-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân | Văn mẫu 12
Phân tích tình huống Vợ nhặt của Kim Lân mang đến dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy kèm theo 10 mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh lớp 12 tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức nắm được ý nghĩa của tình huống truyện. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 12 487 tài liệu
Ngữ Văn 12 822 tài liệu
Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân | Văn mẫu 12
Phân tích tình huống Vợ nhặt của Kim Lân mang đến dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy kèm theo 10 mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh lớp 12 tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức nắm được ý nghĩa của tình huống truyện. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 12 487 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 12 822 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Ngữ Văn 12
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Dàn ý tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt Dàn ý số 1 a) Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Giới thiệu và đánh giá về tình huống truyện trong tác phẩm “Vợ nhặt" của Kim Lân. b) Thân bài
* Khái niệm về tình huống truyện
- Tình huống truyện là diễn biến của sự việc, sự phức tạp của tình tiết; là cái éo le,
nghịch lí ở đời. Sự việc, câu chuyện trong tác phẩm “xảy ra như thế mà ta cứ ngỡ không phải thế”.
- Tình huống càng lạ bao nhiêu thì truyện càng hay, hấp dẫn bấy nhiêu.
* Tình huống truyện độc đáo trong “Vợ nhặt”
- Đó chính là việc anh cu Tràng “nhặt” được vợ được xem là một tình huống đầy kịch
tính, xưa nay chưa từng có; vừa lạ lại vừa éo le mà Kim Lân đã phát hiện và thể hiện rất hay và lạ. - Lạ:
+ Người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí lại có vợ theo: ● Xấu xí
● Tính cách có phần hơi dở hơi ● Nghèo, dân ngụ cư
-> Ở Tràng hội tụ đầy đủ những yếu tố để khó, thậm chí không lấy được vợ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
+ Giữa lúc đói khát, nuôi thân còn chẳng xong vậy mà Tràng lại dám “đèo bòng”,
“rước cái của nợ đời ấy về”.
+ Tràng lấy được vợ, nhặt được vợ âu cũng chỉ qua hai lần gặp tình cờ, chỉ với mấy
câu nửa đùa nửa thật vậy mà người đàn bà đã theo Tràng về
-> Cái công việc mà xưa nay người ta vẫn cho là khó lại vô cùng tình cờ, dễ dàng đối với Tràng. - Éo le:
+ Tràng lấy vợ là việc được hưởng cái hạnh phúc lớn nhất của một đời người giữa
cảnh “tối sầm lại vì đói khát”, giữa cái lúc mà cái chết và sự sống ranh giới mong
manh, tưởng như âm - dương không có sự cách biệt.
-> Chen vào hạnh phúc là nỗi lo chạy trốn cái đói, nỗi lo níu kéo sự sống.
+ Duyên cớ để đưa họ đến với nhau cũng thật buồn lòng: đó là cái đói. Ở đây, mấy bát
bánh đúc thay cho trầu cau dẫn cưới. Nếu không vì cái đói đưa đẩy thì Tràng cũng khó lòng lấy được vợ
-> Sự thật đáng buồn.
* Phản ứng của mọi người trước sự kiện Tràng có vợ
- Những người dân trong xóm ngụ cư:
+ “Người trong xóm lạ lắm”, họ “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán” -> Ngạc nhiên tột độ.
+ Sự kiện lạ lùng ấy đem đến một “cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói
khát, tăm tối” của họ, làm những khuôn mặt “hốc hác, u tối” bỗng dưng “rạng rỡ hẳn lên”.
+ Họ “cười rung rúc” rồi có người thở dài.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
+ Tất cả cùng “nín lặng” khi có người nói “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về.
Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?” - Bản thân Tràng:
+ Mọi chuyện nhanh chóng quá đến mức chính Tràng - người trong cuộc cũng cảm thấy ngạc nhiên.
+ Nhìn thị ngồi giữa nhà mà Tràng “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”
- Bà cụ Tứ - mẹ Tràng:
+ Vô cùng ngạc nhiên trước thái độ vồn vã, khác thường của đứa con trai
+ Bà “hấp háy hay con mắt nhìn Tràng” rồi băn khoăn hỏi Tràng “Có việc gì thế vậy?”
+ Ngạc nhiên khi nhìn thấy người đàn bà trong nhà:
● Bà “đứng sững lại”
● Trong đầu bà cụ hiện lên một loạt những câu hỏi: “Quái sao lại có người đàn bà
nào ở trong ấy nhỉ?”, “sao lại chào mình bằng u?”…
=> Băn khoăn, ngạc nhiên.
+ Khi đã hiểu rõ cơ sự bà lão “cúi đầu nín lặng”, thương xót cho số kiếp đứa con mình.
+ Bà cụ Tứ cảm thấy tủi thân, xót xa vì chưa làm tròn bổn phận làm cha mẹ “người ta
dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ
cái mở mặt sau này, còn mình thì...” -> Độc thoại nội tâm thể hiện tâm lí nhân vật.
+ Sau đó là “mừng lòng”, chấp nhận con dâu, khuyên nhủ các con đầy lạc quan…
* Ý nghĩa của tình huống truyện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
- Tình huống truyện là một trong những yếu tố để làm nổi bật chủ đề tác phẩm đồng
thời tạo điều kiện cho nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật.
- Tạo cho tác phẩm có được kết cấu chặt chẽ. Các sự việc, các chi tiết khác được kể
tới đều xoay quanh tình huống này.
- Tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít đẩy con người đến bước đường cùng, biến
giá trị con người thành số không.
- Thể hiện được cái tình của người lao động nghèo và tấm lòng nhân hậu đầy yêu thương của bà mẹ
- Nói lên được lòng ham sống, bản chất lạc quan của người lao động đang bị lâm vào cảnh khốn cùng. c) Kết bài
- Khái quát ý nghĩa của tình huống nhặt vợ đối với tác phẩm
- Cảm nhận của em về tình huống. Dàn ý số 2 a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
● Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với "đất", với "người", với "thuần
hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn.
● Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đó
có Vợ nhặt của Kim Lân.
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề : Tình huống truyện độc đáo trong Vợ Nhặt. b) Thân bài
* Khái niệm tình huống truyện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
● Tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt mà
tại đó cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất, bộc lộ rõ nét nhất ý đồ tư tưởng của tác giả.
● Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại.
* Phân tích tình huống nhặt vợ
- Bối cảnh xây dựng tình huống truyện:
+ Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.
+ Một không khí ảm đạm, thê lương, những người sống luôn bị cái chết đe dọa.
- Tóm tắt tình huống: Vốn là một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai, ế ẩm lại nghèo, thế
mà Tràng đã “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng ngay trong những
ngày đói chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời bông đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc…
- Các chi tiết độc đáo của tình huống truyện:
+ Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ "ế" vợ rất cao:
● Ngoại hình xấu xí, thô kệch.
● Tính tình có phần không bình thường.
● Ăn nói cộc cằn, thô lỗ.
● Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.
● Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.
+ Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai họa (theo lô gíc tự nhiên).
+ Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ
● Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên.
● Bà cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên
● Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn "ngờ ngợ".
+ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
● Nếu không phải năm đói khủng khiếp thì "người ta" không thèm lấy một người như Tràng.
● Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được.
* Giá trị của tình huống truyện
- Giá trị hiện thực:
+ Phác họa tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
● Cái đói dồn đuổi con người.
● Cái đói bóp méo cả nhân cách.
● Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
+ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
- Giá trị nhân đạo
+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.
● Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.
● Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt"
● Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.
+ Con người luôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:
● Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.
● Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự định
thiết thực tạo niềm tin cho con dâu vào một cuộc sống tốt đẹp.
● Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật. c) Kết bài
● Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
● Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Tóm tắt tình huống truyện Vợ nhặt
Vốn là một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai, ế ẩm lại nghèo, thế mà Tràng đã “nhặt”
được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng chỉ băng mấy câu hát, mấy lời bông đùa
“tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc…
Tràng lại “nhặt” được vợ trong một hoàn cảnh trớ trêu: giữa lúc nạn đói khủng khiếp
đang xảy ra, đe dọa cuộc sống của mọi người. Bản thân Tràng gắng sức đi làm kiếm
tiền nuôi bản thân mình và mẹ già đã khó, nay lại “đèo bòng” thêm một người “vợ
nhặt”. Trước tình cảnh này, việc Tràng “nhặt” được vợ không biết nên mừng hay nên
lo, nên vui hay nên buồn, là một dịp may hay là điều rủi ro… Đó thực sự là một tình
huống nghệ thuật độc đáo.
Tình huống truyện Vợ nhặt Bài làm mẫu 1
Giá trị của một tác phẩm truyện không chỉ được thể hiện qua cốt truyện, đối tượng
phản ánh, nghệ thuật xây dựng truyện mà còn được thể hiện qua tình huống truyện
độc đáo. Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt đã xây dựng được tình huống truyện đặc
sắc, qua đó không chỉ góp phần làm nổi bật chủ đề truyện mà còn tạo ra sự hấp dẫn,
kích thích đam mê khám phá nơi người đọc.
Ngày từ tên nhan đề, ta đã thấy có chút gì đó phi lý. Vợ vốn là người phụ nữ của gia
đình, là người mà muốn lấy phải cưới xin, lễ hỏi đàng hoàng. Nhưng ở đây tác giả lại
gọi với cái tên "Vợ Nhặt" thì chắc chắn là có uẩn khúc gì đây?
Sự độc đáo trong câu chuyện là tình huống Tràng nhặt được vợ. Tình huống này trong
câu chuyện nó vừa thật lạ lại thật éo le.
Trong tình huống này, điều đầu tiên mà ta cảm nhận được đó là sự bất ngờ, quá khác
thường khi Tràng lấy được vợ ngay trong nạn đói. Tràng là một người đàn ông nghèo
khổ, xấu xí với :" hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm
bạnh ra, rung rung...". Không chỉ thô kệch, xấu xí, Tràng còn có gia cảnh nghèo khó,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
sống cùng mẹ già ở xóm ngụ cư. Có thể nói Tràng khó có thể lấy được vợ trong hoàn
cảnh thường, càng trở nên xa xỉ khi nạn đói xảy ra, thế mà trước sự ngạc nhiên của tất
cả mọi người, Tràng lại dẫn về một người vợ.
Cái lạ thứ hai là giữa cơn hoạn nạn, khi mà cái đói đang rình rập, chực chờ lấy mạng
sống của bất kỳ ai trong xã hội lúc bấy giờ, đến thân Tràng, mẹ Tràng còn không biết
sống chết khi nào thì Tràng lại lấy Thị về làm vợ. Người ta xưa nay dựng vợ gả chồng
cho con cũng là khi gia đình sung túc, có của ăn của để hay ít ra cũng có chút vốn mà
làm ăn. Tràng lại khác, lấy vợ lúc khốn cùng của sự đói, chẳng biết tương lai sẽ ra sao,
cũng chẳng tính toán lo toan, đùng ngày lại lấy vợ. Cái lạ nhất có lẽ là khi câu nói
bông đùa của Tràng lại trở thành lời "cầu hôn" đối với Thị. Chỉ cuộc gặp tình cờ,
buông lời đùa giỡn mà Tràng lại có được vợ. Việc lấy vợ là việc hệ trọng, lấy được vợ
cũng đâu phải dễ dàng gì, vậy mà với Tràng thì lại rất dễ dàng.
Trong tình huống truyện ấy, sự lạ đã khiến không ít người đọc phải bật cười, nhưng có
lẽ, đó là những nụ cười chua xót. Bởi làm sao có thể thôi nghĩ suy khi tình huống
Tràng nhặt được vợ cũng đầy éo le lúc ấy. Năm đó là những năm mòn mỏi, cái đói ghì
sát mặt, Tràng lấy thị về trong cảnh cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc. Niềm
hạnh phúc nhỏ bé ấy không thể thắng nổi cơn cuồng phong của đói khát đang hả hê
nhấn chìm từng chút, từng chút một trên mảnh đất của làng Ngụ Cư ấy. Những xác
chết vật vờ, mạng sống mong manh, hạnh phúc cũng mong manh, nỗi lo lắng nhất lúc
này là làm sao chạy trốn được sự đói khổ. Thị đã nhận Tràng là chồng, theo Tràng về
nhưng thiết nghĩ nếu không có mấy bát bánh đúc, không vì quá đói khát thì Thị liệu có
thể theo Tràng về không?
