Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc hay chọn lọc nhất | Văn mẫu 12

TOP 20 bài phân tích Việt Bắc 8 câu đầu dưới đây gồm cả bài làm ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo, lựa chọn theo sức viết của mình. Đồng thời qua bài văn mẫu này chúng ta cảm nhận được phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ. Mời bạn đọc đón xem!

Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Dàn ý phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu
Dàn ý số 1
I. Mở bài
- Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị.
- Dẫn dắt tám câu thơ cần phân tích.
II. Thân bài
1. Bốn câu đầu: Khơi gợi kỷ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội,
nghĩa tình.
- Khung cảnh chia tay bịn rịn giữa kẻ ở và người về.
- Cách xưng hô “mình - ta”: thân mật gần gũi như trong ca dao.
- Điệp ngữkết cấu tu từ được lặp lại hai lần như khơi dậy bao kỉ niệm. Hai câu hỏi
đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi nhớ về
không gian: “sông, núi, nguồn”.
=> Đó khoảng thời gian gắn biết bao kỉ niệm của người dân Việt Bắc với người
lính
2. Bốn câu sau: Tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương, bịn rịn.
- Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “bồn chồn” thể hiện sự không yên tâm
trong dạ, không nỡ rời bước.
- Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân thương giản dị.
- Cử chỉ cầm tay nhau thay lời nói chứa đầy cảm xúc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
- Lời người lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới hình thức
những câu hỏi: nhớ về Việt bắc cội nguồn quê hương cách mạng, nhớ thiên nhiên Việt
Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình...
- Nghệ thuật:
● Liệt kê hàng loạt các kỉ niệm.
● Ẩn dụ, nhân hóa: rừng núi nhớ ai.
● Điệp từ “mình”.
● Cách ngắt nhịp 4/4 đều tha thiết nhắn nhủ người về thật truyền cảm.
=> Thiên nhiên, mảnh đất và con người Việt Bắc với biết bao tình nghĩa, ân tình, thủy
chung.
III. Kết bài
Đánh giá chung về tám câu thơ đầu.
Dàn ý số 2
I. Mở bài:
- Giới thiệu ngắn gọn tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận.
- Dẫn dắt vấn đề cần phân tích: Tính dân tộc thể hiện trong 8 câu thơ đầu
II. Thân bài:
1. Cảm nhận về đoạn thơ:
– Đoạn thơ là lời tâm tình, nhắn nhủ tha thiết giữa người ở lại và người ra đi. Người ở
lại đồng bào chiến khu Việt Bắc, người ra đi là những cán bộ kháng chiến từng gắn
bó với quê hương cách mạng suốt mười mấy năm trời:
“Mình về mình có nhớ ta
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”.
– Gịong thơ như chảy ra từ trong nguồn mạch của ca dao. Cách xưng hô “mình- ta” cứ
như lời bày tỏ tình yêu đôi lứa trong n gian .Đại từ “mình” trong dân gian chỉ thể
hiện cao trào của tình yêu khi hai con người hoá thân thành một. đây, tác giả lấy
phép màu nhiệm của tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa các bộ
với nhân dân. Điệp ngữ và kết cấu câu hỏi tu từ “ mình về mìnhnhớ”được láy lại 2
lần như khơi vào trong kỷ niệm của người đi và người ở.
Người lại với núi rừng nhạy cảm hơn về sự chia xa, cách biệt nên đã cất lênu
hỏi da diết, khắc khoải: “Mình về mình nhớ ta… Mình về mình nhớ không…”.
Mỗi câu hỏi một lời nhắc nhớ về ân tình sâu nặng của mấy ngàn ngày kháng chiến:
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”.
Trên suốt hành trình đầy gian nan thử thách đó, quân với dân, miền ngược với miền
xuôi… đã kề vai sát cánh, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Trong lời hỏi của người lại còn chứa đựng lời nhắn nhủ thiết tha: Nhìn cây nhớ núi,
nhìn sông nhớ nguồn… mong mỏi người ra đi về với miền xuôi vẫn không quên núi
rừng Việt Bắc…
– Người ra đi thấu hiểu nỗi niềm của người ở lại nên đã bày tỏ và khẳng định tình cảm
sâu nặng dành cho đồng bào Việt Bắc:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
-Giây phút chia li trong tưởng tượng diễn ra cực kỳ sâu sắc với những cảm xúc ghìm
nén trong tâm trạng của người đi. Đại từ “ai” phiếm chỉ tạo nên một cõi hồ, mông
lung trong nỗi nhớ ( như cách bày tỏ trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…).
Những từ láy tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” diễ tả chính xác con sóng lòng
đang dấy lên trong tâm hồn nhà thơ lúc phân ly.
– Hình ảnh hoán dụ “Áo chàm” ( chỉ người Việt Bắc) đã thể hiện tình cảm gắncủa
nhà thơ với những người dân Việt Bắc giản dị, nghèo khổ mà sâu đậm ân tình.
Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 hai câu thơ cuối đoạn diễn tả mộc cách thân tình cái
ngập ngừng , bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở.Kỷ vật trao rồi mà
mà lòng vẫn quyến luyến không thể rời xa.
Tâm trạng của những người kháng chiến trong phút giây từ biệt chiến khu cách
mạng sự đan xen, hòa quyện của niềm vui chiến thắng, hòa bình nỗi buồn chia
ly, xa cách. Trong đó, nổi bật nhất vẫn tình cảm bùi ngùi, lưu luyến, nhớ thương
dành cho người lại.Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” vừa gợi cảm giác gần gũi, thân
thương vừa tăng tính khái quát cho câu thơ. Phútlặng im” chất chứa bao điều không
thể diễn tả bằng lời. Đó cũng khoảnh khắc kẻ ở, người đi thấu hiểu nỗi lòng nhau
mà không cần phải giãi bày, thổ lộ…
thể nói, đây đoạn thơ hay nhất của bản tình ca Việt Bắc, bởi lẽ nhà thơ đã
miêu tả rất đúng quy luật nỗi nhớ trong tình cảm của con người ở vào giờ phút chia li :
nỗi nhớ nào cũng làm cho thời gian đằng đẵng và không gian mênh mông. Nhớ nhau ,
người ta tính từng khoảng cách. điều đây, chưa chia li đã nhớ. Người còn
đấy, cảnh còn đây, mặt đối mặt mà lòng đã bâng khuâng , lưu luyến.
– Dù miêu tả tình cảm mang tính chất chính trị, nhưng đoạn thơ không khô khan, trừu
tượng bởi tác giả nắm vững quy luật của tình đời, tình người.
Chính thế, đoạn thơ (nói riêng) ; “Việt Bắc” (nói chung) đã vượt qua ranh giới
của thời đại, thấm sâu vào hồn của người đọc qua nhiều thế hệ.
2. Nhận xét ngắn gọn về tính dân tộc đậm đà của thơ Tố Hữu:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Thơ Tố Hữu nói chung và Việt Bắc nói riêng đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và
hình thức nghệ thuật.
Về nội dung: Ngợi ca nghĩa tình cách mạng của quân dân ta trong cuộc kháng
chiến giữ nước, Tố Hữu đã tiếp nối, phát huy những truyền thống đạo đức cao quí của
dân tộc.
Về nghệ thuật: sử dụng thể thơ lục bát truyền thống; kết cấu đối đáp mình ta của
ca dao, dân ca; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị; vận dụng những phép tu từ quen thuộc
của ca thơ ca dân gian; giai điệu thơ ngọt ngào, sâu lắng; sử dụng các từ láy, dùng vần
phối hợp các thanh điệu… kết hợp với nhịp thơ tạo thành nhạc điệu phong phú,
diễn tả nhạc điệu bên trong của tâm hồn bề sâu của điệu cảm xúc tâm
hồn dân tộc.
III. Kết bài:
● Đoạn thơ thể hiện đậm nét phong cách thơ Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền
cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người cuộc sống kháng
chiến.
Thông qua hình tượng Việt Bắc, c giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của
quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến đối
với “Việt Bắc”.
Dàn ý số 3
Mở Bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu và tác phẩm Việt Bắc.
- Giới thiệu nhận định cần chứng minh
Thân Bài
a. Giải thích ý kiến đánh giá
- Giọng thơ tâm tình ngọt ngào.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
- Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc.
- viết về đề tài chính trị gắn với sự kiện lịch sử tháng 10 năm 1954 nhưng bài thơ
Việt Bắc nói chung tám câu thơ đầu tiên vẫn hiện n chất chứa cảm xúc của sự
ngọt ngào, tha thiết.
b. Phân tích, bình luận về giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết nghệ thuật biểu
hiện giàu tính dân tộc trong 8 câu thơ đầu
- Bốn câu thơ đầu: là lời của những người ở lại - nhân dân Việt Bắc.
+ Điệp cấu trúc câu: "Mình về mình có nhớ ta?", "Mình về mình có nhớ không?".
+ Sự láy đi láy lại của câu hỏi tu từ đã xoáy sâu vào nỗi nhớ và sự day dứt khôn nguôi.
+ "Mười lăm năm ấy" gợi tháng ngày đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi.
+ Những hình ảnh "cây", "núi", "sông", "nguồn" quen thuộc gợi nhắc lối sống ân
nghĩa thủy chung.
Giọng điệu tâm tình, thủ thỉ tràn đầy cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến của đồng
bào Việt Bắc.
- Bốn câu thơ sau là lời của người đi - các cán bộ chiến sĩ cách mạng.
+ Đại từ "ai" ngân vang cùng sự "tha thiết" đã nhấn mạnh vào tình cảm, cảm xúc đặc
biệt.
+ Những tính từ miêu tả cảm xúc như "bâng khuâng", "bồn chồn".
+ Tất cả mọi cảm xúc dường như nén lại: "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay".
- Giọng điệu tâm tình được tạo nên bởi nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc
+ Sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo và linh hoạt thể thơ lục bát - thể thơ dân tộc.
+ Kết cấu bài thơ được kiến tạo theo lối đối đáp giao duyên qua cặp đại từ "mình - ta"
c. Đánh giá về giọng thơ và nghệ thuật trong thơ Tố Hữu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
- Giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết quyện hòa và gắn chặt chẽ với nghệ thuật
biểu hiện giàu tính dân tộc.
- Góp phần thể hiện đặc trưng trữ tình - chính trị trong phong cách thơ Tố Hữu.
- Tạo nên giá trị đặc sắc của tác phẩm Việt Bắc.
Kết Bài
Đánh giá về tính trữ tình - chính trị trong thơ Tố Hữu
Việt Bắc 8 câu đầu
Tố Hữu không phải một nhà thơ đi tìm cái mới những chốn xa xăm lạ lẫm. Ông
khơi nguồn cho sự mới ngay trên cái nền truyền thống của thơ ca dân tộc, để biểu đạt
tình cảm yêu thương tình nghĩa. Điều này được thể hiện rất qua tám câu thơ đầu
trong “Việt Bắc”.
“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định
Giơ - ne - vơ về Đông Dương đượckết. Vào tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng
Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân dịp ấy, Tố Hữu đã sáng c
bài thơ. Tác phẩm khúc ca ân tình về kháng chiến, con người Việt Nam trong cách
mạng. Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Hai đại từ “Mình” “ta” được lặp lại nhiều lần khiến lời thơ trở thành lời đối thoại,
lời tâm tình tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng cách xưng thân mật quen thuộc trong
những câu ca dao, dân ca truyền thống để diễn tả nghĩa tình cách mạng. “Mình” -
người cán bộ về xuôi, “ta” - người dân Việt Bắc. Cụm từ “thiết tha mặn nồng” diễn tả
sự gắn bó, tình sâu nghĩa nặng giữa người chiến sĩ cách mạng nhân dân Việt Bắc.
Câu hỏi tu từ “Mình về mình nhớ ta?”, “Mình về mình nhớ không?” vừa bộc lộ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
sự quyến luyến, nhớ nhung lại vừa mang âm điệu của một lời dặn tình nghĩa.
hôm nay các chiến cách mạng trở về thủ đô nhưng đừng bao giờ quên đi khoảng
thời gian gắn “Mười lăm năm ấy”, hãy mãi khắc ghi hình ảnh con người thiên
nhiên Việt Bắc trong lòng. Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” gợi
nhắc đến truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý báu của dân tộc. Núi rừng Việt
Bắc đã cưu mang, che chở cho cán bộ cách mạng. Nhờ những người dân nơi đây
kháng chiến mới thắng lợi vẻ vang, hòa bình được lập lại. Ân tình ấy không thể
nào quên!
Trước những lời dặn của người lại, người ra đi chưa trả lời trực tiếp lại thể
hiện cảm xúc bằng những lời độc thoại nội tâm:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Đại từ phiếm chỉ “Ai” chỉ người dân Việt Bắc.Những từ láy tha thiết”, “bâng
khuâng”, “bồn chồn” diễn tả tâm trạng lưu luyến, bịn rịn, không nỡ rời xa của người
chiến sĩ cách mạng. Trong đó, “Bâng khuâng” gợi lên cảm giác hoài niệm. Dường như
người chiến đang chìm đắm trong dòng cảm xúc, hồi tưởng lại những kỉ niệm khi
gắn với nơi thủ đô gió ngàn. Từ “bồn chồn” cho thấy sự đan xen của nhiều dòng
cảm xúc, dâng lên như lớp lớp sóng trào trong lòng tác giả. Tố Hữu đã rất tinh tế khi
tạo ra sự ứng cho hai khổ thơ. Nếu bên trên, người lại nói “thiết tha” thì đến
đây, người ra đi lại nói “tha thiết”. Điều này tạo nên một mạch ngầm tri âm giữa
người đi kẻ ở, cho thấy sđồng điệu trong cảm xúc. Không chỉ vậy, các hình ảnh
như “cồn”, “áo chàm” còn gợi không khí, con người, cảnh vật nơi núi rừng. Màu áo
chàm được hoán dụ để khắc họa bản sắc trang phục của đồng bào Việt Bắc. Ngày
người chiến về xuôi, cả thiên nhiên nhân n Việt Bắc cùng tiễn bước. Cụm từ
“biết nói gì” không phải đôi bên đều không để nói ý nghĩa rằng cả
người ra đi người lại đều quá xúc động, không thể nói hết cho thỏa niềm thương
nhớ. Im lặng dường như trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt giúp con người thể hiện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
tình cảm một cách kín đáo sâu sắc. Tất cả những nhớ thương, lưu luyến được gửi
vào cái cầm tay nặng ân tình.
Đoạn thơ đầu đã khắc họa khung cảnh chia tay đầy xúc động giữa người dân Việt Bắc
với các cán bộ cách mạng. Qua đó, nhà thơ ca ngợi tình cảm thủy chung, son sắt của
con người Việt Nam trong những năm kháng chiến gian lao.
Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
Nhà thơ Tố Hữu được coi “cánh chim đầu đàn” tiên phong trong nền thơ ca cách
mạng Việt Nam. Ngay từ tập thơ đầu tiên, Tố Hữu đã cho thấy một trái tim hừng hực
sức trẻ đang “bừng nắng hạ” được “mặt trời chân chói qua tim” . cho đến tác
phẩm Việt Bắc, Tố Hữu đã hoàn toàn khẳng định được mình một cây bút cách
mạng – trữ tình xuất sắc nhất trên văn đàn Việt Nam thế kỉ XX.
8 câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc thể hiện những cảm xúc lưu luyến, nhớ thương của
mình khi rời Việt Bắc. Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng lối xưng mình ta hết
sức thân mật tình cảm. Đặc biệt đây cách xưng thường thấy trong những câu
ca dao – dân ca về giao duyên giữa đôi lứa với nhau.
Tố Hữu đã khéo léo mang sắc thái tình cảm đôi lứa vào tình nghĩa quân dân. Chính
điều đó đã mang lại cho người đọc cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc một tâm trạng
xúc động và quyến luyến như đang hòa nhập vào chính nhân vật “mình”
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
“Mười lăm năm ấy” tính từ năm 1941 cho đến hết năm 1954. 1941 khi Bác Hồ về
nước và lập căn cứ kháng chiến ở Pác Bó. Năm 1954 sau khi kết thúc chiến dịch Điện
Biên Phủ, Bác mới dời chiến khu về Nội. Mười lăm năm ấy mười lăm năm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
kháng chiến gian khổ. Nhưng trong chính những năm tháng vất vả trăm bề ấy, tình
cảm quân – dân đã trở nên “thiết tha mặn nồng”.
Qua cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc ta thể thấy được tình cảm giữamình”
những người đồng bào Việt Bắc dành cho “ta” – người cán bộ kháng chiến miền xuôi.
Không còn chỉ là tình quân – dân mà nó trở thành thứ tình cảm giữa những người thân
thiết trong gia đình.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Những từ láy liên tiếp: tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn đã khắc họa nét tâm trạng
rối bời của nhân vật trữ tình trong phút chia ly. Trong đó, áo chàm một hình ảnh ẩn
dụ hết sức đặc sắc.
Dùng áo chàm để chỉ những người đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu đã thực sự hòa nhập
vào cuộc sống của những người dân đây. Không còn khoảng cách quân dân, cán
bộ đồng bào. Trong giây phút chia ly chỉ còn mình” với “ta” cùng nỗi xúc động
“không biết nói gì hôm nay”
Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc để thấy được tính dân tộc của bài thơ, trước hết ở kết cấu
đối đáp kiểu ca dao giao duyên. Kiểu kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên một
kiểu kết cấu độc đáo để nhân vật trữ tình thể vừa kể lể sự việc bộc lộ cảm xúc, thể
hiện thái độ tình cảm với “đối phương” hoặc đối tượng được nói tới.
Phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc đạt điểm cao
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ
sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất
dân tộc, truyền thống. Tố Hữu nhiều tập thơ với nhiều bài thơ giá trị, trong đó
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ sau đoạn thơ tiêu biểu thể hiện tâm tình bịn rịn
quyến luyến của người ở lại đối với người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta
……………
Cầm tay nhau, biết nói gì hôm nay”
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các
cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc (Thủ đô kháng chiến) về
thủ đô Hà Nội. Sự lưu luyến giữa kẻ ở và người ra đi đã khơi nguồn cảm xúc lớn cho
nhà thơ sáng tác “Việt Bắc”.
“Việt Bắc” được viết bằng thể thơ lục bát, dài 150 câu thơ, gồm hai phần. Phần đầu
bài thơ tái hiện một thời gian khổ oanh liệt của cách mạng kháng chiến chiến
khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau nói
lên sự gắn giữa miền ngược miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng
của đất nước kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn Bác Hồ Đảng đối với dân tộc.
Bài thơ kết cấu đối đáp. Hai nhân vật trữ tình “mình-ta” kẻ ở, người đi bộc lộ tâm
trạng trong buổi chia tay đầy lưu luyến, xúc động. Chuyện ân tình cách mạng được tác
giả khéo léo thể hiện như câu chuyện tình yêu đôi lứa. Nhà thơ hoá thân vào hai nhân
vật trữ tình để bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình, cũng của những người tham gia
kháng chiến. Đoạn thơ gồm 8 câu đầu thuộc phần một của bài thơ.
Đoạn mở đầu bài thơ lời đối đáp giữa kẻ người về, lời giã biệt giữa Việt Bắc
với người cán bộ kháng chiến về xuôi. Đoạn thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật
thơ Tố Hữu.
Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:
“Mình về mình có nhớ ta
…………………………………………..
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Bốn câu thơ gồm hai câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất, người Việt Bắc hỏi người cán bộ : khi
về xuôi thì còn nhớ người Việt Bắc không. nhớ thời gian gắn đã “mười lăm
năm” tình cảm “thiết tha mặn nồng ”hay không. Trong câu hỏi, cụm từ “mười
lăm năm” là chỉ thời gian từ sau khởi nghĩa Bắc Sơn ( 1940) đến khi cuộc kháng chiến
chống Pháp kết thúc thắng lợi (1954). Đó khoảng thời gian Việt Bắc căn cứ cách
mạng. Các từ “thiết tha mặn nồng” là để chỉ mức độ tình cảm, đó là tình cảm tha thiết,
sâu nặng. Từ đó thấy được: câu hỏi này, người lại đã nhắn nhủ với người về xuôi
hãy nhớ Việt Bắc cách mạng thời gian gắn lâu dài, tình cảm tha thiết, sâu
nặng.
Câu hỏi thứ hai, người Việt Bắc hỏi người cán bộ : khi về xuôi, nhìn “cây” thì nhớ
đến “núi” Việt Bắc không, nhìn “sông ”thì nhớ nguồn nước Việt Bắc không.
Trong câu hỏi, cụm từ “nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhớ đến câu tục ngữ “uống nước
nhớ nguồn” quen thuộc. Như vậy, trong câu hỏi y, một cách khéo léo, người lại
như muốn nói với người về, cũng là lời khẳng định của nhà thơ: Việt Bắc là cội nguồn
cách mạng.
Điều đó thật đúng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, Việt Bắc trở thành căn cứ địa
cách mạng, là nơi Bác Hồ, Trung ương Đảng và mặt trận Việt Minh lãnh đạo cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, dẫn tới thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945,
dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1946, thực dân Pháp trở
lại đánh chiếm nước ta. Nội rơi vào tay giặc. Việt Bắc tiếp tục trở thành căn cứ
kháng chiến. Việt Bắc “An toàn khu”, đã che chở, bảo vệ các quan Trung ương
Đảng Chính phủ trong suốt thời kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc đã góp phần
quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, đưa dân tộc Việt Nam lên tầm cao của
thời đại .Việt Bắc đúng cội nguồn, cái nôi của cách mạng. vậy , kết thúc phần
đầu bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã viết “Mười lăm năm ấy ai quên – Quê hương Cách
mạng dựng nên Cộng hoà”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Cả bốn câu thơ, qua lời ướm hỏi, đã khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về
không gian nguồn cội, nghĩa tình; qua đó thể hiễn tâm trạng người lại: lưu luyến ,
bâng khuâng trong buổi chia tay, nhắn nhủ, tâm tình cùng người về xuôi về nghĩa tình
cách mạng.
Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
…………………………………………..
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Ở hai câu trên, người về không trả lời câu hỏi của người ở lại mà đưa ra câu hỏi nhưng
để bộc lộ tâm trạng. Từ “ai” phiếm chỉ, nhưng đây chỉ người Việt Bắc. thể
hiểu hai câu thơ y là: nghe lời hỏi “tha thiết” của người Việt Bắc, người về xuôi
thấy “bâng khuâng” trong dạ, “bồn chồn” bước đi. Từ láy “bâng khuâng” diễn tả tâm
trạng của người cán bộ: nhớ, buồn phải chia tay với Việt Bắc, nơi đã gắn suốt
“mười lăm năm” với bao “đắng cay ngọt bùi”. Nhưng người cán bộ cũng hồi hộp,
không yên trong lòng vì sắp được trở về quê hương sau thời gian dài xa cách.
Ở hai câu thơ dưới, “áo chàm” là hình ảnh hoán dụ chỉ người Việt Bắc. Hai câu thơ đã
gợi ra hình ảnh người Việt Bắc cán bộ cách mạng trong buổi phân li”, cầm tay
nhau mà không biết nói gì. Đó là hình ảnh kẻ ở người đi lưu luyến không muốn rời xa.
Đó là tâm trạng xúc động không nói nên lời. Xúc động vì phải chia tay sau “Mười lăm
năm ấy thiết tha mặn nồng”. Người về còn xúc động phải rời xa nơi “Rừng cây
núi đá ta cùng đánh Tây”. Nơi đã từng “chia củ sắn lùi- Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp
cùng”.
Nhìn chung, tám dòng thơ đầu cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn nhưng cuộc
chia tay lớn mang tính chất chính trị trọng đại trong hình thức cuộc chia tay tình tứ
của lứa đôi. Đoạn thơ đậm đà tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử
dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
cặp đại từ nhân xưng mình ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình
tượng kẻ ở, người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng.
Tóm lại, Việt Bắc” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ anh
hùng, nghĩa tình gắn thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với
nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng
lên thành tình cảm thời đại, đó ân tình cách mạng một cội nguồn sức mạnh quan
trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng kháng chiến. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ
“Việt Bắc” nói chung, đúng một bản tình ca ca ngợi đất nước tình cảm cách
mạng cao đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược.
Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu
Tố Hữu một trong những thi trữ tình chính trị. Vừa tham gia chiến đấu nên thơ
ông dành rất nhiều tình cảm cho con người tưởng sống của Cách mạng Việt
Nam. Trong đó, tác phẩm “Việt Bắc” bài thơ thấm đượm hồn thơ của Tố Hữu
bản hùng ca về kháng chiến chống Pháp.
Tác phẩm được viết nhân sự kiện các quan Trung ương của Đảng Chính phủ
phải rồi chiến khu Việt Bắc để về Thủ đô, sau hiệp định Giơnevơ được kết thành
công vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ không chỉ ghi lại mốc son chói lọi trong lịch sử
dân tộc mà còn là lời tâm sự đầy yêu thương, thể hiện tình cảm son sắt thủy chung của
người đi và chiến khu Việt Bắc. Cảnh chia ly bịn rịn ấy được khắc họa chân thực, sinh
động và xúc động của 8 cầu thơ đầu:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
Theo lịch sử Việt Nam, thì Việt Bắc là tên gọi chung của sáu tỉnh phía Bắc thời kháng
chiến chống Pháp, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang,
Giang, được viết tắt “Cao Bắc Lạng Thái Tuyên Hà”. Đây khu căn cứ
địa kháng chiến, được Đảng Chính phủ thành lập từ năm 1940. Chính nơi đây,
nhân dân Việt Bắc và cán bộ chiến sĩ đã trải qua 15 năm gắn bó nghĩa tình, keo sơn, từ
1940 đến 1954.
Sau khi quân ta đánh bại quân giặc để m nên chiến thắng Điện Biên Phủ vẻ vang,
rúng động thế giới, thì đến tháng 10.1954, Trung ương Đảng cán bộ rời Việt Bắc.
Cảnh người trong buổi chia ly 1-0-2 ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho tác giả
viết nên bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng. Xuyên suốt tác phẩm là nỗi niềm thương nhớ về
những năm tháng chiến tranh gian khổ mà đầy nghĩa tình của quân và dân.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng một câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao: “Mình
về mình nhớ ta”. “Mình về” đây tiết lộ cho độc giả thấy hoàn cảnh để đưa đến
nỗi niềm của người lại. Đó đang tiễn người đi về nhà. Chữ “mình” “ta” được
sắp xếp đứng cách xa nhau và chữ “nhớ” được đứng ở giữa. Điều đó thể hiện, dù mình
và tacách xa nhau bao nhiêu thì vẫn nhớ mãi về nhau. Nỗi nhớ ấy dựa trên 15 năm
gắn thiết tha mặn nồng: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” . Dường như, câu
thơ mang dáng dấp nỗi nhớ trong thơ Kiều: “Mười lăm năm ấy biết bao tình”.
Nhưng nếu như Kiều tình yêu thì đây tình đồng chí, đồng bào trong một thời
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
kháng chiến đầy gian lao, khốc liệt. 15 năm với biết bao đau thương mất mát, giờ đây
chỉ còn tình cảm thiết tha mặn nồng. 15 năm quãng thời gian thể như ¼
đời người. Ngườingười đi đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đã cùng vào sinh ra tử.
Vì thế, nói chia ly sao mà xót xa đến thế!
Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc ta càng thấy trân trọng hơn tình cảm của người dân Việt
Nam dành cho nhau trong gian khổ. Dường như càng khốc liệt bao nhiêu thì con
người càng yêu mến nhau, đùm bọc che chở cho nhau nhiều hơn. Chính thế, câu
sau tác giả lại tiếp tục thêm câu hỏi tu từ: “Mình về mình nhớ không”. Giờ đây,
mình ta đã hòa thành một. Nỗi lòng của người cũng như của người đi, tất cđều
nỗi nhớ. nỗi nhớ ấy không chỉ dừng lại nội m lan rộng ra cả núi rừng,
sông suối “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây như vừa là lời nhắn nhủ của
người ở lại với người đi rằng, sau này dù đi đâu về đâu khi nhìn thấy cây thì cũng hãy
nhớ tới núi rừng Việt Bắc, khi nhìn thấy sông thì cũng nhớ tới cội nguồn chiến khu
này. Đồng thời cũng vừa lời hứa của người đi rằng sẽ luôn nhớ về chiến khu Việt
Bắc từ núi cho tới nguồn mỗi khi nhìn thấy cây, thấy sông.
Trong câu thơ xuất hiện hai từ chỉ hành động “nhìn” “nhớ”. Một hành động tả
hoạt động thị giác, một động từ mô tả hoạt động trong tâm tưởng. Nhìn là đang nói về
hiện tại, tương lai. Nhớ nói về quá khứ. Điều này nhấn mạnh rằng người
người đi tương lai như thế nào thì vẫn nhớ về quá khứ bên nhau. Động từ nhớ”
xuất hiện với tần suất dày, như để khẳng định như để khắc sâu hơn vào tâm hồn người
cảnh Việt Bắc về nỗi nhớ. Đồng thời qua đây ta thể cảm nhận được tấm lòng
chân thực, tình cảm chân thành của người dân miền núi dành cho chiến sĩ. nghèo
khổ ra sao, nguy hiểm, gian lao thế nào, họ vẫn luôn dành cho các cán bộ miền xuôi
một tình cảm da diết và mãi vững bền qua năm tháng.
Nếu như bốn câu thơ đầu lột tả tình cảm của người Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi
thì những câu thơ sau nói lên tình cảm đáp lại của chiến sĩ, cán bộ với người chiến
khu:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Người chiến định bước đi, nhưng bỗng nghe tiếng “ai tha thiết” khiến cho họ bước
đi mà trong lòng bâng khuâng, bồn chồn. Nhà thơ thật khéo léo khi chỉ qua hai câu thơ
nhưng vẽ lên được sự bịn rịn quyến luyến không muốn chia xa của cả người lẫn
người đi. Chỉ có những ai gắn bó với nhau lắm, yêu nhau lắm thì mới khó lòng chia xa
đến như vậy. Bởi cả hai người ở và người đi đều biết, chiến tranh sẽ vẫn còn tiếp diễn.
Sự gặp lại biết đến bao giờ. Bởi thế, họ càng thấy nuối tiếc xót xa. Giống như chân
Chế Lan Viên từng khẳng định: “Khi ta chỉ nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa
tâm hồn”. Các chiến sĩ, cán bộ đáp lại lời của con dân bản đó con đất trời
chiến khu đã trở thành một phần trong tâm hồn họ. Tác giả sử dụng 2 cụm từ láy
“bâng khuâng” “bồn chồn” càng nhấn mạnh thêm sự day dứt, lưu luyến của người
đi. Người đi là các cán bộ về xuôi. Họ ra đi nhưng vẫn mang trong mình nỗi lo lắng và
nhung nhớ. Họ thương người dân chiến khu. Họ lo lắng rồi đây, trong những năm
tháng tiếp theo, người dân nơi đây sẽ như thế nào. Thật sự, chưa nơi đâu tình cảm
quân dân lại thắm đượm đến như thế!
Hình ảnh buổi chia ly đầu nước mắt, nghẹn ngào con tim diễn ra chiến cách mạng
và người Việt Bắc được lột tả đậm nét ở hai câu thơ cuối:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Nói đến “áo chàm” người ta nghĩ ngay tới hình nh chiếc áo màu nâu, màu áo
của con nông dân lam lũ, cực khổ đã lao động cần mẫn phục vụ cho Cách mạng.
Nhà thơ sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là nói về người dân Việt Bắc. Áo
chàm không dành cho riêng ai, mà nói về tất cả những người dân chiến khu. Họ và các
cán bộ cầm tay nhau mà không biết nói gì. Không phải họ không có gì để nói với nhau
trong lòng quá nhiều thứ để nói. Họ muốn nói với nhau nhiều lắm nhưng không bắt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
đầu từ đâu. Thế nên, chỉ cầm tay nhau để cảm nhận hết nỗi lòng. Bởi từ bàn tay, trái
tim con người sẽ dễ dàng cảm nhận được. Khối óc con người sẽ dễ dàng nhận dạng
được. tình cảm cùng keo sơn gắn bó, nhưng giữa những con người ấy vẫn
trí. Họ hiểu rằng, không còn cách nào khác. Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc chia li.
Nhưng chia li trong nước mắt hạnh phúc vẫn hơn là trong đau khổ. Dù là phải xa nhau
nhưng người dân Việt Bắc và các chiến sĩ vẫn có niềm vui của chiến thắng.
8 câu đầu bài Việt Bắc không thể không nhắc tới các biện pháp nghệ thuật được nhà
thơ Tố Hữu sử dụng. Đầu tiên về thể thơ lục bát. Với thể loại này, khiến độc giả
cùng dễ nhớ dễ thuộc, bởi đây là thể thơ mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh đó, lối hát đối đáp mang âm hưởng ca dao, dân ca giúpi thơ thêm phong
phú về giai điệu. Kết hợp với nhiều biện pháp như như hoán dụ, câu hỏi tu từ…
giúp bức tranh buổi phân ly thêm rõ nét và nhiều cảm xúc.
Qua 8 câu thơ đầu độc giả cùng cảm động trước tình cảm chân thành sâu sắc giữa
con chiến khu Việt Bắc với các cán bộ, chiến sĩ Cách mạng. Nếu như, 15 năm
người ta sống trong sung sướng, sang giàu chưa chắc đã gắn bó, nghĩa tình như khi
người ta sống trong gian khổ hiểm nguy. Bởi thế, khi phải nói lời chia tay, mối thâm
tình ấy của người đi và người ở càng thêm day rứt, luyến lưu.
người trong cuộc, lại một hồn thơ yêu nước nên nhà thơ Tố Hữu đã vẽ nên
bức tranh thật sinh động, tuy mộc mạc, giản dị nhưng thấm đượm tính nhân văn.
