-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 12
Tình huống truyện đắt giá nhất trong tác phẩm "Vợ nhặt" là tình huống một anh chàng dân ngụ cư, xấu xí, nghèo khổ như Tràng lại có thể “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng, chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời nói bông đùa “tầm phơ tầm phào” và vài bát bánh đúc. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 12 637 tài liệu
Ngữ Văn 12 1 K tài liệu
Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 12
Tình huống truyện đắt giá nhất trong tác phẩm "Vợ nhặt" là tình huống một anh chàng dân ngụ cư, xấu xí, nghèo khổ như Tràng lại có thể “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng, chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời nói bông đùa “tầm phơ tầm phào” và vài bát bánh đúc. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 12 637 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 12 1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:







Tài liệu khác của Ngữ Văn 12
Preview text:
Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt chọn lọc hay nhất
1. Tóm tắt tình huống truyện Vợ nhặt
Tình huống truyện đắt giá nhất trong tác phẩm "Vợ nhặt" là tình huống một anh chàng dân ngụ cư, xấu
xí, nghèo khổ như Tràng lại có thể “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng, chỉ bằng mấy câu
hát, mấy lời nói bông đùa “tầm phơ tầm phào” và vài bát bánh đúc. Hoàn cảnh mà Tràng nhặt được vợ thật
quá trớ trêu: giữa lúc nạn đói khủng khiếp đang hoành hành, ngay cả bản thân Tràng gắng sức đi làm cũng
không đủ để nuôi được bản thân và người mẹ già, nay lại có thêm một người "vợ nhặt". Thông thường,
cưới được vợ là niềm vui của một gia đình, nhưng trước tình cảnh éo le này, việc “nhặt” được vợ tưởng
chừng là niềm vui nhưng lại chưa chắc là niềm vui, Tràng không biết nên mừng hay nên lo, nên vui hay nên
buồn. Đó thực sự là một tình huống truyện vô cùng độc đáo của tác phẩm.
2. Dàn ý phân tích tình huống truyện "Vợ nhặt" 2.1. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
+ Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn.
+ Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đó có Vợ nhặt của Kim Lân.
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề : Kim Lân đã dựng lên một tác phẩm với một tình huống truyện đặc sắc miêu tả
con người trong nạn đói này. 2.2. Thân bài
a. Tình huống truyện là gì?
- Là sự kiện đặc biệt, hoàn cảnh đặc biệt trong tác phẩm mà qua đó tác giả muốn bộc lộ quan điểm của
mình cũng như tính cách, số phận của các nhân vật.
b. Tình huống truyện trong "Vợ nhặt":
- Được thể hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm.
- Nội dung: Giữa bối nạn đói năm 1945 đang hoành hành dữ dội tại Việt Nam, chuyện một chàng trai nghèo
lấy được vợ là điều không thể. Vậy mà, Tràng - một thanh niên nghèo và xấu xí lại nhặt được vợ một cách
dễ dàng, bằng mấy câu bông đùa và vài bát bánh đúc.
c. Phân tích tình huống truyện:
- Bối cảnh của tình huống truyện:
+ Bối cảnh là nạn đói năm 1945 với kết quả hơn hai triệu người chết.
- Tình huống truyện vừa độc đáo, lạ lùng vừa éo le:
+ Trong bối cảnh đầy bất hạnh, con người còn chẳng thể lo nổi cho bản thân mà anh cu Tràng còn rước về một cô vợ.
+ Tràng: Là một nhân vật chính trong tình huống truyện, hội tụ tất cả những yếu tố khó có thể lấy vợ: ngoại
hình xấu xí "cái mặt thô kệch", "đôi mắt nhỏ tí", "cái lưng to như lưng gấu",... cùng với tính cách có phần cộc
cằn, thô lỗ. Không những thế, Tràng còn nghèo: đi làm thuê nuôi mẹ già, chỉ có một căn nhà lụp xụp ở một xóm ngụ cư.
+ Hoàn cảnh đất nước: Nạn đói đang diễn ra rất nghiêm trọng, cái chết đeo bám mỗi con người: "Người
chết như ngả rạ". Mọi người phụ nữ trong hoàn cảnh đói khổ ấy dường như sẽ chẳng bao giờ quan tâm tới
một người không có bất kì ưu điểm nào như Tràng.
