ĐẤT NƯỚC
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
-----
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã rồi
Đất Nước trong những cái “ngày xửa ngày
xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre
đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần,
ng
Đất Nước từ ngày đó...
Đất nơi anh đến trường
Nước nơi em tắm
Đất Nước nơi ta hẹn
Đất Nước nơi em đánh rơi chiếc khăn trong
nỗi nhớ thầm
Đất nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn
núi bạc”
Nước nơi “con ngư ông móng nước biển
khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước nơi dân mình đoàn tụ
Đất nơi Chim về
Nước nơi Rồng
Lạc Long Quân Âu
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây gi
Yêu nhau sinh con đẻ i
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh
thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi
Bút, non Nghiên.
Con cóc, con quê hương cùng góp cho Hạ
Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông
Trang, Đen, Điểm
đâu trên khắp ruộng đồng bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối
sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng
thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất ớc
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần làm lụng
Khi giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh em đều nhớ
Những em biết không
biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất ớc
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con
i
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập i
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di
n
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái
trái
ngoại xâm thì chống ngoại m
1
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mộng
Em ơi em Đất Nước máu xương của mình
Phải biết gắn san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng nh xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
*
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất
Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao
đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ
Hùng Vương
nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân n
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao
thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù không sợ dài u
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
khi về Đất Nước mình t bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
...
2
PHẦN 1: TÁC GIA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
I. BỐI CẢNH THỜI ĐẠI
- Khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc với chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-
1954) việc kết Hiệp định Giơnevơ (20-7-1954), đất nước Việt Nam vẫn chưa
được thống nhất như ước nguyện của người dân. Hiệp định này quy định lực lượng
kháng chiến của Việt Minh lực ợng của Pháp, vốn thế đan cài giữa nông thôn,
rừng núi, đô thị, phải đình chiến tập kết hai miền, lấy ranh giới tuyến 17,
trong khi chờ hai năm sẽ hiệp thương bầu cử để thống nhất đất ớc. Điều đó gây ra
những biến động hội to lớn tâm trạng bất an trong dân chúng, nhất những
người từng liên quan mật thiết đến một phía tham gia chiến tranh, trong đó trí thức,
văn nghệ sĩ. Tác động trực tiếp của việc này 14 vạn người miền Nam miền
Trung từng tham gia kháng chiến chống Pháp đi tập kết ra miền Bắc để bảo toàn lực
lượng; đồng thời khoảng một triệu người miền Bắc di vào miền Nam để “tị nạn
cộng sản”. Cuộc sống người dân từ tuyến 17 trở vào chứng kiến những xáo trộn
biến động to lớn, từ cấu dân cư, các thành phần kinh tế, chế độ chính trị, đến sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ.
- Miền Bắc hòa bình, bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa hội, miền Nam tạm thời chịu
sự quản của chính quyền Sài Gòn. Những năm dưới thời Ngô Đình Diệm, cả
miền Nam khi ấy quằn quại, đau thương trong sự đàn áp, khủng bố cực man của
quân thù. Toàn dân tộc Việt Nam đã tập trung mọi nguồn lực, tinh thần vào cuộc đấu
tranh chống Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Giai đoạn 1955 - 1975, trên lãnh th Việt Nam Dân chủ Cộng a phía Bắc
tuyến 17 đời sống tinh thần chịu sự chi phối của ý thức hệ Marx-Lenin n hóa
hội chủ nghĩa; trái lại trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa phía Nam, các luồng
tưởng đến từ phương Tây tranh chấp nhau ảnh hưởng gây ra những tác động đa
chiều đa dạng đến đời sống người dân.
- Từ trong phong trào Đồng khởi, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời
ngày 20-12-1960 một thắng lợi chính trị to lớn. Từ 1961-1965 phát huy sức mạnh
đoàn kết của dân tộc, miền Nam đã đánh thắng Chiến tranh đặc biệt, một hình thức
chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ. Ta đã đánh bại được âm u thâm độc
dùng người Việt đánh người Việt của kẻ thù... Những thành quả ấy ngày một tiếp
thêm sức mạnh, niềm tin cho toàn dân vững bước đấu tranh giành độc lập tự do, thống
nhất đất nước.
II. QUAN CẢNH VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ 1955 1975
1. Quan cảnh chung của văn học giai đoạn 1955 1975
1.1. Văn học Việt Nam giai đoạn 1955 - 1964
- Trong chặng đường từ năm 1955 đến năm 1964, n học tập trung ngợi ca những đổi
thay của đất ớc con người trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện
hình ảnh người lao động tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt, ý chí thống
nhất nước nhà.
- Thời gian này nhân dân cả ớc vừa tiến hành y dựng chủ nghĩa hội miền
Bắc vừa tiếp tục công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Mang đến các hỗ trợ về cả
lực ợng tinh thần chi viện cho Miền Nam.
3
- Văn học thời này cũng phản ánh chân thực lao động, sản xuất điều kiện kháng
chiến. Tập trung thể hiện hình ảnh người lao động, các cống hiến trong sản xuất
phát triển đất nước. Ca ngợi những đổi thay của đất nước con người mới trong
bước đầu xây dựng ch nghĩa hội. những thành tựu, những giá trị đạt được
con người hướng đến.
- Đồng thời thể hiện tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt, nói lên nỗi đau chia
cắt thể hiện ý chí thống nhất đất ớc. Các tác phẩm văn học lan tỏa ước về
khát vọng thống nhất, khát vọng hòa bình.
Văn học đạt được nhiều thành tựu trên cả ba thể loại đó là:
- n xuôi được khai thác theo ớng mở rộng đề tài. Mang đến bức tranh của các
giai cấp, các tầng lớp cũng như thực tế thời điểm đó. Bao quát được nhiều vấn đề,
nhiều phạm vi của hiện thực đời sống. Từ tình cảm gia đình, ng xóm, tình yêu hay
các phân biệt trong giai cấp.
- Thơ cũng phát triển mạnh mẽ với nhiều cảm hứng lớn xuất phát từ đất ớc, dân tộc.
Mang đến c giá tr thiêng liêng trong tình yêu quê hương đất nước. Tình u ấy
thể được phản ánh trực diện hoặc gián tiếp thông qua nhiều hình ảnh khác nhau. Thể
hiện trong s hài hòa giữa i riêng với cái chung đã nhiều thành tựu nổi bật.
Thơ ca kết hợp hài a yếu tố hiện thực yếu tố lãng mạn cách mạng, đã một
mùa gặt bội thu với các tập thơ Gió lộng của Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa của Chế
Lan Viên, Riêng chung của Xuân Diệu, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời của Huy
Cận, Gửi miền Bắc, Tiếng sóng của Tế Hanh,... Nỗi đau chia cắt đất nước, nỗi nhớ quê
hương khát vọng giải phóng miền Nam nguồn cảm hứng của nhiều bài thơ đặc
sắc của Tố Hữu, Tế Hanh, Nguyễn Bính. T miền Nam, các nhà thơ Thanh Hải,
Giang Nam đã sớm những bài thơ cảm động về miền Nam như Mồ anh hoa nở
Quê hương.
- Kịch đã những tác phẩm thu t được sự chú ý luận cả nước. Hình thức văn
học, nghệ thuật này mang đến ý nghĩa mới trong phong trào thơ văn Việt nam. Như:
Một đảng viên (Học Phi), Ngọn lửa (Nguyễn ), Quẫn (Lộng Chương), Chị Nhàn
Nổi gió (Đào Hồng Cẩm),…
1.2. Văn học Việt Nam giai đoạn 1965-1975:
- Đây giai đoạn đất nước tập chung toàn lực để tham gia vào kháng chiến chống Đế
quốc Mỹ. Toàn b nền văn học trong thời này của cả hai miền Nam, Bắc đều tập
trung vào cuộc chiến kháng chiến chống cứu nước. Thực hiện phản ánh hiện thực,
bên cạnh các tinh thần u nước được ca ngợi. Với chủ đề bao trùm đó ca ngợi tinh
thần yêu nước chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Từ đó mong muốn được hòa bình,
được độc lập tìm kiếm hạnh phúc cho nhân dân lao động.
- Các tác phẩm của các nhà thơ đã phản ánh chân thực hiện thực lúc bấy giờ. Mang
đến sự sinh động đời sống chiến trường, sự ác liệt, những hi sinh, tổn thất… trong
chiến tranh. Qua đó giúp ta hình dung được về bối cảnh đất nước, về công lao to lớn
của ông cha ta.
- Thơ ca những năm chống Mĩ cứu nước đạt được những thành tựu xuất sắc, đánh dấu
một bước tiến mới của thơ ca Việt Nam hiện đại. chặng đường này, thơ ca tập trung
thể hiện cuộc ra quân đại của toàn dân tộc, khám phá sức mạnh của con người Việt
Nam, thể hiện sứ mệnh lịch sử, tầm c ý nghĩa nhân loại của cuộc kháng chiến
4
chống cứu nước. Thơ Việt Nam chặng đường từ năm 1965 đến năm 1975 thể
hiện rất khuynh ớng mở rộng đào sâu chất liệu hiện thực đồng thời bổ
sung, tăng cường chất suy tưởng, chính luận. Các tập thơ Ra trận, Máu
hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường Chim báo bão Những bài thơ đánh giặc
của Chế Lan Viên, Hai đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt của Xuân Diệu, Dòng sông trong
xanh của Nguyễn Đình Thi, Đầu súng trăng treo của Chính Hữu, Cửa mở của Việt
Phương, Vầng trăng quầng lửa Thơ một chặng đường của Phạm Tiến Duật, Đất
ngoại ô Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Gió Lào cát
trắng của Xuân Quỳnh, Hương cây Bếp lửa của Lưu Quang Bằng Việt, c
sân khoảng trời của Trần Đăng Khoa,… gây được tiếng vang lớn, thể hiện tập
trung nhất thành tựu của thơ ca Việt Nam chặng đường này.
- Đặc biệt sự xuất hiện của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống cứu nước đã góp phần tạo nên một sức sống mới, một diện mạo mới cho cả
nền thơ. Thơ của các nhà thơ trẻ chặng đường này giàu yếu tố hiện thực, phản ánh
được sự ác liệt, những hi sinh, tổn thất trong chiến tranh, đặc biệt đã dựng lên được
bức chân dung tinh thần của cả một thế hệ. Với những đóng góp của mình, thế hệ các
nhà thơ trẻ đã đem đến cho thơ Việt Nam chặng đường này một tiếng thơ mới mẻ, trẻ
trung, sôi nổi vẫn thấm đượm chất triết luận, suy tư. Thể hiện được tinh thần dân
tộc, quyết tâm cho đến cuối cùng để dành được độc lập, hòa nh và tự do.
- Nhiều công trình nghiên cứu luận phê nh xuất hiện mà những công trình
của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Đình Kỵ,… những
tác phẩm có giá trị hơn cả.
2. Văn học hai miền Nam Bắc giai đoạn 1955 1975
- chiến trường miền Nam, là nơi diễn ra nhiều cuộc nổi dậy. Những tác phẩm viết
trong máu lửa của chiến tranh đã phản ánh một ch chân thực, nhanh nhạy kịp
thời về diễn biến cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam anh dũng. Trong thực tế ấy,
các tác giả đã vẽ lên khắc họa chân thực cho lịch sử dân tộc. Đồng thời cho nhân
dân thấy được sức mạnh tập thể, sức mạnh dân tộc bên cạnh các thành quả gặt hái về.
Văn học thời này đã thành công với những c phẩm n xuôi của Nguyễn Thi, Anh
Đức, Nguyễn Quang Sáng. Các tác phẩm thơ của Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm,
Giang Nam, Thanh Hải,…
- Còn miền Bắc thì phải kể đến những tác phẩm truyện của các tác giả: Nguyễn
Tuân, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Nguyên Khải, Nguyễn Minh Châu,…
nhiều tập thơ của T Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh,
Bằng Việt, Chính Hữu, Dựa trên tình yêu đất nước, các phản ánh chân thực bối
cảnh bấy giờ. Bên cạnh việc nêu quan điểm, nói lên các phê phán hiện thực bấy giờ.
Qua đó mong muốn về hòa bình cho dân tộc, đời sống mới cho nhân dân.
3. Những đặc điểm bản của văn học Việt Nam từ những m 1955 đến năm
1975
3.1. Chủ yếu vận động theo hướng cách mạng a, gắn sâu sắc với vận mệnh
chung của đất nước.
- n học giai đoạn y tồn tại phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt :
cuộc chiến tranh giải phóng n tộc cùng ác liệt kéo i suốt ba mươi năm, điều
kiện giao lưu văn hóa với ớc ngoài hạn chế, sự tiếp xúc với n hóa, văn học thế
giới chủ yếu thông qua vùng ảnh hưởng của phe hội chủ nghĩa, trước hết Liên
5
Xô, Trung Quốc. Trong hoàn cảnh ấy, nền văn học mới phải đáp ứng nhu cầu lịch sử
của đất nước, văn nghệ phải thực hiện nhiệm vụ hàng đầu phục vụ cách mạng, cổ
chiến đấu. Không khí cách mạng không khí kháng chiến đã khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần công dân của người cầm bút. Văn học trước hết phải khí chiến đấu.
- Đặc điểm này đã được thể hiện xuyên suốt, liền mạch qua các chặng đường cách
mạng của dân tộc từ m 1955 đến năm 1975. Văn học phục vụ cách mạng nên quá
trình vận động, phát triển hoàn toàn ăn nhịp với từng bước đi của cách mạng, theo t
từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Văn học Việt Nam từ năm 1955 đến năm 1975
tập trung o đề tài T quốc: bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước. Toàn bộ nền văn học từ thơ ca, truyện, đến nghệ thuật sân khấu đều
tập trung khai thác mâu thuẫn, xung đột giữa ta địch; đặt lợi ích của Tổ quốc, của
toàn dân tộc lên trên hết.
3.2. Nền văn học hướng về đại chúng.
- Đại chúng vừa đối tượng thể hiện, vừa công chúng của văn học, đồng thời cũng
nguồn cung cấp lực lượng sáng tác cho n học.
- Văn học Việt Nam giai đoạn 1955 1975 quan tâm đến đời sống của nhân dân lao
động, đem lại một cách hiểu mới về quần chúng lao động, về phẩm chất tinh thẩn
sức mạnh của họ trong cuộc kháng chiến, phê phán tưởng coi thường quần chúng.
Văn học trực tiếp ca ngợi quần chúng bằng ch xây dựng hình ợng đám đông quần
chúng đầy khí thế sức mạnh hoặc xây dựng những nhân vật anh hùng kết tinh
những phẩm chất tốt đẹp của giai cấp, nhân dân, dân tộc. Một chủ đề phổ biến khác
của văn học giai đoạn này khẳng định sự đổi đời của quần chúng nhờ cách mạng.
- Hướng về đại chúng, văn học Việt Nam từ m 1955 đến m 1975 phần lớn
những tác phẩm ngắn gọn, nội dung dễ hiểu, chủ đề ràng. Văn học cũng thường tìm
đến những hình thức nghệ thuật quen thuộc với nhân dân ngay trong kho tàng văn
hóa dân gian văn học truyền thống. Ngôn ngữ ngh thuật bình dị, trong sáng, dễ
hiểu.
3.3. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi cảm hứng lãng mạn.
- Văn học Việt Nam giai đoạn 1955 - 1975 văn học của những sự kiện lịch sử, của
số phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm của văn học phải
những con người gắn số phận mình với số phận đất nước kết tinh những phẩm
chất cao quý của cộng đồng, đó nhân vật trước hết đại diện cho giai cấp, cho dân
tộc thời đại, chứ không phải đại diện cho nhân mình. Người cầm bút nhân danh
cộng đồng mà ngưỡng mộ, ngợi ca người anh hùng với những chiến công chói lọi.
