Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt siêu hay | Ngữ văn 12

Tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân là một tình huống truyện rất độc đáo. Tràng nhặt vợ trên phố chợ (ngoài tỉnh) nơi Tràng mưu sinh trong nạn đói 1945. Lấy vợ, cưới hỏi là một việc trọng đại của cả một đời người nên cần có sự trang nghiêm và chuẩn bị một cách chỉn chu. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 12 637 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 12 1 K tài liệu

Thông tin:
27 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt siêu hay | Ngữ văn 12

Tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân là một tình huống truyện rất độc đáo. Tràng nhặt vợ trên phố chợ (ngoài tỉnh) nơi Tràng mưu sinh trong nạn đói 1945. Lấy vợ, cưới hỏi là một việc trọng đại của cả một đời người nên cần có sự trang nghiêm và chuẩn bị một cách chỉn chu. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

47 24 lượt tải Tải xuống
Phân tích tình huống trong truyện Vợ nhặt
Dựng vợ gả chồng từ xưa đến nay vốn chuyện trọng đại cả đời của con người.
Thế nhưng đến với Vợ nhặt của Kim Lân đã thực sự khiến một việc nghiêm túc,
thiêng liêng trở thành trò đùa ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính sự
thực. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm thân phận tủi
nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đó, tác
giả muốn khẳng định ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo
khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh
phúc gia đình hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
1. Tình huống truyện Vợ nhặt
Tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân một tình huống truyện rất độc đáo.
Tràng nhặt vợ trên phố chợ (ngoài tỉnh) nơi Tràng mưu sinh trong nạn đói 1945.
Lấy vợ, cưới hỏi một việc trọng đại của cả một đời người nên cần sự trang
nghiêm chuẩn bị một cách chỉn chu. Nhưng Tràng lại nhặt được vợ như một của
rơi vãi, rẻ rúng.
-> Tràng- một chàng trai xấu, ngờ nghệch, dân ngụ cư, gia cảnh nghèo khó bỗng
nhặt vợ - chấp nhận một người phụ nữ tứ cố thân, mỗi ngày phải chống chọi với
nguy chết đói , theo mình về làm vợ giữa nạn đói.
2. Ý nghĩa tình huống truyện Vợ nhặt
+ Tình huống bất ngờ (nằm ngoài mọi tính toán từ trước của cả hai nhân vật), éo le
(trong nạn đói, chuyện dựng vợ gả chồng chuyện xa vời với những người dân
nghèo phải chật vật xoay xở để sống sót qua ngày), tạo thành trung tâm cốt truyện,
làm nền cho sự nảy nở những tình huống nhỏ, phụ khác, góp phần hình thành tính
cách nhân vật thể hiện chủ đề truyện.
+ Tình huống mang giá trị nhân đạo khi tỏa sáng vẻ đẹp của tình người tính
người trong hoàn cảnh bi đát. trong bất kỳ hoàn cảnh nào họ- những thân phận
nghèo khổ vẫn yêu thương, bao dung, tinh thần lạc quan, khát vọng sống
khát vọng hạnh phúc.
-> Đặt trong tình huống truyện, theo trình tự câu chuyện - mỗi nhân vật đã những
thay đổi quan trọng từ diện mạo, tâm trạng, đến cách ứng xử.
3. Nhận xét tình huống truyện Vợ nhặt
Truyện Vợ nhặt của tác giả Kim Lân được xây dựng trong bối cảnh nạn đói năm
1945. thể nói đây một thời đen tối giá trị con người trở nên rẻ rúng, thê
lương luôn cận kề với cái chết.
Tình huống truyện Vợ nhặt đã được tác giả thể hiện ngay qua nhan đề của tác
phẩm.
thể nói tình huống truyện Vợ nhặt đã phản ánh 2 mặt giá trị hiện thực nhân
đạo của tác phẩm.
Về giá trị hiện thưc: Tố cáo tội ác của thực dân Pháp, đẩy cuộc sống của
người dân đến bước đường cùng của nạn đói 1945.
Về giá trị nhân đạo: trong cái bối cảnh u ám ấy ta vẫn cảm nhận được
tình cảm yêu thương giữa con người cũng như niềm lạc quan vào một
tương lai tươi sáng hơn của những người dân nghèo.
4. Tóm tắt tình huống truyện Vợ nhặt
Vốn một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai, ế ẩm lại nghèo, thế Tràng đã “nhặt”
được vợ một cách ngẫu nhiên quá dễ dàng chỉ băng mấy câu hát, mấy lời bông
đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc…
Tràng lại “nhặt” được vợ trong một hoàn cảnh trớ trêu: giữa lúc nạn đói khủng khiếp
đang xảy ra, đe dọa cuộc sống của mọi người. Bản thân Tràng gắng sức đi làm kiếm
tiền nuôi bản thân mình mẹ già đã khó, nay lại “đèo bòng” thêm một người “vợ
nhặt”. Trước tình cảnh này, việc Tràng “nhặt” được vợ không biết nên mừng hay nên
lo, nên vui hay nên buồn, một dịp may hay điều rủi ro… Đó thực sự một tình
huống nghệ thuật độc đáo.
5. Dàn ý phân tích tình huống truyện Vợ nhặt
a) Mở bài
- Giới thiệu lược về tác giả, tác phẩm:
+ Kim Lân nhà văn một lòng một dạ đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu
nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn.
+ Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đó
Vợ nhặt của Kim Lân.
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề : Tình huống truyện độc đáo trong Vợ Nhặt.
b) Thân bài
* Khái niệm tình huống truyện
- Tình huống truyện hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt tại
đó cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất, bộc lộ nét nhất ý đồ tưởng của tác giả.
- Tình huống truyện giữ vai trò hạt nhân của cấu trúc thể loại.
* Phân tích tình huống nhặt vợ
- Bối cảnh xây dựng tình huống truyện:
+ Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 kết quả hơn hai triệu người chết.
+ Một không khí ảm đạm, thê lương, những người sống luôn bị cái chết đe dọa.
- Tóm tắt tình huống: Vốn một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai, ế ẩm lại nghèo, thế
Tràng đã “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên quá dễ dàng ngay trong những
ngày đói chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời bông đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh
đúc…
Các chi tiết độc đáo của tình huống truyện:
+ Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy "ế" vợ rất cao:
Ngoại hình xấu xí, thô kệch.
Tính tình phần không bình thường.
Ăn nói cộc cằn, thô lỗ.
Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình mẹ già.
Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.
+ Tràng lấy vợ lấy cho mình thêm một tai họa (theo gíc tự nhiên).
+ Việc Tràng lấy vợ một tình huống bất ngờ
Cả xóm ngụ ngạc nhiên.
cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên
Bản thân Tràng vợ rồi vẫn còn "ngờ ngợ".
+ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí:
Nếu không phải năm đói khủng khiếp thì "người ta" không thèm lấy một người như
Tràng.
Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được.
* Giá trị của tình huống truyện
- Giá trị hiện thực:
+ Phác họa tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
Cái đói dồn đuổi con người.
Cái đói bóp méo cả nhân cách.
Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
+ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói
khủng khiếp.
- Giá trị nhân đạo
+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.
Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.
Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt"
Tình yêu thương con của cụ Tứ.
+ Con người luôn hướng đến sự sống luôn hi vọng, tin tưởng tương lai:
Tràng lấy vợ để duy trì sự sống.
cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự định thiết thực
tạo niềm tin cho con dâu vào một cuộc sống tốt đẹp.
Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh cờ đỏ đoàn người phá kho thóc Nhật.
c) Kết bài
- Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp
dẫn.
- Khẳng định giá trị hiện thực giá trị nhân đạo của tác phẩm.
6. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt học sinh giỏi
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của
dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc
tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu
Xóm ngụ cư, nhưng thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại
cho ra mắt bạn đọc với tựa dề Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng tác
phẩm vẫn xứng đáng một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi
Việt Nam hiện đại.
Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng
tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống ép le, trở trêu chứa đựng đầy
kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn cùng sâu sắc. Cốt truyện đơn
giản: Một anh chàng ngụ nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi xấu làm nghề kéo
xe thuê, chỉ với vài câu bông đùa mấy bát bánh đúc kiếm được vợ nhặt
một gái đang dở sống dở chết đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung
cảnh tối sầm lại đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm
u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ của những nhà người chết đói theo
gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì cháo loãng, rau chuối muối hột. Mẹ
chồng đãi con trai con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng
trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh
hào dân chúng không đóng thuế tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho
người nghèo.
Cảnh anh Tràng đưa vợ nhặt về nhà một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc
nhiên thú vị cho cả cái xóm ngụ đang hấp hối lạ lùng ngay cả với mẹ con
Tràng. Anh dẫn người đàn lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi
thủi đi vào cái xóm ngụ heo hút, tồi tàn sông. Nhà cửa hai bên đường úp
súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác những nấm mồ hoang.
Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang
bao phủ khắp nơi.
Tràng dẫn người đàn mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự
sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng sự
kiện to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết
tràn lan. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế lại lấy vợ vào lúc này. Quả
chuyện lạ lùng thú vị!
Trước hết lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn
phở khác thường người đàn đi sau cách ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn
hay đáo để làm cho mọi người kéo nhau ra xem. Đầu tiên trẻ. Đang
đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông
vợ hài! Dân xóm ngụ thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ
hiểu ra khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ
vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng vợ
thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ đang thoi thóp chờ chết này chợt
bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi
chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết nuôi nổi nhau sống qua được
cái thì này không? Ấy họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết cứ hi
vọng vượt lên cái chết.
cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy gái lạ ngồi giường con trai
mình. Được gọi bằng u, càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo:
Kìa nhà tôi chào u... thì mới vỡ lẽ: lão cúi đầu nín lặng. lão hiểu rồi.
Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu sự, vừa ai oán vừa xót
thương cho số kiếp đứa con mình... Thì ra thằng con trai mình đã kiếm được vợ
dẫn về đây. Tâm trạng cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi làm cha làm
mẹ không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới
được vợ cho con. Mừng tự nhiên con trai được vợ, vợ nhặt. Còn lo bởi
cụ băn khoăn: biết rằng chúng nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát
này không? Càng ngẫm nghĩ, cụ càng thương con trai thương gái xa lạ kia
hạn: Trong kẽ mắt kèm nhèm của rỉ xuống hai dòng nước mắt.
Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt,
không tin sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ
như không phải thế. Ra hắn đã vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng
không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu hai bận, ấy thế thành vợ thành
chồng... Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa
dám tin mình đã vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người
đàn bằng xương bằng thịt kia chính vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.
Tình huống Kim Lân đặt ra trong truyện một tình huống éo le, trớ trêu, không
biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng tự nhiên được vợ,
nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết nuôi nổi
không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh nhất người mẹ già lo
thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chổng Tràng với những chi
tiết thật ấn tượng chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn một lúc
rồi tắt. Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ
khóc tỉ văng vẳng từ những nhà người chết đói.
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự
sống bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng
cực thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người
quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !
Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn
sâu xa của tác phẩm. Cho không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật
chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên
lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc một
không hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả truyện đã thể hiện thành công
vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác đói khát của những người
nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm
tin hi vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính giá trị nhân
văn làm nên sức sống lâu dài của tác phẩm.
7. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt ngắn gọn
Đối với nghệ thuật truyện ngắn, tạo ra được một tình huống độc đáo mới lạ để làm
bật nổi vấn đề, bật nổi tâm trạng, tưởng, tính cách của các nhân vật chủ đề
của tác phẩm một điều ý nghĩa then chốt. Một truyện ngắn đặc sắc nhờ
được tổ chức chung quanh một tình huống như thế, Vợ nhặt của Kim Lân một
trường hợp tiêu biểu.
Vợ nhặt đã tạo ra được một tình huống truyện độc đáo hấp dẫn. Đó tình huống
nhân vật Tràng, một anh nhà nghèo xấu xí, dân ngụ (bị người làng khinh bỉ), giữa
lúc đói khát lại lấy được vợ. Đó một điều lạ. Lạ hai do. Người như Tràng
lấy được vợ, thậm chí vợ theo! Thời buổi đói khát này, người như Tràng, nuôi
thân chẳng xong dám lấy vợ!
Nhưng điều tưởng không thể nào được, lại đã xẩy ra, đã trở thành hiện thực. Bởi
vì, nếu không phải năm đói, người ta không đói quá, thì ai thèm lấy Tràng. đây
“vợ nhặt”, cần cheo cưới đâu. Năm đói thế nào cũng xong, thế người như
Tràng mới lấy được vợ.
Tình huống này dẫn đến sự ngạc nhiên của cả xóm ngụ, của cụ Tứ (mẹ
Tràng) của chính Tràng nữa. Như vậy, tình huống này đã làm cho câu chuyện
thể triển khai, phát triển dễ dàng bằng các cảnh với các chi tiết rất hấp dần: Cảnh
xóm ngụ xào bàn tán khi Tràng dẫn vợ về nhà.
Cảnh buổi tối cụ Tứ gặp người con dâu được “nhặt về” trong sự sững sờ này
đến sự ngạc nhiên khác,.. Chuyện vợ bất ngờ với cả chính Tràng nữa, khiến anh
ta không thế nào tin nổi trong buổi tối dẫn vợ về báo cho mẹ biết ngay cả sáng
hôm sau khi đã vợ chồng (“Nhìn thị (vợ Tràng) ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ
hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã vợ rồi đấy ư?”). Tình huống
trên, đồng thời hết sức éo le. Đó chuyện nên vui hay nên buồn nên mừng hay nên
lo?
Chính điều này lại thúc đẩy cho câu chuyện tiếp tục phát triển để nhà văn thể
khắc họa tâm trạng nhân vật phong phú tính cách nhân vật nét hơn. Trong cái
tình huống hết sức éo le ấy, ta thấy một sự xáo trộn buồn tủi, vui mừng, lo sợ
trong tâm trạng của mọi người: Người trong xóm ngụ mừng cho anh ta cũng
lo cho anh ta. cụ Tứ mừng cho con nhưng vừa thương vừa tủi, vừa lo cho con.
Chính Tràng cũng vừa vui vừa “chợn”: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả
biết nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Tình huống trên dẫn đến cái hạnh phúc
thật mong manh, tội nghiệp của đôi vợ chồng mẹ nghèo khổ. Hạnh phúc của
vợ chồng Tràng niềm vui của cụ Tứ cứ phải diễn ra trong một không khí ảm
đạm chết chóc, với những tiếng hờ khóc người chết đói vẳng đưa tới (“Giữa sự im
lặng của đôi vợ chồng mới, tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ lúc to lúc
nhỏ”). Hạnh phúc của họ đã diễn ra trong âm hưởng của tiếng khóc thê thảm ấy.
tiếp đó bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới thật tội nghiệp: ăn cháo cám. Ăn
không dám nhìn nhau… Tình huống đó đà tạo cảm hứng, tạo cảnh, tạo chi tiết để
nhà văn thề viết nên những trang thật cảm động về câu chuyện “Vợ nhặt” rất hiện
thực cũng rất nhân đạo trong trận đói khủng khiếp năm 1945.
Tình huống “Vợ nhặt” độc đáo hấp dẫn một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của
nhà văn Kim Lân. Tình huống ây không chỉ tạo điều kiện cho câu chuyện triển khai
phát triền dễ dàng, tốt đẹp, còn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề truyện: niềm
khát khao tổ ấm gia đình tình thương giữa những con người nghèo khổ ngay
trong trận đói khủng khiếp nhất.
8. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt dễ hiểu
Kim Lân được mệnh danh cha đẻ của đồng ruộng, nhà văn một lòng đi về với
đất với người, với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của nông thôn Việt Nam. Lần
đầu tiên một nhà văn xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của
đất đai của cuộc sống con người để tái hiện mồn một trên mỗi trang viết. Văn Kim
Lân hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể hấp dẫn khả năng phân
tích tâm nhân vật sắc sảo. Trong số những tác phẩm của ông thì truyện ngắn Vợ
nhặt được in trong tập " Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962 tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật của Kim Lân. Trong tác phẩm ông đã ghi lại sự thật mặn chát của
cuộc đời người nông dân trong nạn đói 1945, tất cả sự thật nghiệt ngã ấy được nhà
văn thông qua tình huống truyện Vợ nhặt.
Xây dựng tình huống vấn đề then chốt của truyện ngắn, cánh cửa mở ra để
người đọc đi vào khám phá giá trị của một tác phẩm văn chương. Nhà văn thường
xây dựng hoàn cảnh điển hình để đặt nhân vật vào đó khám phá vẻ đẹp tâm hồn
tính cách nhân vật đồng thời tái hiện bức tranh đời sống hội. Kim Lân cũng thế,
ông đã tái hiện không gian năm đói 1945 làm phông nền cho việc anh cu Tràng nhặt
được vợ. Cái năm Ất Dậu ngày ấy đã trở thành nỗi kinh hoàng của lịch sử, vết
thương lòng không bao giờ mờ được trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Hơn
hai triệu đồng bào ta bị chết đói con số hàng trăm hàng nghìn năm sau mỗi lần
nhắc tới con cháu ta không khỏi rùng mình ghê sợ về cái thời trên trời từng đàn
quạ đen rỉa xác người chết đói bay lên, gào lên từng hồi thê thiết.
Dưới đất bên những gốc đa gốc gạo bóng những người đói đi lại dật dờ như
những bóng ma. Người Thái Bình, Nam Định đội chiếu lượt bồng bế dắt díu nhau
đi trông xanh xám dật dờ như những bóng ma. Không khí vẩn lên mùi ẩm mốc của
rác rưởi mùi gây của xác người, tất cả tạo nên một bầu không khí ảm đạm tang
tóc thê lương. Cái đói, cái chết len lỏi vào ngõ ngách, cửa từng nhà, đụng
chạm đến từng người, cõi âm hòa với cõi dương, cuộc sống mấp mét bên bờ vực
của cái chết. Giữa bối cảnh tối xầm lại đói khát ấy thì một việc hệ trọng nhất của
một đời người lại diễn ra một cách nhanh chóng vội vàng - đó việc anh cu Tràng
vợ.
Tràng vợ một truyện lạ bởi hắn vốn một người xấu trai dân ngụ cho
ế vợ "hai con mắt nhỏ đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt
bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc
nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa
ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch". Nhìn Tràng chẳng khắc sản phẩm tạo
hóa chạm khắc vội vàng. Thật vậy, lời văn của Kim Lân như thứ nước rửa ảnh làm
nổi hình nổi sắc nhân vật trên từng câu chữ. Một người xấu như Tràng vợ,
thậm chí nhặt được vợ đó chẳng phải một chuyện lạ hay sao.
