn sử dụng các từ như “thở, kêu, ặc, ặc ăc” càng làm tăng
thêm sự khủng khiếp của chúng. Trong phần này, Nguyễn Tuân đã chứng minh sự
tài hoa uyên bác của mình bằng cách sử dụng vốn kiến thức từ nhiều lĩnh vực từ
điện nh, âm nhạc, hội họa đến xây dựng để miêu tả sự kỳ vĩ, hung bạo của Đà
giang. thể nói, ông người đầu tiên so nh nước với lửa: “nó rống n như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”.
Nước và lửa vốn là hai thứ sức hủy diệt lớn, lại luôn tương khắc nhau, nay dưới
ngòi bút tài ba của Nguyễn Tuân trở thành hai yếu tố hợp sức với nhau để tái
hiện nên cái kỳ của thác nước. Tiếng nước nghe “như oán trách, rồi lại n
van xin, khi thì khiêu khích, giọng gằn chế nhạo”. Tác giả đã nhân cách hóa dòng
sông, biến thành một tạo vật trái tính trái nết, lúc nào cũng gầm gừ gào thét
những âm thanh ghê rợn.
Cái hùng vĩ của sông Đà không chỉ thác nước còn những “trùng vi thạch
trận” đầy hiểm nguy. Tác giả chia đá đây thành ba trùng vi thạch trận. Vòng đầu
tiên “hàng tiền vệ” với bốn của tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm về phía tả ngạn
dòng sông. Chúng nhiệm vụ dụ thuyền vào giữa tuyến rồi “đánh khuýp quật vu
hồi lại”. Tiếp đến là vòng thứ hai. Vòng này tăng thêm cửa tử, cửa sinh được bố trí
về hữu ngạn với những boongke pháo đài có nhiệm vụ tiêu diệt những thuyền vượt
qua vòng một. Trùng vi thứ ba thì ít cửa hơn, cửa sinh lại nằm ở chính giữa. Đi hết
cửa này lòng sông bỗng trở nên thanh bình. Sông Đà hiện n như một loài thủy
quái đầy mưu mô, xảo quyệt. Những loại đá thì như những binh hung tợn, tên
nào tên nấy ngỗ ngược, nhăn nhúm và hiếu chiến. Một lần nữa nhà văn lại thể hiện
sự uyên bác của mình qua lĩnh vực quân sự, thể thao, thuật để miêu tả sông Đà.
Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm tài ba đang kể lại cho chúng ta chuyến thủy
trình đầy hiểm nguy bằng những ngôn từ, liên tưởng cùng sống động. Sự ghê
rợn của Đà giang nghìn đời nay vốn vẫn quyết đấu với con người. thể nói, qua
việc miêu tả thác nước sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên sức mạnh chế
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
ngự tự nhiên của con người. Nhưng suy cho cùng, sự dữ dội của con sông ấy lại
mang về tiềm năng thủy điện, tiềm năng kinh tế cho người dân, đất nước.
Đáng sợ là thế nhưng sông Đà cũng là một dòng sông rất trữ tình. Đi qua cái dữ dội
của thác đá, sông Đà lại trở về một dòng sông thanh bình, dịu êm. Không còn
những trùng vi thạch trận đầy hiểm nguy, không còn những hòn đá ngỗ ngược,
sông Đà lúc này êm đềm với những chuồn chuồn, bươm bướm. Nguyễn Tuân nhìn
sông Đà như một cố nhân. Do đó, ông hiểu cái “chất đằm đằm ấm ấm” thân quen
cái chất thơ mộng mị của cảnh sắc thiên nhiên sông Đà. Ven bnhững bãi
ngô non, cỏ gianh, đàn hươu thong dong gặm cỏ. Sông Đà không chỉ mang
đến tài nguyên thủy điện còn bồi đắp phù sa màu mỡ cho núi rừng Tây Bắc.
Sông Đà, trong mọi hoàn cảnh lại một vẻ đẹp riêng. Khi đi máy bay, người
sẽ thấy đó “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, người lại thấy con sông như “một
áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc”. Theo cách nói
của tác giả, “đối với mỗi người, sông Đà lại gợi cảm theo một cách khác.” Nước
sông Đà đổi màu đa dạng theo thời gian. Mùa xuân, nước sông xanh màu ngọc
bích, màu xanh quý phái khác hẳn sông Gâm sông Lô”. Mùa thu nước sông lại “lừ
lừ chín đỏ”. đặc biệt, nước sông Đà chưa từng màu đen như Thực dân Pháp
“lếu láo” gọi. Rõ ràng, Nguyễn Tuân phải hiểu rất rõ về sông Đà mới đưa ra khẳng
định như thế. Điều đó vừa làm tôn lên vẻ đẹp của sông Đà, vừa thầm kín thể hiện
tình yêu của tác giả đối với dòng sông đặc biệt này. Sông Đà còn là dòng chảy của
lịch sử nước Nam ta. Bởi lẽ, từ đời Trần, sơ, cảnh ven sông đều lặng lẽ
như tờ. Bờ sông bấy lâu nay vẫn tĩnh lặng hoang sơ giờ đây cần được đổi mới. Giá
tiếng còi xe lửa mang theo sự nhộn nhịp giàu sang miền xuôi lên Tây Bắc
thì tốt biết bao! Những câu văn của Nguyễn Tuân như những bản tình ca êm ái,
vừa sống dậy những vẻ đẹp hiện đại, vừa đưa ta trở vvới những miền ức xa
xăm nay chỉ còn là vang bóng.
Nhìn sông Đà như một cố nhân, Nguyễn Tuân thể hiện cái tình cảm tri âm tri kỷ
đối với dòng sông klạ này. Đối với ông, sông Đà không chỉ một tạo vật thuần
túy còn một sản phẩm nghệ thuật cần được trân trọng, khám phá. Bằng cái
nhìn độc đáo, cảm nhận tinh tế, Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thấy “cái chất vàng
mười đã qua thử lửa” một không hai của Tây Bắc. Sông Đà không đơn thuần là
một dòng sông, nó là một nhân tố làm giàu đẹp thêm tương lai đất nước.
Đọc “Người lái đò sông Đà”, ta mới thấy con người suốt đời đi tìm cái đẹp của
Nguyễn Tuân. Không những thế, ta càng thêm yêu thiên nhiên đất nước, say
với vẻ đẹp tiềm tàng của núi rừng Tây Bắc thân thương.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 5
Tây Bắc thật hùng vĩ với vẻ đẹp quý giá của thiên nhiên, nhưng con người còn quý
giá hơn khi chinh phục được thiên nhiên. Chất vàng mười trong Người lái đò sông
Đà được nhà văn diễn tả thành công khi khắc họa nên hình tượng người lái đò.
Nhân vật người lái đò được Nguyễn Tuân xây dựng nên giống như một tượng đài
của nhân dân. Đó hình ảnh về một con người rất đỗi bình thường, không tên,
không tuổi, không quê quán và hoạt động trong một môi trường khắc nghiệt đầy dữ
dội.
Ông lái đò đã gần 70, ngoại hình lêu nghêu, chân lúc nào cũng như khuỳnh
khuỳnh lại như đang kẹp lấy một cuống lái, giọng ào ào như một ghềnh sông.
Cái đầu ông đã bạc nhưng vẫn còn quắc thước với thân người cao to, gọn quánh
đầy những chất sừng, chất mùn… Trong tác phẩm, ông lái đò hiện lên là một người
từng trải, thành thạo và lão luyện với nghề sông nước của mình.
Người lái đò, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân trở thành linh hồn muôn thucủa
sông nước này. Ông được miêu tả làm nghề đò được hơn mười năm rồi. Sự từng
trải hiểu biết về đối tượng chinh phục của ông còn thể hiện việc ông nhớ rất
bảy mươi ba con thác với từng luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà thể hiện ngay vẻ đẹp của người lao
động. Sông Đà như một thiên anh hùng ca bất tận mà ông thuộc lòng đến từng dấu
chấm câu. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân lại đưa vào tác phẩm của mình
những ngọn thác cũng như thời gian mà ông lái đồ cầm lái trên dòng sông này. Tất
cả đều hướng đến chất vàng mười trong người lái đò sông Đà. Ông lái đò làm việc
trong một hoàn cảnh khắc nghiệt đầy thử thách. Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào
môi trường đó để nhấn mạnh làm bật nên chất vàng ời trong người lái đò
sông Đà cũng như cho thấy sự dũng cảm mưu trí của người lao động dù trong hoàn
cảnh khốc liệt nhất của cuộc sống. Đây được xem cuộc chiến đấu gian lao, một
cuộc thủy chiến trên mặt trận của con sông Đà.
Một cuộc vượt thác nguy hiểm được diễn ra nhiều trận, nhiều hồi với nhiều mồ
hôi, như một trận đánh nguy hiểm chết người mà nếu không có sự mưu trí và dũng
cảm sẽ không thể vượt qua được. Chất vàng mười trong người lái đò sông Đà còn
hiện n ngay cả khi người lao động bị thương, đây ông lái đò vẫn cố nén vết
thương, hai chân vẫn khép chặt cuống lái mà chiến đấu.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà còn được cho thấy phong thái đĩnh
đạc của một nghệ tài hoa. Nguyễn Tuân đã trân quý mà nói rằng “đây là một tay
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
lái ra hoa”. Quy luật của con sông Đà vốn khắc nghiệt, bởi chỉ cần một chút là,
một chút thiếu bình tĩnh cũng thể mất mạng. Tại khúc sông này, chỗ nào cũng
thấy toàn những hiểm nguy cả. Người lái đò điêu luyện vừa thuộc dòng sông, nằm
lòng quy luật của đá nơi ải nước lại nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá.
Do đó, mỗi khi vào cuộc chiến, ông lái đò luôn bình nh khôn khéo, giống như
một vị chỉ huy cầm quân tài ba. Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà sự
tài hoa đầy nghệ sĩ của người lao động nơi Tây Bắc này.
thể thấy, người lái đò mang những vđẹp của những người lao động thời kỳ
hiện đại: giản dị, khiêm nhường nhưng lại cùng khỏe khoắn, hùng tráng, tài trí.
Đây chính những con người lao động làm chủ được thiên nhiên, làm chủ cuộc
đời và công việc của mình. Có thể nói, thể hiện những vẻ đẹp của ông lái đò chính
một sự tinh tế sắc sảo trong ngòi bút của Nguyễn Tuân khi đề cập đến chất
vàng mười trong người lái đò sông Đà.
Biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên nơi mảnh đất Tây Bắc chính là hình tượng kì vĩ
lớn lao của dòng sông Đà. Vẻ đẹp của thể hiện nét cho chất vàng mười trong
người lái đò sông Đà. Sự dữ dội, mạnh mẽ và hùng vĩ của thiên nhiên được tái hiện
gói gọn trong vẻ đẹp của con sông Đà.
Với địa thế đầy ấn tượng “hai bên đá dựng thành vách” với lòng sông thì “chẹt lại
như một cái yết hầu”. Sông Đà hiện lên thật hùng nhưng đầy hung bạo hiểm
ác. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt các phép so sánh nhân hóa để thần thánh
hóa sông Đà như một con thủy quái nham hiểm và hung dữ.
Bên cạnh sự hiểm nguy đầy hung bạo, con sông Đà còn mang vẻ đẹp nên thơ
trữ tình. Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông trở thành một thiếu nữ Tây Bắc vừa
mang vẻ hoang dại lại sức hấp dẫn kiều diễm. Đó sự mềm mại thướt tha
êm đềm của dòng sông, màu nước đa dạng thay đổi theo mùa “sông Đà tuôn dài
như một áng tóc trữ tình” hay mang “màu xanh ngọc bích” rồi lại “lừ lừ chín đỏ”…
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà không chỉ vẻ đẹp trữ tình của dòng
sông mà còn ở vẻ đẹp rất đỗi hiền hòa. “Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông
rất đỗi hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xa xưa…”. Hơn thế cảnh sắc ấm áp
tươi vui và đầy sức sống ở hai bên bờ sông.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 6
“Người lái đò sông Đà” thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của
Nguyễn Tuân. Đây thành quả nghệ thuật đẹp đẽ Nguyễn Tuân đã thu hoạch
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả
đã hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của
người nghệ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của
những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng thơ mộng. Thật
đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa hội”, điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn
Tuân, là hình tượng người lái đò vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sĩ tài ba
trong nghề của mình.
Trong các tác phẩm của mình viết trước hay sau cách mạng tháng Tám thì các
nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, tài hoa
nghệ sỹ. Hình ảnh ông lái đò cũng không phải một ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm,
ta sẽ ấn tượng ngày đầu tiên với ngoại hình của ông:
“Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp
lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt
ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó
trong sương mù…”
Sức vóc ông khỏe mạnh chẳng khác gì thanh niên trai tráng mười tám đôi mươi:
“Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to
gọn quánh nchất sừng, chất mun… ông giơ tay lên, đôi cánh tay trẻ tráng q
bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng
trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”.
Những dòng này được nvăn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của một
con người còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghchính con người đó. Chỉ
yêu quý nghề, gắn sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai sương dong
duổi chở khách trên con sông Đà hùng thì ngoại hình mới mang đậm dấu ấn
nghề nghiệp như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của Nguyễn Tuân, ông
luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” đó
không bao giờ chỉ một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên chú đọc ta mới khám phá
ra được nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.
Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái đò còn ẩn
chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo nghề. Ông
một linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược
hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền
then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm
của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt nhớ tỉ mỉ 73 con
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
thác, như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của con thác hiểm trở. Hơn
thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông
thuộc lòng đến cả những cái dấu chấm than, chấm câu cả những đoạn xuống
dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc
mười năm liền đã nghỉ làm nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên
cường dường như không hề suy chuyển. Ông vẫn rất tự tin rằng: “Tôi bỏ nghề
đã lâu rồi nhưng nay cho lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò khắp
mấy châu địa giới loang ra bờ sông Đà, cũng còn cái linh lợi để trở mừng một
phái đoàn trung ương vừa lên vừa xuống thăm khảo sát toàn bộ sông Đà cho
đến biên giới Trung Quốc”.
Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất qua trận
thủy chiến với sông Đà. Vđẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc họa trong
tương quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng trải thôi thì
chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được đòi hỏi phải lòng dũng cảm,
gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đã đưa nhân
vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt đó, tất cả những phẩm chất ấy
được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây chính là
dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng ông lái đò, phẩm chất dũng cảm, gan dạ,
kiên cường chỉ được bộc lộ rõ nhất khi nhận vật đối mặt với khó khăn, nguy hiểm.
Giả sử đặt ông lái đò trong khung cảnh thi vị, trữ tình của sông Đà thì hình tượng
lại phát triển theo một hướng khác, trở thành một nghệ sỹ đa tình lẫn vào thế giới
nhân vật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Còn đây, ông lái đò trở thành
người anh hùng nghệ sỹ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính cuộc
vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận
đánh mà đối phương đã hiện ra ngay diện mạo và tâm địa độc ác của kẻ thù số một,
lực lượng đá hậu, đá tượng, đá tiền về với nhiều thủ đoạn nham hiểm tạo thành một
lực lượng hùng hậu, đông đảo, ddằn nham hiểm. Sông Đà đã giao việc cho
mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi. Trùng vì một có 4 cửa tử
1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước la vang dậy vào bẻ gãy
cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất
lên. Vì thế sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng.
Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình giữa
trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao đối phương, ông
lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái,
mặt móc bệch.Ông chỉ huy hết sức ngắn gọn tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị
chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch
trận thứ nhất ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều
cửa tử đđánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
thật nham hiểm xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ. Bốn, năm bọn
thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền ra định nhử thuyền vào tập đoàn cửa tử.
Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, không một
chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì
cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng phóng nhanh vào cửa sinh lái miết
một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu luyện. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên
phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một
ông lái đò sáu tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn
kiệt sức lực giữa một thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão
luyện dày dặn kinh nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa
giữa. Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong
lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa
xuyên, vừa tự động lái được. Thế kết thúc. Tác giả đã rất dày công khi miêu tả
trận thủy chiến với con sông Đà của ông lão lái đò. Một loại những hành động
nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng thẳng, i miết một đường, chọc thủng, xuyên
nhanh,… Kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi
nên một cuộc giao tranh giáp một sống, một chết. n nữa thư pháp nghệ
thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng
lên hai phe đối lập: một bên thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên con
người nhỏ nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm khả năng chinh phục thiên nhiên
kỳ diệu. Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng
thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.
Với ngòi bút tài hoa sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể thao, võ
thuật, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình thường thành
bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một anh hùng, một
nghệ sỹ lái đò trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa dũng sĩ, vừa
nghệ tay lái ra hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người lao động trong công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào trong truyện ngắn “Mùa lạc”
của Nguyễn Khải, tình nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, không chỉ
tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ xa xôi biết mấy
cũng lên đường”, mà cùng với họ, ông lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn
lên vẻ đẹp, phẩm chất của người lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa
hội những năm 55 – 60.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 7
Giữa cánh đồng văn chương rộng lớn, người nghệ sĩ nhỏ bé như những hạt bụi bay
lượn trong không khí đtìm chất vàng trong bộn bề của cuộc sống. Với Nguyễn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Tuân, chất vàng mà ông tìm được qua chuyến đi gian khổ đó là chất vàng mười của
thiên nhiên và ở đó ông đã làm nổi bật lên “thứ vàng mười đã đi qua thử lửa” ở tâm
hồn của những người lao động. Điều đó được thể hiện trong tùy bút “Người lái đò
sông Đà” đặc biệt được tô đậm qua hình tượng người lái đò.
Văn chương chính là nguồn cảm xúc bất tận chảy trong những người nghệ sĩ, chính
những cảm xúc ấy đã thôi thúc nhà văn phải tìm nguồn đề tài cầm bút lên sáng
tác. Mỗi tác phẩm ra đời cả một quá trình thai nghén, người nghệ phải lặn
ngập trong biển lớn cuộc đời đtìm cảm xúc, cũng chính vậy mỗi một tác
phẩm ra đời là cả một quá trình gian khổ. Cũng như Nguyễn Tuân, tùy bút sông Đà
là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà ông đã thu hoạch được trong chuyến đi gian kh
và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc. Chính lúc đó, ông bắt
gặp một cảnh làm mạch cảm xúc của ông tuôn trào không kìm nén đó vẻ đp
tâm hồn của người lao động con mắt tinh tế của ông dường như nhìn thấy được vẻ
tâm hồn ấy qua vẻ đẹp của thiên nhiên đó ông gọi “thứ vàng mười đã qua
thử lửa”. Tất cả được ông thể hiện qua nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái
đò sông Đà”. Dưới ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân, dường như mọi nhân vật đều
trở nên mới mẻ độc đáo, hình tượng người lái đò chính nhân vật điển hình
cho “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của ông.
đây, “thứ vàng mười” chính vẻ đẹp tâm hồn của người lao động không ai
khác chính ông lái đò, vđẹp ấy đã qua thử lửa bởi chính con mắt tinh tế của
Nguyễn Tuân là một ngọn lửa nóng chảy. Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân xây dựng
hình tượng người lái đò với hai tính cách đó sự chí dũng kiên cường chất tài
hoa nghệ sĩ, hai tính cách đối lập đã làm nổi bật lên phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân.
Bước vào tác phẩm, ta bắt gặp ngay tên đề “Người lái đò sông Đà”. đây, tác
giả miêu tả làm nổi bật con sông Đà nhưng đó không phải trung tâm của tác
phẩm cái ông muốn hướng đến người lái đò. Ông miêu tả sâu sắc con sông
Đà chỉ đlàm nổi bật hình tượng người lái đò, chính nét đẹp vốn được ẩn hiện
trong con người nhỏ kia được tác giả khai thác đến. Nếu như sông Đà hiện lên
với vẻ hùng vĩ, dữ dội thì người lái đò lại có sự chí dũng cao cường để chế ngự
sông Đà cơ vẻ đẹp nên thơ trữ tình thì người lái đò hiện lên với chất tài hoa nghệ sĩ
đó sự hòa hợp, đối xứng với thiên nhiên mà Nguyễn Tuân thấy được ở người lái
đò.
Sự chí dũng, kiên cường của người lái đò được ông thể hiện trận thủy chiến với
con sông Đà. Ở đây, có sự đối lập mà tác giả đem đến đó là giữa ông lái đò con
sông Đà. Ông lái đò là một người già yếu, nhỏ bé với sáu cánh chèo như que tre mà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
phải đối mặt với con sông Đà dữ dội, nước chảy hùm beo như muốn nuốt chửng
người lái đò. Nhưng với sự chí dũng, kiên cường của mình, ông đã dũng cảm tiến
về phía trước. Con sông Đà dữ dội, chia thành mấy đợt đánh chiến thuật
riêng, đợt một bốn cửa tử một cửa sinh cửa sinh lại nằm phía tả ngạn,
đợt hai ít cửa tử hơn luồng sinh nằm phía hữu ngạn đợt ba chỉ hai
cửa tử và luồng sinh ở đợt này lại nằm ở giữa những hòn đá tiền vệ. Nhưng với con
mắt tinh tế, ông linh hoạt trong từng đợt đánh, có lần sông Đà liên tục tấn công làm
người lái đò nôn nao trên chiếc thuyền nhỏ bé, chúng húc vào hông thuyền như
muốn lật đổ, đã mệt mỏi, da tái nhợt đi nhưng với sự quyết tâm, ông lái đò ghì
chặt những mái chèo để chiến đấu tiếp.
một người lái đò nhưng ông như một thiên hùng ca khi ông thuộc lòng
những luồng sóng, vách đá thậm chí thuộc từng dấu phẩy, dấu chấm thế nên
không ai làm khó được ông, cho dù con sông Đà có dữ dội đến mấy. Sau khi bị tấn
công liên tiếp, ông lái đò ghì chặt mái chèo, xông thẳng lên như một viên tướng
cầm quân đang thuần phục con tuấn mã, ông xông lên ngọn sóng ghì chặt nắm lấy
dây cương sấn đôi ra để mở đường tiến. sông Đà những dãy đá được bày
sẵn ra như một bát quái chở người lái đò đến nhưng sự thông minh, khéo léo, ông
đã vượt qua một cách suôn sẻ. một người sống với nghề chèo đò vượt thác,
người lái đò không lạ lẫm với sông nước với những trận thủy chiến như thế này.
Tuy nhiên, ở ông ẩn hiện ra vẻ đẹp của người lao động mang sắc thái của người
nông dân Việt Nam cần cù, chăm chỉ, đó chính “thứ vàng mười” được phát hiện
qua con mắt tinh tế của Nguyễn Tuân như một phát hiện mới mẻ các nhà văn
đã bỏ qua. Cùng với sự phát hiện mới mẻ ấy, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân lại
càng trở nên độc đáo hơn.
Không những thế, “chất vàng mười” còn được Nguyễn Tuân miêu tả ở chất nghệ sĩ
tài hoa của người lái đò. Đây như một hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn chỉ
những nhà văn chân chính mới thể nhìn thấy. Văn chương phải tâm hồn.
Chính vậy, nhà văn luôn đi tìm những n ẩn nấp sau tâm hồn kia như
Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Nhà văn phải người đi tìm những hạt ngọc ẩn
giấu trong tâm hồn con người”. Nguyễn Tuân, không chỉ những người làm
nghệ như ông thì mới được gọi nghệ sĩ, những người với công việc thường
ngày, họ làm hết mình với công việc của mình thì họ cũng nghệ chân chính.
Ông lái đò với nghệ thuật chèo đò vượt thác của mình, ông trở thành người nghệ
chân chính. Nghề ông làm một nghề trước Cách mạng không được coi
trọng, bị xem thường. Nhưng qua đây, Nguyễn Tuân cũng cho ta thấy rằng đây
không chỉ một nghề chân chính, trong công việc ấy, ông làm trong sự im lặng
như một sự cống hiến cho cách mạng, công việc ấy công việc ông làm hàng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
ngày để kiếm kế sinh nhai để lo cho cả gia đình, không chỉ vậy còn làm đẹp
cho xã hội. Trước công việc ấy, ông như một người anh hùng chính nghĩa đánh bại
kẻ thù để tìm đến sự vang dội, oai hùng.
Chính lúc ấy, trong nghệ thuật chèo đò của mình, người lái đò còn được hiện lên
với vẻ đẹp tài hoa, đó là sau khi đánh trận thủy chiến, ông lái đò lại vào trong hang,
mỗi khi ông đi ông buộc một bu đằng sau. Đó không chỉ thể hiện đó
thời gian đó n gợi nhớ đến quê hương, nhớ đến mảnh đất sinh sống của
mình. Trong cái hang ấy, tối lạnh, ông đã đốt lửa thấy như những làn khói
của sông Đà. Cùng với con mắt quan sát tinh tế, người nông dân hiện lên nmột
vị thần sông nước, cùng với con thuyền nhỏ, như một vị tướng oai hùm giữa
sông Đà dữ dội. Cũng chính những con người như ông con thủy quái sông
Đà mới được hàng phục, từ đó ta thấy cái Nguyễn Tuân thấy thật đẹp đẽ,
một vẻ đẹp mà khó bắt gặp lần hai.
Nét đẹp của người lái đò thật mềm mại qua bút pháp của Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp ấy
được thiên nhiên làm nên như một bức chân dung vững chãi đứng con sông Đà.
Chất vàng mười ông khám phá như một nét độc đáo chưa nhà văn nào
đụng tới. Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò được hiện lên một người
lao động linh hoạt, ông chính là con người tiêu biểu trong việc chế ngự thiên nhiên,
để thiên nhiên phải hằng phục và phục vụ cho con người sau này. Việc làm cao cả
được Nguyễn Tuân miêu tả sâu sắc làm nên nét độc đáo của tác phẩm.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 8
Nguyễn Tuân nhà văn "cả đời đi tìm cái đẹp", sau chuyến đi Tây Bắc, nhà văn
đã khám phá được "chất vàng mười" trong thiên nhiên con người nơi ấy, thể
hiện rõ nét qua hình tượng người lái đò sông Đà trong bút kí "Sông Đà".