-> Với ngoại hình, tính cách, gia cảnh và tình cảnh như hiện tại, Tràng không thể kiếm được một cô vợ.
Ấy thế mà Tràng lại có vợ trong lúc không ai ngờ nhất, trong hoàn cảnh mà cuộc sống đang phải giành giật
từng ngày. Đó là tính lạ của tình huống truyện. - Cái éo le:
+ Thông thường việc lấy vợ là chuyện đại sự, là cái niềm hạnh phúc lớn nhất của một đời người. Vậy mà
chuyện lấy vợ của Tràng lại diễn ra trong lúc "tối sầm vì đói khát", bị chen ngang bởi nỗi lo về cái đói, cái
chết. Thế nên, chuyện Tràng lấy vợ ở hoàn cảnh hiện tại không khác gì "đèo bòng", "rước của nợ đời".
+ Sự kết duyên của Tràng và vợ không phải do tình yêu mà là do cái đói: Thị gặp hắn lần đầu khi hắn kéo
thóc qua dốc, chỉ với câu hò vu vơ, thị đã "ton ton" chạy lại cũng đẩy xe với hắn.
+ Lần thứ hai gặp lại, Tràng không nhận ra Thị bởi "hôm nay Thị...xám xịt". Và chỉ bằng vài bát bánh đúc với
một câu nói đùa, Thị đã bằng lòng theo hắn về nhà làm vợ.
- Phản ứng của mọi người khi Tràng lấy vợ:
+ Những người dân xóm ngụ cư: Phản ứng của tất cả mọi người đối với việc Tràng có vợ dường như đi
ngược lại hoàn toàn với phản ứng thông thường của một người khi thấy người khác lập gia đình. Bởi cảm
xúc ban đầu của họ là ngạc nhiên "Người trong xóm lạ lắm", "Họ đứng …bàn tán". Thế rồi họ mới hiểu và
vui mừng thay cho Tràng, "Những khuôn mặt ...hẳn lên". Thế nhưng cũng có những người lại thở dài ngao
ngán, bởi họ lo cho Tràng và cả cho Thị, lo cái chết sẽ tìm đến những con người nghèo như họ. - Đối với Tràng:
+ Suy nghĩ của Tràng khi biết Thị theo mình về làm vợ cũng đã phần nào làm nổi bật sự éo le trong tình
huống truyện. Người ta lấy vợ phải qua thời gian gặp gỡ, quen biết, vậy mànchỉ bằng một câu nói đùa "này
nói đùa …cùng về" với dăm ba bát bánh đúc mà Thị đã bằng lòng theo Tràng về nhà nên Tràng bất ngờ lắm.
+ Tiếp theo, người ta lấy được vợ thì phải vui mừng. Vậy mà, quanh quất trong tâm trạng Tràng khi lấy
được vợ là nỗi sợ hãi, nỗi sợ phải "đèo bòng" thêm người vợ của chính mình. Thế nhưng nỗi sợ ấy qua
nhanh Tràng "chặc lưỡi: chặc, kệ"
+ Cảm xúc cuối cùng tìm đến Tràng mới là sự vui mừng khi cái khao khát về hạnh phúc gia đình được hiện
thực hóa "hắn tủm tỉm … lấp lánh", nhìn Thị ngượng nghịu, hắn thích chí "cười khanh khách".
+ Nỗi sợ về cái đói, cái chết đã bị niềm hạnh phúc gia đình, cái trách nhiệm đẩy lùi "Trong một lúc Tràng hình như …đi bên".
+ Niềm hạnh phúc ấy khiến Tràng cứ ngỡ không có thật "hắn vẫn …không phải".
-> Niềm vui, niềm hạnh phúc đến với Tràng bất ngờ, nhanh chóng, trong lúc đói khát nhất, trong hoàn cảnh éo le nhất. - Bà cụ Tứ:
+ Bà vô cùng ngạc nhiên trước thái độ của Tràng, băn khoăn hỏi han.
+ Bà càng ngạc nhiên hơn khi thấy một người đàn bà khác trong nhà mình và chào bà bằng u "quái sao … thế kia?"