Phân tích 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc
Tố Hữu nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, cờ đầu của
thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao
của thơ ca kháng chiến chống Pháp. 8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc đã tái hiện niềm
thương nỗi nhớ, cũng chính niềm trăn trở chung của đồng bào ta trong lần chia tay
lịch sử.
Tính dân tộc là những dấu ấn độc đáo, không lặp lại, biểu hiện những bản sắc, là
những nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc. Tính dân tộc được hiểu một đặc tính
nhưng đồng thời cũng thước đo giá trị của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
văn chương lớn từ trước cho đến nay. những tác phẩm vừa mang tính nhân loại,
vừa mang tính dân tộc sâu sắc.
Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về
nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề hiện thực
đời sống cách mạng nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, những tình cảm chính
trị sự gắn bó, hòa nhập với truyền thống tình cảm đạo của dân tộc, khát vọng
và ý chí của một dân tộc. Về hình thức nghệ thuật, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng
tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc (cách so sánh, ẩn dụ, hiện tượng chuyển nghĩa, cách
diễn đạt gần với ca dao dân ca). Nếu hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách
nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Bốn câu thơ đầu lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người lại, khơi gợi kỉ niệm về
một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội nghĩa tình, thể hiện tâm trạng nhớ
thương, tình cảm gắn bó, thủy chung của quê hương Việt Bắc, con người Việt Bắc
dành cho người về xuôi. đây, nhà thơ sử dụng thành công những hình ảnh đối đáp
kiểu dân gian:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Khung cảnh chia tay bịn rịn giữa kẻ người về. Cách xưng “mình ta”: thân
mật gần gũi như trong ca dao. Điệp từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng. Cách
xưng “mình ta” : thân mật gần gũi như trong ca dao. Điệp cấu trúc “mình về
mình có nhớ” : lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha
mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.
Người lại đặt câu hỏi tu từ “Mình về mình nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi
trong người ra đi những kỷ niệm về mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười
lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954, là
mười lăm năm “Mình đây ta đắng cay ngọt bùi”, mười lăm năm phúc cùng
hưởng, họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai”…
làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Việt Bắc cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. lẽ thế nên nhà
nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã cho rằng: ” “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng
thước đo thời gian còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính thứ
thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.
“Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Lại một câu hỏi tu từ nữa xuất hiện. Lại một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Nội
rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt
Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành: Việt Bắc là cội nguồn cách
mạng, “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, trung tâm đầu não của cuộc
kháng chiến. Câu thơ này phải chăng sự vận dụng linh hoạt tài tình của nhà thơ
Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các
thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
Hai câu hỏi đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi
nhớ về không gian: sông, núi, nguồn. Đó khoảng thời gian gắn biết bao kỉ niệm
của người dân Việt Bắc với người lính.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Bốn câu thơ tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi: tâm trạng bâng
khuâng, bồn chồn đầy lưu luyến, bịn rịn của người kháng chiến đối với cảnh và người
Việt Bắc.
Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “bồn chồn” thể hiện sự không yên tâm
trong dạ, không nỡ rời bước. Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân thương
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
giản dị. Cử chỉ “cầm tay nhau” thay lời nói chứa đầy cảm xúc. Không khí buổi chia
tay thân tình, gần gũi, bịn rịn không muốn chia xa.
Lời người lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới hình thức
những câu hỏi: nhớ về Việt Bắc cội nguồn quê hương cách mạng, nhớ thiên nhiên
Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình…
Nếu như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi
nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những ng khuâng tha
thiết. Không sử dụng đại từ xưng “mình”, ta” người xưng sử dụng đại từ
“ai” để khẳng định trước hết sự gắn với người lại. Ai có thể đại từ để hỏi
nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất gần cách nói của ca dao: “Nhớ ai bổi hổi
bồi hồi” Tố Hữu sử dụng khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá
trị biểu cảm của từ “ai”. Một chữ “ai” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người
đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc đến chừng nào hiểu nỗi
niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mạng, đối với người miền xuôi. Một
chữ “ai” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta chỉ nơi đất
ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Hai từ láy “bâng khuâng” “bồn chồn” góp phần làm tăng thêm tâm trạng người ra
đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại “Bước đi một bước lâu lâu lại dừng”
để rồi “cầm tay nhau biết nói hôm nay”. Không biết nói phải chăng quá
nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ân nghĩa, sắt son chẳng thể nào dùng ngôn từ để diễn tả,
đành phải gửi tâm tình qua cái nắm tay thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của
yêu thương đoàn kết. Chỉ cần cầm tay nhau thôi hãy để hơi ấm nói lên tất cả, yêu
thương, nhung nhớ, nghĩa tình sẽ ấm mãi như hơi ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu
chấm lửng ở cuối câu như càng làm tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận.
như nốt lặng trong một khuông nhạc đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Qua
đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm
chất dân tộc: ân nghĩa, thủy chung, son sắt.
Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục
bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mạng. Từ xưa đến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
nay lục bát vốn thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn của nó.
Nếu đừng để diễn đạt tình cảm thì không còn hay bằng. Hay hơn nữa nhà thơ đã
khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc trong ca dao dân ca.
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào thấm đượm tinh
thần dân tộc. Bên cạnh đó ngôn ngữ là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn
dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là ngôn ngữ. Ngôn
ngữ thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta
vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình
yêu đôi lứa.
Tính dân tộc về mặt hình thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó dáng núi hình sông :”
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó hình ảnh chiếc áo chàm trong “buổi
phân li”. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc nghĩa tình nhưng cũng
rất đỗi anh hùng. Những con người ấy đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào
hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang nhân
ái chan hòa”.
Tính dân tộc không chỉ cùng thành công trên bình diện nghệ thuật còn đậm nét
qua nội dung, tưởng. Việt Bắc nói chung tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh
đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mạng; đã đưa những
tưởng tình cảm cách mạng hòa nhịp và tiếp nối truyền thống tinh thần, tình cảm đạo lý
dân tộc.
Bằngi hoa của một người nghệ một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố
Hữu đã viết nên một bản tình ca, anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Nghĩa tình sâu
nặng của người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc, của quần chúng đối với cách
mạng trong thơ Tố Hữu sự kế thừa tình cảm, đạo sống của con người Việt Nam
“Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành
một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.
8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc là minh chứng cho sự thành công của thơ Tố Hữu trong
việc kết hợp hai yếu tố: Cách mạng Dân tộc trong hình thức đẹp đẽ của thơ ca.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Tính dân tộc một trong những đặc điểm nổi bật làm nên phong cách thơ Tố Hữu.
Thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp của thơ ca truyền thống nhưng vẫn mang đậm hồn thơ của
thời đại cách mạng.
Tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc ngắn gọn
Bài làm mẫu 1
“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn…”
Giống như mỗi người, sẽ sở hữu riêng cho mình một loại vân tay riêng, không giống
bất ai. Thì mỗi nhà văn, nhà thơ, cũng sẽ sở hữu một phong cách “một dạng vân
chữ” riêng biệt. thế, khi đọc những tác phẩm n chương, ta không thể trộn lẫn
giữa Hồ Xuân Hương với Xuân Quỳnh khi cả hai cùng nói rất hay về thơ tình yêu
người phụ nữ. Và nổi lên trong phong trào dân tộc dân chủ, cùng sự phát triển của văn
học nước nhà, ta nhớ tới Tố Hữu, những khổ thơ mượt như áng tóc trữ tình của
ông, học được trong ca dao nhưng lại nổi lên một phong cách rất riêng của Tố Hữu, và
ta được biết đến điều đó rõ hơn, thông qua 8 khổ thơ đầu bài thơ Việt Bắc.
Nói đến Tố Hữu nói ngay đến cây đại thụ của làng văn. Ông mang trong mình một
áng thơ ca chạy suốt chiều dài lịch sử, thơ văn viết về lịch sử thế, nhưng trong đó
lại mang đậm dấu ấn của một người con rất Huế, rất Việt Nam, lúc nào cũng tha thiết,
lúc nào cũng vấn vương gợi tình.
Mình về mình có nhớ ta
Mười năm lăm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Bài thơ Việt Bắc là một trong những kiệt tác văn chương rất tiêu biểu của tiếng thơ Tố
Hữu. Ra đời trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp vừa giành thắng lợi. Chủ tịch Hồ
Chí Minh rời chiến khu Việt Bắc về Nội tiếp quản. Lấy cảm hứng từ buổi chia tay
mang ý nghĩa lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết ra áng thơ này. Việt Bắc như mang
nặng hồn thiêng của sông núi, thế, bài thơ đến gần với trái tim người đọc, nhờ tính
dân tộc đậm đã, được thể hiện đậm nét trong cả hai phương diện nội dung hình
thức.
Ta biết tính dân tộc trong một bài thơ, là một khái niệm quen thuộc, thuộc phạm trù
tưởng- thẩm mĩ, và là mối quan hệ gắnmật thiết giữa văn học và dân tộc. Tính dân
tộc trong một bài thơ cách thức thể hiện nội dung có tính bền vững cho các sáng
tác của dân tộc ta, được hình thành từ quá trình phát triển của dân tộc từ xưa đến nay.
Và tính dân tộc, phải được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và hình thức.
Trong ca dao ta vẫn thường nghe có câu:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng đã có nhưng chưa ai vào
Vậy đấy, tính dân tộc là đây chứ đâu. Vì sao ca dao dân ca từ ngàn đời nay vẫn mới và
vẫn luôn khiến ta cảm thấy mến thương như vậy. Đơn giản, bởi ca dao luôn mang đậm
chất trữ tình, ngọt ngào, chân chất gần gũi, được thể hiện qua thể thơ lục bát uyển
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
chuyển. Bắt nhịp nối tiếp những giá trị cao quý đó của ca dao dân ca, Tố Hữu đã
vận dụng nhuần nhuyễn để làm ra Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ ta
Mười năm lăm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tính dân tộc trước hết thể hiện thể thơ lụct quen thuộc, nhờ nó, ý thơ vốn uyển
chuyển đầy chất trữ tình của Tố Hữu càng được bộc lộ một cách t. Không
những thế, Tố Hữu đã vận dụng khéo léo lối đối đáp vốn hình thức quen thuộc
trong ca dao, ngôn ngữ mượt mà, uyển chuyển, đặc tả tình cảm giữa mình ta ngọt
ngào sâu lắng, ta vốn thường hay gặp trong những câu ca dao viết về tình yêu lứa
đôi.
Đoạn thơ đầu đặc tả nỗi nhớ của người lại dành cho người da đi, ngôn từ bình dị
nhưng tha thiết quyện chặt trong lòng kẻ đi người ở. Tình cảm người gắn keo
sơn tựa như tình cảm đôi lứa, qua đó càng cho ta thấy sự đoàn kết của nhân dân ta
trong thời kháng chiến. Hóa ra, khó khăn cách trở về không gian, thời gian,
trái tim của những người con đất Việt vẫn mãi gắn dành cho nhau. Chỉ cần anh
cần, tôi luôn có mặt. Những hình ảnh mang đậm tính dân tộc cũng được tả nét, đó
“nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” những cây, những núi, sông, nguồn,
những hình ảnh quen thuộc, vốn đã đi vào tiềm thức của người dân ta muôn đời.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Lời đầu tiên lời người lại dành cho người ra đi, nhớ thương, luôn canh cánh
trong lòng, nên đoạn thơ y tựa như một lời đồng vọng thân thương người ra đi
đáp lại người ở. Từ “ai” là một đại từ phiếm chỉ, như ám chỉ hình ảnh tiếng hát da diết
mộc mạc của người dân vùng núi Việt Bắc, người cất bước ra đi nhưng vọng trong
hoài niệm, trong nhung nhớ vẫn luôn nghĩ về ân tình Việt Bắc, muối mặn gừng cay,
phai chăng Khi ta thì nơi đất ở/ khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn” vậy? Những
hình ảnh mang đậm tính dân tộc như “áo chàm” cầm tay” mang một vẻ đẹp đơn sơ,
giản dị nhưng ấm cúng lắm. Những cái bắt tay mặn tình cảm, những tấm áo chàm
hoán dụ cho nhân dân Việt Bắc, cầm tay thôi là đã nói lên tất cả, ngôn ngữ dần như
cũng ngưng đọng lại, bồi hồi vì cảm xúc mà không nói thành lời.
Qua đó, càng nổi bật nên nét dân tộc truyền lại trong thơ Tố Hữu, đặc tả vẻ đẹp
thủy chung, nghĩa tình, son sắt của người dân quê hương. Việt Bắc sự kế thừa trọn
vẹn những tinh hoa của văn chương muôn đời.
Bài làm mẫu 2
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, tháng 10 năm 1954,
các quan Trung ương của Đảng Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về
Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc, khắc họa
lại cuộc chia tay lịch sử với những tình cảm thủy chung son sắt. Tình cảm ấy được thể
hiện qua những câu thơ sau:
Mình về mình có nhớ ta?
....
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Đoạn thơ tràn đầy một nỗi nhớ tưởng như không thể kìm nén được, cứ trào ra theo
ngòi bút tuôn chảy thành những dòng thơ. đến bốn chữ “nhớ” trong một đoạn
thơ tám câu chắc hẳn nỗi nhớ ấy phải thật da diết sâu nặng. Đây nỗi nhớ quê
hương cách mạng của người đã từng gắn sâu sắc với vùng đất thiêng đầy kỷ niệm
ấy, là nỗi nhớ của nghĩa tình, của ân tình thủy chung.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Khúc hát dạo đầu đã nhắc đến nỗi nhớ của đạo Việt Nam, cảnh tiễn đưa bâng
khuâng trong nỗi nhớ, người ở lại hỏi người ra đi cũng chỉ một nỗi nhớ và người ra đi
trả lời bằng chính nỗi nhớ ấy của mình. Tố Hữu đã diễn tả nỗi nhớ quê hương cách
mạng bằng tiếng nói ngọt ngào, tha thiết của khúc hát đối đáp giao duyên nam nữ
trong dân ca. Khúc hát ấy thấm nhuần đạo lí ân tình thủy chung:
Mình về mình có nhớ ta?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều, hai câu đầu gợi ta nhớ đến một
câu thơ trong Truyện Kiều:
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Việt Bắc đã hỏi người cán bộ về xuôi có còn nhớ mình không? Có còn nhớ những tình
cảm thiết tha, mặn nồng trong suốt khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Nhìn cây
còn nhớ núi, nhìn sông còn nhớ đến nguồn? Bốn câu thơ nhưng thực chất hai
câu hỏi tu từ. Lời của người ở nhưng thực chất là lời nói của người đi để nói lên đạo lý
Việt Nam truyền thống vốn bản chất tốt đẹp của dân tộc ta. Không chỉ nói lên
chính nhắc nhở mọi người, nhắc nhở chính mình bởi cái đạo ấy thiêng liêng
lắm, quý giá lắm, phải giữ gìn và phát huy.
Sâu nặng biết bao trong mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, ân tình biết bao khi
“nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ đến bốn chữ “mình”,
bốn chữ “nhớ” hòa quyện quấn quýt cùng chữ “ta”, khiến cái đạo ân tình Việt Nam
đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ Việt Bắc, trở thành chủ đề lớn của tác phẩm.
Sau khúc hát mở đầu là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ của người ra đi và cả
người ở lại:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
âm thanh da diết và màu sắc đậm đà thủy chung, có bước chân bồn chồn và những
cái nắm tay đầy lưu luyến. Mỗi bước chân của người đi mang theo nỗi niềm luyến lưu
cho ngườilại. “Tiếng ai” không phải là câu hỏi, cũng chẳng phải là đại từ phiếm chỉ
đó chính là cách nói thể hiện nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”.
“Bâng khuâng” vì “đi không nỡ”, nhưng “bồn chồn” vìcũng chẳng đành bởi lẽ Việt
Bắc đã trở thành ký ức, thành tình yêu, thành tâm hồn:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Từ láy bâng khuâng, bồn chồn được Tố Hữu sử dụng rất tinh tếcâu thơ này. Nó thể
hiện được nỗi niềm, được tâm trạng cả những chuyển động trong cảm xúc, để rồi
hình ảnh tiếp theo xuất hiện chiếc áo chàm qua thủ pháp hoán dụ gợi tả con người
Việt Bắc:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Màu áo chàmmột hình ảnh đầy ý nghĩa, đó màu áo của Việt Bắc đậm đà, son sắt
như chính lòng thủy chung của con người nơi đây. Màu áo ấy nhắc nhở người ra đi
nhiều ký ức khó phai nhòa.
Câu thơ “cầm tay nhau biết nói hôm nay” mang một giá trị biểu cảm rất lớn. “Cầm
tay nhau” nhưng chẳng “biết nói gì” vì có quá nhiều nỗi niềm cần bày tỏ, vì trong lòng
họ tràn ngập nỗi nhớ thương nên không biết nói điều gì trước, điều sau, điều nên
giãi bày, điều nên giấu kín trong tim. Cho nên chẳng “biết nói gì” chính nói lên
rất nhiều tấm lòng thương nhớ. Câu thơ ngắt nhịp 3/3/2 như sự ngập ngừng lưu luyến,
làm ta liên tưởng đến buổi tiễn đưa của người chinh phụ chinh phụ trong “Chinh
phụ ngâm”:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Bước đi một bước, giây giây lại dừng
Trong màn đối đáp giao duyên của cuộc chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã để cho người ở
lại lên tiếng trước. Điều này không chỉ hợp lý, tế nhị còn cần thiết cho sự phát
triển mạch thơ trong cả bài thơ.
Bằng việc sử dụng đại từ “mình - ta” cùng thể thơ lục bát, Tố Hữu đã tái hiện cuộc
chia tay lịch sử của Việt Bắc người chiến cách mạng với biết bao ân tình, chung
thủy. Con người dễ cộng khổ nhưng khó đồng cam, Việt Bắc ra đời chính lời nhắc
nhở tình nghĩa gắn bó cùng đạo lý tri ân muôn đời của dân tộc.
Bài làm mẫu 3
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ
ông chất phác, mộc mạc giàu chất trữ tình. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã
để lại nhiều tác phẩm có giá trị tiêu biểu bài thơ “Việt Bắc”. Nổi bật lên trong bài
thơ là tám câu thơ đầu với lời của kẻ ở, người đi đầy lưu luyến xúc động
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Việt Bắc c phẩm đặc sắc của Tố Hữu được sáng tác vào năm 1954 sau khi hiệp
định Giơ-ne-vơ được ký kết, chính phủ chính quyền trung ương cách mạng chuyển
từ căn cứ Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện ấy Tố Hữu sáng tác bài Việt Bắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Nỗi nhớ da diết của những người yêu nhau như thế nào thì nỗi nhớ của con người Việt
Bắc với những người cách mạng cũng như vậy:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Mở đầu đoạn trích cách xưng “mình” - “ta” đầy thân thương gần gũi, “mình”-là
người cách mạng còn “ta” chính người Việt Bắc. Người dân Việt Bắc hỏi rằng:
“Mình về mình nhớ ta” đọc câu thơ ta thấy trong đó đầy tình cảm lưu luyến,
nuối tiếc như một cặp tình nhân khi phải xa nhau, cảm giác đau khổ, không nỡ, nhưng
tình yêu thì được hình thành trong quãng thời gian rất ngắn còn tình người giữa Việt
Bắc cách mạng lại quãng thời gian “mười m năm”. “Mười lăm năm” - đó
một quãng thời gian không hề ngắn , đặc biệt trong mười lăm năm ấy tình cảm nào
nhạt phai mà còn “thiết tha mặn nồng”.
Nếu như hai câu đầu là tình cảm giữa người với người thì đến với hai câu sau chính là
tình cảm giữa con người với thiên nhiên:
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Người dân Việt Bắc không biết rằng khi về miền xuôi những người cán bộ cách mạng
còn nhớ Việt Bắc nữa hay không. “Mình về mình nhớ không” đọc câu thơ lên
với giọng thơ nhẹ nhàng ta thấy rưng rưng nước mắt. Núi rừng Việt Bắc, sông núi
Việt Bắc đẹp lắm, hùng lắm nhưngmiền xuôi lại nhộn nhịp đông đúc. Người dân
Việt Bắc sợ, họ sợ những người cách mạng quên mất Việt Bắc, quên mất những ngày
tháng hái quả rừng, ăn rau rừng trên núi, quên mất dòng sông vẫn hàng ngày bắt cá.
Trong suy nghĩ của họ, họ rất sợ. Từ “nhớ” trong câu thơ được lặp lại như muốn
đậm thêm nỗi nhớ nhung da diết, không nỡ rời xa, không nỡ chia ly. Chỉ với bốn dòng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
thơ đầu Tố Hữu đã tái hiện lại khung cảnh của buổi chia ly thật xúc động, nghẹn ngào
và đầy nước mắt.
Trong khung cảnh núi rừng hùng vĩ, cái se lạnh của Việt Bắc những người cách mạng
chia tay Việt Bắc
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Người cách mạng rời xa Việt Bắc nhưng vẫn nhớ về tiếng nói tha thiết của người dân
Việt Bắc lúc chia tay: “Tiếng ai tha thiết bên cồn”. Người cách mạng về xuôi sẽ còn
nhớ lắm giọng nói của người dân Việt Bắc. nhớ nên “Bâng khuâng trong dạ bồn
chồn bước đi” câu thơ khi đọc lên ta thấy cảm xúc như dâng trào. “bâng khuâng” là từ
láy chỉ trạng thái của con người cụ thểđây người cách mạng về xuôi, họ ra đi
nhưng trong lòng cảm thấy lưu luyến không nỡ rời xa. Cảm xúc nghẹn ngào không nói
nên lời đến cả bước đi cũng như nặng hơn. Người không muốn đi chân cũng
không muốn bước, bước chân trở nên “bồn chồn” như cũng muốn quay trở lại Việt
Bắc, quay lại quê hương i nôi của cách mạng, nơi những con người tình nghĩa,
thủy chung luôn chờ đón họ. Họ không nỡ rời xa nhau nhưng trong giây phút nghẹn
ngào cuối cùng được ở gần nhau thì họ lại không thể thốt nên lời:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Màu áo “chàm” - màu áo đặc trưng của cách mạng cũng góp chung o nỗi nhớ của
kẻ người đi, họ nhớ nhau nhớ cả màu áo của nhau. Họ cầm tay nhau tình cảm thắm
thiết không thể thốt n lời. Tâm trạng trong câu thơ “Cầm tay nhau biết nói
hôm nay” cũng khiến cho cảm xúc của người đọc theo cảm xúc của con người
trong thơ: bồn chồn, không yên, day dứt, khó diễn tả. Họ chia tay chỉ muốn òa khóc,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
xúc động không nói nên lời. họ không còn gì để nói với nhau hay họ có quá nhiều cảm
xúc muốn nói không thể nói hết trong một khoảnh khắc ngắn ngủi này. Chỉ vẻn
vẹn bốn câu thơ với hai mươi tám chữ Tố Hữu đã cho người đọc hòa mình vào
cuộc chia tay, cũng là lời của người ra đi nói với người ở lại đã làm cho người đọc xúc
động nghẹn ngào
Đoạn trích trên trong bài thơ “Việt Bắc” không chỉ thành công nội dung còn
thành công nghệ thuật với thể thơ lục bát, lối đối đáp, cách xưng mình ta, ngôn
ngữ giàu sức gợi. đoạn trích tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu đậm đà tính n
tộc.
Tóm lại, tám câu thơ trên trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã để lại trong lòng
người đọc những cảm xúc khó phai mờ về tình cảm giữa người Việt Bắc cách
mạng. Bài thơ nói chung đoạn thơ nói riêng sẽ luôn sống mãi trong lòng chúng ta,
trong trái tim người đọc Việt Nam.
Bài làm mẫu 4
Tố Hữu nhà thơ trữ tình chính trị, tiêu biểu cho thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ
Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ông đậm đà
tính dân tộc trong nội dung hình thức thể hiện. Bài thơ "Việt Bắc" đỉnh cao của
thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. "Việt Bắc" là một
trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ "tống biệt" của Tố Hữu. Mặc
đề tài cũ, nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi "Việt Bắc" ra đời trong cuộc chia tay
đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc cán bộ kháng chiến vào tháng 10 năm 1954. Ra
đời trong hoàn cảnh y, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi
buồn đầy nước mắt, nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ nhân dân
sâu đậm ân tình. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ sự thể hiện tinh tế sâu sắc những
rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân ly:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại nói với người ra đi:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tác giả mở đầu bằng một câu hỏi mang âm hưởng ca dao, tình yêu: "Mình về mình
nhớ ta". "Mình về" hoàn cảnh để người lại bộc lộ nỗi niềm. "Về" gợi đến sự chia
ly, đó sự chia ly của người ra đi người lại. Về mặt kết cấu câu thơ thì "mình"
đứng ở đầu câu, còn "ta" đứng ở cuối câu thơ. Nó gợi lên cái khoảng cách giữa "ta"
"mình". Nỗi niềm gợi lên qua câu hỏi ấy của người lại nỗi nhớ, tình cảm của
người lại hướng tới người ra đi. Đứng giữa câu thơ một từ "nhớ", làm cho
"mình" "ta" dường như được xích lại gần nhau hơn. sở tạo nên nỗi nhớ ấy là:
"Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Câu thơ phảng phất âm hưởng của thơ Kiều,
nhưng từ âm hưởng đó lại vang lên nỗi niềm tình cảm của những con người trong một
thời kháng chiến. "Mười lăm năm ấy" gợi đến một quãng thời gian khó khăn, một thời
đau thương, mất mát. Tuy vậy, dường như tất cả mất mát đau thương ấy chìm đi, đọng
lại trong câu thơ chỉ còn tình cảm "thiết tha mặn nồng". Đó chínhsự gắn thân
thiết, tình cảm chia bùi sẻ ngọt trong "mười lăm năm ấy" giữa "ta" "mình". Bởi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
vậy, hỏi nhưng cũng chính để bộc lộ tình cảm hỏi chính thể hiện mong muốn
người ra đi cũng có tình cảm như chính mình.
Đến câu thơ thứ ba cũng một câu hỏi. Câu hỏi: "Mình về mình nhớ không" cũng
sự lặp lại gần giống câu thơ đầu. Tuy vậy, đối tượng hỏi không chỉ còn hẹp
trong mối quan hệ giữa "ta - mình" nỗi nhớ dường như không còn chỉ hướng tới
"ta", mà nỗi nhớ đó đã hướng vào đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là không
gian "núi rừng" "sông nguồn". Câu hỏi gợi về không gian "núi", "nguồn"
núi rừng Việt Bắc. Đây chính không gian quen thuộc gắn với người lại cũng
gắn với cả người ra đi. Không gian đó với người ra đi người lại không còn
không gian hồn, cảm không gian chứa đầy kỉ niệm, góp phần tạo nên
tình cảm cho người ra đi. trong câu thơ xuất hiện nhiều lần hai động từ chỉ hành
động "nhìn" "nhớ". Một hành động tác động vào thị giác, một hành động tác động
vào tâm tưởng; một hành động hướng tới hiện tại, một nh động hướng về quá khứ.
Sự đan xen giữa các hành động đó người lại đưa ra để muốn nhắc nhở người
ra đi sống ở hiện tại đừng quên về quá khứ, sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược,
đừng quên về những kỉ niệm của một thời đã qua. Đó chính mong muốn của người
lại nhắn nhủ tới người ra đi. Trước khi mong muốn người ra đi để nhớ thì người
lại đã thể hiện nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ đó biểu đạt trực tiếp qua động từ "nhớ" xuất
hiện nhiều lần khổ thơ, càng về cuối thì từ "nhớ" xuất hiện càng nhiều đã thể hiện
cường độ nhớ ngày một tăng đã tạo nên âm hưởng chủ đạo cho bài thơ. Đó
âm hưởng nhớ thương, ân tình tha thiết.
Bốn câu thơ đầu chỉ với hai câu hỏi, nhưng chủ yếu để giãi bày tình cảm để
mong muốn người ra đi cũng tình cảm như chính mình, bởi giữa hai đối tượng đó
sự gắn khăng khít trong một thời kháng chiến một vùng kháng chiến. Để rồi
từ đó, người ra đi đáp lại người ở lại bằng bốn câu thơ:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Người ở lại đặt ra câu hỏi nhưng người ra đi không trực tiếp trả lời câu hỏi đó mà thay
vào đó người ra đi thể hiện tình cảm lưu luyến, bịn rịn trong buổi chia tay. Ấn tượng
ban đầu đã tác động đến người ra đi: "Tiếng ai tha thiết bên cồn". "Ai" là đại từ không
xác định. "Ai" có thể là nhân vật đang xuất hiện trước mắt người ra đi, quen thuộc với
người ra đi - một con người cụ thể xuất hiện "bên cồn" trong buổi chia ly. "Ai" thể
là bất cứ người dân Việt Bắc đã cùng sống, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với người ra
đi. hiểu theo cách nào thì ấn tượng tác động đến người ra đi âm thanh tiếng nói
tha thiết - đó chính âm thanh rất đỗi ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng. âm thanh đó
dường như gọi về biết bao kỉ niệm, biết bao buổi trò chuyện tâm tình âm thanh đó
gọi về mối tình keo sơn gắn thân thiết giữa người lại với người ra đi. Chính âm
thanh đó đã khiến cho người ra đi "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi". Câu thơ
ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối trong tương quan đối lập giữa bên trong và bên ngoài.
"Trong dạ" thì "bâng khuâng" còn hành động bên ngoài biểu hiện sự "bồn chồn" thấp
thỏm của người ra đi, nhưng lạisự tương đồng trong cảm xúchành động. Chính
vì cảm xúc "bâng khuâng" thì mới có hành động "bồn chồn" đó được.
Trong cảm nhận của người ra đi, một hình ảnh bình dị, quen thuộc thường xuất hiện
trong cuộc sống đời thường đó hình ảnh "áo chàm". Hơn thế nữa chiếc "áo chàm"
gợi đến sắc màu bền bỉ khó phai. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ "áo chàm" để chỉ
người dân Việt Bắc bởi vậy nói "áo chàm đưa buổi phân li" nói về cuộc chia tay
đầy lưu luyến giữa người Việt Bắc với người cách mạng. Mượn hình ảnh "áo chàm"
dường như tác giả muốn nói đến tình cảm thủy chung sắt son khó phai mờ của người
dân Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng. Và ấn tượng đậm nét nhất với người ra đi
chính hành động "Cầm tay nhau biết nói hôm nay...". Trước tiên hành động
"cầm tay nhau" hành động quen thuộc rất đẹp của những ai khi chia li, thể
hiện tình cảm gắn thân thiết đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ người đi.
Họ cầm tay nhau trongm trạng nghẹn ngào, thế không nói lên lời. Dấu ba chấm
xuất hiện cuối dòng thơ như nốt nặng không lời, nhưng chính lại quý giá hơn rất
nhiều những lời nói thường ngày bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, bịn
rịn. u thơ kết lại đoạn thơ nhịp thơ thay đổi khác thường. Sự thay đổi của nhịp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
thơ không chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ còn tạo nên cái
ngập ngừng của tình cảm. đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn tả sự
khác lạ trong diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi.
Bài làm mẫu 5
Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Tố Hữu được biết đến với những tác phẩm
mang đậm tính trữ tình - chính trị. Bàn về phong cách thơ độc đáo của ông, ý kiến
cho rằng: "Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết nghệ thuật biểu hiện giàu
tính dân tộc thì viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người". Đặc
trưng này đã được thể hiện qua bài thơ Việt Bắc nói chung tám câu thơ đầu tiên
của thi phẩm này nói riêng.
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào, ngôn ngữ giản dị tha thiết trong thơ Tố Hữu
giọng điệu của sự ngọt ngào, mang tính tâm tình, thủ thỉ sâu lắng, đằm thắm. Trong
bài thơ Việt Bắc, để thể hiện nội dung về tình cảm cách mạng, tác giả Tố Hữu đã sử
dụng giọng thơ tâm tình để bộc lộ những xúc cảm nặng nghĩa tình. Giọng điệu đó
quyện hòa cùng nghệ thuật giàu tính dân tộc qua thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp "mình
- ta" thân thuộc trong các câu ca dao khúc hát dân ca, hệ thống ngôn ngữ bình dị
cùng những hình ảnh thơ quen thuộc nhưng vẫn giàu sức gợi. viết về đề tài chính
trị gắn với sự kiện lịch stháng 10 năm 1954 , sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được
kết, các quan trung ương của Đảng rời chiến khu Việt Bắc để trở về hoạt động tại
thủ đô Hà Nội nhưng bài thơ Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu tiên vẫn hiện lên
chất chứa cảm xúc của sự ngọt ngào, tha thiết.
Trong tám câu thơ đầu tiên, tác giả đã tái hiện không khí bâng khuâng, lưu luyến trong
những phút giây đầu tiên của buổi chia ly giữa kẻ - người đi. Khúc dạo đầu được
khơi gợi từ lời của những người ở lại:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Trong lời ca của người dân Việt Bắc hướng tới những người chiến sĩ, cán bộ cách
mạng, chúng ta có thể thấy được cảm xúc trữ tình sâu lắng qua điệp cấu trúc câu:
"Mình về mình nhớ ta?", "Mình về mình nhớ không?". Sự láy đi láy lại của câu
hỏi tu từ đã xoáy sâu vào nỗi nhớ sự day dứt khôn nguôi. Quãng đường đồng hành
đầy nghĩa tình"thiết tha mặn nồng" giữa nhân dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách
mạng đã được diễn tả qua khoảng thời gian "Mười m năm ấy". Đó những tháng
ngày đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, gợi lên sự bao bọc của nhân dân: "Thương
nhau chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng". Cuộc kháng chiến của dân
tộc ta thế luôn ngời sáng sức mạnh của tinh thần đoàn kết mang tính toàn dân.