Không chỉ xấu Tràng còn rơi vào kiếp nghèo, nghèo đến tận đáy cùng của
hội. Hãy nhìn căn nhà hai mẹ còn Tràng chẳng khác túp lều xiêu mưa ngã
gió mọc trên những búi cỏ dại " lổn nhổn ", thêm vào đó tài sản của Tràng còn một
đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà, hai cái ang nước để
khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi , đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi.
thể nói cái nghèo đã kéo ghì cuộc sống của mẹ con Tràng xuống sát đất để rồi cái
chết đang rình rập bủa vây. Kim Lân đã chọn những chi tiết rất thật, rất đời thường,
lựa chọn những ngôn ngữ mộc mạc giản dị gần gũi để tái hiện bức tranh hiện
thực đời sống xám ngắt trong năm Ất Dậu 1945. Đã nghèo, Tràng lại còn mang thân
phận của dân ngụ nên thật tội nghiệp, bởi coi khinh miệt thị dân ngụ đã đi sâu
vào tiềm thức đến mức trở thành lời truyền miệng:
Trai làng góa còn đông
Cớ sao em lại lấy chồng ngụ
Đặc biệt việc Tràng vợ chỉ với một câu nói bông đùa trong lần lưng kéo xe
thóc, hắn nhìn thấy những gái ngồi vêu mặt ra dốc tỉnh, Tràng đoán họ ngồi
đó để nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai việc gọi thì làm. Họ chính kiếp người trôi dạt bị
cơn bão táp của đói khát đẩy xô. Trước cảnh đó Tràng cất câu cho đỡ nhọc chứ
không ý chòng gẹo nào:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây đẩy xe với anh
Chẳng hiểu sao lúc đó chàng lại thể nói ra những lời cánh đến như vậy. Dẫu
biết rằng khối đấy cơm trắng mấy giò thế Thị vẫn ton ton chạy lại đẩy xe
cho Tràng. Hắn thích chí cười tít cả mắt bởi từ ngày cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa
ai cười với hắn tình tứ như thế. Câu cất lên giữa ngày đói khát sẽ chẳng bao
giờ lịm tắt luôn để lại vang, biết đâu một ngày nào đó trở thành chiếc phao
cứu sinh cứu vớt người chết đuối đói khát. Đôi khi cái cớ nhịp cầu dẫn
con người đến với nhau. Quả thật lần thứ hai khi trả hàng xong Tràng ngồi uống
nước cổng chợ tỉnh thì Thị đâu sầm sập chạy đến đứng sưng sỉa trước mặt
Tràng:" Điêu! người thế điêu". Thoáng đầu Tràng chẳng hiểu nhưng trong phút
chốc Tràng nhận ra Thị, Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trơ lại
hai con mắt. Nghĩa Thị đang mấp bên bờ vực của cái chết, chỉ biết dõi theo
câu xăm xăm đi tới tìm Tràng thôi, kiếp đời trôi dạt như Thị thì biết đâu bến
bờ neo đậu:" Tối đâu nhà, ngã đâu giường". Thị đích thực người của cái thời:
Con đói lả trên lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đi nấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời đi
Nhìn Thị tình yêu thương đồng loại trong Tràng trỗi dậy, hắn sẵn sàng đãi Thị "thích
ăn thì ăn", nghe thế hai con mắt trũng hoáy của Thị tức thời sáng lên, nghĩa Thị
đã tìm thấy một nguồn sống: " ăn nhé"..."ăn thì ăn chứ sợ gì". Thế Thị cắm đầu ăn
liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng nói năng gì. Nhìn Thị lúc này vẻ như rất
trơ trẽn, Thị đã chối bỏ liêm xỉ, đánh rơi lòng tự trọng cắm đầu ăn. Kẻ hời hợt thì
nhìn Thị bằng cặp mắt khinh bỉ, người sâu sắc thì ngậm ngùi cám cảnh rưng rưng
nước mắt cảm thông xót xa cho Thị. Cái đã làm cho Thị đánh rơi mất lòng tự
trọng? Cái đã làm cho Thị trở nên trơ trẽn? Phải chăng đó cái đói, cái chết?
sống cho nên Thị phải ăn bởi sống mới nhân văn nhân bản.
Đã bao triết ném ra giữa đời để bênh vực những người như Thị, như ngạn
ngữ Hi Lạp cho rằng:" ai chết hai lần để học bài học kinh nghiệm về cái chết bao
giờ đâu" hay Nguyễn Khải đã lúc khẳng định " Muốn chết nhưng đời còn dài nên
phải sống cho phải sống táo bạo, sống ghen tị với mọi người hờn giận với
chính bản thân mình". Thật vậy, hãy một lần ta đặt mình vào hoàn cảnh của Thị ta
sẽ thấu hiểu được nỗi tủi hờn nhục nhã trong Thị. như vậy Thị thật đáng
thương, đáng chia sẻ hơn đáng trách. Xong bữa tiệc bánh đúc Thị cầm cây đũa
quệt ngang miệng nói "hà, ngon", "về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố", Tràng nói:"
làm đếch vợ. Này nói đừa chứ về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về",
Tràng cứ nghĩ mình nói đùa, ai ngờ Thị về thật. Thế một đám cưới diễn ra.
Tràng vợ thực một chuyện éo le đám cưới của Tràng Thị cứ ngỡ như chỉ
trong chuyện cổ tích, vậy lại một đám cưới thật hội Việt Nam khi
chìm dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến. Đám cưới không một lễ
nghi dạm hỏi? chẳng lẽ bốn bát bánh đúc toàn bộ sính lễ ư? Đám cưới
không một kẻ đón người đưa, thậm chí cuộc đón dâu từ chợ huyện về xóm ngụ
chỉ hai người. dâu với chiếc nón rách nghiêng nghiêng che nửa khuôn mặt,
quần áo rách như tổ đỉa. Chú rể thị lúc nào cũng ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch
tự đắc với mình. Đám cưới đi trên nền tảng của một đám tang chung toàn dân tộc,
những tưởng rằng họ đang dắt díu nhau về cõi chết. Tràng thật liều cái liều của
Tràng thời buổi này nuôi than mình còn chưa nổi lại còn đèo bòng. Thị cũng thật
liều Thị liều nhắm mắt đưa than, theo không một chàng trai xa lạ về làm vợ.
Biết đâu hai cái liều hợp lại sẽ thành một tổ ấm.Về đến nhà,bước chân vào căn nhà
rúm xiêu vẹo, quần áo, niêu bát vứt bừa bộn cả trên giường dưới đất, Thị “nén
một tiếng thở dài”, “cái ngực gầy lép của Thị nhô lên”. Dường như trong hơi thở dài
ấy chứa đựng nỗi thất vọng bởi nhìn cảnh ngộ của gia đình Tràng thì liệu Tràng
phải cái bến vững chắc cho con thuyền đời thị neo đậu hay không? Mặc Tràng
đon đả thanh minh: “không người đàn nhà cửa thế đấy”, “ngồi đây…ngồi
xuống đây, tự nhiên!” thế nhưng Thị chỉ dám ngồi “mớm” mép giường. Ai dám bảo
Thị trơ trẽn nữa, ai dám bảo Thị đánh rơi mất long tự trọng nữa, lúc này con
người thật của thị đã trỗi dậy trong sự tủi nhục ngậm ngùi chua chát.Thị ngồi mớm
mép giường trông chông chênh như chính cuộc đời của Thị vậy.
Còn Tràng nhìn Thị ngồi ngay giữa nhà chợt nghĩ hóa ra mình đã vợ rồi
chàng không hiểu sao Thị lại buồn như thế. Người đời thường nói: “Tậu trâu, cưới
vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy thật khó khăn” ấy thế việc vợ đối với Tràng
dễ như trở bàn tay, như nhặt rơm nhặt rác ngoài đường. Sinh ra cũng kiếp
người sao Thị tội nghiệp đến vậy, nhìn Thị nỗi buồn thêm nặng trĩu.Tâm
trạng của cụ Tứ thì chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang mâu thuẫn. cụ
vui cuối cùng con mình cũng vợ nhưng lại tủi thân sự trớ trêu của số phận,
mẹ nghèo nặng trĩu những nỗi lo âu cho tương lai của con mình :"liệu chúng
nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không".
Câu hỏi chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh kiếp bần hàn không lối thoát cả sự
rình rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế". Trong
lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong
ngày vui, không lấy một mâm cơm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngào tâm sự
của còn cả sự xót xa, một chút ân hận đã không làm được đầy đủ bổn phận
của một người mẹ đối với con :"Năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này u
thương quá" . Cái chậc lưỡi mặc kệ số phận của Tràng; hành động “nén một tiếng
thở dài” tủi thân của người đàn khi liếc nhìn gia cảnh nhà chồng; sự nghẹn ngào,
xót xa của cụ Tứ trước hạnh phúc của con trai mình… khiến người đọc không
biết nên vui hay nên buồn, không cảm nhận được đây hạnh phúc hay bất hạnh,
sự sống hay cái chết.
Đặt nhân vật của mình vào tình huống bất ngờ éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi
bật được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình. Với việc xây dựng tình
huống truyện độc đáo nhà văn đã thể hiện chủ đề của tác phẩm đồng thời tố cáo
hiện thực hội đã tước đoạt hết quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.
thể nói, ấn tượng của người đọc với tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân chính
tình huống truyện đầy độc đáo, bất ngờ nhưng cũng không kém phần éo le của thiên
truyện. Thành công đó khiến truỵên ngắn của Kim Lân sống được với thời gian. Cái
nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu người bị chết đói ấy, rồi một lúc nào đó sẽ lùi vào
vãng. Nhưng câu chuỵên “nhặt vợ” của anh Tràng thì vẫn sống cùng tâm hồn,
cùng nỗi đau niềm tin của người dân Việt Nam.
9. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt - mẫu 1
Vợ nhặt của Kim Lân được khai thác từ đề tài nạn đói năm 1945 nhưng cái đọng lại
sau cùng của người đọc về tác phẩm không phải ám ảnh về cái chết, sự mất mát
ánh sáng ấm áp của tình người. Đứng trên ranh giới của sự sống cái chết,
con người vẫn dành cho nhau những tình cảm chân thành, đẹp đẽ nhất, đúng như
Nguyễn Khải đã từng viết sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình
từ trong những gian khổ, hi sinh”. Xây dựng được tình huống truyện đặc sắc, tác giả
Kim Lân trong Vợ nhặt không chỉ thu hút được sự quan tâm, kích thích sự mò,
khám phá của độc giả qua đó còn thể hiện được bao quan điểm nhân sinh sâu
sắc.
Tình huống truyện được hiểu những diễn biến, sự kiện đặc biệt, phức tạp. Tình
huống truyện càng độc đáo thì câu chuyện càng hấp dẫn. Trong truyện ngắn vợ
nhặt, Kim Lân đã xây dựng được tình huống vừa lạ lùng, vừa éo le, một tình huống
mang đến cho những người xung quanh câu chuyện bất ngờ, ngạc nhiên cùng bao
cảm xúc phức tạp.
Tràng chàng trai nghèo xấu xí, dáng người thô kệch với “hai mắt vào
bóng chiều, bộ mặt thô kệch, lưng to như lưng gấu”. Tràng sinh sống cùng mẹ
trong một ngôi nhà lụp xụp xóm ngụ cư. thể nói với điều kiện của anh Tràng thì
khó thể lấy được vợ trong hoàn cảnh bình thường, càng bất khả thi hơn khi nạn
đói xảy ra. Thế nhưng trong sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, trong đó cả
người trong cuộc Tràng, Tràng đã vợ, nói đúng hơn “nhặt” được vợ trong lúc
nạn đói diễn ra khủng khiếp nhất.
Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim LânTình huống nhặt được vợ
của anh Tràng tình huống lạ lùng nhưng không kém phần éo le, trái ngang, khi sự
việc diễn ra người dân xóm ngụ không biết nên mừng cho anh Tràng hay buồn
sự kiện ý nghĩa nhất của đời người lại diễn ra trong khung cảnh đói khát, liệu hạnh
phúc ấy được lâu bền hay không. Ngay bản thân cụ Tứ khi biết con trai vợ
cũng trải qua những cảm xúc cùng phức tạp, từ ngạc nhiên lo lắng, vui mừng cho
hạnh phúc của con, buồn tủi làm mẹ không lo được cho con.
Cảnh đám cưới của Tràng chị vợ nhặt cũng diễn ra thật lạ lùng, sự kiện hạnh
phúc ý nghĩa thiêng liêng nhất của đời người nhưng lại được diễn ra trong không
khí ngột ngạt, u tối bởi ám ảnh đói khát, khi sự sống cái chết chỉ cách biệt bởi
ranh giới cùng mỏng manh. Tình huống để Tràng người vợ nhặt quen biết rồi
đi đến quyết định gắn cả đời với nhau cũng chỉ những câu nói đùa vu vơ, vài
bát bánh đúc. Hoàn cảnh gặp mặt phần hài hước, lạ lùng ấy lại nút thắt quan
trọng gắn kết giữa hai con người, từ những người xa lạ họ đã gắn kết với nhau bởi
mối quan hệ đặc biệt. Lấy vợ khi nạn đói hoành hành tuy thiếu thốn về vật chất
nhưng cả Tràng người vợ nhặt đều chung khao khát hạnh phúc, niềm tin
vào cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.
Trong tình huống độc đáo, ấn tượng ấy người đọc còn ấn tượng bởi tâm trạng của
những người dân xóm ngụ của chính bản thân Tràng. Những người dân xóm
ngụ đã quen nhìn Tràng một chàng trai xấu với nụ cười hềnh hệch, chàng
trai nghèo xấu ấy ngỡ như không bao giờ lấy được vợ lại vợ trong tình
huống không ai ngờ đến nhất. Nhìn người đàn e thẹn, rón rén đi sau Tràng mọi
người đều cùng ngạc nhiên “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán”. Chính
sự kiện lạ lùng ấy đã mang đến một không khí tươi mát, lạ lùng vào không khí u ám
đói khát làm cho cuộc sống của những người dân nghèo ấy phần đổi khác so
với thường ngày.
Tuy nhiên, những người dân xóm ngụ cũng tỏ thái độ lo lắng cho tương lai của
Tràng người vợ nhặt giời đất này còn rước cái của nợ….qua được cái thì này
không?” Tràng người trong cuộc nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên tình huống
“nhặt vợ” đầy lạ lùng của mình. Khi người vợ nhặt về nhà, ngồi đầu giường Tràng
vẫn ngỡ như đang trong cơn bây giờ hắn đá vợ rồi đó ư?” Chi tiết này thể
hiện cái éo le của hoàn cảnh, anh Tràng người dân nghèo khổ nên ngay cả khi
hạnh phúc đến vẫn không dám tin vào thực tại.
cụ Tứ nhìn người đàn lạ ngồi trên giường lại chào mình bằng “u” đã rất bất
ngờ, hấp hãy đôi mắt nhìn cho kĩ, ngạc nhiên không hiểu chuyện đã xảy ra. Nạn
đói đã cướp đi sự nhạy cảm, tinh tế của người mẹ khi con trong độ tuổi lập gia
đình.
Như vậy, thông qua tình huống nhặt vợ đầy đặc biệt, tác giả Kim Lân đã tái hiện
được không khí đói khát, chết chóc của nạn đói nhưng từ cái nền đói khát đó tác giả
đã làm nổi bật lên ánh sáng của tình người, làm bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp
những người dân nghèo khổ.
10. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt - mẫu 2
Nói đến nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường coi ba yếu tố sau đây bản
nhất: tình huống truyện, nhân vật truyện cách trần thuật. nhiều truyện ngắn,
sự sáng , tạo tình huống đóng vai trò then chốt. Đặt vào tình huống ấy, nhân vật
truyện bộc lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. tưởng của thiên truyện cũng nhờ thế
được thể hiện đậm đà. xoay quanh tình huống ấy, các tình tiết cũng trở nên hấp
dẫn.Truyện Vợ nhặt của Kim Lân thuộc loại tác phẩm như thế.
Tình huống của Vợ nhặt thể hiện ngay tên truyện Một anh nông dân “nhặt” được
vợ. nào anh ta bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại dân ngụ
cư. Vậy chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu vợ theo về. Sự hấp dẫn của tình
huống truyện trước hết đó. Như một nghịch lý, gây ngạc nhiên cho mọi
người trong xóm ngụ cư, cho cụ Tứ, mẹ Tràng, cho cả bản thân Tràng kẻ
đã “nhặt” được vợ.
“… người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…” Đến
khi hiểu ra Tràng vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì
“cười lên rung rúc’. Người lại lo dùm cho anh ta Ôi chao! Giời đất này còn rước cái
của nợ dài về. Biết nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?” cụ Tứ
hiểu tỉnh cảnh con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng vợ. Thấy người
đàn đứng ngay đầu giường còn mình, cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: ”Quái sao lại
người đàn nào trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” cụ
làm sao hiểu nổi. Nghèo như con ai người ta thèm lấy vợ được. Vả lại trời
làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy nuôi vợ nuôi con? Bản thân Tràng
cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ
như không phải thế. Ra hắn đã vợ rồi đấy ư?”
Đúng một tình huống thật lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy đáng ngạc
nhiên đâu. Cái do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp biết
bao! Điều này, cụ Tứ gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới thật sự
thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy
còn hiểu ra biết bao nhiêu sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con
mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm
nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt kèm
nhèm của cụ rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nuôi nổi nhau
cho qua được cơn đói khát này không?”
Lòng cụ thật ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng
vui sao con mình cũng cd vợ, điều bổn phận làm mẹ đã không lo nổi
cho con: thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng.
Nhưng lo buồn, tủi nhục “người ta gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình, con mình mới vợ được…”
Như thế tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu. sắc tâm trạng, tính cách các nhân
vật cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm diễn biến phức tạp hơn cả. Còn Tràng thì
lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chọn”, nhưng liền sau đó chặc lưỡi mặc kệ!”. Trên
đường đưa vợ về nhà, thấy người ta nhìn ngó, “hắn lại lấy vậy làm thích ý
làm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nỗi anh ta
không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá chẳng đâu vào đâu tự
nhiên cũng khóc”.
Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn quá đột ngột. Mãi
đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng như người vừa
trong giấc ma di ra”. cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm đối
với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn với mọi
người, với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui
sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên
người”
Buồn tủi nhất tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng chuyện
thiêng liêng sự phó thác cả cuộc đời minh cho người đàn ông mình yêu quý.
Vậy chị ta nào biết Tràng ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu bâng quơ
mấy bát bánh đúc riêu cua theo ngay về, Cái đói đã đẩy người đàn đến chỗ
chẳng còn biết xấu hổ gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình không hơn cái rơm
cái rác, người ta thể “nhặt” được nơi đầu đường, chợ… Tác giả “Vợ nhạt” quả
đã sáng tạo được một tình huống truyện thật độc đáo. Một tình huống vừa rất hiện
thực, vừa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Lên án tội ác của bọn đế quốc Nhật Pháp đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói khủng
khiếp mùa xuân năm 1945, đã đề tài của hàng loạt tác phẩm thơ văn sau Cách
mạng tháng Tám, 1945 (Thơ Văn Cao, truyện ngăn, tiểu thuyết của Nguyên Hồng,
Hoài, Nguyễn Đình Thi. ..v.v.) Với Vợ nhặt, Kim Lân đã giải quyết đề tài ấy một
cách riêng vừa cùng cảm động, vừa buộc người ta đọc phải suy nghĩ nhức nhối,
day dứt mãi, lớp thanh thiếu niên ngày nay đọc chắc không thể tưởng tượng nổi cái
giá của con người đã cd lúc rẻ mạt đến thế. Nghĩa không bằng con vật. Cái
của Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố vẫn còn cao giá hơn nhiều. Chỉ vài bát
bánh đúc thành vợ hẳn hoi, thân phận con người như thế hơn cỏ rác. Bọn
phát xít thực dân đã từng đấy nhân dân ta đến nông nỗi như thế đấy. Lời kết tội của
Vợ nhặt thật ngắn gọn sâu sắc thấm thía biết bao!