Con người giai đoạn lịch sử này tuy đứng giữa thực tại đầy gian khổ, mất mát, đau
thương nhưng m hồn luôn luôn ớng v tưởng, v ơng lai. .
- Ra đời phát triển trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc
cùng ác liệt kéo i, văn học Việt Nam giai đoạn 1955 1975 trước hết nền văn
học của chủ nghĩa yêu nước. Chính những đặc điểm lịch sử hội của thời đại đã
tạo nên khuynh hướng sử thi cảm hứng lãng mạn trong văn học giai đoạn này.
- Với chiến thắng đại mùa xuân năm 1975, n tộc ta đã giành được độc lập, tự do,
Tổ quốc được thống nhất. Chiến tranh kết thúc, con người trở về với cuộc sống bình
thường. Đời sống đổi khác, tưởng, tâm lí, nhu cầu của con người cũng không còn
như trước nữa. Nhưng trong khoảng mười năm đầu sau chiến tranh, văn học vẫn tiếp
6
tục vận động theo quán tính của nó. Tình hình đó đã tạo nên s “lệch pha giữa người
cầm bút công chúng văn học. Điều này tạo nên hiện tượng độc giả thờ ơ với c
phẩm của c cây bút trong nước tìm đọc một số cuốn tiểu thuyết dịch của ớc
ngoài.
- Đất nước cần được đổi mới toàn diện sâu sắc. Văn học cũng vậy. Ngh quyết Đại
hội Đảng lần thứ VI khẳng định đổi mới “là nhu cầu bức thiết”, là “vấn đề ý nghĩa
sống còn”. Đất ớc bước vào công cuộc đổi mới thúc đẩy nền văn học cũng phải đổi
mới phù hợp với nguyện vọng của nhà văn, của công chúng cũng như quy luật phát
triển khách quan của nền văn học.
III. THƠ CA ĐÓA HOA RỰC LỬA GIỮA KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
1. Nền thơ chống Mỹ
- Văn học Việt Nam thời chống M cứu nước (1955 - 1975) một vị trí quan
trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Đây thời văn học phát triển rực rỡ trên nhiều
thể loại, trở thành cuốn biên niên được các n thơ khắc họa một cách chân thực về
cuộc chiến tranh ái quốc đại của dân tộc. Thơ giai đoạn chống Mỹ cứu ớc thể
hiện Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, bản lĩnh con người Việt Nam, phản
ánh được khí thế tầm vóc của cả một dân tộc mang hơi thở thời đại. thể nói đây
thời rực rỡ nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại.
- T tháng 8 năm 1964, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu ớc của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới gay go, ác liệt.
Nhanh nhạy và kịp thời, nền thơ hiện đại đã nhập cuộc tham gia o cuộc chiến tranh
ái quốc đại của toàn dân tộc. Suốt những năm tháng chiến tranh, các thế hệ nhà thơ
đã tiếp bước nhau dàn quân trên các mặt trận với cảm hứng chủ đạo là thể hiện khát
vọng độc lập t do chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại chống
Mỹ.
- Nền thơ chống Mỹ được hình thành từ nhiều thế h nhà thơ: Thế hệ nhà thơ xuất
hiện trước cách mạng (Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh…), thế
hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp (Chính Hữu, Nguyễn Đình
Thi, Hoàng Trung Thông, Quang Dũng…) thế hệ các nhà thơ trẻ ra đời trong thời
chống Mỹ. Mỗi nhà t i trên đều thế mạnh riêng những đóng góp đáng
ghi nhận cho nền thơ chống Mỹ.
- Chỉ trong vòng ời năm, nền thơ chống Mỹ đã liên tục xuất hiện những gương mặt
trẻ như (Thái Giang, Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Anh Xuân, Dương Hương Ly, Xuân
Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Khoa Điềm, Bế Kiến Quốc,
Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mỹ
Dạ…) Đó là những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ thời chống Mỹ. c nhà thơ
thời này ý thức sâu sắc trách nhiệm công n của mình.
- Thơ thời kháng chiến chống Mỹ tập trung xây dựng hai loại nh tượng cái tôi tr
tình đó “cái tôi” sử thi và “cái tôi” thế hệ. Cái tôi sử thi đã tạo cho nhà t một tâm
thế mới. Nhà thơ phát ngôn cho cả dân tộc, đất ớc, nhân n. Nhà thơ đứng tầm
cao thời đại để bao quát cả thời gian, không gian, cả hiện tại quá khứ, tương lai để
phát hiện suy ngẫm. vậy hình ợng trong thơ cũng mang tầm vóc sử thi, tầm vóc
con người được đo bằng chiều kích không gian, trụ, khắc họa được tầm vóc dân
tộc trong thời đại đánh Mỹ.
7
- Thơ ca chống Mỹ không chỉ đóng góp to lớn về mặt nội dung, còn thể hiện bước
tiến lớn về mặt hình thức. Hiện thực cuộc sống ùa vào thơ góp phần tạo nên những
cách thể hiện mới mẻ, độc đáo, vừa tìm những mảnh đất mới để khai phá, vừa “thâm
canh” trên chính mảnh đất của những hình thức phương tiện biểu hiện truyền thống.
Tất cả những bước tiến đó đã khẳng định s thâm nhập của thơ với hiện thực, khả
năng nắm bắt tinh nhạy, kịp thời của các nhà thơ trước thời đại lịch sử.
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã giành được thắng lợi, thơ chống Mỹ đã
góp một tiếng nói xứng đáng về cuộc ra trận lớn lao của n tộc, Không nhiều
trong những bức tranh hội rộng lớn, những câu chuyện kể hấp dẫn về cuộc sống
dân tộc, nhưng thơ chống Mỹ tiếng nói tâm tình tha thiết, khúc ca chiến đấu,
lời tự bộc lộ chân tình ý chí của một n tộc quyết chiến quyết thắng”. hoàn
thành sứ mệnh vẻ vang của một nền thơ, ghi lại được thời lịch sử đau thương hào
hùng của dân tộc, đánh dấu một chặng đường phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại...
2. Thơ tr miền Nam chống Mỹ.
- Trong thành công của phong trào thơ chống Mỹ, phải kể đến sự đóng góp rất lớn của
thế hệ c nhà thơ trẻ, trong đó các cây bút sinh viên - học sinh miền Nam
như: Trần Quang Long, Nguyễn Thái Bình, Thái Ngọc San, Trần Vàng Sao, Đông
Trình, Tần Hoài D , Quê… Hàng loạt các tập thơ ra đời nói lên tinh thần yêu
nước đấu tranh của thế hệ trẻ miền Nam Thơ họ trẻ trung đằm thắm, vượt lên
những chán chường bế tắc những vay mượn siêu hình đương thời để cất lên tiếng
gọi lên đường.
- Họ đại diện cho tuổi trẻ miền Nam cả nước đứng lên tranh đấu giải phóng đất
nước, quê hương. họ đều một điểm chung đó lòng yêu ớc. Những câu thơ
trẻ trung đằm thắm của họ góp phần tạo nên hình ảnh đẹp của thế h trẻ miền Nam.
Thơ trẻ chống Mỹ là một hiện tượng đặc biệt, bởi chưa giai đoạn nào trong thơ lại
cùng một lúc xuất hiện một đội ngũ đông đảo các nhà thơ cùng một thế h tuổi trẻ.
Giữa chiến trường rộng lớn mỗi nhà thơ chọn cho mình một mảng hiện thực phù hợp
để sáng tác, tạo ra những vùng thẩm mỹ riêng.
- Nếu như vùng thẩm mỹ của Phạm Tiến Duật đường Trường Sơn với cuộc sống
của những người lính lái xe, của những thanh niên xung phong thì vùng thẩm m
của Nguyễn Khoa Điềm phong trào học sinh, sinh viên đô thị bị tạm chiếm miền
Nam. Chọn cho mình một mảng hiện thực đặc biệt nên tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm
một giọng điệu riêng. Đó tiếng nói đại diện của tuổi trẻ miền Nam trong quá
trình nhận đường về với nhân dân, với dân tộc. Quá trình nhận thức ấy quả không đơn
giản. Sống trong thành phố bị kẻ thù chiếm đóng, Cách mạng đối với họ thật xa lạ.
Đối diện với từng ngày từng giờ cảnh bắt lính của chính quyền tay sai, những
cám dỗ của cuộc sống tiêu cực, buông thả:
Sông Hương ơi sông Hương
Ngươi còn nguồn với bể
Để đi để đến
Còn ta hai lăm tuổi
Trôi cạn trên mặt đường
(Mặt đường khát vọng)
8
Trường ca Mặt đường khát vọng đã tái hiện lại quá trình nhận thức của tuổi trẻ miền
Nam dưới ách Mỹ - Ngụy: từ nỗi đau quê hương nhận chân ớng kẻ thù, sự thức
tỉnh về trách nhiệm của tuổi trẻ trong công cuộc cứu nước, tình cảm với nhân dân đất
nước để rồi cuối cùng xuống đường, hoà vào dòng thác nhân dân đấu tranh độc lập
tự do. Hành trình đến với lý ởng, với cách mạng, nhân dân của tuổi trẻ thành thị
miền nam cùng gian nan, phức tạp.
- Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh họ, nhà thơ hoà nhập với tuổi trẻ miền Nam
để cất lên tiếng i của chính họ. Nhà thơ cùng họ thấm thía xót xa v thân phận lệ:
Phượng vẫn rơi những cánh tươi hồng
Đau như máu những tâm hồn son trẻ
Sao con học để làm bầy lệ
Súng Mỹ hôm nay thành giáo cụ học đường
- Với sự đồng cảm sâu sắc, với vốn hiểu biết khá lưỡng về cuộc sống của tuổi trẻ
thành th miền Nam - kết quả của một quá trình công tác gắn với thực tiễn phong
trào học sinh, sinh viên, trường ca Mặt đường khát vọng, tuổi trẻ thành thị miền
Nam đã cất tiếng thông qua khúc t của nhà thơ.
IV. NGUYỄN KHOA ĐIỀM MỘT THẾ HỆ NHÀ THƠ TRẺ CỦA CÁCH
MẠNG
1. Đôi nét về cuộc đời
Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước
hiếu học thế nên những áng thơ của ông đều hướng về tình u quê hương, đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ. Vì ông người trực tiếp tham gia trong trận chiến với đế quốc Mỹ
thế nên thơ của ông rất chân thật giàu nh chiêm nghiệm, đặc biệt cảm xúc
cùng sâu lắng mang đậm màu sắc trữ tình. Là một người ý thức trách nhiệm với
đất nước, thế nên những câu thơ ông sáng tác thể hiện vai trò, trách nhiệm của
người công dân, người lính với đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã
Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông một nhà thơ nổi tiếng,
đồng thời nhà chính trị lớn tại Việt Nam đã từng giữ rất nhiều chức vụ quan trọng
trong quan Nhà ớc như: Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin (1994), Tổng T
Hội Nhà văn Việt Nam khóa V (1995), Ủy viên Bộ Chính trị, thư Trung ương,
Trưởng ban Tư ởng Văn hóa Trung ương (2001).
Ông còn được biết đến với tên gọi khác Nguyễn Hải Dương. Sinh ra trong
thời thế chiến tranh loạn lạc nên từ nhỏ Nguyễn Khoa Điềm đã tinh thần yêu nước
rất mãnh liệt. n nữa, gia đình của ông một gia đình cách mạng có truyền thống
yêu nước và hiếu học, từ ông nội cho đến cha ông Nguyễn Khoa Đăng đều được rất
nhiều người dân mến mộ ca tụng.
Lúc còn nhỏ ông đi học tại Huế, sau đó ông chuyển ra Bắc sinh sống học tập
tại trường học sinh miền Nam vào năm 1955. Năm 1964, ông tốt nghiệp Đại học
phạm Nội. Từ khi còn một học sinh, sinh viên ông đã rất tích cực tham gia o
các hoạt động, phong trào thi đua yêu nước như viết báo, viết văn, làm thơ, đồng thời
ông cũng tham gia quân đội, xây dựng sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam.
9
Ông từng hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên tại miền nam, tham
gia quân đội, xây dựng sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam,
viết báo, làm thơ...
Ông từng bị giam tại nhà lao Thừa Phủ, đến năm 1968 thì được thả tự do.
Năm 1975, ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Sau đó, ông tham
gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản chính thức trở thành Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Phó thư Thường trực
Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế.
Năm 1996, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
VIII, Nguyễn Khoa Điềm bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Ông Đại biểu Quốc
hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X từ tháng 11 năm 1996 là
Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin. m 2001, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, Nguyễn Khoa Điềm trở thành Ủy viên B Chính trị,
thư Trung ương, Trưởng ban ởng Văn hóa Trung ương (2001-2006). Hiện
nay, ông nghỉ hưu sống tại Thành phố Huế.
2. Về sự nghiệp cầm t
Về sự nghiệp văn học, Nguyễn Khoa Điềm một trong những nhà thơ tiêu
biểu nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. trực tiếp tồn tại trong cuộc chiến
kháng chiến n thơ của ông rất giàu tính chiêm nghiệm, đặc biệt hấp dẫn bởi cảm xúc
nồng nàn, suy sâu lắng mang màu sắc chính luận - trữ tình. Ông ý thức rất
cao về vai trò cũng như trách nhiệm của một công dân đối với đất nước, vậy những
áng thơ của ông th hiện rất tinh thần chiến đấu bản chất anh hùng bất khuất của
những người chiến Việt Nam.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng gắn với tên tuổi của Nguyễn Khoa
Điềm đó chính bài thơ “Đất nước” trích trong tập “Mặt đường khát vọng” ra đời
vào gần cuối năm 1971, ngay tại thời điểm kháng chiến chống Mỹ đang trong giai
đoạn quyết liệt nhất. Đây một tác phẩm thành công vang dội, mang đến cho người
đọc một cái nhìn toàn vẹn về tinh thần dân tộc tinh thần yêu ớc.
Ngoài ra, một số tác phẩm tiêu biểu khác của Nguyễn Khoa Điềm thể nhắc
đến như:
Cửa thép (tập ký, 1972)
Đất ngoại ô (tập thơ, 1973)
Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974)
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (tập thơ, 1986)
Thơ Nguyễn Khoa Điềm (tập thơ, 1990)
Cõi lặng (tập thơ, 2007)
Nguyễn Khoa Điềm người lao động nghệ thuật rất nghiêm túc, ông luôn khắt
khe với những tác phẩm của chính mình. T của ông luôn được định hình theo một
phong cách riêng, nét riêng. Hầu hết những c phẩm ông sáng tác đều viết về nh
yêu quê hương, đất ớc tinh thần dân tộc.
Tuy đây những đề tài quen thuộc được nhiều người sáng tác, nhưng với cách
nhìn sáng tạo, mới mẻ cùng tâm hồn cao đẹp đã giúp cho những tác phẩm của ông
luôn tạo được dấu ấn riêng trong lòng người đọc...
10
Ông được trao tặng nhiều giải thưởng về văn học nghệ thuật, nổi bật giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” Giải
thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (giải B) với tập thơ “Cõi lặng” - năm 2010.
Hơn nửa đời người cống hiến cho cách mạng, cho văn học nước nhà t hiện tại
ông đang nghỉ hưu tại quê ơng của mình. Tuy sự nghiệp chính trị đã kết thúc,
nhưng con đường thơ ca của ông vẫn còn tỏa ng, hằng ngày ông vẫn m thơ, đọc
sách tham gia những buổi tọa đàm, những sự kiện n học.
3. Văn phong của một nhà thơ trẻ chống Mỹ Nguyễn Khoa Điềm
- Nguyễn Khoa Điềm đã mặt đi suốt cả chặng đường chiến tranh đã đánh dấu
thành tựu của mình qua những chặng đường sáng c. Phong cách thơ Nguyễn Khoa
Điềm thời chống M cứu nước cảm hứng lớn về đất nước nhân n anh ng.