Biết bao ân tình, gắn một lần nữa được gợi nhắc qua những hình ảnh "cây", "núi",
"sông", "nguồn" - không gian quen thuộc nơi núi rừng ẩn dụ cho lối sống ân nghĩa
thủy chung. Như vậy, qua bốn câu thơ đầu, chúng ta thể thấy được giọng điệu tâm
tình, thủ thỉ tràn đầy cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến của đồng bào dân tộc.
Cuộc đối thoại trữ tình tiếp tục được tiếp nối qua lời đáp của người ra đi - những cán
bộ chiến sĩ cách mạng:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Bốn câu thơ đã thể hiện sự lưu luyến bịn rịn, chưa chia xa những viễn cảnh nhớ
nhung đã hiện lên trước mắt. Đại từ "ai" ngân vang cùng sự "tha thiết" đã nhấn mạnh
vào tình cảm, cảm xúc đặc biệt của người ra đi sự thấu hiểu đối với cảm xúc của
người ở lại. Điều này khiến cho câu thơ giống như một câu trả lời gián tiếp khẳng định
người ra đi sẽ mãi mãi không quên được "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"
luôn một lòng hướng về nhớ đến "cây", "núi", "sông", "nguồn". Trạng thái này
được xoáy sâu hơn nữa qua những tính từ miêu tả cảm xúc như "bâng khuâng", "bồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
chồn". Hình ảnh người lại đã được khắc họa trong tâm tưởng của những chiến
cách mạng qua hình ảnh hoán dụ "Áo chàm" - màu áo đặc trưng của đồng bào Việt
Bắc. Cuộc chia ly cứ thế diễn ra trong sự bâng khuâng xúc động, tất cả mọi cảm
xúc dường như nén lại: "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay".
Chỉ với tám câu thơ đầu tiên, chúng ta thể thấy được tàing của nhà thơ Tố Hữu
trong việc sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo linh hoạt thể thơ lục bát - thể thơ dân
tộc với những đặc trưng riêng trong cách gieo vần và nhịp điệu. Đồng thời, kết cấu bài
thơ được kiến tạo theo lối đối đáp giao duyên qua cặp đại từ "mình - ta" khiến lời thơ
chất chứa yêu thương như những lời tâm tình của đôi lứau nhau. Câu chuyện cách
mạng, kháng chiến vốn thuộc lĩnh vực chính trị khô khan được tái hiện đầy tâm tình
sâu lắng như một câu chuyện tình yêu ngọt ngào, làm nổi bật tình cảm ân tình thủy
chung, cao đẹp của nghĩa tình cách mạng.
Như vậy, qua m u thơ đầu tiên, chúng ta thể khẳng định: "Với giọng thơ tâm
tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề
gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người". Câu chuyện cách mạng, kháng chiến
mang tính chính trị, gắn với sự kiện lịch sử cụ thể thế khi đi vào trang thơ "Việt
Bắc" vẫn chất chứa cảm xúc da diết, bồi hồi. Điều này đã thể hiện đặc trưng
chính trị - trữ tình trong phong cách thơ Tố Hữu. Đồng thời tạo nên nét đặc sắc và sức
hấp dẫn của bài thơ.
Bài làm mẫu 6
Bạch Dị khi nói về nói thơ, cho rằng: "Thơ, ấy gốc của tình, lời ngọn, âm
thanh là hoa, nghĩa là quả”, đó là một sự toàn diện tạo nên sức sống của thơ giữa dòng
thời gian. Tiếng thơ Tố Hữu cũng vậy. Nhà thơ dụng công dâng hiến áng thơ Việt
Bắc” để gửi gắm tưởng tình cảm sâu sắc về nghĩa tình trong thời chiến còn làm
rung động lòng người. Tám câu thơ đầu: "Ta về mình nhớ ta… Cầm tay nhau biết
nói gì hôm nay” là kết tinh tư tưởng chủ đề đó.
Tám câu thơ đầu hay dòng tâm trạng bâng khuâng, bịn rịn khi giờ chia ly đã điểm,
đậm ân tình cách mạng của người đồng bào miền núi với cán bộ, chiến sĩ. Thể thơ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
lụct khiến câu thơ mềm mại, điệu thơ trầm bổng, kết hợp với vần phong phú, nhịp
đều đặn gợi trạng thái muôn vàn trong tâm hồn người ở, kẻ đi. Kết cấu đối đáp, cách
xưng "mình, ta” quen thuộc xuất hiện trong ca dao giao duyên buổi tự tình, hẹn
của chàng - nàng, mận - đào, mở ra bầu không khí tâm tình, giọng tình thương mến,
ngọt ngào. Đoạn thơ nói tình cảm chính trị mà không khô khan.
Với người ở lại, nhạy cảm với sự đổi thay nên lên tiếng trước:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Câu hỏi tu từ láy đi, láy lại theo hình thức tăng tiến "có nhớ ta, nhớ không” gợi
những cung bậc cảm xúc từ ướm hỏi xa xôi đến nỗi khắc khoải lắng nghe lời đồng
vọng. Qua đó giúp ta cảm tấm chân tình của người lại, tình đồng bào với người cất
bước. Thời gian lịch sử "mười lăm năm”, cũng thời gian tình cảm mặn nồng ân
nghĩa. Không gian "cây, núi, sông, nguồn” gợi Việt Bắc đại ngàn, núi thăm thẳm.
Điệp từ "nhớ” diễn tả nỗi lòng lớp lớp, khôn nguôi. Cách diễn đạt mang lỗi nghĩ dân
gian như lời nhắn nhủ của cha ông về lối sống ẩm nguyên, nhắc nhớ sự thủy
chung.
Lời người đi xuôi đáp lại tiếng lòng kẻ ở lại:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Cặp câu lục bát sử dụng những láy từ "bồn chồn, bâng khuâng” biểu hiện mọi nỗi
niềm trong lòng người ly biệt. Tâm trạng được hữu hình hóa, hình thành hữu hình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
"bồn chồn bước đi” gợi bước đi chầm chậm chẳng nỡ rời buông như bước chân kẻ
chinh phu, tráng ngày o trong “Chinh phụ ngâm”: “Bước đi một bước, giây giây
lại dừng”
Nhưng đó tình phu - phụ, còn “Việt Bắc” nói tới tình đồng chí, nghĩa đồng bào.
Hình ảnh áo chàm trong buổi phân ly đã từng đi về từng đi về trong ca dao xưa, chiếc
áo để người đắp cho bớt hiu quạnh, áo bào của nàng Kiều trong buổi chia ly Thúc
Sinh. Nhưng Tố Hữu mượn sắc áo chàm bình dị, bền, khó phai, khó nhạt của đồng
bào miền ngược nói sắc lòng người lại mãi vẹn nguyên. Tâm tình cảm người
được cảm bởi người đi, dường như “ta, mình” hiểu nhau cả những điều không nói ra.
Bởi vậy, hành động “Cầm tay nhau biết nói gì” như khoảng lặng của âm nhạc, khoảng
trống của nhiếp ảnh, khoảng ngôn tình trong văn học. Thời gian như ngừng lại
để kẻ người đi đối thoại đàm tâm, sự thấu hiểu của tình tri âm, tri kỷ giữa người
đồng bào và cán bộ cách mạng mang ân tình cách mạng sâu đậm.
Tám câu thơ đầu trong “Việt Bắc” vừa tiếp thu giá trị dân gian phong phú vừa được
nhà thơ Tố Hữu sáng tạo ý mới, hình ảnh mới, diễn đạt tình cảm, sự kiện thời đại phản
ánh quy luật kế thừa, cách tân nghệ thuật.
Bài làm mẫu 7
Nhớ về giai đoạn 1945 - 1975, bạn đọc đều khắc khoải những giây phút chiến đấu hào
hùng, những gian khổ khắc nghiệt của bom đạn chiến tranh. Và chính hoàn cảnh đó đã
sản sinh ra Những ngòi bút Cách Mạng tiêu biểu cho một thời kì văn học dân tộc. Nếu
Phạm Tiến Duật hay Quang Dũng viết về gian khổ bằng giọng thơ tươi trẻ, yêu đời,
thì Tố Hữu lại đi vào lòng bạn đọc nhờ cái trữ tình, lắng sâu của lời thơ. Tám câu thơ
mở đầu “Viết Bắc” là minh chứng rõ nét cho phong cách thơ Tố Hữu.
Tố Hữu tên thật Nguyễn Kim Thành, sinh ra lớn lên nơi xứ Huế mộng mơ. Phải
chăng chính đất người nơi đây đã đọng lại trong tâm hồn thi chất nhẹ nhàng,
duyên dáng, rất thơ, rất Huế. thi nhân sự hòa quyện thống nhất giữa cuộc đời
Cách mạng cuộc đời thơ. Ông chọn con đường Cách mạng từ thời niên thiếu, viết
thơ cũng viết cùng chặng đường lịch sử của cả dân tộc. Bởi vậy, Tố Hữu quan
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
niệm: “Muốn thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không
ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách
nhìn. Tự nguyện gắn chân thành yêu cầu cao nhất đối với người nghệ trong
quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng còn phải kiên
quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc, với cái xấu cái
ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa
tưởng. "Và Việt Bắc chính là áng thơ được kết tinh từ tư tưởng chính trị vững vàng
cùng trái tim ấm nóng luôn hướng về quê hương đất nước của nhà thơ. Bài thơ ra đời
trong không khí hân hoan của quân dân sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử,
trong giây phút những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Việt
Bắc là khúc ca hùng tráng cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến
và con người kháng chiến, thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước
trong niềm tự hào dân tộc. Tám câu thơ mở đầu đã dội nên bao nỗi niềm thân thương,
lưu luyến trong tâm tình người chiến sĩ khi rời xa đồng bào vùng cao để trở về.
Cuộc chia tay đầy bịn rịn, tiếc nuối hiện ra qua giọng thơ ngọt ngào, trữ tình của Tố
hữu.
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Đoạn thơ nương theo điệu hồn truyền thống từ thể thơ đến cách xưng hô, gợi một nỗi
niềm bình dụi, thân thuộc. Tố Hữu tìm về với văn học cổ để khai phá cái tình, cái tứ
trong thẻ thơ lục bát bình dị, tạo âm hưởng đối thoại tâm tình giữa quân dân. Giữa
đồng bào người lính, giữa những đồng đội không phải “anh - tôi” như trong
“Đồng chí” (Chính Hữu), không phải nàng, em” trong lời thơ Tây Tiến (Quang
Dũng), tình cảm son sắt, thắm đượm ấy đã trở thành “mình - ta”. Lối xưng quen
thuộc trong ca dao dân ca xưa vừa gợi nét ấm cúng, thân mật, vừa tạo nên nét độc đáo
trong ngòi bút khám phá của Tố Hữu. Với nhà thơ, tình quân dân cũng ấm nồng như
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
tình cảm gia đình, cần sự thủy chung, gắn bền chặt không rời. Lời thơ lời của
người lại nói với người ra đi rằng: sau khi trở về thành thị phồn hoa rồi, liệu lòng
người còn vương vấn chút nơi đây, nhớ “mười m năm” kháng chiến gian
khổ, có nhớ núi rừng đồng cnơi đây hay không. Nỗi niềm ấy cứ day dứt trong lòng
người lại. Ngay sau cụm từ “mười lăm năm” dài đằng đẵng ấy hình ảnh của non
sông suối nguồn miền cao, gợi cho bạn đọc cảm giác mênh mang, chơi vơi của nỗi
nhớ, đã trải ra khắp không gian, thấm đượm vào từng vết hằn của thời gian đời
người. Câu thơ chất chứa i tình,i nghĩa của người ra đi người lại, hay cũng
chính là cái gắn bó sâu đậm của đồng bào miền ngược với những chiến sĩ miền xuôi.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Nhớ về Việt Bắc, người lính nhớ thiên nhiên đại ngàn hùng vĩ, nhớ về những tháng
ngày chiến đấu gian khổ đặc biệt hơn cả nhớ về trái tim của những người lại.
“Tiếng ai” - tiếng người lại hay tiếng người ra đi, nhà thơ không nói nhưng
của ai cũng đều bâng khuâng, bồn chồn không yên. Phải chăng đó nỗi lòng người
lính khi phải rời xa chốn thân thương này, bồi hồi, lưu luyến không thể cất bước. Tố
Hữu đã sử dụng nghệ thuật hoán dụ cùng tinh tế “Áo chàm đưa buổi phân ly”. Áo
chàm trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc trên vùng cao, dùng hình ảnh
áo chàm để khắc họa lên hình ảnh con người, vừa kín đáo, vừa giàu giá trị nghệ thuật,
Lời thơ trở nên mềm mại, giàu hình ảnh hơn. Trong giờ phút chia tay ấy, mọi người
đứng gần nhau, nắm tay nhau. Bao kỉ niệm, bao lời giãi bày đều không thể cất nên
thành tiếng. Khoảng lặng định bỗng chiếm đoạt bầu không gian, lúc tiếng lòng
cất lời. Chỉ nhìn nhau, chỉ nắm tay nhau cũng đủ hiểu nhau. Đó biểu hiện của sự
đoàn kết, gắn keo sơn suốt bao năm tháng. Chỉ bằng những hình ảnh giản dị, ngôn
ngữ giàu hình ảnh, nhà thơ đã khắc họa nên bức tranh buổi chia tay cùng ấm nồng,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
cảm động. Con người, thời gian, không gian như hòa làm một. Tình cảm quân dân,
đồng chí- đồng bào đã trở thành tình yêu đất nước.
Bằng tài năng nghệ thuật cùng tâm hồn nhạy cảm, tha thiết với Cách mạng, Tố hữu đã
tái hiện lại khung cảnh buổi chia tay đầy xúc động của đồng bào dân tộc miền núi với
chiến khi về xuôi. Từ đó làm ngời sáng lên vẻ đẹp của tình cảm quân dân gắn bó,
thắp lên hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn.
Bài văn mẫu 8
Chiến tranh đã mang đến cho con người biết bao mất mát, hy sinh, niềm đau nước
mắt. Đó điều ai cũng thể cảm nhận được. Thế nhưng, chính những gian nan
ấy cũng là nền tảng và đòn bẩy để những tình cảm thiết tha, chân thành có cơ hội được
bộc lộ. Trong đó, tình quân nhân một loại tình cảm cao đẹp thiêng liêng được
xuất phát từ chính tấm lòng của người lính nhân dân nơi họ đặt chân đến. Bài thơ
“Việt Bắc” một khúc ca dạt dào tình cảm của kẻ ở, người đi trong một cuộc chia ly
đầy nghẹn ngào và xúc động.
Năm 1947, chiến dịch Việt Bắc thu đông giành thắng lợi vẻ vang, toàn bộ cơ quan đầu
não phải rời căn cứ để xuống xuôi tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ được
Tố Hữu sáng tác để bày tỏ nỗi niềm lưu luyến thiết tha của những người lính cũng
như nhân dân vùng núi rừng Việt Bắc. Tám câu thơ đầu của “Việt Bắc” là sự bày tỏ rõ
ràng và sâu sắc nhất cảm xúc của những người có mặt trong cuộc chia ly ấy.
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ chân thành, thấm đượm tình cảm.
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Chỉ tám câu thơ tận bốn chữ nhớ cũng đủ để nói lên nỗi nhớ ấy da diết biết
chừng nào. Nhà thơ dùng “mình-ta” để xưng như cách những người vợ, người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
chồng hay những người thân thiết gọi nhau. Nhân dân người lính Việt Bắc, qua
những năm tháng gắn bó, chiến đấu cùng nhau tình cảm của họ cũng mặn nồng,
sâu sắc như người thân trong gia đình. Nhà thơ sử dụng lối hát giao duyên như trong
ca dao truyền thống để tạo nên một không khí gần gũi, thân thương dễ đi vào lòng
người. “Mình về mình có nhớ ta” là câu hỏi mà người ở lại dành cho kẻ ra đi. Câu hỏi
ấy thực ra cũng chẳng cần phải trả lời. Người lại như muốn hỏi chính mình, liệu
rằng những người chiến sĩ ấy khi về xuôi thì có còn nhớ về núi rừng, về cuộc sống nơi
bản nhỏ. Mười lăm năm, một quãng thời gian dài đằng đẵng của những năm kháng
chiến. Chính trong thời gian ấy, nhân dân người lính đã cùng nhau đồng cam cộng
khổ, gắn với nhau, chia sẻ bảo vệ nhau trước những khó khăn, nguy hiểm của
cuộc sống. Người lính về xuôi, liệu rằng khí nhìn cây, nhìn sông họ nhớ đến rừng
núi chập chùng, nhớ đến nguồn nước từ trên cao đổ xuống. Những kỉ niệm của
mười lăm năm gắn bó liệu có còn vương lại trong lòng họ hay không? Người dân Việt
Bắc cứ tự đặt ra câu hỏi ấy, vừa để tỏa nỗi nhớ, vừa để thể hiện truyền thống uống
nước nhớ nguồn và lòng yêu thương, đoàn kết của dân tộc.
Sau nỗi nhớ là cảnh chia ly đầy nước mắt.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Cả vùng Việt Bắc sát cánh cùng nhau bỗng nhiên hôm nay lại phải chia lìa. Ai cũng
hụt hẫng, ai cũng mang trong mình nỗi buồn man mác. Ai cũng mong giành được
chiến thắng, nhưng đến khi chiến thắng rồi thì họ lại phải xa nhau. “Tiếng ai” một
loại âm thanh không từ đâu đến, cũng chẳng của ai, nhưng tượng trưng
cho tiếng nói của núi rừng con người đang dạt dào s nghẹn ngào, tiếc nuối. Giờ
phút chia tay sao trôi nhanh quá. Người lính dẫu không muốn nhưng vẫn phải cất
bước ra đi. Những bước đi cũng họ nặng nề khó nhọc quá. tiếng về phía trước
nhưng lại không ngừng muốn quay trở lại, không phải xa lìa nơi mà họ đã gắn bó suốt
tuổi trẻ. Những bước chân ấy mang theo the cả nỗi niềm lưu luyến, “bâng khuâng”
cho người lại. Trong lòng người đi kẻ những cảm giác không tên, nghẹn
ngào rơi nước mắt.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Và cuộc chia li mỗi lúc lại càng thêm sầu thẳm, quyến luyến.
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
hai câu cuối của đoạn một, hình ảnh “áo chàm” hiện lên với những ý nghĩa to lớn.
đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Bắc đang ra tiễn những anh bộ đội lên
đường về xuôi. Ta bắt gặp cảnh chia tay với những cái bắt tay đầy nghẹn ngào. Họ
cầm tay nhau mà chẳng ai có thể thốt lên một lời từ biệt. Có lẽ, họ muốn được nắm tay
nhau mãi, ở cạnh nhau để cùng sẻ chia những cay đắng cuộc đời. Họ không biết nói gì
không phải không để nói quá nhiều những lời sự họ không biết bắt
đầu từ đâu, nói như thế nào. Có lẽ, cái nắm tay tình cảm và ánh mắt họ nhìn nhau cũng
đủ để cả hai bên thấu hiểu cảm thông cho nhau. Họ không nói nhưng tình cảm lại
lan tỏa được giãi bày qua ánh mắt họ giành cho nhau. Họ không cần nói nhưng ai
cũng cảm nhận được nỗi niềm sự nhớ thương bởi họ đã quá hiểu nhau suốt mười
lăm năm gắn bó.
Bài thơ Việt Bắc đặc biệt tám câu đầu đã vẽ nên một cuộc chia ly đầy nước mắt
và để từ đó, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm chân thành và sâu sắc nhất giữa
quân dân trong những năm chiến đấu gian khổ. Đó thứ tình cảm cao cả, thiêng
liêng đáng tự hào và gìn giữ suốt cuộc đời.
Bài làm mẫu 9
Đến với thơ Tố Hữu, người đọc sẽ cảm nhận được một hồn thơ mang đậm tính dân
tộc. Điều đó được thể hiện trong bài thơ “Việt Bắc” đặc biệt tám câu thơ đầu của
bài thơ.
Tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc thể hiện trước hết ở kết cấu đối đáp kiểu ca dao giao
duyên. Rất nhiều bài ca dao xưa thường dùng kiểu đối đáp để diễn tả tâm trạng của
nhân vật trữ tình:
Mình nói với ai mình hãy còn son
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò
Mình nói với ta mình chửa có chồng
Ta đi qua ngõ mình bồng con ra
Tố Hữu đã vận dụng kiểu kết cấu tuyệt vời y trong một bài thơ mục đích của
không phải để nói tới tình yêu lứa đôi một bài thơ ngợi ca mối quan hệ khăng
khít gắn giữa chính phủ cách mạng quê hương cách mạng với nhân dân Việt
Bắc.
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:
Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ.
Cách xưng "mình - ta" được tác giả đã sử dụng từ ngữ diễn tả trong tình cảm quân
dân. Mười lăm năm gắn bó với biết bao tình cảm tha thiết, mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn kín đáo: Đừng quên cội
nguồn Việt Bắc - cội nguồn của cách mạng.
Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
“Bâng khuâng, bồn chồn” hai từ láy gợi cảm diễn tả trạng thái tâm tình cảm:
buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong... lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm
đồng bào Việt Bắc chung sống cùng những người cán bộ chiến sĩ mười lăm năm
gian khổ nhau, mười lăm năm đầy những kỷ niệm chiến đấu. Giờ khi phải chia tay
rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô, biết mang theo điều gì, biết lưu lại
hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi nỗi niềm bâng
khuâng khó tả.
"Áo chàm đưa buổi phân li" một ẩn dụ - màu áo chàm, màu áo xanh đen màu áo
đặc trưng của người miền núi Việt Bắc - tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh
cụ thể "áo chàm", chiếc áo, màu áo bình dị của vùng quê nghèo thượng du đồi núi
nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu
nước.
Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói hôm nay…” đầy tính chất biểu cảm - “không biết
nói gì” không phải không có điều để giải bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói
không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn
nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng.
Như vậy, tám câu thơ đầu của bài thơ “Việt Bắc” đã thể hiện được tình cảm sâu sắc
của đồng bào Việt Bắc chiến cách mạng. Đoạn thơ tiêu biểu cho tính dân tộc
trong thơ của Tố Hữu.
Bài làm mẫu 10
Tố Hữu được biết đến một nhà thơ cách mạng nổi tiếng của Việt Nam. Một trong
những sáng tác tiêu biểu của ông phải kể đến bài thơ Việt Bắc. Bài thơ được đánh giá
là giàu tính dân tộc và điều đó được thể hiện ở tám câu thơ đầu:
Mình về mình có nhớ ta?
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Bốn câu thơ đầu tiên khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua. Câu thơ mở đầu là một
câu hỏi chứa đựng nhiều cảm xúc: “Mình về mìnhnhớ ta?”. Cách xưng “mình -
ta” khiến cho giọng thơ trở nên tha thiết. “Mình” chỉ người chiến sĩ cách mạng - người
ra đi. Còn “ta” chỉ đồng bào Việt Bắc - người lại. Câu hỏi của người ra đi dành cho
người lại, liệu những chiến cách mạng khi về miền xuôi còn nhớ đến những
ngày tháng sống núi rừng Việt Bắc. Mườim năm gắn keo sơn, cùng nhau chia
ngọt sẻ bùi, cùng nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Những từ “thiết tha”, “mặn nồng”
như để làm tăng thêm tình cảm giữa “mình” “ta”. Đó tình cảm quân dân gắn
thủy chung son sắc. Câu thơ tiếp theo giống như một lời nhắc nhở người chiếncách
mạng: “Mình về mình nhớ không/Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Khi về
tới miền đồng bằng với những cảnh vật phồn hoa thì cũng đừng quên đi cảnh núi rừng
Việt Bắc. Điệp từ “nhìn” “nhớ” như muốn khẳng định mong muốn của đồng bào
Việt Bắc.
Bốn câu thơ sau câu trả lời của người chiến dành cho đồng bào Việt Bắc. Đại từ
phiếm chỉ “ai” gợi ra nhiều cách hiểu, đó thể tiếng lòng của đồng bào Việt Bắc
như muốn người chiến lại, cũng thể chính tiếng lòng của người chiến
không muốn xa cách. Các từ “bâng khuâng”, “bồn chồn” thể hiện sự tâm trạng day
dứt, lo lắng của người ra đi. Tiếp đó hình ảnh chia tay đầy cảm động giữa người
chiến sĩ cách mạng và người Việt Bắc:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
“Áo chàm” màu áo nâu - màu áo của người nông dân nghèo khổ, cực nhọc, vất vả
quanh năm suốt tháng lao động cần để phục vụ cho cách mạng. Hình ảnh hoán dụ
“áo chàm” chính để chỉ người Việt Bắc trong buổi đưa tiễn người chiến sĩ. Trong
giây phút chia tay, họ “cầm tay nhau” nghẹn ngào, lưu luyến “chẳng biết nói gì”.
Dường như mọi lời nói đều trở nên vô nghĩa trước tình cảm của đồng bào Việt Bắc và
những chiến cách mạng. Việc sử dụng từ “phân ly” chứ không phải “chia ly”
mang tính biểu tượng cao. Suốt mười lăm năm gắn bó keo sơn, họ dường đã trở thành
một thể thống nhất - một gia đình lớn. Vậy nay phải nói lớn từ biệt, chẳng khác
nào bị chia cắt làm đôi, mỗi người một ngả.
Với tám câu thơ đầu tiên, Tố Hữu đã vận dụng khéo léo lối đối đáp giao duyên giữa
“mình” - “ta” kết hợp với giọng điệu thủ thỉ tâm tình thường trong ca dao, dân ca.
Cũng như thể thơ lụct, hình ảnh, ngôn ngữ đậm giản dị để thể hiện tình cảm thủy
chung gắn của đồng bào Việt Bắc với chiến cách mạng - truyền thống thủy
chung của người Việt Nam.
Qua phân tích trên thể thấy được tám câu thơ đầu trong bài thơ “Việt Bắc” mang
đậm tính dân tộc. Đó một trong những nét đẹp tiêu biểu về nghệ thuật trong thơ Tố
Hữu.
Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc đầy đủ
Bài văn mẫu 1
Tố Hữu nhà thơ của tưởng cộng sản, cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu n riêng mang đậm hồn thơ
trữ tình chính trị:Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu hoa… Việt Bắc đỉnh
cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp núi chung. Bài thơ là khúc tình ca
cũng khúc hùng ca về cách mạng về cuộc kháng chiến con người kháng
chiến, cội nguồn sâu xa của tìnhu quê hương đất nước, niềm tự hào về
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
sức mạnh của nhân dân, truyền thống ân nghĩa, đạo thuỷ chung của dân tộc Việt
Nam. Toàn bộ bài thơ một hoài niệm lớn, day dứt khôn nguôi được thể hiện qua
hình thức đối đáp giữa người ra đi và người ở lại :
Và đoạn thơ:
“ Mình về mình có nhớ ta
tay nhau biết nói gì hôm nay”
Là một trong những đoạn tiêu biểu cho tình cảm ân nghĩa thủy chung đó. Bài thơ được
làm vào tháng 10.1954, khi TW Đảng Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến
khu để về tiếp quản thủ đô Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch
sử ấy, Tố Hữu đó xúc động viết nên bài thơ này. Bài thơ được cấu tạo theo lối đối đáp
giao duyên của ca dao dân ca: Đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa
mặn nồng nay phải chia tay nhau kẻ đi người ở. Cả bài thơ tràn ngập nỗi nhớ. Nỗi nhớ
trong kẻ người đi trong câu hỏi trong cả lời đáp. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại cồn
cào da diết.
bốn câu thơ đầu dường như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, người lại lên tiếng
trước, căn vặn người ra đi về tấm lòng chung thuỷ:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
…Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Giọng thơ như tuôn chảy từ trong nguồn mạch của ca dao dân ca. Lối xưng “Mình
_ ta” ngọt ngào tha thiết như tình yêu đôi lứa. Nhưng mình ở đây không ai khác chính
người ra đi, là cán bộ kháng chiến chuẩn bị về xuôi. Còn ta ngườilại, những
người dân Việt Bắc ân tình chung thủy. “Mình về mình có nhớ ta”. Liệu mình – những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
người cán bộ chiến sau khi chiến thắng về chốn phồn hoa đô hội còn nhớ đến
đồng bào mảnh đất Việt Bắc với những tháng năm gian khổ đã từng đùm bọc
che chở cho họ trước đây không. Cách xưng “mình- ta” cnhư lời bày tỏ tình yêu
đôi lứa trong dân gian Tố Hữu đã mượn cách nói thân mật ấy để giải cho mối
quan hệ gắn giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân. thế lời thơ không bị khô
cứng mà ngọt ngào êm ái.
“Mười lăm năm ấy”, Con số vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười
lăm năm các mạng. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng mười
lăm năm gắn bó thuỷ chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc . Câu thơ
mang dáng dấp một câu Kiều :
Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.
Cách dùng những từ ngữ gợi ý niệm về thời gian “mười lăm năm…” làm cho nỗi nhớ
càng thêm da diết : Không biết mình còn nhớ hay đã quên, chứ ta thì ta không thể
quên được những tháng năm ấy. Và cũng để rõ thêm tấm lòng của người ra đi, kẻ ở đã
khéo gợi ra cảnh
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Nghĩa tình giữa ta và mình bắt nguồn từ những lý lẽ hiển nhiên giống như đạo lý uống
nước nhớ nguồn của dân tộc vậy. Liệu mình giữ được tấm lòng chung thuỷ trước
những cám dỗ mới của cuộc đời không? Đó cũng chính tâm trạng, nỗi lòng băn
khoăn của “người lại”, của “ta”. Cách liên tưởng so sánh trên không chỉ mở rộng
không gian của nỗi nhớ, mà còn làm cho kỷ niệm cứ như tuôn trào tầng tầng lớp lớp.
Các cặp hình ảnh cây-núi”; “sông-nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang
nghĩa ảo.Nó không chỉ gợi ra không gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc
thù. còn nói lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ
dân mà ra. Nhớ về nhân dân, như nhớ về cội nguồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Các từ “mình” “ta”, câu hỏi tu từ “Mình về mình nhớ …” được láy lại 2 lần làm
cho nỗi nhớ niềm thương cứ dâng lên mãi trong lòng của người đi và kẻ ở.
Và để đáp lại sự băn khoăn của người ở lại là tiếng lòng của người ra đi.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Đại từ “ai” phiếm chỉ tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ ( như cách bày
tỏ trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…) Hoá ra người đi cũng cùng một tâm trạng, cùng
một tình nghĩa chung thuỷ như bạn mình : Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn
vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt
Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổnhau, mười lăm năm
đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp
quản tại thủ đô Nội (10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào ?
Tác giả đã sử dụng một loạt những từ láy, những từ chỉ trạng thái tình cảm của người
đang yêu để giãi bày tình cảm không nói lên lời của người ra đi cũng thuỷ chung tình
nghĩa như tấm lòng người ở lại vậy.
Một thời gắn bó, một thời thủy chung, nay ta mình chia xa :“Áo chàm đưa buổi
phân li”.Áo chàm” không đơn thuần là chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của
vùng quê nghèo thượng du đồi núi đã được hoán dụ trở thành biểu tượng cho
nhân dân Việt Bắc thuỷ chung sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự
nghiệp kháng chiến cứu nước. Nay kẻ đi người ở, hỏi sao không bồi hồi xúc động :
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
Câu thơ …”đầy tính chất biểu cảm . Nó gợi ra cảnh bịn rịn luyến lưu tay trong tay
không nói lên lời của đôi trai gái yêu nhau để từ đó tác giả như khắc sâu thêm tình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
cảm gắn thắm thiết, thuỷ chung của người miền xuôi đối với người miền
ngược.“Biết nói gì” không phải không có điều để giãi bàychính là vì có quá nhiều
điều muốn nói không biết phải bắt đầu từ đâu, nên nói điều gì. Ba dấu chấm lửng
đặt cuối câu một dấu lặng trên khuông nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…Trong
buổi chia ly, mặc chưa biết nói với kẻ lại nhưng thực ra người ra đi đã nói
được rất nhiều điều. Bởi im lặng cũng là một thứ ngôn ngữ của tình cảm
Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 hai câu thơ cuối đoạn diễn tả một cách thân tình cái ngập
ngừng , bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở. Kỷ vật trao rồi mà
lòng vẫn quyến luyến không thể rời xa.
Qua bài văn cảm nhận 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc, chúng ta thấy được nỗi lòng thương
nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ là biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng
điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con
người cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi
phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son
sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với “Việt Bắc”
Bài văn mẫu 2
Tố Hữu nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, cờ đầu của
thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao
của thơ ca kháng chiến chống Pháp. 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc đã tái hiện niềm
thương nỗi nhớ, cũng chính niềm trăn trở chung của đồng bào ta trong lần chia tay
lịch sử.
Tính dân tộc là những dấu ấn độc đáo, không lặp lại, biểu hiện những bản sắc, là
những nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc. Tính dân tộc được hiểu một đặc tính
nhưng đồng thời cũng thước đo giá trị của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm
văn chương lớn từ trước cho đến nay. những tác phẩm vừa mang tính nhân loại,
vừa mang tính dân tộc sâu sắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về
nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề hiện thực
đời sống cách mạng nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, những tình cảm chính
trị sự gắn bó, hòa nhập với truyền thống tình cảm đạo của dân tộc, khát vọng
và ý chí của một dân tộc. Về hình thức nghệ thuật, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng
tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc (cách so sánh, ẩn dụ, hiện tượng chuyển nghĩa, cách
diễn đạt gần với ca dao dân ca). Nếu hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách
nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Bốn câu thơ đầu lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người lại, khơi gợi kỉ niệm về
một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội nghĩa tình, thể hiện tâm trạng nhớ
thương, tình cảm gắn bó, thủy chung của quê hương Việt Bắc, con người Việt Bắc
dành cho người về xuôi. đây, nhà thơ sử dụng thành công những hình ảnh đối đáp
kiểu dân gian:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Khung cảnh chia tay bịn rịn giữa kẻ người về. Cách xưng “mình ta”: thân
mật gần gũi như trong ca dao. Điệp từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng. Cách
xưng “mình ta” : thân mật gần gũi như trong ca dao. Điệp cấu trúc “mình về
mình có nhớ” : lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha
mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.
