Phân tích tính giai cấp tính hội của pháp
luật?
1. Khái niệm pháp luật
Pháp luật hệ thống quy tắc xử sự chung do n nước đặt ra hoặc thừa
nhận bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ hội theo mục đích,
định hướng của nhà nước.
2. Những đặc trưng bản của pháp luật
Nhìn một cách tổng quát, pháp luật những đặc trưng bản sau:
- Tính quyền lực của pháp luật (tính nhà nước, tính cưỡng chế)
Pháp luật do n nước ban hành bảo đảm thực hiện. Nói một cách khác,
pháp luật được hình thành phát triển bằng con đường nhà nước chứ
không thể bằng bất kỳ một con đường nào khác. Với cách của mình, nhà
nước một tổ chức hợp pháp, công khai quyền lực bao trùm loàn
hội. Vì vậy, khi pháp luật được nhà nước ban hành bảo đảm thực hiện,
sẽ sức mạnh của quyền lực nhà nước thể tác động đến tất cả mọi
người. Đặc trưng này chỉ pháp luật. Các loại quy tắc xử sự khác ch
thể tác động trong một phạm vi hẹp, dưới những phương thức "nhẹ nhàng”
hơn được bảo đảm bằng luận hội, ch không phải bằng quyền lực
nhà nước như đối với pháp luật (trừ những trường hợp đặc biệt được nhà
nước quan tâm).
- Tính quy phạm của pháp luật
Pháp luật hệ thống các quy tắc xử sự đó những khuôn mẫu, những mực
thước được xác định cụ thể, không trừu tượng, chung chung. Tính quy phạm
của pháp luật nói lên giới hạn cần thiết nhà nước quy định để mọi người
(chủ thể) thể xử sự một ch tự do trong khuôn khổ cho phép. Vượt quá
giới hạn đó trái luật. Giới hạn đó được xác định nhiều khía cạnh khác
nhau như cho phép, cấm đoán, bắt buộc... Về nguyên tắc, pháp luật phải cụ
thể, khuôn phép, mực thước, không thể lạm dụng hoặc tùy tiện. vậy, nói
đến pháp luật suy cho cùng phải t đến các quy phạm cụ thể. Nếu không
quy phạm pháp luật được đặt ra thì cũng không thể quy kết một hành vi
nào vi phạm, trái pháp luật. Những nguyên tắc: "Mọi người được làm tất
cả mọi việc trừ những điều pháp luật nghiêm cấm", "mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật” được hình thành dựa trên sở của đặc trưng về
tính quy phạm của pháp luật. Chính đặc trưng bản này đã làm cho pháp
luật ngày càng "tính trội", hơn hẳn đối với các loại quy phạm hội trong
hội văn minh, hiện đại.
- Tính ý chí của pháp luật
Pháp luật bao giờ cũng hiện tượng ý chí, không phải kết quả của sự tự
phát hay cảm tính. Xét về bản chất, ý chí trong pháp luật ý chí của giai cấp,
lực lượng cầm quyền. Y chí đó thể hiện Ơ mục đích xây dựng pháp luật,
nội dung pháp luật dự kiến hiệu ứng của pháp luật khi triển khai vào thực
tế đời sống hội.
Trên thực tế ch lực lượng nào nắm được n nước mới khả năng thể
hiện ý chí lợi ích của mình một cách tối đa trong pháp luật. Một khi ý chí
lợi ích đã được hợp pháp hóa thành pháp luật thì được bảo đảm thực hiện
bằng quyền lực n nước. vậy mọi quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện
bảo vệ pháp luật đều được diễn ra dưới những hình thức cụ thể, theo
những nguyên tắc thủ tục chặt chẽ. Đó kết quả của sự duy chủ động,
tự giác của những nhà tư tưởng, những nhà chức trách. Điều này cũng cho
thấy sự khác biệt giữa pháp luật với các hệ thống quy phạm khác.
- nh hội của pháp luật
Mặc pháp luật tính n nước, tính ý chí, nhưng tính hội vẫn một
đặc trưng bản không thể coi nhẹ. Như đã phân tích trong mục 1 , muốn
cho pháp luật phát huy được hiệu lực thì phải phù hợp với những điều
kiện cụ thể của hội Ơ thời điểm tồn tại của nó, nghĩa là pháp luật phải
phản ánh đúng những nhu cầu khách quan của hội. Tuy nhiên, do tính
chất phức tạp của các mối quan hệ hội, pháp luật chỉ khả năng hình
hóa những nhu cầu hội khách quan đã mang tính điển hình, phổ biến
thông qua đó để tác động tới các quan hệ hội khác hướng các quan h đó
phát triển theo hướng đã được nhà nước xác định. Như vậy đặc trưng này
nét khác biệt của pháp luật so với các quy phạm hội khác thể hiện tính
toàn diện tính điển hình (ph biến) của các mối quan hệ hội được pháp
luật điều chỉnh.
Xem xét những đặc trưng bản nói trên của pháp luật càng cho thấy bản
chất sự khác biệt giữa pháp luật với các hiện tượng khác. Cả bốn đặc
trưng bản đó đều ý nghĩa quan trọng nằm trong mối quan hệ bản
chất với nhau, không thể chỉ chú trọng điểm này coi nh điểm kia.
Tuy nhiên, những đặc trưng đã nêu chỉ là những đặc trưng bản, bên cạnh
chúng còn những đặc trưng khác. Tùy thuộc o yêu cầu xem xét kỹ về
một kiểu pháp luật, một hệ thống pháp luật điển hình của một khu vực hoặc
một quốc gia nhất định, chúng ta sẽ đề cập một cách cụ thể hơn. Ví dụ: tính
khái quát cụ thể, thành văn không thành văn, tính nghiêm khắc nhân
đạo...
3. Tính giai cấp của pháp luật
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra
đời của nhà nước nên xét về bản chất, pháp luật cũng một hiện tượng
hội luôn thể hiện hai tính chất: Tính hội tính giai cấp.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện chỗ: Pháp luật sự thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền trong hội, là công cụ điều chỉnh
quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng hội theo chiều hướng bảo vệ lợi
ích, bảo vệ quyền địa vị thống trị của lực lượng y. Nói cách khác, ý
chí của lực lượng cầm quyền được nâng lên thành luật. Bởi vì:
Các giai cấp thống trị trong lịch sử đều theo đuổi mục đích củng cố bảo
vệ quyền thống trị của mình, tìm mọi ch để đạt mục đích đó. Một trong
những cách hiệu quả nhất biến ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí
của nhà nước từ ý chí của nhà nước sẽ thể hiện ra thành các quy định cụ
thế của pháp luật, tức thành các quy tắc xử sự giá trị bắt buộc phải tôn
trọng hoặc thực hiện trong toàn hội. Làm như vậy, giai cấp thống trị thể
hướng hoạt động của toàn hội vào việc đạt mục đích của nó.
Pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, điều chỉnh các quan hệ
hội theo chiều hướng giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền mong
muốn nhằm bảo vệ lợi ích, quyền địa vị thống trị của lực lượng này. thế,
trong pháp luật nhiều quy định thể hiện tính giai cấp của như: Quy định
thừa nhận bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền thống trị về chính trị tư
tưởng của giai cấp thống trị…
Biểu hiện tính giai cấp của pháp luật sự thay đổi qua các kiểu pháp luật:
+ Pháp luật chủ nô thể hiện ý chí bảo vệ lợi ích của giai cấp ch tính
giai cấp của kiểu pháp luật này thể hiện khá ng khai, rệt.