Trước hết, Nguyễn Tuân đã khám phá được ở con người lao động ấy vẻ đẹp của sự
dũng cảm, kiên ờng. Chỉ vài nét phác họa tài hoa nhà văn như chạm khắc
hình tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước. Nguyễn Tuân đưa nhân
vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt đó, tất cả những phẩm chất ấy
được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi
đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một
quãng thuỷ chiến mặt trận sông Đà. Đó chính cuộc vượt thác đầy nguy hiểm
chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh đối phương đã hiện
ra diện mạo tâm địa. Phải thấy được cái hùng vĩ, hiểm nguy của con thủy quái
sông Đà, ta mới thấy được sự mưu trí dũng cảm của ông đò. Mở đầu bài lời đề
từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Khẳng định nét độc đáo của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
dòng sông Đà: Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ sông Đà chảy theo
hướng Bắc Khẳng định tính độc đáo của. Nguyễn Tuân không khỏi làm ta ngỡ
ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con Sông Đà. Cảnh đá bờ sông dựng vách
thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới
mặt trời”. “Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. quãng con nai con hổ đã lần
vọt từ bờ này sang bờ kia”. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng một cái ngõ ngóng vọng
lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, ẩn
của dòng sông. Một nơi lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách
đá cao vút, vững chãi giờ đây đang trở nên nguy hiểm cùng. Cứ thử tưởng
tượng con thuyền nào kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không
xong, chỉ chờ sóng nước đá đập cho tan xác thôi. “Không thuyền nào dám
men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng trèo nhanh đlướt quãng sông”,
“chèo nhanh tay lái cho vững phóng qua cái giếng sâu”, “nhiều gỗ rừng
đi nghênh ngang ý những cái giếng hút ấy lôi tuột xuống”, “có những
thuyền đã bị cái hút hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến
đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác khuỷu
sông dưới”. Ám ảnh, đe dọa con người. Vậy ông đò đã đối mặt với con thủy
quái ấy suốt hơn 10 năm trời, chẳng hề ngại ngần đối mặt chinh phục. Chỉ huy
lèo lái con thuyền vượt qua những cửa ải hiểm nguy, dù đau nhưng vẫn cố nén vết
thương, quả thực như một vị tướng gan dạ anh hùng.
Không chỉ kiên cường, dũng cảm, người lái đò còn mang vẻ đẹp của một nghệ
tài ba, cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió đá qua ba
thạch trận. Trước hết trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng
với những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”..;, “đá
tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh
đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để đậm sức mạnh của đội quân
đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”,
‘canh cửa”, “hất hàm’…Cộng hưởng với những động từ những tính từ làm nổi
bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó…Tất cả làm nổi bật thế
lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân
sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc
bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá nước, “phối hợp với đá, nước thác reo
làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác
liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp cà, đánh
khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh
vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân
sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chính
là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái
đò. chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò sức chịu đựng phi thường “ông đò
cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”…chỉ huy ngắn gọn kín đáo
ông đã chiến thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”. trùng vi thạch trận
thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc
tế mạnh”, bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”…Những động từ mạnh
vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ
so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông
nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang đtiếp tục tôn lên thế
hào hùng của ông lái đò. Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng
vây thứ hai đổi luôn chiến thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông,
thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kích của đá” nên ông chủ động tự tin
nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm
sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để mở đường tiến”. Những động từ
mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng
thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông lái đò đó
mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Nếu cuộc giao tranh thứ nhất thứ hai Nguyễn
Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì
chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái
đò. Nguyễn Tuân miêu tả “bên phải, bên trái đều luồng chết” khiến ông lái đò
phải vận dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước
như nghệ lái bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”…những
động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh
mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được
độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được sự tài hoa khéo léo của ông đò.
Nguyễn Tuân đã tìm thấy được chất vàng mười trong con người Tây Bắc, họ
những người lao động danh nhưng lại mang trong mình một vẻ đẹp vừa anh
hùng, vừa tài hoa đậm chất nghệ sĩ. Vẻ đẹp ấy chính vẻ đẹp của thời đại mới,
cuộc sống mới với bao tin tưởng, hy vọng.
| 1/33

Preview text:

Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Dàn ý phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà Dàn ý số 1 1. Mở bài
Nguyễn Tuân là một nhà văn suốt đời đi săn tìm cái đẹp. Trước cách mạng, ông
quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ Vang bóng một thời và tài hoa nghệ sĩ chỉ
có ở những con người xuất chúng của thời trước còn vương sót lại. Còn sau cách
mạng, ông không đổi lập quá khứ với hiện tại, đặc biệt là phẩm chất tải hoa có thể
tìm thấy ở nhân dân đại chúng. Tùy bút Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà
Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền
Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng mười của
thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ờ tâm hồn của những người lao
động. Và hình ảnh ông lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà lả một minh
chứng sống động cho sự thay đổi quan niệm nghệ thuật ấy. 2. Thân bài
a) Khái quát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
- Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa, uyên bác bậc nhất của văn học
Việt Nam hiện đại. Cuộc đời sáng tác của ông là đi sân tìm cái đẹp. Cho nên, ưng
con mắt của tác giả, mọi đối tượng thiên nhiên và con người đều tồn tại trên
phương diện thẩm mỹ, lấy cái đẹp làm tiêu chuẩn.
- Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân chia ra làm hai thời kì lớn: trước và sau cách mạng.
- Những năm trước cách mạng, Nguyễn Tuân còn đam mê chủ nghĩa lãng mạn,
ông chối từ hiện tại, tìm về với vẻ đẹp cội nguồn của vần học sùng cổ, hoàn toàn xa
lạ với cuộc cách mạng của chúng ta. Nhưng từ sau năm 1945, một lớp văn nghệ sĩ
như Nguyễn Tuân cố sự giác ngộ tư tưởng, họ tìm được đến với Ánh sáng, phố xá
của cách mạng. Nguyễn Tuân cũng hồ hởi với công việc này nhưng ông không lấy
văn chương làm công cụ tuyên truyền cách mạng mà ông thể hiện tinh thần yêu
nước ở phương diện khác. Đó là sự đam mê, khám phá vẻ đẹp của non sông, đất
nước. Trong đó có dòng sông Đà, đảo Cô Tô, đảo Bạch Long Vĩ,...
+ Với đòi hỏi của thời cuộc, Nguyễn Tuân cũng lao mình vào thực tại để hòa nhập
vào công cuộc xây dựng kinh tế sau chiến tranh, để hàn gắn vết thương mà kháng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
chiến chống Pháp để lại. Nguyễn Tuân cùng các đồng nghiệp của mình không quản
khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến với miền Tây Bắc để tìm cho ra, cho thật
nhiều: “Cái thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười
mang sẵn trong tâm trí của những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với
công việc, xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững’*. (Nguyễn
Tuân). Vì vậy, cảm hứng chủ đạo trong tùy bút này là ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi
nhân dân, những con người thầm lặng, vô danh mà vĩ đại.
- “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động: để chỉ vẻ
đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng
vĩ và thơ mộng. Họ là những con người bình dị, đời thường nhưng có khát khao
chinh phục và làm chủ thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên, góp phần nhỏ bé của
mình vào công cuộc xây dựng kinh tê đất nước, vẻ đẹp “qua thử lửa” chính là
những khó khăn, gian khổ mà họ đã trải qua trong công cuộc chinh phục thiên
nhiên, vẻ đẹp đó sáng ngời như một thứ “vàng mười” của thiên nhiên Tây Bắc.
b) Khái quát về tác phẩm:
- “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập kí “Sông Đà”, đây là một tác phẩm tùy
bút có giá trị rất sâu sắc cả về văn học và xã hội. Tác phẩm này là kết quả của một
cuộc hành trình lớn mà Nguyễn Tuân tìm đến Tây Bắc để tìm kiếm “thứ vàng
mười của thiên nhiên và thứ vàng mười của con người lao động đã qua thử lửa”.
Tác phẩm này còn đặt nền móng cho nhiều dự án mang tính lịch sử - chính trị-xã
hội sâu sắc nhưng hơn hết được mệnh danh là một tác phẩm văn chương gần như
đạt đến sự hoàn mỹ.
- Tập kí “Sông Đà” ra đời năm 1960, trong công cuộc xây dựng vùng Tây Bắc sau
chiến tranh. Mỗi nhà văn, nhà thơ lại mang đến cảm hứng riêng của mình cho đề
tài này. Chế Lan Viên hồ hởi với chuyến tàu lên Tây Bắc, còn Nguyên Khải lại
thấy sự đổi thay trong con người. Cũng trong đề tài đỏ, Nguyễn Tuân khám phá và
phát hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc như bàn thể của núi rừng.
Nó chính là thủ vàng mười mà nhà văn đang tìm kiếm.
c) Hình tượng người lái đò sông Đà:
- Hình ảnh người lái đò trong tác phẩm không được miêu tả chi tiết về hình ảnh và
cá tính mà phần lớn được gợi lên thông qua vẻ đẹp của con người lao động trí tuệ và tài hoa.
- Trong tác phẩm, nhà văn xây dựng hai nhân vật đó là con sông Đà và người lái đò
trên dòng sông ấy. Đỏ là một dụng ý nghệ thuật cao tay của bậc tu từ tài hoa. Bức
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
tranh thiên nhiên dữ dội, con quái vật hiểm ác, kẻ thù số 1 kia chỉ là phông nền để
tác giả tô vẽ, ngợi ca, tôn vinh sức mạnh kì vĩ của con người. Vì thế, hình tượng
người lái đò sông Đà được nhà vãn xây dựng như một dũng tướng tài ba, là một
nghệ sĩ lão luyện trong nghề chèo đò vượt thác.
- Vốn dĩ xuất thân từ núi rừng nên ông lái gắn bó chặt chẽ với cuộc sống nơi đây.
Ông sinh ra trên bờ sông Đà, dòng sông thác lũ đó là nguồn nuôi sống chữ ông
ngay từ khi còn đỏ chỏm. Cho đến cuộc sống sau này, cuộc đời Ông vẫn là những
hành trình leo thác, vượt sông, hình như con người và thiên nhiên gắn bó mật thiết
cho nên khi đã nghỉ đò mà ông vẫn nhớ về thác lũ và trận địa đá trên sông.
- Trên dòng sông Đà, người lái đò xuôi ngược cả trăm lần. Dòng sông với ông
“như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than,
chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu được quy luật của các dòng nước,
đóng đinh vào trí nhớ của mình từng con thác, xoáy nước, luồng xanh luồng dữ,
cửa sinh, cửa tử; thông minh, gan dạ, hoạt bát, tự tin như một dũng tướng trong
trận đồ bát quái, đua người và hàng vượt qua 73 con thác đến đích an toàn. Con
người ấy được ví như “thứ vàng mười” nhưng lại là một tay nhà đò nghèo khổ, tay
lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy cái cuống lái
tưởng tượng, giọng ồn ào như tiếng thác nước mặt ghềnh sóng, nhỡn giới vòi vọi
như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Thân hình cao to
và gọn quánh như chất sừng chất mun, khuôn mặt khắc khổ in hằn dấu vết của
công việc đầy gian nan, nguy hiểm. Ông là một nhân vật không tên, vì ông là đại
diện cho bao nhiêu con người trên đất nước Việt Nam ngày đêm âm thầm, cần mẫn
trong lao động, không ngừng phải đối diện với thiên tai địch họa để giành lấy sự
sống và bảo vệ quê hương đất nước. Nhờ đó mà hình tượng trở nên lớn lao, kì vĩ.
- Người lái đò là người rất mực trí dũng và bàn lĩnh .Để làm nổi bật phẩm chất này,
Nguyễn Tuân đã có dụng ý nghệ thuật sâu xa là để cho người lái đò xuất hiện trên
một hoàn cảnh đầy thử thách, khốc liệt. Nguyễn Tuân khẳng định “Ông muôn ghi
cái đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đỏ trên chiến trường
sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà”. Nhà văn đã mô tả một
cách chân thật vừa trân trọng, vừa yêu thương, vừa cảm phục nhân vật ông lái đò
vô cùng hiên ngang, trí dũng trong cuộc chiến đấu với những con sóng, con thác
đầy hung dữ, nguy hiểm. Cuộc vượt thác, thủy chiến dữ dội có nhiều hồi, nhiều
đợt, mỗi đợt lại có những thử thách ác liệt khác nhau, dòng sông bày ra những
thạch trận hiểm hóc khác nhau: “Đá ờ đây từ ngàn năm vẫn mai phục trong lòng
sông...để vồ lấy con thuyền. Đá bày ra thạch trận trên sông với những boongke
chìm và pháo đài nổi, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá
phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”. Kho từ vựng giàu có
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
và vốn kiến thức văn hóa khoa học phong phú, uyên bác như quân sự, võ thuật, thể
dục thể thao, điện ảnh...của Nguyễn Tuân được dịp huy động để miêu tả cuộc thủy
chiến ác liệt giữa người lái đò và sóng thác sông Đà: “Sóng nước thúc gối vào
bụng và hông thuyền... có lúc chúng đội cà thuyền lên... sóng thác đã đánh đến
miếng đòn hiểm độc nhất”. Có lúc tưởng như ông lái đò sẽ bị con thủy quái sông
Đà vô cùng hung bạo ấy ngấu nghiến nuốt chửng. Trước sức mạnh của kẻ thù số
một của con người, ông lái đò vẫn không hề nao núng, trái lại vẫn bình tĩnh chủ
động chiến đấu một cách dũng cảm đầy mưu trí như một vị chỉ huy tài trí tuyệt vời,
điều khiển con thuyên lần lượt vượt qua các thác ghềnh như “Phá cái trận đồ bát
quái của dòng sông hung bạo”... “Dòng nước hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên
sông Đà”. Những người lái đò vẫn "Cười lên thác sông Đà.. .đến cùng như cưỡi hổ”.