Nhưng chủ đề của Vợ nhặt không chỉ cổ thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề
bên nanh vuốt của cái chết. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm
vớimùi khói,khét lẹt của những đống rấm trong nhà người chết lan tới tiếng hờ
khóc ngoài xóm lọt vào tỉ lúc to lúc nhỏ… Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật,
nhất Tràng cụ Tứ, thấy người dân lao động tin sự sống, vẫn hy vọng
tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau cùng
chia sẻ vui buồn, để bổn phận với nhau cũng như trách nhiệm với đời…
Đó bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan căn cứ
rệt “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời“. Vẫn tồn tại dai dẳng những con người
luôn sống hết mình với cuộc sống trong lao động đấu tranh để sinh tồn. Niềm tin
tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với cờ Việt
Minh bay phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời đại của dân tộc đang sắp sửa.
11. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt - mẫu 3
Sự thành công của mỗi truyện ngắn sự góp mặt của nhiều yếu tố, trong yếu tố
đóng vai trò then chốt là: tình huống, nhân vật cách trần thuật, nhà văn những
điểm mạnh riêng để tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm mình. Kim Lân đã rất thành
công trong các truyện ngắn của mình khi sáng tác được những tình huống truyện
đặc sắc. Đọc Vợ nhặt của Kim Lân ta cảm điều đó.
Trong Vợ nhặt của Kim Lân, tình huống truyện đã giúp nhà văn xây dựng bộc lộ sâu
sắc tính cách tâm nhân vật. Đồng thời gúp ông bộc lộ tâm ti những điều
bản thân ông muốn gửi gắm cho bạn đọc. Truyện cũng thế hấp dẫn hơn.
| 1/27

Preview text:

Phân tích tình huống trong truyện Vợ nhặt
Dựng vợ gả chồng từ xưa đến nay vốn là chuyện trọng đại cả đời của con người.
Thế nhưng đến với Vợ nhặt của Kim Lân đã thực sự khiến một việc nghiêm túc,
thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự
thực. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi
nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đó, tác
giả muốn khẳng định ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo
khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh
phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
1. Tình huống truyện Vợ nhặt
Tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân là một tình huống truyện rất độc đáo.
Tràng nhặt vợ trên phố chợ (ngoài tỉnh) nơi Tràng mưu sinh trong nạn đói 1945.
Lấy vợ, cưới hỏi là một việc trọng đại của cả một đời người nên cần có sự trang
nghiêm và chuẩn bị một cách chỉn chu. Nhưng Tràng lại nhặt được vợ như một của rơi vãi, rẻ rúng.
-> Tràng- một chàng trai xấu, ngờ nghệch, là dân ngụ cư, gia cảnh nghèo khó bỗng
nhặt vợ - chấp nhận một người phụ nữ tứ cố vô thân, mỗi ngày phải chống chọi với
nguy cơ chết đói , theo mình về làm vợ giữa nạn đói.
2. Ý nghĩa tình huống truyện Vợ nhặt
+ Tình huống bất ngờ (nằm ngoài mọi tính toán từ trước của cả hai nhân vật), éo le
(trong nạn đói, chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện xa vời với những người dân
nghèo phải chật vật xoay xở để sống sót qua ngày), tạo thành trung tâm cốt truyện,
làm nền cho sự nảy nở những tình huống nhỏ, phụ khác, góp phần hình thành tính
cách nhân vật và thể hiện chủ đề truyện.
+ Tình huống mang giá trị nhân đạo khi tỏa sáng vẻ đẹp của tình người và tính
người trong hoàn cảnh bi đát. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào họ- những thân phận
nghèo khổ vẫn yêu thương, bao dung, có tinh thần lạc quan, có khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc.
-> Đặt trong tình huống truyện, theo trình tự câu chuyện - mỗi nhân vật đã có những
thay đổi quan trọng từ diện mạo, tâm trạng, đến cách ứng xử.
3. Nhận xét tình huống truyện Vợ nhặt
Truyện Vợ nhặt của tác giả Kim Lân được xây dựng trong bối cảnh nạn đói năm
1945. Có thể nói đây là một thời kì đen tối và giá trị con người trở nên rẻ rúng, thê
lương và luôn cận kề với cái chết.
Tình huống truyện Vợ nhặt đã được tác giả thể hiện ngay qua nhan đề của tác phẩm.
Có thể nói tình huống truyện Vợ nhặt đã phản ánh rõ 2 mặt giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
● Về giá trị hiện thưc: Tố cáo tội ác của thực dân Pháp, đẩy cuộc sống của
người dân đến bước đường cùng của nạn đói 1945.
● Về giá trị nhân đạo: trong cái bối cảnh u ám ấy ta vẫn cảm nhận được
tình cảm yêu thương giữa con người cũng như niềm lạc quan vào một
tương lai tươi sáng hơn của những người dân nghèo.
4. Tóm tắt tình huống truyện Vợ nhặt
Vốn là một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai, ế ẩm lại nghèo, thế mà Tràng đã “nhặt”
được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng chỉ băng mấy câu hát, mấy lời bông
đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc…
Tràng lại “nhặt” được vợ trong một hoàn cảnh trớ trêu: giữa lúc nạn đói khủng khiếp
đang xảy ra, đe dọa cuộc sống của mọi người. Bản thân Tràng gắng sức đi làm kiếm
tiền nuôi bản thân mình và mẹ già đã khó, nay lại “đèo bòng” thêm một người “vợ
nhặt”. Trước tình cảnh này, việc Tràng “nhặt” được vợ không biết nên mừng hay nên
lo, nên vui hay nên buồn, là một dịp may hay là điều rủi ro… Đó thực sự là một tình
huống nghệ thuật độc đáo.
5. Dàn ý phân tích tình huống truyện Vợ nhặt a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
+ Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu
nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn.
+ Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đó có Vợ nhặt của Kim Lân.
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề : Tình huống truyện độc đáo trong Vợ Nhặt. b) Thân bài
* Khái niệm tình huống truyện
- Tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt mà tại
đó cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất, bộc lộ rõ nét nhất ý đồ tư tưởng của tác giả.
- Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại.
* Phân tích tình huống nhặt vợ
- Bối cảnh xây dựng tình huống truyện:
+ Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.
+ Một không khí ảm đạm, thê lương, những người sống luôn bị cái chết đe dọa.
- Tóm tắt tình huống: Vốn là một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai, ế ẩm lại nghèo, thế
mà Tràng đã “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng ngay trong những
ngày đói chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời bông đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc…
Các chi tiết độc đáo của tình huống truyện:
+ Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ "ế" vợ rất cao:
Ngoại hình xấu xí, thô kệch.
Tính tình có phần không bình thường.
Ăn nói cộc cằn, thô lỗ.
Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.
Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.
+ Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai họa (theo lô gíc tự nhiên).
+ Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ
Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên.
Bà cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên
Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn "ngờ ngợ".
+ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí:
Nếu không phải năm đói khủng khiếp thì "người ta" không thèm lấy một người như Tràng.
Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được.
* Giá trị của tình huống truyện - Giá trị hiện thực:
+ Phác họa tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
Cái đói dồn đuổi con người.
Cái đói bóp méo cả nhân cách.
Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
+ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp. - Giá trị nhân đạo
+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.
Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.
Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt"
Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.
+ Con người luôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:
Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.
Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự định thiết thực
tạo niềm tin cho con dâu vào một cuộc sống tốt đẹp.
Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật. c) Kết bài
- Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
- Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
6. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt học sinh giỏi
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của
dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc
tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là
Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại
và cho ra mắt bạn đọc với tựa dề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng tác
phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng
tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống ép le, trở trêu chứa đựng đầy
kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc. Cốt truyện đơn
giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo
xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt
– một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung
cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm
u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo
gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ
chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng
trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh
hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.
Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc
nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con
Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi
thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp
súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang.
Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.
Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự
sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự
kiện to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết
tràn lan. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là
chuyện lạ lùng và thú vị!
Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn
phở khác thường và người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn
hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ
vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông
vợ hài! Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ
hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ
vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và
thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt
bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi
chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được
cái thì này không? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi
vọng vượt lên cái chết.
Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai
mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo:
Kìa nhà tôi nó chào u... thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi.
Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót
thương cho số kiếp đứa con mình... Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ
và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm
mẹ mà không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới
được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi
bà cụ băn khoăn: biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát
này không? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia
vô hạn: Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.
Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt,
không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ
như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng
không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành
chồng... Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa
dám tin là mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người
đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.
Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le, trớ trêu, không
biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ,
nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi
không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là người mẹ già lo
và thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chổng Tràng với những chi
tiết thật ấn tượng và chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc
rồi tắt. Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ
khóc tỉ tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự
sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng
cực thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và
quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !
Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn
sâu xa của tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và
chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên
lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc có một
không hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công
vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của những người
nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm
tin và hi vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân
văn làm nên sức sống lâu dài của tác phẩm.
7. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt ngắn gọn
Đối với nghệ thuật truyện ngắn, tạo ra được một tình huống độc đáo mới lạ để làm
bật nổi vấn đề, bật nổi tâm trạng, tư tưởng, tính cách của các nhân vật và chủ đề
của tác phẩm là một điều có ý nghĩa then chốt. Một truyện ngắn đặc sắc là nhờ
được tổ chức chung quanh một tình huống như thế, và Vợ nhặt của Kim Lân là một trường hợp tiêu biểu.
Vợ nhặt đã tạo ra được một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Đó là tình huống
nhân vật Tràng, một anh nhà nghèo xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh bỉ), giữa
lúc đói khát lại lấy được vợ. Đó là một điều lạ. Lạ vì hai lí do. Người như Tràng mà
lấy được vợ, thậm chí có vợ theo! Thời buổi đói khát này, người như Tràng, nuôi
thân chẳng xong mà dám lấy vợ!
Nhưng điều tưởng không thể nào có được, lại đã xẩy ra, đã trở thành hiện thực. Bởi
vì, nếu không phải năm đói, người ta không đói quá, thì ai thèm lấy Tràng. Và đây là
“vợ nhặt”, có cần cheo cưới gì đâu. Năm đói thế nào cũng xong, có thế người như
Tràng mới lấy được vợ.
Tình huống này dẫn đến sự ngạc nhiên của cả xóm cư ngụ, của bà cụ Tứ (mẹ
Tràng) và của chính Tràng nữa. Như vậy, tình huống này đã làm cho câu chuyện có
thể triển khai, phát triển dễ dàng bằng các cảnh với các chi tiết rất hấp dần: Cảnh
xóm ngụ cư xì xào bàn tán khi Tràng dẫn vợ về nhà.
Cảnh buổi tối bà cụ Tứ gặp người con dâu được “nhặt về” trong sự sững sờ này
đến sự ngạc nhiên khác,.. Chuyện có vợ bất ngờ với cả chính Tràng nữa, khiến anh
ta không thế nào tin nổi trong buổi tối dẫn vợ về báo cho mẹ biết và ngay cả sáng
hôm sau khi đã là vợ chồng (“Nhìn thị (vợ Tràng) ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ
hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”). Tình huống
trên, đồng thời hết sức éo le. Đó là chuyện nên vui hay nên buồn nên mừng hay nên lo?
Chính điều này lại thúc đẩy cho câu chuyện tiếp tục phát triển để nhà văn có thể
khắc họa tâm trạng nhân vật phong phú và tính cách nhân vật rõ nét hơn. Trong cái
tình huống hết sức éo le ấy, ta thấy một sự xáo trộn buồn tủi, vui mừng, lo sợ ở
trong tâm trạng của mọi người: Người trong xóm ngụ cư mừng cho anh ta và cũng
lo cho anh ta. Bà cụ Tứ mừng cho con nhưng vừa thương vừa tủi, vừa lo cho con.
Chính Tràng cũng vừa vui vừa “chợn”: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả
biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Tình huống trên dẫn đến cái hạnh phúc
thật mong manh, tội nghiệp của đôi vợ chồng và bà mẹ nghèo khổ. Hạnh phúc của
vợ chồng Tràng và niềm vui của bà cụ Tứ cứ phải diễn ra trong một không khí ảm
đạm chết chóc, với những tiếng hờ khóc người chết đói vẳng đưa tới (“Giữa sự im
lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc
nhỏ”). Hạnh phúc của họ đã diễn ra trong âm hưởng của tiếng khóc thê thảm ấy.
Và tiếp đó là bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới thật tội nghiệp: ăn cháo cám. Ăn mà
không dám nhìn nhau… Tình huống đó đà tạo cảm hứng, tạo cảnh, tạo chi tiết để
nhà văn có thề viết nên những trang thật cảm động về câu chuyện “Vợ nhặt” rất hiện
thực và cũng rất nhân đạo trong trận đói khủng khiếp năm 1945.
Tình huống “Vợ nhặt” độc đáo và hấp dẫn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của
nhà văn Kim Lân. Tình huống ây không chỉ tạo điều kiện cho câu chuyện triển khai
và phát triền dễ dàng, tốt đẹp, mà còn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề truyện: niềm
khát khao tổ ấm gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ ngay
trong trận đói khủng khiếp nhất.
8. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt dễ hiểu
Kim Lân được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng, là nhà văn một lòng đi về với
đất với người, với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của nông thôn Việt Nam. Lần
đầu tiên có một nhà văn xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của
đất đai của cuộc sống con người để tái hiện mồn một trên mỗi trang viết. Văn Kim
Lân hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể hấp dẫn và khả năng phân
tích tâm lý nhân vật sắc sảo. Trong số những tác phẩm của ông thì truyện ngắn Vợ
nhặt được in trong tập " Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962 là tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật của Kim Lân. Trong tác phẩm ông đã ghi lại sự thật mặn chát của
cuộc đời người nông dân trong nạn đói 1945, tất cả sự thật nghiệt ngã ấy được nhà
văn thông qua tình huống truyện Vợ nhặt.
Xây dựng tình huống là vấn đề then chốt của truyện ngắn, là cánh cửa mở ra để
người đọc đi vào khám phá giá trị của một tác phẩm văn chương. Nhà văn thường
xây dựng hoàn cảnh điển hình để đặt nhân vật vào đó khám phá vẻ đẹp tâm hồn
tính cách nhân vật đồng thời tái hiện bức tranh đời sống xã hội. Kim Lân cũng thế,
ông đã tái hiện không gian năm đói 1945 làm phông nền cho việc anh cu Tràng nhặt
được vợ. Cái năm Ất Dậu ngày ấy đã trở thành nỗi kinh hoàng của lịch sử, là vết
thương lòng không bao giờ mờ được trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Hơn
hai triệu đồng bào ta bị chết đói là con số mà hàng trăm hàng nghìn năm sau mỗi lần
nhắc tới con cháu ta không khỏi rùng mình ghê sợ về cái thời mà trên trời từng đàn
quạ đen rỉa xác người chết đói bay lên, gào lên từng hồi thê thiết.
Dưới đất bên những gốc đa gốc gạo xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ như
những bóng ma. Người Thái Bình, Nam Định đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau
đi trông xanh xám dật dờ như những bóng ma. Không khí vẩn lên mùi ẩm mốc của
rác rưởi và mùi gây của xác người, tất cả tạo nên một bầu không khí ảm đạm tang
tóc và thê lương. Cái đói, cái chết len lỏi vào ngõ ngách, gõ cửa từng nhà, đụng
chạm đến từng người, cõi âm hòa với cõi dương, cuộc sống mấp mét bên bờ vực
của cái chết. Giữa bối cảnh tối xầm lại vì đói khát ấy thì một việc hệ trọng nhất của
một đời người lại diễn ra một cách nhanh chóng vội vàng - đó là việc anh cu Tràng có vợ.
Tràng có vợ là một truyện lạ bởi hắn vốn là một người xấu trai mà dân ngụ cư cho là
ế vợ "hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt
bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc
nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa
ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch". Nhìn Tràng chẳng khắc gì sản phẩm mà tạo
hóa chạm khắc vội vàng. Thật vậy, lời văn của Kim Lân như thứ nước rửa ảnh làm
nổi hình nổi sắc nhân vật trên từng câu chữ. Một người xấu như Tràng mà có vợ,
thậm chí nhặt được vợ đó chẳng phải là một chuyện lạ hay sao.