+ Pháp luật phong kiến thể hiện ý chí bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ,
phong kiến tính giai cấp của kiếu pháp luật này cũng thể hiện công khai,
rệt.
+ Pháp luật tư sản th hiện ý chí bảo vệ lợi ích của giai cấp sản, song
biểu hiện tính giai cấp của kiểu pháp luật này sự thay đổi qua các giai
đoạn phát triển của hội bản chủ nghĩa giai đoạn của chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh, tính giai cấp của pháp luật sản chưa thể hiện công
khai thì giai đoạn của chủ nghĩa để quốc, tính giai cấp của pháp luật sản
thể hiện công khai rệt hơn nhiều so với giai đoạn trước; còn giai đoạn
của ch nghĩa bản hiện đại, nh giai cấp của pháp luật sản xu hướng
thể hiện mờ nhạt hơn so với giai đoạn trước.
+ Pháp luật hội ch nghĩa thể hiện ý chí bảo vệ lợi ích của giai cấp công
nhân những người lao động khác dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản,
sự thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng này. nh giai cấp của kiểu
pháp luật này thể hiện m nhạt nhất trong tất cả các kiêu pháp luật giai cấp
thống trị trong hội này chiếm tuyệt đại đa số dân cư.
Các n nghiên cứu đã xác định, pháp luật công cụ của giai cấp nắm
quyền lực nhà nước, nhằm quản lý, điều chỉnh các quan hệ hội; bảo vệ
duy trì trật tự công cộng phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Các giai cấp thống tr trong lịch sử đều theo đuổi mục đích củng co bảo vệ
quyền thống trị của mình thông qua n nước ý chí đó sẽ thể hiện thành
các quy định cụ thể của pháp luật, tức thành các quy tắc xử sự giá tr
bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện trong toàn hội. Do đó, pháp luật
nhà nước mối quan hệ chặt chẽ với nhau hai thành tố của thượng
tầng kiến trúc.
Nhà nước một t chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhung quyền lực
đó chỉ thể được triển khai phát huy hiệu lực ưên sở các quy định
của pháp luật. Pháp luật luôn phản ánh các quan điểm, đường lối chính trị
của giai cấp nắm quyền lực n nước đảm bảo cho quyền lực đó được
triền khai nhanh chóng, rộng rãi trên quy toàn hội. Chính vậy, nhà
nước không thể tồn tại phát huy quyền lực nếu thiếu pháp luật; ngược lại,
pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại hiệu lực khi dựa trên sở sức mạnh
của quyền lực nhà nước. Pháp luật không chỉ phản ánh bản chất giai cấp,
còn phản ánh các nhu cầu khách quan, phổ biến của các mối quan hệ hội.
vậy, nhà nước không thể ban hành pháp luật một cách y tiện, chủ quan,
duy ý chí, không tính đến những nhu cầu, lợi ích của c giai cấp, tầng lớp
hội. Khi những bộ phận nhất định của pháp luật trở nên lạc hậu, không còn
phù
Những thành t bản nhất của cẩu hội nhóm với vị thế, vai trò
các thiết chế.
Theo định nghĩa trên, cấu hội các đặc điểm: th nhất, cấu hội
không ch được xem n một tổng thể, một tập họp các bộ phận gồm c
cộng đồng, c tầng lớp, c giai cấp cấu thành hội, còn được xem xét
về mặt kết cấu hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống hội. Điều
này cho phép chúng ta giải thích hội được cấu thành từ những thành t
nào, cách thức sắp xếp liên kết các bộ phận của hội ra sao. Thứ hai,
cấu hội được xem như sự thống nhất của hai mặt: thành phần hội
mối liên hệ hội. khắc phục được cách nhìn phiến diện quy cấu
hội vào quan hệ hội đồng thời cũng khắc phục được cách nhìn tách rời
giữa cấu hội các quan hệ hội. cấu hội một bộ khung để
xem xét hội, cho chúng ta biết được vị thế hay chỗ đứng của từng
nhân, nhóm hội các thiết chế hội - tức cách tổ chức các hoạt động
hội các quan hệ hội nhằm đảm bảo sự ăn khớp của các hành vi của
nhóm, nhân với c chuẩn mực, giá trị hội chung từ đó đảm bảo cho
hội vận hành bình thường, ổn định phát triển.
4. Phân tích tính hội của pháp luật
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra
đời của nhà nước nên xét về bản chất, pháp luật cũng một hiện tượng
hội luôn thể hiện hai tính chất: tính hội tính giai cấp.
Tính hội của pháp luật th hiện chỗ: Pháp luật sự thể hiện ý chí chung
của cả hội, công cụ điều chỉnh các quan hệ hội, nhằm thiết lập giữ
gìn trật tự hội, bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng, sự phát triển
chung của hội.
Trong đời sống hội, do đòi hỏi của các quan hệ giao tiếp giữa mọi người
nên đã hình thành các thói quen, các quy tắc, c chuẩn mực ng xử tính
chất chân lý, thể hiện ý chí chung của cả cộng đồng, được cả cộng đồng
chấp thuận tuân thủ. Ví dụ: cách ứng xử giữa cha mẹ các con, ông
các cháu, giữa người mua người bán… Khi nhà nước thừa nhận các
quy tắc này thì tạo nên tính hội của pháp luật.
Pháp luật phương tiện để giải quyết khía cạnh “xã hội” của đời sống n
phòng, chống khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, phòng, chống dịch
bệnh, hỗ trợ người lang thang, nhỡ… Nói cách khác, pháp luật luôn hàm
chứa các giá trị hội phổ biến, thuộc về con người. Pháp luật luôn phản ánh
điều kiện kinh tế hội, những quan niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp,
thuần phong, mỹ tục… của dân tộc thế, trong pháp luật nhiều quy định
thể hiện tính hội của nó: Quy định về chế độ phổ cập giáo dục bắt buộc
cho công dân, bảo vệ trật tự an ninh, an toàn giao thông, bảo đảm thông tin,
liên lạc, bảo vệ môi trường sống…
Pháp luật biểu tượng của nền công lý, công bằng hội, bảo đảm cho
các chủ th ngang quyền, nghĩa vụ trách nhiệm với nhau trong những mối
quan hệ hội nhất định. Pháp luật một trong những công cụ để bảo vệ
những công trình những giá trị văn hoá, tinh thần chung của hội, những
giá trị đạo đức, truyền thống một số phong tục, tập quán của dân tộc.
Mặc dù tính hội thuộc tính chung của tất cả các kiểu pháp luật, song
sự thể hiện tính hội sự khác nhau giữa các kiểu pháp luật. Cùng với sự
phát triển của hội, tính hội của pháp luật ngày càng trở nên sâu sắc
rộng i hon.