- Người lái đò tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò còn là người rất mực tài hoa, có phong
thái ung dung, pha chút nghệ sĩ. Sóng, thác sông Đà rất khắc nghiệt, chỉ cần người
lái đò một phút thiếu chính xác, khỉnh suất, nhỡ tay, hoa mắt là có thể phải trả giá
bằng cả chính sinh mạng của mình. Nhung sóng, thác sông Đà đù cớ hung dữ đến
đâu, cũng bị khuất phục trước người lái đò trí dũng đó. Bởi người lái đò là một
nghệ sĩ có kĩ nghệ chở đò kỳ diệu. Nghệ thuật ấy được biểu hiện rõ nhất ở khả
năng nắm chắc quy luật tất yếu của sông Đà, nhờ thế mà người lái đò ớ tư thế chủ
động, tự do, người chiến thắng. Ông lái đò đã nắm chắc mọi quy luật của dòng
sông. Lúc thì “ông cưỡi thác nắm lấy bờm sóng mà phóng nhanh qua cửa tử” lúc
lại “Ghì cương đè sấn lên mà chặt đôi con thác để mở đường tiến”. Bằng những
động tác thuần nhuyễn trong nghề nghiệp của mình, ông lái đò đã lái con thuyền
“như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước”, xuyên qua biết bao ghềnh thác hiểm
nghèo của dòng sông hung bạo này. Nguyễn Tuân gọi người lái đò của mình có
“tay lái ra hoa” là như vậy. Người lái đò trở thành một người nghệ sĩ, một người
anh hùng chiến thắng thiên nhiên.
- Ông lái đò còn hiện lên với vẻ đẹp của người lao động bình dị: Khác với cảm xúc
của tác giả, thì việc vượt sông của ông lão chi là công việc lao động bình thường,
ông đã quên ngay khi hành trình kết thúc. Con sông Đà hung dữ như vậy nhưng
ông chỉ coi nó như chiếc lá thu. Ông đến với nó như người lắm chứng nhiều tật
nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó và lắng nghe âm vang của nó, thủy
chung với nó. Quà mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm lại tan biến: “Sóng thác xèo
xèo tan trong trí nhớ”. Hộ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá
dầm xanh, như không hề có chuyện gì xảy ra, cho dù ngày nào họ cũng phải vật
lộn, đối mặt. Đó là vẻ đẹp bình dị của những con người lao động trên miền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Tiểu kết: Với cá tính sáng tạo độc đáo, Nguyễn Tuân luôn có những phát hiện mới
lạ nơi con người và sự vật. Nhà văn mang đến cho người đọc một cảm nhận thú vị
về vẻ đẹp của con người lao động, chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở những nơi
chiến trường, nó hiện hình ngay trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân ta phải
lao động, vật lộn với miếng cơm, manh áo và cho những điều lớn lao hơn thế. Trí
dũng, tài hoa không phải tìm ở đâu xa mà nỏ hiện hữu ngay trong những con người
bình thường, giản dị nhưng luôn ánh lên “chất vàng mười” vô cùng quý giá. Cuộc
đời ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu là một khúc vĩ thanh tuyệt vời của
núi rừng Tây Bắc, là ngọn nguồn sáng tạo nghệ thuật chân chính của người nghệ sĩ.
Vì lẽ đó, tác phẩm đã trở thành một tuyệt phẩm vinh danh sự tìm tòi và sáng tạo
không ngừng trong cuộc đời lao động nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Ông xứng
đáng là “ông vua” của thể loại tùy bút - một bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại
d) Những nét đặc sắc trong nghệ thuật kí của Nguyễn Tuân
- Thiên tùy bút mang đậm cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa,
uyên bác ở cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương diện thẩm mĩ, văn
hóa: dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của Tạo hóa;
người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng, tài hoa, nghệ sĩ.
- Vận dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như hội
họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,., .huy động kiến thức của nhiều lĩnh vực: địa lý,
lịch sử, võ thuật, thể thao, quân sự để xây dựng hình tượng.
- Sử dụng hình ảnh mới lạ, độc đáo, hấp dẫn.
- Sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, liên tưởng, tưởng tượng làm cho
đối tượng miêu tả trở nên sống động và hấp dẫn hơn.
- Tất cả những kết tinh nghệ thuật như trẽn đều nhằm làm nổi bật vẻ đẹp của dòng
sông Đà hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình; vẻ đẹp của người
lao động trên sông nước rất đỗi bình dị, kỳ vĩ mà lớn lao. 3. Kết bài
Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và khâm phục
trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà
văn gọi là “chất vàng mười" quý giá của Tổ quốc. Sáng tạo nên hình tượng này,
Nguyên Tuân đã mang đến một thông điệp: chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm
đâu xa, nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động và
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
những người bình dị có trí dũng tài ba, họ có thể tạo hình tạo mẫu cho nghệ thuật văn chương. Dàn ý số 2 I. Mở bài:
– Giới thiệu được hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác tùy bút sông đà của Nguyễn Tuân.
– Giới thiệu vấn đề nghị luận: “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái đò. II. Thân bài:
- Giải thích một cách ngắn gọn ý của cụm từ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” – từ
dùng của Nguyễn Tuân – để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và
chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng.
- Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của ông lái đò sông Đà:
● Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của nhân dân (không tên, tuổi, quê quán).
● Đó là một người lao động rất đỗi bình thường hoạt động trong một môi
trường lao động khắc nghiệt, dữ dội.
● Ông am hiểu đối tượng mà mình đang chinh phục. * Sự từng trải:
- Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng
trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết : người lái đò còn là một
linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên
sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu
chục lần… Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười
ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả
những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với
ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những
cái chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà
nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời
gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn
bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng,
ngọn thác hung dữ ở sông Đà.
- Ông mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong cuộc
sống lao động hàng ngày:
- Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất
cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống
của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến
trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc
vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận
đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.
- Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây
ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào
xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường
ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đất nào trông
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên
sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền,
một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có
đá dàn trận địa sẵn.
- Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng
trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là
nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy
mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị
thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái,
mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào
chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng
vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng
thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ
động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua
cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền
như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được
lượn được. Thế là kết thúc. + Nghệ sĩ tài hoa :
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
- Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ
tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng,
không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng
mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến
trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây
dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra
hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ
được nó nên có tự do.
- Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu
bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà
ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như
người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy
lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật
của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá.
Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba
+ Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện đại mới:
giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí.Đó là những
con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. III. Kết bài:
– Khái quát lại vấn đề: Nhận xét chung về vẻ đẹp của ông lái đò, đánh giá nghệ
thuật miêu tả của Nguyễn Tuân: đặt nhân vật vào tình huống đầy cam go, thử thách
để nhân vật bộc lộ tính cách phẩm chất; phối hợp những thủ pháp tiêu biểu của các
ngành nghệ thuật khác để miêu tả và kể chuyện…
– Rút ra bài học cho bản thân.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà cực hay - Mẫu 1
Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nếu hỏi ai là người được hết lời ca ngợi có biệt
tài “điều khiển chữ nghĩa”? Ai là “người thợ kim hoàn rèn chữ”, là “bậc thầy của ngôn
từ”? Ai có một tính cách “trộn không lẫn”? Ai lại có vai trò như một “hòn đá tảng”
trong “cái nền còn mới mẻ của văn xuôi tiếng Việt ta”? Thì câu trả lời chắc chắn
không thể là nào khác ngoài Nguyễn Tuân. Ông có nhiều tác phẩm, tập truyện, tập kí
nổi tiếng và một trong số đó có “Người lái đò sông Đà”. Trong tác phẩm, nhà văn
Nguyễn Tuân đã khắc họa chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
lửa” ở tâm hồn của những người lao động. Đặc biệt gây ấn tượng trong tác phẩm là
hình tượng người lái đò, đại diện cho “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ấy.
“Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút được in trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn
Tuân. “Sông Đà” là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được
trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi (1958) không
chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến những miền đất lạ cho thỏa niềm khát khao “xê dịch",
mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử
lửa" ở tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ
và thơ mộng đó. Vì thế, “Sông Đà” nói chung và bài tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”
nói riêng cho ta nhận ra diện mạo của một nhà văn Nguyễn Tuân mới mẻ, khát khao
được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời này. Không giống với Nguyễn Tuân trước
Cách mạng tháng Tám, con người chỉ muốn xê dịch cho khuây cảm giác "thiếu quê
hương”. “Sông Đà” nói chung và “Người lái đò sông Đà” nói riêng còn tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc
nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm
cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động người đọc nhiều nhất.
Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn ưa cảm giác mạnh. Với người nghệ sĩ
này, đã là đẹp phải đẹp tuyệt mĩ, đã là dữ dội phải dữ dội đến khác thường, đến tột
đỉnh. Ông không thích những gì tầm thường. Người lái đò đáp ứng được yêu cầu
thưởng thức nghệ thuật đặc biệt đó của Nguyễn Tuân vì người lái đò vừa là một người
nghệ sĩ tài hoa, một người đã đạt tới trình độ điêu luyện trong nghề nghiệp và có đời
sống tâm hồn đậm chất nghệ sĩ. Song ông lái đò cũng đơn thuần chỉ là một người lao
động bình thường, thầm lặng và vô danh, không tên tuổi như biết bao con người khác.
Chất vàng mười đã qua thử lửa là ở chỗ ấy, bởi con người lao động bình thường nhờ
tôi rèn đã thành thứ tài sản quý giá của đất nước.
Ông lái đò hiện lên là một ông lão đã 70 tuổi với ngoại hình thật đặc biệt: Tay ông lêu
nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một
cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
Nguyễn Tuân chỉ bằng vài nét cũng cũng đủ để để chạm khắc vào tiềm thức của bạn
đọc về một hình ảnh người lái đò gần gũi, một con người sinh ra và lao động trên sông
nước, một con người suốt đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước của sông Đà để tồn
tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Giữa khung cảnh thiên nhiên sông Đà hùng
vĩ, đầy nguy hiểm và hung bạo ấy, Nguyễn Tuân đã tô đậm vẻ đẹp tài hoa trí dũng của
ông lái đò qua cuộc vượt thác đầy nguy hiểm, một trận chiến dữ dội giữa con người và
thiên nhiên. Người lái đò nhỏ bé cùng chiếc thuyền mỏng manh đối chọi với thiên
nhiên sông nước hung bạo, một cuộc chiến không cân sức nhưng con người trí dũng
ngoan cường, tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo đã có thể đưa con thuyền an toàn vượt
qua những trùng vi thạch trận trên dòng sông một cách đầy ngoạn mục.
Ở vòng vây thứ nhất, con sông Đà bày ra thạch trận với bốn cửa tử và một cửa sinh. Ở
đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm
liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi
giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Khi “thạch trận dàn bày
vừa xong thì cũng là lúc con thuyền tới”. Người lái đò không hề run sợ, tiến đề với
trùng vi thạch trận thứ nhất với tâm thế sẵn sàng nhất. Con sông Đà khôn ngoan, nó
không đánh trực diện với người lái đò mà đánh bằng nghệ thuật tâm lý chiến. Trước
đó, nó dùng âm thanh của thác để khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”, còn giờ đây
nó lại nhờ đến “nước thác làm thanh viện cho đá”. Sông Đà quả thực hiểm ác, nó xông
tới “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào
bụng và hông thuyền”, có lúc lại “đội cả thuyền lên”. Sông Đà khôn ngoan và hiểm ác
là thế, nhưng ông lái đò không hề hoảng sợ “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất
tung lên khỏi sóng”. Lúc này con sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng
đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa thuyền ra”. Không để cho ông đò có
cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thế đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng
nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Khi sóng thác đánh miếng đòn
độc hiểm nhất, ông đò mặt “méo bệch” đi.
Khuôn mặt ấy của ông lái đò hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì
đau đớn mà còn nhợt nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm nhận của thị giác và xúc giác “mặt sông
trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu
sóng”. Đó là một trận chiến không cân sức, con sông Đà hùng vĩ và hung bạo vô cùng,
người lái đò hiện lên nhỏ bé, với chiếc mái chèo nhưng với sức mạnh thật lớn lao. Qua
cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã
không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng
mãnh, bình thản của người lái đò.
Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn
thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm – người nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá, người đã “thuộc quy luật” của dòng sông, thác đá.
Đến với trùng vi này, con sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, cửa sinh lại bố trí lệch
qua bờ phía hữu ngạn. Ở trận đánh này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh. Ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông ghì cương
lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”, tốc độ nhanh vô cùng. Nhưng sông Đà nào đâu
phải dạng vừa, chúng xô ra, níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh
giác sẵn “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở
đường tiến lên”. Nguyễn Tuân quả thực là bậc thầy của ngôn ngữ, ông huy động hàng
loạt các động từ, hò reo theo từng nhịp lái chèo của ông lão lái đò: nắm, ghì, phóng,
lái, rảo, đè,... Ông lái đò như một dũng tướng tài ba điều khiển thuần phục con ngựa
bất kham của sóng thác sông Đà. Chính bằng sự mưu trí và tài năng của mình, ông lão
đã vượt qua hết các cửa tử, làm cho bọn đá thua cuộc phải bày bộ mặt “tiu nghỉu, xanh
lè thất vọng”. Thiên nhiên, thác đá sông Đà hung bạo hiểm độc là thế cũng không thể
chiến thắng được sức mạnh phi thường của ông lái đò - một tay lái ra hoa, trí tuệ, một
tướng lĩnh thực thụ đã chiến thắng cả thần sông, thần đá.