Trước hình ảnh Tràng dắt Thị về, ai cũng đều tỏ ra thích thú, tò mò và lạ lẫm. Người
ta vừa mừng cho anh, lại vừa cay đắng, xót xa cho anh. Bởi có lẽ trong lòng ai cũng
hiểu được rằng, cái thời thế đảo điên này rước nhau về chỉ thêm nợ, thêm bồng mà
thôi. Mẹ Tràng- bà cụ Tứ cũng vậy, cũng mừng mừng tủi tủi vì con mình cũng có vợ,
rồi cũng lo lắng bất an và thương xót cho con mình. Dù bứt rứt, bồn chồn, dù tủi thân
xót phận, người mẹ ấy cũng mừng lòng chấp thuận cho con, bà dặn con cùng nhau cố
gắng, khuyên nhủ con phải gắng sức làm ăn. Bát cháo cám đắng chát trong bữa cơm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
ngày đầu chứa chan bao thương cảm, đằng sau ấy là cả tấm lòng người mẹ, mang cả
niềm tin và hy vọng của người mẹ gửi gắm nơi con. Và trong tình huống ấy, bản thân
Tràng cũng đầy lạ lẫm, sự việc đến với Tràng quá nhanh khiến Tràng cũng bất ngờ
trong sự ngạc nhiên khó tả. Tràng cũng thấy sung sướng vô bờ trong thứ hạnh phúc
mong manh mà có lẽ bấy lâu hắn vẫn từng mong có được, niềm vui ấy khiến Tràng
thấy mình phải có trách nhiệm hơn với tương lai, với gia đình của mình.
Qua tình huống nhặt vợ của anh Tràng, ta không khỏi xót xa trước cảnh ngộ khốn khổ
của những con người trong nạn đói, thế nhưng vượt qua bóng tối của cái tàn tạ, thê
thảm ta thấy sáng lên ánh sáng của tình người. Đứng trước ranh giới mong manh giữa
sự sống và cái chết, Tràng và bà cụ Tứ vẫn quyết định cưu mang người vợ nhặt, đối
đãi với thị bằng cả tấm lòng. Cũng trong ám ảnh đói khát ấy, Tràng và người vợ nhặt
vẫn quyết định sống cùng nhau, xây dựng hạnh phúc gia đình và mong ước đến những điều tốt đẹp.
Nhà văn Kim Lân, một nhà thơ thấu hiểu sâu sắc và đồng cảm với cuộc sống của
những người nông dân đã viết nên một tác phẩm truyện vô cùng có giá trị. Tình huống
truyện "có một không hai" ấy đã góp phần thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm, quá đó tố
cáo đanh thép xã hội thực dân tàn bạo đã đẩy con người tới sự khốn khổ tận cùng.
Đồng thời, bộc lộ niềm xót thương tới số kiếp của những kiếp người nghèo khổ. Bài làm mẫu 2
Nạn đói năm 1945 đã trở thành một nỗi đau khủng khiếp của dân tộc ta khi nạn đói ấy
đã cướp đi của đất nước ta hơn hai triệu đồng bào. Nạn đói ấy đã đi vào trong bao
trang sách, những dòng văn, dòng thơ của các nhà văn nhà thơ và một trong số đó là
tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Tác phẩm kể về cuộc sống đời thường của
những con người đang vật vờ giữa nạn đói năm 1945. Trong truyện ngắn này, Kim
Lân đã dựng lên một tình huống truyện vô cùng đặc sắc, độc đáo và mới lạ trong Vợ
nhặt, đồng thời qua đó, ông cũng thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Tình huống truyện vốn là những sự kiện, hoàn cảnh đặc biệt trong tác phẩm mà qua
đó, tác giả muốn bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình cũng như bộc lộ được tính
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
cách, số phận của các nhân vật. Tình huống truyện là một lát cắt từ cuộc sống, tái hiện
cả một xã hội thu nhỏ trong đó. Nó là hạt nhân, điểm nhấn cho ta thấy được một phần
của cuộc sống, xã hội và con người. Đó là định nghĩa về một tình huống truyện, vậy
tình huống truyện trong Vợ nhặt có gì đặc sắc?
Nếu chú ý, người ta có thể nhận ra sự đặc biệt của tác phẩm ngay từ nhan đề của nó,
đó là Vợ nhặt. Nhan đề của tác phẩm gần như đã thu hút được hết sự chú ý của người
đọc vào nó, khiến người ta háo hức đi tìm hiểu câu chuyện, bước vào trong cái tình
huống đặc biệt mà Kim Lân đã cố sức tạo nên. Tình huống đó là một anh cu Tràng
xấu xí, con nhà nghèo lại "nhặt" được một cô vợ giữa lúc nạn đói năm 1945 đang
hoành hành dữ dội nhất. Chỉ vậy thôi cũng khiến người đọc phải băn khoăn, phải lo
lắng rồi! Bởi giữa lúc mà đến bản thân còn không lo nổi, lại rước thêm "của nợ" về thì
biết sống làm sao? Đó chính là cái đặc biệt, cái khác lạ mới mẻ trong câu chuyện của
Kim Lân, đó cũng chính là thứ đã tạo nên được giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm này.
Với nhan đề "Vợ nhặt" thật độc đáo, "vợ" nhưng không phải "vợ cưới" mà lại là "vợ
nhặt", nghe sao thật rẻ rúng quá đỗi. Nhan đề đã tạo nên sự hấp dẫn, một sự tò mò cho
người đọc, bởi một chuyện trọng đại như lấy vợ mà ở đây lại "nhặt" được, thật quá
sức bất ngờ! Thế nhưng, phải bước hẳn vào trong câu chuyện của Kim Lân, người đọc
mới thực hiểu được "vợ nhặt" ấy là thế nào và hẳn ai đọc xong, cũng không khỏi ấn
tượng, không khỏi đồng cảm cho số phận của những con người trong Vợ nhặt của tác giả Kim Lân.
Người ta nói, Vợ nhặt là một tác phẩm truyện chứa đựng tình huống truyện độc nhất
vô nhị, mới lạ và cực hấp dẫn. Điều đó thể hiện ở bối cảnh của truyện, ở cái tình
huống vừa lạ lùng vừa éo le mà Kim Lân dựng lên.
Bối cảnh mà Kim Lân dùng để xây dựng lên tác phẩm là xã hội Việt Nam năm 1945,
khi mà nạn đói khủng khiếp ấy tràn đến, cướp đi của dân tộc ta hơn hai triệu đồng
bào. Giữa cái bối cảnh ấy, mọi sự đều trở nên u ám, tối tăm, bởi cuộc sống của con
người lúc nào cũng bị bủa vây bởi cái chết. Cái chết cứ rình rập, nhăm nhe trong từng
câu chữ, con người trở nên "xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
lều chợ", ám ảnh, thê lương vô cùng. Ở trong cái tình thế như vậy, đến lo ăn cho chính
mình còn khó khăn, chẳng ai dám nghĩ tới một chuyện gì khác, mà nhất là cái chuyện
dựng vợ gả chồng vào thời điểm này.
Ấy thế mà, giữa lúc đó, ở giữa cái xóm ngụ cư ấy, lại xảy lại một câu chuyện lạ khiến
người ta phải bàn tán, có người thì vui mừng, có người thì thở dài xót xa, đó là chuyện
anh cu Tràng lấy vợ. Thật là một sự kiện vừa lạ lùng lại éo le hết sức. Bởi trong cái
bối cảnh run rủi kia, chẳng ai biết cái chết sẽ tìm đến mình và gia đình mình lúc nào,
còn anh cu Tràng lại "rước" về một cô vợ. Nó vừa gây cho người ta sự thích thú
nhưng cũng khiến người ta phải lo sợ cho số phận phía trước của gia đình Tràng.
Nói tình huống truyện Vợ nhặt lạ và éo le ở chỗ, lạ là anh cu Tràng lấy được vợ, éo le
ở chỗ, anh ta lại lấy vợ vào lúc mà con người ta không muốn lấy nhất, lo lắng cho
cuộc sống của mình nhất.
Vậy tại sao chuyện anh cu Tràng lấy được vợ lại khiến cho người khác phải ngạc
nhiên, phải coi là chuyện lạ lùng đến thế? Đó là bởi vì Tràng hội tụ tất cả những yếu
tố, những đặc điểm khó để có thể có một người vợ, đặc biệt là trong cái hoàn cảnh như
hiện tại. Hắn không chỉ nghèo, sống giữa một "xóm ngụ cư", chỉ có một căn nhà lụp
xụp vách lá với người mẹ già mà còn phải đi làm thuê, kéo thóc thuê cho người ta,
"bữa đực bữa cái". Mà ở đời, người ta vẫn tránh nhất hai tiếng “ngụ cư”, bởi hai cái từ
ấy đã nói lên cái khinh miệt, miệt thị đối với những người dân ngụ cư:
“Trai làng ở góa còn đông
Cớ sao e phải lấy chồng ngụ cư?”
Cuộc sống giữa cái xóm ngụ cư nghèo ấy còn chẳng đủ đảm bảo cho hắn và mẹ già
qua nổi cái nạn đói này, huống chi là phải gánh thêm một miệng ăn khác nữa. Không
chỉ thế, hắn lại còn xấu xí và thô kệch, "cái đầu trọc nhẵn", "cái lưng to rộng như lưng
gấu", "hai con mắt nhỏ tí", "bộ mặt thô kệch", "thân hình to lớn, vập vạp", …Ngoại
hình thì thế, hắn còn thô lỗ và ăn nói cộc cằn nữa. Vậy nên, liệu với một ngoại hình
như thế, một tính cách như thế, hắn có lấy nổi vợ với cái gia cảnh của mình chăng?
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Mà không chỉ có vậy, điều quan trọng nhất trong thời điểm này đó là nạn đói đang
diễn ra trầm trọng, cái chết đeo bám con người từng ngày, từng giờ "người chết như
ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn
cái thây nằm còng queo bên đường". Với tất cả những đặc điểm trên, Tràng thực sự
khó kiếm nổi một cô vợ cho mình mà cũng không nên lấy vợ ở thời điểm này. Bởi nếu
hắn lấy vợ ở thời điểm này thì thật chẳng khác nào tai họa, chẳng khác gì "rước thêm
của nợ đời", là "đèo bòng", đẩy chính hắn vào cái bi kịch của nạn đói nhanh hơn một bước.
Thế nhưng, cuộc đời chẳng biết được sự ngờ khi mà chính tại cái thời điểm không
mong muốn nhất thì có một người phụ nữ đồng ý theo hắn về nhà làm vợ, và hắn có
thể nghiễm nhiên trở thành một người đàn ông có vợ. Cái sự "có vợ" của hắn đến bất
ngờ như một cơn mưa rào giữa trưa hè nóng nực. Bởi chỉ với một câu bông đùa trong
lúc đang gò lưng kéo xe thóc lên dốc, khi hắn chứng kiến những người đàn bà ngồi
bên lề đường mà “hắn đoán họ ngồi đấy để nhặt hạt rơi hạt vãi”. Đứng trước cái cảnh
ấy, chẳng hiểu sao, Tràng lại hò lên một câu hò đầy tình tứ, chỉ để mà “chơi cho đỡ
nhọc”: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!”. Một câu
hò tưởng chừng vô ý, ấy thế mà cô nàng lại “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Một
cái cười “tít mắt” của Thị đã khiến cho Tràng phải “thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến
giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Đó là cái duyên cớ họ
quen nhau, và cái câu hò ấy như là một cái lý do, một chiếc phao cứu sinh, một nhịp
cầu dẫn đường cho họ đến với nhau. Và đúng như vậy, lần thứ hai gặp nhau, đó là khi
Tràng đã trả hàng xong, ngồi uống nước thì Thị ở đâu chạy lại. Nếu như không có câu
hò ấy làm dấu hiệu thì liệu Tràng có nhận ra người đàn bà “rách quá, áo quần tả tơi
như tổ đỉa, thị gầy sọp đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”
kia là người đã cùng đẩy xe bò với mình hay chăng? Nhìn Thị chắc hẳn Tràng cũng
hiểu, cái đói đã dày vò Thị, nhìn Thị, Thị đang là nạn nhân của cái đói mà nếu không
có cái ăn, chỉ một vài ngày nữa thôi, Thị cũng sẽ giống như những người chết đói
khác. Lúc đó, trong lòng Tràng bừng lên cái cảnh giác thương cảm đồng loại, và thế là
Tràng quyết định mời Thị ăn: “muốn ăn gì thì ăn”. Câu nói đó như đánh trúng cái tâm
lý của Thị, Thị chỉ đáp trả bằng một câu hời hợt “Ăn thật nhá, ừ thì ăn sợ gì”, và thế là
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Thị làm một chặp “bốn bát bánh đúc”. Nhìn Thị ăn, chắc hẳn có người sẽ nghĩ Thị là
loại đàn bà con gái trơ trẽn, không có liêm sỉ, nhưng đặt mình vào hoàn cảnh của Thị
thì mới hiểu, mới thương và xót xa cho Thị. Người ta tự hỏi cái gì đã khiến Thị mất đi
lòng tự trọng, cái gì đã khiến cho Thị không màng tới liêm sỉ như thế? Chẳng phải đó
là cái đói, cái chết hay sao? Bởi vậy, Thị đáng thương hơn là đáng trách, đáng tội
nghiệp hơn là đáng phải chịu lời khinh bỉ. Xong bữa ăn, Thị vô từ “thở: Hà ngon! Về
chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”, một câu nói lịch sự vu vơ nhưng lại được Tràng đáp
trả: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ, có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi
cùng về”. Một câu nói đùa của Tràng mà Thị làm thật, thế là trở thành một đôi vợ
chồng. Cái đám cưới của Thị và Tràng vội vàng, nhanh chóng và đơn giản đến bất
ngờ. Chẳng có cỗ bàn linh đình, chẳng mổ bò giết lợn, tất cả chỉ gói gọn trong bốn bát
bánh đúc, vậy mới nói, chuyện anh cu Tràng lấy vợ là một chuyện lạ ở đời.