Sự thống nhất độc đáo của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm nằm cảm hứng hiện
thực thời đại, những chủ đề quen thuộc, phương diện thể hiện cái tôi tr tình
phong phú đa dạng, với lớp ngôn từ, hình nh cảm xúc ẩn sau bề mặt câu chữ một cảm
quan lịch sử văn hoá sâu sắc độc đáo.
- Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm yêu ớc không đơn giản chỉ nhiệt tình hăng hái
chiến đấu m thù giặc mạnh mẽ. Với Nguyễn Khoa Điềm tình yêu đất ớc làm
sống dậy trong trang thơ lịch sử bốn ngàn năm hào hùng của dân tộc với những chiến
công dựng nước giữ nước của cha ông. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm
sự đồng hiện của những gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt
Nam trong quá khứ, hiện tại tương lai, trong thời gian không gian, trong lịch sử
truyền thống văn hoá…
- Nguyễn Khoa Điềm lòng u nước hồn Việt thấm đượm trong tâm hồn để từ
đó đúc kết một chân vững vàng: Đất nước của nhân dân. tưởng Đất nước của
nhân dân đã chi phối hầu hết các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. vậy tiếng thơ
Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nói lên những suy nghĩ cảm nhận của tuổi tr trong
chiến tranh, về sự lạc quan hay cái nhìn nghiêm túc thành thật, thậm chí trần trụi về
những mất mát… n bộc lộ những suy nghĩ hiện thực sâu sắc hơn rất nhiều.
- Thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện lòng yêu nước qua việc tranh luận về tuổi trẻ, v
nhân sinh quan để dựng lại cả quá trình tìm đường” và“nhận đường” của tuổi trẻ đô
thị miền Nam về với con đường cách mạng của dân tộc, nhân dân. Tài năng tính
sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm còn bộc lộ trong những phương diện ngh thuật: đó
thi pháp biểu hiện mang phong cách riêng, từ giọng điệu trữ tình giàu chất chính
luận, đến việc xây dựng chất liệu thơ giàu chất liệu hiện thực, chất liệu văn hoá
giàu tính liên tưởng.., từ việc s dụng những tín hiệu thẩm mỹ vừa truyền thống vừa
hiện đại đến việc sử dụng linh hoạt thể thơ tự do với những cung bậc khác nhau của
cảm xúc với một vốn từ ng giàu vừa dân vừa mang tính văn hoá thời đại.
11
PHẦN 2: TRƯỜNG CA “MẶT ĐƯỜNG KHÁT
VỌNG” TRÍCH PHẨM “ĐẤT NƯỚC”
-----
I. HOÀN CẢNH SÁNG C
Năm 1964 sau khi tốt nghiệp khoa Văn Đại học sư phạm Nội, Nguyễn
Khoa Điềm trở về quê hương, hòa nh vào cuộc chiến đấu dữ dội tại chiến trường
Bình Trị Thiên. Tiếp xúc trực tiếp với chiến tranh, tận mắt chứng kiến tội ác của kẻ
thù cuộc chiến đấu gian kh bất khuất của đồng chí, đồng bào, những điều đó đã
khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt cho hoạt động sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Trở
về Huế, sau nhiều tháng trời nh quân ròng rã, Nguyễn Khoa Điềm đến Tỉnh ủy
Thừa Thiên được phân công công tác vận động thanh niên của Thành ủy Huế. Thời
gian hai năm gắn với phong trào học sinh sinh viên thành phố Huế ý nghĩa
cùng quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Đây thời gian
nhà thơ hoà mình vào tuổi trẻ thành phố bị chiếm đóng. Từ những “đêm không
ngủ”, những ngày xuống đường, Nguyễn Khoa Điềm đã tích luỹ cho mình vốn
sống sự trải nghiệm để cảm hứng thơ trào lên thành trường ca Mặt đường khát vọng.
Trường ca Mặt đường khát vọng được viết tại khu sáng tác Trị Thiên - Huế
tháng 10 năm 1971 dài 9 chương: Lời chào, Báo động, Giặc Mỹ, Tuổi trẻ không yên,
Đất Nước, Áo trắng và mặt đường, Xuống đường, Khoảng lớn âm vang, Báo bão . Đặc
biệt thành công nhất là chương Đất nước. Đất nước đã trở thành một bài thơ sức
sống độc lập, th hiện trọn vẹn tài năng phong cách Nguyễn Khoa Điềm. Cùng với
Đất nước của Nguyễn Đình Thi, bài t của Nguyễn Khoa Điềm trở thành hai áng thơ
đẹp nhất viết về Tổ quốc của văn học Việt Nam hiện đại.
II. CẢM HỨNG LOẠI THỂ TRƯỜNG CA TRONG THƠ NGUYỄN KHOA
ĐIỀM
Nhà nghiên cứu Hoài Anh cho rằng thơ Nguyễn Khoa Điềm phát sáng trong
chủ đề sóng đôi: Đất Nước Khát vọng. Cảm hứng Đất nước ôm trùm chi phối
những nguồn cảm hứng khác. Trong chiến tranh cảm hứng Đất ớc đi liền với khát
vọng gìn giữ chủ quyền dân tộc chiến thắng kẻ thù xâm lược. Ch đề y được
Nguyễn Khoa Điềm triển khai trong thơ bằng không khí sử thi hào hùng của cuộc
chiến đấu chống Mỹ. Để tái hiện tinh thần thời đại, thơ Nguyễn Khoa Điềm phơi bày
những cảm xúc nồng nàn bay bổng trước vận mệnh chung của toàn dân tộc.
Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm hứng sử thi anh hùng bao giờ cũng đi ng cảm
hứng lãng mạn tưởng hoá tạo nên những hình ảnh thơ hùng tráng. Cảm hứng sử
thi bao giờ cũng song hành với ch nghĩa yêu nước chủ nghĩa anh hùng. Cảm hứng
sử thi cảm xúc cao trào, ng tràn lòng yêu nước, tự o trước sự quật khởi của đất
nước.
Trong tâm thức Nguyễn Khoa Điềm luôn quan niệm chính Nhân dân danh
đã làm nên đất ớc. lẽ vậy chủ nghĩa anh ng trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm không xuất hiện những n tuổi vang dội nhà thơ thường chú ý khai thác
chất anh hùng trong những biểu hiện hàng ngày của cuộc chiến đấu ác liệt với những
con người bình dị. phương diện chiếm lĩnh hiện thực chiến trường, thơ Nguyễn
12
Khoa Điềm đã hòa vào dàn đồng ca hào hùng của thơ trẻ chống Mỹ. Nếu như trong
âm hưởng chung người ta có thể nhận ra những giọng điệu riêng biệt: Hoàng Nhuận
Cầm hồn nhiên mộng; Phạm Tiến Duật hóm hỉnh tinh nghịch pha chút ngang tàng;
Dương Hương Ly khoẻ khoắn thiên về ngợi ca; Bằng Việt sâu lắng trong sáng
thì thơ Nguyễn Khoa Điềm thứ thơ đằm sâu ngân vang. Độ sâu sắc của thơ
Nguyễn Khoa Điềm phần nào nổi trội hơn nhiều tác giả trẻ khác chính sự thể hiện
phong phú xúc động một chủ đề, một ởng: Đất ớc của nhân n được soi
chiếu từ góc nhìn lịch sử - n hóa thông qua những trải nghiệm của chính nhà thơ.
Nguyễn Khoa Điềm một vốn tích luỹ phong phú về nền văn hóa n tộc.
Bước vào cuộc chiến tranh, sự tàn khốc ờng như càng thôi thúc nhà thơ suy nghĩ
nhiều hơn, u n v Đất nước để những phát hiện tinh tế có khả năng làm sống
dậy những hình nh đẹp của văn hóa dân tộc. Khi được hỏi về những sáng tác trong
chiến tranh, Nguyễn Khoa Điềm đã m sự: “Chúng i là những tri thức trưởng
thành qua chiến tranh. Chúng tôi phải huy động hết những phần văn hóa của mình để
chứng minh sức mạnh của mình, khả năng tồn tại của mình, chứng minh mình con
người, lớp người văn hóa. Chính bởi thế trong không khí sặc mùi thuốc súng
ấy, giữa cái giáp ranh của sự sống cái chết, tôi muốn đưa vào thơ những hình ảnh
đậm nét văn hóa nhất của quê hương đất nước mình”.
Cuộc kháng chiến chống M của dân tộc ta một bản trường ca đại, hào
hùng. Để phản ánh hết không khí hào hùng đó, người viết phải lựa chọn cho mình một
hình thức biểu đạt sao cho phù hợp nhất nhưng lại dấu ấn phong cách riêng. Trước
yêu cầu đó, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm cho mình một cách đi riêng. Khái quát những
chủ đề về nhân dân, đất nước, về cách mạng, nhà thơ đã kết hợp chất liệu truyền thống
hiện đại, trên s vận dụng những hiểu biết về địa lí, phong tục tập quán của
nhân dân, đất nước.
Để phản ánh hết được cái hào hùng của thời đại, nhiều nhà thơ thời này đều
sử dụng thể trường ca - một thể loại thể hiện được những sự kiện, biến cố lớn của dân
tộc. Nếu trường ca Nguyễn Văn Trỗi của Anh Xuân là một tình khúc ca được thể
hiện qua thơ lục bát thật dịu dàng đằm thắm; “Bài ca chim chơ rao” của Thu Bồn
lãng mạn, phóng khoáng bay bổng thì trường ca Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm tiếng ca sôi nổi nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi tr xuống
đường tranh đấu, trong đó những trang thơ khắc hình Đất nước những nốt nhạc rung
động lòng người, được toả sáng ới một cái nhìn mới mẻ đầy tính phát hiện. Xuyên
suốt chương Đất nước tưởng “Đất nước của nhân dân nhuần nhuỵ trong hình
thức “Đất nước của ca dao thần thoại” như một sợi chỉ đỏ tạo n mạch chảy đằm
sâu, tha thiết trong xúc cảm của nhà thơ. như một bản nhạc với đầy đủ những
âm vực cao độ xen kẽ nhau, hoà quyện vào nhau tạo nên sự hấp dẫn lôi cuốn người
đọc.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết v đề i Đất nước, Nhân dân. Giọng thơ đầy
xúc cảm, trang trọng khi hát khúc hát sử thi hoành tráng về Nhân dân, Đất nước.
Trọng tâm của bản trường ca nằm chương Đất nước, tập trung thăng hoa những
suy nghĩ sâu xa nhất của nhà thơ những năm tháng chiến tranh. Đất ớc được i hiện
trong những hình ảnh thân thiết với mỗi con người, Đất nước cũng được đặt trong cái
13
nhìn lịch sử và văn hóa trong “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông” để mỗi
người cảm nhận hết tầm cao cả thiêng liêng của hai từ Đất nước.
III. ĐÔI T VỀ TRÍCH PHẨM “ĐẤT NƯỚC”
Cảm quan lịch sử - văn hóa sâu sắc đã tạo n một chiều sâu riêng, sức hấp dẫn
khơi gợi đặc biệt của chương Đất nước. Chương này điểm hội tụ tỏa sáng toàn
bộ bản trường ca, tạo nên một vẻ đẹp độc đáo khác biệt so với những trường ca cùng
thời. Để tái hiện quá trình bắt đầu lớn n của Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã
làm sống dậy cả một không gian văn a cổ xưa của dân tộc, trong bề dày lịch sử bốn
nghìn năm. Bề dày lịch sử ấy chứa đựng cả chiều sâu của một nền văn hóa phong phú,
lâu đời, đầy nhân hậu với c một truyền thống quý u của dân tộc: cần cù, chịu khó
trong học tập, làm ăn, dũng cảm trong chiến đấu, chung thủy, bền vững trong tình yêu.
Người đọc gặp chương Đất nước thế giới của truyện cổ, kho ng của ca
dao… Lời kể ngày xửa ngày a của mẹ mở ra xứ sở cổ tích thần kì; miếng trầu của
gợi câu chuyện Trầu cau, với tình người nồng hậu, thủy chung, biểu tượng đạo
sáng đẹp yêu thương của dân tộc; y tre xanh gợi truyền thuyết Thánh Gióng, như
khúc anh hùng ca tráng lệ về sức mạnh thần của nhân dân Việt Nam từ buổi bình
minh non trẻ dựng nước giữ nước, nh ảnh “gừng cay muối mặn” nghĩa tình
đằm thắm trong ca dao. Đất nước được gợi lại từ lịch sử, được sống dậy qua phong tục
tập quán trong đời sống tinh thần của nhân n: miếng trầu, trồng tre, bới tóc sau đầu,
cách đặt n người, c tình yêu của con người… Tất cả đều m nên khuôn mặt n tộc
- một dân tộc nghĩa tình đằm thắm. Chất dân gian, hồn dân tộc n thấm vào từng câu
từng chữ.
Đất nước bắt nguồn từ những hàng ngày gần gũi, cũng lại những cái bền
vững sâu xa hình thành tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc, từ những phong tục
tập quán được tiếp nối thiêng liêng, qua nhiều thế hệ. Đó chính chiều sâu văn hóa -
lịch sử của Đất nước, góp phần khẳng định Đất nước từ xa xưa, từ khởi thủy của
dân tộc khi những dân đầu tiên khai phá đất đai lập nên xứ sở. Trong cảm nhận của
Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước được hình thành từ sự hội tụ của hai yếu tố Đất
Nước. Hai yếu tố này kết hợp với nhau để rồi từ đó sinh thành nên thể đất đai, nước
non, xứ sở.
IV. 42 CÂU THƠ CÂU: QUAN NIỆM CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM VỀ CỘI
NGUỒN CỦA ĐẤT NƯỚC: ĐẤT NƯỚC TỪ LÂU ĐỜI, ĐẤT NƯỚC HÒA
NGUYỆN, GẮN SÂU SẮC VỚI ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN, ĐẤT NƯỚC LÀM
NÊN CUỘC SỐNG NHÂN DÂN, MỖI CÁ NHÂN PHẢI CÓ TRÁCH NHIỆM
VỚI ĐẤT NƯỚC.
Khi nói về thời gian, không gian, các nhà thơ thường sử dụng chất liệu văn học
dân gian xây dựng hình tượng truyền thuyết, thần thoại, cổ tích, ca dao dân ca. Nhưng
sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm chỗ ông linh hoạt thể trích cả câu thơ hoặc lấy
vài từ, lấy ý của câu ca dao để gợi nhắc. Sự sáng tạo ấy tạo n những câu thơ vừa
quen, vừa lạ giàu chất suy tưởng, mở rộng trường nghĩa. Điều đó c dụng khiến
người đọc tự hào v đất nước không chỉ bởi lịch sử dài đằng đẵng, bởi không gian
mênh mông còn chiều sâu về dày văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân
tộc Việt Nam - một phương diện quan trọng xác lập sự tồn tại của Việt Nam.
1. Đất nước từ điểm nhìn thời gian văn hóa (9 câu đầu)
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã rồi
14
Đất Nước trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” m thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ ăn”
- Mở đầu bài thơ, chủ thể nhận thức ng “ta” vừa cụ thể vừa khái quát với nội dung
nhận thức về “Đất Nước đã rồi”: Đất Nước đã từ rất lâu đời rồi, không ai biết
thời điểm chính xác ra đời. Điều đó thể hiện sự tự hào về lịch sử Đất Nước của
tác giả. câu thơ tiếp theo, mô tuýp “ngày xửa ngày xưa” được nhắc đến gợi ra
những u chuyện c tích. Tham vọng tính tuổi Đất Nước của nhà thơ thật khó bởi
chính cái “ngày xửa ngày xưa” (thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích)
tính phiếm chỉ, trừu tượng, không xác định. Đó thời gian huyền hồ, o, thời
gian mang màu sắc huyền thoại. Song chính cái “ngày xửa ngày xưa” đó, nhà thơ
đã giúp cho chúng ta nhận thức được: Đất ớc đã từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ
chẳng biết.