Người lại đặt câu hỏi tu từ “Mình về mình nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi
trong người ra đi những kỷ niệm về mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười
lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954, là
mười lăm năm “Mình đây ta đắng cay ngọt bùi”, mười lăm năm phúc cùng
hưởng, họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai”…
làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa
Việt Bắc cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. lẽ thế nên nhà
nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã cho rằng: ” “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
thước đo thời gian còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính thứ
thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.
“Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Lại một câu hỏi tu từ nữa xuất hiện. Lại một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Nội
rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt
Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành: Việt Bắc là cội nguồn cách
mạng, “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, trung tâm đầu não của cuộc
kháng chiến. Câu thơ này phải chăng sự vận dụng linh hoạt tài tình của nhà thơ
Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các
thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, vềi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
Hai câu hỏi đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi
nhớ về không gian: sông, núi, nguồn. Đó khoảng thời gian gắn biết bao kỉ niệm
của người dân Việt Bắc với người lính.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Bốn câu thơ tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi: tâm trạng bâng
khuâng, bồn chồn đầy lưu luyến, bịn rịn của người kháng chiến đối với cảnh và người
Việt Bắc.
Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “bồn chồn” thể hiện sự không yên tâm
trong dạ, không nỡ rời bước. Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân thương
giản dị. Cử chỉ “cầm tay nhau” thay lời nói chứa đầy cảm xúc. Không khí buổi chia
tay thân tình, gần gũi, bịn rịn không muốn chia xa.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Lời người lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới hình thức
những câu hỏi: nhớ về Việt Bắc cội nguồn quê hương cách mạng, nhớ thiên nhiên
Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình…
Nếu như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi
nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những ng khuâng tha
thiết. Không sử dụng đại từ xưng “mình”, ta” người xưng sử dụng đại từ
“ai” để khẳng định trước hết sự gắn với người lại. Ai có thể đại từ để hỏi
nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất gần cách nói của ca dao: “Nhớ ai bổi hổi
bồi hồi” Tố Hữu sử dụng khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá
trị biểu cảm của từ “ai”. Một chữ “ai” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người
đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc đến chừng nào hiểu nỗi
niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mạng, đối với người miền xuôi. Một
chữ “ai” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta chỉ nơi đất
ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Hai từ láy “bâng khuâng” “bồn chồn” góp phần làm tăng thêm tâm trạng người ra
đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại “Bước đi một bước lâu lâu lại dừng”
để rồi “cầm tay nhau biết nói hôm nay”. Không biết nói phải chăng quá
nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ân nghĩa, sắt son chẳng thể nào dùng ngôn từ để diễn tả,
đành phải gửi tâm tình qua cái năm tay thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của
yêu thương đoàn kết. Chỉ cần cầm tay nhau thôi hãy để hơi ấm nói lên tất cả, yêu
thương, nhung nhớ, nghĩa tình sẽ ấm mãi như hơi ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu
chấm lửng ở cuối câu như càng làm tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận.
như nốt lặng trong một khuông nhạc đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Qua
đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm
chất dân tộc: ân nghĩa, thủy chung, son sắt.
Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục
bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mạng. Từ xưa đến
nay lục bát vốn thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn của nó.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Nếu dùng để diễn đạt tình cảm thì không còn hay bằng. Hay hơn nữa nhà thơ đã
khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc trong ca dao dân ca.
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào thấm đượm tinh
thần dân tộc. Bên cạnh đó ngôn ngữ là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn
dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là ngôn ngữ. Ngôn
ngữ thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta
vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình
yêu đôi lứa.
Tính dân tộc về mặt hình thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó dáng núi hình sông :”
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó hình ảnh chiếc áo chàm trong “buổi
phân li”. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc nghĩa tình nhưng cũng
rất đỗi anh hùng. Những con người ấy đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào
hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang nhân
ái chan hòa”.
Tính dân tộc không chỉ cùng thành công trên bình diện nghệ thuật còn đậm nét
qua nội dung, tưởng. Việt Bắc nói chung tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh
đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mạng; đã đưa những
tưởng tình cảm cách mạng hòa nhịp và tiếp nối truyền thống tinh thần, tình cảm đạo lý
dân tộc.
Bằngi hoa của một người nghệ một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố
Hữu đã viết nên một bản tình ca, anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Nghĩa tình sâu
nặng của người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc, của quần chúng đối với cách
mạng trong thơ Tố Hữu sự kế thừa tình cảm, đạo sống của con người Việt Nam
“Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành
một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.
Đoạn thơ nói riêng bài thơ Việt Bắc nói chung minh chứng cho sự thành công
của thơ Tố Hữu trong việc kết hợp hai yếu tố: Cách mạng Dân tộc trong hình thức
đẹp đẽ của thơ ca. Tính dân tộc một trong những đặc điểm nổi bật làm nên phong
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
cách thơ Tố Hữu. Thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp của thơ ca truyền thống nhưng vẫn mang
đậm hồn thơ của thời đại cách mạng.
Bài văn mẫu 3
Những tên địa danh, đối với Địa chỉ đơn giản một địa điểm, một đối tượng phân
tích nhưng với Văn học, nócả một miền nhớ, miền ký ứcnơi khơi nguồn cảm
xúc. Tây Tiến. Sông Đuống, Kinh Bắc,... đã trở thành một miền thơ, ức về một
những năm tháng không thể nào quên của dân tộc. Việt Bắc cũngmột địa danh như
thế. “Việt Bắc” chính bản hùng ca, khúc tình ca về cuộc sống kháng chiến con
người kháng chiến. Ngay trong tám câu thơ đầu đã thể hiện được những điều đó:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp quay trở lại nước ta đã kết thúc
thắng lợi. Hòa bình được lặp lại, nửa đất nước được giải phóng. Tháng 10 năm 1954,
Nội được giải phóng, trung ương Đảng chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại
thủ đô. Lịch sử dân tộc bước sang một trang mới. thời khắc này, người ta có nhu
cầu nhìn lại chặng đường vừa qua, đồng thời hướng về con đường tương lai để bước
tiếp. Bài thơ “Việt Bắc” ra đời để đáp ứng nhu cầu ấy của hội, tiếng lòng của
đồng bào mọi người. “Việt Bắc” bản trường ca đầy ân tình - tình quê hương, tình
đất nước, nghĩa tình giữa con người. thế bài thơ một bản tổng kết lịch sử bằng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
tâm tình. Bởi một chặng đường dài nên từ những câu thơ này đến dòng thơ sau đều
có sự phát triển và vận động, mang ý nghĩa riêng của nó.
Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại gửi tới người ra đi:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Ta lại bắt gặp lối đối đáp “mình - ta” quen thuộc trong những câu hát giao duyên của
lứa đôi, giữa “bến - thuyền”, “mận - đào”. Điệp cấu trúc: “Mình về, mình nhớ....”
câu hỏi hay sự gợi nhắc đầy ý tứ, ý tình. Nghe đâu đây những câu hát ân nghĩa
ngày xưa như vọng về:
Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Hay:
Chàng về để áo lại đây
Phòng khi em đắp gió Tây lạnh lùng...
Lối đối đáp mình - ta với âm điệu ngọt ngào, thiết tha làm cho những câu thơ bỗng trở
nên mềm mại, như cũng vấn vương nỗi lưu luyến, nhớ nhung. Tình quân - dân, vấn đề
chính trị khô khan, từ bao giờ lại được trữ tình hóa, trở nên da diết nồng nàn như
tình yêu đôi lứa, đó chính nhờ ngòi bút của nhà thơ Tố Hữu. “Mười lăm năm”
không chỉ là khoảng thời gian địa lí, nó kí ức, là một phần thanh xuân của biết bao con
người, của cả dân tộc. Một chữ “ấy” thôi, không cụ thể nhắc đến thời gian nào nhưng
lại mở ra muôn vàn ý nghĩa. Mười năm năm của thời gian: từ những ngày thành lập
Cao Bằng, những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc đến chiến thắng vang dội của Hồng
Thái, Tân Trào... Mười năm năm ân tình, ân nghĩa của đồng đội, quân - dân của những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
ngày tháng “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, miếng cơm chấm muối mối thù
nặng vai”. Mất đi một chút ràng để thêm nhiều tầng ý vị tình cảm chính như
thế. Người ở lại còn gợi nhắc về những ân tình, thủy chung - đạo lí dân tộc: “Nhìn cây
nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Những thành ngữ, chất liệu dân gian, qua ngòi bút tài
hoa Tố Hữu, vừa mang hơi thở thời đại, vừa giữ được tính dân tộc của nó: “cây - núi”,
“sông - nguồn”. Đó chẳng phải câu thành ngữ quen thuộc: “Uống nước nhớ nguồn”
đó sao? Bốn dòng thơ, cho 15 năm dằng dặc, vất vả hào hùng. Bốn dòng thơ cho
những nghĩa tình không bao giờ nói hết. Bốn dòng thơ cho những da diết, luyến lưu
không lỡ rời. Bốn dòng thơ cho cả lẽ sống cần có, bây giờ và mãi về sau: ân tình, thủy
chung, uống nước nhớ nguồn...
Bốn câu thơ tiếp theo cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến, nhớ nhung
của kẻ ở người đi:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Người ra đi bịn rịn, nhớ nhung, ngập ngừng lưu luyến khiến từng bước chân còn
vương vấn mãi những âm thanh hồ: “tiếng ai”. Đó tiếng người lại hay tiếng
vọng từ trong tâm tưởng người ra đi. Không gian từ ngoại giới: “bên cồn” chuyển vào
“trong dạ” rồi “bồn chồn bước đi” từ hữu hình đến vô hình. Hữu hình hóa cái vô hình,
ngoại giới hóa nội tâm càng m bước đi thêm ngập ngừng, chầm chậm chẳng muốn
rời. Những bước chân ngập ngừng ấy ta đã bắt gặp trong giây phút chia phút chia li
của “chàng” và “nàng” trong “Chinh phụ ngâm”:
Bước đi một bước giây giây lại dừng
Nhưng ở đây lại là tình đồng chí, nghĩa đồng bào, thắm thiết và vấn vương tha thiết.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Từ âm thanh hồ ấy, Tố Hữu đề cập đến hình ảnh cụ thể đến nao lòng: “áo chàm
đưa buổi phân li”. Nói tới “áo” trong buổi chia ly là Tố Hữu đã trở về với ngọn nguồn
dân tộc:
Áo xông hương để chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp dành hơi
(Ca dao)
Người về để áo lại đây
Phòng khi em đắp gió Tây lạnh lùng
(Ca dao)
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Nhưng chiếc áo trong thơ Tố Hữu không phải áo xông hương đài các hay áo bào sang
trọng chỉ “áo chàm” giản dị một sắc nâu. Đó không phải cái cầm tayNhủ rồi
tay lại cầm tay” (Chinh phụ ngâm, Đoàn Thị Điểm) của nghĩa phu thê hay của tình
đồng chí, đồng đội: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
cái nắm tay của tình đồng chí, đồng bào. Dấu …” như khoảng trống, khoảng
trắng ngôn hữu ý, tình. Đôi khi, không nói để nói được nhiều nhất. Đôi
khi, ngôn ngữ cũng bất lực trước tình cảm mênh mông của con người.
Đoạn thơ của Tố Hữu chỉ tám câu gợi lên nghĩa tình bao kể xiết: tình quân dân
nước, tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Những tình cảm chính trị được đưa vào thơ một
cách rất tự nhiên, ý tình khiến cho thơ “thép” không cứng, nói về lẽ sống lớn
dân tộc không sa vào giáo điều, khô khan. được hiệu quả ấy chính nhờ
những câu thơ với lối nói dân gian gần gũi, giọng điệu tâm tình nhẹ nhàng với ngôn
ngữ, hình ảnh trở về với cội nguồn dân tộc mà vẫn mang hơi thở thời đại càng làm cho
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
đoạn thơ thêm hấp dẫn. chính những tình cảm ấy động lực, hậu phương cho
con người Việt Nam vượt qua mưa bom o đạn làm nên những chiến thắng
“Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Phải chăng, Với Tố Hữu, thơ khí đấu
tranh cách mạng. Ðó chính đặc sắc cũng quyết độc đáo của Tố Hữu trong
thơ?
Xin mượn lời của nhà thơ - nhà phê bình một thời cùng Tố Hữu sống và viết, Chế Lan
Viên, để làm lời kết:Thơ Tố Hữu thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình,
muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì
cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại
biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.”
Bài văn mẫu 4
“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn…”
(Vân chữ, Lê Đạt)
Cái “vân chữ không trộn lẫn” của nhà thơ hay của một nhà văn thứ thiệt Đạt
nhắc đến đây chính phong cách tác giả, sự thể hiện tài nghệ của người nghệ
qua tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn nhân của tác giả. cờ đầu của thơ
ca Cách mạng, Tố Hữu xuất hiện giữa làng thơ với một phong cách thơ độc đáo, hấp
dẫn, đó chính tính trữ tình chính trị sâu sắc, đậm chất sử thi cảm hứng lãng mạn.
Kết tinh vẻ đẹp độc đáo ấy của thơ Tố Hữu phải kể đến “Việt Bắc” - bản anh hùng ca,
cũng bản tình ca về cách mạng kháng chiến con người kháng chiến. Làm nên
“Việt Bắc” - một bản tình ca thấm đẫm màu sắc dân tộc phải kể đến tám câu thơ đầu
của tác phẩm:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Tố Hữu là nhà thơ của tưởng cộng sản. Ông đến với thơ ca cách mạng cùng một
lúc. Vì vậy cho nên chặng đường thơ của ông luôn song hành với những chặng đường
cách mạng lộng gió thời đại với những tập thơ: “Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra
trận, Máu hoa, Một tiếng đờn, Ta với ta”. Trong đó thể nói “Việt Bắc” đỉnh
cao của thơ ca Tố Hữu nói riêng thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ Việt Bắc
được trích từ tập thơ cùng n được sáng tác vào tháng 10 năm 1945, khi Trung
ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà
Nội. Lấy cảm cảm hứng từ buổi chia tay ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này.
Tính dân tộc của bài thơ thể hiện ở cả nghệ thuật lẫn nội dung và thể hiện sâu sắc nhất
là ở tám câu thơ đầu.
Tính dân tộc dân tộc là một khái niệm thuộc phạm trù tư tưởng- thẩm mĩ chỉ mối quan
hệ văn học dân tộc, thể hiện qua tổng thể những đặc điểm độc đáo tương đối bền
vững chung cho các sáng c của một dân tộc được hình thành trong quá trình phát
triển của lịch sử phân biệt so với các dân tộc khác. Tính dân tộc được thể hiện
xuyên suốt từ nội dung đến hình thức.
Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục
bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mạng. Từ xưa đến
nay lục bát vốn thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn của nó.
Nếu dùng để diễn đạt tình cảm thì không còn hay bằng. Hay hơn nữa nhà thơ đã
khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc trong ca dao dân ca:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng có lối ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào thấm đượm tinh
thần dân tộc. Bên cạnh đó ngôn ngữ là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn
dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là ngôn ngữ. Ngôn
ngữ thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta
vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình
yêu đôi lứa:
Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ
Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tình yêu đôi lứa.
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
“Mình” trên câu thơ trên chỉ người ra đi, còn “ta” người lại. Dường như đây
không còn là cuộc chia ly giữa đồng bào và cách mạng mà nó đã trở thành buổi chia ly
của đôi lứa yêu nhau mặn nồng da diết. Qua đó ta mới mới phần nào thấm thía cái tình
cảm mặn nồng, keo sơn của quân dân ta trong những buổi đầu đầu kháng chiến gian
khổ, khó khăn. bị cách trở bởi không gian thời gian nhưng dường như cảm xúc
từ trái tim đã nâng đỡ họ vượt qua mọi rào cản để trong tâm hồn “như chưa hề có cuộc
chia ly”. Tính dân tộc về mặt hình thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình
sông :” Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó hình ảnh chiếc áo chàm trong
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
“buổi phân li”. Áo chàm hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc nghĩa tình
nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những con người ấy đại diện cho một dân tộc Việt
Nam vừa hào hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên
ngang mà nhân ái chan hòa”.
Tính dân tộc không chỉ cùng thành công trên bình diện nghệ thuật còn đậm nét
qua nội dung, tưởng. Việt Bắc nói chung tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh
đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mạng; đã đưa những
tưởng tình cảm cách mạng hòa nhịp và tiếp nối truyền thống tinh thần, tình cảm đạo lý
dân tộc.
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Người lại đặt câu hỏi tu từ “Mình về mình nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi
trong người ra đi những kỷ niệm về mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười
lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954, là
mười lăm năm “Mình đây ta đắng cay ngọt bùi”, mười lăm năm phúc cùng
hưởng, có họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai” làm
sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt
Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Có lẽ vì thế nên nhà nghiên
cứu Nguyễn Đức Quyền đã cho rằng: “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng thước đo
thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ thuốc thử làm
tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Lại một câu hỏi tu từ nữa xuất hiện. Lại một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Nội
rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt
Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành: Việt Bắc là cội nguồn cách
mạng, “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, trung tâm đầu não của cuộc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
kháng chiến. Câu thơ này phải chăng sự vận dụng linh hoạt tài tình của nhà thơ
Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các
thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Nếu như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi
nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những ng khuâng tha
thiết. Không sử dụng đại từ xưng “mình”, ta” người xưng sử dụng đại từ
“ai” để khẳng định trước hết sự gắn với người lại. Ai có thể đại từ để hỏi
nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất gần cách nói của ca dao: “Nhớ ai bổi hổi
bồi hồi” Tố Hữu sử dụng khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá
trị biểu cảm của từ “ai”. Một chữ “ai” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người
đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc đến chừng nào hiểu nỗi
niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mạng, đối với người miền xuôi. Một
chữ “ai” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta chỉ nơi đất
ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” Hai từ láy “bâng khuâng” “bồn chồn” góp phần
làm tăng thêm tâm trạng người ra đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người lại
“Bước đi một bước lâu lâu lại dừng” để rồi “cầm tay nhau biết nói hôm nay”.
Không biết nói phải chăng có quá nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ân nghĩa, sắt
son chẳng thể nào dùng ngôn từ để diễn tả, đành phải gửi tâm tình qua cái nắm tay
thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” biểu tượng của yêu thương đoàn kết. Chỉ cần cầm tay
nhau thôi hãy để hơi ấm nói lên tất cả, yêu thương, nhung nhớ, nghĩa tình sẽ ấm
mãi như hơi ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu chấm lửng cuối câu như càng làm
tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, tận. như nốt lặng trong một khuông
nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Qua đó con người Việt Nam hiện lên thật
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất n tộc: ân nghĩa, thủy chung, son
sắt.
Bằngi hoa của một người nghệ một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố
Hữu đã viết nên một bản tình ca, anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Để rồi Việt Bắc
đã thực sự trở thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.
Bài văn mẫu 5
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông mang khuynh hướng sử
thi cảm hứng lãng mạn, đậm chất trữ tình. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông
đã để lại nhiều tác phẩm giá trị như tập thơ Từ y”, “Máu hoa” trong đó tiêu
biểu nhất là bài thơ “Việt Bắc” trích trong tập thơ “Việt Bắc”. Bài thơ đã thể hiện một
cách thành công về nỗi nhớ nhung, tâm trạng bồi hồi, lưu luyến trong buổi chia tay
của người Việt Bắc với cán bộ cách mạng. Điều đó được thể hiện nhất trong đoạn
thơ:
Mình về mình có nhớ ta?
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Việt Bắc căn cứ địa cách mạng, cái nôi kháng chiến. Sau chiến thắng Điện Biên
Phủ tháng 7 m 1954, hiệp định Giơ ne được kết. Tháng 10 năm 1954, Đảng
và chính phủ rời chiến khu Việt bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử ấy Tố Hữu đã
viết bài thơ “Việt Bắc”.
Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ chứa nhiều cảm xúc:
Mình về mình có nhớ ta?
“Mình” chỉ người ra đi - người chiến cách mạng, “ta” chính người Việt Bắc.
Câu hỏi chính là lời của ngườilại hỏi người ra đi rằng khi người chiến sĩ cách mạng
về xuôi rồi còn có nhớ đến người Việt Bắc hay không? Với cách xưngmình - ta”
đậm chất ca dao cùng với điệp từ mình đã cho ta thấy được tình cảm gắn bó thân thiết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
đầy yêu thương, làm cho nỗi nhớ ng trở nên day dứt khôn nguôi. Người Việt Bắc
muốn hỏi người kháng chiến có nhớ:
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mười lăm năm từ chỉ thời gian, khoảng thời gian gắn keo sơn giữa người
chiến sĩ và người Việt Bắc. Đó là một khoảng thời gian dài cùng nhau chiến đấu, cùng
nhau vượt qua biết bao gian khổ. Từ “ấy” vang lên chứ tác giả không sử dụng từ “đó”
như để làm tăng thêm ý nghĩa của khoảng thời gian “mười lăm năm” đồng thời thể
hiện sự trân trọng của tác giả với những ngày tháng gắn bó. Những từ “thiết tha”,
“mặn nồng” những từ nhấn mạnh tình cảm gắn keo sơn giữa người Việt Bắc
người cách mạng. Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh hơn về tình nghĩa thủy chung son
sắt luôn hướng tới cách mạng, hướng tới những người chiến của người dân Việt
Bắc.
Câu thơ tiếp theo như một lời nhắc nhở đối với người chiến sĩ cách mạng:
Mình về mình có nhớ không?
Vẫn câu hỏi tu từ, vẫn cách xưng “mình” nhưng đây câu hỏi vang lên như
một lời nhắc nhở “có nhớ không”. Người Việt Bắc muốn nhắc nhở người chiến
cách mạng về xuôi hãy nhớ đến Việt Bắc, hãy:
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Khi về tới Hà Nội, người cách mạng khi nhìn thấy cây ởNội phồn hoa thì hãy nhớ
đến núi rừng nơi Việt Bắc. y nhớ nơi gắn thủy chung son sắc, nơi người cách
mạng người Việt Bắc đã cùng chiến đấu, cùng nhau vượt qua bao gian khổ. Khi
nhìn thấy sông thì hãy nhớ đến nguồn, hãy nhớ đến sông núi Việt Bắc, nhớ đến những
dòng sông cùng các chiến sĩ cách mạng chiến đấu. Hay đó chính lời nhắc nhở của
người Việt Bắc đối với người chiến cách mạng khi trở về xuôi nhìn thấy cảnh vật
nơi phồn hoa đô thị tươi đẹp ấy thì hãy nhớ đến con người Việt Bắc, nhớ đến những
ngày tháng chiến đấu gian khổ nơi núi rừng đầy hiểm trở, cheo leo. Điệp từ “nhìn”
“nhớ” dường như đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại. Mong muốn những người cách
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
mạng luôn nhớ về nơi Việt Bắc. Nơi những con người sắt son, thủy chung, luôn
mong nhớ về người cách mạng.
Bốn câu thơ đầu tiên lời của người Việt Bắc hỏi người cán bộ về xuôi. Với lối đối
đáp cách xưng “mình - ta” kết hợp sử dụng biện pháp điệp từ cùng với từ láy, đặc
biệt là kết hợp với câu hỏi tu từ đã cho thấy được tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng,
thủy chung son sắt của người Việt Bắc. Qua đó ta có thể cảm nhận được phẩm chất tốt
đẹp của con người nơi đây. phải sống trong khó khăn, đồi núi hiểm trở, thiếu thốn
nhưng tình yêu của họ đối với người chiến sĩ là không hề thay đổi, luôn luôn cồn cào,
da diết và mãnh liệt.
Vẻ đẹp của đoạn thơ không chỉ lời của người Việt Bắc còn câu trả lời của
người cách mạng dành cho Việt Bắc:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Với đại từ nhân xưngai” đó chính tiếng lòng của người Việt Bắc vang vọng như
muốn gọi người chiến lại, hay đó chính tiếng lòng của người chiến không
muốn chia xa. Từ “tha thiết” như làm cho tiếng gọi đó vang vọng hơn, sâu lắng hơn,
làm cho ta cảm nhận được tình cảm giữa Việt Bắc người cán bộ cách mạng như
cùng sâu nặng. Câu thơ tiếp theo càng làm rõ hơn điều đó:
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” chính để chỉ tâm trạng người ra đi. “Bâng
khuâng” là trạng thái lưu luyến day dứt, như còn lâng lâng một điềuđó sâu sắc lắm
trong tình cảm của mình. khiến cho tâm trạng của con người day dứt đến khó chịu
còn “bồn chồn” là chỉ sự ray rứt trong tâm trạng của con người như lo lắng điều gì đó.
Tất cả đã tạo nên tâm trạng của người chiếncách mạng về xuôi, khi trở về xuôi vẫn
còn mang trong mình nỗi nhung nhớ, ray rứt khôn nguôi, cả sự lo lắng trong tâm trạng
của người cán bộ cách mạng. Qua đó ta thể cảm nhận được tình cảm của người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
cách mạng đối với Việt Bắc cũng sâu nặng không kém gì tình cảm của người Việt Bắc
dành cho họ.
Hai câu thơ cuối hình ảnh chia tay đầy nước mắt giữa người chiến cách mạng
người Việt Bắc:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
“Áo chàm” là màu áo nâu, là màu áo của người nông dân nghèo khổ, cực nhọc, vất vả
quanh năm suốt tháng lao động cần để phục vụ cho cách mạng. Hình ảnh hoán dụ
“áo chàm” chính là để chỉ người Việt Bắc. Những người Việt Bắc ra tiễn những người
cách mạng về xuôi trong một tâm trạng day dứt, bâng khuâng. Từ “phân li” như thể
hiện buổi chia tay ấy như sự chia cắt. Dường như họ không muốn rời xa nhau
nhưng do hoàn cảnh họ phải chia ly, xa rời nhau mỗi người một nơi. Qua đó thể hiện
nỗi tiếc thương nhung nhớ, khẳng định tình cảm gắn sâu đậm của người Việt Bắc
người chiếncách mạng. Tình cảm ấy được khẳng định rõ ràng hơn trong câu thơ
cuối:
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Không phải không để nói quá nhiều điều để nói, không thể nói hết
không biết nói điều đầu tiên, từ “biết nói gì” đã thể hiện điều đó. Mười lăm năm
gắn keo sơn, mười m năm cùng nhau vượt qua bao khó khăn gian khổ tình cảm
của họ quá sâu đậm, quá nhiều điều để nói nhưng những lời nói ấy tại sao không
thốt nên lời, nó cứ nghẹn lại trong cổ họng mà thứ trào ra chỉ có nước mắt của sự chia
ly. Không nói ra được họ chỉ biết cầm tay nhau, chỉ hành động “cầm tay” thôi đã cho
ta cảm nhận thấy tình yêu thương mặn nồng giữa họ. Hành động “cầm tay” thay cho
những lời nói yêu thương, những lời gửi gắm, tình cảm giữa họ dường như được
truyền hết qua hành động ấy. Đó còn sự thể hiện tình cảm, tâm trạng chưa xa đã
nhớ của người chiến sĩ cách mạng và đó cũng chính là tiếng lòng của họ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Tám câu thơ ngắn gọn nhưng mang biết bao ý nghĩ. Qua đó cho ta cảm nhận sâu sắc
về tình cảm thủy chung son sắt, gắn bó sâu nặng giữa người Việt Bắc và người cán bộ
cách mạng về xuôi. Qua đó ta thấy được tâm trạng bồi hồi lưu luyến day dứt của họ.
Không chỉ thành công về nội dung, đoạn thơ còn thành công về nghệ thuật. Với lối đối
đáp, cách xưng hô mình - ta, điệp từ, điệp ngữ cùng với hình ảnh hoán dụ, từ láy, ngôn
từ bình dị, đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Qua đoạn thơ ta đã cảm nhận được một cách t tình cảm, tấm lòng, tình yêu
thương người Việt Bắc người cán bộ cách mạng dành cho nhau. Tám câu thơ
trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Những ân tình ấy sẽ sống mãi trong lòng người đọc hôm nay và mai sau.
Bài làm mẫu 6
Tố Hữu một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Ông một tượng đài về thể thơ
lục bát. Nhắc tới ông, người đọc liền nghĩ ngay tới “Việt Bắc” một bản tình ca dạt
dào cảm xúc để lại trong lòng người đọc một cảm xúc khó diễn tả được. Mỗi câu thơ
như vẽ ra một khung cảnh rất đỗi bình dị của quê hương, đất nước, con người nơi
ấy ân nghĩa, sự thủy chung như làm điểm nhấn nổi bật trên tất cả. Bài thơ “Việt Bắc”
cũng thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
“Việt Bắc” được sáng tác vào tháng 10 tháng 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các quan trung ương của Đảng
Chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Nội. Tố Hữu cũng một trong số những cán
bộ kháng chiến từng sống gắnnhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về
xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.
Tính dân tộc được thể hiện hai phương diện, nội dung hình thức. Trước hết về
mặt nội dung bài thơ thể hiện ở những khía cạnh sau, hình ảnh chiếc “áo chàm” rất đỗi
giản dị, tự nhiên:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
“Áo chàm” hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc anh hùng nhưng chân thực.
Câu thơ như đang ca ngợi tình người của con người Việt Nam. Từ những con người
xa lạ không quen biết, chiến tranh đã kéo đẩy họ lại gần với nhau để giờ đây kỉ niệm
tưởng chừng ngắn ngủi như lại dài đằng đẵng ấy thức còn đọng lại trong tâm trí
của họ. Bài thơ là cuộc đối thoại “mình – ta” vừa ngọt ngào, vừa sâu lắng:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Khoảng thời gian mười lăm năm xảy ra biết bao nhiêu biến cố, thăng trầm của lịch sử
để cho tình nghĩa giữa chiến sĩ và người dân Việt Bắc ngày một gắn bó keo sơn.
Bên cạnh đó, hình ảnh chiến sĩ cách mạng hiện lên cũng rất chân thực, mang đậm tính
dân tộc. Trong giờ phút chia ly, họ bịn rịn không nỡ rời xa:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Chỉ một cái “nắm tay” nhưng sao khó nói nên lời tới vậy. Cầm tay như truyền thêm cả
sức mạnh, cả hơi ấm của người lại cho người ra đi. Họ một lòng một dạ thủy chung
son sắt:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Hình ảnh “mình” lặp đi lặp lại mang dụng ý của tác giả. Người chiến người dân
Việt Bắc họ như hòa quyện lại làm một không phân biệt rạch ròi được. Ân nghĩa sâu
nặng giữa họ không thể đong đếm. Rời xa Việt Bắc người chiến mang trong mình
bao nỗi nhớ, nhớ về thiên nhiên hùng vĩ, nhớ về tình người Việt Bắc. Tuy nhiên họ
vẫn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời.
Song song với hình ảnh con người, hình ảnh thiên nhiên trong i thơ Việt Bắc cũng
hiện lên cũng mang đậm tính dân tộc. Bức tranh tứ bình đã được ngòi bút của Tố Hữu
tô vẽ thêm thắt một cách sinh động và hấp dẫn, lôi cuốn:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Con người thiên nhiên như hòa quyện lại với nhau. Thiên nhiên làm nền cho sự
xuất hiện của con người. Nếu như câu lục là thiên nhiên thì câu bát là sự xuất hiện của
con người. Tưởng chừng như hai hình ảnh này không liên quan đến nhau nhưng
không phải như vậy. con người điểm cho thiên nhiên thêm đẹp, thêm rực rỡ
hơn. Con người xua đi cái lạnh giá của thiên nhiên, hòa mình vào với thiên nhiên để
làm những công việc thường ngày nhưng hết sức đẹp đẽ, nên thơ.
Việt Bắc trong thơ Tố Hữu còn hiện lên với những địa danh lịch sử hào hùng, tráng lệ:
Tân Trào, Hồng Thái, Ngòi Thia sông Đáy, sông Lô, Núi Hồng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
thể thấy, cảnh và người trong bài thơ Việt Bắc hiện lên rất thân thương giản dị
giàu tình người, đậm đà tính dân tộc sâu sắc.
Tính dân tộc thể hiện sâu sắc nhất mặt hình thức. Một là, thể thơ lục bát truyền
thống với kết cấu lời đối đáp của đôi trai gái, giữa kẻ ở lại và người về xuôi. Lục bát là
thể thơ dân tộc đã quá quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Trong bài thơ, tác
giả đã sử dụng ngôi xưng “mình-ta” để bộc lộ hết tâm tư tình cảm của mình:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tính dân tộc còn được thể hiện phương diện ngôn ngữ, nhạc điệu: Ngôn ngữ vừa
giản dị, gần gũi với đời thường lại dễ thuộc, dễ nhớ kết hợp với nhạc điệu uyển
chuyển, nhẹ nhàng có lúc thủ thỉ, tâm tình, lúc thì đằm thắm mượt lúc lại ngọt
ngào êm dịu.