Có lẽ tất cả sự hiểm ác nhất của con sông Đà tập trung hết cả ở trùng vi cuối cùng.
Không những ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại
nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô
ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Con sông ngày càng mưu mẹo vào hiểm ác,
muốn dồn con người đến chỗ chết. Sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả
trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá cánh mở cánh khép – đó là cả một mặt trận đá
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với
những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngừng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông
đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa
bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảnh khắc cánh “cổng đá” mở giữa những đợt sóng
thác dữ dội. Có lẽ ngay lúc này đây, tay lái chèo của ông lái đò thực sự là một tay lái
ra hoa. Không bằng quá nhiều từ ngữ, câu văn, hình ảnh con thuyền lao vút qua khe
hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp
những động từ và danh từ nối tiếp: vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng… đã
thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con
thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa lượn của ông đò không chỉ như một mũi
tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua, con
thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt
sóng. Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể
lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì
diệu. Vậy là cuối cùng, bằng tất cả tài hoa, trí lực và sự dũng mãnh của mình, ông lái
đò đã chiến thắng con sông Đà hiểm độc.
Cảnh vượt thác sông Đà có lẽ chính là một trong những kiệt tác nghệ thuật trong cuộc
đời sáng tác của Nguyễn Tuân. Ông lái đò trí dũng, tài hoa đã chiến thắng con sông
Đà hung bạo, hiểm ác một cách ngoạn mục. Khung cảnh vượt thác sông Đà có lẽ đã
quá quen thuộc trong suốt hàng chục năm hành nghề của ông lái đò, nhưng dưới ngòi
bút tài hoa của Nguyễn Tuân nó đã thực sự trở thành biểu tượng đẹp đẽ nhất nơi núi
rừng Tây Bắc. Từng câu, từng chữ đều được Nguyễn Tuân chăm chút từng tí một, đến
nỗi tưởng đầu người đọc đang được trên chính chuyến đò ấy, được tận mắt chứng kiến
từng hành động, từng nước đi tài hoa của ông lái đò.
Viết về con người bình thường trong cuộc sống đời thường nhưng không hề tầm thường.
Nguyễn Tuân luôn tìm đến và khắc họa những vẻ đẹp ấy bằng ngòi bút tài hoa nghệ sĩ
nhất. Khung cảnh vượt thác của ông lái đò - một nhịp sống thường niên trong suốt
cuộc đời ông lái đò, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân cớ sao nó lại đẹp đẽ và tuyệt mĩ
đến vậy. Người nghệ sĩ tài hoa ấy đã chạm đến tuyệt đích của cái đẹp, đã thực sự
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
thành công trên con đường đi tìm cái đẹp ấy. Không giống như “Chữ người tử tù”,
trong câu chuyện của “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân không đi tìm cái đẹp của
một thời đã qua nữa mà cái đẹp mà ông khám phá ở ngay trước mắt, trong chính cuộc
sống đời thường nhất, đúng như cái nghệ danh mà người đời đặt cho ông - “Một người
nghệ sĩ suốt đời đi săn tìm cái đẹp”.
Nguyễn Tuân đã vẽ lên một khung cảnh cảnh vượt thác đầy gay cấn và khốc liệt. Nếu
coi người lái đò là người nghệ sĩ điều khiển con thuyền đầy điêu luyện thì Nguyễn
Tuân đích thực là người nghệ sĩ chèo lái con thuyền ngôn từ đầy tài hoa. Chỉ qua một
một khung cảnh vượt thác thôi, nhưng Nguyễn Tuân đã điều động cả một đội quân từ
ngữ để diễn tả sự cuồng nộ của sông Đà và cả sự tài hoa của người lái đò. Nguyễn
Tuân đưa người đọc đi từ cảm xúc này sang cảm xúc khác, từ hồi hộp, căng thẳng đến
thở phào nhẹ nhõm. Cứ từ trùng vi thạch trận này đến trùng vi thạch trận khác, người
đọc chưa khỏi thở phào lại phải tiếp tục đến với một cuộc chiến mới gay cấn và khốc
liệt vô cùng. Trong công cuộc đi tìm “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người
Tây Bắc nói riêng và người lao động Việt Nam nói chung trong thời kỳ mới, Nguyễn
Tuân đã khai thác và khám phá một cách tỉ mỉ nhất, bằng con mắt và trái tim yêu
thương nhất của người nghệ sĩ yêu thương và khát khao khám phá cái đẹp ở đời.
Khép lại trang viết của Nguyễn Tuân, dường như vùng đất Tây Bắc đã để lại trong
chúng ta thật nhiều thương nhớ. Ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” là
một thứ vàng mười như Nguyễn Tuân khẳng định “đã qua thử lửa”. Cũng từ đây,
Nguyễn Tuân đã cho thấy một chủ nghĩa anh hùng mới trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã. Càng khám phá văn chương Nguyễn Tuân nói chung, “Người lái đò sông
Đà” nói riêng ta càng thấm thía hơn lời nhận định của tác giả Anh Đức về người nghệ
sĩ tài năng này: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn
mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn
độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 2
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa, uyên bác bậc nhất của văn học
Việt Nam hiện đại. Ông có phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Nguyễn Tuân có sở
trường về thể loại tùy bút. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác
phẩm đặc sắc kết tinh được phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, được in
trong tập “Sông Đà” (1960). Tác phẩm này là kết quả của một cuộc hành trình lớn
mà Nguyễn Tuân tìm đến Tây Bắc để tìm kiếm “thứ vàng mười đã qua thử lửa”
của thiên nhiên và thứ vàng mười của con người lao động. Ở tùy bút này, ngoài
hình tượng dòng sông Đà, hình tượng ông lái đò cũng là một hình tượng đặc sắc
mang dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân.
Trước hết, ta phải hiểu chữ “vàng” trong câu nói của nhà văn không ứng với nghĩa
đen. Ở đây, nhà văn muốn mượn của vàng (một thứ quý giá và đẹp đẽ) để chỉ vẻ
đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng
vĩ và thơ mộng. Nhưng vẻ đẹp và sự quý giá ấy không dễ tìm thấy, mà nó còn đang
náu mình trong những vùng đất xa xôi. Nhà văn phải là người tìm kiếm, sàng lọc
để phát hiện ra vẻ đẹp ấy , rồi bằng tài năng của mình mà bất tử hoá nó trong tác
phẩm để “cống nạp”cho đời thường những “thỏi vàng mười” của thiên nhiên đất
nước và con người. Ý kiến khẳng định thành công của Nguyễn Tuân trong việc
khám phá và xây dựng vẻ đẹp hình tượng ông lái đò trong cuộc sống lao động bình dị.
Thật vậy, trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra“chất
vàng” quý báu của một dòng sông: “ Đà giang độc bắc lưu” là một dòng sông hung
bạo, dòng sông của sức sống mãnh liệt. Tính cách hung bạo của dòng sông được
cảm nhận ở những đoạn sông đầy đá chìm và thác dữ. Nhưng bên cạnh sự hung
bạo ấy ta vẫn thấy ở sông Đà một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng
vĩ của thiên nhiên đất nước. Cái dữ dội hùng vĩ của sông Đà trước hết là ở cảnh “
đá bờ sông dựng thành” rồi đến “ nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn
gùn ghè suốt năm”, rồi những hút nước xoáy tít”….
Đặc biệt, trong vẻ dữ dội, man dại của sông Đà, ta thấy cái quý giá của sức nước,
thấy hiện ra những “tuốc bin thuỷ điện” .Đó chính là chất “vàng” quý giá của tài
nguyên thiên nhiên đất nước. Cho nên, cái quý giá ở đây chính là một tiềm năng
lớn lao ngay trong vẻ hoang dại, phóng khoáng và sức mạnh bạo liệt của dòng sông.
Nhưng chất “vàng” của sông nước Tây Bắc không chỉ ở sự quý giá mà còn ở vẻ
đẹp của sông Đà. Đó là hình ảnh của một dòng sông thơ mộng, trữ tình với hình
dáng mềm mại “tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, hay như một “áng tóc mun dài
ngàn ngàn vạn vạn sải…”. Cảnh sắc hai bên bờ sông cũng rất đỗi thơ mộng “ như
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
bờ tiền sử”, “hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”…Cái hay của nhà văn là
cách dùng nghệ thuật so sánh dồn dập đã làm hiện lên một cách sinh động vẻ đẹp của dòng sông.
Cùng với sự quý giá của thiên nhiên là sự quý giá của người dân lao động Tây Bắc.
Chất “vàng mười”quý giá của người lao động trong bài tùy bút chính là hình ảnh
ông lái đò trên sông. Trong câu nói của mình, Nguyễn Tuân có dụng ý khi dùng
chữ “vàng” để nói về màu sắc sông núi và chữ “vàng mười” để chỉ vẻ đẹp và giá trị
của con người lao động.Đồng thời, nhà văn cũng ngầm ý rằng :cái quý báu trong
phẩm chất , tài năng của con người phải được tôi luyện trong cuộc sống, giống như
vàng được tôi luyện trong lửa vậy. Vẻ đẹp tài nguyên Tây Bắc thật quý giá.Nhưng
con người Tây Bắc phải đẹp hơn, quý giá hơn trong việc chinh phục và cải tạo thiên nhiên.
Trong tác phẩm, con người mang chất “vàng mười” quý giá ấy lại là một con
người lao động bình thường, một người vô danh là nghề lái đò dọc trên sông Đà.
Nhưng con người vô danh ấy nhờ lao động, nhờ chinh phục , chế ngự thiên nhiên
hung bạo như sông nước Đà giang đã trở nên lớn lao , kỳ vĩ:
Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của người lao động bình
thường: (không tên, tuổi, quê quán. Ông lái đò được xây như một đại diện, một
biểu tượng của nhân dân. Đó là một người lao động rất đỗi bình thường hoạt động
trong một môi trường lao động khắc nghiệt, dữ dội.
Ông lái đò là người từng trải trong nghề. Ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên
sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu
chục lần…Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là
người từng trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: người lái đò
còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm
liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…
Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười ba con thác
nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng
nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy,
như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than
chấm câu và cả những đoạn xuống dòng.
Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình
tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới
thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được
sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà
Ông lái đò là người mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt
trong cuộc sống lao động hàng ngày. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào
ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu
không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Con sông Đà hung hãn tạo ra
một thách thức ghê gớm cho người lái đò.
Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông
Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy
nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối
phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một: Ngoặt khúc sông lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết
trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm
mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn
bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đạt nào trông cũng ngỗ ngược, hòn
nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên
sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền,
một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có
đá dàn trận địa sẵn…
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng
trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là
nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy
mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác.
Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt
lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh
đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò
“phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần
đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng
người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó.
Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa
tự động lái được lượn được. Thế là kết thúc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Ông lí đò đích thực là một nghệ sĩ tài hoa. Nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa:
sự điêu luyện trong nghề khi lái đò vượt qua 3 thạch trận); trí nhớ siêu phàm, nắm
chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do; phong
thái nghệ sĩ sau cuộc chiến đấu với sông Đà.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài
hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng,
không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng
mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến
trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây
dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra
hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ
được nó nên có tự do.
Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình
tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay
ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người
Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi
nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá
nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế,
vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Đó
thực sự là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” đến trăm lần.
Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện đại mới.
Ông rất giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí. Đó
là những con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Vẻ đẹp của người lái đò thể hiện ở tài nghệ của một “tay lái ra hoa”. Nguyễn Tuân
đã rất thành công khi tung ra một “đạo binh ngôn từ” hùng hậu để miêu tả cho thật
hấp dẫn và hùng tráng cuộc thuỷ chiến sông Đà. Trong những cuộc thuỷ chiến ấy,
ông đò đã bằng sự dũng cảm, phi thường, mưu trí để vượt qua hết vòng vi này đến
vòng vi khác.Ông giành thế chủ động bởi ông ông lái đã “nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá”.Ông lái đò đã cưỡi lên thác ghềnh của sông Đà như một lão
tướng dày dạn kinh nghiệm .Hình ảnh ông đò như mang dáng dấp của những anh
hùng trong các thiên anh hùng ca thời cổ đại.
Chất “vàng mười” trong tài trí con người ở đây còn là sự dũng cảm , gan dạ, tài ba
của người cầm lái mà đường lái đạt đến độ điêu luyện, siêu phàm: ông “ghì cương
lái miết phong nhanh vút vút cửa ngoài, cửa trong”, “thuyền như một mũi tên
tre”…Ông lái đò như một nghệ sĩ tài ba với một nghệ thuật cao cường đang luồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
tránh, lái lượn trên dòng nước hung bạo của Đà giang.Tài nghệ siêu phàm ấy chính
là thứ “vàng mười”ngời ngời tỏa sáng giữa thiên nhiên hùng vĩ của Tổ quốc.
“Người nghệ sĩ phải xâm nhập sâu vào đời sống nhân dân. Anh phải nhập đến một
mức độ nào đó thơ mới hình thành. Thơ chỉ tràn ra khi trong tim anh cuộc sống đã
thật ứ đầy”. Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp thật bình dị
từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói nhưng lại là người anh hùng trước mắt
Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài
hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông
lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc.
Ông đích thực là “thứ vàng mười đã qua thử lửa”, một chất vàng ròng đáng quý
của miền Tây Bắc hùng vĩ.
Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay
và gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới
tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo
lại thế giới. Với tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã mang đến cho
chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của
cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác.