- Chỉ biết rằng: Khi ta cất tiếng khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu. chính
những câu chuyện cổ những bài t ru thuở ta n nằm nôi dòng sữa ngọt lành
chăm bẵm cho ta cái chân - thiện - mỹ lớn lên ta biết yêu Đất Nước con người. Về
ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã
xúc động viết n:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau mấy cách xa cũng gần”
(Truyện cổ nước mình)
- Không chỉ dừng lại khát vọng đo đếm tuổi của Đất Nước, nhà thơ còn nỗ lực hình
dung về quá trình hình thành phát triển của Đất Nước. Phải chăng, khởi thủy của Đất
Nước văn hóa được kết tinh từ tâm hồn tính cách anh hùng của con người Việt
Nam. đây, chi tiết “miếng trầu” một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ
từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ. Đây còn hình ảnh gắn
liền với trầm tích văn hóa của người Việt: tục ăn trầu u chuyện cổ tích Trầu cau
nét đẹp trong giao tiếp của người Việt, tập tục của người Việt. Như vậy thẩm
thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy 4000 năm phong tục, 4000 m dân ta gìn giữ
phong tục ăn trầu. Miếng trầu biểu tượng của tình yêu, lòng thủy chung, vật chứng
cho lứa đôi cũng biểu tưởng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, phong
tục nhuộm răng đen cũng ra đời: “Những hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa
nắng” (Hoàng Cầm).
- Qua đó người đọc th củng cố hơn về nhận thức Đất Nước từ rất lâu, cùng
thời với cổ tích, với miếng trầu. Từ đó phát triển nhận thức về sự hình thành Đất Nước
đó được hình thành từ những điều tốt đẹp, những giá trị bền vững. Truyện cổ tích
từ xa xưa nhưng bây giờ m vẫn kể, miếng trầu rất u đời nhưng bây giờ bà vẫn ăn.
Quá kh của Đất nước rất dài xa nhưng không bao gi mất đi. Đất Nước luôn hiện
hữu trong hiện tại cũng như quá khứ Đất Nước sẽ không bao gi bị mất đi.
“Đất Nước lớn n khi dân mình biết trồng tre đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha m thương nhau bằng gừng cay muối mặn
15
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước từ ngày đó...”
- câu thơ thứ tư, thi nhân đã sử dụng hai chữ dân mình” vừa gợi mối quan hệ gần
gũi, vừa mở rộng phạm vi tồn tại của Đất Nước. câu thơ này, nhà thơ còn diễn tả sự
trưởng thành của Đất Nước từ truyền thống đánh giặc giữ ớc của dân tộc. “Trồng
tre đánh giặc” gợi nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên
Vương vươn vai lớn dậy nhổ tre làng Ngà đánh giặc để bảo vệ quê hương đất nước.
Câu thơ suy ngẫm, kiểm nghiệm về Đất ớc, Đất ớc lớn lên trong gian lao thử
thách lớn lên bằng truyền thống yêu nước của nhân dân ta. cũng chính u thơ
này đã gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt
Chí m thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
sát nhân cướp nước hại nòi”
(Tố Hữu)
- Truyền thống vẻ vang y đã theo sát chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến tận
hôm nay, trong thời đại chống Mỹ, bao tấm gương trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ
giống nòi. Phải chăng, đó chính vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt
Nam dáng đứng kiêu hùng, bất khuất: Võ Thị Sáu, Nguyễn n Trỗi, Trần Văn Ơn…
- Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam, cây tre hiền hậu trên mỗi làng
quê. như sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam thật
thà chất phác, đôn hậu thủy chung, ưa chuộng hòa bình nhưng cũng kiên cường bất
khuất trong đấu tranh. Tre đứng thẳng, hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc
“Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ” bởi:
“Nòi đâu tre chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông mọc thường”
- Không chỉ vậy, trong quá trình trưởng thành, Đất Nước còn gắn liền với đời sống
văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại bằng chính cuộc
sống lao động cần vất vả của nhân dân. các câu thơ 5 8, các chi tiết được lấy
từ kho tàng văn hóa văn học dân gian. Đó hình ảnh búi tóc của mẹ, gừng cay
muối mặn, tập quán canh c, dựng nhà dựng cửa, cái kèo cái cột, phong tục đặt tên
cho Việt. Cùng với đó hình thức i ngắn t nhiên kể cho ta nghe v sự lớn dần lên
của Đất Nước, Đất Nước lớn lên bằng văn hóa, phong tục, từ cuộc sống bình dị hàng
ngày.
- Đoạn thơ với những ý thơ giàu sức liên tưởng, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với
những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác những
người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người
phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng), gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ
tục của người Việt. Nét đẹp ấy khiến người đọc gợi nhớ đến câu ca dao:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
16
Để chi dài cho rối lòng anh”
- Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao
động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn, tôn tạo mảnh đất thân yêu. đó đạo
ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha m thương
nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
- Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong u thơ nhẹ
nhàng thấm đượm biết bao ân tình. gợi lên được ân nghĩa thủy chung đời:
gừng càng già càng cay, muối ng lâu năm ng mặn, con người sống với nhau lâu
năm thì tình nghĩa càng đong đầy. lẽ chính vậy Đất Nước còn ghi dấu ấn của
cha m bằng Hòn Trống Mái, núi Vọng Phu… đi vào m tháng.
- Câu thơ “Cái kèo cái cột thành n” gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ
của người Việt. Đó tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà
vững chãi, bền chặt tránh được a gió, thú dữ. Đó cũng ngôi nhà sử dụng kèo cột
để làm ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau, siêng năng tích p mỡ
màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt n con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.
- Đâu chỉ những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn truyền thống lao động cần cù, chịu
thương chịu khó. Thành ngữ “một nắng hai sương gợi nên sự cần chăm chỉ của
cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Các
động từ “xay - giã - giần - sàng” quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta
ăn hàng ngày, người nông n phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã,
giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo nhỏ ấy mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp
nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
- Câu thơ cuối khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước từ ngày
đó…”. “Ngày đó” ngày nào ta không nhưng chắc chắn “ngày đó” ngày ta
truyền thống, phong tục tập quán, văn hóa có văn hóa nghĩa Đất Nước.
Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa: “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu
những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao đặc trưng của văn hóa Việt Nam, muốn yêu
Đất Nước trước hết phải yêu quý trọng văn a nước nhà bởi văn hóa chính Đất
Nước. Thật đáng yêu, đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của
Nguyễn Khoa Điềm.
- thể nói, đoạn thơ mở đầu trả lời cho u hỏi về cội nguồn của Đất ớc - một
câu hỏi quen thuộc, giản dị bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất
mới lạ: Nhà thơ không tạo ra khoảng cách sử thi để chiêm ngưỡng ca ngợi Đất
Nước hoặc dùng những hình ảnh lệ, mang tính biểu tưởng để cảm nhận giải,
dùng cách nói rất đỗi giản dị, tự nhiên với những gì gần i, thân thiết, bình dị
nhất.
- Đoạn thơ được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức liên ởng, nhà thơ giúp
cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn sự hình thành của Đất
Nước một cách sâu sắc. Hai từ “Đất ớc” được viết hoa để thể hiện sự trang trọng,
17
đồng thời cũng giúp ta cảm nhận tình yêu sự trân trọng của nhà t khi i v Đất
Nước, quê hương mình.
- Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm, cấu trúc thơ theo lối tăng cấp: “Đất Nước đã có;
Đất Nước bắt đầu, Đất Nước lớn lên, Đất Nước từ…” giúp cho người đọc hình
dung ra cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của Đất Nước trong thời gian
trường kỳ của con người Việt Nam qua bao thế hệ.
- Ngoài ra, nhà thơ còn vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục
ăn trầu, tục i tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà t sáng
tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…
- Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần.
Chín câu thơ mở đầu cho đoạn trích Đất Nước đã thật sự để lại những ấn tượng
cảm xúc u sắc cho người đọc về sự sinh thành trưởng thành của Đất Nước.
Bởi lẽ, đoạn thơ đã giúp cho tất cả mọi người, đặc biệt thế hệ trẻ, những ai
còn những nhận thức hồ về Đất Nước mình thật sự phải suy ngẫm. Qua
đoạn thơ, tác giả đã mang đến cho người đọc v đẹp của một Đất Nước giàu văn
hóa cổ truyền, Đất ớc của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn
tưởng Đất Nước của nhân dân. Hơn thế nữa, đoạn thơ còn cho chúng ta hiểu
được Đất Nước thật thân thương gần gũi biết nhường nào. Từ đó, đoạn thơ bồi
dưỡng thêm cho chúng ta về tình yêu Đất Nước, quê hương nh biến tình yêu
ấy thành thái độ, hành động để bảo vệ, xây dựng Đất Nước ngày càng văn minh,
giàu mạnh phát triển.
2. Đất nước từ điểm nhìn không gian văn hóa cội nguồn (20 câu thơ kế)
“Đất nơi anh đến trường
Nước nơi em tắm
Đất Nước i ta hẹn
Đất Nước nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
- Ý thơ đây rất mới mẻ cụ thể. Trước tiên về mặt không gian địa , tác giả tách
riêng hai yếu tố “đất” “nước” để suy một cách u sắc, để giải cụ thể ý nghĩa
của từng từ. Đây thể coi sự tinh tế đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng
được ch ra thì Đất Nước vẫn một khái niệm trọn vẹn đầy ý nghĩa.
- Đất Nước đã trở nên rất gần gũi thân thương, gắn với mỗi người. Đất Nước
không gian riêng quen thuộc gắn với không gian hẹn hò, sinh hoạt, học tập của anh
em. Đó i trường nơi anh đi học, dòng sông nơi em tắm, giếng nước gốc
đa i ta hẹn. Một không gian nhỏ chỉ hai người biết, hai người hay, rất riêng
nhưng cũng đầy hồn quê hương xứ sở. Những không gian chứa đựng bao tình thương
nỗi nhớ ấy sự hiện hữu cụ thể nhất, gần gũi nhất những giá trị tinh thần đạo lí, góp
phần làm nên Đất Nước. Những nghĩa tình không phải chỉ anh em trong hiện tại
còn của bao thế hệ đã qua trong quá khứ; bao thế hệ sắp tới trong tương lai.
- Câu t “Đất Nước là i em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” c giả đã
vận dụng ý thơ của i ca dao “Khăn thương nh ai” để vừa nói lên tình cảm lứa đôi;
vừa i n không gian riêng của đôi lứa của Đất Nước.
“Đất nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước nơi “con ngư ông ng nước biển khơi”
18
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước nơi dân mình đoàn tụ”
- Nhà thơ đã sử dụng những câu ca dao cả vùng Bình - Tr - Thiên để y dựng hình
tượng thơ khác với cách nói thông thường. Lấy ý từ những câu ca dao Huế mượt mà,
câu thơ đưa người đọc về với không gian Đất Nước thân thương, những từ “núi bạc”,
“biển khơi” mang âm hưởng thành ng dân gian gợi ra một đất ớc mênh mông giàu
đẹp. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng rộng lớn, tráng l
hùng cùng, nhất đối với những người đi xa. chim ham trái chín ăn xa, thì
cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam như thế, lúc o cũng
hướng về quê hương, về nguồn cội.
- sự mênh mông giàu đẹp đó không tự nhiên được, nó phải trải qua thời gian
đằng đẵng, dài lâu, liên tục, bền bỉ, nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, nước mắt cả máu
để xây dựng, bảo vệ bở cõi đất nước, thành giải đất chữ S cho dân mình đoàn tụ, đoàn
tụ trong yêu thương tự hào. Nguyễn Khoa Điềm tạo nên đất nước gắn với văn học dân
gian khiến những câu thơ vừa quen vừa lạ tạo ch nói độc đáo về lãnh thổ, lãnh hải
của Đất ớc Việt Nam.
“Đất nơi Chim về
Nước nơi Rồng
Lạc Long Quân Âu
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây gi
Yêu nhau sinh con đẻ i
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
- Không gian cội nguồn đầu tiên nơi chim về, rồng ở, nơi Lạc Long Quân Âu
đẻ ra dân tộc ta trong bọc trứng, sinh ra trăm người con, 50 xuống biển, 50 lên
rừng để khai phá, xây dựng lập nước khiến cho núi rừng, sông biển không đơn thuần
cảnh sắc thiên nhiên những không gian thiêng liêng, gần gũi trong quá trình
hình thành chứng tích người dân Việt Nam, cội nguồn ấm áp cho cội nguồn đất
nước. Đồng thời, những hình ợng quen thuộc này đã hội tụ về trong sự liên tưởng
của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ tầm khái quát cao: Dân tộc ta con
Rồng cháu Tiên, trai tài gái sắc. Đất ớc ta nơi đánh nh Chim về, đất thiêng
Rồng ở, n tộc Việt Nam anh em một nhà, cùng sinh ra từ bọc trăm trứng của cha
Lạc Long Quân mẹ Âu Cơ.
- Một Đất Nước cội nguồn n hóa, truyền thống lâu đời, rất đỗi thân thương
tự hào như thế, chính Đất Nước của Nhân dân. Đất ớc qua cách cảm nhận của
Nguyễn Khoa Điềm không khô khan, trìu tượng tươi sáng cảm xúc.
- Đất Nước gắn liền với đời sống, số phận của từng nhân mọi phương diện: lịch
sử, địa lý, văn a. Đất Nước n không gian sinh tồn, sự kết tinh, thống nhất u
19
sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ. Đó ngôi nhà lớn của đại gia đình người Việt
qua bao thế hệ, với những ai đã khuất, bất cứ nơi đâu cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ
Tổ. “Những ai đã khuất”, đến hiện tại “những ai bây giờ” tương lai “yêu nhau”
“sinh con đẻ cái”, mỗi thế hệ, mỗi nhân đều gắn với Đất Nước. Nhất trách
nhiệm của thế hệ hôm nay cùng nặng nề nhưng vinh quang. Chúng ta vừa phải
gánh vác những công việc nhọc nhằn, nặng nề mà ông cha ta giao lại, vừa phải dặn
con cháu chuyện mai sau một cách ân cần chu đáo để các thế hệ sau sẽ tiếp tục đưa
Đất Nước đi xa đến một chân trời hòa bình hạnh phúc, ấm no giàu mạnh. Đó
mộng, ước khát vọng của thời đại nhà thơ, nhưng lại hiện thực tất yếu của
tương lai. Ước y ngày nay đã thành sự thực. Lời thơ trong sáng, p niềm tin
giữa những ngày đánh Mỹ của nhà thơ, của ông cha ta.
- sự mưu sinh, mỗi người thể làm ăn lập nghiệp bất cứ nơi đâu, nhưng trong
thẳm sâu tâm hồn của mỗi chúng ta đều mang trong mình dòng máu Việt nên những
giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn với Đất Nước lại trỗi dậy nồng nàn:
Hằng năm ăn đâu m đâu/Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Hai dòng t của
Nguyễn Khoa Điềm đã mượn ý tứ của câu ca dao a:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ t mùng mười tháng ba
ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười”
Chỉ một câu ca dao cũng đủ nói lên sự gắn máu thịt của người Việt với quê ơng
đất nước. bộn bề công việc, ngược xuôi nơi nào, họ cũng luôn hướng về
cội nguồn, miền đất t linh thiêng đã trở thành biểu tượng, thành linh hồn của đất
nước. Hai chữ “cúi đầu” thể hiện tấm lòng đầy thành kính của nhà thơ đối với Đất
Nước thân yêu.
- Bằng cách sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết n gian, c chất liệu
văn hóa văn học dân gian, nhà thơ đã giải một cách sinh động, cụ thể cho câu hỏi:
Đất Nước gì? Từ đó, nh ảnh Đất Nước hiện n qua đoạn thơ vừa gần gũi - cụ thể,
vừa thiêng liêng - khái quát trên cả bề rộng không gian địa mênh mông thời gian
lịch sử đằng đẵng của dân tộc.