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Ngoài ra, hình ảnh thơ cũng thấm nhuần tính dân tộc. Ta từng bắt gặp nhiều hình ảnh
giản dị trong thơ của các nhà thơ khác nhưng với thơ Tố Hữu ta lại thấy rất tự
nhiên, thoải mái lại rất tinh tế: Hình ảnh “trám bùi”, “măng mai”. “trăng”, “nắng”,
“bản” gần gũi biết bao!
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Tóm lại, bài thơ “Việt Bắc” - đỉnh cao của văn học Việt Nam và cũng là bài thơ để đời
của Tố Hữu. “Việt Bắc” là khúc ca về thiên nhiên, con người Việt Bắc, tiếng hát ân
nghĩa thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc, tình yêu,
tình thương của Tố Hữu dành cho Việt Bắc. Bằng ngôn ngữ giản dị, gắn liền với đời
thường kết hợp với thủ pháp nghệ thuật như lặp từ, hoán dụ đã lột tả được nỗi nhớ da
diết của tác giả với mảnh đất đầy ức kỷ niệm. Song song với đó, thể thơ lục bát
kết hợp một cách nhuần nhuyễn đã đưa đẩy cảm xúc của Tố Hữu n đỉnh cao để
thể sáng tác ra được một bài thơ tuyệt vời đến như vậy. “Việt Bắc” một bài thơ
thể hiện đậm đà tính dân tộc.
| 1/75

Preview text:

Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Dàn ý phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu Dàn ý số 1 I. Mở bài
- Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị.
- Dẫn dắt tám câu thơ cần phân tích. II. Thân bài
1. Bốn câu đầu: Khơi gợi kỷ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình.
- Khung cảnh chia tay bịn rịn giữa kẻ ở và người về.
- Cách xưng hô “mình - ta”: thân mật gần gũi như trong ca dao.
- Điệp ngữ và kết cấu tu từ được lặp lại hai lần như khơi dậy bao kỉ niệm. Hai câu hỏi
đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi nhớ về
không gian: “sông, núi, nguồn”.
=> Đó là khoảng thời gian gắn bó biết bao kỉ niệm của người dân Việt Bắc với người lính
2. Bốn câu sau: Tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương, bịn rịn.
- Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “bồn chồn” thể hiện sự không yên tâm
trong dạ, không nỡ rời bước.
- Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân thương giản dị.
- Cử chỉ cầm tay nhau thay lời nói chứa đầy cảm xúc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
- Lời người ở lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới hình thức
những câu hỏi: nhớ về Việt bắc cội nguồn quê hương cách mạng, nhớ thiên nhiên Việt
Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình... - Nghệ thuật:
● Liệt kê hàng loạt các kỉ niệm.
● Ẩn dụ, nhân hóa: rừng núi nhớ ai. ● Điệp từ “mình”.
● Cách ngắt nhịp 4/4 đều tha thiết nhắn nhủ người về thật truyền cảm.
=> Thiên nhiên, mảnh đất và con người Việt Bắc với biết bao tình nghĩa, ân tình, thủy chung. III. Kết bài
Đánh giá chung về tám câu thơ đầu. Dàn ý số 2 I. Mở bài:
- Giới thiệu ngắn gọn tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận.
- Dẫn dắt vấn đề cần phân tích: Tính dân tộc thể hiện trong 8 câu thơ đầu II. Thân bài:
1. Cảm nhận về đoạn thơ:
– Đoạn thơ là lời tâm tình, nhắn nhủ tha thiết giữa người ở lại và người ra đi. Người ở
lại là đồng bào chiến khu Việt Bắc, người ra đi là những cán bộ kháng chiến từng gắn
bó với quê hương cách mạng suốt mười mấy năm trời:
“Mình về mình có nhớ ta
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”.
– Gịong thơ như chảy ra từ trong nguồn mạch của ca dao. Cách xưng hô “mình- ta” cứ
như lời bày tỏ tình yêu đôi lứa trong dân gian .Đại từ “mình” trong dân gian chỉ thể
hiện ở cao trào của tình yêu khi hai con người hoá thân thành một. Ở đây, tác giả lấy
phép màu nhiệm của tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa các bộ
với nhân dân. Điệp ngữ và kết cấu câu hỏi tu từ “ mình về mình có nhớ”được láy lại 2
lần như khơi vào trong kỷ niệm của người đi và người ở.
– Người ở lại với núi rừng nhạy cảm hơn về sự chia xa, cách biệt nên đã cất lên câu
hỏi da diết, khắc khoải: “Mình về mình có nhớ ta… Mình về mình có nhớ không…”.
Mỗi câu hỏi là một lời nhắc nhớ về ân tình sâu nặng của mấy ngàn ngày kháng chiến:
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”.
– Trên suốt hành trình đầy gian nan thử thách đó, quân với dân, miền ngược với miền
xuôi… đã kề vai sát cánh, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Trong lời hỏi của người ở lại còn chứa đựng lời nhắn nhủ thiết tha: Nhìn cây nhớ núi,
nhìn sông nhớ nguồn… mong mỏi người ra đi về với miền xuôi vẫn không quên núi rừng Việt Bắc…
– Người ra đi thấu hiểu nỗi niềm của người ở lại nên đã bày tỏ và khẳng định tình cảm
sâu nặng dành cho đồng bào Việt Bắc:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
-Giây phút chia li trong tưởng tượng diễn ra cực kỳ sâu sắc với những cảm xúc ghìm
nén trong tâm trạng của người đi. Đại từ “ai” phiếm chỉ tạo nên một cõi mơ hồ, mông
lung trong nỗi nhớ ( như cách bày tỏ trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…).
– Những từ láy “ tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” diễ tả chính xác con sóng lòng
đang dấy lên trong tâm hồn nhà thơ lúc phân ly.
– Hình ảnh hoán dụ “Áo chàm” ( chỉ người Việt Bắc) đã thể hiện tình cảm gắn bó của
nhà thơ với những người dân Việt Bắc giản dị, nghèo khổ mà sâu đậm ân tình.
– Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả mộc cách thân tình cái
ngập ngừng , bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở.Kỷ vật trao rồi mà
mà lòng vẫn quyến luyến không thể rời xa.
– Tâm trạng của những người kháng chiến trong phút giây từ biệt chiến khu cách
mạng có sự đan xen, hòa quyện của niềm vui chiến thắng, hòa bình và nỗi buồn chia
ly, xa cách. Trong đó, nổi bật nhất vẫn là tình cảm bùi ngùi, lưu luyến, nhớ thương
dành cho người ở lại.Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” vừa gợi cảm giác gần gũi, thân
thương vừa tăng tính khái quát cho câu thơ. Phút “lặng im” chất chứa bao điều không
thể diễn tả bằng lời. Đó cũng là khoảnh khắc kẻ ở, người đi thấu hiểu nỗi lòng nhau
mà không cần phải giãi bày, thổ lộ…
– Có thể nói, đây là đoạn thơ hay nhất của bản tình ca Việt Bắc, bởi lẽ nhà thơ đã
miêu tả rất đúng quy luật nỗi nhớ trong tình cảm của con người ở vào giờ phút chia li :
nỗi nhớ nào cũng làm cho thời gian đằng đẵng và không gian mênh mông. Nhớ nhau ,
người ta tính từng khoảng cách. Có điều ở đây, chưa chia li mà đã nhớ. Người còn
đấy, cảnh còn đây, mặt đối mặt mà lòng đã bâng khuâng , lưu luyến.
– Dù miêu tả tình cảm mang tính chất chính trị, nhưng đoạn thơ không khô khan, trừu
tượng bởi tác giả nắm vững quy luật của tình đời, tình người.
→ Chính vì thế, đoạn thơ (nói riêng) ; “Việt Bắc” (nói chung) đã vượt qua ranh giới
của thời đại, thấm sâu vào hồn của người đọc qua nhiều thế hệ.
2. Nhận xét ngắn gọn về tính dân tộc đậm đà của thơ Tố Hữu:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Thơ Tố Hữu nói chung và Việt Bắc nói riêng đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và hình thức nghệ thuật.
● Về nội dung: Ngợi ca nghĩa tình cách mạng của quân và dân ta trong cuộc kháng
chiến giữ nước, Tố Hữu đã tiếp nối, phát huy những truyền thống đạo đức cao quí của dân tộc.
● Về nghệ thuật: sử dụng thể thơ lục bát truyền thống; kết cấu đối đáp mình – ta của
ca dao, dân ca; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị; vận dụng những phép tu từ quen thuộc
của ca thơ ca dân gian; giai điệu thơ ngọt ngào, sâu lắng; sử dụng các từ láy, dùng vần
và phối hợp các thanh điệu… kết hợp với nhịp thơ tạo thành nhạc điệu phong phú,
diễn tả nhạc điệu bên trong của tâm hồn mà ở bề sâu của nó là điệu cảm xúc và tâm hồn dân tộc. III. Kết bài:
● Đoạn thơ thể hiện đậm nét phong cách thơ Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền
cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến.
● Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của
quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với “Việt Bắc”. Dàn ý số 3 Mở Bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu và tác phẩm Việt Bắc.
- Giới thiệu nhận định cần chứng minh Thân Bài
a. Giải thích ý kiến đánh giá
- Giọng thơ tâm tình ngọt ngào.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
- Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc.
- Dù viết về đề tài chính trị gắn với sự kiện lịch sử tháng 10 năm 1954 nhưng bài thơ
Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu tiên vẫn hiện lên chất chứa cảm xúc của sự ngọt ngào, tha thiết.
b. Phân tích, bình luận về giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu
hiện giàu tính dân tộc trong 8 câu thơ đầu
- Bốn câu thơ đầu: là lời của những người ở lại - nhân dân Việt Bắc.
+ Điệp cấu trúc câu: "Mình về mình có nhớ ta?", "Mình về mình có nhớ không?".
+ Sự láy đi láy lại của câu hỏi tu từ đã xoáy sâu vào nỗi nhớ và sự day dứt khôn nguôi.
+ "Mười lăm năm ấy" gợi tháng ngày đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi.
+ Những hình ảnh "cây", "núi", "sông", "nguồn" quen thuộc gợi nhắc lối sống ân nghĩa thủy chung.
→ Giọng điệu tâm tình, thủ thỉ tràn đầy cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến của đồng bào Việt Bắc.
- Bốn câu thơ sau là lời của người đi - các cán bộ chiến sĩ cách mạng.
+ Đại từ "ai" ngân vang cùng sự "tha thiết" đã nhấn mạnh vào tình cảm, cảm xúc đặc biệt.
+ Những tính từ miêu tả cảm xúc như "bâng khuâng", "bồn chồn".
+ Tất cả mọi cảm xúc dường như nén lại: "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay".
- Giọng điệu tâm tình được tạo nên bởi nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc
+ Sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo và linh hoạt thể thơ lục bát - thể thơ dân tộc.
+ Kết cấu bài thơ được kiến tạo theo lối đối đáp giao duyên qua cặp đại từ "mình - ta"
c. Đánh giá về giọng thơ và nghệ thuật trong thơ Tố Hữu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
- Giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết quyện hòa và gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật
biểu hiện giàu tính dân tộc.
- Góp phần thể hiện đặc trưng trữ tình - chính trị trong phong cách thơ Tố Hữu.
- Tạo nên giá trị đặc sắc của tác phẩm Việt Bắc. Kết Bài
Đánh giá về tính trữ tình - chính trị trong thơ Tố Hữu
Việt Bắc 8 câu đầu
Tố Hữu không phải một nhà thơ đi tìm cái mới ở những chốn xa xăm và lạ lẫm. Ông
khơi nguồn cho sự mới ngay trên cái nền truyền thống của thơ ca dân tộc, để biểu đạt
tình cảm yêu thương tình nghĩa. Điều này được thể hiện rất rõ qua tám câu thơ đầu trong “Việt Bắc”.
“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định
Giơ - ne - vơ về Đông Dương được kí kết. Vào tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng
và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân dịp ấy, Tố Hữu đã sáng tác
bài thơ. Tác phẩm là khúc ca ân tình về kháng chiến, con người Việt Nam trong cách
mạng. Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Hai đại từ “Mình” và “ta” được lặp lại nhiều lần khiến lời thơ trở thành lời đối thoại,
lời tâm tình tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng cách xưng hô thân mật quen thuộc trong
những câu ca dao, dân ca truyền thống để diễn tả nghĩa tình cách mạng. “Mình” -
người cán bộ về xuôi, “ta” - người dân Việt Bắc. Cụm từ “thiết tha mặn nồng” diễn tả
sự gắn bó, tình sâu nghĩa nặng giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.
Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?” vừa bộc lộ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
sự quyến luyến, nhớ nhung lại vừa mang âm điệu của một lời dặn dò tình nghĩa. Dù
hôm nay các chiến sĩ cách mạng trở về thủ đô nhưng đừng bao giờ quên đi khoảng
thời gian gắn bó “Mười lăm năm ấy”, hãy mãi khắc ghi hình ảnh con người và thiên
nhiên Việt Bắc trong lòng. Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” gợi
nhắc đến truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý báu của dân tộc. Núi rừng Việt
Bắc đã cưu mang, che chở cho cán bộ cách mạng. Nhờ có những người dân nơi đây
mà kháng chiến mới thắng lợi vẻ vang, hòa bình được lập lại. Ân tình ấy không thể nào quên!
Trước những lời dặn dò của người ở lại, người ra đi chưa trả lời trực tiếp mà lại thể
hiện cảm xúc bằng những lời độc thoại nội tâm:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Đại từ phiếm chỉ “Ai” chỉ người dân Việt Bắc.Những từ láy “tha thiết”, “bâng
khuâng”, “bồn chồn” diễn tả tâm trạng lưu luyến, bịn rịn, không nỡ rời xa của người
chiến sĩ cách mạng. Trong đó, “Bâng khuâng” gợi lên cảm giác hoài niệm. Dường như
người chiến sĩ đang chìm đắm trong dòng cảm xúc, hồi tưởng lại những kỉ niệm khi
gắn bó với nơi thủ đô gió ngàn. Từ “bồn chồn” cho thấy sự đan xen của nhiều dòng
cảm xúc, dâng lên như lớp lớp sóng trào trong lòng tác giả. Tố Hữu đã rất tinh tế khi
tạo ra sự hô ứng cho hai khổ thơ. Nếu ở bên trên, người ở lại nói “thiết tha” thì đến
đây, người ra đi lại nói “tha thiết”. Điều này tạo nên một mạch ngầm tri âm giữa
người đi và kẻ ở, cho thấy sự đồng điệu trong cảm xúc. Không chỉ vậy, các hình ảnh
như “cồn”, “áo chàm” còn gợi không khí, con người, cảnh vật nơi núi rừng. Màu áo
chàm được hoán dụ để khắc họa bản sắc trang phục của đồng bào Việt Bắc. Ngày
người chiến sĩ về xuôi, cả thiên nhiên và nhân dân Việt Bắc cùng tiễn bước. Cụm từ
“biết nói gì” không phải là đôi bên đều không có gì để nói mà có ý nghĩa rằng cả
người ra đi và người ở lại đều quá xúc động, không thể nói hết cho thỏa niềm thương
nhớ. Im lặng dường như trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt giúp con người thể hiện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
tình cảm một cách kín đáo mà sâu sắc. Tất cả những nhớ thương, lưu luyến được gửi
vào cái cầm tay nặng ân tình.
Đoạn thơ đầu đã khắc họa khung cảnh chia tay đầy xúc động giữa người dân Việt Bắc
với các cán bộ cách mạng. Qua đó, nhà thơ ca ngợi tình cảm thủy chung, son sắt của
con người Việt Nam trong những năm kháng chiến gian lao.
Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
Nhà thơ Tố Hữu được coi là “cánh chim đầu đàn” tiên phong trong nền thơ ca cách
mạng Việt Nam. Ngay từ tập thơ đầu tiên, Tố Hữu đã cho thấy một trái tim hừng hực
sức trẻ đang “bừng nắng hạ” vì được “mặt trời chân lý chói qua tim” . Và cho đến tác
phẩm Việt Bắc, Tố Hữu đã hoàn toàn khẳng định được mình là một cây bút cách
mạng – trữ tình xuất sắc nhất trên văn đàn Việt Nam thế kỉ XX.
8 câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc thể hiện những cảm xúc lưu luyến, nhớ thương của
mình khi rời Việt Bắc. Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng lối xưng hô mình – ta hết
sức thân mật và tình cảm. Đặc biệt đây là cách xưng hô thường thấy trong những câu
ca dao – dân ca về giao duyên giữa đôi lứa với nhau.
Tố Hữu đã khéo léo mang sắc thái tình cảm đôi lứa vào tình nghĩa quân dân. Chính
điều đó đã mang lại cho người đọc cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc một tâm trạng
xúc động và quyến luyến như đang hòa nhập vào chính nhân vật “mình”
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
“Mười lăm năm ấy” tính từ năm 1941 cho đến hết năm 1954. 1941 là khi Bác Hồ về
nước và lập căn cứ kháng chiến ở Pác Bó. Năm 1954 sau khi kết thúc chiến dịch Điện
Biên Phủ, Bác mới dời chiến khu về Hà Nội. Mười lăm năm ấy là mười lăm năm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
kháng chiến gian khổ. Nhưng trong chính những năm tháng vất vả trăm bề ấy, tình
cảm quân – dân đã trở nên “thiết tha mặn nồng”.
Qua cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc ta có thể thấy được tình cảm giữa “mình” –
những người đồng bào Việt Bắc dành cho “ta” – người cán bộ kháng chiến miền xuôi.
Không còn chỉ là tình quân – dân mà nó trở thành thứ tình cảm giữa những người thân thiết trong gia đình.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Những từ láy liên tiếp: tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn đã khắc họa rõ nét tâm trạng
rối bời của nhân vật trữ tình trong phút chia ly. Trong đó, áo chàm là một hình ảnh ẩn dụ hết sức đặc sắc.
Dùng áo chàm để chỉ những người đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu đã thực sự hòa nhập
vào cuộc sống của những người dân ở đây. Không còn khoảng cách quân – dân, cán
bộ – đồng bào. Trong giây phút chia ly chỉ còn “mình” với “ta” cùng nỗi xúc động
“không biết nói gì hôm nay”
Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc để thấy được tính dân tộc của bài thơ, trước hết ở kết cấu
đối đáp kiểu ca dao giao duyên. Kiểu kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên là một
kiểu kết cấu độc đáo để nhân vật trữ tình có thể vừa kể lể sự việc bộc lộ cảm xúc, thể
hiện thái độ tình cảm với “đối phương” hoặc đối tượng được nói tới.
Phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc đạt điểm cao
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ
sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất
dân tộc, truyền thống. Tố Hữu có nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có giá trị, trong đó
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
có bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ sau là đoạn thơ tiêu biểu thể hiện tâm tình bịn rịn
quyến luyến của người ở lại đối với người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta ……………
Cầm tay nhau, biết nói gì hôm nay”
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các
cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc (Thủ đô kháng chiến) về
thủ đô Hà Nội. Sự lưu luyến giữa kẻ ở và người ra đi đã khơi nguồn cảm xúc lớn cho
nhà thơ sáng tác “Việt Bắc”.
“Việt Bắc” được viết bằng thể thơ lục bát, dài 150 câu thơ, gồm hai phần. Phần đầu
bài thơ tái hiện một thời gian khổ mà oanh liệt của cách mạng và kháng chiến ở chiến
khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau nói
lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng
của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn Bác Hồ và Đảng đối với dân tộc.
Bài thơ có kết cấu đối đáp. Hai nhân vật trữ tình “mình-ta” kẻ ở, người đi bộc lộ tâm
trạng trong buổi chia tay đầy lưu luyến, xúc động. Chuyện ân tình cách mạng được tác
giả khéo léo thể hiện như câu chuyện tình yêu đôi lứa. Nhà thơ hoá thân vào hai nhân
vật trữ tình để bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình, cũng là của những người tham gia
kháng chiến. Đoạn thơ gồm 8 câu đầu thuộc phần một của bài thơ.
Đoạn mở đầu bài thơ là lời đối đáp giữa kẻ ở và người về, lời giã biệt giữa Việt Bắc
với người cán bộ kháng chiến về xuôi. Đoạn thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.
Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:
“Mình về mình có nhớ ta
…………………………………………..
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Bốn câu thơ gồm hai câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất, người Việt Bắc hỏi người cán bộ : khi
về xuôi thì còn nhớ người Việt Bắc không. Có nhớ thời gian gắn bó đã “mười lăm
năm” và tình cảm là “thiết tha mặn nồng ”hay không. Trong câu hỏi, cụm từ “mười
lăm năm” là chỉ thời gian từ sau khởi nghĩa Bắc Sơn ( 1940) đến khi cuộc kháng chiến
chống Pháp kết thúc thắng lợi (1954). Đó là khoảng thời gian Việt Bắc là căn cứ cách
mạng. Các từ “thiết tha mặn nồng” là để chỉ mức độ tình cảm, đó là tình cảm tha thiết,
sâu nặng. Từ đó thấy được: ở câu hỏi này, người ở lại đã nhắn nhủ với người về xuôi
hãy nhớ Việt Bắc và cách mạng có thời gian gắn bó lâu dài, có tình cảm tha thiết, sâu nặng.
Câu hỏi thứ hai, người Việt Bắc hỏi người cán bộ : khi về xuôi, nhìn “cây” thì có nhớ
đến “núi” ở Việt Bắc không, nhìn “sông ”thì có nhớ nguồn nước ở Việt Bắc không.
Trong câu hỏi, cụm từ “nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhớ đến câu tục ngữ “uống nước
nhớ nguồn” quen thuộc. Như vậy, trong câu hỏi này, một cách khéo léo, người ở lại
như muốn nói với người về, cũng là lời khẳng định của nhà thơ: Việt Bắc là cội nguồn cách mạng.
Điều đó thật đúng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, Việt Bắc trở thành căn cứ địa
cách mạng, là nơi Bác Hồ, Trung ương Đảng và mặt trận Việt Minh lãnh đạo cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, dẫn tới thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945,
dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1946, thực dân Pháp trở
lại đánh chiếm nước ta. Hà Nội rơi vào tay giặc. Việt Bắc tiếp tục trở thành căn cứ
kháng chiến. Việt Bắc là “An toàn khu”, đã che chở, bảo vệ các cơ quan Trung ương
Đảng và Chính phủ trong suốt thời kì kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc đã góp phần
quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, đưa dân tộc Việt Nam lên tầm cao của
thời đại .Việt Bắc đúng là cội nguồn, là cái nôi của cách mạng. Vì vậy , kết thúc phần
đầu bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã viết “Mười lăm năm ấy ai quên – Quê hương Cách
mạng dựng nên Cộng hoà”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Cả bốn câu thơ, qua lời ướm hỏi, đã khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về
không gian nguồn cội, nghĩa tình; qua đó thể hiễn tâm trạng người ở lại: lưu luyến ,
bâng khuâng trong buổi chia tay, nhắn nhủ, tâm tình cùng người về xuôi về nghĩa tình cách mạng.
Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
…………………………………………..
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Ở hai câu trên, người về không trả lời câu hỏi của người ở lại mà đưa ra câu hỏi nhưng
là để bộc lộ tâm trạng. Từ “ai” phiếm chỉ, nhưng ở đây là chỉ người Việt Bắc. Có thể
hiểu hai câu thơ này là: nghe lời hỏi “tha thiết” của người Việt Bắc, người về xuôi
thấy “bâng khuâng” trong dạ, “bồn chồn” bước đi. Từ láy “bâng khuâng” diễn tả tâm
trạng của người cán bộ: nhớ, buồn vì phải chia tay với Việt Bắc, nơi đã gắn bó suốt
“mười lăm năm” với bao “đắng cay ngọt bùi”. Nhưng người cán bộ cũng hồi hộp,
không yên trong lòng vì sắp được trở về quê hương sau thời gian dài xa cách.
Ở hai câu thơ dưới, “áo chàm” là hình ảnh hoán dụ chỉ người Việt Bắc. Hai câu thơ đã
gợi ra hình ảnh người Việt Bắc và cán bộ cách mạng trong buổi “phân li”, cầm tay
nhau mà không biết nói gì. Đó là hình ảnh kẻ ở người đi lưu luyến không muốn rời xa.
Đó là tâm trạng xúc động không nói nên lời. Xúc động vì phải chia tay sau “Mười lăm
năm ấy thiết tha mặn nồng”. Người về còn xúc động vì phải rời xa nơi có “Rừng cây
núi đá ta cùng đánh Tây”. Nơi đã từng “chia củ sắn lùi- Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
Nhìn chung, tám dòng thơ đầu là cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn nhưng là cuộc
chia tay lớn mang tính chất chính trị trọng đại trong hình thức cuộc chia tay tình tứ
của lứa đôi. Đoạn thơ đậm đà tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử
dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
cặp đại từ nhân xưng mình – ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình
tượng kẻ ở, người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng.
Tóm lại, “Việt Bắc” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh
hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với
nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng
lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng – một cội nguồn sức mạnh quan
trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ
“Việt Bắc” nói chung, đúng là một bản tình ca ca ngợi đất nước và tình cảm cách
mạng cao đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu
Tố Hữu là một trong những thi sĩ trữ tình chính trị. Vừa tham gia chiến đấu nên thơ
ông dành rất nhiều tình cảm cho con người và lý tưởng sống của Cách mạng Việt
Nam. Trong đó, tác phẩm “Việt Bắc” là bài thơ thấm đượm hồn thơ của Tố Hữu và là
bản hùng ca về kháng chiến chống Pháp.
Tác phẩm được viết nhân sự kiện các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ
phải rồi chiến khu Việt Bắc để về Thủ đô, sau hiệp định Giơnevơ được ký kết thành
công vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ không chỉ ghi lại mốc son chói lọi trong lịch sử
dân tộc mà còn là lời tâm sự đầy yêu thương, thể hiện tình cảm son sắt thủy chung của
người đi và chiến khu Việt Bắc. Cảnh chia ly bịn rịn ấy được khắc họa chân thực, sinh
động và xúc động của 8 cầu thơ đầu:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
Theo lịch sử Việt Nam, thì Việt Bắc là tên gọi chung của sáu tỉnh phía Bắc thời kháng
chiến chống Pháp, là Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà
Giang, được viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Đây là khu căn cứ
địa kháng chiến, được Đảng và Chính phủ thành lập từ năm 1940. Chính ở nơi đây,
nhân dân Việt Bắc và cán bộ chiến sĩ đã trải qua 15 năm gắn bó nghĩa tình, keo sơn, từ 1940 đến 1954.
Sau khi quân ta đánh bại quân giặc để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vẻ vang,
rúng động thế giới, thì đến tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc.
Cảnh và người trong buổi chia ly có 1-0-2 ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho tác giả
viết nên bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng. Xuyên suốt tác phẩm là nỗi niềm thương nhớ về
những năm tháng chiến tranh gian khổ mà đầy nghĩa tình của quân và dân.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng một câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao: “Mình
về mình có nhớ ta”. “Mình về” ở đây tiết lộ cho độc giả thấy hoàn cảnh để đưa đến
nỗi niềm của người ở lại. Đó là đang tiễn người đi về nhà. Chữ “mình” và “ta” được
sắp xếp đứng cách xa nhau và chữ “nhớ” được đứng ở giữa. Điều đó thể hiện, dù mình
và ta có cách xa nhau bao nhiêu thì vẫn nhớ mãi về nhau. Nỗi nhớ ấy dựa trên 15 năm
gắn bó thiết tha mặn nồng: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” . Dường như, câu
thơ mang dáng dấp nỗi nhớ trong thơ Kiều: “Mười lăm năm ấy biết bao là tình”.
Nhưng nếu như Kiều là tình yêu thì ở đây là tình đồng chí, đồng bào trong một thời
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
kháng chiến đầy gian lao, khốc liệt. 15 năm với biết bao đau thương mất mát, giờ đây
chỉ còn là tình cảm thiết tha mặn nồng. 15 năm là quãng thời gian có thể ví như là ¼
đời người. Người ở và người đi đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đã cùng vào sinh ra tử.
Vì thế, nói chia ly sao mà xót xa đến thế!
Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc ta càng thấy trân trọng hơn tình cảm của người dân Việt
Nam dành cho nhau trong gian khổ. Dường như càng khốc liệt bao nhiêu thì con
người càng yêu mến nhau, đùm bọc che chở cho nhau nhiều hơn. Chính vì thế, câu
sau tác giả lại tiếp tục thêm câu hỏi tu từ: “Mình về mình có nhớ không”. Giờ đây,
mình và ta đã hòa thành một. Nỗi lòng của người ở cũng như của người đi, tất cả đều
là nỗi nhớ. Và nỗi nhớ ấy không chỉ dừng lại ở nội tâm mà lan rộng ra cả núi rừng,
sông suối “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây như vừa là lời nhắn nhủ của
người ở lại với người đi rằng, sau này dù đi đâu về đâu khi nhìn thấy cây thì cũng hãy
nhớ tới núi rừng Việt Bắc, khi nhìn thấy sông thì cũng nhớ tới cội nguồn chiến khu
này. Đồng thời cũng vừa là lời hứa của người đi rằng sẽ luôn nhớ về chiến khu Việt
Bắc từ núi cho tới nguồn mỗi khi nhìn thấy cây, thấy sông.
Trong câu thơ xuất hiện hai từ chỉ hành động “nhìn” và “nhớ”. Một hành động mô tả
hoạt động thị giác, một động từ mô tả hoạt động trong tâm tưởng. Nhìn là đang nói về
hiện tại, tương lai. Nhớ là nói về quá khứ. Điều này nhấn mạnh rằng dù người ở và
người đi tương lai có như thế nào thì vẫn nhớ về quá khứ bên nhau. Động từ “nhớ”
xuất hiện với tần suất dày, như để khẳng định như để khắc sâu hơn vào tâm hồn người
và cảnh Việt Bắc về nỗi nhớ. Đồng thời qua đây ta có thể cảm nhận được tấm lòng
chân thực, tình cảm chân thành của người dân miền núi dành cho chiến sĩ. Dù nghèo
khổ ra sao, nguy hiểm, gian lao thế nào, họ vẫn luôn dành cho các cán bộ miền xuôi
một tình cảm da diết và mãi vững bền qua năm tháng.
Nếu như bốn câu thơ đầu lột tả tình cảm của người Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi
thì những câu thơ sau nói lên tình cảm đáp lại của chiến sĩ, cán bộ với người chiến khu:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Người chiến sĩ định bước đi, nhưng bỗng nghe tiếng “ai tha thiết” khiến cho họ bước
đi mà trong lòng bâng khuâng, bồn chồn. Nhà thơ thật khéo léo khi chỉ qua hai câu thơ
nhưng vẽ lên được sự bịn rịn quyến luyến không muốn chia xa của cả người ở lẫn
người đi. Chỉ có những ai gắn bó với nhau lắm, yêu nhau lắm thì mới khó lòng chia xa
đến như vậy. Bởi cả hai người ở và người đi đều biết, chiến tranh sẽ vẫn còn tiếp diễn.
Sự gặp lại biết đến bao giờ. Bởi thế, họ càng thấy nuối tiếc xót xa. Giống như chân lý
mà Chế Lan Viên từng khẳng định: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa
tâm hồn”. Các chiến sĩ, cán bộ đáp lại lời của bà con dân bản đó là bà con và đất trời
chiến khu đã trở thành một phần trong tâm hồn họ. Tác giả sử dụng 2 cụm từ láy
“bâng khuâng” và “bồn chồn” càng nhấn mạnh thêm sự day dứt, lưu luyến của người
đi. Người đi là các cán bộ về xuôi. Họ ra đi nhưng vẫn mang trong mình nỗi lo lắng và
nhung nhớ. Họ thương người dân chiến khu. Họ lo lắng rồi đây, trong những năm
tháng tiếp theo, người dân nơi đây sẽ như thế nào. Thật sự, chưa nơi đâu mà tình cảm
quân dân lại thắm đượm đến như thế!
Hình ảnh buổi chia ly đầu nước mắt, nghẹn ngào con tim diễn ra chiến sĩ cách mạng
và người Việt Bắc được lột tả đậm nét ở hai câu thơ cuối:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Nói đến “áo chàm” là người ta nghĩ ngay tới hình ảnh chiếc áo màu nâu, là màu áo
của bà con nông dân lam lũ, cực khổ đã lao động cần mẫn phục vụ cho Cách mạng.
Nhà thơ sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là nói về người dân Việt Bắc. Áo
chàm không dành cho riêng ai, mà nói về tất cả những người dân chiến khu. Họ và các
cán bộ cầm tay nhau mà không biết nói gì. Không phải họ không có gì để nói với nhau
là trong lòng quá nhiều thứ để nói. Họ muốn nói với nhau nhiều lắm nhưng không bắt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
đầu từ đâu. Thế nên, chỉ cầm tay nhau để cảm nhận hết nỗi lòng. Bởi từ bàn tay, trái
tim con người sẽ dễ dàng cảm nhận được. Khối óc con người sẽ dễ dàng nhận dạng
được. Dù tình cảm vô cùng keo sơn gắn bó, nhưng giữa những con người ấy vẫn có lí
trí. Họ hiểu rằng, không còn cách nào khác. Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc chia li.
Nhưng chia li trong nước mắt hạnh phúc vẫn hơn là trong đau khổ. Dù là phải xa nhau
nhưng người dân Việt Bắc và các chiến sĩ vẫn có niềm vui của chiến thắng.
8 câu đầu bài Việt Bắc không thể không nhắc tới các biện pháp nghệ thuật được nhà
thơ Tố Hữu sử dụng. Đầu tiên là về thể thơ lục bát. Với thể loại này, khiến độc giả vô
cùng dễ nhớ dễ thuộc, bởi đây là thể thơ mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh đó, lối hát đối đáp mang âm hưởng ca dao, dân ca giúp bài thơ thêm phong
phú về giai điệu. Kết hợp với nhiều biện pháp tư như như hoán dụ, câu hỏi tu từ…
giúp bức tranh buổi phân ly thêm rõ nét và nhiều cảm xúc.