Có những người cho rằng, ở thời điểm đó, hắn nên từ chối, bởi người ta chẳng biết
ngày mai ra sao, cái đói, cái chết có tìm đến mình hay không mà cưới vợ, thì hắn lại
bỏ mặc tất cả với một tiếng "chặc lưỡi: "chặc, kệ!". Và thế là hắn có vợ, thế nhưng cái
sự có vợ của hắn lại là một tình huống éo le nhất mà chúng ta từng đọc.
Bởi xưa nay, việc dựng vợ gả chồng luôn là việc hệ trọng bậc nhất, là niềm hạnh phúc
lớn lao nhất của đời người. Mỗi khi nhắc đến việc cưới vợ cưới chồng, cả gia đình
phải cùng nhau tính toán, không chỉ là lễ vật mà còn phải là ngày lành tháng tốt để
rước dâu. Ấy vậy mà với Tràng, "giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy" thì hắn lấy
vợ. Không có một tính toán, không có một lời dạm hỏi hay tình yêu, tất cả chỉ đơn
giản bắt nguồn từ một câu nói đùa. Hạnh phúc lớn nhất đời người của Tràng được đổi
bằng "bốn bát bánh đúc" nóng hổi khiến cho ai cũng phải bất ngờ và ngạc nhiên vô
cùng. Cái hạnh phúc lớn nhất đời người kia tưởng phải vẹn tròn thì giờ đây bị chen
ngang bởi cái đói, cái chết bởi nạn đói đang hoành hành dữ dội khắp nơi.
Nếu như xưa nay, vợ chồng đến với nhau không phải vì tình yêu thì cũng nhờ mai mối
đưa đẩy, thì Tràng lại khác. Cái duyên đưa đẩy Tràng và Thị đến với nhau lại chính là
cái đói. Chỉ với mấy bát bánh đúc, Thị đã bằng lòng theo Tràng về nhà để trở thành
dâu con trong nhà. "Bốn bát bánh đúc" ấy đã thay cho mấy lễ trầu cau dẫn cưới, "ba
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
bò chín trâu" lễ vật, một cái giá không thể có nếu như không phải nạn đói đang xảy ra,
và khi đó, hiển nhiên, Tràng cũng chẳng thể lấy nổi với cái gia cảnh của mình.
Thế mới nói, Tràng lấy vợ đã trở thành một tình huống éo le bậc nhất trong lịch sử
văn học Việt Nam, bởi hắn không chỉ lấy vợ trong bối cảnh đặc biệt: nạn đói và còn
bởi duyên phận kéo vợ chồng hắn đến với nhau cũng là cái đói trong những năm tháng
ấy. Đám cưới diễn ra nhanh chóng, cái cuộc đưa dâu cũng diễn ra chỉ vỏn vẹn có cô
dâu và chú rể dắt díu nhau trở về căn nhà lụp xụp cuối xóm ngụ cư. Một đám cưới trên
nền cái đám tang của dân tộc, của vô số những con người khác. Như những người
khác nhìn vào, Tràng đã “liều”, hắn đang đánh cược số phận của mình với thần chết,
bởi cái thời buổi này, nuôi thân còn khó chứ đừng nói chi “đèo bòng”. Và Thị nữa,
Thị cũng thật "liều” khi nhắm mắt đưa chân theo một kẻ xa lạ. Đến khi nhìn thấy cái
nhà của Tràng, Thị mới “nén một tiếng thở dài”, cũng đúng thôi, bởi Thị chắc hẳn thất
vọng khi nhìn thấy gia cảnh của Tràng, liệu nó có chứa chấp nổi cái thân của Thị hay
chăng? Thế nhưng, lúc gặp Tràng, Thị đã cố bấu víu vào cái hi vọng cuối cùng để
được sống, thế nên đành “nhắm mắt đưa chân”, hi vọng rằng Tràng sẽ bến đậu cho cuộc đời của Thị.
"Nhặt" được vợ, một câu chuyện tưởng chừng như cổ tích ấy lại diễn ra vô cùng chân
thực trước mắt chúng ta, vậy những con người trong câu chuyện ấy đã phản ứng ra sao
đối với việc Tràng lấy vợ?
Đầu tiên là phản ứng của những người dân trong xóm của Tràng, những người đầu
tiên chứng kiến một cuộc đưa dâu kì lạ nhất trong đời mình. Họ chứng kiến vợ chồng
Tràng kẻ trước người sau bước những bước chân trở về ngôi nhà mình, ngang qua
những căn nhà cũng lụp xụp của họ. Và khi họ nhìn thấy người đàn bà bẽn lẽn phía
sau lưng Tràng thì “họ đứng cả trong ngưỡng cả nhìn ra bàn tán”, bởi họ ngạc nhiên
“người trong xóm lạ lắm”. Thế nhưng, nhìn thấy điều đó, dường như họ đã “hiểu được
đôi phần”, và từ trong tâm những con người nghèo khổ ấy bừng lên một điều gì đó
khiến “những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ
lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”. Rồi những tiếng cười
bùng lên, họ “cười lên rung rúc” như niềm vui bao ngày mới tìm lại được giữa một
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
cuộc sống mà cái chết cứ rình rập họ từng ngày. Thế nhưng, có người vui cười, cũng
có người hiểu cái tình cảnh hiện tại của họ, của Tràng, của Thị mà thở dài: “Ôi chao!
Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì
này không?”, và rồi họ “nín lặng”. Cái lặng thinh trong không gian như ngấm vào
trong tâm họ cả niềm vui và nỗi buồn, vui vì anh cu Tràng có vợ, họ chia sẻ với hắn
niềm vui ấy, nhưng họ cũng lo cho hắn, lo cả sang cái cuộc sống mà cái đói, cái chết
của vây hãm họ mỗi ngày này.
Còn đối với anh cu Tràng, lấy vợ - một chuyện đại sự cả đời lại xảy ra chỉ trong vài
giờ ngắn ngủi, Tràng đi từ ngạc nhiên, bất ngờ tới nỗi sợ hãi rồi sau cùng là niềm vui,
hạnh phúc. Hắn ngạc nhiên là bởi vì chỉ với một câu đùa với dăm ba bát bánh đúc mà
Thị đã bằng lòng theo hắn trở về nhà. Bởi hắn hiểu hoàn cảnh của mình, hiểu rõ bản
thân mình hơn ai hết, nhất là trong cái giai đoạn này, ai dám đặt cược bản thân mình
vào một kẻ nghèo, xấu xí, sống giữa xóm ngụ cư như hắn chứ? Vậy nên, cái gật đầu
bằng lòng của Thị đã khiến hắn bàng hoàng quá đỗi! Và tiếp sau đó là sự sợ hãi dâng
lên trong lòng Tràng “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân
mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Thế nhưng, nỗi sợ hãi ấy
dâng lên trong lòng Tràng chỉ vài tích tắc, bởi sau đó hắn đã “chặc lưỡi một cái: chặc,
kệ!”. Giờ đây, hắn chỉ thấy bừng lên trong lòng mình niềm hạnh phúc, niềm vui khi có
được một người vợ, có được hạnh phúc gia đình. Chẳng thế mà anh chàng “tủm tỉm
cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, nhìn nàng dâu mới “ngượng nghịu,
chân nọ bước díu cả vào chân kia”, hắn càng vui sướng “cái mặt cứ vênh lên tự đắc
với mình”, “hắn thích chí cười khanh khách”. Niềm vui sướng về hạnh phúc gia đình
đã khiến hắn “hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên đi
cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong
lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”. Niềm hạnh
phúc ấy đến với Tràng bất ngờ quá, nhanh chóng quá, giữa hoàn cảnh đói khát nhất,
để đến khi tỉnh dậy vào sáng sớm hôm sau “hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.
Bậc làm cha làm mẹ luôn mong muốn con cái mình có được những điều tốt đẹp nhất,
hạnh phúc nhất. Ai cũng vậy và bà cụ Tứ - mẹ Tràng cũng không phải ngoại lệ. Người
mẹ già cũng mong muốn con trai mình có được một hạnh phúc nhỏ riêng mình, thế
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
nhưng bà hiểu được hoàn cảnh của gia đình mình, hiểu được con trai bà, và hơn hết,
hiểu được cái giai đoạn mà cái chết khủng khiếp đang gần kề thế này. Chính vì thế,
khi Tràng dẫn người vợ mới trở về gian nhà ọp ẹp, tâm trạng bà mới đầy những cảm xúc khó tả.
Đầu tiên là sự ngạc nhiên, bà ngạc nhiên khi thấy Tràng đon đả hơn thường ngày, thái
độ vồn vã của Tràng đã báo hiệu cho bà một linh cảm khác lạ. Và bà càng ngạc nhiên
hơn khi nhìn vào trong nhà của mình lại thấy một người đàn bà khác đang đứng ngay
trên “đầu giường của thằng con mình” và chào bà bằng u. Bà cụ băn khoăn tự hỏi
chính bản thân mình “Ai thế nhỉ?”, bởi bà chưa từng nghĩ, đứa con trai của mình lại có
thể có vợ giữa lúc tối tăm thế này. Thế rồi, bà nghe Tràng nói, bà “cúi đầu nín lặng”.
Lòng người mẹ già nặng trĩu bao điều. Bà vui mừng bởi đứa con trai của bà nay đã có
người bầu bạn vui cùng, thế nhưng, bà lại tủi phận cho cái kiếp nghèo đeo đuổi gia
đình bà bao lâu nay “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn
nên làm nổi… Còn mình thì…”. Những nỗi lo âu giằng xé tâm can người mẹ già “biết
rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi đó
dằn vặt tâm can bà, chất chứa nỗi hoang mang, chua xót cho số kiếp của mình, của
những đứa con mình. Sự nghẹn ngào của bà, nỗi xót xa, sự ân hận khi không thể làm
tròn được bổn phận của một người mẹ “năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc
này, u thương quá!”. Thế nhưng, sau tất cả những dằn vặt, nghẹn ngào và ân hận ấy, là
niềm vui mừng của bà dành cho đôi trẻ “u cũng mừng lòng”. Bà cũng truyền cho vợ
chồng Tràng những niềm lạc quan, cái hi vọng bà gieo cho họ về một tương lai tươi
sáng phía trước “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may ông giời
cho khá…". Đó là tất cả tấm lòng của người mẹ già dành hết cuộc đời mình vì con vì cái.