+ Thế rồi khi nghe Tràng nói, bà "cúi đầu nín lặng", bà "vừa ai oán … con mình". Chi tiết này đã thể hiện sự
tủi phận của một người mẹ không làm tròn được bổn phận của mình "Chao ôi …còn mình thì …"
+ Thế rồi, sau bảo cảm xúc bất ngờ, lo lắng, tủi thân thì cuối cùng bà mới "mừng lòng", vui lòng với người
dâu mới, khuyên nhủ hai đứa con với những lời lẽ lạc quan "Nhà ta nghèo …ba đời".
- Ý nghĩa của tình huống truyện:
+ Làm nổi bật chủ đề của tác phẩm, đồng thời tạo điều kiện để nhà văn khai thác nội tâm các nhân vật.
+ Kim Lân đã dựng lên một tình huống truyện độc nhất vô nhị mà dường như mọi thứ diễn ra trong tình
huống đều đi ngược với thực tế, làm nổi bật tình cảnh của con người trong nạn đói năm 1945, vừa thể hiện
niềm thương cảm sâu sắc trước những số phận tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám.
+ Tình huống truyện éo le gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó tả.
- Truyện mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc:
+ Về giá trị hiện thực:
Ta thực nỗi thống khổ của người dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Cái đói dồn đuổi con người, bóp
méo nhân cách, biến những hạnh phúc đẹp đẽ nhất trở nên mỏng manh.
Tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít + Giá trị nhân đạo:
Giữa nạn đói người chết như rơm rạ, vẫn hiện lên tình người đẹp đẽ.
Gieo vào lòng người niềm hi vọng về một tương lai tốt đẹp phía trước nơi có ngọn cờ Cách mạng. 2.3. Kết bài
Khẳng định lại vấn đề.
3. Bài mẫu phân tích tình huống truyện
Kim Lân được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng, là nhà văn một lòng đi về với đất với người, với những
giá trị thuần hậu nguyên thủy của nông thôn Việt Nam. Người ta nhận xét rằng lần đầu tiên có một nhà văn
xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai, của cuộc sống người nông dân để tái
hiện trên mỗi trang viết. Văn Kim Lân hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể hấp dẫn và khả
năng phân tích tâm lý nhân vật sắc sảo. Trong số những tác phẩm của ông thì truyện ngắn "Vợ nhặt" được
in trong tập "Con chó xấu xí", xuất bản năm 1962 là tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Kim Lân.
Trong tác phẩm đó, tình huống truyện của ông đã ghi lại sự thật mặn chát của cuộc đời người nông dân
trong nạn đói 1945, tất cả sự thật nghiệt ngã như được tái hiện qua tình huống ấy.
Xây dựng tình huống là vấn đề then chốt của truyện ngắn, là cánh cửa mở ra để người đọc đi vào khám
phá giá trị của một tác phẩm văn chương. Nhà văn thường xây dựng hoàn cảnh điển hình để đặt nhân vật
vào đó khám phá vẻ đẹp tâm hồn tính cách nhân vật đồng thời tái hiện bức tranh đời sống xã hội. Kim Lân
cũng thế, ông đã tái hiện không gian năm đói 1945 làm phông nền cho việc anh cu Tràng nhặt được vợ. Cái
năm Ất Dậu ngày ấy đã trở thành nỗi kinh hoàng của lịch sử, là vết thương lòng không bao giờ mờ được
trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói là con số mà hàng trăm hàng
nghìn năm sau mỗi lần nhắc tới con cháu ta không khỏi rùng mình ghê sợ. Dưới đất bên những gốc đa gốc
gạo xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ như những bóng ma. Người Thái Bình, Nam Định đội chiếu lũ
lượt bồng bế dắt díu nhau đi trông xanh xám dật dờ như những bóng ma. Không khí vẩn lên mùi ẩm mốc
của rác rưởi và mùi gây của xác người, tất cả tạo nên một bầu không khí ảm đạm tang tóc và thê lương. Cái
đói, cái chết len lỏi vào ngõ ngách, gõ cửa từng nhà, đụng chạm đến từng người, cõi âm hòa với cõi dương,
cuộc sống mấp mét bên bờ vực của cái chết. Giữa bối cảnh tối xầm lại vì đói khát ấy thì một việc hệ trọng
nhất của một đời người lại diễn ra một cách nhanh chóng vội vàng - đó là việc anh cu Tràng có vợ.