Qua 8 câu thơ đầu độc giả vô cùng cảm động trước tình cảm chân thành sâu sắc giữa
bà con chiến khu Việt Bắc với các cán bộ, chiến sĩ Cách mạng. Nếu như, 15 năm
người ta sống trong sung sướng, sang giàu chưa chắc đã gắn bó, nghĩa tình như khi
người ta sống trong gian khổ hiểm nguy. Bởi thế, khi phải nói lời chia tay, mối thâm
tình ấy của người đi và người ở càng thêm day rứt, luyến lưu.
Vì là người trong cuộc, lại là một hồn thơ yêu nước nên nhà thơ Tố Hữu đã vẽ nên
bức tranh thật sinh động, tuy mộc mạc, giản dị nhưng thấm đượm tính nhân văn.
Phân tích 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc
Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của
thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao
của thơ ca kháng chiến chống Pháp. 8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc đã tái hiện niềm
thương nỗi nhớ, cũng chính là niềm trăn trở chung của đồng bào ta trong lần chia tay lịch sử.
Tính dân tộc là những dấu ấn độc đáo, không lặp lại, biểu hiện những gì là bản sắc, là
những nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc. Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính
nhưng đồng thời cũng là thước đo giá trị của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
văn chương lớn từ trước cho đến nay. Mà những tác phẩm vừa mang tính nhân loại,
vừa mang tính dân tộc sâu sắc.
Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về
nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề hiện thực
đời sống cách mạng nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, những tình cảm chính
trị có sự gắn bó, hòa nhập với truyền thống tình cảm và đạo lí của dân tộc, khát vọng
và ý chí của một dân tộc. Về hình thức nghệ thuật, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng
tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc (cách so sánh, ẩn dụ, hiện tượng chuyển nghĩa, cách
diễn đạt gần với ca dao dân ca). Nếu hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách
nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại, khơi gợi kỉ niệm về
một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội nghĩa tình, thể hiện tâm trạng nhớ
thương, tình cảm gắn bó, thủy chung của quê hương Việt Bắc, con người Việt Bắc
dành cho người về xuôi. Ở đây, nhà thơ sử dụng thành công những hình ảnh đối đáp kiểu dân gian:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Khung cảnh chia tay bịn rịn giữa kẻ ở và người về. Cách xưng hô “mình – ta”: thân
mật gần gũi như trong ca dao. Điệp từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng. Cách
xưng hô “mình – ta” : thân mật gần gũi như trong ca dao. Điệp cấu trúc “mình về
mình có nhớ” : lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha
mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.
Người ở lại đặt câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi
trong người ra đi những kỷ niệm về ” mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười
lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954, là
mười lăm năm “Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi”, là mười lăm năm có phúc cùng
hưởng, có họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai”…
làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Có lẽ vì thế nên nhà
nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã cho rằng: ” “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng
thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ
thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.
“Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Lại một câu hỏi tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội
rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt
Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành: Việt Bắc là cội nguồn cách
mạng, “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc
kháng chiến. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ
Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các
thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
Hai câu hỏi đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi
nhớ về không gian: sông, núi, nguồn. Đó là khoảng thời gian gắn bó biết bao kỉ niệm
của người dân Việt Bắc với người lính.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Bốn câu thơ là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi: tâm trạng bâng
khuâng, bồn chồn đầy lưu luyến, bịn rịn của người kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc.
Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “bồn chồn” thể hiện sự không yên tâm
trong dạ, không nỡ rời bước. Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân thương
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
giản dị. Cử chỉ “cầm tay nhau” thay lời nói chứa đầy cảm xúc. Không khí buổi chia
tay thân tình, gần gũi, bịn rịn không muốn chia xa.
Lời người ở lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới hình thức
những câu hỏi: nhớ về Việt Bắc cội nguồn quê hương cách mạng, nhớ thiên nhiên
Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình…
Nếu như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi
nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha
thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ
“ai” để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. Ai có thể là đại từ để hỏi
nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất gần cách nói của ca dao: “Nhớ ai bổi hổi
bồi hồi” Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá
trị biểu cảm của từ “ai”. Một chữ “ai” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người
đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc đến chừng nào và hiểu nỗi
niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mạng, đối với người miền xuôi. Một
chữ “ai” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất
ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Hai từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn” góp phần làm tăng thêm tâm trạng người ra
đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại “Bước đi một bước lâu lâu lại dừng”
để rồi “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Không biết nói gì phải chăng là vì có quá
nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ân nghĩa, sắt son chẳng thể nào dùng ngôn từ để diễn tả,
đành phải gửi tâm tình qua cái nắm tay thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của
yêu thương đoàn kết. Chỉ cần cầm tay nhau thôi và hãy để hơi ấm nói lên tất cả, yêu
thương, nhung nhớ, nghĩa tình sẽ ấm mãi như hơi ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu
chấm lửng ở cuối câu như càng làm tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận.
Nó như nốt lặng trong một khuông nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Qua
đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm
chất dân tộc: ân nghĩa, thủy chung, son sắt.
Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục
bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mạng. Từ xưa đến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
nay lục bát vốn là thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó.
Nếu đừng để diễn đạt tình cảm thì không còn gì hay bằng. Hay hơn nữa nhà thơ đã
khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc trong ca dao dân ca.
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm tinh
thần dân tộc. Bên cạnh đó ngôn ngữ là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn
dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là ngôn ngữ. Ngôn
ngữ thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta
vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu đôi lứa.
Tính dân tộc về mặt hình thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình sông :”
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là hình ảnh chiếc áo chàm trong “buổi
phân li”. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc nghĩa tình nhưng cũng
rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào
hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”.
Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên bình diện nghệ thuật mà còn đậm nét
qua nội dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh
đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mạng; đã đưa những tư
tưởng tình cảm cách mạng hòa nhịp và tiếp nối truyền thống tinh thần, tình cảm đạo lý dân tộc.
Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố
Hữu đã viết nên một bản tình ca, anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Nghĩa tình sâu
nặng của người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc, của quần chúng đối với cách
mạng trong thơ Tố Hữu là sự kế thừa tình cảm, đạo lý sống của con người Việt Nam
“Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành
một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.
8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc là minh chứng cho sự thành công của thơ Tố Hữu trong
việc kết hợp hai yếu tố: Cách mạng và Dân tộc trong hình thức đẹp đẽ của thơ ca.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Tính dân tộc là một trong những đặc điểm nổi bật làm nên phong cách thơ Tố Hữu.
Thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp của thơ ca truyền thống nhưng vẫn mang đậm hồn thơ của thời đại cách mạng.
Tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc ngắn gọn Bài làm mẫu 1
“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn…”
Giống như mỗi người, sẽ sở hữu riêng cho mình một loại vân tay riêng, không giống
bất kì ai. Thì mỗi nhà văn, nhà thơ, cũng sẽ sở hữu một phong cách “một dạng vân
chữ” riêng biệt. Vì thế, khi đọc những tác phẩm văn chương, ta không thể trộn lẫn
giữa Hồ Xuân Hương với Xuân Quỳnh khi cả hai cùng nói rất hay về thơ tình yêu
người phụ nữ. Và nổi lên trong phong trào dân tộc dân chủ, cùng sự phát triển của văn
học nước nhà, ta nhớ tới Tố Hữu, những khổ thơ mượt mà như áng tóc trữ tình của
ông, học được trong ca dao nhưng lại nổi lên một phong cách rất riêng của Tố Hữu, và
ta được biết đến điều đó rõ hơn, thông qua 8 khổ thơ đầu bài thơ Việt Bắc.
Nói đến Tố Hữu là nói ngay đến cây đại thụ của làng văn. Ông mang trong mình một
áng thơ ca chạy suốt chiều dài lịch sử, thơ văn viết về lịch sử là thế, nhưng trong đó
lại mang đậm dấu ấn của một người con rất Huế, rất Việt Nam, lúc nào cũng tha thiết,
lúc nào cũng vấn vương gợi tình.
Mình về mình có nhớ ta
Mười năm lăm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Bài thơ Việt Bắc là một trong những kiệt tác văn chương rất tiêu biểu của tiếng thơ Tố
Hữu. Ra đời trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp vừa giành thắng lợi. Chủ tịch Hồ
Chí Minh rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội tiếp quản. Lấy cảm hứng từ buổi chia tay
mang ý nghĩa lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết ra áng thơ này. Việt Bắc như mang
nặng hồn thiêng của sông núi, vì thế, bài thơ đến gần với trái tim người đọc, nhờ tính
dân tộc đậm đã, được thể hiện đậm nét trong cả hai phương diện nội dung và hình thức.
Ta biết tính dân tộc trong một bài thơ, là một khái niệm quen thuộc, thuộc phạm trù tư
tưởng- thẩm mĩ, và là mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa văn học và dân tộc. Tính dân
tộc trong một bài thơ là cách thức thể hiện và nội dung có tính bền vững cho các sáng
tác của dân tộc ta, được hình thành từ quá trình phát triển của dân tộc từ xưa đến nay.
Và tính dân tộc, phải được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và hình thức.
Trong ca dao ta vẫn thường nghe có câu:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng đã có nhưng chưa ai vào
Vậy đấy, tính dân tộc là đây chứ đâu. Vì sao ca dao dân ca từ ngàn đời nay vẫn mới và
vẫn luôn khiến ta cảm thấy mến thương như vậy. Đơn giản, bởi ca dao luôn mang đậm
chất trữ tình, ngọt ngào, chân chất và gần gũi, được thể hiện qua thể thơ lục bát uyển
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
chuyển. Bắt nhịp và nối tiếp những giá trị cao quý đó của ca dao dân ca, Tố Hữu đã
vận dụng nhuần nhuyễn để làm ra Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ ta
Mười năm lăm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tính dân tộc trước hết thể hiện ở thể thơ lục bát quen thuộc, nhờ nó, ý thơ vốn uyển
chuyển và đầy chất trữ tình của Tố Hữu càng được bộc lộ một cách rõ nét. Không
những thế, Tố Hữu đã vận dụng khéo léo lối đối đáp vốn là hình thức quen thuộc
trong ca dao, ngôn ngữ mượt mà, uyển chuyển, đặc tả tình cảm giữa mình – ta ngọt
ngào sâu lắng, mà ta vốn thường hay gặp trong những câu ca dao viết về tình yêu lứa đôi.
Đoạn thơ đầu đặc tả nỗi nhớ của người ở lại dành cho người da đi, ngôn từ bình dị
nhưng tha thiết và quyện chặt trong lòng kẻ đi người ở. Tình cảm người gắn bó keo
sơn tựa như tình cảm đôi lứa, qua đó càng cho ta thấy sự đoàn kết của nhân dân ta
trong thời kì kháng chiến. Hóa ra, dù có khó khăn cách trở về không gian, thời gian,
trái tim của những người con đất Việt vẫn mãi gắn bó và dành cho nhau. Chỉ cần anh
cần, tôi luôn có mặt. Những hình ảnh mang đậm tính dân tộc cũng được tả rõ nét, đó
là “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” những cây, những núi, sông, nguồn, là
những hình ảnh quen thuộc, vốn đã đi vào tiềm thức của người dân ta muôn đời.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Lời đầu tiên là lời người ở lại dành cho người ra đi, vì nhớ thương, vì luôn canh cánh
trong lòng, nên đoạn thơ này tựa như một lời đồng vọng thân thương mà người ra đi
đáp lại người ở. Từ “ai” là một đại từ phiếm chỉ, như ám chỉ hình ảnh tiếng hát da diết
và mộc mạc của người dân vùng núi Việt Bắc, người cất bước ra đi nhưng vọng trong
hoài niệm, trong nhung nhớ vẫn luôn nghĩ về ân tình Việt Bắc, muối mặn gừng cay,
phai chăng “Khi ta ở thì là nơi đất ở/ khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn” là vậy? Những
hình ảnh mang đậm tính dân tộc như “áo chàm” “cầm tay” mang một vẻ đẹp đơn sơ,
giản dị nhưng ấm cúng lắm. Những cái bắt tay mặn mà tình cảm, những tấm áo chàm
là hoán dụ cho nhân dân Việt Bắc, cầm tay thôi là đã nói lên tất cả, ngôn ngữ dần như
cũng ngưng đọng lại, bồi hồi vì cảm xúc mà không nói thành lời.
Qua đó, càng nổi bật rõ nên nét dân tộc truyền lại trong thơ Tố Hữu, đặc tả vẻ đẹp
thủy chung, nghĩa tình, son sắt của người dân quê hương. Việt Bắc là sự kế thừa trọn
vẹn những tinh hoa của văn chương muôn đời. Bài làm mẫu 2
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, tháng 10 năm 1954,
các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà
Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc, khắc họa
lại cuộc chia tay lịch sử với những tình cảm thủy chung son sắt. Tình cảm ấy được thể
hiện qua những câu thơ sau:
Mình về mình có nhớ ta? ....
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Đoạn thơ tràn đầy một nỗi nhớ tưởng như không thể kìm nén được, cứ trào ra theo
ngòi bút và tuôn chảy thành những dòng thơ. Có đến bốn chữ “nhớ” trong một đoạn
thơ tám câu chắc hẳn nỗi nhớ ấy phải thật da diết và sâu nặng. Đây là nỗi nhớ quê
hương cách mạng của người đã từng gắn bó sâu sắc với vùng đất thiêng đầy kỷ niệm
ấy, là nỗi nhớ của nghĩa tình, của ân tình thủy chung.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Khúc hát dạo đầu đã nhắc đến nỗi nhớ của đạo lí Việt Nam, cảnh tiễn đưa bâng
khuâng trong nỗi nhớ, người ở lại hỏi người ra đi cũng chỉ một nỗi nhớ và người ra đi
trả lời bằng chính nỗi nhớ ấy của mình. Tố Hữu đã diễn tả nỗi nhớ quê hương cách
mạng bằng tiếng nói ngọt ngào, tha thiết của khúc hát đối đáp giao duyên nam nữ
trong dân ca. Khúc hát ấy thấm nhuần đạo lí ân tình thủy chung:
Mình về mình có nhớ ta?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều, hai câu đầu gợi ta nhớ đến một
câu thơ trong Truyện Kiều:
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Việt Bắc đã hỏi người cán bộ về xuôi có còn nhớ mình không? Có còn nhớ những tình
cảm thiết tha, mặn nồng trong suốt khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Nhìn cây
còn có nhớ núi, nhìn sông còn có nhớ đến nguồn? Bốn câu thơ nhưng thực chất là hai
câu hỏi tu từ. Lời của người ở nhưng thực chất là lời nói của người đi để nói lên đạo lý
Việt Nam truyền thống vốn là bản chất tốt đẹp của dân tộc ta. Không chỉ nói lên mà
chính là nhắc nhở mọi người, nhắc nhở chính mình bởi vì cái đạo lí ấy thiêng liêng
lắm, quý giá lắm, phải giữ gìn và phát huy.
Sâu nặng biết bao trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, ân tình biết bao khi
“nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ mà có đến bốn chữ “mình”,
bốn chữ “nhớ” hòa quyện quấn quýt cùng chữ “ta”, khiến cái đạo lí ân tình Việt Nam
đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ Việt Bắc, trở thành chủ đề lớn của tác phẩm.
Sau khúc hát mở đầu là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ của người ra đi và cả người ở lại:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Có âm thanh da diết và màu sắc đậm đà thủy chung, có bước chân bồn chồn và những
cái nắm tay đầy lưu luyến. Mỗi bước chân của người đi mang theo nỗi niềm luyến lưu
cho người ở lại. “Tiếng ai” không phải là câu hỏi, cũng chẳng phải là đại từ phiếm chỉ
mà đó chính là cách nói thể hiện nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”.
“Bâng khuâng” vì “đi không nỡ”, nhưng “bồn chồn” vì ở cũng chẳng đành bởi lẽ Việt
Bắc đã trở thành ký ức, thành tình yêu, thành tâm hồn:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Từ láy bâng khuâng, bồn chồn được Tố Hữu sử dụng rất tinh tế ở câu thơ này. Nó thể
hiện được nỗi niềm, được tâm trạng và cả những chuyển động trong cảm xúc, để rồi
hình ảnh tiếp theo xuất hiện là chiếc áo chàm qua thủ pháp hoán dụ gợi tả con người Việt Bắc:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Màu áo chàm là một hình ảnh đầy ý nghĩa, đó là màu áo của Việt Bắc đậm đà, son sắt
như chính lòng thủy chung của con người nơi đây. Màu áo ấy nhắc nhở người ra đi
nhiều ký ức khó phai nhòa.
Câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” mang một giá trị biểu cảm rất lớn. “Cầm
tay nhau” nhưng chẳng “biết nói gì” vì có quá nhiều nỗi niềm cần bày tỏ, vì trong lòng
họ tràn ngập nỗi nhớ thương nên không biết nói điều gì trước, điều gì sau, điều gì nên
giãi bày, điều gì nên giấu kín trong tim. Cho nên chẳng “biết nói gì” chính là nói lên
rất nhiều tấm lòng thương nhớ. Câu thơ ngắt nhịp 3/3/2 như sự ngập ngừng lưu luyến,
làm ta liên tưởng đến buổi tiễn đưa của người chinh phụ và chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Bước đi một bước, giây giây lại dừng
Trong màn đối đáp giao duyên của cuộc chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã để cho người ở
lại lên tiếng trước. Điều này không chỉ hợp lý, tế nhị mà còn cần thiết cho sự phát
triển mạch thơ trong cả bài thơ.
Bằng việc sử dụng đại từ “mình - ta” cùng thể thơ lục bát, Tố Hữu đã tái hiện cuộc
chia tay lịch sử của Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng với biết bao ân tình, chung
thủy. Con người dễ cộng khổ nhưng khó đồng cam, Việt Bắc ra đời chính là lời nhắc
nhở tình nghĩa gắn bó cùng đạo lý tri ân muôn đời của dân tộc. Bài làm mẫu 3
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ
ông chất phác, mộc mạc giàu chất trữ tình. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã
để lại nhiều tác phẩm có giá trị tiêu biểu là bài thơ “Việt Bắc”. Nổi bật lên trong bài
thơ là tám câu thơ đầu với lời của kẻ ở, người đi đầy lưu luyến xúc động
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Việt Bắc là tác phẩm đặc sắc của Tố Hữu được sáng tác vào năm 1954 sau khi hiệp
định Giơ-ne-vơ được ký kết, chính phủ và chính quyền trung ương cách mạng chuyển
từ căn cứ Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện ấy Tố Hữu sáng tác bài Việt Bắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Nỗi nhớ da diết của những người yêu nhau như thế nào thì nỗi nhớ của con người Việt
Bắc với những người cách mạng cũng như vậy:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Mở đầu đoạn trích là cách xưng hô “mình” - “ta” đầy thân thương gần gũi, “mình”-là
người cách mạng còn “ta” chính là người Việt Bắc. Người dân Việt Bắc hỏi rằng:
“Mình về mình có nhớ ta” đọc câu thơ ta thấy ở trong đó có đầy tình cảm lưu luyến,
nuối tiếc như một cặp tình nhân khi phải xa nhau, cảm giác đau khổ, không nỡ, nhưng
tình yêu thì được hình thành trong quãng thời gian rất ngắn còn tình người giữa Việt
Bắc và cách mạng lại là quãng thời gian “mười lăm năm”. “Mười lăm năm” - đó là
một quãng thời gian không hề ngắn , đặc biệt trong mười lăm năm ấy tình cảm nào có
nhạt phai mà còn “thiết tha mặn nồng”.
Nếu như hai câu đầu là tình cảm giữa người với người thì đến với hai câu sau chính là
tình cảm giữa con người với thiên nhiên:
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Người dân Việt Bắc không biết rằng khi về miền xuôi những người cán bộ cách mạng
có còn nhớ Việt Bắc nữa hay không. “Mình về mình có nhớ không” đọc câu thơ lên
với giọng thơ nhẹ nhàng ta thấy rưng rưng nước mắt. Núi rừng Việt Bắc, sông núi
Việt Bắc đẹp lắm, hùng vĩ lắm nhưng ở miền xuôi lại nhộn nhịp đông đúc. Người dân
Việt Bắc sợ, họ sợ những người cách mạng quên mất Việt Bắc, quên mất những ngày
tháng hái quả rừng, ăn rau rừng trên núi, quên mất dòng sông vẫn hàng ngày bắt cá.
Trong suy nghĩ của họ, họ rất sợ. Từ “nhớ” trong câu thơ được lặp lại như muốn tô
đậm thêm nỗi nhớ nhung da diết, không nỡ rời xa, không nỡ chia ly. Chỉ với bốn dòng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
thơ đầu Tố Hữu đã tái hiện lại khung cảnh của buổi chia ly thật xúc động, nghẹn ngào và đầy nước mắt.
Trong khung cảnh núi rừng hùng vĩ, cái se lạnh của Việt Bắc những người cách mạng chia tay Việt Bắc
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Người cách mạng rời xa Việt Bắc nhưng vẫn nhớ về tiếng nói tha thiết của người dân
Việt Bắc lúc chia tay: “Tiếng ai tha thiết bên cồn”. Người cách mạng về xuôi sẽ còn
nhớ lắm giọng nói của người dân Việt Bắc. Vì nhớ nên “Bâng khuâng trong dạ bồn
chồn bước đi” câu thơ khi đọc lên ta thấy cảm xúc như dâng trào. “bâng khuâng” là từ
láy chỉ trạng thái của con người mà cụ thể ở đây là người cách mạng về xuôi, họ ra đi
nhưng trong lòng cảm thấy lưu luyến không nỡ rời xa. Cảm xúc nghẹn ngào không nói
nên lời đến cả bước đi cũng như nặng hơn. Người không muốn đi mà chân cũng
không muốn bước, bước chân trở nên “bồn chồn” như cũng muốn quay trở lại Việt
Bắc, quay lại quê hương cái nôi của cách mạng, nơi có những con người tình nghĩa,
thủy chung luôn chờ đón họ. Họ không nỡ rời xa nhau nhưng trong giây phút nghẹn
ngào cuối cùng được ở gần nhau thì họ lại không thể thốt nên lời:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Màu áo “chàm” - màu áo đặc trưng của cách mạng cũng góp chung vào nỗi nhớ của
kẻ ở người đi, họ nhớ nhau nhớ cả màu áo của nhau. Họ cầm tay nhau tình cảm thắm
thiết mà không thể thốt nên lời. Tâm trạng trong câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì
hôm nay” cũng khiến cho cảm xúc của người đọc và theo cảm xúc của con người
trong thơ: bồn chồn, không yên, day dứt, khó diễn tả. Họ chia tay chỉ muốn òa khóc,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
xúc động không nói nên lời. họ không còn gì để nói với nhau hay họ có quá nhiều cảm
xúc muốn nói mà không thể nói hết trong một khoảnh khắc ngắn ngủi này. Chỉ vẻn
vẹn có bốn câu thơ với hai mươi tám chữ Tố Hữu đã cho người đọc hòa mình vào
cuộc chia tay, cũng là lời của người ra đi nói với người ở lại đã làm cho người đọc xúc động nghẹn ngào
Đoạn trích trên trong bài thơ “Việt Bắc” không chỉ thành công ở nội dung mà còn
thành công ở nghệ thuật với thể thơ lục bát, lối đối đáp, cách xưng hô mình ta, ngôn
ngữ giàu sức gợi. đoạn trích tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.
Tóm lại, tám câu thơ trên trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã để lại trong lòng
người đọc những cảm xúc khó phai mờ về tình cảm giữa người Việt Bắc và cách
mạng. Bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng sẽ luôn sống mãi trong lòng chúng ta,
trong trái tim người đọc Việt Nam. Bài làm mẫu 4
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, tiêu biểu cho thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ
Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ông đậm đà
tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ "Việt Bắc" là đỉnh cao của
thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. "Việt Bắc" là một
trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ "tống biệt" của Tố Hữu. Mặc
dù là đề tài cũ, nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi "Việt Bắc" ra đời trong cuộc chia tay
đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10 năm 1954. Ra
đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi
buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và nhân dân
sâu đậm ân tình. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những
rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân ly:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại nói với người ra đi:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tác giả mở đầu bằng một câu hỏi mang âm hưởng ca dao, tình yêu: "Mình về mình có
nhớ ta". "Mình về" là hoàn cảnh để người ở lại bộc lộ nỗi niềm. "Về" gợi đến sự chia
ly, đó là sự chia ly của người ra đi và người ở lại. Về mặt kết cấu câu thơ thì "mình"
đứng ở đầu câu, còn "ta" đứng ở cuối câu thơ. Nó gợi lên cái khoảng cách giữa "ta" và
"mình". Nỗi niềm gợi lên qua câu hỏi ấy của người ở lại là nỗi nhớ, tình cảm của
người ở lại hướng tới người ra đi. Đứng giữa câu thơ là một từ "nhớ", nó làm cho
"mình" và "ta" dường như được xích lại gần nhau hơn. Cơ sở tạo nên nỗi nhớ ấy là:
"Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Câu thơ phảng phất âm hưởng của thơ Kiều,
nhưng từ âm hưởng đó lại vang lên nỗi niềm tình cảm của những con người trong một
thời kháng chiến. "Mười lăm năm ấy" gợi đến một quãng thời gian khó khăn, một thời
đau thương, mất mát. Tuy vậy, dường như tất cả mất mát đau thương ấy chìm đi, đọng
lại trong câu thơ chỉ còn là tình cảm "thiết tha mặn nồng". Đó chính là sự gắn bó thân
thiết, tình cảm chia bùi sẻ ngọt trong "mười lăm năm ấy" giữa "ta" và "mình". Bởi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
vậy, hỏi nhưng cũng chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi chính là thể hiện mong muốn
người ra đi cũng có tình cảm như chính mình.
Đến câu thơ thứ ba cũng là một câu hỏi. Câu hỏi: "Mình về mình có nhớ không" cũng
có sự lặp lại gần giống câu thơ đầu. Tuy vậy, đối tượng hỏi không chỉ còn bó hẹp
trong mối quan hệ giữa "ta - mình" và nỗi nhớ dường như không còn chỉ hướng tới
"ta", mà nỗi nhớ đó đã hướng vào đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là không
gian "núi rừng" và "sông nguồn". Câu hỏi gợi về không gian có "núi", có "nguồn" ở
núi rừng Việt Bắc. Đây chính là không gian quen thuộc gắn với người ở lại và cũng
gắn bó với cả người ra đi. Không gian đó với người ra đi và người ở lại không còn là
không gian vô hồn, vô cảm mà là không gian chứa đầy kỉ niệm, nó góp phần tạo nên
tình cảm cho người ra đi. Ở trong câu thơ xuất hiện nhiều lần hai động từ chỉ hành
động "nhìn" và "nhớ". Một hành động tác động vào thị giác, một hành động tác động
vào tâm tưởng; một hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng về quá khứ.
Sự đan xen giữa các hành động đó mà người ở lại đưa ra là để muốn nhắc nhở người
ra đi sống ở hiện tại đừng quên về quá khứ, sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược,
đừng quên về những kỉ niệm của một thời đã qua. Đó chính là mong muốn của người
ở lại nhắn nhủ tới người ra đi. Trước khi mong muốn người ra đi để nhớ thì người ở
lại đã thể hiện nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ đó biểu đạt trực tiếp qua động từ "nhớ" xuất
hiện nhiều lần ở khổ thơ, càng về cuối thì từ "nhớ" xuất hiện càng nhiều đã thể hiện
cường độ nhớ ngày một tăng và nó đã tạo nên âm hưởng chủ đạo cho bài thơ. Đó là
âm hưởng nhớ thương, ân tình tha thiết.
Bốn câu thơ đầu chỉ với hai câu hỏi, nhưng chủ yếu là để giãi bày tình cảm và để
mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình, bởi giữa hai đối tượng đó
có sự gắn bó khăng khít trong một thời kháng chiến và một vùng kháng chiến. Để rồi
từ đó, người ra đi đáp lại người ở lại bằng bốn câu thơ:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Người ở lại đặt ra câu hỏi nhưng người ra đi không trực tiếp trả lời câu hỏi đó mà thay
vào đó người ra đi thể hiện tình cảm lưu luyến, bịn rịn trong buổi chia tay. Ấn tượng
ban đầu đã tác động đến người ra đi: "Tiếng ai tha thiết bên cồn". "Ai" là đại từ không
xác định. "Ai" có thể là nhân vật đang xuất hiện trước mắt người ra đi, quen thuộc với
người ra đi - một con người cụ thể xuất hiện "bên cồn" trong buổi chia ly. "Ai" có thể
là bất cứ người dân Việt Bắc đã cùng sống, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với người ra
đi. Dù hiểu theo cách nào thì ấn tượng tác động đến người ra đi là âm thanh tiếng nói
tha thiết - đó chính là âm thanh rất đỗi ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng. Và âm thanh đó
dường như gọi về biết bao kỉ niệm, biết bao buổi trò chuyện tâm tình và âm thanh đó
gọi về mối tình keo sơn gắn bó thân thiết giữa người ở lại với người ra đi. Chính âm
thanh đó đã khiến cho người ra đi "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi". Câu thơ
ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối trong tương quan đối lập giữa bên trong và bên ngoài.
"Trong dạ" thì "bâng khuâng" còn hành động bên ngoài biểu hiện sự "bồn chồn" thấp
thỏm của người ra đi, nhưng lại có sự tương đồng trong cảm xúc và hành động. Chính
vì cảm xúc "bâng khuâng" thì mới có hành động "bồn chồn" đó được.
Trong cảm nhận của người ra đi, một hình ảnh bình dị, quen thuộc thường xuất hiện
trong cuộc sống đời thường đó là hình ảnh "áo chàm". Hơn thế nữa chiếc "áo chàm"
gợi đến sắc màu bền bỉ khó phai. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ "áo chàm" để chỉ
người dân Việt Bắc và bởi vậy nói "áo chàm đưa buổi phân li" là nói về cuộc chia tay
đầy lưu luyến giữa người Việt Bắc với người cách mạng. Mượn hình ảnh "áo chàm"
dường như tác giả muốn nói đến tình cảm thủy chung sắt son khó phai mờ của người
dân Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng. Và ấn tượng đậm nét nhất với người ra đi
chính là hành động "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...". Trước tiên là hành động
"cầm tay nhau" là hành động quen thuộc và rất đẹp của những ai khi chia li, nó thể
hiện tình cảm gắn bó thân thiết và đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người đi.
Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào, vì thế không nói lên lời. Dấu ba chấm
xuất hiện cuối dòng thơ như nốt nặng không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất
nhiều những lời nói thường ngày bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, bịn
rịn. Câu thơ kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác thường. Sự thay đổi của nhịp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
thơ không chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ mà còn tạo nên cái
ngập ngừng của tình cảm. Và đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn tả sự
khác lạ trong diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi. Bài làm mẫu 5
Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Tố Hữu được biết đến với những tác phẩm
mang đậm tính trữ tình - chính trị. Bàn về phong cách thơ độc đáo của ông, có ý kiến
cho rằng: "Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu
tính dân tộc thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người". Đặc
trưng này đã được thể hiện rõ qua bài thơ Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu tiên
của thi phẩm này nói riêng.
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào, ngôn ngữ giản dị mà tha thiết trong thơ Tố Hữu là
giọng điệu của sự ngọt ngào, mang tính tâm tình, thủ thỉ sâu lắng, đằm thắm. Trong
bài thơ Việt Bắc, để thể hiện nội dung về tình cảm cách mạng, tác giả Tố Hữu đã sử
dụng giọng thơ tâm tình để bộc lộ những xúc cảm nặng nghĩa tình. Giọng điệu đó
quyện hòa cùng nghệ thuật giàu tính dân tộc qua thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp "mình
- ta" thân thuộc trong các câu ca dao và khúc hát dân ca, hệ thống ngôn ngữ bình dị
cùng những hình ảnh thơ quen thuộc nhưng vẫn giàu sức gợi. Dù viết về đề tài chính
trị gắn với sự kiện lịch sử tháng 10 năm 1954 , sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký
kết, các cơ quan trung ương của Đảng rời chiến khu Việt Bắc để trở về hoạt động tại
thủ đô Hà Nội nhưng bài thơ Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu tiên vẫn hiện lên
chất chứa cảm xúc của sự ngọt ngào, tha thiết.
Trong tám câu thơ đầu tiên, tác giả đã tái hiện không khí bâng khuâng, lưu luyến trong
những phút giây đầu tiên của buổi chia ly giữa kẻ ở - người đi. Khúc dạo đầu được
khơi gợi từ lời của những người ở lại:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Trong lời ca của người dân Việt Bắc hướng tới những người chiến sĩ, cán bộ cách
mạng, chúng ta có thể thấy được cảm xúc trữ tình sâu lắng qua điệp cấu trúc câu:
"Mình về mình có nhớ ta?", "Mình về mình có nhớ không?". Sự láy đi láy lại của câu
hỏi tu từ đã xoáy sâu vào nỗi nhớ và sự day dứt khôn nguôi. Quãng đường đồng hành
đầy nghĩa tình và "thiết tha mặn nồng" giữa nhân dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách
mạng đã được diễn tả qua khoảng thời gian "Mười lăm năm ấy". Đó là những tháng
ngày đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, gợi lên sự bao bọc của nhân dân: "Thương
nhau chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng". Cuộc kháng chiến của dân
tộc ta vì thế luôn ngời sáng sức mạnh của tinh thần đoàn kết và mang tính toàn dân.