- Sử dụng lối chiết tự để định nghĩa Đất Nước. Nếu theo tư duy khoa học không được
định nghĩa như vậy, nhưng đây duy nghệ thuật trở thành sự sáng tạo của n thơ.
Về hình thức đây lối chơi ch toát lên chiều sâu suy tưởng của thi sĩ; Đất ớc
sự thống nhất của riêng chung, cá nhân cộng đồng, nhỏ - lớn lao, cụ thể - trừu
tượng.
thể nói, đoạn thơ những định nghĩa đa dạng, phong phú về Đất Nước từ
chiều sâu văn hóa dân tộc, xuyên suốt chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều
rộng của không gian đất nước. Nhà thơ vận dụng rộng i các chất liệu văn hóa
dân gian để cảm nhận định nghĩa về Đất Nước. Từ đó, đoạn thơ cho chúng ta
hiểu gắn hơn với Đất Nước, quê hương bằng một nh yêu ý thức trách
nhiệm sâu sắc.
3. Đất Nước được cảm nhận trên phương diện bề dày truyền thống. Mối quan hệ
riêng - chung, cá nhân - cộng đồng, sự tiếp nối của các thế hệ trong Đất Nước (13
câu kế)
20

Preview text:

ĐẤT NƯỚC NGUYỄN KHOA ĐIỀM -----
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày thẳm
xưa. .” mẹ thường hay kể
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Bút, non Nghiên.
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ đánh giặc
Long thành thắng cảnh
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Cái kèo, cái cột thành tên
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần,
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sàng sống ông cha
Đất Nước có từ ngày đó. .
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Đất là nơi anh đến trường
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta. .
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn Em ơi em
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong Hãy nhìn rất xa nỗi nhớ thầm
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp núi bạc”
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển Cần cù làm lụng khơi”
Khi có giặc người con trai ra trận
Thời gian đằng đẵng
Người con gái trở về nuôi cái cùng con Không gian mênh mông
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Đất là nơi Chim về
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nước là nơi Rồng ở
Những em biết không
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Có biết bao người con gái, con trai
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi Những ai đã khuất
Họ đã sống và chết Những ai bây giờ
Giản dị và bình tâm
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Không ai nhớ mặt đặt tên
Gánh vác phần người đi trước để lại
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Trong anh và em hôm nay
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di
Đều có một phần Đất Nước dân
Khi hai đứa cầm tay
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm trái
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm 1
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Mai này con ta lớn lên
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao
Đến những tháng ngày mơ mộng thần thoại
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Phải biết gắn bó san sẻ
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Làm nên Đất Nước muôn đời. .
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu *
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Nước những núi Vọng Phu
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái . .”
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương 2
PHẦN 1: TÁC GIA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
I. BỐI CẢNH THỜI ĐẠI
- Khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc với chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-
1954) và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ (20-7-1954), đất nước Việt Nam vẫn chưa
được thống nhất như ước nguyện của người dân. Hiệp định này quy định lực lượng
kháng chiến của Việt Minh và lực lượng của Pháp, vốn ở thế đan cài giữa nông thôn,
rừng núi, đô thị, phải đình chiến và tập kết ở hai miền, lấy ranh giới là vĩ tuyến 17,
trong khi chờ hai năm sẽ hiệp thương bầu cử để thống nhất đất nước. Điều đó gây ra
những biến động xã hội to lớn và tâm trạng bất an trong dân chúng, nhất là những
người từng liên quan mật thiết đến một phía tham gia chiến tranh, trong đó có trí thức,
văn nghệ sĩ. Tác động trực tiếp của việc này là 14 vạn người miền Nam và miền
Trung từng tham gia kháng chiến chống Pháp đi tập kết ra miền Bắc để bảo toàn lực
lượng; đồng thời khoảng một triệu người miền Bắc di cư vào miền Nam để “tị nạn
cộng sản”. Cuộc sống người dân từ vĩ tuyến 17 trở vào chứng kiến những xáo trộn và
biến động to lớn, từ cơ cấu dân cư, các thành phần kinh tế, chế độ chính trị, đến sinh hoạt văn hóa, văn nghệ.
- Miền Bắc hòa bình, bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tạm thời chịu
sự quản lí của Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Những năm dưới thời Ngô Đình Diệm, cả
miền Nam khi ấy quằn quại, đau thương trong sự đàn áp, khủng bố cực kì dã man của
quân thù. Toàn dân tộc Việt Nam đã tập trung mọi nguồn lực, tinh thần vào cuộc đấu
tranh chống Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Giai đoạn 1955 - 1975, trên lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở phía Bắc vĩ
tuyến 17 đời sống tinh thần chịu sự chi phối của ý thức hệ Marx-Lenin và văn hóa xã
hội chủ nghĩa; trái lại trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa ở phía Nam, các luồng tư
tưởng đến từ phương Tây tranh chấp nhau ảnh hưởng và gây ra những tác động đa
chiều và đa dạng đến đời sống người dân.
- Từ trong phong trào Đồng khởi, Mặt trận dân tộc và giải phóng miền Nam ra đời
ngày 20-12-1960 là một thắng lợi chính trị to lớn. Từ 1961-1965 phát huy sức mạnh
đoàn kết của dân tộc, miền Nam đã đánh thắng Chiến tranh đặc biệt, một hình thức
chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ. Ta đã đánh bại được âm mưu thâm độc
dùng người Việt đánh người Việt của kẻ thù. . Những thành quả ấy ngày một tiếp
thêm sức mạnh, niềm tin cho toàn dân vững bước đấu tranh giành độc lập tự do, thống nhất đất nước.
II. QUAN CẢNH VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ 1955 – 1975
1. Quan cảnh chung của văn học giai đoạn 1955 – 1975
1.1. Văn học Việt Nam giai đoạn 1955 - 1964
- Trong chặng đường từ năm 1955 đến năm 1964, văn học tập trung ngợi ca những đổi
thay của đất nước và con người trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện
hình ảnh người lao động và tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt, ý chí thống nhất nước nhà.
- Thời gian này nhân dân cả nước vừa tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc vừa tiếp tục công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Mang đến các hỗ trợ về cả
lực lượng và tinh thần chi viện cho Miền Nam. 3
- Văn học thời kì này cũng phản ánh chân thực lao động, sản xuất và điều kiện kháng
chiến. Tập trung thể hiện hình ảnh người lao động, các cống hiến trong sản xuất và
phát triển đất nước. Ca ngợi những đổi thay của đất nước và con người mới trong
bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Là những thành tựu, những giá trị đạt được mà con người hướng đến.
- Đồng thời thể hiện tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt, nói lên nỗi đau chia
cắt và thể hiện ý chí thống nhất đất nước. Các tác phẩm văn học lan tỏa mơ ước về
khát vọng thống nhất, khát vọng hòa bình.
Văn học đạt được nhiều thành tựu trên cả ba thể loại đó là:
- Văn xuôi được khai thác theo hướng mở rộng đề tài. Mang đến bức tranh của các
giai cấp, các tầng lớp cũng như thực tế thời điểm đó. Bao quát được nhiều vấn đề,
nhiều phạm vi của hiện thực đời sống. Từ tình cảm gia đình, làng xóm, tình yêu hay
các phân biệt trong giai cấp.
- Thơ cũng phát triển mạnh mẽ với nhiều cảm hứng lớn xuất phát từ đất nước, dân tộc.
Mang đến các giá trị thiêng liêng trong tình yêu quê hương đất nước. Tình yêu ấy có
thể được phản ánh trực diện hoặc gián tiếp thông qua nhiều hình ảnh khác nhau. Thể
hiện trong sự hài hòa giữa cái riêng với cái chung và đã có nhiều thành tựu nổi bật.
Thơ ca kết hợp hài hòa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn cách mạng, đã có một
mùa gặt bội thu với các tập thơ Gió lộng của Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa của Chế
Lan Viên, Riêng chung của Xuân Diệu, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời của Huy
Cận, Gửi miền Bắc, Tiếng sóng của Tế Hanh,. . Nỗi đau chia cắt đất nước, nỗi nhớ quê
hương và khát vọng giải phóng miền Nam là nguồn cảm hứng của nhiều bài thơ đặc
sắc của Tố Hữu, Tế Hanh, Nguyễn Bính. Từ miền Nam, các nhà thơ Thanh Hải,
Giang Nam đã sớm có những bài thơ cảm động về miền Nam như Mồ anh hoa nở Quê hương.
- Kịch đã có những tác phẩm thu hút được sự chú ý dư luận cả nước. Hình thức văn
học, nghệ thuật này mang đến ý nghĩa mới trong phong trào thơ văn Việt nam. Như:
Một đảng viên (Học Phi), Ngọn lửa (Nguyễn Vũ), Quẫn (Lộng Chương), Chị Nhàn
Nổi gió (Đào Hồng Cẩm),…
1.2. Văn học Việt Nam giai đoạn 1965-1975:
- Đây là giai đoạn đất nước tập chung toàn lực để tham gia vào kháng chiến chống Đế
quốc Mỹ. Toàn bộ nền văn học trong thời kì này của cả hai miền Nam, Bắc đều tập
trung vào cuộc chiến kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thực hiện phản ánh hiện thực,
bên cạnh các tinh thần yêu nước được ca ngợi. Với chủ đề bao trùm đó là ca ngợi tinh
thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Từ đó mong muốn được hòa bình,
được độc lập và tìm kiếm hạnh phúc cho nhân dân lao động.
- Các tác phẩm của các nhà thơ đã phản ánh chân thực hiện thực lúc bấy giờ. Mang
đến sự sinh động đời sống chiến trường, sự ác liệt, những hi sinh, tổn thất… trong
chiến tranh. Qua đó giúp ta hình dung được về bối cảnh đất nước, về công lao to lớn của ông cha ta.
- Thơ ca những năm chống Mĩ cứu nước đạt được những thành tựu xuất sắc, đánh dấu
một bước tiến mới của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ở chặng đường này, thơ ca tập trung
thể hiện cuộc ra quân vĩ đại của toàn dân tộc, khám phá sức mạnh của con người Việt
Nam, thể hiện sứ mệnh lịch sử, tầm vóc và ý nghĩa nhân loại của cuộc kháng chiến 4
chống Mĩ cứu nước. Thơ Việt Nam chặng đường từ năm 1965 đến năm 1975 thể
hiện rất rõ khuynh hướng mở rộng và đào sâu chất liệu hiện thực đồng thời bổ
sung, tăng cường chất suy tưởng, chính luận. Các tập thơ Ra trận, Máu và
hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường Chim báo bão Những bài thơ đánh giặc
của Chế Lan Viên, Hai đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt của Xuân Diệu, Dòng sông trong
xanh của Nguyễn Đình Thi, Đầu súng trăng treo của Chính Hữu, Cửa mở của Việt
Phương, Vầng trăng quầng lửa Thơ một chặng đường của Phạm Tiến Duật, Đất
ngoại ô Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Gió Lào cát
trắng của Xuân Quỳnh, Hương cây – Bếp lửa của Lưu Quang Vũ và Bằng Việt, Góc
sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa,… gây được tiếng vang lớn, thể hiện tập
trung nhất thành tựu của thơ ca Việt Nam chặng đường này.
- Đặc biệt sự xuất hiện của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước đã góp phần tạo nên một sức sống mới, một diện mạo mới cho cả
nền thơ. Thơ của các nhà thơ trẻ chặng đường này giàu yếu tố hiện thực, phản ánh
được sự ác liệt, những hi sinh, tổn thất trong chiến tranh, đặc biệt là đã dựng lên được
bức chân dung tinh thần của cả một thế hệ. Với những đóng góp của mình, thế hệ các
nhà thơ trẻ đã đem đến cho thơ Việt Nam chặng đường này một tiếng thơ mới mẻ, trẻ
trung, sôi nổi mà vẫn thấm đượm chất triết luận, suy tư. Thể hiện được tinh thần dân
tộc, quyết tâm cho đến cuối cùng để dành được độc lập, hòa bình và tự do.
- Nhiều công trình nghiên cứu lí luận phê bình xuất hiện mà những công trình
của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lê Đình Kỵ,… là những
tác phẩm có giá trị hơn cả.
2. Văn học ở hai miền Nam – Bắc giai đoạn 1955 – 1975
- Ở chiến trường miền Nam, là nơi diễn ra nhiều cuộc nổi dậy. Những tác phẩm viết
trong máu lửa của chiến tranh đã phản ánh một cách chân thực, nhanh nhạy và kịp
thời về diễn biến cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam anh dũng. Trong thực tế ấy,
các tác giả đã vẽ lên và khắc họa chân thực cho lịch sử dân tộc. Đồng thời cho nhân
dân thấy được sức mạnh tập thể, sức mạnh dân tộc bên cạnh các thành quả gặt hái về.
Văn học thời kì này đã thành công với những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Thi, Anh
Đức, Nguyễn Quang Sáng. Các tác phẩm thơ của Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Giang Nam, Thanh Hải,…
- Còn ở miền Bắc thì phải kể đến những tác phẩm truyện kí của các tác giả: Nguyễn
Tuân, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Nguyên Khải, Nguyễn Minh Châu,… Và
nhiều tập thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh,
Bằng Việt, Chính Hữu,… Dựa trên tình yêu đất nước, các phản ánh chân thực bối
cảnh bấy giờ. Bên cạnh việc nêu quan điểm, nói lên các phê phán hiện thực bấy giờ.
Qua đó mong muốn về hòa bình cho dân tộc, đời sống mới cho nhân dân.
3. Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ những năm 1955 đến năm 1975
3.1. Chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh

chung của đất nước.
- Văn học giai đoạn này tồn tại và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt :
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt ba mươi năm, điều
kiện giao lưu văn hóa với nước ngoài hạn chế, sự tiếp xúc với văn hóa, văn học thế
giới chủ yếu thông qua vùng ảnh hưởng của phe xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên 5
Xô, Trung Quốc. Trong hoàn cảnh ấy, nền văn học mới phải đáp ứng nhu cầu lịch sử
của đất nước, văn nghệ phải thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là phục vụ cách mạng, cổ
vũ chiến đấu. Không khí cách mạng và không khí kháng chiến đã khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần công dân của người cầm bút. Văn học trước hết phải là vũ khí chiến đấu.
- Đặc điểm này đã được thể hiện xuyên suốt, liền mạch qua các chặng đường cách
mạng của dân tộc từ năm 1955 đến năm 1975. Văn học phục vụ cách mạng nên quá
trình vận động, phát triển hoàn toàn ăn nhịp với từng bước đi của cách mạng, theo sát
từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Văn học Việt Nam từ năm 1955 đến năm 1975
tập trung vào đề tài Tổ quốc: bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước. Toàn bộ nền văn học từ thơ ca, truyện, kí đến nghệ thuật sân khấu đều
tập trung khai thác mâu thuẫn, xung đột giữa ta và địch; đặt lợi ích của Tổ quốc, của
toàn dân tộc lên trên hết.
3.2. Nền văn học hướng về đại chúng.
- Đại chúng vừa là đối tượng thể hiện, vừa là công chúng của văn học, đồng thời cũng
là nguồn cung cấp lực lượng sáng tác cho văn học.
- Văn học Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 quan tâm đến đời sống của nhân dân lao
động, đem lại một cách hiểu mới về quần chúng lao động, về phẩm chất tinh thẩn và
sức mạnh của họ trong cuộc kháng chiến, phê phán tư tưởng coi thường quần chúng.
Văn học trực tiếp ca ngợi quần chúng bằng cách xây dựng hình tượng đám đông quần
chúng đầy khí thế và sức mạnh hoặc xây dựng những nhân vật anh hùng kết tinh
những phẩm chất tốt đẹp của giai cấp, nhân dân, dân tộc. Một chủ đề phổ biến khác
của văn học giai đoạn này là khẳng định sự đổi đời của quần chúng nhờ cách mạng.
