



Preview text:
PHÂN TÍCH TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ(8 câu đầu)
Tình yêu luôn là chủ đề muôn thuở trong văn học và cũng là nguồn cảm
hứng bất tận của thi nhân. Nếu tình yêu trong thời bình gắn với những ngọt
ngào, thơ mộng, thì tình yêu trong thời chiến lại gắn liền với sự chờ đợi mỏi
mòn và sự biệt ly đau đớn. Nếu Tác phẩm Truyện Kiều- Nguyễn Du nói về
nỗi bất hạnh của số phận Thúy Kiều thì Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn
qua bản dịch bằng chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm đã cảm thông sâu sắc trước
cảnh người chinh phụ phải rời xa chinh phu đồng thời phê phán kịch liệt về
chiến tranh loạn lạc phi nghĩa của các vua chúa thời bấy giờ. Đoạn trích
“Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” thuộc tác phẩm trên đã chạm đến tận
cùng trái tim người đọc khi tái hiện hoàn cảnh cô độc, nỗi nhớ thương da diết
của người phụ nữ khi có chồng ra trận cùng với ước mơ về hạnh phúc đoàn
tụ. Điều ấy được đặc tả trong 8 câu đầu: Dạo hiên. . . . . .khá thương.
Sau khi tiễn chồng ra đi chinh chiến, người chinh phụ bơ vơ chốn khuê
phòng vắng lặng, lạnh lẽo, nỗi khổ tâm của nàng được bộc lộ qua hành động và ngoại cảnh:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Với nhịp thơ chậm rãi như đang ngưng đọng lại thời gian, hòa với không
gian “hiên vắng”, “ngoài rèm”, “trong rèm” là không gian chật hẹp, tù túng
vắng lặng và hiu hắt chỉ có vang vọng tiếng bước chân của người lẻ bóng, nỗi
cô đơn đang dần gieo sầu vào lòng nàng. Chính lúc này cũng là lúc nàng cần
được giải bày những nỗi nhớ nhung những nỗi oán hận xã hội phong kiến.
Tác giả đã dùng hình ảnh tả không gian “hiên vắng”, “ngoài rèm”, “trong
rèm” mà làm nổi bật được nỗi lo toan sốt ruột đứng ngồi không yên của
người chinh phụ nơi hậu phương đang lo cho chồng ngoài chiến trường.
“Hiên vắng” bởi lẽ không có người quan trọng nhất kề bên nàng lúc này.
Tâm trạng người chinh phụ cô đơn, lẻ loi trải dài khắp không thời gian. Ở
mọi không gian, ngóc ngách, khoảnh khắc người chinh phụ đều chỉ một mình
một bóng bơ vơ giữa màn đêm hiu quạnh. Người chinh phụ dạo bước trong
hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày chồng
đi. Sự bồn chồn, khắc khoải, mong chờ được khắc họa qua những hành động
lặp đi, lặp lại, hết đứng lại ngồi, hết ra ngoài hiên rồi lại bước vào phòng, kéo
rèm trông tin chim thước rồi lại rủ rèm. Những hành động vô nghĩa ấy được
lặp đi lặp lại trong vô thức, nàng chẳng còn bận tâm mình đang làm gì bởi
tâm trí nàng giờ dồn hết vào người chồng đang nơi chiến trận biên ải xa xôi.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Với nàng, không gian lúc này chỉ được xác định bằng vị trí của tấm
rèm “trong rèm”, “ngoài rèm” mà thôi. Không gian càng thu hẹp như tâm
trạng của người chinh phụ lúc này ngày càng chìm trong cô độc. Nàng khát
khao được đồng cảm, sẻ chia mong tin chim thước đến báo tin chồng trở về
nhưng chim thước nào có đến, mong ngọn đèn hiểu thấu và soi tỏ nỗi lòng
mình nhưng đèn lại vô tri vô giác không thể cùng người an ủi, sẻ chia nỗi
buồn cô lẻ. Suy cùng nàng chỉ có thể tâm sự độc thoại nội tâm vì tưởng
chừng vạn vật xung quanh có thể xoa dịu nỗi đau đớn của nàng nhưng thật ra
đang cộng hưởng với nỗi sầu miên man của nàng, cảnh vật cũng ngày một im
ắng đã đẩy tâm trạng của nàng lên đỉnh điểm cao trào. Nàng nhận ra rằng
càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ nàng càng hụt hẫng, tuyệt vọng. Khát khao
sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng đau
đớn, thất vọng. Câu hỏi tu từ và điệp từ “rèm” lặp lại ba càng đẩy nàng vào
bế tắc, cái bế tắc của xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc khiến
niềm tin của con người về tình yêu, hạnh phúc không còn giá trị.