Tình huống truyện của tác phẩm đã độc lạ từ những nét đầu tiên, bởi chuyện Tràng có vợ là một điều kì lạ.
Người ta vẫn thấy anh cu Tràng là người hội đủ mọi nét xấu trên đời. Anh ta xấu trai, "hai con mắt nhỏ tí",
"hai quai hàm bạnh ra", "cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn". "Cái
đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên
trời cười hềnh hệch". Có thể nói, lời văn của Kim Lân như thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật
trên từng câu chữ. Không chỉ xấu mà Tràng còn rơi vào kiếp nghèo, nghèo đến tận đáy cùng của xã hội.
Tràng đã rất chăm chỉ đi làm lụng, đụng việc gì anh ta cũng làm, nhưng căn nhà mà hai mẹ con Tràng ở
chẳng khác gì "túp lều xiêu mưa ngã gió mọc trên những búi cỏ dại", thêm vào đó tài sản của Tràng còn là
một đống quần áo rách trong một góc nhà, là hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi, là đống
rác mùn tung bành ngay giữa lối đi. Có thể nói cái nghèo đã kéo ghì cuộc sống của mẹ con Tràng xuống sát
đất để rồi cái chết đang rình rập bủa vây. Một người xấu như Tràng, bất hạnh đến cùng cực như thế mà có
vợ, thậm chí nhặt được vợ một cách qua dễ dàng chẳng phải là một chuyện lạ hay sao. Kim Lân đã chọn
những chi tiết rất thật, rất đời thường, lựa chọn những ngôn ngữ mộc mạc giản dị và gần gũi để tái hiện bức
tranh hiện thực đời sống xám ngắt trong năm Ất Dậu 1945.
Đồng thời, cái cách mà Tràng nhặt được vợ cũng khiến cho tình huống truyện trở nên độc đáo vô
cùng. Tràng có vợ chỉ với một câu nói bông đùa trong lần gò lưng kéo xe bò thóc, hắn nhìn thấy những cô
gái ngồi vêu mặt ra ở dốc tỉnh, Tràng đoán họ ngồi đó để nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có việc gọi thì làm. Họ
chính là kiếp người trôi dạt bị cơn bão táp của đói khát đẩy xô. Trước cảnh đó Tràng cất câu hò cho đỡ
nhọc chứ không có ý chòng gẹo cô nào:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì
Dẫu biết rằng có khối đấy mà cơm trắng mấy giò thế mà Thị vẫn ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Cho
đến lần thứ hai gặp Thị thì Thị và Tràng mới nên duyên vợ chồng. Hôm đó, khi trả hàng xong Tràng ngồi
uống nước ở cổng chợ tỉnh thì Thị ở đâu sầm sập chạy đến đứng sưng sỉa trước mặt Tràng: "Điêu! Người
thế mà điêu". Thoáng đầu Tràng chẳng hiểu gì nhưng trong phút chốc Tràng nhận ra Thị, nhan sắc của Thị
dường như cho Tràng biết rằng Thị đang mấp mé bên bờ vực của cái chết đói, chỉ biết dõi theo câu hò xăm
xăm đi tới tìm Tràng mà thôi.
Nhìn Thị, Tràng chưa hề yêu ngay, Tràng chỉ thấy thương cho cô gái trước mặt nên sẵn sàng đãi Thị "thích
ăn gì thì ăn", nghe thế hai con mắt trũng hoáy của Thị tức thời sáng lên, như là Thị đã tìm thấy một nguồn
sống. Thế là Thị cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng nói năng gì. Nhìn Thị lúc này có vẻ như
rất trơ trẽn, Thị đã chối bỏ liêm xỉ, đánh rơi lòng tự trọng cắm đầu mà ăn. Kẻ hời hợt thì nhìn Thị bằng cặp
mắt khinh bỉ, người sâu sắc thì ngậm ngùi cám cảnh rưng rưng nước mắt mà cảm thông xót xa cho Thị. Cái
gì đã làm cho Thị đánh rơi mất lòng tự trọng? Cái gì đã làm cho Thị trở nên trơ trẽn? Phải chăng đó là cái
đói, cái chết? Vì sống cho nên Thị phải ăn bởi sống mới là nhân văn, nhân bản. Đã có bao triết lý được đem
ra để bênh vực những người như Thị, ví như ngạn ngữ Hi Lạp cho rằng: "Có ai chết hai lần để học bài học
kinh nghiệm về cái chết bao giờ đâu". Xong bữa tiệc bánh đúc Thị cầm cây đũa quệt ngang miệng và nói
"hà, ngon", "về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố". Tràng đáp lời: "Làm đếch gì có vợ". "Này nói đùa chứ có về
với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Cả cuộc trò chuyện,Tràng không có ý chòng ghèo, chỉ coi là mấy
câu đùa vui, ai ngờ Thị theo về thật. Thế là một anh cu Tràng đã có vợ, Thị thì cũng có chỗ để nương tựa.