Mỗi nhân vật ở trong câu chuyện đều có một tâm trạng, sự phản ứng khác nhau trong
sự kiện Tràng lấy vợ. Ở đó có niềm vui, niềm hạnh phúc của Tràng khi khao khát
hạnh phúc gia đình đã thành hiện thực, của bà cụ Tứ khi đứa con trai đã có người bầu
bạn cùng, thế nhưng, cũng có những nỗi buồn, sự xót xa. Bởi Tràng lấy vợ giữa một
hoàn cảnh đầy éo le, đầy những run rủi và bất trắc, bởi giữa cái nạn đói kia, kết hôn
chính là “đèo bòng”, là “rước của nợ đời”, không biết có nuôi nổi không.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Tình huống truyện trong tác phẩm Vợ nhặt đã làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm,
đồng thời còn tạo điều kiện để nhà văn khai thác thế giới nội tâm của nhân vật một
cách chân thực và sâu sắc nhất. Kim Lân đã khéo léo xây dựng một tình huống truyện
đặc sắc, độc đáo bậc nhất nền văn học Việt Nam. Tình huống ấy không chỉ làm rõ cái
tình cảnh thê thảm của những người dân ta trong nạn đói khủng khiếp 1945 mà còn
thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những tăm tối trong số phận con người trước
Cách mạng Tháng Tám 1945 nữa. Bài làm mẫu 3
Vợ nhặt của Kim Lân được khai thác từ đề tài nạn đói năm 1945 nhưng cái đọng lại
sau cùng của người đọc về tác phẩm không phải là ám ảnh về cái chết, sự mất mát mà
là ánh sáng ấm áp của tình người. Đứng trên ranh giới của sự sống và cái chết, con
người vẫn dành cho nhau những tình cảm chân thành, đẹp đẽ nhất, đúng như Nguyễn
Khải đã từng viết “ sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong
những gian khổ, hi sinh”. Xây dựng được tình huống truyện đặc sắc, tác giả Kim Lân
trong Vợ nhặt không chỉ thu hút được sự quan tâm, kích thích sự tò mò, khám phá của
độc giả mà qua đó còn thể hiện được bao quan điểm nhân sinh sâu sắc.
Tình huống truyện được hiểu là những diễn biến, sự kiện đặc biệt, phức tạp. Tình
huống truyện càng độc đáo thì câu chuyện càng hấp dẫn. Trong truyện ngắn vợ nhặt,
Kim Lân đã xây dựng được tình huống vừa lạ lùng, vừa éo le, một tình huống mang
đến cho những người xung quanh câu chuyện bất ngờ, ngạc nhiên cùng bao cảm xúc phức tạp.
Tràng là chàng trai nghèo xấu xí, dáng người thô kệch với “hai mắt hí gà gà vào bóng
chiều, bộ mặt thô kệch, lưng to bè như lưng gấu”. Tràng sinh sống cùng mẹ trong một
ngôi nhà lụp xụp xóm ngụ cư. Có thể nói với điều kiện của anh Tràng thì khó có thể
lấy được vợ trong hoàn cảnh bình thường, càng bất khả thi hơn khi nạn đói xảy ra.
Thế nhưng trong sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, trong đó có cả người trong cuộc
là Tràng, Tràng đã có vợ, nói đúng hơn là “nhặt” được vợ trong lúc nạn đói diễn ra khủng khiếp nhất.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân Tình huống nhặt được vợ
của anh Tràng là tình huống lạ lùng nhưng không kém phần éo le, trái ngang, khi sự
việc diễn ra người dân xóm ngụ cư không biết nên mừng cho anh Tràng hay buồn vì
sự kiện ý nghĩa nhất của đời người lại diễn ra trong khung cảnh đói khát, liệu hạnh
phúc ấy có được lâu bền hay không. Ngay bản thân bà cụ Tứ khi biết con trai có vợ
cũng trải qua những cảm xúc vô cùng phức tạp, từ ngạc nhiên lo lắng, vui mừng cho
hạnh phúc của con, buồn tủi vì làm mẹ mà không lo được cho con.
Cảnh đám cưới của Tràng và chị vợ nhặt cũng diễn ra thật lạ lùng, sự kiện hạnh phúc
có ý nghĩa thiêng liêng nhất của đời người nhưng lại được diễn ra trong không khí
ngột ngạt, u tối bởi ám ảnh đói khát, khi sự sống và cái chết chỉ cách biệt bởi ranh giới
vô cùng mỏng manh. Tình huống để Tràng và người vợ nhặt quen biết rồi đi đến quyết
định gắn bó cả đời với nhau cũng chỉ là những câu nói đùa vu vơ, vài bát bánh đúc.
Hoàn cảnh gặp mặt có phần hài hước, lạ lùng ấy lại là nút thắt quan trọng gắn kết giữa
hai con người, từ những người xa lạ họ đã gắn kết với nhau bởi mối quan hệ đặc biệt.
Lấy vợ khi nạn đói hoành hành tuy có thiếu thốn về vật chất nhưng cả Tràng và người
vợ nhặt đều có chung khao khát hạnh phúc, có niềm tin vào cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.
Trong tình huống độc đáo, ấn tượng ấy người đọc còn ấn tượng bởi tâm trạng của
những người dân xóm ngụ cư và của chính bản thân Tràng. Những người dân xóm
ngụ cư đã quen nhìn Tràng là một chàng trai xấu xí với nụ cười hềnh hệch, chàng trai
nghèo mà xấu xí ấy ngỡ như không bao giờ lấy được vợ lại có vợ trong tình huống
không ai ngờ đến nhất. Nhìn người đàn bà e thẹn, rón rén đi sau Tràng mọi người đều
vô cùng ngạc nhiên “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán”. Chính sự kiện lạ
lùng ấy đã mang đến một không khí tươi mát, lạ lùng vào không khí u ám vì đói khát
làm cho cuộc sống của những người dân nghèo ấy có phần đổi khác so với thường ngày.
Tuy nhiên, những người dân xóm ngụ cư cũng tỏ thái độ lo lắng cho tương lai của
Tràng và người vợ nhặt “ giời đất này còn rước cái của nợ….qua được cái thì này
không?” Tràng là người trong cuộc nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên vì tình huống
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
“nhặt vợ” đầy lạ lùng của mình. Khi người vợ nhặt về nhà, ngồi ở đầu giường Tràng
vẫn ngỡ như đang trong cơn mơ “ bây giờ hắn đá có vợ rồi đó ư?” Chi tiết này thể
hiện cái éo le của hoàn cảnh, anh Tràng là người dân nghèo khổ nên ngay cả khi hạnh
phúc đến vẫn không dám tin vào thực tại.
Bà cụ Tứ nhìn người đàn bà lạ ngồi trên giường lại chào mình bằng “u” bà đã rất bất
ngờ, hấp hãy đôi mắt nhìn cho kĩ, ngạc nhiên không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nạn đói
đã cướp đi sự nhạy cảm, tinh tế của người mẹ khi có con trong độ tuổi lập gia đình.
Như vậy, thông qua tình huống nhặt vợ đầy đặc biệt, tác giả Kim Lân đã tái hiện được
không khí đói khát, chết chóc của nạn đói nhưng từ cái nền đói khát đó tác giả đã làm
nổi bật lên ánh sáng của tình người, làm bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp ở những người dân nghèo khổ.
Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt Bài làm mẫu 1
Kim Lân được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng, là nhà văn một lòng đi về với đất
với người, với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của nông thôn Việt Nam. Lần đầu
tiên có một nhà văn xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai
của cuộc sống con người để tái hiện mồn một trên mỗi trang viết. Văn Kim Lân hấp
dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lý
nhân vật sắc sảo. Trong số những tác phẩm của ông thì truyện ngắn Vợ nhặt được in
trong tập " Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962 là tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
của Kim Lân. Trong tác phẩm ông đã ghi lại sự thật mặn chát của cuộc đời người
nông dân trong nạn đói 1945, tất cả sự thật nghiệt ngã ấy được nhà văn thông qua tình huống truyện Vợ nhặt.
Xây dựng tình huống là vấn đề then chốt của truyện ngắn, là cánh cửa mở ra để người
đọc đi vào khám phá giá trị của một tác phẩm văn chương. Nhà văn thường xây dựng
hoàn cảnh điển hình để đặt nhân vật vào đó khám phá vẻ đẹp tâm hồn tính cách nhân
vật đồng thời tái hiện bức tranh đời sống xã hội. Kim Lân cũng thế, ông đã tái hiện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
không gian năm đói 1945 làm phông nền cho việc anh cu Tràng nhặt được vợ. Cái
năm Ất Dậu ngày ấy đã trở thành nỗi kinh hoàng của lịch sử, là vết thương lòng không
bao giờ mờ được trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Hơn hai triệu đồng bào ta bị
chết đói là con số mà hàng trăm hàng nghìn năm sau mỗi lần nhắc tới con cháu ta
không khỏi rùng mình ghê sợ về cái thời mà trên trời từng đàn quạ đen rỉa xác người
chết đói bay lên, gào lên từng hồi thê thiết.
Dưới đất bên những gốc đa gốc gạo xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ như
những bóng ma. Người Thái Bình, Nam Định đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau
đi trông xanh xám dật dờ như những bóng ma. Không khí vẩn lên mùi ẩm mốc của rác
rưởi và mùi gây của xác người, tất cả tạo nên một bầu không khí ảm đạm tang tóc và
thê lương. Cái đói, cái chết len lỏi vào ngõ ngách, gõ cửa từng nhà, đụng chạm đến
từng người, cõi âm hòa với cõi dương, cuộc sống mấp mé bên bờ vực của cái chết.
Giữa bối cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy thì một việc hệ trọng nhất của một đời người
lại diễn ra một cách nhanh chóng vội vàng - đó là việc anh cu Tràng có vợ.
Tràng có vợ là một truyện lạ bởi hắn vốn là một người xấu trai mà dân ngụ cư cho là ế
vợ "hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm
lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn
chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng
mặt lên trời cười hềnh hệch". Nhìn Tràng chẳng khác gì sản phẩm mà tạo hóa chạm
khắc vội vàng. Thật vậy, lời văn của Kim Lân như thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi
sắc nhân vật trên từng câu chữ. Một người xấu như Tràng mà có vợ, thậm chí nhặt
được vợ đó chẳng phải là một chuyện lạ hay sao.
Không chỉ xấu mà Tràng còn rơi vào kiếp nghèo, nghèo đến tận đáy cùng của xã hội.
Hãy nhìn căn nhà mà hai mẹ con Tràng ở chẳng khác gì túp lều xiêu mưa ngã gió mọc
trên những bụi cỏ dại " lổn nhổn ", thêm vào đó tài sản của Tràng còn là một đống
quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà, là hai cái ang nước để khô
cong trơ trọi dưới gốc cây ổi , là đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi. Có thể nói
cái nghèo đã kéo ghì cuộc sống của mẹ con Tràng xuống sát đất để rồi cái chết đang
rình rập bủa vây. Kim Lân đã chọn những chi tiết rất thật, rất đời thường, lựa chọn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
những ngôn ngữ mộc mạc giản dị và gần gũi để tái hiện bức tranh hiện thực đời sống
xám ngắt trong năm Ất Dậu 1945. Đã nghèo, Tràng lại còn mang thân phận của dân
ngụ cư nên thật tội nghiệp, bởi coi khinh miệt thị dân ngụ cư đã đi sâu vào tiềm thức
đến mức trở thành lời truyền miệng:
Trai làng ở góa còn đông
Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư
Đặc biệt là ở việc Tràng có vợ chỉ với một câu nói bông đùa trong lần gò lưng kéo xe
bò thóc, hắn nhìn thấy những cô gái ngồi vêu mặt ra ở dốc tỉnh, Tràng đoán họ ngồi
đó để nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có việc gọi thì làm. Họ chính là kiếp người trôi dạt bị
cơn bão táp của đói khát đẩy xô. Trước cảnh đó Tràng cất câu hò cho đỡ nhọc chứ
không có ý chòng ghẹo cô nào:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì
Chẳng hiểu sao lúc đó chàng lại có thể nói ra những lời có cánh đến như vậy. Dẫu biết
rằng có khối đấy mà cơm trắng mấy giò thế mà Thị vẫn ton ton chạy lại đẩy xe cho
Tràng. Hắn thích chí cười tít cả mắt bởi từ ngày cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa có ai
cười với hắn tình tứ như thế. Câu hò cất lên giữa ngày đói khát sẽ chẳng bao giờ lịm
tắt mà luôn để lại dư vang, biết đâu một ngày nào đó nó trở thành chiếc phao cứu sinh
cứu vớt người chết đuối vì đói khát. Đôi khi nó là cái cớ là nhịp cầu dẫn con người
đến với nhau. Quả thật lần thứ hai khi trả hàng xong Tràng ngồi uống nước ở cổng
chợ tỉnh thì Thị ở đâu sầm sập chạy đến đứng sưng sỉa trước mặt Tràng:" Điêu! người
thế mà điêu". Thoáng đầu Tràng chẳng hiểu gì nhưng trong phút chốc Tràng nhận ra
Thị, Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trở lại hai con mắt. Nghĩa là
Thị đang mấp mé bên bờ vực của cái chết, chỉ biết dõi theo câu hò xăm xăm đi tới tìm
Tràng mà thôi, kiếp đời trôi dạt như Thị thì biết đâu là bến bờ neo đậu:" Tối đâu là
nhà, ngã đâu là giường". Thị đích thực là người của cái thời:
Con đói lả trên lưng mẹ khóc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Mẹ đợ con đi nấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi
Nhìn Thị tình yêu thương đồng loại trong Tràng trỗi dậy, hắn sẵn sàng đãi Thị "thích
ăn gì thì ăn", nghe thế hai con mắt trũng hoáy của Thị tức thời sáng lên, nghĩa là Thị
đã tìm thấy một nguồn sống: " ăn nhé"..."ăn thì ăn chứ sợ gì". Thế là Thị cắm đầu ăn
liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng nói năng gì. Nhìn Thị lúc này có vẻ như rất trơ
trẽn, Thị đã chối bỏ liêm xỉ, đánh rơi lòng tự trọng cắm đầu mà ăn. Kẻ hời hợt thì nhìn
Thị bằng cặp mắt khinh bỉ, người sâu sắc thì ngậm ngùi cám cảnh rưng rưng nước mắt
mà cảm thông xót xa cho Thị. Cái gì đã làm cho Thị đánh rơi mất lòng tự trọng? Cái
gì đã làm cho Thị trở nên trơ trẽn? Phải chăng đó là cái đói, cái chết? Vì sống cho nên
Thị phải ăn bởi sống mới là nhân văn nhân bản.