+ Biểu hiện tính hội của pháp luật chủ nô, phong kiến n mờ nhạt hạn
chế, chủ yếu thể hiện qua vai trò công cụ đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn
hội, trừng trị tội phạm, bảo vệ các công trình ng cộng…
+ Biểu hiện tính hội của pháp luật sản sự thay đổi rất lớn qua các
giai đoạn phát triển của nhà nước sản. Pháp luật sản ra đời đã thể hiện
sự tiến bộ hơn so với pháp luật phong kiến. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật
được mở rộng dần, tới hầu hết các lĩnh vực của đời sống, từ các quan hệ
trong gia đình đến các quan hệ kinh tế, văn hóa, hội trong đời sống cộng
đồng. Pháp luật tr thành công cụ quan trọng để thiết lập địa vị pháp bình
đẳng giữa các nhân trong hội, hướng tới bảo vệ các quyền con người,
quyền ng dân.
Đến giai đoạn đ quốc chủ nghĩa, do bị lũng đoạn bởi các tập đoàn bản
độc quyền, lại bị lún sâu vào các cuộc chiến tranh xâm chiếm mở rộng
lãnh thổ, hoạt động của nhà nước sản chủ yếu xoay quanh việc bảo vệ lợi
ích của các tập đoàn tư bản độc quyền lớn nên vai trò ý nghĩa hội của
pháp luật sản thời kỳ này nhiều hạn chế.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai tr lại đây, pháp luật sản xu hướng
dân chủ, nhân đạo, hướng tới việc đảm bảo công bằng, bình đẳng, bảo đảm
trật tự, an toàn hội, bảo đảm sự ổn định, chống khủng hoảng hội, bảo
đảm sự phát triển bền vững của hội. Hiện nay, pháp luật được xem
công cụ quan trọng để chống lại sự tha hóa của quyền lực nhà nước, bảo vệ
con người, bảo vệ công lý.
+ Pháp luật hội chủ nghĩa thể hiện nh hội rộng rãi u sắc nhất so
với tất cả các kiểu pháp luật trước đó. Pháp lưật công cụ giải phóng con
người khỏi mọi áp bức bất công, y dựng hội dân chủ, công bằng, văn
minh, mọi người cuộc sống tự do, hạnh phúc, trong đó các giá trị con
người được thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. Pháp luật hội chủ
nghĩa pháp luật con người, nhằm phục vụ con người, đảm bảo cho con
người điều kiện phát huy tài năng, phát triển toàn diện.
5. Tính hội tính giai cấp trong Hiến pháp Việt Nam
Hiến pháp nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 sự kết tinh
giữa “ý Đảng với lòng Dân”, mang bản chất giai cấp công nhân tính
hội sâu sắc; trong đó, quyền con người, quyền nghĩa vụ công dân được
hiến định đầy đủ, toàn diện.
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 (Hiến pháp năm 2013)
- văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng nhất của nước ta, được Quốc hội
khóa XIII, Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28-11-2013; hiệu lực thi hành từ
ngày 01-01-2014, đang được toàn Đảng, toàn dân toàn quân triển khai
thực hiện. Theo dõi quá trình xây dựng, hình thành thông qua, luận
quốc tế trong nước đánh giá cao Hiến pháp năm 2013 về nhiều khía cạnh,
nổi bật là: bảo đảm tính thực tiễn, khoa học, phù hợp với giá trị, chuẩn mực
của Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, Nhân dân.
thực sự bản Hiếp pháp hội tụ ý chí, nguyện vọng của toàn dân Đảng
cầm quyền, thể hiện sâu sắc tính giai cấp, nh hội tính nhân dân. Song,
một số nhà khoa học”, “nhà chính trị”, “nhà hoạt động nhân quyền”,… trong
ngoài nước, với bản chất t địch, chống phá đã “đăng đàn” cho rằng, bản
Hiến pháp “nặng” về tính giai cấp, còn tính hội thì “mờ nhạt”, quyền con
người, quyền công dân bị vi phạm. Đây những quan điểm hoàn toàn sai
trái, cố tình xuyên tạc, luận giải hồ đồ, thiếu trách nhiệm về Hiến pháp năm
2013.
Trước hết, bàn về tính giai cấp của hiến pháp. Từ thực tế lịch sử của hội
sản Pháp những năm 1848-1851, C. Mác đã ch ra rằng, hiến pháp kết
quả sự vận động của đời sống chính trị, không những nội dung cả hình
thức của đều chịu tác động trực tiếp của tiến trình đấu tranh giai cấp. Đó
ý chí của giai cấp thống trị được nâng lên thành luật đ bảo vệ giai cấp mình.
vậy, mang bản chất của giai cấp thống trị hội. Đây một trong các
phát kiến đại của C. Mác Ph. Ăng-ghen, đưa lại cho Học thuyết của hai
ông tính khoa học, ch mạng sâu sắc. Lý luận cũng như lịch sử nhà nước
pháp luật thế giới đã xác định, pháp luật nói chung, hiến pháp nói riêng
công cụ pháp mang tính ỡng bức của giai cấp nắm quyền lực nhà nước,
nhằm quản lý, điều chỉnh các quan h hội; bảo vệ duy trì trật tự ng
cộng phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nhà nước ta ra đời
sau Cách mạng Tháng Tám thành công - cuộc cách mạng do giai cấp công
nhân lãnh đạo với nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân đội ngũ trí thức, đội tiền phong Đảng Cộng sản Việt Nam. Do
vậy, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam mang bản chất giai cấp công
nhân điều hiển nhiên, không phải bàn cãi. Song, hoàn toàn khác với
bản chất giai cấp của hiến pháp c nhà nước sản, Hiến pháp năm 2013 là
sự thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thể
hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
phấn đấu mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, n chủ, công bằng, văn minh”,
đem lại ấm no, hạnh phúc cho toàn thể dân tộc Việt Nam. ớc ta, pháp
luật nói chung, Hiến pháp nói riêng thể hiện ý chí, lợi ích của giai cấp công
nhân nhân dân lao động, được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế của Nhà nước XHCN, trên sở giáo dục, thuyết phục mọi người n
trọng tự giác chấp hành. Đó công cụ pháp của Nhà nước để quản lý,
điều chỉnh các quan hệ hội nhằm xây dựng thành công bảo vệ vững
chắc Tổ quốc XHCN, bảo vệ lợi ích của giai cấp ng nhân, nhân dân lao
động của quốc gia, dân tộc; mang lại lợi ích cho số đông chứ không chỉ
lợi ích của số ít nhà bản như trong hội sản.
Bên cạnh tính giai cấp, cần khẳng định rằng, Hiến pháp năm 2013 tính
hội sâu sắc. Trước hết, về mặt lợi ích, do sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp
công nhân với các giai cấp, tầng lớp khác trong hội, nên Hiến pháp năm
2013 đã thể hiện đầy đủ lợi ích của toàn thể nhân dân. Cùng với đó, mọi lĩnh
vực của đời sống hội: từ chế đ chính trị, quyền con người, quyền
nghĩa vụ bản của công dân, đến kinh tế, hội, văn hóa, bảo vệ Tổ quốc,...
đều được hiến định trong Hiến pháp (cụ thể, tại Chương III 14 điều về vấn
đề kinh tế, hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ môi trường).
Song, thể hiện xuyên suốt, nhất quán trong Hiến pháp năm 2013 quan
điểm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, nền tảng liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân đội n t thức: Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do
Nhân dân, Nhân dân”, “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân...” (khoản 1, 2, Điều 2).
Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 bổ sung phát triển nguyên tắc: “Quyền lực
nhà nước thống nhất, sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”
(khoản 3, Điều 2). Đây điểm mới quan trọng của Hiến pháp năm 2013 so
với các bản Hiến pháp trước đây. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, nguyên
tắc kiểm soát quyền lực được ghi nhận, sở để phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, đồng thời ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước
phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Trên sở kế thừa, tiếp thu những tinh hoa, tưởng tiến bộ của các bản
Hiến pháp 1946, 1959, 1980, tổng kết việc thực hiện Hiến pháp 1992, Hiến
pháp năm 2013 thể hiện đầy đủ hơn “Quyền con người, quyền nghĩa vụ
bản của công dân”; xác định trách nhiệm của Nhà nước những bảo
đảm của Nhà nước; đó là: công nhận, tôn trọng, bảo vệ bảo đảm quyền
con người, quyền công dân theo Hiến pháp pháp luật. Đồng thời, khẳng
định làm hơn các nguyên tắc về quyền con người, quyền nghĩa vụ
bản của công dân theo ớng: quyền công dân không tách rời nghĩa vụ
công n; mọi người nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước hội; việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân không được m phạm lợi ích quốc gia,
dân tộc, quyền lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 15).
Đặc biệt là, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một số quyền mới. Đó là: quyền
sống (Điều 19); quyền hiến mô, bộ phận thể người, hiến xác (khoản 3,
Điều 20); quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng (khoản 1, Điều 21);
quyền được bảo đảm an sinh hội (Điều 34); quyền kết hôn ly hôn
(khoản 1, Điều 36); quyền hưởng thụ tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia
vào đời sống văn a, sử dụng các sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định
dân tộc (Điều 42); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43).
Những bổ sung này cho thấy, Nhà ớc ta nhận thức ngày càng rõ hơn về
quyền con người hết sức chú trọng đến bảo đảm thực hiện quyền con
người theo cam kết phù hợp với các điều ước quốc tế Việt Nam
thành viên. Cho đến nay, lịch sử lập nước (Tuyên ngôn độc lập năm 1945),
lập hiến nước ta mới hơn nửa thế kỷ, kể từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946
qua 4 lần sửa đổi, bổ sung, thế nhưng nội dung của thể hiện tính ưu
việt, phát triển hoàn thiện không ngừng, nhất về quyền con người,
quyền nghĩa vụ công dân. Các quyền bản đó mang đậm thuộc tính tự
nhiên bất khả xâm phạm, như: quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do
mưu cầu hạnh phúc,... thể hiện bản chất dân chủ, nhân đạo tiến bộ của
chế đ XHCN, được c quốc gia trên thế giới thừa nhận, đánh giá cao. Điều
đó, đồng thời cũng phản bác những luận điệu cho rằng tính hội của Hiến
pháp năm 2013 “mờ nhạt”, vi phạm quyền con người hoàn toàn không
sở, phi thực tế, phiến diện.
Chính tính hội “đậm nét”, quyền con người được hiến định đầy đủ, toàn
diện, nên nhiều n nghiên cứu trong ngoài nước đều chung nhận xét:
Hiến pháp năm 2013 của chúng ta bản Hiến pháp đọng, khúc triết, mạch
lạc, d hiểu mẫu mực trên mọi phương diện. Đây cũng minh chứng
ràng không ai thể phủ nhận. Những luận điệu kích động, xuyên tạc hòng
đánh tráo sự thật, đi ngược lại bản chất của vấn đề sẽ ch vọng.
6. Câu hỏi thường gặp về tính giai cấp, hội
6.1 Bản chất hội của pháp luật thể hiện như thế nào?
Bản chất của pháp luật còn thể hiện thông qua tính hội của pháp luật.
Tính hội của pháp luật thể hiện thực tiễn pháp luật kết quả của sự “chọn
lọc tự nhiên” trong hội. Các quy phạm pháp luật mặc do các quan
nhà nước thâmr quyền ban hành nhằm điều chỉnh c quan h hội, tuy
nhiên chỉ những quy phạm nào phù hợp với thực tiễn mới được thực tiễn giữ
lại thông qua n nước, đó những quy phạm “hợp lý”, “khách quan” được
số đông trong hội chấp nhận, phù hợp với lợi ích của đa số trong hội.
6.2 Biểu hiện về tính tính giai cấp của pháp luật?
Tính giai cấp của pháp luật trước hết chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà
nước của giai cấp thống trị, nội dung của ý chí đó đựơc quy định bởi điều
kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền
lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của
giai cấp mình một cách tập trung thống nhất, hợp pháp hoá ý chí của nhà
nước, được nhà nước bảo hộ thực hiện bằng sức mạnh của n nước.
Tính giai cấp của pháp luật còn th hiện mục đích điều chỉnh của pháp
luật. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai
cấp, tầng lớp trong hội. vậy, pháp luật nhân tố để điều chỉnh về mặt
giai cấp các quan hệ hội nhằm hướng các quan hệ hội phát triển theo
một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ củng cố địa vị của
giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính công cụ để thực hiện sự
thống trị giai cấp.
dụ về bản chất giai cấp của pháp luật:
Pháp luật chủ pháp luật của giai cấp chủ do giai cấp này đặt ra trước
hết lợi ích của nó. Pháp luật ch quy định công khai quyền lực hạn
của ch tình trạng quyền của giai cấp lệ.
6.3 Giá trị hội của pháp luật thể hiện như thế nào?
Giá tr hội của pháp luật còn thể hiện chỗ, quy phạm pháp luật vừa
thước đo của hành vi con người, vừa là công cụ kiểm nghiệm các quá trình,
các hiện tượng hội, công cụ để nhận thức hội điều chỉnh các quan
hệ hội, hướng chú ý vận động, phát triển phù hợp với các quy luật khách
quan.
6.4 Kết cấu hội - giai cấp gì?
Trong hội giai cấp, kết cấu giai cấp do phương thức sản xuất quyết
định. Mỗi kiểu hội một kết cấu hội - giai cấp riêng của nó. Mỗi kết
cấu hội - giai cấp của hội nhất định bao gồm hai giai cấp bản, các
giai cấp không bản tầng lớp trung gian.
Hai giai cấp bản các giai cấp tồn tại gắn liền với phương thức sản xuất
thống trị. Hai giai cấp bản của chế độ kinh tế hội sản phẩm đích thực
của chế độ kinh tế - hội, đồng thời những giai cấp quyết định sự tồn tại
phát triển của hệ thống sản xuất trong hội. Giai cấp thống trị giai cấp
tiêu biểu cho bản chất chế độ kinh tế đang tồn tại. Trong hội giai cấp
gồm các giai cấp bản sau: Chủ nô lệ trong hội chiếm hữu
lệ phong kiến nông nô (nông dân) trong chế độ phong kiến, sản
sản trong chế độ bản chủ nghĩa.
Mỗi kết cấu hội - giai cấp còn các giai cấp không bản tầng lớp
trung gian. Trong những tập đoàn hội này những tập đoàn tàn của
phương thức sản xuất (như lệ trong thời kỳ đầu của hội phong kiến,
địa chủ nông nô trong buổi đầu của hội bản). Cũng tập đoàn
mầm mống của phương thức sản xuất tương lai (như giai cấp sản ng
nhân ng trường thủ công trong giai đoạn cuối của chế đ phong kiến).