Điểm độc đáo của tình huống truyện còn thể hiện rất rõ ở tâm trạng của mỗi nhân vật khi Tràng có vợ. Lấy
được vợ mà sao tâm trạng Tràng lạ quá. Ban đầu anh chưa vui mừng. Anh ngơ ngác, anh lo lắng tương lai
mình phải đèo bòng thêm một người phụ nữ. Thế rồi sau tất cả, anh mới mới gạt đi mọi lo toan để vui mừng
cho sự thành gia lập thất của chính mình và mơ ước về một gia đình bên Thị. Đồng thời, cái khung cảnh mà
Tràng lấy vợ cũng quá lạ lùng. Người ta lấy vợ thì pháo đỏ rượu nồng, kèn trống linh đình, còn Tràng dẫn
vợ về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà
cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang.
Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.
Sự kiện Tràng lấy vợ cũng làm cho cả xóm ngụ cư cảm thấy lạ lùng. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt
phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm
cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười,
trêu ghẹo anh Tràng: "Anh Tràng ơi, chông vợ hài!" Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì
thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ
vẫn le lói một niềm vui và sự chúc mừng dành cho Tràng. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng
có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một
thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: "Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của
nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?" Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối
mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.
Khi về đến nhà của Tràng, mọi sự trơ trẽn mà người ta nhìn thấy ở Thị khi cô ăn một chặp 4 bát bánh đúc
đã biến đâu mất. Nhìn thấy gia cảnh nhà Tràng, Thị "nén một tiếng thở dài", "cái ngực gầy lép của Thị nhô
lên". Dường như trong hơi thở dài ấy đã chất chứa bao nỗi thất vọng. Mặc dù Tràng đon đả thanh minh:
"không có người đàn bà nhà cửa thế đấy", "ngồi đây...ngồi xuống đây, tự nhiên!" thế nhưng Thị chỉ dám ngồi "mớm" ở mép giường.
Phản ứng của bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng cũng được lột tả một cách rõ nét, nâng tình huống truyện độc đáo
đến đỉnh điểm. Nhìn thấy vợ của con trai mà bà cụ ngạc nhiên vô cùng. Được gọi bằng u, bà càng chẳng
hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo: "Kìa nhà tôi nó chào u... thì bà mới vỡ lẽ". Con trai lấy được vợ
giữa hoàn cảnh khốn khổ vô cùng, chuyện lấy vợ đối với con trai bà dường như chỉ có trong cổ tích. Vậy mà
khi con trai dắt được vợ về, bà lão lại cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Bà hiểu người đàn bà kia vì cuộc
sống khốn khổ quá nên mới theo con trai bà về, chứ giữa họ làm gì có tình yêu. Tâm trạng bà cụ buồn tủi,
mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi
không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn
khoăn: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?" Càng ngẫm nghĩ, bà
cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn.
Có thể nói, Kim Lân đã đặt nhân vật của mình vào tình huống bất ngờ và éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi
bật được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình. Với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo nhà
văn đã thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm đồng thời tố cáo hiện thực xã hội đã tước đoạt hết quyền sống,
quyền hạnh phúc của con người.
Sự ấn tượng của người đọc với tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân chính là ở tình huống truyện đầy độc đáo,
bất ngờ nhưng cũng không kém phần éo le của thiên truyện. Thành công đó khiến truyện ngắn của Kim Lân
sống được với thời gian. Cái nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu người bị chết đói ấy, rồi một lúc nào đó sẽ
lùi vào dĩ vãng. Nhưng câu chuyện "nhặt vợ" của anh Tràng thì vẫn sống cùng tâm hồn, cùng nỗi đau và
niềm tin của người dân Việt Nam.