Đã có bao triết lý ném ra giữa đời để bênh vực những người như Thị, ví như ngạn ngữ
Hi Lạp cho rằng:" Có ai chết hai lần để học bài học kinh nghiệm về cái chết bao giờ
đâu" hay Nguyễn Khải đã có lúc khẳng định " Muốn chết nhưng đời còn dài nên phải
sống cho dù phải sống táo bạo, sống ghen tị với mọi người và hờn giận với chính bản
thân mình". Thật vậy, hãy một lần ta đặt mình vào hoàn cảnh của Thị ta sẽ thấu hiểu
được nỗi tủi hờn và nhục nhã trong Thị. Và như vậy Thị thật đáng thương, đáng chia
sẻ hơn là đáng trách. Xong bữa tiệc bánh đúc Thị cầm cây đũa quệt ngang miệng và
nói "hà, ngon", "về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố", Tràng nói:" làm đếch gì có vợ. Này
nói đùa chứ có về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về", Tràng cứ nghĩ mình nói
đùa, ai ngờ Thị về thật. Thế là một đám cưới diễn ra.
Tràng có vợ thực là một chuyện éo le đám cưới của Tràng và Thị cứ ngỡ như chỉ có
trong chuyện cổ tích, vậy mà nó lại là một đám cưới có thật ở xã hội Việt Nam khi
chìm dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến. Đám cưới gì mà không một lễ
nghi dạm hỏi? chẳng lẽ bốn bát bánh đúc là toàn bộ sính lễ ư? Đám cưới gì mà không
một kẻ đón người đưa, thậm chí cuộc đón dâu từ chợ huyện về xóm ngụ cư chỉ có hai
người. Cô dâu với chiếc nón rách nghiêng nghiêng che nửa khuôn mặt, quần áo rách
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
như tổ đỉa. Chú rể thị lúc nào cũng ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch tự đắc với mình.
Đám cưới đi trên nền tảng của một đám tang chung toàn dân tộc, những tưởng rằng họ
đang dắt díu nhau về cõi chết. Tràng thật liều – cái liều của Tràng là ở thời buổi này
nuôi thân mình còn chưa nổi lại còn đèo bòng. Thị cũng thật liều – Thị liều nhắm mắt
đưa than, theo không một chàng trai xa lạ về làm vợ.
Biết đâu hai cái lều hợp lại sẽ thành một tổ ấm.Về đến nhà, bước chân vào căn nhà
rúm ró xiêu vẹo, quần áo, niêu bát vứt bừa bộn cả trên giường dưới đất, Thị “nén một
tiếng thở dài”, “cái ngực gầy lép của Thị nhô lên”. Dường như trong hơi thở dài ấy
chứa đựng nỗi thất vọng bởi nhìn cảnh ngộ của gia đình Tràng thì liệu Tràng có phải
là cái bến vững chắc cho con thuyền đời thị neo đậu hay không? Mặc dù Tràng đon đả
thanh minh: “không có người đàn bà nhà cửa thế đấy”, “ngồi đây…ngồi xuống đây, tự
nhiên!” thế nhưng Thị chỉ dám ngồi “mớm” ở mép giường. Ai dám bảo Thị trơ trẽn
nữa, ai dám bảo Thị đánh rơi mất lòng tự trọng nữa, mà lúc này con người thật của thị
đã trỗi dậy trong sự tủi nhục ngậm ngùi chua chát.Thị ngồi mớm ở mép giường trông
nó chông chênh như chính cuộc đời của Thị vậy.
Còn Tràng nhìn Thị ngồi ngay giữa nhà mà chợt nghĩ hóa ra mình đã có vợ rồi và
chàng không hiểu vì sao Thị lại buồn như thế. Người đời thường nói: “Tậu trâu, cưới
vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó khăn” ấy thế mà việc có vợ đối với Tràng dễ
như trở bàn tay, như nhặt rơm nhặt rác ở ngoài đường. Sinh ra cũng là kiếp người mà
sao Thị tội nghiệp đến vậy, nhìn Thị mà nỗi buồn thêm nặng trĩu.Tâm trạng của bà cụ
Tứ thì chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ vui vì cuối cùng con
mình cũng có vợ nhưng lại tủi thân vì sự trớ trêu của số phận, bà mẹ nghèo nặng trĩu
những nỗi lo âu cho tương lai của con mình :"liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không".
Câu hỏi chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình
rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế". Trong lòng
bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui,
không có lấy một mâm cơm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngào tâm sự của bà còn
có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của một
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
người mẹ đối với con :"Năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này u thương
quá" . Cái chậc lưỡi mặc kệ số phận của Tràng; hành động “nén một tiếng thở dài” tủi
thân của người đàn bà khi liếc nhìn gia cảnh nhà chồng; sự nghẹn ngào, xót xa của bà
cụ Tứ trước hạnh phúc của con trai mình… khiến người đọc không biết nên vui hay
nên buồn, không cảm nhận được đây là hạnh phúc hay bất hạnh, sự sống hay là cái chết.
Đặt nhân vật của mình vào tình huống bất ngờ và éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi
bật được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình. Với việc xây dựng tình huống
truyện độc đáo nhà văn đã thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm đồng thời tố cáo hiện thực
xã hội đã tước đoạt hết quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.
Có thể nói, ấn tượng của người đọc với tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân chính là ở
tình huống truyện đầy độc đáo, bất ngờ nhưng cũng không kém phần éo le của thiên
truyện. Thành công đó khiến truyện ngắn của Kim Lân sống được với thời gian. Cái
nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu người bị chết đói ấy, rồi một lúc nào đó sẽ lùi vào
dĩ vãng. Nhưng câu chuyện “nhặt vợ” của anh Tràng thì vẫn sống cùng tâm hồn, cùng
nỗi đau và niềm tin của người dân Việt Nam. Bài làm mẫu 2
Đối với nghệ thuật truyện ngắn, tạo ra được một tình huống độc đáo mới lạ để làm bật
nổi vấn đề, bật nổi tâm trạng, tư tưởng, tính cách của các nhân vật và chủ đề của tác
phẩm là một điều có ý nghĩa then chốt. Một truyện ngắn đặc sắc là nhờ được tổ chức
chung quanh một tình huống như thế, và Vợ nhặt của Kim Lân là một trường hợp tiêu biểu.
Vợ nhặt đã tạo ra được một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Đó là tình huống
nhân vật Tràng, một anh nhà nghèo xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh bỉ), giữa
lúc đói khát lại lấy được vợ. Đó là một điều lạ. Lạ vì hai lí do. Người như Tràng mà
lấy được vợ, thậm chí có vợ theo! Thời buổi đói khát này, người như Tràng, nuôi thân
chẳng xong mà dám lấy vợ!
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Nhưng điều tưởng không thể nào có được, lại đã xảy ra, đã trở thành hiện thực. Bởi vì,
nếu không phải năm đói, người ta không đói quá, thì ai thèm lấy Tràng. Và đây là “vợ
nhặt”, có cần choe cưới gì đâu. Năm đói thế nào cũng xong, có thế người như Tràng mới lấy được vợ.
Tình huống này dẫn đến sự ngạc nhiên của cả xóm cư ngụ, của bà cụ Tứ (mẹ Tràng)
và của chính Tràng nữa. Như vậy, tình huống này đã làm cho câu chuyện có thể triển
khai, phát triển dễ dàng bằng các cảnh với các chi tiết rất hấp dẫn: Cảnh xóm ngụ cư
xì xào bàn tán khi Tràng dẫn vợ về nhà.
Cảnh buổi tối bà cụ Tứ gặp người con dâu được “nhặt về” trong sự sững sờ này đến sự
ngạc nhiên khác,.. Chuyện có vợ bất ngờ với cả chính Tràng nữa, khiến anh ta không
thể nào tin nổi trong buổi tối dẫn vợ về báo cho mẹ biết và ngay cả sáng hôm sau khi
đã là vợ chồng (“Nhìn thị (vợ Tràng) ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn
ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”). Tình huống trên, đồng thời
hết sức éo le. Đó là chuyện nên vui hay nên buồn nên mừng hay nên lo?
Chính điều này lại thúc đẩy cho câu chuyện tiếp tục phát triển để nhà văn có thể khắc
họa tâm trạng nhân vật phong phú và tính cách nhân vật rõ nét hơn. Trong cái tình
huống hết sức éo le ấy, ta thấy một sự xáo trộn buồn tủi, vui mừng, lo sợ ở trong tâm
trạng của mọi người: Người trong xóm ngụ cư mừng cho anh ta và cũng lo cho anh ta.
Bà cụ Tứ mừng cho con nhưng vừa thương vừa tủi, vừa lo cho con.
Chính Tràng cũng vừa vui vừa “trợn”: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết
có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Tình huống trên dẫn đến cái hạnh phúc thật
mong manh, tội nghiệp của đôi vợ chồng và bà mẹ nghèo khổ. Hạnh phúc của vợ
chồng Tràng và niềm vui của bà cụ Tứ cứ phải diễn ra trong một không khí ảm đạm
chết chóc, với những tiếng hờ khóc người chết đói vẳng đưa tới (“Giữa sự im lặng của
đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”). Hạnh
phúc của họ đã diễn ra trong âm hưởng của tiếng khóc thê thảm ấy.
Và tiếp đó là bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới thật tội nghiệp: ăn cháo cám. Ăn mà
không dám nhìn nhau… Tình huống đó đã tạo cảm hứng, tạo cảnh, tạo chi tiết để nhà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
văn có thể viết nên những trang thật cảm động về câu chuyện “Vợ nhặt” rất hiện thực
và cũng rất nhân đạo trong trận đói khủng khiếp năm 1945.
Tình huống “Vợ nhặt” độc đáo và hấp dẫn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà
văn Kim Lân. Tình huống ây không chỉ tạo điều kiện cho câu chuyện triển khai và
phát triển dễ dàng, tốt đẹp, mà còn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề truyện: niềm khát
khao tổ ấm gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ ngay trong trận đói khủng khiếp nhất. Bài làm mẫu 3
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của
dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc
tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là
Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và
cho ra mắt bạn đọc với tựa đề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng tác phẩm
vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo
ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống éo le, trớ trêu chứa đựng đầy kịch
tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc. Cốt truyện đơn giản: Một
anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo xe bò thuê,
chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái
đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì
đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm
những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm
cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con
dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu
chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng
thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên
và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng.
Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào
cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om,
không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập
tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.
Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự
sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện
to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan.
Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!
Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn
phở khác thường và người đàn bà đi sau cánh ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay
đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói,
chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài!
Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra
và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói
một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng
muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên
một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi chao! Giời
đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này
không? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.
Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai
mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo:
Kìa nhà tôi nó chào u... thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng
người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương
cho số kiếp đứa con mình... Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về
đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ
cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn
khoăn: biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn: Trong
kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.
Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt,
không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ
như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không
ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bạn, ấy thế mà thành vợ thành chồng...
Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin là
mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bà bằng
xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.
Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le, trớ trêu, không
biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ,
nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi
không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là người mẹ già lo
và thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chồng Tràng với những chi tiết
thật ấn tượng và chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc rồi tắt.
Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ
tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự
sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực
thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật
của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !
Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn
sâu xa của tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và
chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời
tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc có một không
hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ.
Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hi
vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên
sức sống lâu dài của tác phẩm. Bài làm mẫu 4
Nói đến nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường coi ba yếu tố sau đây là cơ bản nhất:
tình huống truyện, nhân vật truyện và cách trần thuật. Có nhiều truyện ngắn, sự sáng ,
tạo tình huống đóng vai trò then chốt. Đặt vào tình huống ấy, nhân vật truyện bộc lộ
sâu sắc tâm lý, tính cách. Tư tưởng của thiên truyện cũng nhờ thế mà được thể hiện
đậm đà. Và xoay quanh tình huống ấy, các tình tiết cũng trở nên hấp dẫn.Truyện Vợ
nhặt của Kim Lân thuộc loại tác phẩm như thế.
Tình huống của Vợ nhặt thể hiện ngay ở tên truyện Một anh nông dân “nhặt” được vợ.
Mà nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân ngụ cư. Vậy
mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về. Sự hấp dẫn của tình huống
truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc nhiên cho mọi người trong
xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng, và cho cả bản thân Tràng là kẻ đã “nhặt” được vợ.
“… người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…” Đến
khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười
lên rung rúc’. Người lại lo dùm cho anh ta Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ
dài về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?” Bà cụ Tứ hiểu tỉnh
cảnh con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy có người đàn bà đứng
ngay ở đầu giường còn mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: ”Quái sao lại có người đàn bà
nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Bà cụ làm sao hiểu nổi.
Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy mà có vợ được. Vả lại trời làm đói khát thế
này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con? Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho
mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra
hắn đã có vợ rồi đấy ư?”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Đúng là một tình huống thật lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc
nhiên đâu. Cái lý do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp biết
bao! Điều này, bà cụ Tứ gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới thật sự
thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn
hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình.
Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi,
những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà cụ rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau
cho qua được cơn đói khát này không?”
Lòng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng vui
vì dù sao con mình cũng cd vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi cho con:
ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng. Nhưng lo
buồn, tủi nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến
con mình, Mà con mình mới có vợ được…”
Như thế là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu. sắc tâm trạng, tính cách các nhân vật
Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lý diễn biến phức tạp hơn cả. Còn Tràng thì lo ít,
vui nhiều. Mới đầu cũng “chọn”, nhưng liền sau đó chặc lưỡi mặc kệ!”. Trên đường
đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại lấy vậy làm thích ý làm, cái mặt
cứ vênh lên tự đắc với mình. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nỗi anh ta không hiểu được
tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc”.
Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi
đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ờ
trong giấc ma di ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm đối
với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người,
với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui sướng,
phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”
Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng là chuyện
thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc đời minh cho người đàn ông mà mình yêu quý.
Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng quơ và
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
mấy bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về, Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng
còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác,
người ta có thể “nhặt” được nơi đầu đường, xó chợ… Tác giả “Vợ nhặt” quả đã sáng
tạo được một tình huống truyện thật độc đáo. Một tình huống vừa rất hiện thực, vừa
mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Lên án tội ác của bọn đế quốc Nhật Pháp đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói khủng
khiếp mùa xuân năm 1945, đã là đề tài của hàng loạt tác phẩm thơ văn sau Cách mạng
tháng Tám, 1945 (Thơ Văn Cao, truyện ngắn, tiểu thuyết của Nguyên Hồng, Tô Hoài,
Nguyễn Đình Thi. ..v.v.) Với Vợ nhặt, Kim Lân đã giải quyết đề tài ấy một cách riêng
vừa vô cùng cảm động, vừa buộc người ta đọc phải suy nghĩ nhức nhối, day dứt mãi,
lớp thanh thiếu niên ngày nay đọc chắc không thể tưởng tượng nổi cái giá của con
người đã có lúc rẻ mạt đến thế. Nghĩa là không bằng con vật. Cái Tý của Chị Dậu
trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố vẫn còn cao giá hơn nhiều. Chỉ vài bát bánh đúc mà
thành vợ hẳn hoi, thân phận con người như thế có hơn gì cỏ rác. Bọn phát xít thực dân
đã từng đấy nhân dân ta đến nông nỗi như thế đấy. Lời kết tội của Vợ nhặt thật là ngắn
gọn sâu sắc thấm thía biết bao!
Nhưng chủ đề của Vợ nhặt không chỉ cổ thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề
bên nanh vuốt của cái chết. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm của
mùi khói,khét lẹt của những đống rấm trong nhà có người chết lan tới và tiếng hờ
khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ… Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật,
nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống, vẫn hy vọng ở
tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng chia
sẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có trách nhiệm với đời…
Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ gì
rõ rệt – “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời“. – Vẫn tồn tại dai dẳng ở những con người luôn
sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đấu tranh để sinh tồn. Niềm tin tưởng
lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh bay
phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa. Bài làm mẫu 5
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Sự thành công của mỗi truyện ngắn có sự góp mặt của nhiều yếu tố, trong yếu tố đóng
vai trò then chốt là: tình huống, nhân vật và cách trần thuật, nhà văn có những điểm
mạnh riêng để tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm mình. Kim Lân đã rất thành công
trong các truyện ngắn của mình khi sáng tác được những tình huống truyện đặc sắc.
Đọc Vợ nhặt của Kim Lân ta cảm rõ điều đó.
Trong Vợ nhặt của Kim Lân, tình huống truyện đã giúp nhà văn xây dựng bộc lộ sâu
sắc tính cách và tâm lí nhân vật. Đồng thời gúp ông bộc lộ tâm tư ti và những điều mà
bản thân ông muốn gửi gắm cho bạn đọc. Truyện cũng thế mà hấp dẫn hơn. Tình
huống của Vợ nhặt thể hiện ngay ở tên truyện. Một anh nông dân “nhặt” được vợ. Mà
nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân ngụ cư. Vậy mà
chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về.
Sự hấp dẫn của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc
nhiên cho mọi trường trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng cho cả bản thân
Tràng là kẻ đã “nhặt” được vợ. “... người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng
cửa nhìn ra bàn tán…”Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc
nhiên hơn Người thì “cười lên rung rúc”. Người lại lo dùm cho anh ta “Ôi chao ! đất
này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thời này không ?”.
Bà cụ Tứ hiểu tình cảm con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ, có người
đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “Quái sao lại có
người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ? “ Bà cụ làm
sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy có vợ được. Vả lại trời làm đói
khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì vợ nuôi con? Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ
cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế.
Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”.
Đúng là một tình huống lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc nhiên
đâu. Cái lý do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp bao! Điều
này, bà cụ tứ sống gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới sự thấm thía:
“Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho kiếp đứa con mình. Chao ôi,
người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong
sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rủ
xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau cho qua được cơn đói khát này không ?”.
Lòng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng vui
vì dù sao con mình có có vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi cho con: “
ừ, thôi thì các con đã phải duyên kiếp với nhau, u cũng mừng ". Nhưng lo buồn, tủi
nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ người ta mới lấy đến con mình. Mà
con mình mới có vợ được...”. Như thế là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu sắc tâm
trạng, tính cách các nhân vật. Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lí diễn biến phức
tạp hơn cả. Còn Tràng thì lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chợn”, nhưng liều sau đó
chặc lưỡi kệ !”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại vậy
làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. Niềm vui ắt hẳn nỗi lo, đến nổi
anh ta không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá, chẳng đâu vào
đâu tự nhiên cũng khóc !”.
Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi
đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở
trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm đối
với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người,
với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui sướng,
phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”.
Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng chuyện thiêng
liêng là sự phó thác cả cuộc đời mình cho người đàn ông mình yêu quý. Vậy mà chị ta
nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh
đúc riêu cua là theo ngay về. Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu
hổ là gì, mất hết ý thức tự thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể
“nhặt” được ngoài đường, xó chợ...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Nhưng chủ đề của Vợ nhặt không chỉ có thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề
bên nanh vuốt của cái chết. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm với
mùi khói, khét lẹt của những đống rấm nhà có người chết lan tới và tiếng hờ khóc
ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ... Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật, nhất là
Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống vẫn hy vọng ở tương lai,
cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng chia sẻ vui
buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có nhiệm với đời...
Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ gì
rõ rệt “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… vẫn tồn tại dai dẳng ở những con người luôn
sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đấu tranh để sinh tồn. Niềm tin tưởng
lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh bay
phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa.
Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ trong
hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót: “Chao ôi, người ta dựng vợ
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, mở
mày mở mặt sau này. Còn mình thì..”. Nhưng, bà thực sự vui mừng khi con trai bà đã
yên bề gia thất: “Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u
ám của bà rạng rỡ hẳn lên...”. Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực
đau lòng để hướng đến một tương lai tươi đẹp hơn: “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua
lấy đôi gà. Tau tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này,
ngoảnh đi ngoảnh lại, chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...”
Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua đi lại thực
hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên món chè cám
đã nhắc họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta
ăn cám mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa bắt họ phải sống cuộc
sống loài vật, nhưng nào có dập tắt được phần Người đáng quý trong mỗi con người.
Cái phần Người ấy sẽ giúp họ vượt qua đoạn khó khăn này. Sẽ lại thiếu sót nếu bỏ qua
hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến
những kẻ hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là
dấu hiệu của “bước đường cùng”, không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng
dậy đấu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy “ân hận, tiếc rẻ vẩn
vơ, khó hiểu” bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc
lúc này, sự sống trở thành mục đích chung của mọi người; họ đấu tranh, đoạn tuyệt
dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp nối dòng người kia, giành sự sống cho mình.
Có thể khẳng định, truyện ngắn Vợ nhặt là một thành công của Kim Lân. Tác phẩm
tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông cũng là đỉnh cao của truyện ngắn hiện
đại Việt Nam. Người đọc nhớ mãi một Vợ nhặt với tình huống truyện độc đáo và chất
nhân văn cao cả của tác phẩm. Bài làm mẫu 6
Nạn đói năm 45 dường như đã trở thành một nỗi ám ảnh sâu sắc đối dân tộc ta. Nỗi
đau thương ấy đâu chỉ được diễn tả bằng lời mà nó còn được in dấu trong từng câu
văn, từng trang giấy của các nhà thơ, nhà văn. Đó có thể là Chí Phèo của nhà văn Nam
Cao hay Chị Dậu của Ngô Tất Tố và trong số đó không thể nào thiếu được truyện
ngắn vợ nhặt của Kim Lân. Đó được coi là một trong những tác phẩm có chiều sâu tư
tưởng và giá trị nghệ thuật đặc sắc. Trong tác phẩm này, nhà văn Kim Lân đã xây
dựng thành công tình huống truyện độc đáo, với những diễn biến thăng trầm nhằm
khắc tả được thành công nội dung của truyện ngắn và thông qua đó làm nổi bật lên
được tình hình chung của đất nước trong những năm kháng chiến đầy gian khổ đó.