Ngoài ra trong bất kỳ hội giai cấp nào cũng một số tầng lớp trung
gian sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, kết quả
của quá trình phân hoá trong hội diễn ra một cách liên tục. Đó các tầng
lớp bình dân trong hội lệ, các tầng lớp tiểu sản thành thị nông
thôn trong hội tư bản. Một bộ phận vai trò quan trọng trong hội
giai cấp trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị đó tầng
lớp t thức.

Preview text:

Phân tích tính giai cấp và tính xã hội của pháp luật? 1. Khái niệm pháp luật
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa
nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích,
định hướng của nhà nước.
2. Những đặc trưng cơ bản của pháp luật
Nhìn một cách tổng quát, pháp luật có những đặc trưng cơ bản sau:
- Tính quyền lực của pháp luật (tính nhà nước, tính cưỡng chế)
Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Nói một cách khác,
pháp luật được hình thành và phát triển bằng con đường nhà nước chứ
không thể bằng bất kỳ một con đường nào khác. Với tư cách của mình, nhà
nước là một tổ chức hợp pháp, công khai và có quyền lực bao trùm loàn xã
hội. Vì vậy, khi pháp luật được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nó
sẽ có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có thể tác động đến tất cả mọi
người. Đặc trưng này chỉ có ở pháp luật. Các loại quy tắc xử sự khác chỉ có
thể tác động trong một phạm vi hẹp, dưới những phương thức "nhẹ nhàng”
hơn và được bảo đảm bằng dư luận xã hội, chứ không phải bằng quyền lực
nhà nước như đối với pháp luật (trừ những trường hợp đặc biệt được nhà nước quan tâm).
- Tính quy phạm của pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự đó là những khuôn mẫu, những mực
thước được xác định cụ thể, không trừu tượng, chung chung. Tính quy phạm
của pháp luật nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người
(chủ thể) có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép. Vượt quá
giới hạn đó là trái luật. Giới hạn đó được xác định ở nhiều khía cạnh khác
nhau như cho phép, cấm đoán, bắt buộc... Về nguyên tắc, pháp luật phải cụ
thể, khuôn phép, mực thước, không thể lạm dụng hoặc tùy tiện. Vì vậy, nói
đến pháp luật suy cho cùng là phải xét đến các quy phạm cụ thể. Nếu không
có quy phạm pháp luật được đặt ra thì cũng không thể quy kết một hành vi
nào là vi phạm, là trái pháp luật. Những nguyên tắc: "Mọi người được làm tất
cả mọi việc trừ những điều mà pháp luật nghiêm cấm", "mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật” được hình thành là dựa trên cơ sở của đặc trưng về
tính quy phạm của pháp luật. Chính đặc trưng cơ bản này đã làm cho pháp
luật ngày càng có "tính trội", hơn hẳn đối với các loại quy phạm xã hội trong
xã hội văn minh, hiện đại.
- Tính ý chí của pháp luật
Pháp luật bao giờ cũng là hiện tượng ý chí, không phải là kết quả của sự tự
phát hay cảm tính. Xét về bản chất, ý chí trong pháp luật là ý chí của giai cấp,
lực lượng cầm quyền. Y chí đó thể hiện rõ Ơ mục đích xây dựng pháp luật,
nội dung pháp luật và dự kiến hiệu ứng của pháp luật khi triển khai vào thực tế đời sống xã hội.
Trên thực tế chỉ có lực lượng nào nắm được nhà nước mới có khả năng thể
hiện ý chí và lợi ích của mình một cách tối đa trong pháp luật. Một khi ý chí và
lợi ích đã được hợp pháp hóa thành pháp luật thì nó được bảo đảm thực hiện
bằng quyền lực nhà nước. Vì vậy mọi quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện
và bảo vệ pháp luật đều được diễn ra dưới những hình thức cụ thể, theo
những nguyên tắc và thủ tục chặt chẽ. Đó là kết quả của sự tư duy chủ động,
tự giác của những nhà tư tưởng, những nhà chức trách. Điều này cũng cho
thấy rõ sự khác biệt giữa pháp luật với các hệ thống quy phạm khác.
- Tính xã hội của pháp luật
Mặc dù pháp luật có tính nhà nước, tính ý chí, nhưng tính xã hội vẫn là một
đặc trưng cơ bản không thể coi nhẹ. Như đã phân tích trong mục 1 , muốn
cho pháp luật phát huy được hiệu lực thì nó phải phù hợp với những điều
kiện cụ thể của xã hội Ơ thời điểm tồn tại của nó, nghĩa là pháp luật phải
phản ánh đúng những nhu cầu khách quan của xã hội. Tuy nhiên, do tính
chất phức tạp của các mối quan hệ xã hội, pháp luật chỉ có khả năng mô hình
hóa những nhu cầu xã hội khách quan đã mang tính điển hình, phổ biến và
thông qua đó để tác động tới các quan hệ xã hội khác hướng các quan hệ đó
phát triển theo hướng đã được nhà nước xác định. Như vậy ở đặc trưng này
nét khác biệt của pháp luật so với các quy phạm xã hội khác thể hiện ở tính
toàn diện và tính điển hình (phổ biến) của các mối quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh.
Xem xét những đặc trưng cơ bản nói trên của pháp luật càng cho thấy rõ bản
chất và sự khác biệt giữa pháp luật với các hiện tượng khác. Cả bốn đặc
trưng cơ bản đó đều có ý nghĩa quan trọng và nằm trong mối quan hệ bản
chất với nhau, không thể chỉ chú trọng điểm này mà coi nhẹ điểm kia.
Tuy nhiên, những đặc trưng đã nêu chỉ là những đặc trưng cơ bản, bên cạnh
chúng còn có những đặc trưng khác. Tùy thuộc vào yêu cầu xem xét kỹ về
một kiểu pháp luật, một hệ thống pháp luật điển hình của một khu vực hoặc
một quốc gia nhất định, chúng ta sẽ đề cập một cách cụ thể hơn. Ví dụ: tính
khái quát và cụ thể, thành văn và không thành văn, tính nghiêm khắc và nhân đạo...
3. Tính giai cấp của pháp luật
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra
đời của nhà nước nên xét về bản chất, pháp luật cũng là một hiện tượng xã
hội luôn thể hiện hai tính chất: Tính xã hội và tính giai cấp.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ: Pháp luật là sự thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền trong xã hội, là công cụ điều chỉnh
quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội theo chiều hướng bảo vệ lợi
ích, bảo vệ quyền và địa vị thống trị của lực lượng này. Nói cách khác, nó là ý
chí của lực lượng cầm quyền được nâng lên thành luật. Bởi vì:
– Các giai cấp thống trị trong lịch sử đều theo đuổi mục đích củng cố và bảo
vệ quyền thống trị của mình, tìm mọi cách để đạt mục đích đó. Một trong
những cách có hiệu quả nhất là biến ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí
của nhà nước và từ ý chí của nhà nước sẽ thể hiện ra thành các quy định cụ
thế của pháp luật, tức là thành các quy tắc xử sự có giá trị bắt buộc phải tôn
trọng hoặc thực hiện trong toàn xã hội. Làm như vậy, giai cấp thống trị có thể
hướng hoạt động của toàn xã hội vào việc đạt mục đích của nó.
– Pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, điều chỉnh các quan hệ xã
hội theo chiều hướng mà giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền mong
muốn nhằm bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống trị của lực lượng này. Vì thế,
trong pháp luật có nhiều quy định thể hiện tính giai cấp của nó như: Quy định
thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền thống trị về chính trị và tư
tưởng của giai cấp thống trị…
– Biểu hiện tính giai cấp của pháp luật có sự thay đổi qua các kiểu pháp luật:
+ Pháp luật chủ nô thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô và tính
giai cấp của kiểu pháp luật này thể hiện khá công khai, rõ rệt.
+ Pháp luật phong kiến thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ,
phong kiến và tính giai cấp của kiếu pháp luật này cũng thể hiện công khai, rõ rệt.
+ Pháp luật tư sản thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, song
biểu hiện tính giai cấp của kiểu pháp luật này có sự thay đổi qua các giai
đoạn phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa – Ớ giai đoạn của chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh, tính giai cấp của pháp luật tư sản chưa thể hiện công
khai thì ở giai đoạn của chủ nghĩa để quốc, tính giai cấp của pháp luật tư sản
thể hiện công khai và rõ rệt hơn nhiều so với giai đoạn trước; còn ở giai đoạn
của chủ nghĩa tư bản hiện đại, tính giai cấp của pháp luật tư sản có xu hướng
thể hiện mờ nhạt hơn so với giai đoạn trước.
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp công
nhân và những người lao động khác dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, là
sự thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng này. Tính giai cấp của kiểu
pháp luật này thể hiện mờ nhạt nhất trong tất cả các kiêu pháp luật vì giai cấp
thống trị trong xã hội này chiếm tuyệt đại đa số dân cư.
Các nhà nghiên cứu đã xác định, pháp luật là công cụ của giai cấp nắm
quyền lực nhà nước, nhằm quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội; bảo vệ và
duy trì trật tự công cộng phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Các giai cấp thống trị trong lịch sử đều theo đuổi mục đích củng co và bảo vệ
quyền thống trị của mình và thông qua nhà nước ý chí đó sẽ thể hiện thành
các quy định cụ thể của pháp luật, tức là thành các quy tắc xử sự có giá trị
bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện trong toàn xã hội. Do đó, pháp luật và
nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và là hai thành tố của thượng tầng kiến trúc.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhung quyền lực
đó chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu lực ưên cơ sở các quy định
của pháp luật. Pháp luật luôn phản ánh các quan điểm, đường lối chính trị
của giai cấp nắm quyền lực nhà nước và đảm bảo cho quyền lực đó được
triền khai nhanh chóng, rộng rãi trên quy mô toàn xã hội. Chính vì vậy, nhà
nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu thiếu pháp luật; ngược lại,
pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi nó dựa trên cơ sở sức mạnh
của quyền lực nhà nước. Pháp luật không chỉ phản ánh bản chất giai cấp, mà
còn phản ánh các nhu cầu khách quan, phổ biến của các mối quan hệ xã hội.
Vì vậy, nhà nước không thể ban hành pháp luật một cách tùy tiện, chủ quan,
duy ý chí, không tính đến những nhu cầu, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã
hội. Khi những bộ phận nhất định của pháp luật trở nên lạc hậu, không còn phù
Những thành tố cơ bản nhất của cơ cẩu xã hội là nhóm với vị thế, vai trò và các thiết chế.
Theo định nghĩa trên, cơ cấu xã hội có các đặc điểm: thứ nhất, cơ cấu xã hội
không chỉ được xem như là một tổng thể, một tập họp các bộ phận gồm các
cộng đồng, các tầng lớp, các giai cấp cấu thành xã hội, mà còn được xem xét
về mặt kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội. Điều
này cho phép chúng ta giải thích xã hội được cấu thành từ những thành tố
nào, cách thức sắp xếp và liên kết các bộ phận của xã hội ra sao. Thứ hai, cơ
cấu xã hội được xem như là sự thống nhất của hai mặt: thành phần xã hội và
mối liên hệ xã hội. Nó khắc phục được cách nhìn phiến diện quy cơ cấu xã
hội vào quan hệ xã hội và đồng thời cũng khắc phục được cách nhìn tách rời
giữa cơ cấu xã hội và các quan hệ xã hội. Cơ cấu xã hội là một bộ khung để
xem xét xã hội, nó cho chúng ta biết được vị thế hay chỗ đứng của từng cá
nhân, nhóm xã hội và các thiết chế xã hội - tức là cách tổ chức các hoạt động
xã hội và các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo sự ăn khớp của các hành vi của
nhóm, cá nhân với các chuẩn mực, giá trị xã hội chung từ đó đảm bảo cho xã
hội vận hành bình thường, ổn định và phát triển.
4. Phân tích tính xã hội của pháp luật
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra
đời của nhà nước nên xét về bản chất, pháp luật cũng là một hiện tượng xã
hội luôn thể hiện hai tính chất: tính xã hội và tính giai cấp.
Tính xã hội của pháp luật thể hiện ở chỗ: Pháp luật là sự thể hiện ý chí chung
của cả xã hội, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhằm thiết lập và giữ
gìn trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng, vì sự phát triển chung của xã hội.
– Trong đời sống xã hội, do đòi hỏi của các quan hệ giao tiếp giữa mọi người
nên đã hình thành các thói quen, các quy tắc, các chuẩn mực ứng xử có tính
chất chân lý, thể hiện ý chí chung của cả cộng đồng, được cả cộng đồng
chấp thuận và tuân thủ. Ví dụ: cách ứng xử giữa cha mẹ và các con, ông bà
và các cháu, giữa người mua và người bán… Khi nhà nước thừa nhận các
quy tắc này thì tạo nên tính xã hội của pháp luật.
– Pháp luật là phương tiện để giải quyết khía cạnh “xã hội” của đời sống như
phòng, chống và khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, phòng, chống dịch
bệnh, hỗ trợ người lang thang, cơ nhỡ… Nói cách khác, pháp luật luôn hàm
chứa các giá trị xã hội phổ biến, thuộc về con người. Pháp luật luôn phản ánh
điều kiện kinh tế – xã hội, những quan niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp,
thuần phong, mỹ tục… của dân tộc – Vì thế, trong pháp luật có nhiều quy định
thể hiện tính xã hội của nó: Quy định về chế độ phổ cập giáo dục bắt buộc
cho công dân, bảo vệ trật tự an ninh, an toàn giao thông, bảo đảm thông tin,
liên lạc, bảo vệ môi trường sống…
– Pháp luật là biểu tượng của nền công lý, công bằng xã hội, nó bảo đảm cho
các chủ thể ngang quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau trong những mối
quan hệ xã hội nhất định. Pháp luật là một trong những công cụ để bảo vệ
những công trình và những giá trị văn hoá, tinh thần chung của xã hội, những
giá trị đạo đức, truyền thống và một số phong tục, tập quán của dân tộc.