Biết bao ân tình, gắn bó một lần nữa được gợi nhắc qua những hình ảnh "cây", "núi",
"sông", "nguồn" - không gian quen thuộc nơi núi rừng ẩn dụ cho lối sống ân nghĩa
thủy chung. Như vậy, qua bốn câu thơ đầu, chúng ta có thể thấy được giọng điệu tâm
tình, thủ thỉ tràn đầy cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến của đồng bào dân tộc.
Cuộc đối thoại trữ tình tiếp tục được tiếp nối qua lời đáp của người ra đi - những cán bộ chiến sĩ cách mạng:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Bốn câu thơ đã thể hiện rõ sự lưu luyến bịn rịn, dù chưa chia xa những viễn cảnh nhớ
nhung đã hiện lên trước mắt. Đại từ "ai" ngân vang cùng sự "tha thiết" đã nhấn mạnh
vào tình cảm, cảm xúc đặc biệt của người ra đi và sự thấu hiểu đối với cảm xúc của
người ở lại. Điều này khiến cho câu thơ giống như một câu trả lời gián tiếp khẳng định
người ra đi sẽ mãi mãi không quên được "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng" và
luôn một lòng hướng về và nhớ đến "cây", "núi", "sông", "nguồn". Trạng thái này
được xoáy sâu hơn nữa qua những tính từ miêu tả cảm xúc như "bâng khuâng", "bồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
chồn". Hình ảnh người ở lại đã được khắc họa trong tâm tưởng của những chiến sĩ
cách mạng qua hình ảnh hoán dụ "Áo chàm" - màu áo đặc trưng của đồng bào Việt
Bắc. Cuộc chia ly cứ thế diễn ra trong sự bâng khuâng xúc động, và tất cả mọi cảm
xúc dường như nén lại: "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay".
Chỉ với tám câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được tài năng của nhà thơ Tố Hữu
trong việc sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo và linh hoạt thể thơ lục bát - thể thơ dân
tộc với những đặc trưng riêng trong cách gieo vần và nhịp điệu. Đồng thời, kết cấu bài
thơ được kiến tạo theo lối đối đáp giao duyên qua cặp đại từ "mình - ta" khiến lời thơ
chất chứa yêu thương như những lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau. Câu chuyện cách
mạng, kháng chiến vốn thuộc lĩnh vực chính trị khô khan được tái hiện đầy tâm tình
và sâu lắng như một câu chuyện tình yêu ngọt ngào, làm nổi bật tình cảm ân tình thủy
chung, cao đẹp của nghĩa tình cách mạng.
Như vậy, qua tám câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể khẳng định: "Với giọng thơ tâm
tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề
gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người". Câu chuyện cách mạng, kháng chiến
mang tính chính trị, gắn với sự kiện lịch sử cụ thể vì thế khi đi vào trang thơ "Việt
Bắc" vẫn chất chứa cảm xúc và da diết, bồi hồi. Điều này đã thể hiện rõ đặc trưng
chính trị - trữ tình trong phong cách thơ Tố Hữu. Đồng thời tạo nên nét đặc sắc và sức hấp dẫn của bài thơ. Bài làm mẫu 6
Bạch Cư Dị khi nói về nói thơ, cho rằng: "Thơ, ấy là gốc của tình, lời là ngọn, âm
thanh là hoa, nghĩa là quả”, đó là một sự toàn diện tạo nên sức sống của thơ giữa dòng
thời gian. Tiếng thơ Tố Hữu cũng vậy. Nhà thơ dụng công dâng hiến áng thơ “Việt
Bắc” để gửi gắm tư tưởng tình cảm sâu sắc về nghĩa tình trong thời chiến còn làm
rung động lòng người. Tám câu thơ đầu: "Ta về mình có nhớ ta… Cầm tay nhau biết
nói gì hôm nay” là kết tinh tư tưởng chủ đề đó.
Tám câu thơ đầu hay dòng tâm trạng bâng khuâng, bịn rịn khi giờ chia ly đã điểm,
đậm tô ân tình cách mạng của người đồng bào miền núi với cán bộ, chiến sĩ. Thể thơ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
lục bát khiến câu thơ mềm mại, điệu thơ trầm bổng, kết hợp với vần phong phú, nhịp
đều đặn gợi trạng thái muôn vàn trong tâm hồn người ở, kẻ đi. Kết cấu đối đáp, cách
xưng hô "mình, ta” quen thuộc xuất hiện trong ca dao giao duyên buổi tự tình, hò hẹn
của chàng - nàng, mận - đào, mở ra bầu không khí tâm tình, giọng tình thương mến,
ngọt ngào. Đoạn thơ nói tình cảm chính trị mà không khô khan.
Với người ở lại, nhạy cảm với sự đổi thay nên lên tiếng trước:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Câu hỏi tu từ láy đi, láy lại theo hình thức tăng tiến "có nhớ ta, có nhớ không” gợi
những cung bậc cảm xúc từ ướm hỏi xa xôi đến nỗi khắc khoải lắng nghe lời đồng
vọng. Qua đó giúp ta cảm tấm chân tình của người ở lại, tình đồng bào với người cất
bước. Thời gian lịch sử "mười lăm năm”, cũng là thời gian tình cảm mặn nồng ân
nghĩa. Không gian "cây, núi, sông, nguồn” gợi Việt Bắc đại ngàn, núi thăm thẳm.
Điệp từ "nhớ” diễn tả nỗi lòng lớp lớp, khôn nguôi. Cách diễn đạt mang lỗi nghĩ dân
gian như lời nhắn nhủ của cha ông về lối sống ẩm hà tư nguyên, nhắc nhớ sự thủy chung.
Lời người đi xuôi đáp lại tiếng lòng kẻ ở lại:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Cặp câu lục bát sử dụng những láy từ "bồn chồn, bâng khuâng” biểu hiện mọi nỗi
niềm trong lòng người ly biệt. Tâm trạng được hữu hình hóa, vô hình thành hữu hình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
"bồn chồn bước đi” gợi bước đi chầm chậm chẳng nỡ rời buông như bước chân kẻ
chinh phu, tráng sĩ ngày nào trong “Chinh phụ ngâm”: “Bước đi một bước, giây giây lại dừng”
Nhưng đó là tình phu - phụ, còn “Việt Bắc” nói tới tình đồng chí, nghĩa đồng bào.
Hình ảnh áo chàm trong buổi phân ly đã từng đi về từng đi về trong ca dao xưa, chiếc
áo để người đắp cho bớt hiu quạnh, áo bào của nàng Kiều trong buổi chia ly Thúc
Sinh. Nhưng Tố Hữu mượn sắc áo chàm bình dị, bền, khó phai, khó nhạt của đồng
bào miền ngược nói sắc lòng người ở lại mãi vẹn nguyên. Tâm tư tình cảm người ở
được cảm bởi người đi, dường như “ta, mình” hiểu nhau cả những điều không nói ra.
Bởi vậy, hành động “Cầm tay nhau biết nói gì” như khoảng lặng của âm nhạc, khoảng
trống của nhiếp ảnh, khoảng vô ngôn dư tình trong văn học. Thời gian như ngừng lại
để kẻ ở và người đi đối thoại đàm tâm, sự thấu hiểu của tình tri âm, tri kỷ giữa người
đồng bào và cán bộ cách mạng mang ân tình cách mạng sâu đậm.
Tám câu thơ đầu trong “Việt Bắc” vừa tiếp thu giá trị dân gian phong phú vừa được
nhà thơ Tố Hữu sáng tạo ý mới, hình ảnh mới, diễn đạt tình cảm, sự kiện thời đại phản
ánh quy luật kế thừa, cách tân nghệ thuật. Bài làm mẫu 7
Nhớ về giai đoạn 1945 - 1975, bạn đọc đều khắc khoải những giây phút chiến đấu hào
hùng, những gian khổ khắc nghiệt của bom đạn chiến tranh. Và chính hoàn cảnh đó đã
sản sinh ra Những ngòi bút Cách Mạng tiêu biểu cho một thời kì văn học dân tộc. Nếu
Phạm Tiến Duật hay Quang Dũng viết về gian khổ bằng giọng thơ tươi trẻ, yêu đời,
thì Tố Hữu lại đi vào lòng bạn đọc nhờ cái trữ tình, lắng sâu của lời thơ. Tám câu thơ
mở đầu “Viết Bắc” là minh chứng rõ nét cho phong cách thơ Tố Hữu.
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ra và lớn lên nơi xứ Huế mộng mơ. Phải
chăng chính đất và người nơi đây đã đọng lại trong tâm hồn thi sĩ chất nhẹ nhàng,
duyên dáng, rất thơ, rất Huế. Ở thi nhân có sự hòa quyện thống nhất giữa cuộc đời
Cách mạng và cuộc đời thơ. Ông chọn con đường Cách mạng từ thời niên thiếu, viết
thơ cũng là viết cùng chặng đường lịch sử của cả dân tộc. Bởi vậy, Tố Hữu quan
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
niệm: “Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không
ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách
nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong
quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng còn phải kiên
quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc, với cái xấu cái
ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa
tư tưởng. "Và Việt Bắc chính là áng thơ được kết tinh từ tư tưởng chính trị vững vàng
cùng trái tim ấm nóng luôn hướng về quê hương đất nước của nhà thơ. Bài thơ ra đời
trong không khí hân hoan của quân và dân sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử,
trong giây phút những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Việt
Bắc là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến
và con người kháng chiến, thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước
trong niềm tự hào dân tộc. Tám câu thơ mở đầu đã dội nên bao nỗi niềm thân thương,
lưu luyến trong tâm tình người chiến sĩ khi rời xa đồng bào vùng cao để trở về.
Cuộc chia tay đầy bịn rịn, tiếc nuối hiện ra qua giọng thơ ngọt ngào, trữ tình của Tố hữu.
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Đoạn thơ nương theo điệu hồn truyền thống từ thể thơ đến cách xưng hô, gợi một nỗi
niềm bình dụi, thân thuộc. Tố Hữu tìm về với văn học cổ để khai phá cái tình, cái tứ
trong thẻ thơ lục bát bình dị, tạo âm hưởng đối thoại tâm tình giữa quân và dân. Giữa
đồng bào và người lính, giữa những đồng đội không phải là “anh - tôi” như trong
“Đồng chí” (Chính Hữu), không phải “nàng, em” trong lời thơ Tây Tiến (Quang
Dũng), tình cảm son sắt, thắm đượm ấy đã trở thành “mình - ta”. Lối xưng hô quen
thuộc trong ca dao dân ca xưa vừa gợi nét ấm cúng, thân mật, vừa tạo nên nét độc đáo
trong ngòi bút khám phá của Tố Hữu. Với nhà thơ, tình quân dân cũng ấm nồng như
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
tình cảm gia đình, cần sự thủy chung, gắn bó bền chặt không rời. Lời thơ là lời của
người ở lại nói với người ra đi rằng: sau khi trở về thành thị phồn hoa rồi, liệu lòng
người có còn vương vấn chút gì nơi đây, có nhớ “mười lăm năm” kháng chiến gian
khổ, có nhớ núi rừng đồng cỏ nơi đây hay không. Nỗi niềm ấy cứ day dứt trong lòng
người ở lại. Ngay sau cụm từ “mười lăm năm” dài đằng đẵng ấy là hình ảnh của non
sông suối nguồn miền cao, gợi cho bạn đọc cảm giác mênh mang, chơi vơi của nỗi
nhớ, nó đã trải ra khắp không gian, thấm đượm vào từng vết hằn của thời gian đời
người. Câu thơ chất chứa cái tình, cái nghĩa của người ra đi và người ở lại, hay cũng
chính là cái gắn bó sâu đậm của đồng bào miền ngược với những chiến sĩ miền xuôi.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Nhớ về Việt Bắc, người lính nhớ thiên nhiên đại ngàn hùng vĩ, nhớ về những tháng
ngày chiến đấu gian khổ và đặc biệt hơn cả là nhớ về trái tim của những người ở lại.
“Tiếng ai” - tiếng người ở lại hay tiếng người ra đi, nhà thơ không nói rõ nhưng dù là
của ai cũng đều bâng khuâng, bồn chồn không yên. Phải chăng đó là nỗi lòng người
lính khi phải rời xa chốn thân thương này, bồi hồi, lưu luyến không thể cất bước. Tố
Hữu đã sử dụng nghệ thuật hoán dụ vô cùng tinh tế “Áo chàm đưa buổi phân ly”. Áo
chàm là trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc trên vùng cao, dùng hình ảnh
áo chàm để khắc họa lên hình ảnh con người, vừa kín đáo, vừa giàu giá trị nghệ thuật,
Lời thơ trở nên mềm mại, giàu hình ảnh hơn. Trong giờ phút chia tay ấy, mọi người
đứng gần nhau, nắm tay nhau. Bao kỉ niệm, bao lời giãi bày đều không thể cất nên
thành tiếng. Khoảng lặng vô định bỗng chiếm đoạt bầu không gian, là lúc tiếng lòng
cất lời. Chỉ nhìn nhau, chỉ nắm tay nhau cũng đủ hiểu nhau. Đó là biểu hiện của sự
đoàn kết, gắn bó keo sơn suốt bao năm tháng. Chỉ bằng những hình ảnh giản dị, ngôn
ngữ giàu hình ảnh, nhà thơ đã khắc họa nên bức tranh buổi chia tay vô cùng ấm nồng,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
cảm động. Con người, thời gian, không gian như hòa làm một. Tình cảm quân dân,
đồng chí- đồng bào đã trở thành tình yêu đất nước.
Bằng tài năng nghệ thuật cùng tâm hồn nhạy cảm, tha thiết với Cách mạng, Tố hữu đã
tái hiện lại khung cảnh buổi chia tay đầy xúc động của đồng bào dân tộc miền núi với
chiến sĩ khi về xuôi. Từ đó làm ngời sáng lên vẻ đẹp của tình cảm quân dân gắn bó,
thắp lên hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn. Bài văn mẫu 8
Chiến tranh đã mang đến cho con người biết bao mất mát, hy sinh, niềm đau và nước
mắt. Đó là điều mà ai cũng có thể cảm nhận được. Thế nhưng, chính những gian nan
ấy cũng là nền tảng và đòn bẩy để những tình cảm thiết tha, chân thành có cơ hội được
bộc lộ. Trong đó, tình quân nhân là một loại tình cảm cao đẹp và thiêng liêng được
xuất phát từ chính tấm lòng của người lính và nhân dân nơi họ đặt chân đến. Bài thơ
“Việt Bắc” là một khúc ca dạt dào tình cảm của kẻ ở, người đi trong một cuộc chia ly
đầy nghẹn ngào và xúc động.
Năm 1947, chiến dịch Việt Bắc thu đông giành thắng lợi vẻ vang, toàn bộ cơ quan đầu
não phải rời căn cứ để xuống xuôi tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ được
Tố Hữu sáng tác để bày tỏ nỗi niềm lưu luyến và thiết tha của những người lính cũng
như nhân dân vùng núi rừng Việt Bắc. Tám câu thơ đầu của “Việt Bắc” là sự bày tỏ rõ
ràng và sâu sắc nhất cảm xúc của những người có mặt trong cuộc chia ly ấy.
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ chân thành, thấm đượm tình cảm.
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Chỉ tám câu thơ mà có tận bốn chữ nhớ cũng đủ để nói lên nỗi nhớ ấy da diết biết
chừng nào. Nhà thơ dùng “mình-ta” để xưng hô như cách mà những người vợ, người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
chồng hay những người thân thiết gọi nhau. Nhân dân và người lính Việt Bắc, qua
những năm tháng gắn bó, chiến đấu cùng nhau mà tình cảm của họ cũng mặn nồng,
sâu sắc như người thân trong gia đình. Nhà thơ sử dụng lối hát giao duyên như trong
ca dao truyền thống để tạo nên một không khí gần gũi, thân thương và dễ đi vào lòng
người. “Mình về mình có nhớ ta” là câu hỏi mà người ở lại dành cho kẻ ra đi. Câu hỏi
ấy thực ra cũng chẳng cần phải trả lời. Người ở lại như muốn hỏi chính mình, liệu
rằng những người chiến sĩ ấy khi về xuôi thì có còn nhớ về núi rừng, về cuộc sống nơi
bản nhỏ. Mười lăm năm, một quãng thời gian dài đằng đẵng của những năm kháng
chiến. Chính trong thời gian ấy, nhân dân và người lính đã cùng nhau đồng cam cộng
khổ, gắn bó với nhau, chia sẻ và bảo vệ nhau trước những khó khăn, nguy hiểm của
cuộc sống. Người lính về xuôi, liệu rằng khí nhìn cây, nhìn sông họ có nhớ đến rừng
núi chập chùng, có nhớ đến nguồn nước từ trên cao đổ xuống. Những kỉ niệm của
mười lăm năm gắn bó liệu có còn vương lại trong lòng họ hay không? Người dân Việt
Bắc cứ tự đặt ra câu hỏi ấy, vừa để tỏa nỗi nhớ, vừa để thể hiện truyền thống uống
nước nhớ nguồn và lòng yêu thương, đoàn kết của dân tộc.
Sau nỗi nhớ là cảnh chia ly đầy nước mắt.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Cả vùng Việt Bắc sát cánh cùng nhau bỗng nhiên hôm nay lại phải chia lìa. Ai cũng
hụt hẫng, ai cũng mang trong mình nỗi buồn man mác. Ai cũng mong giành được
chiến thắng, nhưng đến khi chiến thắng rồi thì họ lại phải xa nhau. “Tiếng ai” là một
loại âm thanh không rõ từ đâu đến, cũng chẳng rõ là của ai, nhưng nó là tượng trưng
cho tiếng nói của núi rừng và con người đang dạt dào sự nghẹn ngào, tiếc nuối. Giờ
phút chia tay sao trôi nhanh quá. Người lính dẫu không muốn nhưng vẫn phải cất
bước ra đi. Những bước đi cũng họ nặng nề và khó nhọc quá. Nó tiếng về phía trước
nhưng lại không ngừng muốn quay trở lại, không phải xa lìa nơi mà họ đã gắn bó suốt
tuổi trẻ. Những bước chân ấy mang theo the cả nỗi niềm lưu luyến, “bâng khuâng”
cho người ở lại. Trong lòng người đi và kẻ ở là những cảm giác không tên, nghẹn ngào rơi nước mắt.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Và cuộc chia li mỗi lúc lại càng thêm sầu thẳm, quyến luyến.
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Ở hai câu cuối của đoạn một, hình ảnh “áo chàm” hiện lên với những ý nghĩa to lớn.
Nó là đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Bắc đang ra tiễn những anh bộ đội lên
đường về xuôi. Ta bắt gặp cảnh chia tay với những cái bắt tay đầy nghẹn ngào. Họ
cầm tay nhau mà chẳng ai có thể thốt lên một lời từ biệt. Có lẽ, họ muốn được nắm tay
nhau mãi, ở cạnh nhau để cùng sẻ chia những cay đắng cuộc đời. Họ không biết nói gì
không phải không có gì để nói mà vì có quá nhiều những lời sự mà họ không biết bắt
đầu từ đâu, nói như thế nào. Có lẽ, cái nắm tay tình cảm và ánh mắt họ nhìn nhau cũng
đủ để cả hai bên thấu hiểu và cảm thông cho nhau. Họ không nói nhưng tình cảm lại
lan tỏa và được giãi bày qua ánh mắt họ giành cho nhau. Họ không cần nói nhưng ai
cũng cảm nhận được nỗi niềm và sự nhớ thương bởi họ đã quá hiểu nhau suốt mười lăm năm gắn bó.
Bài thơ Việt Bắc và đặc biệt là tám câu đầu đã vẽ nên một cuộc chia ly đầy nước mắt
và để từ đó, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm chân thành và sâu sắc nhất giữa
quân và dân trong những năm chiến đấu gian khổ. Đó là thứ tình cảm cao cả, thiêng
liêng đáng tự hào và gìn giữ suốt cuộc đời. Bài làm mẫu 9
Đến với thơ Tố Hữu, người đọc sẽ cảm nhận được một hồn thơ mang đậm tính dân
tộc. Điều đó được thể hiện trong bài thơ “Việt Bắc” đặc biệt là tám câu thơ đầu của bài thơ.
Tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc thể hiện trước hết ở kết cấu đối đáp kiểu ca dao giao
duyên. Rất nhiều bài ca dao xưa thường dùng kiểu đối đáp để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình:
Mình nói với ai mình hãy còn son
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò
Mình nói với ta mình chửa có chồng
Ta đi qua ngõ mình bồng con ra
Tố Hữu đã vận dụng kiểu kết cấu tuyệt vời ấy trong một bài thơ mà mục đích của nó
không phải để nói tới tình yêu lứa đôi mà là một bài thơ ngợi ca mối quan hệ khăng
khít gắn bó giữa chính phủ cách mạng và quê hương cách mạng với nhân dân Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:
Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ.
Cách xưng hô "mình - ta" được tác giả đã sử dụng từ ngữ diễn tả trong tình cảm quân
dân. Mười lăm năm gắn bó với biết bao tình cảm tha thiết, mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: Đừng quên cội
nguồn Việt Bắc - cội nguồn của cách mạng.
Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm diễn tả trạng thái tâm lý tình cảm:
buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong... lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm
đồng bào Việt Bắc chung sống cùng những người cán bộ chiến sĩ là mười lăm năm
gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỷ niệm chiến đấu. Giờ khi phải chia tay
rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô, biết mang theo điều gì, biết lưu lại
hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả.
"Áo chàm đưa buổi phân li" là một ẩn dụ - màu áo chàm, màu áo xanh đen là màu áo
đặc trưng của người miền núi Việt Bắc - tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh
cụ thể "áo chàm", chiếc áo, màu áo bình dị của vùng quê nghèo thượng du đồi núi
nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước.
Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” đầy tính chất biểu cảm - “không biết
nói gì” không phải không có điều để giải bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói
không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn
nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng.
Như vậy, tám câu thơ đầu của bài thơ “Việt Bắc” đã thể hiện được tình cảm sâu sắc
của đồng bào Việt Bắc và chiến sĩ cách mạng. Đoạn thơ tiêu biểu cho tính dân tộc trong thơ của Tố Hữu. Bài làm mẫu 10
Tố Hữu được biết đến là một nhà thơ cách mạng nổi tiếng của Việt Nam. Một trong
những sáng tác tiêu biểu của ông phải kể đến bài thơ Việt Bắc. Bài thơ được đánh giá
là giàu tính dân tộc và điều đó được thể hiện ở tám câu thơ đầu:
Mình về mình có nhớ ta?
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Bốn câu thơ đầu tiên khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua. Câu thơ mở đầu là một
câu hỏi chứa đựng nhiều cảm xúc: “Mình về mình có nhớ ta?”. Cách xưng hô “mình -
ta” khiến cho giọng thơ trở nên tha thiết. “Mình” chỉ người chiến sĩ cách mạng - người
ra đi. Còn “ta” chỉ đồng bào Việt Bắc - người ở lại. Câu hỏi của người ra đi dành cho
người ở lại, liệu những chiến sĩ cách mạng khi về miền xuôi có còn nhớ đến những
ngày tháng sống ở núi rừng Việt Bắc. Mười lăm năm gắn bó keo sơn, cùng nhau chia
ngọt sẻ bùi, cùng nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Những từ “thiết tha”, “mặn nồng”
như để làm tăng thêm tình cảm giữa “mình” và “ta”. Đó là tình cảm quân dân gắn bó
thủy chung son sắc. Câu thơ tiếp theo giống như một lời nhắc nhở người chiến sĩ cách
mạng: “Mình về mình có nhớ không/Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Khi về
tới miền đồng bằng với những cảnh vật phồn hoa thì cũng đừng quên đi cảnh núi rừng
Việt Bắc. Điệp từ “nhìn” và “nhớ” như muốn khẳng định mong muốn của đồng bào Việt Bắc.
Bốn câu thơ sau là câu trả lời của người chiến sĩ dành cho đồng bào Việt Bắc. Đại từ
phiếm chỉ “ai” gợi ra nhiều cách hiểu, đó có thể là tiếng lòng của đồng bào Việt Bắc
như muốn người chiến sĩ ở lại, cũng có thể là chính tiếng lòng của người chiến sĩ
không muốn xa cách. Các từ “bâng khuâng”, “bồn chồn” thể hiện sự tâm trạng day
dứt, lo lắng của người ra đi. Tiếp đó là hình ảnh chia tay đầy cảm động giữa người
chiến sĩ cách mạng và người Việt Bắc:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
“Áo chàm” là màu áo nâu - màu áo của người nông dân nghèo khổ, cực nhọc, vất vả
quanh năm suốt tháng lao động cần cù để phục vụ cho cách mạng. Hình ảnh hoán dụ
“áo chàm” chính là để chỉ người Việt Bắc trong buổi đưa tiễn người chiến sĩ. Trong
giây phút chia tay, họ “cầm tay nhau” mà nghẹn ngào, lưu luyến “chẳng biết nói gì”.
Dường như mọi lời nói đều trở nên vô nghĩa trước tình cảm của đồng bào Việt Bắc và
những chiến sĩ cách mạng. Việc sử dụng từ “phân ly” chứ không phải là “chia ly”
mang tính biểu tượng cao. Suốt mười lăm năm gắn bó keo sơn, họ dường đã trở thành
một thể thống nhất - một gia đình lớn. Vậy mà nay phải nói lớn từ biệt, chẳng khác
nào bị chia cắt làm đôi, mỗi người một ngả.
Với tám câu thơ đầu tiên, Tố Hữu đã vận dụng khéo léo lối đối đáp giao duyên giữa
“mình” - “ta” kết hợp với giọng điệu thủ thỉ tâm tình thường có trong ca dao, dân ca.
Cũng như thể thơ lục bát, hình ảnh, ngôn ngữ đậm giản dị để thể hiện tình cảm thủy
chung gắn bó của đồng bào Việt Bắc với chiến sĩ cách mạng - truyền thống thủy
chung của người Việt Nam.
Qua phân tích trên có thể thấy được tám câu thơ đầu trong bài thơ “Việt Bắc” mang
đậm tính dân tộc. Đó là một trong những nét đẹp tiêu biểu về nghệ thuật trong thơ Tố Hữu.
Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc đầy đủ Bài văn mẫu 1
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, là cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ
trữ tình chính trị:Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa… Việt Bắc là đỉnh
cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp núi chung. Bài thơ là khúc tình ca
và cũng là khúc hùng ca về cách mạng về cuộc kháng chiến và con người kháng
chiến, mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt
Nam. Toàn bộ bài thơ là một hoài niệm lớn, day dứt khôn nguôi được thể hiện qua
hình thức đối đáp giữa người ra đi và người ở lại : Và đoạn thơ:
“ Mình về mình có nhớ ta
tay nhau biết nói gì hôm nay”
Là một trong những đoạn tiêu biểu cho tình cảm ân nghĩa thủy chung đó. Bài thơ được
làm vào tháng 10.1954, khi TW Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến
khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch
sử ấy, Tố Hữu đó xúc động viết nên bài thơ này. Bài thơ được cấu tạo theo lối đối đáp
giao duyên của ca dao dân ca: Đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa
mặn nồng nay phải chia tay nhau kẻ đi người ở. Cả bài thơ tràn ngập nỗi nhớ. Nỗi nhớ
trong kẻ ở và người đi trong câu hỏi và trong cả lời đáp. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại cồn cào da diết.
Ở bốn câu thơ đầu dường như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, người ở lại lên tiếng
trước, căn vặn người ra đi về tấm lòng chung thuỷ:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
…Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Giọng thơ như tuôn chảy từ trong nguồn mạch của ca dao dân ca. Lối xưng hô “Mình
_ ta” ngọt ngào tha thiết như tình yêu đôi lứa. Nhưng mình ở đây không ai khác chính
là người ra đi, là cán bộ kháng chiến chuẩn bị về xuôi. Còn ta là người ở lại, là những
người dân Việt Bắc ân tình chung thủy. “Mình về mình có nhớ ta”. Liệu mình – những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
người cán bộ chiến sĩ sau khi chiến thắng về chốn phồn hoa đô hội có còn nhớ đến
đồng bào và mảnh đất Việt Bắc với những tháng năm gian khổ đã từng đùm bọc và
che chở cho họ trước đây không. Cách xưng hô “mình- ta” cứ như lời bày tỏ tình yêu
đôi lứa trong dân gian Và Tố Hữu đã mượn cách nói thân mật ấy để lý giải cho mối
quan hệ gắn bó giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân. Vì thế lời thơ không bị khô
cứng mà ngọt ngào êm ái.
“Mười lăm năm ấy”, Con số vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười
lăm năm các mạng. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười
lăm năm gắn bó thuỷ chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc . Câu thơ
mang dáng dấp một câu Kiều :
Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.
Cách dùng những từ ngữ gợi ý niệm về thời gian “mười lăm năm…” làm cho nỗi nhớ
càng thêm da diết : Không biết mình còn nhớ hay đã quên, chứ ta thì ta không thể
quên được những tháng năm ấy. Và cũng để rõ thêm tấm lòng của người ra đi, kẻ ở đã khéo gợi ra cảnh
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Nghĩa tình giữa ta và mình bắt nguồn từ những lý lẽ hiển nhiên giống như đạo lý uống
nước nhớ nguồn của dân tộc vậy. Liệu mình có giữ được tấm lòng chung thuỷ trước
những cám dỗ mới của cuộc đời không? Đó cũng chính là tâm trạng, là nỗi lòng băn
khoăn của “người ở lại”, của “ta”. → Cách liên tưởng so sánh trên không chỉ mở rộng
không gian của nỗi nhớ, mà còn làm cho kỷ niệm cứ như tuôn trào tầng tầng lớp lớp.
Các cặp hình ảnh “ cây-núi”; “sông-nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang
nghĩa ảo.Nó không chỉ gợi ra không gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc
thù. Mà nó còn nói lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ
dân mà ra. Nhớ về nhân dân, như nhớ về cội nguồn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Các từ “mình” “ta”, câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ …” được láy lại 2 lần làm
cho nỗi nhớ niềm thương cứ dâng lên mãi trong lòng của người đi và kẻ ở.
Và để đáp lại sự băn khoăn của người ở lại là tiếng lòng của người ra đi.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Đại từ “ai” phiếm chỉ tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ ( như cách bày
tỏ trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…) Hoá ra người đi cũng cùng một tâm trạng, cùng
một tình nghĩa chung thuỷ như bạn mình : Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn
vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt
Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm
đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp
quản tại thủ đô Hà Nội (10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào ?
Tác giả đã sử dụng một loạt những từ láy, những từ chỉ trạng thái tình cảm của người
đang yêu để giãi bày tình cảm không nói lên lời của người ra đi cũng thuỷ chung tình
nghĩa như tấm lòng người ở lại vậy.
Một thời gắn bó, một thời thủy chung, nay ta và mình chia xa :“Áo chàm đưa buổi
phân li”.Áo chàm” không đơn thuần là chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của
vùng quê nghèo thượng du đồi núi mà nó đã được hoán dụ trở thành biểu tượng cho
nhân dân Việt Bắc thuỷ chung sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự
nghiệp kháng chiến cứu nước. Nay kẻ đi người ở, hỏi sao không bồi hồi xúc động :
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
Câu thơ …”đầy tính chất biểu cảm . Nó gợi ra cảnh bịn rịn luyến lưu tay trong tay mà
không nói lên lời của đôi trai gái yêu nhau để từ đó tác giả như khắc sâu thêm tình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
cảm gắn bó thắm thiết, thuỷ chung của người miền xuôi đối với người miền
ngược.“Biết nói gì” không phải không có điều để giãi bày mà chính là vì có quá nhiều
điều muốn nói mà không biết phải bắt đầu từ đâu, nên nói điều gì. Ba dấu chấm lửng
đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuông nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…Trong
buổi chia ly, mặc dù chưa biết nói gì với kẻ ở lại nhưng thực ra người ra đi đã nói
được rất nhiều điều. Bởi im lặng cũng là một thứ ngôn ngữ của tình cảm
Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả một cách thân tình cái ngập
ngừng , bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở. Kỷ vật trao rồi mà mà
lòng vẫn quyến luyến không thể rời xa.
Qua bài văn cảm nhận 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc, chúng ta thấy được nỗi lòng thương
nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ là biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng
điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con
người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi
phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son
sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với “Việt Bắc” Bài văn mẫu 2
Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của
thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao
của thơ ca kháng chiến chống Pháp. 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc đã tái hiện niềm
thương nỗi nhớ, cũng chính là niềm trăn trở chung của đồng bào ta trong lần chia tay lịch sử.
Tính dân tộc là những dấu ấn độc đáo, không lặp lại, biểu hiện những gì là bản sắc, là
những nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc. Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính
nhưng đồng thời cũng là thước đo giá trị của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm
văn chương lớn từ trước cho đến nay. Mà những tác phẩm vừa mang tính nhân loại,
vừa mang tính dân tộc sâu sắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về
nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề hiện thực
đời sống cách mạng nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, những tình cảm chính
trị có sự gắn bó, hòa nhập với truyền thống tình cảm và đạo lí của dân tộc, khát vọng
và ý chí của một dân tộc. Về hình thức nghệ thuật, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng
tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc (cách so sánh, ẩn dụ, hiện tượng chuyển nghĩa, cách
diễn đạt gần với ca dao dân ca). Nếu hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách
nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại, khơi gợi kỉ niệm về
một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội nghĩa tình, thể hiện tâm trạng nhớ
thương, tình cảm gắn bó, thủy chung của quê hương Việt Bắc, con người Việt Bắc
dành cho người về xuôi. Ở đây, nhà thơ sử dụng thành công những hình ảnh đối đáp kiểu dân gian:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Khung cảnh chia tay bịn rịn giữa kẻ ở và người về. Cách xưng hô “mình – ta”: thân
mật gần gũi như trong ca dao. Điệp từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng. Cách
xưng hô “mình – ta” : thân mật gần gũi như trong ca dao. Điệp cấu trúc “mình về
mình có nhớ” : lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha
mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.