- Hướng về đại chúng, văn học Việt Nam từ năm 1955 đến năm 1975 phần lớn là
những tác phẩm ngắn gọn, nội dung dễ hiểu, chủ đề rõ ràng. Văn học cũng thường tìm
đến những hình thức nghệ thuật quen thuộc với nhân dân ở ngay trong kho tàng văn
hóa dân gian và văn học truyền thống. Ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, trong sáng, dễ hiểu.
3.3. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- Văn học Việt Nam giai đoạn 1955 - 1975 là văn học của những sự kiện lịch sử, của
số phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm của văn học phải là
những con người gắn bó số phận mình với số phận đất nước và kết tinh những phẩm
chất cao quý của cộng đồng, đó là nhân vật trước hết đại diện cho giai cấp, cho dân
tộc và thời đại, chứ không phải đại diện cho cá nhân mình. Người cầm bút nhân danh
cộng đồng mà ngưỡng mộ, ngợi ca người anh hùng với những chiến công chói lọi.
Con người giai đoạn lịch sử này tuy đứng giữa thực tại đầy gian khổ, mất mát, đau
thương nhưng tâm hồn luôn luôn hướng về lí tưởng, về tương lai. .
- Ra đời và phát triển trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ vô
cùng ác liệt và kéo dài, văn học Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 trước hết là nền văn
học của chủ nghĩa yêu nước. Chính những đặc điểm lịch sử – xã hội của thời đại đã
tạo nên khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học giai đoạn này.
- Với chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975, dân tộc ta đã giành được độc lập, tự do,
Tổ quốc được thống nhất. Chiến tranh kết thúc, con người trở về với cuộc sống bình
thường. Đời sống đổi khác, tư tưởng, tâm lí, nhu cầu của con người cũng không còn
như trước nữa. Nhưng trong khoảng mười năm đầu sau chiến tranh, văn học vẫn tiếp 6
tục vận động theo quán tính của nó. Tình hình đó đã tạo nên sự “lệch pha” giữa người
cầm bút và công chúng văn học. Điều này tạo nên hiện tượng độc giả thờ ơ với tác
phẩm của các cây bút trong nước và tìm đọc một số cuốn tiểu thuyết dịch của nước ngoài.
- Đất nước cần được đổi mới toàn diện và sâu sắc. Văn học cũng vậy. Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ VI khẳng định đổi mới “là nhu cầu bức thiết”, là “vấn đề có ý nghĩa
sống còn”. Đất nước bước vào công cuộc đổi mới thúc đẩy nền văn học cũng phải đổi
mới phù hợp với nguyện vọng của nhà văn, của công chúng cũng như quy luật phát
triển khách quan của nền văn học.
III. THƠ CA – ĐÓA HOA RỰC LỬA GIỮA KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ 1. Nền thơ chống Mỹ
- Văn học Việt Nam thời kì chống Mỹ cứu nước (1955 - 1975) có một vị trí quan
trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Đây là thời kì văn học phát triển rực rỡ trên nhiều
thể loại, trở thành cuốn biên niên được các nhà thơ khắc họa một cách chân thực về
cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Thơ giai đoạn chống Mỹ cứu nước thể
hiện Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, bản lĩnh con người Việt Nam, phản
ánh được khí thế tầm vóc của cả một dân tộc mang hơi thở thời đại. Có thể nói đây là
thời kì rực rỡ nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại.
- Từ tháng 8 năm 1964, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới gay go, ác liệt.
Nhanh nhạy và kịp thời, nền thơ hiện đại đã nhập cuộc tham gia vào cuộc chiến tranh
ái quốc vĩ đại của toàn dân tộc. Suốt những năm tháng chiến tranh, các thế hệ nhà thơ
đã tiếp bước nhau dàn quân trên các mặt trận với cảm hứng chủ đạo là thể hiện khát
vọng độc lập tự do và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại chống Mỹ.
- Nền thơ chống Mỹ được hình thành từ nhiều thế hệ nhà thơ: Thế hệ nhà thơ xuất
hiện trước cách mạng (Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh…), thế
hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp (Chính Hữu, Nguyễn Đình
Thi, Hoàng Trung Thông, Quang Dũng…) và thế hệ các nhà thơ trẻ ra đời trong thời
kì chống Mỹ. Mỗi nhà thơ nói trên đều có thế mạnh riêng và có những đóng góp đáng
ghi nhận cho nền thơ chống Mỹ.
- Chỉ trong vòng mười năm, nền thơ chống Mỹ đã liên tục xuất hiện những gương mặt
trẻ như (Thái Giang, Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Xuân
Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Khoa Điềm, Bế Kiến Quốc,
Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mỹ
Dạ…) Đó là những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ thời kì chống Mỹ. Các nhà thơ
thời kì này ý thức sâu sắc trách nhiệm công dân của mình.
- Thơ thời kì kháng chiến chống Mỹ tập trung xây dựng hai loại hình tượng cái tôi trữ
tình đó là “cái tôi” sử thi và “cái tôi” thế hệ. Cái tôi sử thi đã tạo cho nhà thơ một tâm
thế mới. Nhà thơ phát ngôn cho cả dân tộc, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đứng ở tầm
cao thời đại để bao quát cả thời gian, không gian, cả hiện tại và quá khứ, tương lai để
phát hiện suy ngẫm. Vì vậy hình tượng trong thơ cũng mang tầm vóc sử thi, tầm vóc
con người được đo bằng chiều kích không gian, vũ trụ, khắc họa được tầm vóc dân
tộc trong thời đại đánh Mỹ. 7
- Thơ ca chống Mỹ không chỉ đóng góp to lớn về mặt nội dung, mà còn thể hiện bước
tiến lớn về mặt hình thức. Hiện thực cuộc sống ùa vào thơ góp phần tạo nên những
cách thể hiện mới mẻ, độc đáo, vừa tìm những mảnh đất mới để khai phá, vừa “thâm
canh” trên chính mảnh đất của những hình thức và phương tiện biểu hiện truyền thống.
Tất cả những bước tiến đó đã khẳng định sự thâm nhập của thơ với hiện thực, khả
năng nắm bắt tinh nhạy, kịp thời của các nhà thơ trước thời đại lịch sử.
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã giành được thắng lợi, thơ chống Mỹ đã
góp một tiếng nói xứng đáng về cuộc ra trận lớn lao của dân tộc, “Không có nhiều
trong những bức tranh xã hội rộng lớn, những câu chuyện kể hấp dẫn về cuộc sống
dân tộc, nhưng thơ chống Mỹ là tiếng nói tâm tình tha thiết, là khúc ca chiến đấu, là
lời tự bộc lộ chân tình ý chí của một dân tộc quyết chiến và quyết thắng”. Nó hoàn
thành sứ mệnh vẻ vang của một nền thơ, ghi lại được thời kì lịch sử đau thương mà hào
hùng của dân tộc, đánh dấu một chặng đường phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. .
2. Thơ trẻ miền Nam chống Mỹ.
- Trong thành công của phong trào thơ chống Mỹ, phải kể đến sự đóng góp rất lớn của
thế hệ các nhà thơ trẻ, trong đó có các cây bút sinh viên - học sinh miền Nam
như: Trần Quang Long, Nguyễn Thái Bình, Thái Ngọc San, Trần Vàng Sao, Đông
Trình, Tần Hoài Dạ Vũ, Võ Quê… Hàng loạt các tập thơ ra đời nói lên tinh thần yêu
nước và đấu tranh của thế hệ trẻ miền Nam Thơ họ trẻ trung đằm thắm, vượt lên
những chán chường bế tắc và những vay mượn siêu hình đương thời để cất lên tiếng gọi lên đường.
- Họ đại diện cho tuổi trẻ miền Nam và cả nước đứng lên tranh đấu giải phóng đất
nước, quê hương. Ở họ đều có một điểm chung đó là lòng yêu nước. Những câu thơ
trẻ trung đằm thắm của họ góp phần tạo nên hình ảnh đẹp của thế hệ trẻ miền Nam.
Thơ trẻ chống Mỹ là một hiện tượng đặc biệt, bởi chưa có giai đoạn nào trong thơ lại
cùng một lúc xuất hiện một đội ngũ đông đảo các nhà thơ cùng một thế hệ tuổi trẻ.
Giữa chiến trường rộng lớn mỗi nhà thơ chọn cho mình một mảng hiện thực phù hợp
để sáng tác, tạo ra những vùng thẩm mỹ riêng.
- Nếu như vùng thẩm mỹ của Phạm Tiến Duật là đường Trường Sơn với cuộc sống
của những người lính lái xe, của những cô thanh niên xung phong thì vùng thẩm mỹ
của Nguyễn Khoa Điềm là phong trào học sinh, sinh viên đô thị bị tạm chiếm miền
Nam. Chọn cho mình một mảng hiện thực đặc biệt nên tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm
có một giọng điệu riêng. Đó là tiếng nói đại diện của tuổi trẻ miền Nam trong quá
trình nhận đường về với nhân dân, với dân tộc. Quá trình nhận thức ấy quả không đơn
giản. Sống trong thành phố bị kẻ thù chiếm đóng, Cách mạng đối với họ thật xa lạ.
Đối diện với từng ngày từng giờ là cảnh bắt lính của chính quyền tay sai, là những
cám dỗ của cuộc sống tiêu cực, buông thả:
Sông Hương ơi sông Hương
Ngươi còn nguồn với bể Để đi và để đến Còn ta hai lăm tuổi
Trôi cạn trên mặt đường
(Mặt đường khát vọng) 8
Trường ca Mặt đường khát vọng đã tái hiện lại quá trình nhận thức của tuổi trẻ miền
Nam dưới ách Mỹ - Ngụy: từ nỗi đau quê hương nhận rõ chân tướng kẻ thù, sự thức
tỉnh về trách nhiệm của tuổi trẻ trong công cuộc cứu nước, tình cảm với nhân dân đất
nước để rồi cuối cùng xuống đường, hoà vào dòng thác nhân dân đấu tranh vì độc lập
tự do. Hành trình đến với lý tưởng, với cách mạng, nhân dân của tuổi trẻ thành thị
miền nam vô cùng gian nan, phức tạp.
- Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh họ, và nhà thơ hoà nhập với tuổi trẻ miền Nam
để cất lên tiếng nói của chính họ. Nhà thơ cùng họ thấm thía xót xa về thân phận nô lệ:
Phượng vẫn rơi những cánh tươi hồng
Đau như máu những tâm hồn son trẻ
Sao con học để làm bầy nô lệ
Súng Mỹ hôm nay thành giáo cụ học đường
- Với sự đồng cảm sâu sắc, với vốn hiểu biết khá kĩ lưỡng về cuộc sống của tuổi trẻ
thành thị miền Nam - kết quả của một quá trình công tác gắn bó với thực tiễn phong
trào học sinh, sinh viên, ở trường ca Mặt đường khát vọng, tuổi trẻ thành thị miền
Nam đã cất tiếng thông qua khúc hát của nhà thơ.
IV. NGUYỄN KHOA ĐIỀM – MỘT THẾ HỆ NHÀ THƠ TRẺ CỦA CÁCH MẠNG
1. Đôi nét về cuộc đời

Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước và
hiếu học thế nên những áng thơ của ông đều hướng về tình yêu quê hương, đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ. Vì ông là người trực tiếp tham gia trong trận chiến với đế quốc Mỹ
thế nên thơ của ông rất chân thật và giàu tính chiêm nghiệm, đặc biệt là cảm xúc vô
cùng sâu lắng mang đậm màu sắc trữ tình. Là một người có ý thức và trách nhiệm với
đất nước, thế nên những câu thơ ông sáng tác thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của
người công dân, người lính với đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã
Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông là một nhà thơ nổi tiếng,
đồng thời là nhà chính trị lớn tại Việt Nam đã từng giữ rất nhiều chức vụ quan trọng
trong cơ quan Nhà nước như: Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin (1994), Tổng Thư
ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V (1995), Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương,
Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2001).
Ông còn được biết đến với tên gọi khác là Nguyễn Hải Dương. Sinh ra trong
thời thế chiến tranh loạn lạc nên từ nhỏ Nguyễn Khoa Điềm đã có tinh thần yêu nước
rất mãnh liệt. Hơn nữa, gia đình của ông là một gia đình cách mạng có truyền thống
yêu nước và hiếu học, từ ông nội cho đến cha ông là Nguyễn Khoa Đăng đều được rất
nhiều người dân mến mộ và ca tụng.
Lúc còn nhỏ ông đi học tại Huế, sau đó ông chuyển ra Bắc sinh sống và học tập
tại trường học sinh miền Nam vào năm 1955. Năm 1964, ông tốt nghiệp Đại học Sư
phạm Hà Nội. Từ khi còn là một học sinh, sinh viên ông đã rất tích cực tham gia vào
các hoạt động, phong trào thi đua yêu nước như viết báo, viết văn, làm thơ, đồng thời
ông cũng tham gia quân đội, xây dựng cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. 9
Ông từng hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên tại miền nam, tham
gia quân đội, xây dựng cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, viết báo, làm thơ. .
Ông từng bị giam tại nhà lao Thừa Phủ, đến năm 1968 thì được thả tự do.
Năm 1975, ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Sau đó, ông tham
gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản và chính thức trở thành Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Phó Bí thư Thường trực
Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế.
Năm 1996, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
VIII, Nguyễn Khoa Điềm bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Ông là Đại biểu Quốc
hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X và từ tháng 11 năm 1996 là
Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin. Năm 2001, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, Nguyễn Khoa Điềm trở thành Ủy viên Bộ Chính trị,
Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2001-2006). Hiện
nay, ông nghỉ hưu và sống tại Thành phố Huế.
2. Về sự nghiệp cầm bút
Về sự nghiệp văn học, Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu
biểu nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Vì trực tiếp tồn tại trong cuộc chiến
kháng chiến nên thơ của ông rất giàu tính chiêm nghiệm, đặc biệt hấp dẫn bởi cảm xúc
nồng nàn, suy tư sâu lắng và mang màu sắc chính luận - trữ tình. Ông có ý thức rất
cao về vai trò cũng như trách nhiệm của một công dân đối với đất nước, vì vậy những
áng thơ của ông thể hiện rất rõ tinh thần chiến đấu và bản chất anh hùng bất khuất của
những người chiến sĩ Việt Nam.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng và gắn bó với tên tuổi của Nguyễn Khoa
Điềm đó chính là bài thơ “Đất nước” trích trong tập “Mặt đường khát vọng” ra đời
vào gần cuối năm 1971, ngay tại thời điểm mà kháng chiến chống Mỹ đang trong giai
đoạn quyết liệt nhất. Đây là một tác phẩm thành công vang dội, mang đến cho người
đọc một cái nhìn toàn vẹn về tinh thần dân tộc và tinh thần yêu nước.
Ngoài ra, một số tác phẩm tiêu biểu khác của Nguyễn Khoa Điềm có thể nhắc đến như:
Cửa thép (tập ký, 1972)
Đất ngoại ô (tập thơ, 1973)
Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974)
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (tập thơ, 1986)
Thơ Nguyễn Khoa Điềm (tập thơ, 1990)
Cõi lặng (tập thơ, 2007)
Nguyễn Khoa Điềm là người lao động nghệ thuật rất nghiêm túc, ông luôn khắt
khe với những tác phẩm của chính mình. Thơ của ông luôn được định hình theo một
phong cách riêng, nét riêng. Hầu hết những tác phẩm mà ông sáng tác đều viết về tình
yêu quê hương, đất nước và tinh thần dân tộc.