Để làm nên thành công của một tác phẩm không chỉ cần nhà văn viết hay, viết tài, nội
dung phong phú mà hơn thể nữa tác phẩm phải cần một tình huống truyện tài tình. Và
cũng như vậy, nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công đã làm nên một tình huống
truyện như thế, và nó đã được thể hiện ở ngay trong chính tiêu đề của tác phẩm: Vợ
nhặt. Từ trước đến ngay, người ta nhặt đồ, nhặt nhạnh, lượm lặt chứ ai lại đi nhặt
người và thậm chí là nhặt vợ? Vợ là người sẽ chung sống và đồng cam cộng khổ với
ta, vợ phải là người được cưới hỏi đàng hoàng, chứ làm gì có ai lại đi nhặt vợ? Nhưng
đặt trong bối cảnh của nạn đói khủng khiếp năm 1945, thì những người dân thường,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
những người bán mặt cho đất bán lưng cho trời may lắm thì mới có thể thoát khỏi
được bàn tay tử thần, ấy thế mà “sống là tốt rồi, tự nuôi được mình là tốt lắm rồi chứ
còn ai có cái suy nghĩ lấy vợ”. Ấy thế mà anh cu Tràng – cái anh chàng hiền lành, tử
tế, nhưng lại quá nghèo mà không thể lấy được vợ lại nhặt được vợ, đó quả là một
điều thật là lạ. Cũng bởi vì sống trong cái hoàn cảnh đó thì cái giá trị của con người lại
càng trở nên rẻ rúng, người ta cũng chỉ vì 1 bát bánh đúc mà lấy được vợ.
Nhà văn Kim Lân với quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”, đã tạo ra một tình huống
truyện độc đáo, hấp dẫn thu hút người đọc và hơn thế nữa là một nội dung truyện
mang tính hiện thực nhưng cũng mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Cái thú của câu
chuyện là chuyện anh cu Tràng trong cái tình huống trớ trêu đã nhặt được vợ như là
một nghịch lý. Nếu nói trong thực tế thì việc Tràng có vợ cũng bởi vì người vợ “mới:
của Tràng hơi ham sống, chứ không chỉ vì 4 bát bánh đúc mà anh Tràng đã “hào
phóng” tặng cho “nàng”. Cái chuyện mà nghịch lý, khiến ai ai cũng đều phải bất ngờ
nhưng thực chất thì nó lại rất phù hợp với quy luật của cuộc sống. Bởi trong những
tình huống khó khăn nhất, bần cùng nhất thì cái nhân cách của con người ta cũng trở
nên rẻ rúng hơn bao giờ hết. Không phải vì con người ta ngay từ khi sinh ra đã có bản
chất như vậy mà do thực tại, do cái xã hội này đã tác động và đẩy con người ta vào
những tình huống khiến chính họ cũng không thể nào nghĩ được cái bản chất của mình
đã bị “tha hóa” đến như vậy. Bởi vậy mà việc Tràng có vợ không còn chỉ là niềm vui
mà hơn thế nữa nó còn là một nỗi đau , một sự thương cảm cho chính thân phận của con người.
Để tạo nên nét độc đáo cho câu chuyện, nhà văn đã xây dựng một khung cảnh thật ảm
đạm, đầy thê lương của làng quê Việt Nam khi xảy ra nạn đói. Những người nông dân
sống trong cái xã hội ấy, người nào người ấy trông cũng hốc hác, u tối. Đó là những
gia đình: “những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu bồng bế, dắt díu
nhau lên xanh xám như bóng ma”; bóng người đói dật dờ đi lặng lẽ như những bóng
ma”. Cũng chỉ bằng những chi tiết miêu tả đơn giản, nhà văn đã cho người đọc cảm
nhận được về cái thời nghèo đói, cái thời mà đến nhân cách của con người cũng bị tha
hóa, cái thời mà mạng sống của con người bị rẻ rúm, khi mà ranh giới giữa sự sống và
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
cái chết chỉ mong manh như tờ giấy. Cũng chính bởi nhà văn đưa ra tình huống truyện
như vậy đã khiến cho người đọc thấm thía được sự tăm tối, đau đớn của một thời.
Nhà văn không xây dựng trong truyện một cuộc sống như mơ hay cố vẽ ra một viễn
cảnh ảo mộng mà ngược lại, nhà văn không hề né tránh mà lại săn đuổi hiện thực tới
cùng. Nhưng mục đích chính của nhà văn, làm từ chính hiện thực đó để có thể làm
sáng tỏ vẻ đẹp trong lòng con người – cái vẻ đẹp mà tưởng chừng như đã bị sự nghèo
đói làm cho tha hóa. Nhưng không, chính cái hiện thực ấy lại là một phép đòn bẩy cho
tình yêu và tâm hồn của con người trở nên sáng rực hơn lúc nào hết.
Tình huống độc đáo thứ nhất của truyện, chính là khi nhà văn cho Tràng nhặt được vợ.
Cũng chính từ lúc đó, nhà văn Kim Lân đã gieo cho những con người một tia hy vọng,
dù là một tia hy vọng mong manh nhất. Ấy là trước khi Tràng nhặt được vợ, cái xóm
nghèo thê lương là thế: trẻ con thì ngồi rũ rượi 1 góc không thèm nhúc nhích, ba bốn
cái thây nằm cong queo bên đường,… thế nhưng từ khi Tràng nhặt được vợ thì mọi
thứ dường như đã thay đổi hẳn, cái xóm ngụ cư nghèo ấy dường như đã được thổi một
làn gió mới, một tia hy vọng mới. Xóm ngụ cư lấy từ chỗ chả ai nói với nhau câu nào
cho đến khi mọi người bàn tán xôn xao chuyện Tràng lấy được vợ. Ai nấy cũng đều
cảm giác tò mò, nhưng sâu thẳm trong trái tim của họ lại lóe lên một tia hy vọng sống,
một tia hy vọng cho một tương lai mới.
Niềm hạnh phúc của con người đến nhanh lắm, nó nhỏ bé nhưng lại có thể nhanh
chóng làm con người ta quên hết những ê chề, mệt mỏi, nó dường như không chân
thực lắm mà đôi khi còn khiến con người ta lơ lửng như đi ra từ giấc mơ. Chính vì thế
mà khi đi bên cạnh người vợ mới nhặt về, Tràng dường như đã quên hết tất cả cái
cuộc sống ê chề, tăm tối hàng ngày và thậm chí còn quên ngay cả cái nạn đói đang đeo
bám con người ta hằng ngày. Hóa ra, nhà văn đã hóa thân vào trong tác phẩm để có
thể gửi gắm đến nhân vật của mình cái tình cái nghĩa đậm đà, sâu sắc. Hạnh phúc của
Tràng được xây dựng trên cái tình, cái nghĩa. Đó là tình yêu thương giữa con người
với con người trong cơn khó khăn, hoạn nạn, là cái nghĩ của một người mang hàm ơn
– trong cái lúc quẫn cùng ấy lại có một người tự dang rộng vòng tay để mình bấu víu,
nương tựa. Cũng chính bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công sức
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
sống mãnh liệt của tình cảm con người thiêng liêng mà bất diệt ấy để cùng nhau vươn
tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lúc trở về nhà, cái niềm vui sướng, hạnh phúc ấy đã đã vơi đi muôn phần mà thay vào
đó là Tràng đã trở về với hiện thực, trở về với cái nghèo, với nỗi lo về sự không chấp
thuận của mẹ. Nhưng, lo lắng là thế nhưng cái niềm hạnh phúc trong anh nào có biến
mất, mà ngược lại, nó vẫn ở đó, vẹn nguyên như lúc ban đầu. Niềm vui của anh cũng
đã làm cho cả căn nhà vẫn im lìm là vậy mà bỗng nhiên sáng bừng sức sống. Bởi từ
đây, Tràng đã nhận ra rằng: sau những ngày dài làm lụng vất vả sẽ vẫn luôn có người
chờ đợi mình ở nhà, giờ đây, mọi niềm vui, nỗi buồn của anh đều sẽ có một người bạn
để san sẻ, yêu thương.
Nhà văn đâu chỉ cho Tràng được thay đổi, mà ngược lại, qua cuộc trò chuyện ngắn
ngủi, tưởng chừng như trêu đùa đã khiến hai con người ấy nên duyên vợ chồng. Thị
chỉ là một người cong cớn, chỏng lỏn, chỉ biết quan tâm đến miếng ăn mà giờ đây lại
trở thành vợ của người ta, chóng vánh là thế. Ấy vậy mà khi về đến nhà Tràng, khi đã
trở thành dâu nhà người ta, thì thị lại trở nên nhẹ nhàng và e lệ là thế. Đọc đến đây, ắt
hẳn nhà văn muốn người đọc phải tự hỏi: Cái chỏng lỏn, cong cớn kia đâu mất rồi? để
giờ đây, đến chính người đọc còn thấy người vợ Tràng mới mang về lại là một người
đàn bà hiền lành, đầy ý tứ và rất lễ phép với mẹ Tràng – bà cụ Tứ khi mới nói: “U đã
về đấy ạ!” – Chỉ bằng một lời nói, một hành động, nhà văn đã khiến người đọc hiểu
rằng người đàn bà ấy đã trở thành một người con dâu thực sự, biết lắng nghe những sự
khuyên dạy của mẹ chồng.
Nếu tưởng như đã người vợ ấy chỉ “làm bộ” như vậy thì đến sáng hôm sau, mọi thứ
như một câu trả lời thích đáng nhất. Mới sáng sớm, nàng dâu mới đã tất bật dọn dẹp,
sắp xếp lại gia đình – đó chỉ là những thay đổi tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô
cùng thấm thía đối với cả Tràng và bà cụ Tứ. Và cứ như thế, cuộc sống gia đình, niềm
hạnh phúc cũng đã làm thay đổi thị, thay đổi tính cách và cả số phận của thị nữa.
Kim Lân đã cố tình đặt nhân vật người vợ vào tình huống éo le như vậy để có thể
nhấn mạnh rằng: “ Cái đó có lúc sẽ làm cho con người ta trở nên hèn mọn, yếu kém,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
nhưng đôi khi nó sẽ không làm lu mờ hay khiến con người ta trở nên vô nhân cách mà
sau cùng thì con người vẫn luôn quay trở lại với những gì vốn có của riêng mình”.
Trong nội dung của cốt truyện ấy, nhà văn còn khéo léo đưa diễn biến tâm trạng của
bà cụ Tứ. Khi bà cụ Tứ mới về nhà, bà thấy một người đàn bà trẻ đang ngồi trong nhà
cùng con trai của mình. Hàng loạt những câu hỏi dường như ùa về trong bà: “Người
đàn bà đó là ai?, Sao lại chào mình bằng u?,…” Để rồi sau tất cả đó, là một tiếng “À”.
Bà đã hiểu ra tất cả, bà lặng im không nói. Sự không không nói gì của bà, không phải
là sự không đồng ý mà ngược lại bà lại thấy xót xa cho số phận của Tràng và người
con dâu mới của mình. Rồi bà lại tự trách mình, bà trách mình vì nghèo quá, mà
không có đủ tiền để làm cho con mình một cái đám cưới, bà tự trách mình đã không
thể làm tròn được bổn phận của mình. Nhưng dù gì thì bây giờ bà cũng chỉ biết vui
thay cho niềm hạnh phúc của hai con mình.
Cảm động biết bao khi kết thúc câu chuyện bằng hình ảnh nồi cháo cám – đó là món
ngon từ tinh thần chứ không phải là về vật chất. Cái đắng, cái chát của cháo cám đã
được tình yêu thương của bà cụ Tứ lấp đầy. Nhưng ẩn trong nụ cười của bà cụ Tứ ấy
luôn ẩn chứa một nỗi lo: Bà lo cho cuộc sống trước mắt của hai đứa con của mình,
làm sao để có thể sống cho qua những ngày tháng mà cái đói, cái nghèo luôn cứ đeo
bám cuộc sống của gia đình bà. Phải chăng cái đắng chát và nghẹn bứ của nồi cháo
cám cứ thế mà quẩn quanh trong cuộc sống của gia đình bà và ngay cả đối với những
người dân sống trong xóm ngụ cư?”.