Người ở lại đặt câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi
trong người ra đi những kỷ niệm về ” mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười
lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954, là
mười lăm năm “Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi”, là mười lăm năm có phúc cùng
hưởng, có họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai”…
làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa
Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Có lẽ vì thế nên nhà
nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã cho rằng: ” “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ
thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.
“Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Lại một câu hỏi tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội
rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt
Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành: Việt Bắc là cội nguồn cách
mạng, “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc
kháng chiến. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ
Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các
thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
Hai câu hỏi đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi
nhớ về không gian: sông, núi, nguồn. Đó là khoảng thời gian gắn bó biết bao kỉ niệm
của người dân Việt Bắc với người lính.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Bốn câu thơ là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi: tâm trạng bâng
khuâng, bồn chồn đầy lưu luyến, bịn rịn của người kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc.
Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “bồn chồn” thể hiện sự không yên tâm
trong dạ, không nỡ rời bước. Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân thương
giản dị. Cử chỉ “cầm tay nhau” thay lời nói chứa đầy cảm xúc. Không khí buổi chia
tay thân tình, gần gũi, bịn rịn không muốn chia xa.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Lời người ở lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới hình thức
những câu hỏi: nhớ về Việt Bắc cội nguồn quê hương cách mạng, nhớ thiên nhiên
Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình…
Nếu như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi
nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha
thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ
“ai” để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. Ai có thể là đại từ để hỏi
nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất gần cách nói của ca dao: “Nhớ ai bổi hổi
bồi hồi” Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá
trị biểu cảm của từ “ai”. Một chữ “ai” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người
đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc đến chừng nào và hiểu nỗi
niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mạng, đối với người miền xuôi. Một
chữ “ai” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất
ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Hai từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn” góp phần làm tăng thêm tâm trạng người ra
đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại “Bước đi một bước lâu lâu lại dừng”
để rồi “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Không biết nói gì phải chăng là vì có quá
nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ân nghĩa, sắt son chẳng thể nào dùng ngôn từ để diễn tả,
đành phải gửi tâm tình qua cái năm tay thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của
yêu thương đoàn kết. Chỉ cần cầm tay nhau thôi và hãy để hơi ấm nói lên tất cả, yêu
thương, nhung nhớ, nghĩa tình sẽ ấm mãi như hơi ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu
chấm lửng ở cuối câu như càng làm tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận.
Nó như nốt lặng trong một khuông nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Qua
đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm
chất dân tộc: ân nghĩa, thủy chung, son sắt.
Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục
bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mạng. Từ xưa đến
nay lục bát vốn là thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Nếu dùng để diễn đạt tình cảm thì không còn gì hay bằng. Hay hơn nữa nhà thơ đã
khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc trong ca dao dân ca.
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm tinh
thần dân tộc. Bên cạnh đó ngôn ngữ là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn
dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là ngôn ngữ. Ngôn
ngữ thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta
vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu đôi lứa.
Tính dân tộc về mặt hình thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình sông :”
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là hình ảnh chiếc áo chàm trong “buổi
phân li”. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc nghĩa tình nhưng cũng
rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào
hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”.
Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên bình diện nghệ thuật mà còn đậm nét
qua nội dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh
đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mạng; đã đưa những tư
tưởng tình cảm cách mạng hòa nhịp và tiếp nối truyền thống tinh thần, tình cảm đạo lý dân tộc.
Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố
Hữu đã viết nên một bản tình ca, anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Nghĩa tình sâu
nặng của người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc, của quần chúng đối với cách
mạng trong thơ Tố Hữu là sự kế thừa tình cảm, đạo lý sống của con người Việt Nam
“Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành
một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.
Đoạn thơ nói riêng và bài thơ Việt Bắc nói chung là minh chứng cho sự thành công
của thơ Tố Hữu trong việc kết hợp hai yếu tố: Cách mạng và Dân tộc trong hình thức
đẹp đẽ của thơ ca. Tính dân tộc là một trong những đặc điểm nổi bật làm nên phong
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
cách thơ Tố Hữu. Thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp của thơ ca truyền thống nhưng vẫn mang
đậm hồn thơ của thời đại cách mạng. Bài văn mẫu 3
Những tên địa danh, đối với Địa lý chỉ đơn giản là một địa điểm, một đối tượng phân
tích nhưng với Văn học, nó là cả một miền nhớ, miền ký ức và là nơi khơi nguồn cảm
xúc. Tây Tiến. Sông Đuống, Kinh Bắc,... đã trở thành một miền thơ, là ký ức về một
những năm tháng không thể nào quên của dân tộc. Việt Bắc cũng là một địa danh như
thế. “Việt Bắc” chính là bản hùng ca, khúc tình ca về cuộc sống kháng chiến và con
người kháng chiến. Ngay trong tám câu thơ đầu đã thể hiện được những điều đó:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp quay trở lại nước ta đã kết thúc
thắng lợi. Hòa bình được lặp lại, nửa đất nước được giải phóng. Tháng 10 năm 1954,
Hà Nội được giải phóng, trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại
thủ đô. Lịch sử dân tộc bước sang một trang mới. Ở thời khắc này, người ta có nhu
cầu nhìn lại chặng đường vừa qua, đồng thời hướng về con đường tương lai để bước
tiếp. Bài thơ “Việt Bắc” ra đời để đáp ứng nhu cầu ấy của xã hội, là tiếng lòng của
đồng bào mọi người. “Việt Bắc” là bản trường ca đầy ân tình - tình quê hương, tình
đất nước, nghĩa tình giữa con người. Vì thế bài thơ là một bản tổng kết lịch sử bằng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
tâm tình. Bởi là một chặng đường dài nên từ những câu thơ này đến dòng thơ sau đều
có sự phát triển và vận động, mang ý nghĩa riêng của nó.
Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại gửi tới người ra đi:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Ta lại bắt gặp lối đối đáp “mình - ta” quen thuộc trong những câu hát giao duyên của
lứa đôi, giữa “bến - thuyền”, “mận - đào”. Điệp cấu trúc: “Mình về, mình có nhớ....”
là câu hỏi hay là sự gợi nhắc đầy ý tứ, ý tình. Nghe đâu đây những câu hát ân nghĩa ngày xưa như vọng về:
Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền Hay:
Chàng về để áo lại đây
Phòng khi em đắp gió Tây lạnh lùng...
Lối đối đáp mình - ta với âm điệu ngọt ngào, thiết tha làm cho những câu thơ bỗng trở
nên mềm mại, như cũng vấn vương nỗi lưu luyến, nhớ nhung. Tình quân - dân, vấn đề
chính trị khô khan, từ bao giờ lại được trữ tình hóa, trở nên da diết và nồng nàn như
tình yêu đôi lứa, đó chính là nhờ ngòi bút của nhà thơ Tố Hữu. “Mười lăm năm”
không chỉ là khoảng thời gian địa lí, nó kí ức, là một phần thanh xuân của biết bao con
người, của cả dân tộc. Một chữ “ấy” thôi, không cụ thể nhắc đến thời gian nào nhưng
lại mở ra muôn vàn ý nghĩa. Mười năm năm của thời gian: từ những ngày thành lập ở
Cao Bằng, những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc đến chiến thắng vang dội của Hồng
Thái, Tân Trào... Mười năm năm ân tình, ân nghĩa của đồng đội, quân - dân của những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
ngày tháng “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, “miếng cơm chấm muối mối thù
nặng vai”. Mất đi một chút rõ ràng để thêm nhiều tầng ý vị và tình cảm chính là như
thế. Người ở lại còn gợi nhắc về những ân tình, thủy chung - đạo lí dân tộc: “Nhìn cây
nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Những thành ngữ, chất liệu dân gian, qua ngòi bút tài
hoa Tố Hữu, vừa mang hơi thở thời đại, vừa giữ được tính dân tộc của nó: “cây - núi”,
“sông - nguồn”. Đó chẳng phải là câu thành ngữ quen thuộc: “Uống nước nhớ nguồn”
đó sao? Bốn dòng thơ, cho 15 năm dằng dặc, vất vả mà hào hùng. Bốn dòng thơ cho
những nghĩa tình không bao giờ nói hết. Bốn dòng thơ cho những da diết, luyến lưu
không lỡ rời. Bốn dòng thơ cho cả lẽ sống cần có, bây giờ và mãi về sau: ân tình, thủy
chung, uống nước nhớ nguồn...
Bốn câu thơ tiếp theo là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến, nhớ nhung của kẻ ở người đi:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Người ra đi bịn rịn, nhớ nhung, ngập ngừng mà lưu luyến khiến từng bước chân còn
vương vấn mãi những âm thanh mơ hồ: “tiếng ai”. Đó là tiếng người ở lại hay tiếng
vọng từ trong tâm tưởng người ra đi. Không gian từ ngoại giới: “bên cồn” chuyển vào
“trong dạ” rồi “bồn chồn bước đi” từ hữu hình đến vô hình. Hữu hình hóa cái vô hình,
ngoại giới hóa nội tâm càng làm bước đi thêm ngập ngừng, chầm chậm chẳng muốn
rời. Những bước chân ngập ngừng ấy ta đã bắt gặp trong giây phút chia phút chia li
của “chàng” và “nàng” trong “Chinh phụ ngâm”:
Bước đi một bước giây giây lại dừng
Nhưng ở đây lại là tình đồng chí, nghĩa đồng bào, thắm thiết và vấn vương tha thiết.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Từ âm thanh mơ hồ ấy, Tố Hữu đề cập đến hình ảnh cụ thể đến nao lòng: “áo chàm
đưa buổi phân li”. Nói tới “áo” trong buổi chia ly là Tố Hữu đã trở về với ngọn nguồn dân tộc:
Áo xông hương để chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp dành hơi (Ca dao)
Người về để áo lại đây
Phòng khi em đắp gió Tây lạnh lùng (Ca dao)
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san (Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Nhưng chiếc áo trong thơ Tố Hữu không phải áo xông hương đài các hay áo bào sang
trọng mà chỉ là “áo chàm” giản dị một sắc nâu. Đó không phải cái cầm tay “Nhủ rồi
tay lại cầm tay” (Chinh phụ ngâm, Đoàn Thị Điểm) của nghĩa phu thê hay của tình
đồng chí, đồng đội: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
mà là cái nắm tay của tình đồng chí, đồng bào. Dấu “…” như khoảng trống, khoảng
trắng vô ngôn mà hữu ý, dư tình. Đôi khi, không nói là để nói được nhiều nhất. Đôi
khi, ngôn ngữ cũng bất lực trước tình cảm mênh mông của con người.
Đoạn thơ của Tố Hữu chỉ tám câu mà gợi lên nghĩa tình bao kể xiết: tình quân dân cá
nước, tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Những tình cảm chính trị được đưa vào thơ một
cách rất tự nhiên, ý tình khiến cho thơ có “thép” mà không cứng, nói về lẽ sống lớn
dân tộc mà không sa vào giáo điều, khô khan. Có được hiệu quả ấy chính là nhờ
những câu thơ với lối nói dân gian gần gũi, giọng điệu tâm tình nhẹ nhàng với ngôn
ngữ, hình ảnh trở về với cội nguồn dân tộc mà vẫn mang hơi thở thời đại càng làm cho
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
đoạn thơ thêm hấp dẫn. Và chính những tình cảm ấy là động lực, là hậu phương cho
con người Việt Nam vượt qua mưa bom bão đạn mà làm nên những chiến thắng
“Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Phải chăng, Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu
tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ?
Xin mượn lời của nhà thơ - nhà phê bình một thời cùng Tố Hữu sống và viết, Chế Lan
Viên, để làm lời kết: “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình,
muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì
cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà
biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.” Bài văn mẫu 4
“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn…” (Vân chữ, Lê Đạt)
Cái “vân chữ không trộn lẫn” của nhà thơ hay của một nhà văn thứ thiệt mà Lê Đạt
nhắc đến ở đây chính là phong cách tác giả, là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ
qua tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả. Là lá cờ đầu của thơ
ca Cách mạng, Tố Hữu xuất hiện giữa làng thơ với một phong cách thơ độc đáo, hấp
dẫn, đó chính là tính trữ tình chính trị sâu sắc, đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Kết tinh vẻ đẹp độc đáo ấy của thơ Tố Hữu phải kể đến “Việt Bắc” - bản anh hùng ca,
cũng là bản tình ca về cách mạng kháng chiến và con người kháng chiến. Làm nên
“Việt Bắc” - một bản tình ca thấm đẫm màu sắc dân tộc phải kể đến tám câu thơ đầu của tác phẩm:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản. Ông đến với thơ ca và cách mạng cùng một
lúc. Vì vậy cho nên chặng đường thơ của ông luôn song hành với những chặng đường
cách mạng mà lộng gió thời đại với những tập thơ: “Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra
trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn, Ta với ta”. Trong đó có thể nói “Việt Bắc” là đỉnh
cao của thơ ca Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ Việt Bắc
được trích từ tập thơ cùng tên và được sáng tác vào tháng 10 năm 1945, khi Trung
ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà
Nội. Lấy cảm cảm hứng từ buổi chia tay ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này.
Tính dân tộc của bài thơ thể hiện ở cả nghệ thuật lẫn nội dung và thể hiện sâu sắc nhất là ở tám câu thơ đầu.
Tính dân tộc dân tộc là một khái niệm thuộc phạm trù tư tưởng- thẩm mĩ chỉ mối quan
hệ văn học và dân tộc, thể hiện qua tổng thể những đặc điểm độc đáo tương đối bền
vững chung cho các sáng tác của một dân tộc được hình thành trong quá trình phát
triển của lịch sử và phân biệt so với các dân tộc khác. Tính dân tộc được thể hiện
xuyên suốt từ nội dung đến hình thức.
Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục
bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mạng. Từ xưa đến
nay lục bát vốn là thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó.
Nếu dùng để diễn đạt tình cảm thì không còn gì hay bằng. Hay hơn nữa nhà thơ đã
khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc trong ca dao dân ca:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng có lối ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm tinh
thần dân tộc. Bên cạnh đó ngôn ngữ là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn
dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là ngôn ngữ. Ngôn
ngữ thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta
vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu đôi lứa:
Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ
Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tình yêu đôi lứa.
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
“Mình” trên câu thơ trên chỉ người ra đi, còn “ta” là người ở lại. Dường như đây
không còn là cuộc chia ly giữa đồng bào và cách mạng mà nó đã trở thành buổi chia ly
của đôi lứa yêu nhau mặn nồng da diết. Qua đó ta mới mới phần nào thấm thía cái tình
cảm mặn nồng, keo sơn của quân dân ta trong những buổi đầu đầu kháng chiến gian
khổ, khó khăn. Dù bị cách trở bởi không gian và thời gian nhưng dường như cảm xúc
từ trái tim đã nâng đỡ họ vượt qua mọi rào cản để trong tâm hồn “như chưa hề có cuộc
chia ly”. Tính dân tộc về mặt hình thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình
sông :” Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là hình ảnh chiếc áo chàm trong
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
“buổi phân li”. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc nghĩa tình
nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc Việt
Nam vừa hào hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên
ngang mà nhân ái chan hòa”.
Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên bình diện nghệ thuật mà còn đậm nét
qua nội dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh
đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mạng; đã đưa những tư
tưởng tình cảm cách mạng hòa nhịp và tiếp nối truyền thống tinh thần, tình cảm đạo lý dân tộc.
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Người ở lại đặt câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi
trong người ra đi những kỷ niệm về “ mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười
lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954, là
mười lăm năm “Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi”, là mười lăm năm có phúc cùng
hưởng, có họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai” làm
sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt
Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Có lẽ vì thế nên nhà nghiên
cứu Nguyễn Đức Quyền đã cho rằng: “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng thước đo
thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ thuốc thử làm
tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Lại một câu hỏi tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội
rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt
Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành: Việt Bắc là cội nguồn cách
mạng, “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
kháng chiến. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ
Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các
thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Nếu như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi
nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha
thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ
“ai” để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. Ai có thể là đại từ để hỏi
nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất gần cách nói của ca dao: “Nhớ ai bổi hổi
bồi hồi” Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá
trị biểu cảm của từ “ai”. Một chữ “ai” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người
đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc đến chừng nào và hiểu nỗi
niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mạng, đối với người miền xuôi. Một
chữ “ai” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất
ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” Hai từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn” góp phần
làm tăng thêm tâm trạng người ra đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại
“Bước đi một bước lâu lâu lại dừng” để rồi “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
Không biết nói gì phải chăng là vì có quá nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ân nghĩa, sắt
son chẳng thể nào dùng ngôn từ để diễn tả, đành phải gửi tâm tình qua cái nắm tay
thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của yêu thương đoàn kết. Chỉ cần cầm tay
nhau thôi và hãy để hơi ấm nói lên tất cả, yêu thương, nhung nhớ, nghĩa tình sẽ ấm
mãi như hơi ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu chấm lửng ở cuối câu như càng làm
tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận. Nó như nốt lặng trong một khuông
nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Qua đó con người Việt Nam hiện lên thật
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc: ân nghĩa, thủy chung, son sắt.
Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố
Hữu đã viết nên một bản tình ca, anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Để rồi Việt Bắc
đã thực sự trở thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên. Bài văn mẫu 5
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông mang khuynh hướng sử
thi và cảm hứng lãng mạn, đậm chất trữ tình. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông
đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị như tập thơ “Từ ấy”, “Máu và hoa” trong đó tiêu
biểu nhất là bài thơ “Việt Bắc” trích trong tập thơ “Việt Bắc”. Bài thơ đã thể hiện một
cách thành công về nỗi nhớ nhung, tâm trạng bồi hồi, lưu luyến trong buổi chia tay
của người Việt Bắc với cán bộ cách mạng. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
Mình về mình có nhớ ta?
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Việt Bắc là căn cứ địa cách mạng, là cái nôi kháng chiến. Sau chiến thắng Điện Biên
Phủ tháng 7 năm 1954, hiệp định Giơ ne vơ được ký kết. Tháng 10 năm 1954, Đảng
và chính phủ rời chiến khu Việt bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử ấy Tố Hữu đã
viết bài thơ “Việt Bắc”.
Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ chứa nhiều cảm xúc:
Mình về mình có nhớ ta?
“Mình” là chỉ người ra đi - người chiến sĩ cách mạng, “ta” chính là người Việt Bắc.
Câu hỏi chính là lời của người ở lại hỏi người ra đi rằng khi người chiến sĩ cách mạng
về xuôi rồi còn có nhớ đến người Việt Bắc hay không? Với cách xưng hô “mình - ta”
đậm chất ca dao cùng với điệp từ mình đã cho ta thấy được tình cảm gắn bó thân thiết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
đầy yêu thương, làm cho nỗi nhớ càng trở nên day dứt khôn nguôi. Người Việt Bắc
muốn hỏi người kháng chiến có nhớ:
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mười lăm năm là từ chỉ thời gian, là khoảng thời gian gắn bó keo sơn giữa người
chiến sĩ và người Việt Bắc. Đó là một khoảng thời gian dài cùng nhau chiến đấu, cùng
nhau vượt qua biết bao gian khổ. Từ “ấy” vang lên chứ tác giả không sử dụng từ “đó”
như để làm tăng thêm ý nghĩa của khoảng thời gian “mười lăm năm” đồng thời thể
hiện sự trân trọng của tác giả với những ngày tháng gắn bó. Những từ “thiết tha”,
“mặn nồng” là những từ nhấn mạnh tình cảm gắn bó keo sơn giữa người Việt Bắc và
người cách mạng. Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh hơn về tình nghĩa thủy chung son
sắt luôn hướng tới cách mạng, hướng tới những người chiến sĩ của người dân Việt Bắc.
Câu thơ tiếp theo như một lời nhắc nhở đối với người chiến sĩ cách mạng:
Mình về mình có nhớ không?
Vẫn là câu hỏi tu từ, vẫn là cách xưng hô “mình” nhưng đây là câu hỏi vang lên như
một lời nhắc nhở “có nhớ không”. Người Việt Bắc muốn nhắc nhở người chiến sĩ
cách mạng về xuôi hãy nhớ đến Việt Bắc, hãy:
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Khi về tới Hà Nội, người cách mạng khi nhìn thấy cây ở Hà Nội phồn hoa thì hãy nhớ
đến núi rừng nơi Việt Bắc. Hãy nhớ nơi gắn bó thủy chung son sắc, nơi người cách
mạng và người Việt Bắc đã cùng chiến đấu, cùng nhau vượt qua bao gian khổ. Khi
nhìn thấy sông thì hãy nhớ đến nguồn, hãy nhớ đến sông núi Việt Bắc, nhớ đến những
dòng sông cùng các chiến sĩ cách mạng chiến đấu. Hay đó chính là lời nhắc nhở của
người Việt Bắc đối với người chiến sĩ cách mạng khi trở về xuôi nhìn thấy cảnh vật
nơi phồn hoa đô thị tươi đẹp ấy thì hãy nhớ đến con người Việt Bắc, nhớ đến những
ngày tháng chiến đấu gian khổ nơi núi rừng đầy hiểm trở, cheo leo. Điệp từ “nhìn” và
“nhớ” dường như đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại. Mong muốn những người cách
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
mạng luôn nhớ về nơi Việt Bắc. Nơi có những con người sắt son, thủy chung, luôn
mong nhớ về người cách mạng.
Bốn câu thơ đầu tiên là lời của người Việt Bắc hỏi người cán bộ về xuôi. Với lối đối
đáp cách xưng hô “mình - ta” kết hợp sử dụng biện pháp điệp từ cùng với từ láy, đặc
biệt là kết hợp với câu hỏi tu từ đã cho thấy được tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng,
thủy chung son sắt của người Việt Bắc. Qua đó ta có thể cảm nhận được phẩm chất tốt
đẹp của con người nơi đây. Dù phải sống trong khó khăn, đồi núi hiểm trở, thiếu thốn
nhưng tình yêu của họ đối với người chiến sĩ là không hề thay đổi, luôn luôn cồn cào, da diết và mãnh liệt.
Vẻ đẹp của đoạn thơ không chỉ là lời của người Việt Bắc mà còn là câu trả lời của
người cách mạng dành cho Việt Bắc:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Với đại từ nhân xưng “ai” đó chính là tiếng lòng của người Việt Bắc vang vọng như
muốn gọi người chiến sĩ ở lại, hay đó chính là tiếng lòng của người chiến sĩ không
muốn chia xa. Từ “tha thiết” như làm cho tiếng gọi đó vang vọng hơn, sâu lắng hơn,
làm cho ta cảm nhận được tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ cách mạng như vô
cùng sâu nặng. Câu thơ tiếp theo càng làm rõ hơn điều đó:
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” chính là để chỉ tâm trạng người ra đi. “Bâng
khuâng” là trạng thái lưu luyến day dứt, như còn lâng lâng một điều gì đó sâu sắc lắm
trong tình cảm của mình. Nó khiến cho tâm trạng của con người day dứt đến khó chịu
còn “bồn chồn” là chỉ sự ray rứt trong tâm trạng của con người như lo lắng điều gì đó.
Tất cả đã tạo nên tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng về xuôi, khi trở về xuôi vẫn
còn mang trong mình nỗi nhung nhớ, ray rứt khôn nguôi, cả sự lo lắng trong tâm trạng
của người cán bộ cách mạng. Qua đó ta có thể cảm nhận được tình cảm của người
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
cách mạng đối với Việt Bắc cũng sâu nặng không kém gì tình cảm của người Việt Bắc dành cho họ.
Hai câu thơ cuối là hình ảnh chia tay đầy nước mắt giữa người chiến sĩ cách mạng và người Việt Bắc:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
“Áo chàm” là màu áo nâu, là màu áo của người nông dân nghèo khổ, cực nhọc, vất vả
quanh năm suốt tháng lao động cần cù để phục vụ cho cách mạng. Hình ảnh hoán dụ
“áo chàm” chính là để chỉ người Việt Bắc. Những người Việt Bắc ra tiễn những người
cách mạng về xuôi trong một tâm trạng day dứt, bâng khuâng. Từ “phân li” như thể
hiện buổi chia tay ấy như là sự chia cắt. Dường như họ không muốn rời xa nhau
nhưng do hoàn cảnh họ phải chia ly, xa rời nhau mỗi người một nơi. Qua đó thể hiện
nỗi tiếc thương nhung nhớ, khẳng định tình cảm gắn bó sâu đậm của người Việt Bắc
và người chiến sĩ cách mạng. Tình cảm ấy được khẳng định rõ ràng hơn trong câu thơ cuối:
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Không phải không có gì để nói mà là có quá nhiều điều để nói, không thể nói hết và
không biết nói điều gì đầu tiên, từ “biết nói gì” đã thể hiện điều đó. Mười lăm năm
gắn bó keo sơn, mười lăm năm cùng nhau vượt qua bao khó khăn gian khổ tình cảm
của họ quá sâu đậm, có quá nhiều điều để nói nhưng những lời nói ấy tại sao không
thốt nên lời, nó cứ nghẹn lại trong cổ họng mà thứ trào ra chỉ có nước mắt của sự chia
ly. Không nói ra được họ chỉ biết cầm tay nhau, chỉ hành động “cầm tay” thôi đã cho
ta cảm nhận thấy tình yêu thương mặn nồng giữa họ. Hành động “cầm tay” thay cho
những lời nói yêu thương, những lời gửi gắm, tình cảm giữa họ dường như được
truyền hết qua hành động ấy. Đó còn là sự thể hiện tình cảm, tâm trạng chưa xa đã
nhớ của người chiến sĩ cách mạng và đó cũng chính là tiếng lòng của họ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Tám câu thơ ngắn gọn nhưng mang biết bao ý nghĩ. Qua đó cho ta cảm nhận sâu sắc
về tình cảm thủy chung son sắt, gắn bó sâu nặng giữa người Việt Bắc và người cán bộ
cách mạng về xuôi. Qua đó ta thấy được tâm trạng bồi hồi lưu luyến day dứt của họ.
Không chỉ thành công về nội dung, đoạn thơ còn thành công về nghệ thuật. Với lối đối
đáp, cách xưng hô mình - ta, điệp từ, điệp ngữ cùng với hình ảnh hoán dụ, từ láy, ngôn
từ bình dị, đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Qua đoạn thơ ta đã cảm nhận được một cách rõ nét tình cảm, tấm lòng, tình yêu
thương mà người Việt Bắc và người cán bộ cách mạng dành cho nhau. Tám câu thơ
trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Những ân tình ấy sẽ sống mãi trong lòng người đọc hôm nay và mai sau. Bài làm mẫu 6
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Ông là một tượng đài về thể thơ
lục bát. Nhắc tới ông, người đọc liền nghĩ ngay tới “Việt Bắc” – một bản tình ca dạt
dào cảm xúc để lại trong lòng người đọc một cảm xúc khó diễn tả được. Mỗi câu thơ
như vẽ ra một khung cảnh rất đỗi bình dị của quê hương, đất nước, con người mà nơi
ấy ân nghĩa, sự thủy chung như làm điểm nhấn nổi bật trên tất cả. Bài thơ “Việt Bắc”
cũng thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
“Việt Bắc” được sáng tác vào tháng 10 tháng 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và
Chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán
bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về
xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.
Tính dân tộc được thể hiện ở hai phương diện, nội dung và hình thức. Trước hết về
mặt nội dung bài thơ thể hiện ở những khía cạnh sau, hình ảnh chiếc “áo chàm” rất đỗi giản dị, tự nhiên:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
“Áo chàm” là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc anh hùng nhưng chân thực.
Câu thơ như đang ca ngợi tình người của con người Việt Nam. Từ những con người
xa lạ không quen biết, chiến tranh đã kéo đẩy họ lại gần với nhau để giờ đây kỉ niệm
tưởng chừng ngắn ngủi như lại dài đằng đẵng ấy vô thức còn đọng lại trong tâm trí
của họ. Bài thơ là cuộc đối thoại “mình – ta” vừa ngọt ngào, vừa sâu lắng:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Khoảng thời gian mười lăm năm xảy ra biết bao nhiêu biến cố, thăng trầm của lịch sử
để cho tình nghĩa giữa chiến sĩ và người dân Việt Bắc ngày một gắn bó keo sơn.
Bên cạnh đó, hình ảnh chiến sĩ cách mạng hiện lên cũng rất chân thực, mang đậm tính
dân tộc. Trong giờ phút chia ly, họ bịn rịn không nỡ rời xa:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Chỉ một cái “nắm tay” nhưng sao khó nói nên lời tới vậy. Cầm tay như truyền thêm cả
sức mạnh, cả hơi ấm của người ở lại cho người ra đi. Họ một lòng một dạ thủy chung son sắt:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Hình ảnh “mình” lặp đi lặp lại mang dụng ý của tác giả. Người chiến sĩ và người dân
Việt Bắc họ như hòa quyện lại làm một không phân biệt rạch ròi được. Ân nghĩa sâu
nặng giữa họ không thể đong đếm. Rời xa Việt Bắc người chiến sĩ mang trong mình
bao nỗi nhớ, nhớ về thiên nhiên hùng vĩ, nhớ về tình người Việt Bắc. Tuy nhiên họ
vẫn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời.
Song song với hình ảnh con người, hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc cũng
hiện lên cũng mang đậm tính dân tộc. Bức tranh tứ bình đã được ngòi bút của Tố Hữu
tô vẽ thêm thắt một cách sinh động và hấp dẫn, lôi cuốn:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Con người và thiên nhiên như hòa quyện lại với nhau. Thiên nhiên làm nền cho sự
xuất hiện của con người. Nếu như câu lục là thiên nhiên thì câu bát là sự xuất hiện của
con người. Tưởng chừng như hai hình ảnh này không liên quan đến nhau nhưng
không phải như vậy. Mà con người tô điểm cho thiên nhiên thêm đẹp, thêm rực rỡ
hơn. Con người xua đi cái lạnh giá của thiên nhiên, hòa mình vào với thiên nhiên để
làm những công việc thường ngày nhưng hết sức đẹp đẽ, nên thơ.
Việt Bắc trong thơ Tố Hữu còn hiện lên với những địa danh lịch sử hào hùng, tráng lệ:
Tân Trào, Hồng Thái, Ngòi Thia sông Đáy, sông Lô, Núi Hồng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Có thể thấy, cảnh và người trong bài thơ Việt Bắc hiện lên rất thân thương giản dị mà
giàu tình người, đậm đà tính dân tộc sâu sắc.
Tính dân tộc thể hiện sâu sắc nhất ở mặt hình thức. Một là, thể thơ lục bát truyền
thống với kết cấu lời đối đáp của đôi trai gái, giữa kẻ ở lại và người về xuôi. Lục bát là
thể thơ dân tộc nó đã quá quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Trong bài thơ, tác
giả đã sử dụng ngôi xưng “mình-ta” để bộc lộ hết tâm tư tình cảm của mình:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Tính dân tộc còn được thể hiện ở phương diện ngôn ngữ, nhạc điệu: Ngôn ngữ vừa
giản dị, gần gũi với đời thường lại dễ thuộc, dễ nhớ kết hợp với nhạc điệu uyển
chuyển, nhẹ nhàng có lúc thủ thỉ, tâm tình, lúc thì đằm thắm mượt mà lúc lại ngọt ngào êm dịu.
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Ngoài ra, hình ảnh thơ cũng thấm nhuần tính dân tộc. Ta từng bắt gặp nhiều hình ảnh
giản dị trong thơ của các nhà thơ khác nhưng với thơ Tố Hữu ta lại thấy nó rất tự
nhiên, thoải mái lại rất tinh tế: Hình ảnh “trám bùi”, “măng mai”. “trăng”, “nắng”,
“bản” gần gũi biết bao!
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc
Tóm lại, bài thơ “Việt Bắc” - đỉnh cao của văn học Việt Nam và cũng là bài thơ để đời
của Tố Hữu. “Việt Bắc” là khúc ca về thiên nhiên, con người Việt Bắc, là tiếng hát ân
nghĩa thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc, là tình yêu,
tình thương của Tố Hữu dành cho Việt Bắc. Bằng ngôn ngữ giản dị, gắn liền với đời
thường kết hợp với thủ pháp nghệ thuật như lặp từ, hoán dụ đã lột tả được nỗi nhớ da
diết của tác giả với mảnh đất đầy kí ức và kỷ niệm. Song song với đó, thể thơ lục bát
kết hợp một cách nhuần nhuyễn đã đưa đẩy cảm xúc của Tố Hữu lên đỉnh cao để có
thể sáng tác ra được một bài thơ tuyệt vời đến như vậy. Và “Việt Bắc” là một bài thơ
thể hiện đậm đà tính dân tộc.
Document Outline

  • Dàn ý phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu
    • Dàn ý số 1
    • Dàn ý số 2
  • Việt Bắc 8 câu đầu
  • Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
  • Phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc đạt điểm cao
  • Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu
  • Phân tích 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc
  • Tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc ngắn gọn
    • Bài làm mẫu 2
    • Bài làm mẫu 3
    • Bài làm mẫu 4
    • Bài làm mẫu 5
    • Bài làm mẫu 6
    • Bài làm mẫu 7
    • Bài văn mẫu 8
    • Bài làm mẫu 9
    • Bài làm mẫu 10
  • Phân tích tính dân tộc trong 8 câu đầu bài Việt Bắc đầy đủ
    • Bài văn mẫu 1
    • Bài văn mẫu 2
    • Bài văn mẫu 3
    • Bài văn mẫu 4
    • Bài văn mẫu 5
    • Bài làm mẫu 6