Tuy đây là những đề tài quen thuộc được nhiều người sáng tác, nhưng với cách
nhìn sáng tạo, mới mẻ cùng tâm hồn cao đẹp đã giúp cho những tác phẩm của ông
luôn tạo được dấu ấn riêng trong lòng người đọc. . 10
Ông được trao tặng nhiều giải thưởng về văn học và nghệ thuật, nổi bật là giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” và Giải
thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (giải B) với tập thơ “Cõi lặng” - năm 2010.
Hơn nửa đời người cống hiến cho cách mạng, cho văn học nước nhà thì hiện tại
ông đang nghỉ hưu tại quê hương của mình. Tuy sự nghiệp chính trị đã kết thúc,
nhưng con đường thơ ca của ông vẫn còn tỏa sáng, hằng ngày ông vẫn làm thơ, đọc
sách và tham gia những buổi tọa đàm, những sự kiện văn học.
3. Văn phong của một nhà thơ trẻ chống Mỹ Nguyễn Khoa Điềm
- Nguyễn Khoa Điềm đã có mặt và đi suốt cả chặng đường chiến tranh và đã đánh dấu
thành tựu của mình qua những chặng đường sáng tác. Phong cách thơ Nguyễn Khoa
Điềm thời kì chống Mỹ cứu nước là cảm hứng lớn về đất nước và nhân dân anh hùng.
Sự thống nhất độc đáo của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm nằm ở cảm hứng hiện
thực thời đại, ở những chủ đề quen thuộc, ở phương diện thể hiện cái tôi trữ tình
phong phú đa dạng, với lớp ngôn từ, hình ảnh cảm xúc ẩn sau bề mặt câu chữ một cảm
quan lịch sử văn hoá sâu sắc độc đáo.
- Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm yêu nước không đơn giản chỉ là nhiệt tình hăng hái
chiến đấu và căm thù giặc mạnh mẽ. Với Nguyễn Khoa Điềm tình yêu đất nước làm
sống dậy trong trang thơ lịch sử bốn ngàn năm hào hùng của dân tộc với những chiến
công dựng nước và giữ nước của cha ông. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là
sự đồng hiện của những gì gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt
Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai, trong thời gian và không gian, trong lịch sử
và truyền thống văn hoá…
- Ở Nguyễn Khoa Điềm lòng yêu nước là hồn Việt thấm đượm trong tâm hồn để từ
đó đúc kết một chân lý vững vàng: Đất nước của nhân dân. Tư tưởng Đất nước của
nhân dân đã chi phối hầu hết các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Vì vậy tiếng thơ
Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nói lên những suy nghĩ cảm nhận của tuổi trẻ trong
chiến tranh, về sự lạc quan hay cái nhìn nghiêm túc thành thật, thậm chí trần trụi về
những mất mát… mà còn bộc lộ những suy nghĩ hiện thực sâu sắc hơn rất nhiều.
- Thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện lòng yêu nước qua việc tranh luận về tuổi trẻ, về
nhân sinh quan để dựng lại cả quá trình “tìm đường” và“nhận đường” của tuổi trẻ đô
thị miền Nam về với con đường cách mạng của dân tộc, nhân dân. Tài năng và cá tính
sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm còn bộc lộ trong những phương diện nghệ thuật: đó
là thi pháp biểu hiện mang phong cách riêng, từ giọng điệu trữ tình giàu chất chính
luận, đến việc xây dựng chất liệu thơ giàu chất liệu hiện thực, chất liệu văn hoá và
giàu tính liên tưởng. , từ việc sử dụng những tín hiệu thẩm mỹ vừa truyền thống vừa
hiện đại đến việc sử dụng linh hoạt thể thơ tự do với những cung bậc khác nhau của
cảm xúc với một vốn từ ngữ giàu có vừa dân dã vừa mang tính văn hoá thời đại. 11
PHẦN 2: TRƯỜNG CA “MẶT ĐƯỜNG KHÁT
VỌNG” VÀ TRÍCH PHẨM “ĐẤT NƯỚC” -----
I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
Năm 1964 sau khi tốt nghiệp khoa Văn Đại học sư phạm Hà Nội, Nguyễn
Khoa Điềm trở về quê hương, hòa mình vào cuộc chiến đấu dữ dội tại chiến trường
Bình Trị Thiên. Tiếp xúc trực tiếp với chiến tranh, tận mắt chứng kiến tội ác của kẻ
thù và cuộc chiến đấu gian khổ bất khuất của đồng chí, đồng bào, những điều đó đã
khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt cho hoạt động sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Trở
về Huế, sau nhiều tháng trời hành quân ròng rã, Nguyễn Khoa Điềm đến Tỉnh ủy
Thừa Thiên và được phân công công tác vận động thanh niên của Thành ủy Huế. Thời
gian hai năm gắn bó với phong trào học sinh sinh viên thành phố Huế có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Đây là thời gian
nhà thơ hoà mình vào tuổi trẻ thành phố bị chiếm đóng. Từ những “đêm không
ngủ”, những ngày “xuống đường”, Nguyễn Khoa Điềm đã tích luỹ cho mình vốn
sống và sự trải nghiệm để cảm hứng thơ trào lên thành trường ca Mặt đường khát vọng.
Trường ca Mặt đường khát vọng được viết tại khu sáng tác Trị Thiên - Huế
tháng 10 năm 1971 dài 9 chương: Lời chào, Báo động, Giặc Mỹ, Tuổi trẻ không yên,
Đất Nước, Áo trắng và mặt đường, Xuống đường, Khoảng lớn âm vang, Báo bão . Đặc
biệt thành công nhất là chương Đất nước. Đất nước đã trở thành một bài thơ có sức
sống độc lập, thể hiện trọn vẹn tài năng phong cách Nguyễn Khoa Điềm. Cùng với
Đất nước của Nguyễn Đình Thi, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm trở thành hai áng thơ
đẹp nhất viết về Tổ quốc của văn học Việt Nam hiện đại.
II. CẢM HỨNG VÀ LOẠI THỂ TRƯỜNG CA TRONG THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Nhà nghiên cứu Hoài Anh cho rằng thơ Nguyễn Khoa Điềm phát sáng trong
chủ đề sóng đôi: Đất Nước Khát vọng. Cảm hứng Đất nước ôm trùm chi phối
những nguồn cảm hứng khác. Trong chiến tranh cảm hứng Đất nước đi liền với khát
vọng gìn giữ chủ quyền dân tộc chiến thắng kẻ thù xâm lược. Chủ đề này được
Nguyễn Khoa Điềm triển khai trong thơ bằng không khí sử thi hào hùng của cuộc
chiến đấu chống Mỹ. Để tái hiện tinh thần thời đại, thơ Nguyễn Khoa Điềm phơi bày
những cảm xúc nồng nàn bay bổng trước vận mệnh chung của toàn dân tộc.
Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm hứng sử thi anh hùng bao giờ cũng đi cùng cảm
hứng lãng mạn và lí tưởng hoá tạo nên những hình ảnh thơ kì vĩ hùng tráng. Cảm hứng sử
thi bao giờ cũng song hành với chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Cảm hứng
sử thi là cảm xúc cao trào, dâng tràn lòng yêu nước, tự hào trước sự quật khởi của đất nước.
Trong tâm thức Nguyễn Khoa Điềm luôn quan niệm chính Nhân dân vô danh
đã làm nên đất nước. Có lẽ vì vậy mà chủ nghĩa anh hùng trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm không xuất hiện những tên tuổi vang dội mà nhà thơ thường chú ý khai thác
chất anh hùng trong những biểu hiện hàng ngày của cuộc chiến đấu ác liệt với những
con người bình dị. Ở phương diện chiếm lĩnh hiện thực chiến trường, thơ Nguyễn 12
Khoa Điềm đã hòa vào dàn đồng ca hào hùng của thơ trẻ chống Mỹ. Nếu như trong
âm hưởng chung người ta có thể nhận ra những giọng điệu riêng biệt: Hoàng Nhuận
Cầm hồn nhiên mơ mộng; Phạm Tiến Duật hóm hỉnh tinh nghịch pha chút ngang tàng;
Dương Hương Ly khoẻ khoắn thiên về ngợi ca; Bằng Việt sâu lắng và trong sáng…
thì thơ Nguyễn Khoa Điềm là thứ thơ đằm sâu mà ngân vang. Độ sâu sắc của thơ
Nguyễn Khoa Điềm phần nào nổi trội hơn nhiều tác giả trẻ khác chính là ở sự thể hiện
phong phú và xúc động một chủ đề, một tư tưởng: Đất nước của nhân dân được soi
chiếu từ góc nhìn lịch sử - văn hóa và thông qua những trải nghiệm của chính nhà thơ.
Nguyễn Khoa Điềm có một vốn tích luỹ phong phú về nền văn hóa dân tộc.
Bước vào cuộc chiến tranh, sự tàn khốc dường như càng thôi thúc nhà thơ suy nghĩ
nhiều hơn, sâu hơn về Đất nước để có những phát hiện tinh tế có khả năng làm sống
dậy những hình ảnh đẹp của văn hóa dân tộc. Khi được hỏi về những sáng tác trong
chiến tranh, Nguyễn Khoa Điềm đã tâm sự: “Chúng tôi là những tri thức trưởng
thành qua chiến tranh. Chúng tôi phải huy động hết những phần văn hóa của mình để
chứng minh sức mạnh của mình, khả năng tồn tại của mình, chứng minh mình là con
người, lớp người có văn hóa. Chính bởi thế mà trong không khí sặc mùi thuốc súng
ấy, giữa cái giáp ranh của sự sống và cái chết, tôi muốn đưa vào thơ những hình ảnh
đậm nét văn hóa nhất của quê hương đất nước mình”.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta là một bản trường ca vĩ đại, hào
hùng. Để phản ánh hết không khí hào hùng đó, người viết phải lựa chọn cho mình một
hình thức biểu đạt sao cho phù hợp nhất nhưng lại có dấu ấn phong cách riêng. Trước
yêu cầu đó, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm cho mình một cách đi riêng. Khái quát những
chủ đề về nhân dân, đất nước, về cách mạng, nhà thơ đã kết hợp chất liệu truyền thống
và hiện đại, trên cơ sở vận dụng những hiểu biết về địa lí, phong tục tập quán của nhân dân, đất nước.
Để phản ánh hết được cái hào hùng của thời đại, nhiều nhà thơ thời kì này đều
sử dụng thể trường ca - một thể loại thể hiện được những sự kiện, biến cố lớn của dân
tộc. Nếu trường ca Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân là một tình khúc ca được thể
hiện qua thơ lục bát thật dịu dàng đằm thắm; “Bài ca chim chơ rao” của Thu Bồn
lãng mạn, phóng khoáng và bay bổng thì trường ca “Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ xuống
đường tranh đấu, trong đó những trang thơ khắc hình Đất nước là những nốt nhạc rung
động lòng người, được toả sáng dưới một cái nhìn mới mẻ đầy tính phát hiện. Xuyên
suốt chương Đất nước là tư tưởng “Đất nước của nhân dân” nhuần nhuỵ trong hình
thức “Đất nước của ca dao thần thoại” như một sợi chỉ đỏ tạo nên mạch chảy đằm
sâu, tha thiết trong xúc cảm của nhà thơ. Nó như là một bản nhạc với đầy đủ những
âm vực cao độ xen kẽ nhau, hoà quyện vào nhau tạo nên sự hấp dẫn lôi cuốn người đọc.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đề tài Đất nước, Nhân dân. Giọng thơ đầy
xúc cảm, trang trọng khi hát khúc hát sử thi hoành tráng về Nhân dân, Đất nước.
Trọng tâm của bản trường ca nằm ở chương Đất nước, tập trung và thăng hoa những
suy nghĩ sâu xa nhất của nhà thơ những năm tháng chiến tranh. Đất nước được tái hiện
trong những hình ảnh thân thiết với mỗi con người, Đất nước cũng được đặt trong cái 13
nhìn lịch sử và văn hóa trong “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông” để mỗi
người cảm nhận hết tầm cao cả thiêng liêng của hai từ Đất nước.
III. ĐÔI NÉT VỀ TRÍCH PHẨM “ĐẤT NƯỚC”
Cảm quan lịch sử - văn hóa sâu sắc đã tạo nên một chiều sâu riêng, sức hấp dẫn
khơi gợi đặc biệt của chương Đất nước. Chương này là điểm hội tụ và tỏa sáng toàn
bộ bản trường ca, tạo nên một vẻ đẹp độc đáo khác biệt so với những trường ca cùng
thời. Để tái hiện quá trình bắt đầu và lớn lên của Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã
làm sống dậy cả một không gian văn hóa cổ xưa của dân tộc, trong bề dày lịch sử bốn
nghìn năm. Bề dày lịch sử ấy chứa đựng cả chiều sâu của một nền văn hóa phong phú,
lâu đời, đầy nhân hậu với cả một truyền thống quý báu của dân tộc: cần cù, chịu khó
trong học tập, làm ăn, dũng cảm trong chiến đấu, chung thủy, bền vững trong tình yêu.
Người đọc gặp ở chương Đất nước thế giới của truyện cổ, kho tàng của ca
dao… Lời kể ngày xửa ngày xưa của mẹ mở ra xứ sở cổ tích thần kì; miếng trầu của
bà gợi câu chuyện Trầu cau, với tình người nồng hậu, thủy chung, biểu tượng đạo lí
sáng đẹp yêu thương của dân tộc; lũy tre xanh gợi truyền thuyết Thánh Gióng, như
khúc anh hùng ca tráng lệ về sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam từ buổi bình
minh non trẻ dựng nước và giữ nước, và hình ảnh “gừng cay muối mặn” nghĩa tình
đằm thắm trong ca dao. Đất nước được gợi lại từ lịch sử, được sống dậy qua phong tục
tập quán trong đời sống tinh thần của nhân dân: miếng trầu, trồng tre, bới tóc sau đầu,
cách đặt tên người, cả tình yêu của con người… Tất cả đều làm nên khuôn mặt dân tộc
- một dân tộc nghĩa tình đằm thắm. Chất dân gian, hồn dân tộc như thấm vào từng câu từng chữ.
Đất nước bắt nguồn từ những hàng ngày gần gũi, cũng lại là những cái bền
vững sâu xa hình thành tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc, từ những phong tục
tập quán được tiếp nối thiêng liêng, qua nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn hóa -
lịch sử của Đất nước, nó góp phần khẳng định Đất nước có từ xa xưa, từ khởi thủy của
dân tộc khi những cư dân đầu tiên khai phá đất đai lập nên xứ sở. Trong cảm nhận của
Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước được hình thành từ sự hội tụ của hai yếu tố Đất và
Nước. Hai yếu tố này kết hợp với nhau để rồi từ đó sinh thành nên cơ thể đất đai, nước non, xứ sở.
IV. 42 CÂU THƠ CÂU: QUAN NIỆM CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM VỀ CỘI
NGUỒN CỦA ĐẤT NƯỚC: ĐẤT NƯỚC CÓ TỪ LÂU ĐỜI, ĐẤT NƯỚC HÒA
NGUYỆN, GẮN BÓ SÂU SẮC VỚI ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN, ĐẤT NƯỚC LÀM
NÊN CUỘC SỐNG NHÂN DÂN, MỖI CÁ NHÂN PHẢI CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI ĐẤT NƯỚC.
Khi nói về thời gian, không gian, các nhà thơ thường sử dụng chất liệu văn học
dân gian xây dựng hình tượng truyền thuyết, thần thoại, cổ tích, ca dao dân ca. Nhưng
sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm ở chỗ ông linh hoạt có thể trích cả câu thơ hoặc lấy
vài từ, lấy ý của câu ca dao để gợi nhắc. Sự sáng tạo ấy tạo nên những câu thơ vừa
quen, vừa lạ giàu chất suy tưởng, mở rộng trường nghĩa. Điều đó có tác dụng khiến
người đọc tự hào về đất nước không chỉ bởi có lịch sử dài đằng đẵng, bởi không gian
mênh mông mà còn có chiều sâu về dày văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân
tộc Việt Nam - một phương diện quan trọng xác lập sự tồn tại của Việt Nam.