Chỉ bằng một tình huống Tràng nhặt được vợ mà dường như đã làm nổi bật lên cái
nhân đạo của nhà văn. Nó không chỉ giúp xóm ngụ cư ấy xóa tan đi cảnh thê lương,
ảm đạm vốn có mà còn giúp cho nhân vật “nên người”. Giúp cho Tràng hiểu được lẽ
sống, nhìn thấy được lá cờ đỏ sao vàng như chiếu rọi vào tim. Và cho đến cùng, chỉ là
hình ảnh chiếc lá cờ tung bay đã làm Tràng mập mờ hiểu được rõ con đường mà mình
sẽ chọn, sẽ hướng tới: đó là theo Cách Mạng. Và chỉ có Cách mạng mới có thể giúp
cuộc sống của những người dân như Tràng, như những người dân nơi xóm ngụ cư này
mới bớt cơ cực và có thể tìm lại ánh sáng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Thành công của nhà văn Kim Lân là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái
tâm lý tinh tế của con người. Họ nghèo ấy, họ khổ như thế ấy nhưng họ lại biết vươn
lên trong mọi hoàn cảnh để biết yêu thương nhau, để biết khao khát hạnh phúc và để
có thể tin tưởng vào tương lai. Chính nhà văn Kim Lân đã làm nên cái hồn của câu
chuyện, để có thể tạo nên giá trị sâu sắc và cảm động cho tác phẩm Vợ nhặt này. Bài làm mẫu 7
Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Kim Lân trở thành một gương mặt độc đáo,
chứng tỏ quy luật thú vị: Sáng tác nghệ thuật “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Kim Lân
viết không nhiều, trong 50 năm lao động nghệ thuật, ông chỉ có hai tập truyện ngắn
nhưng mỗi tác phẩm của ông ra đời luôn tạo được ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Trong
đó Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu nhất, hội vụ, kết tinh tài năng nghệ thuật của Kim
Lân. Truyện ngắn này hấp dẫn người đọc ngay từ tình huống truyện độc đáo.
Truyện ngắn Vợ nhặt từng được nhiều người không ngần ngại gọi là kiệt tác, thần bút.
Vợ nhặt có tiền thân và truyện Xóm ngụ cư được viết ngay sau Cách mạng tháng
Tám. Người Việt Nam ai đã từng sống qua năm 1945 chắc khó có thể quên nạn đói
khủng khiếp cướp đi sinh mạng hai triệu đồng bào. Nếu Cách mạng tháng Tám là một
cơn bão táp lịch sử lớn thì đứng trước cơn bão ấy dân tộc ta đã phải trải qua không khí
ngột ngạt, cùng cực của cái đói. Đó chính là bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Vợ
nhặt. Dựa trên nền hiện thực ấy Kim Lân đã sáng tạo tình huống truyện độc đáo để
diễn tả niềm vui, hạnh phúc và khát vọng sống ở những người lao động nghèo khổ.
Tình huống truyện là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ
hóa. Nói như Nguyễn Minh Châu, “tình huống truyện là lát cắt, là khúc của đời sống
nhưng qua đó, ta hiểu được trăm năm của đời thảo mộc”. Có thể nói tình huống là một
môi trường để nhân vật bộc lộ sắc nét tính cách của mình. Trong truyện Vợ nhặt, đó là
tình huống “nhặt” được vợ.
Truyện ngắn thông thường được xây dựng trên một tình huống độc đáo. Chính từ đây
tính cách và số phận của nhân vật, chủ đề tác phẩm được thể hiện rõ nét. Tính cách
độc đáo, tình huống truyện mà Kim Lân sáng tạo nên ngay từ cái tên tác phẩm Vợ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
nhặt. Xưa nay lấy vợ lấy chồng luôn được xem là sự kiện hệ trọng của một đời người.
Vậy mà Tràng bỗng dưng nhặt được vợ về như nhặt một thứ rơi vãi ngoài đường. Một
người đàn ông nghèo túng, xấu xí, lại là dân ngụ cư thế mà được một người đàn bà tự
nguyện theo về làm vợ hẳn hoi. Kỳ lạ hơn nữa là Tràng dám đem vợ về giữa những
ngày đói kém, khi cái chết vì đói đang rình rập đe dọa. Kim Lân mở đầu truyện bằng
một cuộc trở về đầy lạ lùng.
So với những lần trước thì lần trở về này chẳng có gì khác về thời gian, về con đường
quanh co nhưng lần này Tràng mang một tâm trạng khác hẳn. Niềm khấp khởi trong
lòng người đàn ông nghèo khổ được vợ ấy toát lên nơi gương mặt, ánh mắt: “mặt hắn
có vẻ gì phởn phơ khác thường”. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên
lấp lánh. Phút chống Tràng quên hết đòi khổ ê chề trước mắt mà chỉ thấy tình nghĩa
với người đàn bà đi bên. Phải thấu hiểu và trân trọng niềm hạnh phúc ở người dân
nghèo khổ đến chừng nào mới diễn tả được cảm giác này “một cái gì mới mẻ lạ lẫm
mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”.
Sự xuất hiện của người đàn bà ấy đã khuấy động lên cái không khí tối sầm của xóm
ngụ cư nghèo khổ. Bọn trẻ con chạy theo trêu Tràng, còn người lớn thì xôn xao bàn
tán. Thoạt đầu họ nghĩ là bà con Tràng nhưng rồi dáng vẻ e thẹn, ngượng ngùng của
người đàn bà đã mách người ta về sự thực. Một lúc sau bỗng có tiếng cười lên rung
rúc “Hay là vợ anh cu Tràng” Ừ khéo là vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta
thèn thẹn hay đáo để”.
Kim Lân đã quan sát tài tình một tình huống thú vị và diễn tả nó đúng bằng lời ăn
tiếng nói của người quê. Sự xuất hiện của người đàn bà lạ khiến mọi người xóm ngụ
cư ngạc nhiên đã đành, thú vị hơn nữa là chính Tràng cũng ngạc nhiên. Người trong
cuộc, người đã dẫn vợ về mà cứ ngạc nhiên với việc mình đã có vợ. Khi đã đem người
đàn bà vào nhà nhìn thị ngó ngoáy giữa nhà mình mà Tràng cứ đi ra đi vào suy nghĩ
vẩn vơ. “Ra hắn có vợ rồi đấy ư? Hà!”. Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn
cũng chỉ “tầm phơ tầm phào”, đâu có hai bạn ấy thế mà thành vợ thành chồng. Từ
thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ Tràng đâu đã được một người con gái nào để ý đến.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Thậm chí đến sáng hôm sau ngày có vợ Tràng vẫn chưa hết ngạc nhiên. Buổi sáng ấy,
Tràng trở dậy muộn hơn, trong người cảm thấy lửng lơ êm ái như vừa trong giấc mơ
đi ra. “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Người
đàn ông nghèo khổ ấy chưa thể thích ứng với niềm vui khá mới mẻ, với bước ngoặt
quá đột ngột trong đời mình.
Tại sao có sự việc lạ lùng trên, có những sự ngạc nhiên ấy? Như thể giải đáp cho
người đọc, Kim Lân ngược dòng thời gian hai lần tầm phơ tầm phào mà nên vợ nên
chồng. Ở đây, chúng ta được chứng kiến nghệ thuật đảo ngược trình tự thời gian của
Kim Lân. Chuyện Tràng có được vợ thật buồn cười, chỉ hai lần tình cờ gặp gỡ, chỉ
mấy câu nửa đùa nửa thật mà người đàn bà nọ bám lấy Tràng, đã sẵn sàng trao gửi
cuộc đời mình nơi Tràng. Nhưng nghĩ ra ta thấy thị còn biết bám vào đâu nữa. Dân
gian có câu Chết đuối bám phải cọc thì chính là là tình cảm của người phụ nữ này.
Đằng sau tiếng cười, người đọc nhận ra một sự thật xót xa, đó chính là cái đói và chỉ
có cái đói khủng khiếp là tác nhân duy nhất để đẩy hai con người ấy lại gần nhau rồi nên vợ nên chồng.
Đây chẳng có màu sắc của tình yêu hay tình nghĩa, chỉ hai lần gặp gỡ mà người đàn bà
nọ biến đổi khác hẳn. Lần trước thì còn lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, còn liếc
mắt cười tít khiến chàng sung sướng lắm. Nhưng lần sau vừa thấy Tràng đang uống
nước ở cổng chợ tỉnh thì thị từ đâu sầm sầm chạy đến rồi sưng sỉa trách móc. Cái đói
đã làm thị tiều tụy, hốc hác khiến Tràng chưa thể nhận ra “hôm nay thị rách quá, áo
quần tả tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi. Trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ
thấy còn hai con mắt”. Khi được mời ăn hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng
rực lên. Thị sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.
Quả là cái đói khiến con người ta mất hết thể hiện, quên hết tình tứ. Chính từ đấy ta
nhận ra một phần giá trị hiện thực lớn lao của truyện ngắn Vợ nhặt. Câu chuyện của
người phụ nữ này sống dậy thảm cảnh đói năm 1945 mà dân tộc ta đã phải gánh chịu.
Cũng từ đây chúng ta hiểu vì sao Kim Lân không đặt cho người vợ nhặt của Tràng
một cái tên riêng mà lại dùng đại từ chung là “thị”. Nào cần một cái tên riêng cho thân
phận người phụ nữ này vì ở thị có bóng dáng của bao người phụ nữ lúc bấy giờ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
Không biết bao nhiêu người vì cái đói vì sự sinh tồn cũng đành cư xử như thị. Trong
thảm cảnh ấy, thị không hơn gì một cái rơm, cái rác mà người ta có thể nhặt được ở
nơi đầu đường xó chợ.
Phải chăng đó là ý nghĩa tiêu biểu, điển hình của nhân vật. Dẫu sao chuyện nên vợ nên
chồng cũng đã thành sự thật. Trở về hiện tại, người đọc chúng ta lại đứng trước sự chờ
đợi mới “liệu bà cụ Tứ có chấp nhận người vợ nhặt của Tràng không?”. Cuộc sống
của gia đình này rồi đây sẽ ra sao, mọi người cư xử với nhau như thế nào. Kim Lân đã
đặt các nhân vật của mình vào tình huống thử thách éo le để khám phá vẻ đẹp của tình
huống, của khát vọng hạnh phúc. Ở đây là rách ít đùm rách nhiều. Ngay mẹ con Tràng
cũng đang lo lắng với miếng ăn, chuyện cái chết vì đói đe dọa. Vậy mà họ vẫn sẵn
sàng che chở, cưu mang người đàn bà ấy.
Bà cụ Tứ vui vẻ chấp nhận người con dâu, ai ủi, động viên vợ chồng Tràng chịu khó
bảo nhau mà làm ăn. Buổi tối ấy ngọn đèn dầu được thắp lên trong căn nhà lạnh lẽo,
tăm tối bấy lâu nay. Ánh sáng của ngọn đèn hay chính là ánh sáng của niềm vui mang
đến với những con người nghèo khổ. Từ tình huống này, Kim Lân đã khẳng định được
rằng những người đó không hướng đến cái chết mà chỉ hướng đến sự sống, dù phải ở
hoàn cảnh đói khổ nghiệt ngã đến mấy người dân lao động vẫn biết vui với những gì
mình đang có, vẫn lấp lánh niềm tin vào tương lai.
Thiên truyện khép lại bằng hình ảnh Tràng ngồi tư lự nhớ đến Việt Minh. Trong đầu
Tràng vẫn thấy hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Vậy là Kim Lân đã
mở ra trước mắt các nhân vật của mình dự cảm về sự đấu tranh, về sự đổi đời. Không
biết bà cụ Tứ, không biết vợ chồng Tràng có vượt qua nổi cơn đói mà sống đến ngày
cách mạng thành công hay không? Dẫu sao khép lại trang cuối cùng của truyện ngắn
Vợ nhặt người đọc vẫn mong, vẫn tin rằng họ sẽ là một trong số những người góp
phần làm nên cơn bão táp Cách mạng tháng Tám.
Là hạt nhân của cấu trúc thể loại, tình huống truyện trong Vợ nhặt đóng vai trò rất
quan trọng giúp nhà văn dựng được chân dung nhân vật một cách sắc nét đồng thời
thể hiện được tự nhiên, sâu sắc tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Đến với truyện ngắn
Vợ nhặt, chúng ta bắt gặp một cái nhìn ưu ái của người lao động, một ngòi bút tài hoa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt
khi dựng tình huống, khi tả cảnh, tả người, Kim Lân cứ dẫn người đọc đi từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Vợ nhặt gồm nhiều tình huống được thay đổi linh hoạt nhờ sự tổ chức nghệ thuật của
nhà văn. Bởi thế đây là tác phẩm đa dạng đan xen nhiều màu sắc thẩm mỹ. Ở đây có
đen tối nghiệt ngã khác thường mà cũng tươi sáng lấp lánh lạc quan, vừa hài mà cũng
vừa bi. Nói cách khác, đây là câu chuyện cười ra nước mắt để người đọc thấm thía
hơn cái nghèo, cái đói và niềm vui sống đáng quý của người dân lao động.