Người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng tối cô đơn tịch
mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với bóng đèn.
Nhưng ngay ở câu thơ sau nàng lại phủ nhận:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Do lẽ đèn vô tri vô giác nên chỉ có thể soi tỏ bóng dáng cô quạnh của nàng
nhưng làm sao có thể chia sẻ được. Tấm lòng này chỉ có một mình mình biết,
một mình mình hay. Nỗi lòng của nàng càng thể hiện rõ hơn khi từ ngữ “bi
thiết” xuất hiện tức một động từ mạnh cực tả cảm giác cô đơn và sự khát
khao được đồng cảm của chinh phụ trong đêm vắng. Điệp ngữ bắc cầu “Đèn
biết chăng” – “đèn có biết” đã góp phần cho thấy biên độ nỗi nhớ trong nàng
ngày càng tăng. Hình ảnh ngọn đèn không chỉ làm nổi bật sự cô quạnh khát
khao chia sẻ của nàng mà còn là nhân chứng cho thấy người chinh phụ đã
thao thức canh dài. Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trôi
đi nhanh chóng của thời gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Thời gian
khi nàng lẻ loi đã lấy đi thanh xuân của người phụ nữ đây là những năm xuân
sắc đẹp của người phụ nữ đẹp nhất.
Bởi lẽ chiến tranh đã xảy ra, thì mấy người đi có mấy người trở về? Khát
khao thấu hiểu chia sẻ để rồi nhận ra thực tại phũ phàng không ai có thể cùng
nàng chia sẻ đồng cảm. Nỗi nhớ cứ thế mà tăng dần và nàng cũng càng thêm cô quạnh…
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Từ thuần việt “buồn rầu” đã diễn tả chân thật và sinh động nỗi buồn của
người chinh phụ trong giây phút này. Chẳng ai có thể giúp tâm trạng của
nàng có thể thanh thản hơn ngay lúc này, nàng luôn ôm nỗi nhớ chồng vào
tâm trí của mình để rồi ngày ngày nỗi nhớ ấy ngày một càng tăng dẫn đến nỗi
nhớ chạm đáy tột cùng. Nàng giờ đây một mình cô đơn không chỉ trong
không gian mà còn trong cả tâm tư. “Hoa đèn” là đầu bấc đèn dầu đã cháy
như than nhưng được nung đỏ lên trông như hoa. Trong im lặng dằng dặc,
dưới ánh đèn đêm thăm thẳm, chinh phụ trẻ chỉ có biết trò chuyện với cái
bóng của chính mình, với ngọn đèn, gợi cho ta cảm nhận được nỗi cô đơn
khắc khoải và vô vọng của người chinh phụ, đồng thời cũng là nỗi dằng dặc
thương thân trách phận đời bạc bẽo. Tâm trạng của nàng đã chuyển giọng tự
nhiên từ lời kể bên ngoài thành độc thoại nội tâm da diết, dằn vặt và ngậm
ngùi quả thật nàng là một người đáng thương!
Quả thật chỉ vọn vẹn tám câu đầu của bài thơ, với thể thơ song thất lục bát
tác giả đã miêu tả trọn vẹn được những hành động, những cử chỉ, suy nghĩ
của nàng đã được tác giả truyền tải mạnh mẽ qua những từ ngữ thuần việt.
Đặng Trần Côn đã dùng bút pháp tả cảnh ngụ tình được vận dụng linh hoạt,
sắc sảo, sử dụng thành công không gian và thời gian nghệ thuật cho thấy nỗi
nhớ trải dài của người chinh phụ và nỗi u uất của nàng với chính quyền
phong kiến. Với sự cộng hưởng của cái tài và cái tâm, tác phẩm đã thể hiện
thành công tâm trạng người chinh phụ chờ chồng trong sự héo hon, và sự dần
trôi của thanh xuân… đây cũng chính là sự thành công của bản dịch do chính
Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm biên dịch.
Tác phẩm đã chạm vào trái tim người đọc, gieo vào đó những cảm xúc sâu
lắng về nỗi buồn, sự cô đơn của người chinh phụ trong cảnh chờ đợi mỏi
mòn. Qua đó, ta thấy được trái tim nhân đạo của người nghệ sĩ. Chính điều
đó đã góp phần tạo nên sức sống cho tác phẩm. Tác giả đã phê phán mạnh mẽ
những sự vô lí của chính quyền phong kiến đã ngăn cách đôi lứa, mất mát
thanh xuân của những người chinh phụ nơi hậu phương.