1. Đất nước từ điểm nhìn thời gian văn hóa (9 câu đầu)
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi 14
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa. .” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
- Mở đầu bài thơ, chủ thể nhận thức xưng “ta” vừa cụ thể vừa khái quát với nội dung
nhận thức về “Đất Nước đã có rồi”: Đất Nước đã có từ rất lâu đời rồi, không ai biết
rõ thời điểm chính xác nó ra đời. Điều đó thể hiện sự tự hào về lịch sử Đất Nước của
tác giả. Ở câu thơ tiếp theo, mô tuýp “ngày xửa ngày xưa” được nhắc đến gợi ra
những câu chuyện cổ tích. Tham vọng tính tuổi Đất Nước của nhà thơ thật khó bởi
chính cái “ngày xửa ngày xưa” (thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích)
có tính phiếm chỉ, trừu tượng, không xác định. Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời
gian mang màu sắc huyền thoại. Song chính ở cái “ngày xửa ngày xưa” đó, nhà thơ
đã giúp cho chúng ta nhận thức được: Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết.
- Chỉ biết rằng: Khi ta cất tiếng khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu. Và chính
những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là dòng sữa ngọt lành
chăm bẵm cho ta cái chân - thiện - mỹ và lớn lên ta biết yêu Đất Nước con người. Về
ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”
(Truyện cổ nước mình)
- Không chỉ dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của Đất Nước, nhà thơ còn nỗ lực hình
dung về quá trình hình thành phát triển của Đất Nước. Phải chăng, khởi thủy của Đất
Nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt
Nam. Ở đây, chi tiết “miếng trầu” là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ
từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ. Đây còn là hình ảnh gắn
liền với trầm tích văn hóa của người Việt: tục ăn trầu là câu chuyện cổ tích Trầu cau
và nét đẹp trong giao tiếp của người Việt, là tập tục của người Việt. Như vậy là thẩm
thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ
phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, lòng thủy chung, vật chứng
cho lứa đôi cũng là biểu tưởng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, phong
tục nhuộm răng đen cũng ra đời: “Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa
nắng” (Hoàng Cầm).
- Qua đó người đọc có thể củng cố rõ hơn về nhận thức Đất Nước có từ rất lâu, cùng
thời với cổ tích, với miếng trầu. Từ đó phát triển nhận thức về sự hình thành Đất Nước
đó là được hình thành từ những điều tốt đẹp, những giá trị bền vững. Truyện cổ tích
có từ xa xưa nhưng bây giờ mẹ vẫn kể, miếng trầu rất lâu đời nhưng bây giờ bà vẫn ăn.
Quá khứ của Đất nước rất dài và xa nhưng không bao giờ mất đi. Đất Nước luôn hiện
hữu trong hiện tại cũng như quá khứ và Đất Nước sẽ không bao giờ bị mất đi.
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
15
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó. .”
- Ở câu thơ thứ tư, thi nhân đã sử dụng hai chữ “dân mình” vừa gợi mối quan hệ gần
gũi, vừa mở rộng phạm vi tồn tại của Đất Nước. Ở câu thơ này, nhà thơ còn diễn tả sự
trưởng thành của Đất Nước từ truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. “Trồng
tre đánh giặc” gợi nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên
Vương vươn vai lớn dậy và nhổ tre làng Ngà đánh giặc để bảo vệ quê hương đất nước.
Câu thơ là suy ngẫm, kiểm nghiệm về Đất Nước, Đất Nước lớn lên trong gian lao thử
thách và lớn lên bằng truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Và cũng chính câu thơ
này đã gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi” (Tố Hữu)
- Truyền thống vẻ vang ấy đã theo sát chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến tận
hôm nay, trong thời đại chống Mỹ, bao tấm gương trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ
giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt
Nam dáng đứng kiêu hùng, bất khuất: Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Trần Văn Ơn…
- Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam, cây tre hiền hậu trên mỗi làng
quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam thật
thà chất phác, đôn hậu thủy chung, ưa chuộng hòa bình nhưng cũng kiên cường bất
khuất trong đấu tranh. Tre đứng thẳng, hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc
“Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ” bởi:
“Nòi đâu tre chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông mọc thường”
- Không chỉ vậy, trong quá trình trưởng thành, Đất Nước còn gắn liền với đời sống
văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc
sống lao động cần cù vất vả của nhân dân. Ở các câu thơ 5 và 8, các chi tiết được lấy
từ kho tàng văn hóa văn học dân gian. Đó là hình ảnh búi tóc của mẹ, là gừng cay
muối mặn, là tập quán canh tác, dựng nhà dựng cửa, cái kèo cái cột, phong tục đặt tên
cho Việt. Cùng với đó là hình thức dài ngắn tự nhiên kể cho ta nghe về sự lớn dần lên
của Đất Nước, Đất Nước lớn lên bằng văn hóa, phong tục, từ cuộc sống bình dị hàng ngày.
- Đoạn thơ với những ý thơ giàu sức liên tưởng, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với
những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những
người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người
phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng), gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ
tục của người Việt. Nét đẹp ấy khiến người đọc gợi nhớ đến câu ca dao:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới 16
Để chi dài cho rối lòng anh”
- Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao
động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn, tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí
ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
- Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ
nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời:
gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu
năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của
cha mẹ bằng Hòn Trống Mái, núi Vọng Phu… đi vào năm tháng.
- Câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên” gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ
của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà
vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà sử dụng kèo cột
để làm ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau, siêng năng tích góp mỡ
màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.
- Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu
thương chịu khó. Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của
cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Các
động từ “xay - giã - giần - sàng” là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta
ăn hàng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã,
giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp
nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
- Câu thơ cuối khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày
đó…”. “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có
truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có Đất Nước.
Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa: “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu
những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng của văn hóa Việt Nam, muốn yêu
Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà bởi văn hóa chính là Đất
Nước. Thật đáng yêu, đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
- Có thể nói, đoạn thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn của Đất Nước - một
câu hỏi quen thuộc, giản dị bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất
mới lạ: Nhà thơ không tạo ra khoảng cách sử thi để chiêm ngưỡng và ca ngợi Đất
Nước hoặc dùng những hình ảnh mĩ lệ, mang tính biểu tưởng để cảm nhận và lý giải,
mà dùng cách nói rất đỗi giản dị, tự nhiên với những gì gần gũi, thân thiết, bình dị nhất.
- Đoạn thơ được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng, nhà thơ giúp
cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn và sự hình thành của Đất
Nước một cách sâu sắc. Hai từ “Đất Nước” được viết hoa để thể hiện sự trang trọng, 17
đồng thời cũng giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi nói về Đất Nước, quê hương mình.
- Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm, cấu trúc thơ theo lối tăng cấp: “Đất Nước đã có;
Đất Nước bắt đầu, Đất Nước lớn lên, Đất Nước có từ…” giúp cho người đọc hình
dung ra cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của Đất Nước trong thời gian
trường kỳ của con người Việt Nam qua bao thế hệ.
- Ngoài ra, nhà thơ còn vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục
ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng
tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…
- Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần.
Chín câu thơ mở đầu cho đoạn trích Đất Nước đã thật sự để lại những ấn tượng
và cảm xúc sâu sắc cho người đọc về sự sinh thành và trưởng thành của Đất Nước.
Bởi lẽ, đoạn thơ đã giúp cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, những ai mà
còn có những nhận thức mơ hồ về Đất Nước mình thật sự phải suy ngẫm. Qua
đoạn thơ, tác giả đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn
hóa cổ truyền, Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn
tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Hơn thế nữa, đoạn thơ còn cho chúng ta hiểu
được Đất Nước thật thân thương và gần gũi biết nhường nào. Từ đó, đoạn thơ bồi
dưỡng thêm cho chúng ta về tình yêu Đất Nước, quê hương mình và biến tình yêu
ấy thành thái độ, hành động để bảo vệ, xây dựng Đất Nước ngày càng văn minh,
giàu mạnh và phát triển.
2. Đất nước từ điểm nhìn không gian văn hóa cội nguồn (20 câu thơ kế)
“Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hẹn hò
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
- Ý thơ ở đây rất mới mẻ cụ thể. Trước tiên về mặt không gian địa lý, tác giả tách
riêng hai yếu tố “đất” “nước” để suy tư một cách sâu sắc, để lí giải cụ thể ý nghĩa
của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng
dù được tách ra thì Đất Nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa.
- Đất Nước đã trở nên rất gần gũi thân thương, gắn bó với mỗi người. Đất Nước là
không gian riêng tư quen thuộc gắn với không gian hẹn hò, sinh hoạt, học tập của anh
và em. Đó là mái trường nơi anh đi học, là dòng sông nơi em tắm, là giếng nước gốc
đa nơi ta hò hẹn. Một không gian nhỏ chỉ hai người biết, hai người hay, rất riêng tư
nhưng cũng đầy hồn quê hương xứ sở. Những không gian chứa đựng bao tình thương
nỗi nhớ ấy là sự hiện hữu cụ thể nhất, gần gũi nhất những giá trị tinh thần đạo lí, góp
phần làm nên Đất Nước. Những nghĩa tình không phải chỉ anh và em trong hiện tại mà
còn của bao thế hệ đã qua trong quá khứ; bao thế hệ sắp tới trong tương lai.
- Câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” tác giả đã
vận dụng ý thơ của bài ca dao “Khăn thương nhớ ai” để vừa nói lên tình cảm lứa đôi;
vừa nói lên không gian riêng tư của đôi lứa và của Đất Nước.
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
18 Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
- Nhà thơ đã sử dụng những câu ca dao cả vùng Bình - Trị - Thiên để xây dựng hình
tượng thơ khác với cách nói thông thường. Lấy ý từ những câu ca dao Huế mượt mà,
câu thơ đưa người đọc về với không gian Đất Nước thân thương, những từ “núi bạc”,
“biển khơi” mang âm hưởng thành ngữ dân gian gợi ra một đất nước mênh mông giàu
đẹp. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng rộng lớn, tráng lệ và
hùng vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì
cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng
hướng về quê hương, về nguồn cội.
- Và sự mênh mông giàu đẹp đó không tự nhiên mà có được, nó phải trải qua thời gian
đằng đẵng, dài lâu, liên tục, bền bỉ, nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, nước mắt và cả máu
để xây dựng, bảo vệ bở cõi đất nước, thành giải đất chữ S cho dân mình đoàn tụ, đoàn
tụ trong yêu thương tự hào. Nguyễn Khoa Điềm tạo nên đất nước gắn với văn học dân
gian khiến những câu thơ vừa quen vừa lạ tạo cách nói độc đáo về lãnh thổ, lãnh hải
của Đất Nước Việt Nam.
“Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Những ai đã khuất Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”
- Không gian cội nguồn đầu tiên là nơi chim về, rồng ở, là nơi Lạc Long Quân và Âu
Cơ đẻ ra dân tộc ta trong bọc trứng, sinh ra trăm người con, 50 xuống biển, 50 lên
rừng để khai phá, xây dựng lập nước khiến cho núi rừng, sông biển không đơn thuần
là cảnh sắc thiên nhiên mà là những không gian thiêng liêng, gần gũi trong quá trình
hình thành chứng tích người dân Việt Nam, là cội nguồn ấm áp cho cội nguồn đất
nước. Đồng thời, những hình tượng quen thuộc này đã hội tụ về trong sự liên tưởng
của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: Dân tộc ta là con
Rồng cháu Tiên, trai tài gái sắc. Đất Nước ta là nơi đánh lành Chim về, đất thiêng
Rồng ở, dân tộc Việt Nam là anh em một nhà, cùng sinh ra từ bọc trăm trứng của cha
Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ.
- Một Đất Nước có cội nguồn văn hóa, có truyền thống lâu đời, rất đỗi thân thương và
tự hào như thế, chính là Đất Nước của Nhân dân. Đất Nước qua cách cảm nhận của
Nguyễn Khoa Điềm không khô khan, trìu tượng mà tươi sáng cảm xúc.
- Đất Nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện: lịch
sử, địa lý, văn hóa. Đất Nước còn là không gian sinh tồn, là sự kết tinh, thống nhất sâu 19
sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ. Đó là ngôi nhà lớn của đại gia đình người Việt
qua bao thế hệ, với những ai đã khuất, bất cứ nơi đâu cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ
Tổ. “Những ai đã khuất”, đến hiện tại “những ai bây giờ” và tương lai “yêu nhau”
“sinh con đẻ cái”, mỗi thế hệ, mỗi cá nhân đều gắn bó với Đất Nước. Nhất là trách
nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang. Chúng ta vừa phải
gánh vác những công việc nhọc nhằn, nặng nề mà ông cha ta giao lại, vừa phải dặn dò
con cháu chuyện mai sau một cách ân cần chu đáo để các thế hệ sau sẽ tiếp tục đưa
Đất Nước đi xa đến một chân trời hòa bình hạnh phúc, ấm no giàu mạnh. Đó là mơ
mộng, là ước mơ khát vọng của thời đại nhà thơ, nhưng lại là hiện thực tất yếu của
tương lai. Ước mơ ấy ngày nay đã thành sự thực. Lời thơ trong sáng, ấp ủ niềm tin
giữa những ngày đánh Mỹ của nhà thơ, của ông cha ta.
- Vì sự mưu sinh, mỗi người có thể làm ăn lập nghiệp ở bất cứ nơi đâu, nhưng trong
thẳm sâu tâm hồn của mỗi chúng ta đều mang trong mình dòng máu Việt nên những
giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn bó với Đất Nước lại trỗi dậy nồng nàn:
Hằng năm ăn đâu làm đâu/Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Hai dòng thơ của
Nguyễn Khoa Điềm đã mượn ý tứ của câu ca dao xưa:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười”
Chỉ một câu ca dao cũng đủ nói lên sự gắn bó máu thịt của người Việt với quê hương
đất nước. Dù có bộn bề công việc, dù có ngược xuôi nơi nào, họ cũng luôn hướng về
cội nguồn, miền đất tổ linh thiêng đã trở thành biểu tượng, thành linh hồn của đất
nước. Hai chữ “cúi đầu” thể hiện tấm lòng đầy thành kính của nhà thơ đối với Đất Nước thân yêu.
- Bằng cách sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian, các chất liệu
văn hóa văn học dân gian, nhà thơ đã lí giải một cách sinh động, cụ thể cho câu hỏi:
Đất Nước là gì? Từ đó, hình ảnh Đất Nước hiện lên qua đoạn thơ vừa gần gũi - cụ thể,
vừa thiêng liêng - khái quát trên cả bề rộng không gian địa lý mênh mông và thời gian
lịch sử đằng đẵng của dân tộc.
- Sử dụng lối chiết tự để định nghĩa Đất Nước. Nếu theo tư duy khoa học không được
định nghĩa như vậy, nhưng đây là tư duy nghệ thuật trở thành sự sáng tạo của nhà thơ.
Về hình thức đây là lối chơi chữ toát lên chiều sâu suy tưởng của thi sĩ; Đất Nước là
sự thống nhất của riêng và chung, cá nhân và cộng đồng, nhỏ bé - lớn lao, cụ thể - trừu tượng.
Có thể nói, đoạn thơ là những định nghĩa đa dạng, phong phú về Đất Nước từ
chiều sâu văn hóa dân tộc, xuyên suốt chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều
rộng của không gian đất nước. Nhà thơ vận dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa
dân gian để cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước. Từ đó, đoạn thơ cho chúng ta
hiểu và gắn bó hơn với Đất Nước, quê hương bằng một tình yêu và ý thức trách nhiệm sâu sắc.
3. Đất Nước được cảm nhận trên phương diện bề dày truyền thống. Mối quan hệ
riêng - chung, cá nhân - cộng đồng, sự tiếp nối của các thế hệ trong Đất Nước (13 câu kế) 20