Chất vàng mười đã qua thử lửa - Mẫu 3
Là một nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân dành trọn cả cuộc đời mình
để rong ruổi khắp nơi truy tìm chân – thiện – mỹ. Ở văn chương của Nguyễn Tuân,
ta không chỉ thấy thiên nhiên gắn liền với cái đẹp mà đến cả con người, vẻ đẹp ấy
cũng ngã vào trang giấy. Nguyễn Tuân nhìn đời bằng ánh nhìn tinh tế, ông đi sâu
khai thác vào vẻ đẹp bên trong bị khuất lấp bởi những dung dị đời thường của
những con người lao động. Ở “Người lái đò sông Đà”, vẻ đẹp của con người được
đẩy lên đến tột cùng khi được ví von như “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” hay vẻ
đẹp của thiên nhiên được gọi bằng “Chất vàng mười”.
Được trích từ tập tùy bút “Người lái đò sông Đà”, tác phẩm là kết quả của chuyến
đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân những ngày đất nước đang trên đà đổi
mới, người dân bắt đầu công cuộc kiến thiết đất nước. Tác phẩm còn đặc trưng cho
phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám là nhận thấy và
ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn của con người lao động. “Người lái đò sông Đà” là minh
chứng cho chủ nghĩa xê dịch ở Nguyễn Tuân cũng như vốn từ vựng phong phú
cùng với tài hiểu biết uyên thâm của nhà văn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
“Vàng” mà Nguyễn Tuân sử dụng không theo nghĩa đen mà ở đây ta có thể hiểu đó
là cụm từ kết tinh hết những vẻ đẹp, tinh hoa của đất trời Tây Bắc và vẻ đẹp tài trí của con người.
Trong cả thiên nhiên và con người Tây Bắc đều tiềm tàng những giá trị quý báu
được thể hiện một cách tinh tế. “Chất vàng mười” ám chỉ những giá trị lớn lao mà
thiên nhiên nơi đây chất chứa. “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” cũng giống như
con người Tây Bắc đã được tôi luyện qua những thử thách, gian lao. Cách sử dụng
từ “vàng” theo cách của Nguyễn Tuân rất “đắt” cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật.
Sông Đà tự bao đời nay vẫn giữ riêng cho mình một vị trí độc tôn giữa núi rừng
Tây Bắc, dòng sông như biểu tượng cho sức mạnh và sự hùng vĩ của thiên nhiên.
Hai bên sông Đà “đá dựng thành vách” như những thành trì kiên cố, vững chắc khó
lòng xâm phạm. “Những thác nước gầm réo muôn đời” như tiếng oán than của sinh
vật chốn rừng thiêng chỉ trực chờ tước mạng con người. Khi lại như van xin, lúc lại
như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, con sông lúc này đang điên cuồng, hung
bạo đến tột cùng, nó như trở thành biểu tượng của sự oai linh. Cùng với những
vách đá và tiếng thác nước gầm réo muôn đời, sự xuất hiện của sóng, của đá và gió
sông Đà tạo thành một bản hùng ca sông nước.
Sông Đà mưu mẹo, hiểm ác khi đã bố trí những tảng đá từ hòn to đến nhỏ phối hợp
với các ghềnh thác tạo thành những thạch trận trên sông. Cửa sinh bao giờ cũng
hiếm hoi hơn cửa cửa tử. Sông Đà luôn trực chờ những mái chèo non tay lái để
nuốt gọn vào lòng. Sự bố trí cửa sinh và cửa tử ở mỗi vòng đều khác nhau để đánh
lừa những con người không tường tận sông nước nơi đây. Sông Đà lúc này mang
hình hài là “kẻ thù số một của người lái đò”.
Thế nhưng bên cạnh những hung bạo của dòng sông “đời đời làm mình làm mẩy
với con người Tây Bắc” thì sông Đà cũng có những lúc trữ tình, e lệ đến lạ. Từ
“thứ kẻ thù số một”, sông Đà lúc này lại được ngắm nhìn như một cố nhân. Nắng
sông Đà như màu “nắng tháng Ba đường Thi”, đầy vẻ thú vị khiến người ta quên
béng đi vẻ hung bạo vốn có. Sông Đà khoác lên vẻ dịu dàng của “một áng tóc trữ
tình” và điển lên áng tóc tuôn dài ấy mà tạo hóa đã ban tặng cho con người Tây
Bắc là sắc trắng của hoa ban, hoa gạo tháng Hai.
Sông Đà đẹp đến nao lòng người, dòng sông thướt tha bao đời dung hòa với đất
trời Tây Bắc như một nét chấm phá nơi đây. Nước sông Đà không chỉ tẻ nhạt một
màu vĩnh cửu mà ở mỗi mùa, nước sông lại biến đổi thành những sắc màu khác
nhau. Là “xanh màu xanh ngọc bích” như hân hoan với đất trời mùa xuân, là “lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” mỗi độ thu về.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Không chỉ dòng sông, hai bên bờ sông cũng được miêu tả nên thơ, trữ tình đến lạ.
“Hai bên bờ sông lặng tờ” như tăng thêm nét huyền bí, cuốn hút cho dòng sông
“chốc dịu dàng đấy, rồi lại bẵng tính và gắt gỏng, thác lũ ngay đấy”. “Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử”, chưa có sự khai phá, động chạm của con người, bờ
sông lúc này vẫn giữ nguyên nét đẹp tựa buổi hồng hoang. Sự xuất hiện của “đàn
hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” khiến đoạn văn như được thổi bùng sức sống.
Phân tích thứ vàng mười đã qua thử lửa của con người Tây Bắc qua ông lái đò sông Đà
Ông lái đò được Nguyễn Tuân miêu tả mang đậm hơi thở của những người con
sông nước, ông cũng là đại diện cho những thế hệ nhân dân lao động đang ngày
ngày kiến thiết đất nước. Ông đò không tên, không tuổi, không quê hương, người
ta chỉ biết ông gắn bó mười mấy năm cuộc đời với nghiệp lái đò.
Ngoại hình cao lêu nghêu, chân lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp cái bánh lái tưởng
tượng, giọng nói ông ào ào. Ngay cả trong ngoại hình, Nguyễn Tuân cũng sử dụng
những thi liệu từ sông nước để gợi tả ông đò cho thấy sự gắn bó với ông đò với
dòng Đà giang. Ông như thổ địa nắm trong tay từng chân tơ, kẽ tóc sông Đà, ông
can đảm, mưu trí, ngày ngày đối mặt với những cơn thịnh nộ từ lòng sông để đò ông cập bến an toàn.
Ông lái đò là một tay lái ra hoa được minh chứng với việc ông chèo chống con đò,
đối mặt với dòng nước sông Đà mỗi ngày để mưu sinh. Ông am hiểu từng hòn đá,
thuộc quy luật của từng luồng nước, điều đó cũng góp phần làm nên “chất vàng
mười” của con người Tây Bắc nơi đây.
Ngày ngày, biết bao con người Tây Bắc phải gồng mình đối chọi với thiên nhiên
khắc nghiệt để mưu sinh, có thể ví von những con người ấy “đã qua thử lửa”. Ở
ông đò, ta thấy được phong thái tài ba thực thụ mà không phải ai hành nghề lái đò
cũng có thể có được. Ông bình thản, chú tâm xuyên suốt cuộc chiến với dòng sông Đà hung bạo kia.
Ông điêu luyện nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, am hiểu từng mạch
nước của con sông Đà hung tợn. Thạch trận của con sông Đà dù ở vòng vây nào
cũng bị ông đò dễ dàng nắm thóp, ông thuộc tất thảy sự bố trí cửa sinh, cửa tử mà
sông Đà đã dày công sắp đặt. Đối với mỗi trận, ông đều có cho mình những cách
đối mặt riêng, khi thì rảo bơi chèo, khi vượt lên đè nát những hòn đá ngỗ nghịch.
Ông đò như một nhà chỉ huy tài ba chèo lái con đò đến bờ an toàn. Một chút thiếu
bình tĩnh hay lỡ tay cũng trả giá bằng sinh mệnh, ấy vậy mà ông đò đối mặt với
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
chuyện ấy nhẹ tựa lông hồng. Ông đò khỏe khoắn, mưu trí, tài ba như đại diện cho
tầng lớp nhân dân đang ngày ngày làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
“Người lái đò sông Đà” như một bản hùng ca về thiên nhiên kỳ vĩ nơi Tây Bắc.
Đồng thời cũng bộc lộ được nghệ thuật tài ba của Nguyễn Tuân trong hành trình đi
tìm cái đẹp, ông đã khai thác xuất sắc vẻ đẹp tài hoa của con người bị khuất lấp sau
vẻ ngoài lao động dung dị, giản đơn. Miêu tả thiên nhiên với hai đặc tính hung bạo
và trữ tình để làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của con người lao động trong Cách
mạng cũng như trong thời kì kiến thiết đất nước.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 4
Trong “Trường ca mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm từng viết:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gọi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Non sông gấm vóc Việt Nam được tạo nên từ trăm ngàn con sông lớn nhỏ. Từ
những dòng sông ở đồng bằng mang đến bao phù sa màu mỡ đến những con sông
ở miền núi cao với tiềm năng thủy điện, chúng đều có những vẻ đẹp riêng. Với
Nguyễn Tuân – nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp – lại bị cuốn hút bởi một con sông
đặc biệt: sông Đà. Vẻ đẹp của sông Đà được Nguyễn Tuân xem là “thứ vàng mười
của màu sắc núi sông Tây Bắc”.
Vàng mười không chỉ đẹp mà còn rất có giá trị. Và có lẽ vì đó mà nhà văn gọi sông
Đà là “thứ vàng mười”. Sông Đà đẹp, nhưng lại mang một vẻ đẹp rất khác, đầu tiên
nằm ở hướng chảy của nó. Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Tuân đã trích hai câu
thơ của Nguyễn Quang Bích:
Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu
Trong khi mọi dòng sông đều rủ nhau chảy về hướng đông thì sông Đà ung dung
ngược về phương bắc, chỉ riêng mình nó chảy về phương Bắc mà thôi. Có lẽ vì vậy
mà con sông này có đến hai nét tính cách riêng biệt: hung bạo nhưng cũng rất đỗi trữ tình.
Sông Đà trước tiên là dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Cái hùng vĩ của nó được
thể hiện qua những tảng đá ven bờ được dựng thành vách. Vách cao đến nỗi “mặt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
sông chỗ ấy chỉ lúc chính ngọ mới có mặt trời”. Thậm chí, nó còn “chẹt lòng sông
như một cái yết hầu”. Ở đây, Nguyễn Tuân đã sử dụng biện pháp liên tưởng, so
sánh rất thành công, tái hiện lại cho người đọc được độ cao của vách đá cũng như
sự âm u đáng sợ của sông Đà. Tiếng gầm thét của con sông nghe cũng thật đáng
sợ, suốt năm suốt tháng cứ gầm ghè gào thét, “nghe như là tiếng đòi nợ xuýt” vậy.
Ghềnh Hát Loóng nước đổ dữ dội “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Người
lái đò qua đây phải vô cùng cẩn thận nếu không thuyền sẽ bị lật ngửa lên ngay. Tác
giả đã sử dụng biện pháp điệp từ khiến con sông trở nên dữ dội hơn, dồn dập hơn.
Con sông Đà hung bạo còn bởi những cái hút nước chết người. Chúng như những
cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu, khi thì “thở và kêu
như cửa cống cái bị sặc”, khi thì “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hút nước vốn
đã ghê rợn lại được nhà văn sử dụng các từ như “thở, kêu, ặc, ặc ăc” càng làm tăng
thêm sự khủng khiếp của chúng. Trong phần này, Nguyễn Tuân đã chứng minh sự
tài hoa uyên bác của mình bằng cách sử dụng vốn kiến thức từ nhiều lĩnh vực từ
điện ảnh, âm nhạc, hội họa đến xây dựng để miêu tả sự kỳ vĩ, hung bạo của Đà
giang. Có thể nói, ông là người đầu tiên so sánh nước với lửa: “nó rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”.
Nước và lửa vốn là hai thứ có sức hủy diệt lớn, lại luôn tương khắc nhau, nay dưới
ngòi bút tài ba của Nguyễn Tuân mà trở thành hai yếu tố hợp sức với nhau để tái
hiện nên cái kỳ vĩ của thác nước. Tiếng nước nghe “như là oán trách, rồi lại như
van xin, khi thì khiêu khích, giọng gằn chế nhạo”. Tác giả đã nhân cách hóa dòng
sông, biến nó thành một tạo vật trái tính trái nết, lúc nào cũng gầm gừ gào thét những âm thanh ghê rợn.
Cái hùng vĩ của sông Đà không chỉ ở thác nước mà còn ở những “trùng vi thạch
trận” đầy hiểm nguy. Tác giả chia đá ở đây thành ba trùng vi thạch trận. Vòng đầu
tiên là “hàng tiền vệ” với bốn của tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm về phía tả ngạn
dòng sông. Chúng có nhiệm vụ dụ thuyền vào giữa tuyến rồi “đánh khuýp quật vu
hồi lại”. Tiếp đến là vòng thứ hai. Vòng này tăng thêm cửa tử, cửa sinh được bố trí
về hữu ngạn với những boongke pháo đài có nhiệm vụ tiêu diệt những thuyền vượt
qua vòng một. Trùng vi thứ ba thì ít cửa hơn, cửa sinh lại nằm ở chính giữa. Đi hết
cửa này lòng sông bỗng trở nên thanh bình. Sông Đà hiện lên như một loài thủy
quái đầy mưu mô, xảo quyệt. Những loại đá thì như những binh sĩ hung tợn, tên
nào tên nấy ngỗ ngược, nhăn nhúm và hiếu chiến. Một lần nữa nhà văn lại thể hiện
sự uyên bác của mình qua lĩnh vực quân sự, thể thao, võ thuật để miêu tả sông Đà.
Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm tài ba đang kể lại cho chúng ta chuyến thủy
trình đầy hiểm nguy bằng những ngôn từ, liên tưởng vô cùng sống động. Sự ghê
rợn của Đà giang nghìn đời nay vốn vẫn quyết đấu với con người. Có thể nói, qua
việc miêu tả thác nước sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên sức mạnh chế
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
ngự tự nhiên của con người. Nhưng suy cho cùng, sự dữ dội của con sông ấy lại
mang về tiềm năng thủy điện, tiềm năng kinh tế cho người dân, đất nước.
Đáng sợ là thế nhưng sông Đà cũng là một dòng sông rất trữ tình. Đi qua cái dữ dội
của thác đá, sông Đà lại trở về là một dòng sông thanh bình, dịu êm. Không còn
những trùng vi thạch trận đầy hiểm nguy, không còn những hòn đá ngỗ ngược,
sông Đà lúc này êm đềm với những chuồn chuồn, bươm bướm. Nguyễn Tuân nhìn
sông Đà như một cố nhân. Do đó, ông hiểu cái “chất đằm đằm ấm ấm” thân quen
và cái chất thơ mộng mị của cảnh sắc thiên nhiên sông Đà. Ven bờ là những bãi
ngô non, là cỏ gianh, là đàn hươu thong dong gặm cỏ. Sông Đà không chỉ mang
đến tài nguyên thủy điện mà còn bồi đắp phù sa màu mỡ cho núi rừng Tây Bắc.
Sông Đà, trong mọi hoàn cảnh lại có một vẻ đẹp riêng. Khi đi máy bay, có người
sẽ thấy đó là “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, có người lại thấy con sông như “một
áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc”. Theo cách nói
của tác giả, “đối với mỗi người, sông Đà lại gợi cảm theo một cách khác.” Nước
sông Đà đổi màu đa dạng theo thời gian. Mùa xuân, nước sông xanh màu ngọc
bích, màu xanh quý phái khác hẳn sông Gâm sông Lô”. Mùa thu nước sông lại “lừ
lừ chín đỏ”. Và đặc biệt, nước sông Đà chưa từng có màu đen như Thực dân Pháp
“lếu láo” gọi. Rõ ràng, Nguyễn Tuân phải hiểu rất rõ về sông Đà mới đưa ra khẳng
định như thế. Điều đó vừa làm tôn lên vẻ đẹp của sông Đà, vừa thầm kín thể hiện
tình yêu của tác giả đối với dòng sông đặc biệt này. Sông Đà còn là dòng chảy của
lịch sử nước Nam ta. Bởi lẽ, từ đời Lý – Trần, Lê sơ, cảnh ven sông đều lặng lẽ
như tờ. Bờ sông bấy lâu nay vẫn tĩnh lặng hoang sơ giờ đây cần được đổi mới. Giá
mà có tiếng còi xe lửa mang theo sự nhộn nhịp giàu sang ở miền xuôi lên Tây Bắc
thì tốt biết bao! Những câu văn của Nguyễn Tuân như những bản tình ca êm ái,
vừa sống dậy những vẻ đẹp hiện đại, vừa đưa ta trở về với những miền ký ức xa
xăm nay chỉ còn là vang bóng.
Nhìn sông Đà như một cố nhân, Nguyễn Tuân thể hiện cái tình cảm tri âm tri kỷ
đối với dòng sông kỳ lạ này. Đối với ông, sông Đà không chỉ là một tạo vật thuần
túy mà còn là một sản phẩm nghệ thuật cần được trân trọng, khám phá. Bằng cái
nhìn độc đáo, cảm nhận tinh tế, Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thấy “cái chất vàng
mười đã qua thử lửa” có một không hai của Tây Bắc. Sông Đà không đơn thuần là
một dòng sông, nó là một nhân tố làm giàu đẹp thêm tương lai đất nước.
Đọc “Người lái đò sông Đà”, ta mới thấy rõ con người suốt đời đi tìm cái đẹp của
Nguyễn Tuân. Không những thế, ta càng thêm yêu thiên nhiên đất nước, say mê
với vẻ đẹp tiềm tàng của núi rừng Tây Bắc thân thương.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 5
Tây Bắc thật hùng vĩ với vẻ đẹp quý giá của thiên nhiên, nhưng con người còn quý
giá hơn khi chinh phục được thiên nhiên. Chất vàng mười trong Người lái đò sông
Đà được nhà văn diễn tả thành công khi khắc họa nên hình tượng người lái đò.
Nhân vật người lái đò được Nguyễn Tuân xây dựng nên giống như một tượng đài
của nhân dân. Đó là hình ảnh về một con người rất đỗi bình thường, không tên,
không tuổi, không quê quán và hoạt động trong một môi trường khắc nghiệt đầy dữ dội.
Ông lái đò đã gần 70, có ngoại hình lêu nghêu, chân lúc nào cũng như khuỳnh
khuỳnh gò lại như đang kẹp lấy một cuống lái, giọng ào ào như một ghềnh sông.
Cái đầu ông đã bạc nhưng vẫn còn quắc thước với thân người cao to, gọn quánh
đầy những chất sừng, chất mùn… Trong tác phẩm, ông lái đò hiện lên là một người
từng trải, thành thạo và lão luyện với nghề sông nước của mình.
Người lái đò, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân trở thành linh hồn muôn thuở của
sông nước này. Ông được miêu tả làm nghề đò được hơn mười năm rồi. Sự từng
trải hiểu biết về đối tượng chinh phục của ông còn thể hiện ở việc ông nhớ rất rõ
bảy mươi ba con thác với từng luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà thể hiện ngay ở vẻ đẹp của người lao
động. Sông Đà như một thiên anh hùng ca bất tận mà ông thuộc lòng đến từng dấu
chấm câu. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân lại đưa vào tác phẩm của mình
những ngọn thác cũng như thời gian mà ông lái đồ cầm lái trên dòng sông này. Tất
cả đều hướng đến chất vàng mười trong người lái đò sông Đà. Ông lái đò làm việc
trong một hoàn cảnh khắc nghiệt đầy thử thách. Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào
môi trường đó để nhấn mạnh và làm bật nên chất vàng mười trong người lái đò
sông Đà cũng như cho thấy sự dũng cảm mưu trí của người lao động dù trong hoàn
cảnh khốc liệt nhất của cuộc sống. Đây được xem là cuộc chiến đấu gian lao, một
cuộc thủy chiến trên mặt trận của con sông Đà.
Một cuộc vượt thác nguy hiểm được diễn ra nhiều trận, nhiều hồi với nhiều mồ
hôi, như một trận đánh nguy hiểm chết người mà nếu không có sự mưu trí và dũng
cảm sẽ không thể vượt qua được. Chất vàng mười trong người lái đò sông Đà còn
hiện lên ngay cả khi người lao động bị thương, ở đây ông lái đò vẫn cố nén vết
thương, hai chân vẫn khép chặt cuống lái mà chiến đấu.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà còn được cho thấy ở phong thái đĩnh
đạc của một nghệ sĩ tài hoa. Nguyễn Tuân đã trân quý mà nói rằng “đây là một tay
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
lái ra hoa”. Quy luật của con sông Đà vốn khắc nghiệt, bởi chỉ cần một chút lơ là,
một chút thiếu bình tĩnh cũng có thể mất mạng. Tại khúc sông này, chỗ nào cũng
thấy toàn những hiểm nguy cả. Người lái đò điêu luyện vừa thuộc dòng sông, nằm
lòng quy luật của lũ đá nơi ải nước lại nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá.
Do đó, mỗi khi vào cuộc chiến, ông lái đò luôn bình tĩnh và khôn khéo, giống như
một vị chỉ huy cầm quân tài ba. Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà là sự
tài hoa đầy nghệ sĩ của người lao động nơi Tây Bắc này.
Có thể thấy, người lái đò mang những vẻ đẹp của những người lao động thời kỳ
hiện đại: giản dị, khiêm nhường nhưng lại vô cùng khỏe khoắn, hùng tráng, tài trí.
Đây chính là những con người lao động làm chủ được thiên nhiên, làm chủ cuộc
đời và công việc của mình. Có thể nói, thể hiện những vẻ đẹp của ông lái đò chính
là một sự tinh tế và sắc sảo trong ngòi bút của Nguyễn Tuân khi đề cập đến chất
vàng mười trong người lái đò sông Đà.
Biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên nơi mảnh đất Tây Bắc chính là hình tượng kì vĩ
lớn lao của dòng sông Đà. Vẻ đẹp của nó thể hiện rõ nét cho chất vàng mười trong
người lái đò sông Đà. Sự dữ dội, mạnh mẽ và hùng vĩ của thiên nhiên được tái hiện
gói gọn trong vẻ đẹp của con sông Đà.
Với địa thế đầy ấn tượng “hai bên đá dựng thành vách” với lòng sông thì “chẹt lại
như một cái yết hầu”. Sông Đà hiện lên thật hùng vĩ nhưng đầy hung bạo và hiểm
ác. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt các phép so sánh và nhân hóa để thần thánh
hóa sông Đà như một con thủy quái nham hiểm và hung dữ.
Bên cạnh sự hiểm nguy đầy hung bạo, con sông Đà còn mang vẻ đẹp nên thơ và
trữ tình. Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông trở thành một thiếu nữ Tây Bắc vừa
mang vẻ hoang dại lại có sức hấp dẫn và kiều diễm. Đó là sự mềm mại thướt tha
êm đềm của dòng sông, là màu nước đa dạng thay đổi theo mùa “sông Đà tuôn dài
như một áng tóc trữ tình” hay mang “màu xanh ngọc bích” rồi lại “lừ lừ chín đỏ”…
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà không chỉ ở vẻ đẹp trữ tình của dòng
sông mà còn ở vẻ đẹp rất đỗi hiền hòa. “Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông
rất đỗi hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xa xưa…”. Hơn thế là cảnh sắc ấm áp
tươi vui và đầy sức sống ở hai bên bờ sông.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 6
“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của
Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả
đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của
người nghệ sĩ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của
những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật
đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn
Tuân, là hình tượng người lái đò vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sĩ tài ba trong nghề của mình.
Trong các tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mạng tháng Tám thì các
nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, tài hoa
nghệ sỹ. Hình ảnh ông lái đò cũng không phải là một ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm,
ta sẽ ấn tượng ngày đầu tiên với ngoại hình của ông:
“Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp
lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt
ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù…”
Sức vóc ông khỏe mạnh chẳng khác gì thanh niên trai tráng mười tám đôi mươi:
“Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to và
gọn quánh như chất sừng, chất mun… ông giơ tay lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá
bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng
trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”.
Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của một
con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó. Chỉ
có yêu quý nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai sương dong
duổi chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang đậm dấu ấn
nghề nghiệp như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của Nguyễn Tuân, ông
luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” ở đó
không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên chú đọc ta mới khám phá
ra được nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.
Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái đò còn ẩn
chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo nghề. Ông là
một linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược
hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền
then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm
của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ 73 con
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
thác, như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của con thác hiểm trở. Hơn
thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông
thuộc lòng đến cả những cái dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống
dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc
mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên
cường dường như không hề suy chuyển. Ông vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề
đã lâu rồi nhưng nay cho lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp
mấy châu có địa giới loang ra bờ sông Đà, cũng còn cái linh lợi để trở mừng một
phái đoàn trung ương vừa lên vừa xuống thăm dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho
đến biên giới Trung Quốc”.
Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất qua trận
thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc họa trong
tương quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng trải thôi thì
chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm,
gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đã đưa nhân
vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy
được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây chính là
dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng ông lái đò, phẩm chất dũng cảm, gan dạ,
kiên cường chỉ được bộc lộ rõ nhất khi nhận vật đối mặt với khó khăn, nguy hiểm.
Giả sử đặt ông lái đò trong khung cảnh thi vị, trữ tình của sông Đà thì hình tượng
lại phát triển theo một hướng khác, trở thành một nghệ sỹ đa tình lẫn vào thế giới
nhân vật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Còn ở đây, ông lái đò trở thành
người anh hùng nghệ sỹ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc
vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận
đánh mà đối phương đã hiện ra ngay diện mạo và tâm địa độc ác của kẻ thù số một,
lực lượng đá hậu, đá tượng, đá tiền về với nhiều thủ đoạn nham hiểm tạo thành một
lực lượng hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm. Sông Đà đã giao việc cho
mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi. Trùng vì một có 4 cửa tử
và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy
cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất
lên. Vì thế sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng.
Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình giữa
trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao đối phương, ông
lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái,
mặt móc bệch.Ông chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị
chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch
trận thứ nhất ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều
cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
thật nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ. Bốn, năm bọn
thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định nhử thuyền vào tập đoàn cửa tử.
Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, không một
chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì
cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh lái miết
một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu luyện. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên
phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một
ông lái đò và sáu tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn
kiệt sức lực giữa một thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão
luyện dày dặn kinh nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa
giữa. Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong
lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa
xuyên, vừa tự động lái được. Thế là kết thúc. Tác giả đã rất dày công khi miêu tả
trận thủy chiến với con sông Đà của ông lão lái đò. Một loại những hành động
nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng thẳng, lái miết một đường, chọc thủng, xuyên
nhanh,… Kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi
nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết. Hơn nữa thư pháp nghệ
thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng
lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con
người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên
kỳ diệu. Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng
thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.
Với ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể thao, võ
thuật, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình thường thành
bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một anh hùng, một
nghệ sỹ lái đò trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa là dũng sĩ, vừa là
nghệ sĩ – tay lái ra hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người lao động trong công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào trong truyện ngắn “Mùa lạc”
của Nguyễn Khải, tình nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, không chỉ
là tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy
cũng lên đường”, mà cùng với họ, ông lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn
lên vẻ đẹp, phẩm chất của người lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 7
Giữa cánh đồng văn chương rộng lớn, người nghệ sĩ nhỏ bé như những hạt bụi bay
lượn trong không khí để tìm chất vàng trong bộn bề của cuộc sống. Với Nguyễn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Tuân, chất vàng mà ông tìm được qua chuyến đi gian khổ đó là chất vàng mười của
thiên nhiên và ở đó ông đã làm nổi bật lên “thứ vàng mười đã đi qua thử lửa” ở tâm
hồn của những người lao động. Điều đó được thể hiện trong tùy bút “Người lái đò
sông Đà” đặc biệt được tô đậm qua hình tượng người lái đò.
Văn chương chính là nguồn cảm xúc bất tận chảy trong những người nghệ sĩ, chính
những cảm xúc ấy đã thôi thúc nhà văn phải tìm nguồn đề tài và cầm bút lên sáng
tác. Mỗi tác phẩm ra đời là cả một quá trình thai nghén, người nghệ sĩ phải lặn
ngập trong biển lớn cuộc đời để tìm cảm xúc, cũng chính vì vậy mà mỗi một tác
phẩm ra đời là cả một quá trình gian khổ. Cũng như Nguyễn Tuân, tùy bút sông Đà
là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà ông đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ
và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc. Chính lúc đó, ông bắt
gặp một cảnh làm mạch cảm xúc của ông tuôn trào không kìm nén đó là vẻ đẹp
tâm hồn của người lao động con mắt tinh tế của ông dường như nhìn thấy được vẻ
tâm hồn ấy qua vẻ đẹp của thiên nhiên mà ở đó ông gọi là “thứ vàng mười đã qua
thử lửa”. Tất cả được ông thể hiện qua nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái
đò sông Đà”. Dưới ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân, dường như mọi nhân vật đều
trở nên mới mẻ và độc đáo, hình tượng người lái đò chính là nhân vật điển hình
cho “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của ông.
Ở đây, “thứ vàng mười” chính là vẻ đẹp tâm hồn của người lao động mà không ai
khác chính là ông lái đò, vẻ đẹp ấy đã qua thử lửa bởi chính con mắt tinh tế của
Nguyễn Tuân là một ngọn lửa nóng chảy. Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân xây dựng
hình tượng người lái đò với hai tính cách đó là sự chí dũng kiên cường và chất tài
hoa nghệ sĩ, hai tính cách đối lập đã làm nổi bật lên phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Bước vào tác phẩm, ta bắt gặp ngay ở tên đề “Người lái đò sông Đà”. Ở đây, tác
giả miêu tả làm nổi bật con sông Đà nhưng đó không phải là trung tâm của tác
phẩm mà cái ông muốn hướng đến là người lái đò. Ông miêu tả sâu sắc con sông
Đà chỉ để làm nổi bật hình tượng người lái đò, chính nét đẹp vốn có được ẩn hiện
trong con người nhỏ bé kia được tác giả khai thác đến. Nếu như sông Đà hiện lên
với vẻ hùng vĩ, dữ dội thì người lái đò lại có sự chí dũng cao cường để chế ngự và
sông Đà cơ vẻ đẹp nên thơ trữ tình thì người lái đò hiện lên với chất tài hoa nghệ sĩ
đó là sự hòa hợp, đối xứng với thiên nhiên mà Nguyễn Tuân thấy được ở người lái đò.
Sự chí dũng, kiên cường của người lái đò được ông thể hiện ở trận thủy chiến với
con sông Đà. Ở đây, có sự đối lập mà tác giả đem đến đó là giữa ông lái đò và con
sông Đà. Ông lái đò là một người già yếu, nhỏ bé với sáu cánh chèo như que tre mà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
phải đối mặt với con sông Đà dữ dội, nước chảy hùm beo như muốn nuốt chửng
người lái đò. Nhưng với sự chí dũng, kiên cường của mình, ông đã dũng cảm tiến
về phía trước. Con sông Đà dữ dội, nó chia thành mấy đợt đánh và có chiến thuật
riêng, đợt một nó có bốn cửa tử và một cửa sinh mà cửa sinh lại nằm phía tả ngạn,
đợt hai ít cửa tử hơn và luồng sinh nằm ở phía hữu ngạn và ở đợt ba nó chỉ có hai
cửa tử và luồng sinh ở đợt này lại nằm ở giữa những hòn đá tiền vệ. Nhưng với con
mắt tinh tế, ông linh hoạt trong từng đợt đánh, có lần sông Đà liên tục tấn công làm
người lái đò nôn nao trên chiếc thuyền nhỏ bé, chúng húc vào hông thuyền như
muốn lật đổ, dù đã mệt mỏi, da tái nhợt đi nhưng với sự quyết tâm, ông lái đò ghì
chặt những mái chèo để chiến đấu tiếp.
Là một người lái đò nhưng ông như một thiên hùng ca khi mà ông thuộc lòng
những luồng sóng, vách đá thậm chí thuộc từng dấu phẩy, dấu chấm vì thế nên
không ai làm khó được ông, cho dù con sông Đà có dữ dội đến mấy. Sau khi bị tấn
công liên tiếp, ông lái đò ghì chặt mái chèo, xông thẳng lên như một viên tướng
cầm quân đang thuần phục con tuấn mã, ông xông lên ngọn sóng ghì chặt nắm lấy
dây cương sấn đôi nó ra để mở đường tiến. Ở sông Đà có những dãy đá được bày
sẵn ra như một bát quái chở người lái đò đến nhưng sự thông minh, khéo léo, ông
đã vượt qua nó một cách suôn sẻ. Là một người sống với nghề chèo đò vượt thác,
người lái đò không lạ lẫm với sông nước với những trận thủy chiến như thế này.
Tuy nhiên, ở ông ẩn hiện ra là vẻ đẹp của người lao động mang sắc thái của người
nông dân Việt Nam cần cù, chăm chỉ, đó chính là “thứ vàng mười” được phát hiện
qua con mắt tinh tế của Nguyễn Tuân như một phát hiện mới mẻ mà các nhà văn
đã bỏ qua. Cùng với sự phát hiện mới mẻ ấy, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân lại
càng trở nên độc đáo hơn.
Không những thế, “chất vàng mười” còn được Nguyễn Tuân miêu tả ở chất nghệ sĩ
tài hoa của người lái đò. Đây như một hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mà chỉ có
những nhà văn chân chính mới có thể nhìn thấy. Văn chương phải có tâm hồn.
Chính vì vậy, nhà văn luôn đi tìm những gì còn ẩn nấp sau tâm hồn kia như
Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn
giấu trong tâm hồn con người”. Ở Nguyễn Tuân, không chỉ có những người làm
nghệ sĩ như ông thì mới được gọi là nghệ sĩ, những người với công việc thường
ngày, họ làm hết mình với công việc của mình thì họ cũng là nghệ sĩ chân chính.
Ông lái đò với nghệ thuật chèo đò vượt thác của mình, ông trở thành người nghệ sĩ
chân chính. Nghề mà ông làm là một nghề mà trước Cách mạng không được coi
trọng, bị xem thường. Nhưng qua đây, Nguyễn Tuân cũng cho ta thấy rằng đây
không chỉ là một nghề chân chính, trong công việc ấy, ông làm trong sự im lặng
như một sự cống hiến cho cách mạng, công việc ấy là công việc ông làm hàng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
ngày để kiếm kế sinh nhai để lo cho cả gia đình, không chỉ vậy mà còn làm đẹp
cho xã hội. Trước công việc ấy, ông như một người anh hùng chính nghĩa đánh bại
kẻ thù để tìm đến sự vang dội, oai hùng.
Chính lúc ấy, trong nghệ thuật chèo đò của mình, người lái đò còn được hiện lên
với vẻ đẹp tài hoa, đó là sau khi đánh trận thủy chiến, ông lái đò lại vào trong hang,
mà mỗi khi ông đi là ông buộc một bu gà đằng sau. Đó không chỉ thể hiện đó là
thời gian mà đó còn là gợi nhớ đến quê hương, nhớ đến mảnh đất sinh sống của
mình. Trong cái hang ấy, tối và lạnh, ông đã đốt lửa và thấy như những làn khói
của sông Đà. Cùng với con mắt quan sát tinh tế, người nông dân hiện lên như một
vị thần sông nước, cùng với con thuyền bé nhỏ, như một vị tướng oai hùm giữa
sông Đà dữ dội. Cũng chính có những con người như ông mà con thủy quái sông
Đà mới được hàng phục, từ đó mà ta thấy cái mà Nguyễn Tuân thấy thật đẹp đẽ,
một vẻ đẹp mà khó bắt gặp lần hai.
Nét đẹp của người lái đò thật mềm mại qua bút pháp của Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp ấy
được thiên nhiên làm nên như một bức chân dung vững chãi đứng ở con sông Đà.
Chất vàng mười mà ông khám phá như một nét độc đáo mà chưa có nhà văn nào
đụng tới. Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò được hiện lên là một người
lao động linh hoạt, ông chính là con người tiêu biểu trong việc chế ngự thiên nhiên,
để thiên nhiên phải hằng phục và phục vụ cho con người sau này. Việc làm cao cả
được Nguyễn Tuân miêu tả sâu sắc làm nên nét độc đáo của tác phẩm.
Chất vàng mười trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 8
Nguyễn Tuân là nhà văn "cả đời đi tìm cái đẹp", sau chuyến đi Tây Bắc, nhà văn
đã khám phá được "chất vàng mười" trong thiên nhiên và con người nơi ấy, thể
hiện rõ nét qua hình tượng người lái đò sông Đà trong bút kí "Sông Đà".
Trước hết, Nguyễn Tuân đã khám phá được ở con người lao động ấy vẻ đẹp của sự
dũng cảm, kiên cường. Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn như chạm khắc
hình tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước. Nguyễn Tuân đưa nhân
vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy
được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi
đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một
quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm
chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện
ra diện mạo và tâm địa. Phải thấy được cái hùng vĩ, hiểm nguy của con thủy quái
sông Đà, ta mới thấy được sự mưu trí dũng cảm của ông đò. Mở đầu bài là lời đề
từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Khẳng định nét độc đáo của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
dòng sông Đà: Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo
hướng Bắc Khẳng định cá tính độc đáo của. Nguyễn Tuân không khỏi làm ta ngỡ
ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con Sông Đà. Cảnh đá bờ sông dựng vách
thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới
có mặt trời”. “Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần
vọt từ bờ này sang bờ kia”. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng
lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, bí ẩn
của dòng sông. Một nơi lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách
đá cao vút, vững chãi giờ đây đang trở nên nguy hiểm vô cùng. Cứ thử tưởng
tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không
xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi. “Không thuyền nào dám
men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng trèo nhanh để lướt quãng sông”,
“chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu”, “nhiều bè gỗ rừng
đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống”, “có những
thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến
đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu
sông dưới”. Ám ảnh, đe dọa con người. Vậy mà ông đò đã đối mặt với con thủy
quái ấy suốt hơn 10 năm trời, chẳng hề ngại ngần đối mặt và chinh phục. Chỉ huy
lèo lái con thuyền vượt qua những cửa ải hiểm nguy, dù đau nhưng vẫn cố nén vết
thương, quả thực như một vị tướng gan dạ anh hùng.
Không chỉ kiên cường, dũng cảm, người lái đò còn mang vẻ đẹp của một nghệ sĩ
tài ba, cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và đá qua ba
thạch trận. Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng
với những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”..;, “đá
tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh
đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân
đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”,
‘canh cửa”, “hất hàm’…Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi
bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó…Tất cả làm nổi bật thế
và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân
sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc
bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò
làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác
liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh
khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh
vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân
sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chính
là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái
đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường “ông đò
cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”…chỉ huy ngắn gọn kín đáo và
ông đã chiến thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”. Ở trùng vi thạch trận
thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc
tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”…Những động từ mạnh
vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ
so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông
nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế
hào hùng của ông lái đò. Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng
vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông,
thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin
nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm
sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để mở đường tiến”. Những động từ
mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng
thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông lái đò đó là
mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn
Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở
chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái
đò. Nguyễn Tuân miêu tả “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đò
phải vận dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước
như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”…những
động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh
mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được
độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được sự tài hoa khéo léo của ông đò.
Nguyễn Tuân đã tìm thấy được chất vàng mười trong con người Tây Bắc, họ là
những người lao động vô danh nhưng lại mang trong mình một vẻ đẹp vừa anh
hùng, vừa tài hoa đậm chất nghệ sĩ. Vẻ đẹp ấy chính là vẻ đẹp của thời đại mới,
cuộc sống mới với bao tin tưởng, hy vọng.