– Mặc dù tính xã hội là thuộc tính chung của tất cả các kiểu pháp luật, song
sự thể hiện tính xã hội có sự khác nhau giữa các kiểu pháp luật. Cùng với sự
phát triển của xã hội, tính xã hội của pháp luật ngày càng trở nên sâu sắc và rộng rãi hon.
+ Biểu hiện tính xã hội của pháp luật chủ nô, phong kiến còn mờ nhạt và hạn
chế, chủ yếu thể hiện qua vai trò là công cụ đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, trừng trị tội phạm, bảo vệ các công trình công cộng…
+ Biểu hiện tính xã hội của pháp luật tư sản có sự thay đổi rất lớn qua các
giai đoạn phát triển của nhà nước tư sản. Pháp luật tư sản ra đời đã thể hiện
sự tiến bộ hơn so với pháp luật phong kiến. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật
được mở rộng dần, tới hầu hết các lĩnh vực của đời sống, từ các quan hệ
trong gia đình đến các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội trong đời sống cộng
đồng. Pháp luật trở thành công cụ quan trọng để thiết lập địa vị pháp lý bình
đẳng giữa các cá nhân trong xã hội, hướng tới bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
Đến giai đoạn để quốc chủ nghĩa, do bị lũng đoạn bởi các tập đoàn tư bản
độc quyền, lại bị lún sâu vào các cuộc chiến tranh xâm chiếm và mở rộng
lãnh thổ, hoạt động của nhà nước tư sản chủ yếu xoay quanh việc bảo vệ lợi
ích của các tập đoàn tư bản độc quyền lớn nên vai trò và ý nghĩa xã hội của
pháp luật tư sản thời kỳ này có nhiều hạn chế.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trở lại đây, pháp luật tư sản có xu hướng
dân chủ, nhân đạo, hướng tới việc đảm bảo công bằng, bình đẳng, bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định, chống khủng hoảng xã hội, bảo
đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Hiện nay, pháp luật được xem là
công cụ quan trọng để chống lại sự tha hóa của quyền lực nhà nước, bảo vệ
con người, bảo vệ công lý.
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện tính xã hội rộng rãi và sâu sắc nhất so
với tất cả các kiểu pháp luật trước đó. Pháp lưật là công cụ giải phóng con
người khỏi mọi áp bức bất công, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, trong đó các giá trị con
người được thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. Pháp luật xã hội chủ
nghĩa là pháp luật vì con người, nhằm phục vụ con người, đảm bảo cho con
người có điều kiện phát huy tài năng, phát triển toàn diện.
5. Tính xã hội và tính giai cấp trong Hiến pháp Việt Nam
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 là sự kết tinh
giữa “ý Đảng với lòng Dân”, mang bản chất giai cấp công nhân và có tính xã
hội sâu sắc; trong đó, quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được
hiến định đầy đủ, toàn diện.
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 (Hiến pháp năm 2013)
- văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng nhất của nước ta, được Quốc hội
khóa XIII, Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28-11-2013; có hiệu lực thi hành từ
ngày 01-01-2014, đang được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân triển khai
thực hiện. Theo dõi quá trình xây dựng, hình thành và thông qua, dư luận
quốc tế và trong nước đánh giá cao Hiến pháp năm 2013 về nhiều khía cạnh,
nổi bật là: bảo đảm tính thực tiễn, khoa học, phù hợp với giá trị, chuẩn mực
của Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Và thực sự là bản Hiếp pháp hội tụ ý chí, nguyện vọng của toàn dân và Đảng
cầm quyền, thể hiện sâu sắc tính giai cấp, tính xã hội và tính nhân dân. Song,
một số “nhà khoa học”, “nhà chính trị”, “nhà hoạt động nhân quyền”,… ở trong
và ngoài nước, với bản chất thù địch, chống phá đã “đăng đàn” cho rằng, bản
Hiến pháp “nặng” về tính giai cấp, còn tính xã hội thì “mờ nhạt”, quyền con
người, quyền công dân bị vi phạm. Đây là những quan điểm hoàn toàn sai
trái, cố tình xuyên tạc, luận giải hồ đồ, thiếu trách nhiệm về Hiến pháp năm 2013.
Trước hết, bàn về tính giai cấp của hiến pháp. Từ thực tế lịch sử của xã hội
tư sản Pháp những năm 1848-1851, C. Mác đã chỉ ra rằng, hiến pháp là kết
quả sự vận động của đời sống chính trị, không những nội dung mà cả hình
thức của nó đều chịu tác động trực tiếp của tiến trình đấu tranh giai cấp. Đó là
ý chí của giai cấp thống trị được nâng lên thành luật để bảo vệ giai cấp mình.
Vì vậy, nó mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội. Đây là một trong các
phát kiến vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, đưa lại cho Học thuyết của hai
ông tính khoa học, cách mạng sâu sắc. Lý luận cũng như lịch sử nhà nước và
pháp luật thế giới đã xác định, pháp luật nói chung, hiến pháp nói riêng là
công cụ pháp lý mang tính cưỡng bức của giai cấp nắm quyền lực nhà nước,
nhằm quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội; bảo vệ và duy trì trật tự công
cộng phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nhà nước ta ra đời
sau Cách mạng Tháng Tám thành công - cuộc cách mạng do giai cấp công
nhân lãnh đạo với nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, mà đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Do
vậy, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam mang bản chất giai cấp công
nhân là điều hiển nhiên, không có gì phải bàn cãi. Song, hoàn toàn khác với
bản chất giai cấp của hiến pháp các nhà nước tư sản, Hiến pháp năm 2013 là
sự thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thể
hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
đem lại ấm no, hạnh phúc cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Ở nước ta, pháp
luật nói chung, Hiến pháp nói riêng là thể hiện ý chí, lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế của Nhà nước XHCN, trên cơ sở giáo dục, thuyết phục mọi người tôn
trọng và tự giác chấp hành. Đó là công cụ pháp lý của Nhà nước để quản lý,
điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc XHCN, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của quốc gia, dân tộc; mang lại lợi ích cho số đông chứ không chỉ vì
lợi ích của số ít nhà tư bản như trong xã hội tư sản.
Bên cạnh tính giai cấp, cần khẳng định rằng, Hiến pháp năm 2013 có tính xã
hội sâu sắc. Trước hết, về mặt lợi ích, do sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp
công nhân với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, nên Hiến pháp năm
2013 đã thể hiện đầy đủ lợi ích của toàn thể nhân dân. Cùng với đó, mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội: từ chế độ chính trị, quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, đến kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ Tổ quốc,...
đều được hiến định trong Hiến pháp (cụ thể, tại Chương III có 14 điều về vấn
đề kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường).
Song, thể hiện xuyên suốt, nhất quán trong Hiến pháp năm 2013 là quan
điểm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức: “Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”, “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân...” (khoản 1, 2, Điều 2).
Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 bổ sung và phát triển nguyên tắc: “Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”
(khoản 3, Điều 2). Đây là điểm mới quan trọng của Hiến pháp năm 2013 so
với các bản Hiến pháp trước đây. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, nguyên
tắc “kiểm soát quyền lực” được ghi nhận, là cơ sở để phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, đồng thời ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước
và phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những tinh hoa, tư tưởng tiến bộ của các bản
Hiến pháp 1946, 1959, 1980, tổng kết việc thực hiện Hiến pháp 1992, Hiến
pháp năm 2013 thể hiện đầy đủ hơn “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân”; xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước và những bảo
đảm của Nhà nước; đó là: công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật
. Đồng thời, khẳng
định và làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân theo hướng: quyền công dân không tách rời nghĩa vụ
công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân
có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia,
dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 15).