Không chỉ xấu mà Tràng còn rơi vào kiếp nghèo, nghèo đến tận đáy cùng của xã
hội. Hãy nhìn căn nhà mà hai mẹ còn Tràng ở chẳng khác gì túp lều xiêu mưa ngã
gió mọc trên những búi cỏ dại " lổn nhổn ", thêm vào đó tài sản của Tràng còn là một
đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà, là hai cái ang nước để
khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi , là đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi. Có
thể nói cái nghèo đã kéo ghì cuộc sống của mẹ con Tràng xuống sát đất để rồi cái
chết đang rình rập bủa vây. Kim Lân đã chọn những chi tiết rất thật, rất đời thường,
lựa chọn những ngôn ngữ mộc mạc giản dị và gần gũi để tái hiện bức tranh hiện
thực đời sống xám ngắt trong năm Ất Dậu 1945. Đã nghèo, Tràng lại còn mang thân
phận của dân ngụ cư nên thật tội nghiệp, bởi coi khinh miệt thị dân ngụ cư đã đi sâu
vào tiềm thức đến mức trở thành lời truyền miệng:
Trai làng ở góa còn đông
Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư
Đặc biệt là ở việc Tràng có vợ chỉ với một câu nói bông đùa trong lần gò lưng kéo xe
bò thóc, hắn nhìn thấy những cô gái ngồi vêu mặt ra ở dốc tỉnh, Tràng đoán họ ngồi
đó để nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có việc gọi thì làm. Họ chính là kiếp người trôi dạt bị
cơn bão táp của đói khát đẩy xô. Trước cảnh đó Tràng cất câu hò cho đỡ nhọc chứ
không có ý chòng gẹo cô nào:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì
Chẳng hiểu sao lúc đó chàng lại có thể nói ra những lời có cánh đến như vậy. Dẫu
biết rằng có khối đấy mà cơm trắng mấy giò thế mà Thị vẫn ton ton chạy lại đẩy xe
cho Tràng. Hắn thích chí cười tít cả mắt bởi từ ngày cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa
có ai cười với hắn tình tứ như thế. Câu hò cất lên giữa ngày đói khát sẽ chẳng bao
giờ lịm tắt mà luôn để lại dư vang, biết đâu một ngày nào đó nó trở thành chiếc phao
cứu sinh cứu vớt người chết đuối vì đói khát. Đôi khi nó là cái cớ là nhịp cầu dẫn
con người đến với nhau. Quả thật lần thứ hai khi trả hàng xong Tràng ngồi uống
nước ở cổng chợ tỉnh thì Thị ở đâu sầm sập chạy đến đứng sưng sỉa trước mặt
Tràng:" Điêu! người thế mà điêu". Thoáng đầu Tràng chẳng hiểu gì nhưng trong phút
chốc Tràng nhận ra Thị, Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trơ lại
hai con mắt. Nghĩa là Thị đang mấp mé bên bờ vực của cái chết, chỉ biết dõi theo
câu hò xăm xăm đi tới tìm Tràng mà thôi, kiếp đời trôi dạt như Thị thì biết đâu là bến
bờ neo đậu:" Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường". Thị đích thực là người của cái thời:
Con đói lả trên lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đi nấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi
Nhìn Thị tình yêu thương đồng loại trong Tràng trỗi dậy, hắn sẵn sàng đãi Thị "thích
ăn gì thì ăn", nghe thế hai con mắt trũng hoáy của Thị tức thời sáng lên, nghĩa là Thị
đã tìm thấy một nguồn sống: " ăn nhé"..."ăn thì ăn chứ sợ gì". Thế là Thị cắm đầu ăn
liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng nói năng gì. Nhìn Thị lúc này có vẻ như rất
trơ trẽn, Thị đã chối bỏ liêm xỉ, đánh rơi lòng tự trọng cắm đầu mà ăn. Kẻ hời hợt thì
nhìn Thị bằng cặp mắt khinh bỉ, người sâu sắc thì ngậm ngùi cám cảnh rưng rưng
nước mắt mà cảm thông xót xa cho Thị. Cái gì đã làm cho Thị đánh rơi mất lòng tự
trọng? Cái gì đã làm cho Thị trở nên trơ trẽn? Phải chăng đó là cái đói, cái chết? Vì
sống cho nên Thị phải ăn bởi sống mới là nhân văn nhân bản.
Đã có bao triết lý ném ra giữa đời để bênh vực những người như Thị, ví như ngạn
ngữ Hi Lạp cho rằng:" Có ai chết hai lần để học bài học kinh nghiệm về cái chết bao
giờ đâu" hay Nguyễn Khải đã có lúc khẳng định " Muốn chết nhưng đời còn dài nên
phải sống cho dù phải sống táo bạo, sống ghen tị với mọi người và hờn giận với
chính bản thân mình". Thật vậy, hãy một lần ta đặt mình vào hoàn cảnh của Thị ta
sẽ thấu hiểu được nỗi tủi hờn và nhục nhã trong Thị. Và như vậy Thị thật đáng
thương, đáng chia sẻ hơn là đáng trách. Xong bữa tiệc bánh đúc Thị cầm cây đũa
quệt ngang miệng và nói "hà, ngon", "về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố", Tràng nói:"
làm đếch gì có vợ. Này nói đừa chứ có về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về",
Tràng cứ nghĩ mình nói đùa, ai ngờ Thị về thật. Thế là một đám cưới diễn ra.
Tràng có vợ thực là một chuyện éo le đám cưới của Tràng và Thị cứ ngỡ như chỉ có
trong chuyện cổ tích, vậy mà nó lại là một đám cưới có thật ở xã hội Việt Nam khi
chìm dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến. Đám cưới gì mà không một lễ
nghi dạm hỏi? chẳng lẽ bốn bát bánh đúc là toàn bộ sính lễ ư? Đám cưới gì mà
không một kẻ đón người đưa, thậm chí cuộc đón dâu từ chợ huyện về xóm ngụ cư
chỉ có hai người. Cô dâu với chiếc nón rách nghiêng nghiêng che nửa khuôn mặt,
quần áo rách như tổ đỉa. Chú rể thị lúc nào cũng ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch
tự đắc với mình. Đám cưới đi trên nền tảng của một đám tang chung toàn dân tộc,
những tưởng rằng họ đang dắt díu nhau về cõi chết. Tràng thật liều – cái liều của
Tràng là ở thời buổi này nuôi than mình còn chưa nổi lại còn đèo bòng. Thị cũng thật
liều – Thị liều nhắm mắt đưa than, theo không một chàng trai xa lạ về làm vợ.
Biết đâu hai cái liều hợp lại sẽ thành một tổ ấm.Về đến nhà,bước chân vào căn nhà
rúm ró xiêu vẹo, quần áo, niêu bát vứt bừa bộn cả trên giường dưới đất, Thị “nén
một tiếng thở dài”, “cái ngực gầy lép của Thị nhô lên”. Dường như trong hơi thở dài
ấy chứa đựng nỗi thất vọng bởi nhìn cảnh ngộ của gia đình Tràng thì liệu Tràng có
phải là cái bến vững chắc cho con thuyền đời thị neo đậu hay không? Mặc dù Tràng
đon đả thanh minh: “không có người đàn bà nhà cửa thế đấy”, “ngồi đây…ngồi
xuống đây, tự nhiên!” thế nhưng Thị chỉ dám ngồi “mớm” ở mép giường. Ai dám bảo
Thị trơ trẽn nữa, ai dám bảo Thị đánh rơi mất long tự trọng nữa, mà lúc này con
người thật của thị đã trỗi dậy trong sự tủi nhục ngậm ngùi chua chát.Thị ngồi mớm ở
mép giường trông nó chông chênh như chính cuộc đời của Thị vậy.
Còn Tràng nhìn Thị ngồi ngay giữa nhà mà chợt nghĩ hóa ra mình đã có vợ rồi và
chàng không hiểu vì sao Thị lại buồn như thế. Người đời thường nói: “Tậu trâu, cưới
vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó khăn” ấy thế mà việc có vợ đối với Tràng
dễ như trở bàn tay, như nhặt rơm nhặt rác ở ngoài đường. Sinh ra cũng là kiếp
người mà sao Thị tội nghiệp đến vậy, nhìn Thị mà nỗi buồn thêm nặng trĩu.Tâm
trạng của bà cụ Tứ thì chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ
vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi thân vì sự trớ trêu của số phận,
bà mẹ nghèo nặng trĩu những nỗi lo âu cho tương lai của con mình :"liệu chúng nó
có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không".
Câu hỏi chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự
rình rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế". Trong
lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong
ngày vui, không có lấy một mâm cơm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngào tâm sự
của bà còn có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận
của một người mẹ đối với con :"Năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này u
thương quá" . Cái chậc lưỡi mặc kệ số phận của Tràng; hành động “nén một tiếng
thở dài” tủi thân của người đàn bà khi liếc nhìn gia cảnh nhà chồng; sự nghẹn ngào,
xót xa của bà cụ Tứ trước hạnh phúc của con trai mình… khiến người đọc không
biết nên vui hay nên buồn, không cảm nhận được đây là hạnh phúc hay bất hạnh,
sự sống hay là cái chết.
Đặt nhân vật của mình vào tình huống bất ngờ và éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi
bật được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình. Với việc xây dựng tình
huống truyện độc đáo nhà văn đã thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm đồng thời tố cáo
hiện thực xã hội đã tước đoạt hết quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.
Có thể nói, ấn tượng của người đọc với tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân chính là ở
tình huống truyện đầy độc đáo, bất ngờ nhưng cũng không kém phần éo le của thiên
truyện. Thành công đó khiến truỵên ngắn của Kim Lân sống được với thời gian. Cái
nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu người bị chết đói ấy, rồi một lúc nào đó sẽ lùi vào
dĩ vãng. Nhưng câu chuỵên “nhặt vợ” của anh Tràng thì vẫn sống cùng tâm hồn,
cùng nỗi đau và niềm tin của người dân Việt Nam.
9. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt - mẫu 1
Vợ nhặt của Kim Lân được khai thác từ đề tài nạn đói năm 1945 nhưng cái đọng lại
sau cùng của người đọc về tác phẩm không phải là ám ảnh về cái chết, sự mất mát
mà là ánh sáng ấm áp của tình người. Đứng trên ranh giới của sự sống và cái chết,
con người vẫn dành cho nhau những tình cảm chân thành, đẹp đẽ nhất, đúng như
Nguyễn Khải đã từng viết “ sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình
từ trong những gian khổ, hi sinh”. Xây dựng được tình huống truyện đặc sắc, tác giả
Kim Lân trong Vợ nhặt không chỉ thu hút được sự quan tâm, kích thích sự tò mò,
khám phá của độc giả mà qua đó còn thể hiện được bao quan điểm nhân sinh sâu sắc.
Tình huống truyện được hiểu là những diễn biến, sự kiện đặc biệt, phức tạp. Tình
huống truyện càng độc đáo thì câu chuyện càng hấp dẫn. Trong truyện ngắn vợ
nhặt, Kim Lân đã xây dựng được tình huống vừa lạ lùng, vừa éo le, một tình huống
mang đến cho những người xung quanh câu chuyện bất ngờ, ngạc nhiên cùng bao cảm xúc phức tạp.
Tràng là chàng trai nghèo xấu xí, dáng người thô kệch với “hai mắt hí gà gà vào
bóng chiều, bộ mặt thô kệch, lưng to bè như lưng gấu”. Tràng sinh sống cùng mẹ
trong một ngôi nhà lụp xụp xóm ngụ cư. Có thể nói với điều kiện của anh Tràng thì
khó có thể lấy được vợ trong hoàn cảnh bình thường, càng bất khả thi hơn khi nạn
đói xảy ra. Thế nhưng trong sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, trong đó có cả
người trong cuộc là Tràng, Tràng đã có vợ, nói đúng hơn là “nhặt” được vợ trong lúc
nạn đói diễn ra khủng khiếp nhất.
Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim LânTình huống nhặt được vợ
của anh Tràng là tình huống lạ lùng nhưng không kém phần éo le, trái ngang, khi sự
việc diễn ra người dân xóm ngụ cư không biết nên mừng cho anh Tràng hay buồn vì
sự kiện ý nghĩa nhất của đời người lại diễn ra trong khung cảnh đói khát, liệu hạnh
phúc ấy có được lâu bền hay không. Ngay bản thân bà cụ Tứ khi biết con trai có vợ
cũng trải qua những cảm xúc vô cùng phức tạp, từ ngạc nhiên lo lắng, vui mừng cho
hạnh phúc của con, buồn tủi vì làm mẹ mà không lo được cho con.
Cảnh đám cưới của Tràng và chị vợ nhặt cũng diễn ra thật lạ lùng, sự kiện hạnh
phúc có ý nghĩa thiêng liêng nhất của đời người nhưng lại được diễn ra trong không
khí ngột ngạt, u tối bởi ám ảnh đói khát, khi sự sống và cái chết chỉ cách biệt bởi
ranh giới vô cùng mỏng manh. Tình huống để Tràng và người vợ nhặt quen biết rồi
đi đến quyết định gắn bó cả đời với nhau cũng chỉ là những câu nói đùa vu vơ, vài
bát bánh đúc. Hoàn cảnh gặp mặt có phần hài hước, lạ lùng ấy lại là nút thắt quan
trọng gắn kết giữa hai con người, từ những người xa lạ họ đã gắn kết với nhau bởi
mối quan hệ đặc biệt. Lấy vợ khi nạn đói hoành hành tuy có thiếu thốn về vật chất
nhưng cả Tràng và người vợ nhặt đều có chung khao khát hạnh phúc, có niềm tin
vào cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.
Trong tình huống độc đáo, ấn tượng ấy người đọc còn ấn tượng bởi tâm trạng của
những người dân xóm ngụ cư và của chính bản thân Tràng. Những người dân xóm
ngụ cư đã quen nhìn Tràng là một chàng trai xấu xí với nụ cười hềnh hệch, chàng
trai nghèo mà xấu xí ấy ngỡ như không bao giờ lấy được vợ lại có vợ trong tình
huống không ai ngờ đến nhất. Nhìn người đàn bà e thẹn, rón rén đi sau Tràng mọi
người đều vô cùng ngạc nhiên “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán”. Chính
sự kiện lạ lùng ấy đã mang đến một không khí tươi mát, lạ lùng vào không khí u ám
vì đói khát làm cho cuộc sống của những người dân nghèo ấy có phần đổi khác so với thường ngày.
Tuy nhiên, những người dân xóm ngụ cư cũng tỏ thái độ lo lắng cho tương lai của
Tràng và người vợ nhặt “ giời đất này còn rước cái của nợ….qua được cái thì này
không?” Tràng là người trong cuộc nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên vì tình huống
“nhặt vợ” đầy lạ lùng của mình. Khi người vợ nhặt về nhà, ngồi ở đầu giường Tràng
vẫn ngỡ như đang trong cơn mơ “ bây giờ hắn đá có vợ rồi đó ư?” Chi tiết này thể
hiện cái éo le của hoàn cảnh, anh Tràng là người dân nghèo khổ nên ngay cả khi
hạnh phúc đến vẫn không dám tin vào thực tại.
Bà cụ Tứ nhìn người đàn bà lạ ngồi trên giường lại chào mình bằng “u” bà đã rất bất
ngờ, hấp hãy đôi mắt nhìn cho kĩ, ngạc nhiên không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nạn
đói đã cướp đi sự nhạy cảm, tinh tế của người mẹ khi có con trong độ tuổi lập gia đình.
Như vậy, thông qua tình huống nhặt vợ đầy đặc biệt, tác giả Kim Lân đã tái hiện
được không khí đói khát, chết chóc của nạn đói nhưng từ cái nền đói khát đó tác giả
đã làm nổi bật lên ánh sáng của tình người, làm bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp ở
những người dân nghèo khổ.
10. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt - mẫu 2
Nói đến nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường coi ba yếu tố sau đây là cơ bản
nhất: tình huống truyện, nhân vật truyện và cách trần thuật. Có nhiều truyện ngắn,
sự sáng , tạo tình huống đóng vai trò then chốt. Đặt vào tình huống ấy, nhân vật
truyện bộc lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. Tư tưởng của thiên truyện cũng nhờ thế mà
được thể hiện đậm đà. Và xoay quanh tình huống ấy, các tình tiết cũng trở nên hấp
dẫn.Truyện Vợ nhặt của Kim Lân thuộc loại tác phẩm như thế.
Tình huống của Vợ nhặt thể hiện ngay ở tên truyện Một anh nông dân “nhặt” được
vợ. Mà nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân ngụ
cư. Vậy mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về. Sự hấp dẫn của tình
huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc nhiên cho mọi
người trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng, và cho cả bản thân Tràng là kẻ
đã “nhặt” được vợ.
“… người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…” Đến
khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì
“cười lên rung rúc’. Người lại lo dùm cho anh ta Ôi chao! Giời đất này còn rước cái
của nợ dài về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?” Bà cụ Tứ
hiểu tỉnh cảnh con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy có người
đàn bà đứng ngay ở đầu giường còn mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: ”Quái sao lại
có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Bà cụ
làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy mà có vợ được. Vả lại trời
làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con? Bản thân Tràng
cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ
như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”
Đúng là một tình huống thật lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc
nhiên đâu. Cái lý do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp biết
bao! Điều này, bà cụ Tứ gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới thật sự
thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy
còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con
mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm
nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà cụ rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau
cho qua được cơn đói khát này không?”
Lòng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng
vui vì dù sao con mình cũng cd vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi
cho con: ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng.
Nhưng lo buồn, tủi nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình, Mà con mình mới có vợ được…”
Như thế là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu. sắc tâm trạng, tính cách các nhân
vật Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lý diễn biến phức tạp hơn cả. Còn Tràng thì
lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chọn”, nhưng liền sau đó chặc lưỡi mặc kệ!”. Trên
đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại lấy vậy làm thích ý
làm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nỗi anh ta
không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc”.
Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi
đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ờ
trong giấc ma di ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm đối
với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi
người, với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui
sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”
Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng là chuyện
thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc đời minh cho người đàn ông mà mình yêu quý.
Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng quơ
và mấy bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về, Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ
chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình không hơn gì cái rơm
cái rác, người ta có thể “nhặt” được nơi đầu đường, xó chợ… Tác giả “Vợ nhạt” quả
đã sáng tạo được một tình huống truyện thật độc đáo. Một tình huống vừa rất hiện
thực, vừa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Lên án tội ác của bọn đế quốc Nhật Pháp đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói khủng
khiếp mùa xuân năm 1945, đã là đề tài của hàng loạt tác phẩm thơ văn sau Cách
mạng tháng Tám, 1945 (Thơ Văn Cao, truyện ngăn, tiểu thuyết của Nguyên Hồng,
Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi. ..v.v.) Với Vợ nhặt, Kim Lân đã giải quyết đề tài ấy một
cách riêng vừa vô cùng cảm động, vừa buộc người ta đọc phải suy nghĩ nhức nhối,
day dứt mãi, lớp thanh thiếu niên ngày nay đọc chắc không thể tưởng tượng nổi cái
giá của con người đã cd lúc rẻ mạt đến thế. Nghĩa là không bằng con vật. Cái Tý
của Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố vẫn còn cao giá hơn nhiều. Chỉ vài bát
bánh đúc mà thành vợ hẳn hoi, thân phận con người như thế có hơn gì cỏ rác. Bọn
phát xít thực dân đã từng đấy nhân dân ta đến nông nỗi như thế đấy. Lời kết tội của
Vợ nhặt thật là ngắn gọn sâu sắc thấm thía biết bao!
Nhưng chủ đề của Vợ nhặt không chỉ cổ thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề
bên nanh vuốt của cái chết. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm
vớimùi khói,khét lẹt của những đống rấm trong nhà có người chết lan tới và tiếng hờ
khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ… Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật,
nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống, vẫn hy vọng ở
tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng
chia sẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có trách nhiệm với đời…
Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ
gì rõ rệt – “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời“. – Vẫn tồn tại dai dẳng ở những con người
luôn sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đấu tranh để sinh tồn. Niềm tin
tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt
Minh bay phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa.
11. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt - mẫu 3
Sự thành công của mỗi truyện ngắn có sự góp mặt của nhiều yếu tố, trong yếu tố
đóng vai trò then chốt là: tình huống, nhân vật và cách trần thuật, nhà văn có những
điểm mạnh riêng để tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm mình. Kim Lân đã rất thành
công trong các truyện ngắn của mình khi sáng tác được những tình huống truyện
đặc sắc. Đọc Vợ nhặt của Kim Lân ta cảm rõ điều đó.
Trong Vợ nhặt của Kim Lân, tình huống truyện đã giúp nhà văn xây dựng bộc lộ sâu
sắc tính cách và tâm lí nhân vật. Đồng thời gúp ông bộc lộ tâm tư ti và những điều
mà bản thân ông muốn gửi gắm cho bạn đọc. Truyện cũng thế mà hấp dẫn hơn.