Đặc biệt là, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một số quyền mới. Đó là: quyền
sống (Điều 19); quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (khoản 3,
Điều 20); quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (khoản 1, Điều 21);
quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền kết hôn và ly hôn
(khoản 1, Điều 36); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia
vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định
dân tộc (Điều 42); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43).
Những bổ sung này cho thấy, Nhà nước ta nhận thức ngày càng rõ hơn về
quyền con người và hết sức chú trọng đến bảo đảm thực hiện quyền con
người theo cam kết và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên. Cho đến nay, lịch sử lập nước (Tuyên ngôn độc lập năm 1945),
lập hiến nước ta mới hơn nửa thế kỷ, kể từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946
và qua 4 lần sửa đổi, bổ sung, thế nhưng nội dung của nó thể hiện rõ tính ưu
việt, phát triển và hoàn thiện không ngừng, nhất là về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ công dân. Các quyền cơ bản đó mang đậm thuộc tính tự
nhiên và bất khả xâm phạm, như: quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do
mưu cầu hạnh phúc,... thể hiện rõ bản chất dân chủ, nhân đạo và tiến bộ của
chế độ XHCN, được các quốc gia trên thế giới thừa nhận, đánh giá cao. Điều
đó, đồng thời cũng phản bác những luận điệu cho rằng tính xã hội của Hiến
pháp năm 2013 “mờ nhạt”, vi phạm quyền con người là hoàn toàn không có
cơ sở, phi thực tế, phiến diện.
Chính vì tính xã hội “đậm nét”, quyền con người được hiến định đầy đủ, toàn
diện, nên nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều chung nhận xét:
Hiến pháp năm 2013 của chúng ta là bản Hiến pháp cô đọng, khúc triết, mạch
lạc, dễ hiểu và mẫu mực trên mọi phương diện. Đây cũng là minh chứng rõ
ràng không ai có thể phủ nhận. Những luận điệu kích động, xuyên tạc hòng
đánh tráo sự thật, đi ngược lại bản chất của vấn đề sẽ chỉ là vô vọng.
6. Câu hỏi thường gặp về tính giai cấp, xã hội
6.1 Bản chất xã hội của pháp luật thể hiện như thế nào?
– Bản chất của pháp luật
còn thể hiện thông qua tính xã hội của pháp luật.
Tính xã hội của pháp luật thể hiện thực tiễn pháp luật là kết quả của sự “chọn
lọc tự nhiên” trong xã hội. Các quy phạm pháp luật mặc dù do các cơ quan
nhà nước có thâmr quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tuy
nhiên chỉ những quy phạm nào phù hợp với thực tiễn mới được thực tiễn giữ
lại thông qua nhà nước, đó là những quy phạm “hợp lý”, “khách quan” được
số đông trong xã hội chấp nhận, phù hợp với lợi ích của đa số trong xã hội.
6.2 Biểu hiện về tính tính giai cấp của pháp luật?
– Tính giai cấp của pháp luật
trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà
nước của giai cấp thống trị, nội dung của ý chí đó đựơc quy định bởi điều
kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền
lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của
giai cấp mình một cách tập trung thống nhất, hợp pháp hoá ý chí của nhà
nước, được nhà nước bảo hộ thực hiện bằng sức mạnh của nhà nước.
– Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh của pháp
luật. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt
giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo
một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ củng cố địa vị của
giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
Ví dụ về bản chất giai cấp của pháp luật:
Pháp luật chủ nô là pháp luật của giai cấp chủ nô do giai cấp này đặt ra trước
hết là vì lợi ích của nó. Pháp luật chủ nô quy định công khai quyền lực vô hạn
của chủ nô và tình trạng vô quyền của giai cấp nô lệ.

6.3 Giá trị xã hội của pháp luật thể hiện như thế nào?
– Giá trị xã hội của pháp luật
còn thể hiện ở chỗ, quy phạm pháp luật vừa là
thước đo của hành vi con người, vừa là công cụ kiểm nghiệm các quá trình,
các hiện tượng xã hội, là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các quan
hệ xã hội, hướng chú ý vận động, phát triển phù hợp với các quy luật khách quan.
6.4 Kết cấu xã hội - giai cấp là gì?
Trong xã hội có giai cấp, kết cấu giai cấp là do phương thức sản xuất quyết
định. Mỗi kiểu xã hội có một kết cấu xã hội - giai cấp riêng của nó. Mỗi kết
cấu xã hội - giai cấp của xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản, các
giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian.
Hai giai cấp cơ bản là các giai cấp tồn tại gắn liền với phương thức sản xuất
thống trị. Hai giai cấp cơ bản của chế độ kinh tế xã hội là sản phẩm đích thực
của chế độ kinh tế - xã hội, đồng thời là những giai cấp quyết định sự tồn tại
và phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội. Giai cấp thống trị là giai cấp
tiêu biểu cho bản chất chế độ kinh tế đang tồn tại. Trong xã hội có giai cấp
gồm có các giai cấp cơ bản sau: Chủ nô và nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô
lệ phong kiến và nông nô (nông dân) trong chế độ phong kiến, vô sản và tư
sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa.
Mỗi kết cấu xã hội - giai cấp còn có các giai cấp không cơ bản và tầng lớp
trung gian. Trong những tập đoàn xã hội này có những tập đoàn là tàn dư của
phương thức sản xuất cũ (như nô lệ trong thời kỳ đầu của xã hội phong kiến,
địa chủ và nông nô trong buổi đầu của xã hội tư bản). Cũng có tập đoàn là
mầm mống của phương thức sản xuất tương lai (như giai cấp tư sản và công
nhân công trường thủ công trong giai đoạn cuối của chế độ phong kiến).
Ngoài ra trong bất kỳ xã hội có giai cấp nào cũng có một số tầng lớp trung
gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả
của quá trình phân hoá trong xã hội diễn ra một cách liên tục. Đó là các tầng
lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông
thôn trong xã hội tư bản. Một bộ phận có vai trò quan trọng trong xã hội có
giai cấp trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị đó là tầng lớp trí thức.
Document Outline

  • Phân tích tính giai cấp và tính xã hội của pháp lu
    • 1. Khái niệm pháp luật
    • 2. Những đặc trưng cơ bản của pháp luật
    • 3. Tính giai cấp của pháp luật
    • 4. Phân tích tính xã hội của pháp luật
    • 5. Tính xã hội và tính giai cấp trong Hiến pháp Vi
    • 6. Câu hỏi thường gặp về tính giai cấp, xã hội
      • 6.1 Bản chất xã hội của pháp luật thể hiện như thế
      • 6.2 Biểu hiện về tính tính giai cấp của pháp luật?
      • 6.3 Giá trị xã hội của pháp luật thể hiện như thế
      • 6.4 Kết cấu xã hội - giai cấp là gì?